You are on page 1of 4

MỞ BÀI

Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại, là nhà chính trị tài ba, là nhà văn hóa của
nhân loại. Bác để lại rất nhiều tác phẩm đặc sắc, nổi bật trong số đó là bài thơ
"chiều tối" trang tập thơ "Ngục trung nhật ký". Bài thơ là bức tranh thiên nhiên
cuộc sống con người và qua đó thấy được vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh dù hoàn
cảnh khắc nghiệt đến đâu vẫn luôn hướng về sự sống ánh sáng.

THÂN BÀI
KHÁI QUÁT

Hồ Chí Minh là anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, đồng thời là
một nhà thơ lớn, một nhà văn với phong cách nghệ thuật độc đáo, vừa đa dạng
vừa thống nhất. Văn chính luận của người thường ngắn gọn, súc tích, lập luận
sắc sảo, chặt chẽ, bằng chứng giàu thuyết phục và đa dạng về bút pháp.Thơ
nghệ thuật của Bác còn có sự hòa hợp độc đáo giữa bút pháp cổ điển và hiện
đại, gữa chất thép và chất tình, giữa sự trong sáng, giản dị và sự hàm súc sâu
sắc.Mùa thu năm 1942, Nguyễn Ái Quốc bị bắt khi vừa đặt chân lên đất Trung
Quốc và bắt đầu những ngày tháng đày ải lao khổ trong nhà tù Tưởng Giới
Thạch. Không hề bị xét xử, không hề luận tội, Bác bị chuyển đi hết nhà lao này
đến nhà lao khác chỉ với mục đích đày đọa. Trong khoảng thời gian đó Người
đã sáng tác 134 bài thơ chữ hán, ghi trong một cuốn sổ tay và đặt tên là Ngục
trung nhật kí. Và trong 134 bài thơ ấy “Chiều tối” là một bài thơ đặc sắc được
sáng tác khi Người bị giải đi từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo vào
thời gian cuối mùa thu năm 1942. Bài thơ là bài thứ 31 của tập thơ và được viết
theo thể thất ngôn tứ tuyệt. Chiều tối đã cho người đọc thấy tình yêu thiên
nhiên, yêu cuộc sống, ý chí vượt lên cuộc sống khắc nghiệt của nhà thơ chiến sĩ.
Bác làm thơ để “ngâm ngợi cho khuây” và cũng là để đợi đến ngày được tự do.
Những vần thơ của Người không chỉ “mênh mông bát ngát tình” (Hoàng Trung
Thông) mà đó còn là những vần thơ thép, thể hiện một tinh thần thép.

Với bút pháp gợi tả và đôi nét chấm phá của Đường thi, Hồ Chí Minh
đã vẽ lại bức tranh thiên nhiên trên con đường chuyển lao:

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)


Bằng việc sử dụng bút pháp chấm phá, ước lệ tượng trưng đầy chất cổ điển,
tác giả đã khắc hoạ lên hình ảnh của một cánh chim mỏi mệt sau một ngày dài
đi tìm cho mình nơi dừng chân nghủ ngơi. Đó là một chi tiết gợi ra cái không
gian mênh mông khi buổi chiều về.Chiều tà buông xuống là lúc khép lại một
ngày dài để nhường chỗ cho màn đêm và bóng tối buông xuống ngự trị. Khoảng
thời gian này là lúc để nghỉ ngơi nhưng cũng gợi nên những nỗi buồn. Cánh
chim ở đây được tác giả quan sát trong sự vận động nên cảm nhận được cái sự
mỏi mệt của nó. Bác đã dùng cái hữu hạn của cánh chim để cho người đọc cảm
nhận được sự vô hạn của bầu trời. Trên cái bầu trời mênh mông vô hạn ấy có
một cánh chim nhỏ nhoi đầy mệt mỏi đang tìm chốn dừng chân. Với những bút
pháp tả cảnh ngụ tình, tả hoạt động của tự nhiên để gợi thân phận, tâm trạng của
mình tác giả đã thể hiện sự đối lập với cả nét tương đồng. Cả con chim và người
tù ấy đều mệt mỏi và muốn tìm chốn nghỉ ngơi, thế nhưng chú chim ấy được tự
do bay lượn trên bầu trời còn người tù thì bị kìm kẹp, xiềng xích. Điểm bắt
nguồn cho sự đồng điệu ấy chính là tình yêu vô bờ bến mà Bác đã dành cho sự
sống của vạn vật.

Bên cạnh cánh chim mỏi ấy, Bác còn quan sát được cả hình ánh đám mây
trôi lững lờ trên không gian bầu trời mênh mông, gợi ra một sự cô đơn, lạc lõng.
"Chòm mây trôi nhẹ" được dịch là "cô vân mạn mạn" không sát nghĩa. "Cô
vân" là một chòm mây, một đám mây cô đơn. "mạn mạn" là lững lờ, nhẹ nhàng
làm hiện lên một bầu trời cô đơn, bao la rộng lớn, phóng khoáng.Giữa không
gian rộng lớn ấy lại có những chòm mây cô đơn, lẻ loi trôi lững lờ. So với
nguyên tác thì bản dịch đã thiếu từ "cô" khiến cho ý thơ không thể diễn tả được
hết sự đơn chiếc của những đám mây nơi bầu trời. Không chỉ có những cánh
chim mà cả chòm mây cũng mang sự cô độc. Nét cổ điển trong hình ảnh cánh
chim và đám mây đã được Bác kế thừa thể hiện một ước muốn tự do của người
tù.Dù mệt mỏi là vậy, cô đơn là vậy nhưng người chiến sĩ ấy vẫn chẳng hề kêu
than mà thản nhiên đối mặt với hoàn cảnh ấy bằng ý chí, nghị lực phi thường.

Trong hai câu thơ đầu dù chỉ đi vào miêu tả khung cảnh thiên nhiên, thế nhưng
ẩn sâu trong đó chính là tư thế và tâm hồn của thi nhân. Người đọc chẳng nhìn
thấy bóng hình của một người tù khổ sai mà chỉ cảm nhận được một phong thái
đầy ung dung của người thi nhân cho dù chân đang bị xiềng xích nhưng vẫn
khoan thai từng bước đi, vẫn hướng về thiên nhiên và quan sát cảnh vật xung
quanh mình. Nếu như không dành một tình yêu tha thiết cho thiên nhiên, không
có một ý chí kiên cường thì chẳng thể nào con người ấy có thể vượt lên trên
hoàn cảnh và có được tự do về tinh thần. Nhà lao, gông cùm, xiềng xích có thể
trói buộc thể xác Người nhưng không thể nào trói buộc được tâm hồn thi nhân
ấy.

nếu hai câu thơ đầu miêu tả bức tranh thiên nhiên núi rừng thì hai câu
thơ sau miêu tả khung cảnh sinh hoạt của cuộc sống con người:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc


Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”

(Cô em xóm núi xay ngô tối


Xay hết lò than đã rực hồng)

Từ bức tranh thiên nhiên rộng lớn nhưng lạnh lẽo, thấm đượm nỗi buồn, Bác
đã hướng sự chú ý đến bức tranh cuộc sống bình dị mà ấm áp vùng sơn cước.
Hình ảnh người thiếu nữ xay ngô không chỉ gợi ra những nhịp vận động đầy
khỏe khoắn mà còn khắc họa vẻ đẹp của con người, họ đẹp trong chính công
việc lao động bình dị. Vòng quay của cối xay ngô cứ lặp đi lặp lại đều đều qua
từ ngữ “ma bao túc”, “bao túc ma hoàn” cho thấy những vòng quay cứ nối tiếp
nhau diễn tả cuộc sống lao động vất vả, cực nhọc của con người. Biện pháp
nghệ thuật điệp liên hoàn đầu cuối này cũng thể hiện sự tuần hoàn của thời gian,
vũ trụ. Người thiếu nữ nơi rừng núi đang làm công việc xay ngô trở thành tâm
điểm mà Bác hướng tới. Nếu thơ ca xưa lấy thiên nhiên làm chủ thể thì trong
thơ Bác, con người là chủ thể. Hình ảnh cô gái miền sơn cước đang chuẩn bị
bữa tối cho gia đình bên bếp lửa là một hình ảnh đẹp và toát lên vẻ khỏe khoắn
của cô sơn nữ.Nó đem đến một hơi ấm của sự sống và niềm vui trước cuộc sống
bình dị, dù có vất vả nhưng có được tự do.

Đọc hai câu thơ cuối dễ dàng thấy Bác đã có phát hiện mới mẻ trong bút
pháp miêu tả thời gian đó là sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng. Ánh lửa hồng
xuất hiện bất ngờ tỏa sáng vào bóng đêm ảm đạm miền sơn cước đã làm xua
tan đi cái lạnh lẽo, tối tăm để thắp lại ánh sáng ấm áp cho miền sơn cước. Chữ
“hồng” nằm ở cuối bài thơ có một ví trí đặc biệt, nó được xem là “nhãn tự” của
toàn bài thơ. Nhà thơ Hoàng Trung Thông từng nhận xét rằng: “Với một chữ
hồng Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt mỏi, sự uể
oải, sự vội vã,…” Nếu như hai câu thơ trước là bức tranh miền sơn cước xám
xịt, thấm đượm trong lời thơ là sự mệt mỏi của cánh chim lạc bầy, là nỗi buồn
chất chứa của đám mây lững lỡ trôi thì đến hai câu thơ cuối lại hiện lên bức
màu hồng đẫm tính nhân văn cao cả. Nó thể hiện tinh thần lạc quan của tác giả
Hồ Chí Minh trong bối cảnh bị áp giải, bị tù đày chân tay đeo nhiều xiềng xích
nặng nề, khó khăn khổ ải nhưng Người vẫn thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời,
sự kiên cường của mình trong những câu thơ vô cùng sinh động nhiều sức
sống.Và chữ hồng còn thể hiện cho niềm tin của tác giả vào tương lai tươi sáng,
vào con đường cách mạng mà người đã lựa chọn.

NGHỆ THUẬT VÀ NỘI DUNG

Nhà tù Tưởng Giới Thạch không làm khô cằn được tâm hồn của Bác. Ngay cả
khi bị đày đọa về thể xác, Bác vẫn hướng tâm hồn mình ra ngoại giới để hòa
hợp, cảm thông với tạo vật và con người. Người đã quên đi nỗi cực khổ của
mình để vui với niềm vui nho nhỏ, bình dị của người dân lao động. Vẻ đẹp của
một bậc đại nhân, đại trí, đại dũng bừng sáng. Bài thơ đã thể hiện chủ nghĩa lạc
quan cách mạng vô cũng mãnh liệt, mạch thơ và hình tượng thơ luôn vận động
hướng về sự sống và ánh sáng. Đây là một trong những đặc trưng cơ bản của
phong cách thơ Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó ngôn ngữ trong bài thơ hàm súc,
chân thực nhưng giàu sức gợi, giàu cảm xúc khiến bài thơ không chỉ chân thực
mà còn mang cả tâm hồn của con người ấy.Ngoài ra, sự kết hợp giữa màu sắc
cổ điển và tinh thần hiện đại cũng góp phần không nhỏ tạo nên sự thành công
của tác phẩm.

KẾT BÀI:

Chiều tối đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên và bức tranh cuộc sống
của con người nơi núi rừng hoang dã. Đằng sau bức tranh ấy là vẻ đẹp tâm hồn
của Hồ Chí Minh: luôn mang trong mình tinh thần lạc quan, tin tưởng dù gặp
khó khăn vẫn luôn tin rằng ánh sáng đang đợi dân tộc, đất nước nơi cuối con
đường.

You might also like