You are on page 1of 10

.

Mở bài:
- Giới thiệu bài thơ Hầu trời

Với phong cách thơ lãng mạn, phóng khoáng, ngông nghênh, thể hiện sự ứu ái và cảm
thương của tác giả. Thơ văn của ông giữa hai giai đoạn trung đại và hiện đại nên
những tác phẩm của ông mang một vẻ đẹp và sự độc đáo khác nhau. Một trong những
tác phẩm đặc sắc và thể hiện rõ sự phóng khoáng của Tản Đà là tác phẩm Hầu trời. tác
phẩm nói lên sự ngông nghênh của tác giả đối với trời, xem trời như là bạn của mình.
Chúng ta cùng đi tìm hiểu cái ngông của Tản Đà.

II. Thân bài:


- Phân tích bài thơ hầu trời

1. Mở đầu bằng cách giới thiệu câu chuyện:


 Câu chuyện xảy ra vào đem qua, một khoảnh khắc yên lặng, yên tĩnh
 Câu chuyện kể về giấc mơ muốn lên cõi tiên của tác giả, thể hiện tâm trạng
và cảm xúc của người thi nhân
 Tâm trạng nữa thực nữa mơ của thi nhân
2. Thi nhân đọc thơ cho trờ và Chư tiên nghe
 Đọc thơ một cách hào hứng
 Thi nhân kể về cuộc sống và công việc của mình
 Giọng thơ của thi nhân hóm hỉnh, ngông
3. Thái độ của người nghe:
 Trời tỏ ra rất tâm đắc và khen ngợi thi nhân
 Chư Tiên nghe thơ rất xúc động và tâm đắc
4. Thi nhân trò chuyện với trời:
 Khẳng định cái tôi của mình
 Cuộc sống nghèo khó nhưng thư thái của tác giả
 Cảm hứng nghệ thuật bao trùm nguyên bài thơ
II. Kết bài:
- Nêu cảm nhận của em về bài thơ Hầu trời

Ví dụ:

Hầu trời là một bài thơ thể hiện sự ngông cuồng của tác giả, sự hóm hỉnh, vui đùa đã
khiến hco bài thơ trở nên độc lạ và thú vị hơn.
Dàn ý mẫu 2
1. Mở bài phân tích bài Hầu trời
- Giới thiệu về tác giả Tản Đà và bài thơ Hầu trời

 Tản Đà (1889-1939) tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, quê làng Khê Thượng,
xã Sơn Đà (Ba Vì, Hà Tây), là một nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch nổi
tiếng trong văn học Việt Nam đầu thế kỷ 20.
 Hầu trời trích từ tập "Còn chơi" thể hiện cái tôi ngông của tác giả cũng như
nỗi ngậm ngùi cho cảnh ngộ bản thân nói riêng và văn nghệ sĩ đương thời
nói chung.
- Dẫn dắt vào vấn đề.

2. Thân bài phân tích bài Hầu trời


a) Luận điểm 1: Thi nhân đọc thơ cho trời và chư tiên nghe
- Thái độ của thi nhân khi đọc thơ và việc thi nhân nói về tác phẩm của mình:

 Thi nhân đọc rất cao hứng, sảng khoái và có phần tự đắc: “Đọc hết văn
vần sang văn xuôi / Hết văn thuyết lý lại văn chơi”
 Thi nhân kể tường tận, chi tiết về các tác phẩm của mình: “Hai quyển khối
tình văn lý thuyết/ Hai khối tình con là văn chơi/ Thần tiên, giấc mộng văn
tiểu thuyết…”
 Giọng đọc: đa dạng, hóm hỉnh, ngông nghênh có phần tự đắc.
=> Đoạn thơ cho thấy thi nhân rất ý thức về tài năng văn thơ của mình và cũng là người
táo bạo, dám đường hoàng bộc lộ “cái tôi” cá thể. Ông cũng rất “ngông” khi tìm đến trời
để khẳng định tài năng. Đây là niềm khát khao chân thành trong tâm hồn thi sĩ.

- Thái độ của người nghe: Rất ngưỡng mộ tài năng thơ văn của tác giả.

 Thái độ của trời: khen rất nhiệt thành: văn thật tuyệt, văn trần được thế
chắc có ít, văn chuốt như sao băng…
 Thái độ của chư tiên: xúc động, hâm mộ và tán thưởng… Tâm nở dạ, cơ lè
lưỡi…
=> Cả đoạn thơ mang đậm chất lãng mạn và thể hiện tư tưởng thoát li trước cuộc đời.

b) Luận điểm 2: Thi nhân trò chuyện với trời:


- Thi nhân kể về hoàn cảnh của mình => Trong văn chương việc thể hiện họ tên trong
tác phẩm chính là một cách để khẳng định cái tôi cá nhân của mình.
- Thi nhân kể về cuộc sống: Đó là một cuộc sống nghèo khó, túng thiếu, thân phận nhà
văn bị rẻ rúng, coi thường. Ở trần gian ông không tìm được tri âm, nên phải lên tận cõi
trời để thỏa nguyện nỗi lòng.

=> Đó cũng chính là hiện thực cuộc sống của người nghệ sĩ trong xã hội lúc bấy giờ,
một cuộc sống cơ cực không tấc đất cắm dùi, thân phận bị rẻ rúng, làm chẳng đủ ăn.

=> Qua đoạn thơ tác giả đã cho người đọc thấy một bức tranh chân thực và cảm động
về chính cuộc đời mình và cuộc đời nhiều nhà văn nhà thơ khác.

=> Cảm hứng hiện thực bao trùm cả đoạn thơ này.

c) Luận điểm 3: Trách nhiệm và khát vọng của thi nhân


+ Nhiệm vụ trời giao: Truyền bá thiên lương.

=> Nhiệm vụ trên chứng tỏ Tản Đà lãng mạn chứ không hoàn toàn thoát li cuộc sống.
Ông vẫn ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm đối với đời để đem lại cuộc sống ấm no hạnh
phúc hơn.

+ Thi nhân khát khao được gánh vác việc đời -> Đó cũng là một cách tự khẳng định
mình trước thời cuộc.

=> Như vậy có thể nói trong thơ Tản Đà cảm hứng lãng mạn và cảm hứng hiện thực
đan xen khăng khít.

3. Kết bài phân tích bài thơ Hầu trời


- Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ

- Nêu nhận xét, cảm nhận chung của em

- Mở rộng vấn đề bằng suy nghĩ và liên tưởng của mỗi cá nhân
Dàn ý Phân tích cái tôi ngông của Tản Đà trong bài thơ Hầu Trời
1. Mở Bài

– Giới thiệu sơ lược về tác giả và phong cách thơ văn.

– Hầu trời là một trong những bài thơ hay nhất của Tản Đà mà ở đó người ta thấy rõ được cái
chất thơ của người thi sĩ, mà nổi bật nhất làm nên giá trị đặc sắc của bài thơ là một cái “ngông”
rất Tản Đà.

2. Thân Bài

a. Nền tảng của cái “ngông” trong Hầu trời:

– Giấc mơ được lên hầu trời, đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe.

– Nỗi cô đơn trước cuộc đời, khao khát được thể hiện, được thấu hiểu nhưng khổ nỗi “Hạ giới
văn chương rẻ như bèo”, nên đành lòng ông phải tìm kiếm chốn cực lạc trong mơ cho thỏa nỗi
lòng của thi sĩ.

b. Tản Đà “ngông” trong lúc đọc thơ cho chư tiên cùng Trời nghe:

– Phong thái ung dung, thích chí và vô cùng tự tin, ông đọc những vần thơ của mình một cách
say sưa, mê đắm, đọc như chưa từng được đọc bao giờ “Đọc hết văn vần sang văn xuôi/Hết văn
thuyết lí lại văn chơi”

– Thi sĩ tự nâng cao giá trị và tầm vóc bản thân ngang bằng với việc được nhà trời săn sóc, châm
trà cho “nhấp giọng” để lấy tinh thần đọc thơ.

– Tự khen thứ văn chương của mình bằng những lời mà đôi lúc tôi nghĩ là có phần hơi tự phụ,
kiêu căng một chút “Văn dài hơi tốt ran cung mây”, đắc chí vì thần tiên cũng phải tấm tắc khen
“Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay”.

=> Xóa nhòa đi sự cách biệt thân phận của thần tiên và người phàm, giờ đây họ chỉ đang đứng
trên bình diện thi nhân và người yêu thơ, chan hòa và gần gũi.

– Tản Đà còn mạnh dạn liệt kê hết những vốn liếng văn chương mà mình có được, vô cùng tâm
đắc với thành tựu của mình chỉ muốn sao để người ta phải công nhận và thán phục.

– Tự tin, vui vẻ khoe rằng “Nhờ Trời văn con còn bán được”, ngầm chứng minh rằng thơ văn của
ông có sức hút mạnh mẽ vô cùng, bởi trong thời cuộc rối ren mà người ta vẫn muốn đọc sáng
tác của Tản Đà.
c. Cái “ngông” trong khi trò chuyện cùng Trời:

– Lối nói của ông không hề có sự e dè sợ hãi, mà thay vào đó là phong thái tự tin, thành thực,
xen lẫn chút hóm hỉnh, vui tươi vô cùng thoải mái.

– Xem chư tiên và Trời là những người bạn tâm giao, kể lể về cuộc sống nghèo khó, khiến những
nhà trí thức phải nhiều phen khốn đốn.

– Cho mình vốn là một trích tiên bị đày xuống hạ giới vì tội “ngông”, rồi lại được Trời giải thích
rằng sai Tản Đà xuống làm việc “thiên lương”.

– Vinh hạnh được thiên đình ưu ái cho xe Khiên Ngưu đưa tiễn, chúng tiên thì lũ lượt tiễn đưa.

– Cách dùng từ, hành văn hóm hỉnh, phóng khoáng, bay bổng cũng góp phần làm cho cái
“ngông” của Tản Đà nổi bật hơn

3. Kết Bài

– Tổng kết giá trị nội dung nghệ thuật của tác phẩm hoặc nêu cảm nghĩ cá nhân.

Dàn ý Phân tích Trí tưởng tượng và tấm lòng của Tản Đà qua bài thơ Hầu trời
1. Mở Bài

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm.

– Dẫn dắt vấn đề cần nghị luận.

2. Thân Bài

a. Tưởng tượng được lên trời

– Giấc mơ được lên hầu trời, đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe.

– Nỗi cô đơn trước cuộc đời, khao khát được thể hiện, được thấu hiểu nhưng khổ nỗi “Hạ giới
văn chương rẻ như bèo”, nên đành lòng ông phải tìm kiếm chốn cực lạc trong mơ cho thỏa nỗi
lòng của thi sĩ.

b. Tưởng tượng đọc thơ cho chư tiên cùng Trời nghe:

– Phong thái ung dung, thích chí và vô cùng tự tin, ông đọc những vần thơ của mình một cách
say sưa, mê đắm, đọc như chưa từng được đọc bao giờ “Đọc hết văn vần sang văn xuôi/Hết văn
thuyết lí lại văn chơi”
– Thi sĩ tự nâng cao giá trị và tầm vóc bản thân ngang bằng với chư tiên bằng việc được nhà trời
săn sóc, châm trà cho “nhấp giọng” để lấy tinh thần đọc thơ.

– Tự khen thứ văn chương của mình bằng những lời mà đôi lúc tôi nghĩ là có phần hơi tự phụ,
kiêu căng một chút “Văn dài hơi tốt ran cung mây”, đắc chí vì thần tiên cũng phải tấm tắc khen
“Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay”.

=> Xóa nhòa đi sự cách biệt thân phận của thần tiên và người phàm, giờ đây họ chỉ đang đứng
trên bình diện thi nhân và người yêu thơ, chan hòa và gần gũi.

– Tản Đà còn mạnh dạn liệt kê hết những vốn liếng văn chương mà mình có được, vô cùng tâm
đắc với thành tựu của mình chỉ muốn sao để người ta phải công nhận và thán phục.

– Tự tin, vui vẻ khoe rằng “Nhờ Trời văn con còn bán được”, ngầm chứng minh rằng thơ văn của
ông có sức hút mạnh mẽ vô cùng, bởi trong thời cuộc rối ren mà người ta vẫn muốn đọc sáng
tác của Tản Đà.

c. Tưởng tưởng trò chuyện cùng Trời:

– Lối nói của ông không hề có sự e dè sợ hãi, mà thay vào đó là phong thái tự tin, thành thực,
xen lẫn chút hóm hỉnh, vui tươi vô cùng thoải mái.

– Xem chư tiên và Trời là những người bạn tâm giao, kể lể về cuộc sống nghèo khó, khiến những
nhà trí thức phải nhiều phen khốn đốn.

– Cho mình vốn là một trích tiên bị đày xuống hạ giới vì tội “ngông”, rồi lại được Trời giải thích
rằng sai Tản Đà xuống làm việc “thiên lương”.

– Vinh hạnh được thiên đình ưu ái cho xe Khiên Ngưu đưa tiễn, chúng tiên thì lũ lượt tiễn đưa.

– Cách dùng từ, hành văn hóm hỉnh, phóng khoáng, bay bổng cũng góp phần làm cho cái
“ngông” của Tản Đà nổi bật hơn

d. Thế hiện nỗi khao khát được “tung hoành” của nhà thơ đế thực hiện cái mục tiêu truyền bá “thiên lương’’
cao quý.

3. Kết Bài

– Khái quát lại vấn đề.

Phân tích Trí tưởng tượng và tấm lòng của Tản Đà qua bài thơ Hầu trời

Nhà thơ Tản Đà – một ngôi sao sáng trên thi đàn Việt Nam vào giữa những năm 20 của thế kỉ
XX, sống giữa hai thế hệ Nho học và Tây học, thơ của Tản Đà được xem như viên gạch nối giữa
hai thời đại văn học trung đại và hiện đại. Phong cách thơ Tản Đà đầy cá tính, đặc biệt là tính
“ngông”, bài thơ “Hầu Trời” đã thể hiện cái tôi ngông của tác giả cũng như nỗi ngậm ngùi trước
cảnh ngộ bản thân và các nghệ sĩ đương thời, đồng thời bộc lộ một trí tưởng tượng đầy phóng
túng và tấm lòng ưu ái của Tản Đà.

Bài thơ được bắt đầu với cách vào đề rất độc đáo và có duyên, tác giả tạo ra một câu chuyện
vừa có cảm giác không có thật lại vừa tạo niềm tin là câu chuyện có thật, kích thích sự tò mò
cho người đọc, đó là câu chuyện “lên tiên – hầu trời” của Tản Đà với một giọng kể đầy li kì, hấp
dẫn. Với trí tưởng tượng phong phú của mình, nhà thơ đã vẽ nên một quang cảnh tiên giới vừa
lộng lẫy vừa trang nghiêm “cửa son đỏ chói”, “thiên môn đế khuyết”, “ghế bành như tuyết vân
như mây”. Hơn thế, tác giả còn diễn tả sự tiếp đón có phần long trọng của Trời đối với mình
“Chư tiên ngồi quanh đã tĩnh túc”, “pha nước để nhấp giọng”, sau khi trải qua tuần tự các bước
lên trời, tiếp đón, Tản Đà bắt đầu đi vào công việc của mình, đó là việc đọc văn “hầu trời”. Đây
chính là lúc nhà thơ hào hứng và tự hào nhất bởi được Trời mời lên đọc văn, thi sĩ rất cao hứng
và có phần tự đắc với văn thơ của mình:

“Đọc hết văn vần sang văn xuôi

Hết văn lý thuyết lại văn chơi

Đương cơn đắc ý đọc đã thích

Chè trời nhấp giọng càng tốt hơn.”

Nhân vật trữ tình đã có một cơ hội đặc biệt để phô trương sự nghiệp văn chương và tài năng
của mình, đến mức “Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay” nghĩa là cả Trời và Chư tiên đều cảm thấy
phấn khích, xúc động và tán thưởng cùng hâm mộ trước tài năng và sự giàu có của kẻ đang hầu
trời. Có thể thấy, cả một đoạn thơ dài dường như chỉ là lời tự đắc và khoe khoang của tác giả,
bộc lộ một cái tôi Tản Đà rất ngông nghênh, độc đáo và đầy cá tính. Tuy nhiên điều đó cũng thể
hiện rằng Tản Đà ý thức rất rõ về tài năng của bản thân và khao khát được khẳng định tài năng
của mình. Sau khi trình bày sự nghiệp thơ văn, thi nhân giới thiệu về mình và nói về cảnh ngộ
của người làm văn:

“Văn chương hạ giới rẻ như bèo,

Kiếm được đồng lãi thực rất khó.

Kiếm được thời ít, tiêu thời nhiều,

Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu.”

Đó là thực tế nghề văn, tuy cũng là nghề kiếm sống nhưng bèo bọt, cuộc sống của kẻ theo
đuổi nghề văn đầy cơ cực, nghèo khó, đến một tấc đất để ở cũng không có, lại thêm thân phận
bị coi thường, rẻ rúng và o ép nhiều bề. Nhà Trời nghe cũng thấu hiểu và khuyên nhủ, an ủi
“Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết”, nhưng Tản Đà vẫn thầm trách sự bất công đó của nhà trời.
Bán văn trên Trời được nhiều thiên tiên đón nhận nồng nhiệt, nhưng với tấm lòng ưu ái của
mình, Tản Đà vẫn chấp nhận quay trở về hạ giới để gánh vác “việc thiên lương của nhân loại” mà
Trời sai cho. Trở về trần thế trong tâm trạng ngậm ngùi, chua xót “Hai hàng lụy biệt giọt sương
rơi”, tiếng gà và tiếng người đã đánh thức nhà thơ, để rồi Tản Đà lại thèm khát được lên trời,
một năm có ba trăm sáu mươi đêm “Sao được mỗi đêm lên hầu Trời!”, có lẽ không chỉ một năm
mà có khi cả một đời người thi sĩ vẫn phải thèm khát như thế.

Giây phút lên tiên của Tản Đà trong bài thơ “Hầu Trời” đã cho người đọc được chứng kiến
một cái tôi cá nhân đầy ngông nghênh và khao khát khẳng định bản thân giữa cuộc đời của nhà
thơ. Với việc sử dụng thể thơ thất ngôn trường thiên không ràng buộc khuôn mẫu, nguồn cảm
xúc được thoải mái bộc lộ đã góp phần xây dựng nên hình tượng của một nhà thi sĩ có trí tưởng
tượng phóng túng và tâm hồn ưu ái, có ý thức về tài năng và giá trị đích thực của mình.

Phân tích cái tôi ngông của Tản Đà trong bài thơ Hầu Trời

Xuân Diệu đã từng nhận xét Tản Đà: “có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường
hoàng, bạo dạn, dám giữ một bản ngã, dám có một cái tôi”. Đây quả là một nhận xét xác đáng
về bản lĩnh cá nhân, về cái tôi ngông ngạo, hơn đời của Tản Đà. Cái tôi “ngông” là một nét đặc
sắc, tạo nên dấu ấn riêng trong sáng tác của ông. Và được thể hiện đặc biệt rõ nét qua tác phẩm
Hầu trời.

Ngông là khái niệm để chỉ tính cách ngang tàng, bất cần. Nhưng đối với kẻ sĩ ngông chính là
để thể hiện một cái tôi cao ngạo, khác người. Bởi họ tự tin vào tài năng, nhân cách của bản
thân, họ dám đem tài năng để khẳng định với đời.

Ngông vốn không phải là khái niệm xa lạ trong văn học, ta có thể kể đến những tác giả tiêu
biểu cho lối sống đó như cái tôi rất ngông của Nguyễn Công Trứ:

Vũ trụ nội mạc phi phận sự


Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.

Hay Tú Xương:

Ông trông lên bảng thấy tên ông


Ông tớp rượu vào ông nói ngông
Trên bảng năm ba thầy cử đội
Bốn kì mười bảy cái ưu thông.

Đến Tản Đà, cái ngông tiếp tục được phát triển và được khẳng định một cách mạnh mẽ. Cái
ngông trong bài Hầu trời trước hết được thể hiện trong hành động muốn được lên trời, bởi ông
cho rằng chỉ có Trời mới đánh giá đúng tài năng của mình:

Đêm qua chẳng biết có hay không,


Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên tiên sướng lạ lùng.
Cách vào đề của ông thật dí dỏm, hài hước, ông một mực khẳng định việc mình được lên tiên
là thật, không hoảng hốt, không mơ mòng, cái thật ở cả phách, hồn, thân thể. Cuộc vượt thoát
trần tục, lên tiên đối với ông là có thật, là không thể chối cãi. Đồng thời ông cũng lí giải lí do
mình lên tiên:

“Trời nghe hạ giới ai ngâm nga


Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà
Làm trời mất ngủ, trời đương mắng
Có hay lên đọc, Trời nghe qua”.

Câu thơ như một lời khẳng định tài năng của bản thân vọng vang cả trời đất, khiến cả Trời
cũng phải sai người xuống mời ông lên đọc. Đây là biểu hiện thứ nhất trong cái tôi ngông ngạo
của Tản Đà.

Không dừng lại ở đó, ý thức khẳng định cái tôi được thể hiện rõ hơn ở đoạn ông tự khen
chính mình:

“Đọc hết văn vần lại văn xuôi


Hết văn thuyết lý lại văn chơi”

Tài năng hơn người khiến Tản Đà không ngần ngại thể hiện bản lĩnh cái tôi cá nhân, những
tác phẩm của ông đều được liệt kê với những đặc điểm nổi bật của chúng: Khối tình con, Thần
tiên, Giấc mộng. Rồi ông tự khen mình “Văn đã giàu thay, lại lắm lối”. Đây không phải là lần đầu
tiên Tản Đà tự khen ngợi mình, trong bài Tự trào ông đã viết: “Vùng đất Sơn Tây nảy một ông/
Tuổi chửa bao nhiêu văn rất hùng/ Sông Đà núi Tản ai hun đúc/ Bút thánh câu thần sớm vãi
vung”. Cho thấy ý thức cao độ về cái tôi của mình trong thơ ông.

Nghe những lời nhận xét ấy, trời cũng phải bật buồn cười và phê cho “văn thật tuyệt” “văn
trời được thế chắc có ít”. Các chư tiên thì khen ngợi bằng những lời khen ngợi không tiếc lời: lời
văn như sao băng, khí văn như mây chuyển, nhẹ như sương, êm như gió. Và họ tranh nhau ao
ước, dặn: “Anh gánh lên đây bán chợ Trời”. Quả thật chỉ có ở nơi tiên giới này Tản Đà mới tìm
được người bạn tri âm tri kỉ với mình, bởi dưới hạ giới văn chương rẻ như bèo, ít được trân
trọng. Còn ở đây ông đã tìm được tri âm tri kỉ, bởi chỉ có những người như họ mới cảm nhận
được hết tài năng của ông.

Đã có mấy ai trong văn học, dám xưng họ tên đủ đầy trong tác phẩm của mình, ấy vậy mà có
một thi nhân tên Tản Đà, khi hầu trời đã dám làm việc đó: “Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn/
Quê ở Á Châu và Địa cầu/ Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”. Một nhân cách hơn người, một bản
lĩnh khác thường ở con người tài năng và nhân cách này. Lời thơ tràn đầy niềm tự hào về bản
thân, quê quán, và ý thức tự tôn dân tộc sâu sắc. Cách nói thật trịnh trọng, đầy khẳng định về
tài năng, nhân cách của chính mình.

Đồng thời Tản Đà cũng tự nhận mình là một Trích tiên bị đày xuống trần gian vì tôi ngông,
nhưng ngay sau đó ông đã khẳng định: “Trời rằng: không phải là Trời đày/ Trời định sai con một
việc này/ Là việc “thiên lương” của nhân loại”/ “Cho con xuống thuật cùng đời hay”. Ông xuống
trần gian để thực hiện một sứ mệnh cao cả, thực hành thiên lương, đem lại đời sống tốt đẹp
cho con người. Nhưng đây quả là một nhiệm vụ khó khăn, ở giữa trốn trần gian đầy hiểm ác,
bon chen, giữ được thiên lương và truyền bá thiên lương quả thực không hề đơn giản. Việc ông
tự nguyện gánh vác nhiệm vụ Trời trao cho thấy nhân cách cao đẹp của thi nhân.

“Hai chữ thiên lương thằng Hiếu nhớ


Dám xin không phụ Trời trông mong”

Thể thơ thất ngôn trường thiên, đã cho phép tác giả thể hiện một cách thoải mái cảm xúc của
bản thân. Bài thơ Hầu trời đã thể hiện một cách đầy đủ cái tôi đầy ngông ngạo của Tản Đà trước
cuộc đời. Ông ý thức sâu sắc về tài năng của bản thân, ông thời cũng ý thức hiện thực xã hội
thối nát lúc bấy giờ. Qua đó cũng cho người đọc thấy một cái tôi ngông nhưng cũng đầy cô đơn,
bế tắc trước thời cuộc.

You might also like