You are on page 1of 10

VIỆT BẮC_TỐ HỮU

C1: Lời tựa tập “máu và hoa”, xuất bản ở P năm 1975 có ghi những dòng vô cùng ý nghĩa về
nhà thơ TH: “Nhà thi sĩ ấy tự muốn mình là tiếng nói của dân tộc mình. Vậy thì dân tộc ấy có
năng khiếu thơ thông qua nhà thi sĩ. Các dân tộc hiện đại, đã công nghiệp hóa rồi, đã bị san
phẳng bởi những phương tiện tuyên truyền, không còn có một năng khiếu về hình tượng như thế
nữa; không còn suối nguồn ở bản thân mình nữa. nhưng TH đắm mình trong dân tộc của mình,
đồng thời là một thi sĩ độc đáo, một nhà sáng tạo ra các hình thể. Người ta càng cảm thấy điều đó
rõ hơn khi anh nói một cách rất hay về thơ”. Tập thơ “Việt Bắc” chính là một dấu son tiêu biểu
cho con đường thơ – đường cách mạng của thi sĩ tài hoa này.
C2: Tố Hữu (1920-2002) tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành. Ông sinh trưởng trong gia đình
nhà Nho nghèo tại Huế - vùng đất cố đô thơ mộng còn lưu giữ nhiều nét dân gian. Ngay từ thời
thơ ấu TH đã sớm đc truyền tình yêu với văn học dân gian. Bước vào tuổi thanh niên, TH sớm đc
giác ngộ cm. Ông hăng say hoạt động và đấu tranh cách mạng nhưng cũng trải qua nhiều lần tù
ngục. Bên cạnh đó, ông được coi là “cánh chim đầu đàn” của nền thơ ca cách mạng VN với
những vần thơ phản ánh chân thật gian khổ, hi sinh nhưng cũng đầy vinh quang, thắng lợi của
dân tộc, tiêu biểu nhất phải nhắc đến tập thơ VB – một dấu son tiêu biểu cho con đường thơ,
đường cách mạng của người thi sĩ.
Sau chiến thắng ĐBP (1954), hiệp định giơ ne vơ đc kí kết, hòa bình lập lại, một trang sử mới
của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. 10/1954, các cơ quan TW Đảng
và Chính Phủ rời chiến khu VB trờ về Hà Nội. VB là bài thơ “k vt k đc”, ra đời thật đúng lúc
trong không khí lịch sử và tâm trạng khi chia tay của người cán bộ với đồng bào VB. Với những
nét phong cách nghệ thuật đậm nổi được chạm khắc trên từng lời thơ, VB không chỉ là một đỉnh
cao của thơ Tố Hữu mà còn là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của thơ ca VN thời kì
kháng chiến chống P. Nhan đề VB đã gợi nhắc tới những sự kiện, những kỉ niệm của một thời kì
khánh chiến gian khổ mà hào hùng, về nghĩa tình sâu nặng giữa nhân dân vs cách mạng và kháng
chiến. hai chữ VB ấy như 1 lời khắc ghi sâu sắc tình cảm thủy chung, son sắc của nhà thơ –
người cán bộ kháng chiến đối với quê hương.
Mở đầu bài thơ là lời hỏi đáp của người ở lại và người ra đi nhằm khơi gợi những kỉ niệm ân tình
giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ về xuôi trong suốt mười lăm năm gắn bó keo sơn . Bốn câu
thơ đầu là lời của nhân dân Việt Bắc hỏi người ra đi :
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Câu thơ mở đầu mang âm hưởng của ca dao, dân ca chan chứa tình thương của người ở lại với
người ra đi , hỏi để gợi nhắc những kỉ niệm gắn bó. Trong câu hỏi này “mình” là chỉ người ra đi ,
“ta” là người ở lại . “Mình” ở đầu câu , “ta” ở cuối câu ,tưởng xa mà gần bởi được liên kết bởi từ
“nhớ”. Nỗi nhớ ấy bắt nguồn từ cơ sở “ mười lăm năm ấy” .Người ở lại hỏi người ra đi có nhớ
tới những lần đồng cam cộng khổ , gắn bó cùng nhau chia ngọt xẻ bùi với mình hay không ? Bốn
chữ “ thiết tha mặn nồng” đã cho thấy phần nào tình cảm giữa Việt Bắc và người cán bộ thật
thủy chung , sâu nặng . Bởi vậy hỏi nhưng mục đích chính là để bộc lộ tình cảm và hỏi là để thể
hiện mong muốn người ra đi cũng có tình cảm như mình .Nếu như hai câu thơ đầu là lời gợi nhắc
về kỉ niệm “mười lăm năm ấy” gắn bó , thì ở hai câu thơ sau là lời nhắc nhở chân tình và cũng là
lời dặn dò kín đáo của người ở lại . Câu hỏi tu từ thứ hai đã hướng ta tới không gian , đối tượng
hỏi không còn bó hạn hẹp trong mối quan hệ mình-ta nữa mà nỗi nhớ đó đã hướng vào cả cây ,
sông và núi ,nguồn. Không gian đó với người ra đi và người ở lại đều chứa đựng những kỉ niệm
gắn bó khó quên. Động từ “nhớ” và “nhìn “ được điệp lại hai lần ,tác động mạnh vào cảm xúc
của con người . Phải chăng cách gợi nhớ khéo léo này chính là lời dặn dò,mong muốn rất đỗi kín
đáo của người ở lại : Việt bắc là cội nguồn của cách mạng là quê hương cách mạng dựng nên
cộng hòa , xin người về đừng quên . Qua bốn câu thơ , ta thấy được cách vận dụng từ ngữ linh
hoạt của Tố Hữu , ông đã vận dụng rất khéo léo đạo lí “ Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc để
nhắc nhở con cháu đời sau không được quên công ơn của thế hệ cha ông đi trước.
Sau lời hỏi để gợi nhắc một cách khéo léo của người ở lại là lời giãi bày, bộc bạch cảm xúc của
người ra đi . Dù không trực tiếp nhưng đầy bâng khuâng ,xao xuyến:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Những cặp từ láy “bâng khuâng”, “bồn chồn” diễn tả trạng thái tâm lý nhớ thương, luyến tiếc
khiến lòng chẳng thể yên. Như Tú Xương đã viết:
“Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai”...
Tiếng “ai” ấy lại chất chứa biết bao yêu thương, chẳng thể chỉ cụ thể một người, bởi tình cảm ấy
là dành cho cả một đồng bào Việt Bắc. Tố Hữu đã khai thác tiếng “ai” ấy một cách xuất sắc, khi
để lại âm vang trong lòng người về. Nó khiến cho tâm trạng con người càng trở nên nôn nao,
những dòng cảm xúc cứ ào về không thôi.Cách ngắt nhịp 4/4 với hai vế tiểu đối đối lập giữa bên
trong và bên ngoài là cho hiệu quả diễn đạt thêm xúc tích . Tâm trạng bâng khuâng bồn chồn ấy
còn được thể hiện hết sức tinh tế qua nhịp điệu hai câu tiếp theo:
“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Cặp thơ lục bát được tác giả góp thêm một chút nhịp điệu, như một đảo phách trong âm nhạc.
Màu “áo chàm” đặc trưng của những con người chân chất miền núi Tây Bắc. Hình ảnh thấy thật
đơn sơ, mộc mạc của chốn quê nghèo, nghèo vật chất những luôn giàu tình cảm. Tấm áo ấy đã
chất chứa biết bao mồ hôi, khó khăn vất vả, một nắng hai sương để chiến đấu, nuôi dưỡng các
anh lính cụ Hồ để các anh an tâm đánh giặc. Chẳng phải áo bào, áo gấm để tiễn đưa, cảm ơn
công lao của các anh, chỉ là bóng dáng của những con người lao động nhưng sao vẫn khiến cho
ta không khỏi cảm kích, biết ơn. Tình cảm bịn rịn ấy còn được thể hiện qua hình ảnh “cầm tay”.
Cầm tay là biểu tượng của tình yêu thương đoàn kết , cầm tay để nói lên cảm xúc trong lòng .Nó
giống như một nốt nhạc trầm trong một khuôn nhạc bổng ,là nhịp rơi của cảm xúc sâu lắng .
Đoạn thơ mở đầu của bài Việt Bắc đã vẽ nên những cung bậc cảm xúc hết sức đa dạng, sâu lắng
của người đi kẻ ở. Nhịp thơ nhẹ nhàng, du dương để diễn tả một cách trọn vẹn, khéo léo những
tình cảm chân thành ấy đã cho thấy tài năng nổi bật của Tố Hữu trong số những thi sỹ tài hoa của
Việt Nam.
Có thể nói Việt Bắc không chỉ là khúc tình ca mà còn là khúc hùng ca thể hiện ân tình của nhà
thơ đối với khu căn cứ địa của cách mạng Việt Bắc .Điều này được thể hiện rõ qua khổ thơ thứ
hai – lời tâm tình của người dân Việt Bắc về những ngày kháng chiến đã đồng cam cộng khổ
cùng cán bộ trong suốt mười lăm năm :
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai?
Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái mái đình cây đa
Bốn câu thơ đầu là lời nhắc nhở về kỉ niệm trong kháng chiến gian khổ mà cán bộ và nhân dân
Việt Bắc đã cùng nhau trải qua .Điệp từ “nhớ” được lặp lại hai lần cùng hai câu hỏi tu từ “có nhớ
những ngày” đã gợi nên những kỉ niệm gian khổ nhưng vô cùng tình nghĩa.Mình có còn nhớ
không những ngày tháng khắc nghiệt ấy “ mưa nguồn , suối lũ ,mây mù”, những lúc thiếu
thốn ,ảm đạm “ ăn tuyết nằm sương” mà cán bộ và nhân dân đã trải qua .Nhưng những gian khổ
ấy đã gắn kết “mình-ta” lại với nhau có phúc cùng hưởng ,có nạn cùng chịu. , dạt đi những khó
khăn để cùng thực hiện nhiệm vụ là bảo vệ đất nước .Ở đây cái chung luôn đặt lên trên cái
riêng ,đó là tinh thần lớn của thời đại
Bốn câu thơ tiếp theo người Việt Bắc tiếp tục khắc ghi vào lòng người đi những câu hỏi tu từ
khơi gợi nên những kỉ niệm gắn bó với núi rừng, thiên nhiên và con người nặng tình nặng
nghĩa.Ẩn sâu trong bốn câu thơ người Việt Bắc hỏi người ra đi như còn chưa thỏa mạn,họ còn
hỏi chính mình . Nhà thơ đã sử dụng hình ảnh hoán dụ “ Rừng núi nhớ ai” để chỉ người dân Việt
Bắc và nỗi nhớ da diết của người dân Việt Bắc đối với những người kháng chiến , với Đảng ,
chính phủ….Ở đây không chỉ có con người mang nỗi nhớ mà đến cả thiên nhiên cũng rất nặng
tình nghĩa .Mình về khiến núi rừng bỗng trở nên trống vắng , ngay cả “tram bùi”, “măn mai” mà
cũng không ai thu hái. Không chỉ gợi kỉ niệm với thiên nhiên mà người dân Việt Bắc còn gợi kỉ
niệm với con người làm cho cảm xúc càng thêm xao xuyến khôn nguôi.Nhà thơ đã hướng nỗi
nhớ của mình về những con người Việt Bắc qua câu thơ “ Hắt hiu lau xám , đậm đà lòng son”.
Câu thơ đã sử dụng biện pháp đảo ngữ , làm nổi bật hơn khung cảnh vắng vẻ , hoang sơ nơi núi
rừng . Nhưng đối lập lại bên trong những căn nhà ấy lại ẩn chứa tấm lòng thủy chung son sắc của
nhân dân.
Bốn câu thơ cuối người Việt Bắc đã gợi nhắc lại những sự kiện lịch sử gắn với những địa danh ,
những tên gọi đã trở thành điểm mốc của chiến đấu: Tân Trào , Hồng Thái …nhằm nhắc nhở
người về xuôi rằng Việt Bắc là nơi có mặt trận Việt Minh lãnh đạo Cách mạng đánh đuổi giặc
Pháp ,là khu căn cứ quan trọng của cách mạng. Kết thúc đoạn thơ là một câu hỏi tu từ sâu sắc
chứa đựng ẩn ý rằng giữa người Việt Bắc và cán bộ đã có sự gắn kết tha thiết , hòa nhập vào
nhau làm một.
Khổ thơ tiếp theo là lời thề son sắt , thủy chung và nỗi nhớ về thiên nhiên Việt Bắc thơ mộng ,trữ
tình ,là lời bộc bạch trực tiếp của cán bộ về xuôi đối với người dân Việt Bắc :
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi….
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…
Những kí ức như ào ạt dội về, mỗi kỉ niệm đều vô cùng rõ nét như mới diễn ra ngày hôm qua
vậy. Người chiến sĩ đã khẳng định tấm lòng son sắt thủy chung, tình cảm dạt dào và nghĩa tình
sâu nặng như nguồn nước trong mát đổ về bản làng. Người chiến sĩ còn nhớ đến vầng trăng tròn
đầy sau những rặng núi xa sau bản, nhớ những vạt nắng vàng như màu mật đổ xuống những cánh
đồng ruộng bậc thang ngào ngạt mùi lúa chín, nhớ những sáng tinh sương mịt mù trong mây và
khói tỏa, nhớ từng dòng suối cánh rừng… Thiên nhiên núi rừng Việt Bắc lại một lần nữa hiện lên
qua từng câu thơ hết sức hùng vĩ thơ mộng khiến cho ai đi xa mà chẳng nhớ về. Ở đây chỗ sâu
sắc nhất trong tình nghĩa gắn bó giữa nhân dân và cán bộ là tình cảm yêu thương đùm bọc, cùng
san sẻ từng củ sắn , miếng cơm,manh áo ,tấm chăn …. Vật chất ít ỏi nhưng tình người lúc nào
cũng đong đầy.Các chi tiết nghệ thuật ở đây vừa có tình hiện thực ,vừa có tính khái quát. . “ Sức
mạnh của thơ Tố Hữu trong những ngày tháng đen tối ấy, chính là vì nó nói với trái tim, chính là
bởi người cách mạng ấy là một thi sĩ chính cống, thực sự. “Xuân Diệu quả thật nói không sai ,
đọc thơ Tố Hữu dù ông đang viết về những khó khăn , thiếu thốn khi tham gia chiến đấu nhưng
tinh thần cách mạng, ý chí kháng chiến luôn hiện hữu trong từng lời thơ , làm cho ý chí nhân dân
càng mạnh mẽ. Đặc biệt sự xuất hiện hình ảnh người mẹ địu con lên rẫy đã khắc họa thành công
hình tượng người mẹ lam lũ ,vất vả cùng đức hi sinh cao quý cho cách mạng của những người
mẹ Việt Bắc.Nhớ Việt Bắc còn là nhớ âm thanh đặc trưng : tiếng mõ rừng, tiếng chày,… âm
thanh của sự thanh bình yên ả ở Việt Bắc . Cả đoạn thơ tác giả đã thể hiện sâu sắc nỗi nhớ, tình
cảm của người cán bộ đối với nhân dân Việt Bắc một cách đầy tha thiết,chân thực . Kết cấu thơ
trùng lặp làm ta nhớ tới những câu ca dao xưa :
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than
Khổ thơ tiếp theo là bức tranh tứ bình đa màu sắc hòa quyện giữa thiên nhiên và con người được
Tố Hữu miêu tả bằng ngòi bút trữ tình đặc sắc ;
"Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"
Hai câu thơ đầu mang cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ khôn nguôi về Việt Bắc nhưng sau
đến với những câu thơ tiếp theo là một bức tranh về thiên nhiên đầy màu sắc . Bức tranh thứ
nhất:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Câu thơ mở ra một không gian rộng lớn thiên nhiên Việt Bắc. Trên cái nền xanh bạt ngàn của núi
rừng đại ngàn, nổi bật lên hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi. Bởi thế, thiên nhiên hùng vĩ ấy không xa
lạ; trái lại, gần gũi, thân thiết với con người:
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Cũng là cách điểm xuyết những hình ảnh điểm nổi rõ hơn cảnh, thật là một nét tài tình của Tố
Hữu thể hiện trong thơ. Nghệ thuật điểm xuyết của tác giả còn trở lên độc đáo hơn: càng chọn
điểm nhỏ nhất thì sức gợi càng lớn hơn. Vì thế, câu thơ có sự nhấp nháy của hình ảnh và cảnh
vật vốn tĩnh lặng, thậm chí tịch mịch, bỗng có sức sống, sự chuyển động. Bức tranh thứ hai
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Khác hẳn với bức tranh thứ nhất, bức tranh thơ thứ hai mở đầu có sự định vị về thời gian (Ngày
xuân). Nhưng tự thân thời gian ấy cũng đã mở ra không gian:
Ngày xuân mở nở trắng rừng
Cách điệp âm (mơ/nở; trắng/rừng) cùng với hình ảnh của hoa mơ (màu trắng) tạo ra một không
gian vừa rộng lớn nhẹ nhàng và thanh thoát. Ở bức tranh thơ thứ nhất, nghệ thuật miêu tả của tác
giả độc đáo ở điểm xuyết, tìm hình ảnh gợi, sắc màu sáng (hoa đỏ, nắng ánh) để diễn tả sự
chuyển động của cảnh vật thì ở đây, nhà thơ lại hướng cái nhìn vào sự bao quát điệp trùng để tìm
cái rạo rực (tiềm ẩn) của thiên nhiên.
Trên cái nền không gian rộng lớn và háo nức ấy, nhà thơ hướng mắt nhìn về một hoạt độnh có vẻ
tỉ mỉ:
…Người đan nón chuốt từng sợi giang.
Đó là hình ảnh thực. Trong chuỗi hoài niệm của tác giả, hình ảnh người đan nón chỉ là một điểm
gợi nhớ. Câu thơ như gợi lên cách cảm, cách nhìn của tác giả hơn là tả thực. Đó là hình ảnh đặc
trưng dễ nhận thấy của sinh hoạt đời thường ở Việt Bắc. Với nhiều người, nó có thể nhỏ nhặt,
không đáng nhớ. Với một nhà thơ ân tình như Tố Hữu, đó lại là hình ảnh khắc sâu trong tâm
khảm. Bức tranh thứ ba
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Câu thơ mở đầu bằng âm thanh tiếng ve như giúp người đọc cảm nhận được đã có bước biến
chuyển về thời gian sang hè. Ý thơ trong câu tơ như vừa có âm thanh rộn ràng, vừa có màu sắc
đặc trưng của rừng Việt Bắc. Âm thanh và màu sắc sinh động ấy tạo nên cảnh tưng bừng của
thiên nhiên
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Hoa và người Việt Bắc trong thơ Tố Hữu hoà quỵên, cùng tôn vinh lẫn nhau. Đan hòa vớin hau
mà làm nổi bật lên cho nhau. Và chính sự hài hoà đó đã tạo nên chất thơ ân tình của Tố Hữu. Vì
thế, không nên suy diễn, giàu chất tượng trưng với những nét sinh hoạt, lao động của cuộc sống
thực tại.Bức tranh thứ tư
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Câu thơ có kiểu mở đầu bằng sự định vị cả không gian lẫn thời gian “ rừng thu”. Ứng với mỗi
câu thơ đặc sắc và cách định vị trên là một mùa của thiên nhiên (mùa đông, mùa xuân, mùa hạ).
Không ngoại lệ câu thơ này cũng là bức tranh về một mùa của thiên nhiên (mùa thu). Nhưng có
lẽ bức tranh thu là bức tranh cuối của bộ tứ bình cũng là tiếng hát cuối của một trường đoạn hoài
niệm nên hình ảnh tất thảy đều trở nên tượng trưng, âm hưởng cũng bao quát hơn:
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Rừng thu Việt Bắc trong thơ Tố Hữu mênh mông, rộng lớn nhưng hề không lạnh lẽo. “Trăng rọi
hoà bình” là hình ảnh vừa mang ý nghĩa ánh trăng của cuộc đời ân tình ấy, lại vừa mang ý nghĩa
cuộc sống có niềm tin, tự do. Và trong cuộc sống đó còn có cả tình nghĩa thủy chung khi đã có tự
do thì ta vẫn không quên những ngày gian khó.
Thành công của đoạn thơ là nhờ vào một số thủ pháp nghệ thuật cùng với thể thơ lục bát với âm
điệu ngọt ngào,sâu lắng. Cách miêu tra hình ảnh sống động, nhiều phép liệt kê,phép điệp tất cả
đã làm nên một đoạn thơ giàu hình tượng về thiên nhiên và con người Việt Bắc , mở rộng hơn
nữa là tình yêu quê hương , đất nước của tác giả. Quả thật đúng như ông đã từng nói “ Thơ chỉ
tràn ra khi trong tim ta cuộc sống thật đầy” , ông đã thể hiện rất sâu sắc tình yêu đối với nơi núng
rừng Việt Bắc , nơi gắn bó suốt chặng đường hoạt động cách mạng của mình .
Sau những câu thơ miêu tả về thiên nhiên thơ mộng nơi đây thì tác giả lại tập trung viết về nỗi
nhớ khi hoạt động cách mạng vô cùng sôi nổi của mình :
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà…
Trong những ngày tháng kháng chiến gian khổ ở giai đoạn phòng ngự , bộ đội ta phải dựa vào
dân , dựa vào rừng núi để đánh giặc . Trong bốn câu thơ đầu , “rừng”, “núi” được lặp lại đến năm
lần tạo nên tình thế hiểm của tường thành lũy thép vây bọc quân thù.Phép nhân hóa “ rừng núi
cùng ta đánh Tây” cho thấy sự đồng lòng cùng con người đánh giặc đồng thời thể hiện tình cảm
của con người và thiên nhiên . Với sự đồng lòng , đồng sức tất cả đã tạo nên một khối đoàn kết
vững chắc. Khí thế ấy đã tạo nên những chiến thắng vẻ vang , hàng loạt địa danh vang lên , mỗi
nơi đều là một chiến tích thắng lợi . Điệp từ “nhớ” cùng thể thơ lục bát mang âm hưởng sâu lắng
đã diễn tả dào dạt nỗi nhớ của tác giả về những lần hoạt động cách mạng cùng nhân dân và đồng
đội. Chế Lan Viên cũng từng viết về sự gắn bó với chiến khu :
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn
Nhưng trên tất cả tình dân quân thể hiện rõ nhất trong đoạn thơ:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ man
Dân công đuốc đỏ từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp An Khê
Vui lên Việt Bắc đèo De núi Hồng.
Đoạn thơ là không khí ra trận và tin vui chiến thắng của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp.Câu thơ vang lên rất đỗi tự nhiên tạo cảm giác khỏe khoắn,hùng tráng chứa
đầy niềm kiêu hãnh.Đó là niềm tự hào về những con đường Việt bắc đã và đang được giải phóng
sau bao ngày tháng kháng chiến vất vả . Những từ láy “ đêm đêm”, “ rầm rập” cùng phép so sánh
đất rung tất cả đã tạo nên một bức tranh tổng hợp của sức mạnh đoàn kết dân tộc. Đoàn quân nối
dài trên những con đường Việt Bắc thật hùng vĩ như vươn rộng khắp mọi nẻo đường . Hình ảnh
“ánh sao đầu súng” làm ta liên tưởng tới chi tiết “ đầu súng trăng treo” trong thơ Chính Hữu ,
đây là một hình ảnh thực mang vẻ đẹp lãng mạn khi người lính hành quân trong đêm, những ngôi
sao sang trên trời cùng làm bạn . Nguyễn Đình Thi cũng từng viết về khung cảnh lãng mạn ấy :
Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh
Soi sáng đường chiến sĩ giữa hàng quân
Ngọn đuốc trên tay quân dân không chỉ thắp sáng lên cả bầu trời Việt Bắc khi ấy mà nó còn thắp
lên cả những thế hệ, thắp lên tương lai, thắp lên niềm tin và hi vọng về một chiến thắng không
xa. Sức mạnh của cả một đoàn quân khí thế đến nỗi có thể làm cho đá nát lửa bay không một thế
lực nào có thể ngăn cản được. Bằng nghệ thật phóng đại cường điệu, nhà thơ Tố Hữu dường như
đã tái hiện lại bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ để rồi giờ đây chỉ qua những dòng thơ ngắn gọn, ta
như trở về với một thời hào hùng của cha ông. Giữa bóng tối vây quanh ngọn đèn pha như thắp
lên niềm tin niềm hi vọng của quân dân về một tương lai tốt đẹp hơn.Cuối cùng, sau những tháng
ngày chiến đấu gian lao và khổ cực quân và dân ta đã giành được thắng lợi vô cùng vẻ vang.
Hạnh phúc vỡ òa không từ ngữ nào có thể diễn tả. Từ Hòa Bình Tây Bắc hay Điện Biên, nhân
dân như vui cùng một niềm hạnh phúc. Điều này chứng tỏ sự gắn bó máu thịt sự đoàn kết không
thể nào phá rời của quân và dân ta khi đất nước gặp khó khăn.Nếu ở Tây Tiến những địa danh
căn cứ của bộ đội ta được nhắc đến với niềm thương nhớ thì Tố Hữu lại gọi tên những địa danh
gắn với những chiến công lẫy lừng làm bừng tỉnh lòng người. Có thể nói đây là điểm độc đáo
trong thơ Tố Hữu.
Đoạn thơ cuối khép lại là cảnh Việt Bắc sau kháng chiến Điện biên phủ thắng lợi :
“Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Ðiều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.”
Sau chiến thắng vẻ vang của toàn dân ta , khắp nơi hân hoan trong màu sắc rực rỡ tươi vui dưới
ánh nắng và lá cờ đỏ sao vàng. Trung ương Đảng và Chính phủ thu xếp trở về thủ đô, trong
không khí nhộn nhịp, miền Bắc ngày một đổi mới với chính sách mới của Đảng và nhà nước
“Giữ đê, phòng hạn, thu lương/Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...”. Đồng thời đoạn
thơ cũng là lời ngợi ca những công lao vĩ đại của Bác Hồ kính yêu, là lời tri ân sâu sắc với miền
núi rừng Việt Bắc thân thương, dù mai này đã về thủ đô nhưng trong tim những người chiến sĩ
cách mạng luôn giữ một góc trong tim dành cho Việt Bắc, dành cho “Mái đình Hồng Thái cây đa
Tân Trào”.
Bài thơ Việt Bắc với những hình ảnh đẹp về thiên nhiên , con người Việt Bắc đã để lại ấn tượng
đẹp trong lòng người đọc. Bằng những hình ảnh so sánh, ẩn dụ ,hoán dụ , thể thơ lục bát mang
âm hưởng sâu lắng , giọng thơ sôi nổi, Tố Hữu đã mang đến cho người đọc những cảm xúc khó
tả , sự khâm phục tinh thần gắn kết , đồng lòng đánh giặc của quân và dân ta . Quả thật không sai
khi nói rằng “ thái độ toàn tâm toàn ý với cách mạng là nguyên nhân chính làm nên thành công
của nhà thơ Tố Hữu” ( Hoài Thanh ).
" Thơ là đi giữa nhạc và ý.Rơi vào vưc ý, thơ rất ăn sâu nhưng dễ khô khan. Rơi vào vực nhạc dễ
say đắm lòng người nhưng dễ nông cạn. Tố Hữu là nhà thơ giữ thế quân bình giữa hai lưu vực
ấy. Thơ của anh vừa ru người trong nhạc, thức người trong ý"(Chế Lan Viên ). Tình yêu quê
hương , đất nước cùng với nỗi niềm với nhân dân Việt Bắc đã tạo nên một áng thơ Việt Bắc đầy
cảm xúc sâu lắng ,khiến ai đọc qua cũng phải xao xuyến ,bồi hồi. Bài thơ là một tác phẩm xuất
sắc của Tố Hữu trong sự nghiệp thơ ca cách mạng và là một tiếng ca bất hủ trong lòng người yêu
thơ ca Việt Nam.

You might also like