You are on page 1of 5

ViệT BẮC 1

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 hòa bình được lặp lại,miền Bắc được giải phóng, nhân dân bắt
tay vào xây dựng cuộc sống mới. Tháng 10 năm 1954 các cơ quan trung ương Đảng rời chiến khu Việt
Bắc trở về thủ đô Hà Nội, nhân sự kiện có tính là sử ấy TH viết bài thơ Việt Bắc.Khung cảnh chia ly của kẻ
ở người đi trong tám câu thơ đầu tiên của tác phẩm đã làm cho biết bao trái tim đồng cảm, say mê.

Miền cảm xúc dào dạt kết tinh những lần chia xa đau thương, đã giúp Tố Hữu chắp bút nên những dòng
thơ sâu sắc .Chỉ với bốn cặp lục bát tác giả đã giúp người đọc cảm nhận rõ vẻ bịn rịn, quyến luyến của
đồng bào Việt Bắc, mở đầu chính là lời của người ở lại:

“Mình về mình….nồng”

Đoạn thơ được viết với kết cấu đối đáp giữa mình và ta trong một cuộc chia tay quyến luyến, bịn rịn. Đó
là cách xưng hô thân mật thường thấy trong ca dao, dân ca, là lời xưng hô trong tình yêu lứa đôi, tha
thiết, bâng khuâng.Dường như đây không còn là cuộc chia li giữa đồng bào và chiến sĩ cách mạng mà nó
đã trở thành buổi chia li của đôi lứa yêu nhau mặn nồng da diết.“Mình” là chỉ người ra đi - người chiến sĩ
cách mạng, “ta” chính là người Việt Bắc. Câu hỏi là lời của người ở lại hỏi người ra đi rằng khi người
chiến sĩ cách mạng về xuôi rồi còn có nhớ đến người Việt Bắc hay không? Câu hỏi tu từ xuất hiện ngay
câu thơ đầu tiên “có nhớ ta”, đây không chỉ là người ở đòi hỏi yêu thương, mà còn là sự phân thân của
chủ thể trữ tình, những câu hỏi xoáy vào tâm can của người hỏi, thể hiện trách nhiệm của nhân vật trữ
tình. Câu hỏi ấy khơi dậy kỉ niệm, sợi dây nghĩa tình giữa đồng bào Việt Bắc và cán bộ miền xuôi. Điểm
rơi thấp nhất của câu thơ là chữ “về”, gợi cảm giác trống trải, hụt hẫng trong lòng người ở lại, họ lo lắng
người ra đi sẽ quên khoảng thời gian mười lăm năm gắn bó. Thời gian “mười lăm năm” là chi tiết thực
chỉ độ dài thời gian từ năm 1940 thời kháng Nhật và tiếp theo là phong trào Việt Minh, đó là một khoảng
thời gian vô tri trong tâm thức của mỗi người, thế nhưng đối với kẻ ở người đi thì lại là một thời gian
chứa đựng biết bao niềm vui, nỗi buồn, cùng nhau chiến đấu, cùng nhau vượt qua biết bao gian khổ.
Bốn chữ thiết tha mặn nồng đã cho thấy tình cảm giữa VB và cán bộ thật thủy chung son sắt, keo sơn
bền chặt. Tất cả những tình cảm ấy, người ở lại đã dành riêng một vị trí đẹp nhất, quan trọng nhất trong
trái tim mình.Bởi vậy, người ở lại hỏi nhưng mục đích chính là để bộc lộ tình cảm và hỏi là để thể hiển
mong muốn người ra đi cũng có tình cảm như mình.

Đối tượng hỏi không chỉ còn bó hẹp trong mối quan hệ giữa “mình – ta” mà nỗi nhớ đó hướng vào đối
tượng rộng lớn hơn rất nhiều, đó chính là không gian núi rừng và sông suối:

“Mình về…..nguồn”

Vẫn là câu hỏi tu từ, vẫn là cách xưng hô “mình” nhưng đây là câu hỏi vang lên như một lời nhắc nhở “có
nhớ không” cùng với điệp từ “nhìn” và “nhớ” được lặp hai lần, thể hiện cường độ nhớ ngày một tăng và
nó tạo nên âm hưởng chủ đạo của khổ thơ. Câu thơ “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn” không chỉ
gợi nhắc về không gian kháng chiến mà còn chạm đến một tình cảm thiêng liêng của cả dân tộc: cây sống
được nhờ ân tình của núi, nước chảy về xuôi nhờ ngọn nguồn dào dạt. Ở câu thơ xuất hiện hai động từ
chỉ hai sự việc “nhìn” và “nhớ”.Một việc tác động vào thị giác, một việc tác động vào tâm tưởng; một
hành động hướng tới hiện tại, một hành động hướng về quá khứ. Sự đan xen ấy cùng với cụm từ ‚có nhớ
không‛ như một lời nhắc nhở kín đáo mà sâu sắc. Các cặp hình ảnh “cây – núi”, “sông – nguồn” vừa
mang nghĩa tả thực, vừa mang nghĩa tượng trưng: nó gợi lên mối quan hệ cội nguồn: cán bộ từ dân mà
ra, dựa vào dân mà sống. Câu hỏi chất chứa tình cảm lưu luyến, bao hàm lời dặn dò: đừng quên cội
nguồn Việt Bắc - cội nguồn cách mạng, là trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến. Người Việt Bắc muốn
nhắc nhở người chiến sĩ cách mạng hãy nhớ nơi gắn bó thủy chung, son sắt, nơi người cách mạng và
người Việt Bắc đã cùng chiến đấu, cùng nhau vượt qua bao gian khổ. Nhân dân Việt Bắc là hậu phương
vững chắc của cách mạng. Thiên nhiên và con người Tây Bắc gắn bó với nhau mật thiết, nhớ thiên nhiên
là có bóng dáng con người. Không gian đối với người ra đi với người ở lại không còn là sự vô tri, vô hồn,
vô cảm mà nó chứa đầy kỉ niệm, góp phần tạo nên tình cảm cho người ra đi. Qua đó ta có thể cảm nhận
được phẩm chất tốt đẹp của con người nơi đây. Dù phải sống trong khó khăn, đồi núi hiểm trở, thiếu
thốn nhưng tình yêu của họ đối với người chiến sĩ là không hề thay đổi, luôn luôn cồn cào, da diết và
mãnh liệt.

Trước những câu hỏi, người ra đi thì lại không hề có lời đáp lại, mà tình cảm của họ được biểu thị bằng
hành động. Họ đã quá thấu hiểu tình cảm, tấm lòng của người ở lại:

“Tiếng ai …..bước đi”

Với đại từ nhân xưng “ai” đó chính là tiếng lòng của người Việt Bắc vang vọng như muốn gọi người chiến
sĩ ở lại, hay đó chính là tiếng lòng của người chiến sĩ không muốn chia xa. Một chữ “ai” làm xao động cả
không gian đưa tiễn. Ta có cảm giác như người ra đi đang chìm đắm, đang miên man trong những dòng
xúc cảm, những hoài niệm, những kỉ niệm về Việt Bắc rồi bất ngờ sực tỉnh, chợt nhận ra hiện thực phúc
phàng khi giây phút này họ phải chia tay nhau, không biết đến bao giờ giờ mới được tương phùng. Từ
“tha thiết” như làm cho tiếng gọi đó vang vọng hơn, sâu lắng hơn, làm cho ta cảm nhận được tình cảm
giữa Việt Bắc và người cán bộ cách mạng như vô cùng sâu nặng. Tình thương, nỗi nhớ như níu chân
người ở lại “Bước đi một bước lâu lâu lại ngừng”. “Bâng khuâng” và “bồn chồn” là hai từ láy gợi cảm,
diễn tả trạng thái tâm lí tình cảm buồn vui, luyến tiếc, nhớ thương, chờ mong.. lẫn lộn cùng một lúc. Nó
khiến cho tâm trạng của con người day dứt đến khó chịu. Những từ láy ấy đã tạo ra hiệu quả nghệ thuật
đặc biệt: sự hô ứng đồng vọng của cảm xúc đã được biểu thị bằng bước chân ngập ngừng, dùng dằng
níu kéo. Trước những biến thiên của cuộc đời con người ta luôn mang trong mình những trạng thái tâm
lí phức tạp, bất ngờ. Vừa náo nức, vừa hạnh phúc ngập tràn khi kháng chiến thành công, muốn về với
thủ đô thân yêu để đoàn tụ với gia đình và bạn bè; cũng chẳng muốn bước đi vì nơi đây, mảnh đất này,
những con người kia đã cùng nhau cố gắng, cùng nhau chiến đấu và chở che. Giờ đ}y phải chia tay rời xa
để làm nhiệm vụ mới về tiếp quản tại thủ đô Hà Nội, họ không biết mang theo điều gì, không biết lưu lại
hình ảnh nào, tâm trạng của người về do vậy không tránh khỏi là nỗi niềm bâng khuâng khó tả. Tất cả đã
tạo nên tâm trạng của người chiến sĩ cách mạng về xuôi, khi trở về xuôi vẫn còn mang trong mình nỗi
nhung nhớ, ray rứt khôn nguôi, cả sự lo lắng trong tâm trạng của người cán bộ cách mạng. Qua đó ta có
thể cảm nhận được tình cảm của người cách mạng đối với Việt Bắc cũng sâu nặng không kém gì tình cảm
của người Việt Bắc dành cho họ.

Hai câu thơ cuối là hình ảnh chia tay đầy nước mắt giữa người chiến sĩ cách mạng và người Việt Bắc.
Hình ảnh “áo chàm” vừa cổ điển vừa hiện đại, gắn với bản sắc của đồng bào Việt Bắc. “Áo chàm”là màu
áo của người nông dân nghèo khổ, cực nhọc, vất vả quanh năm suốt tháng lao động cần cù để phục vụ
cho cách mạng; chiếc “áo chàm” cũng gợi đến màu sắc bình dị đơn sơ mà cũng bền bỉ, khó phai. Hình
ảnh hoán dụ “áo chàm” chính là để chỉ người Việt Bắc nghĩa tình, chân thành, mộc mạc nhưng cũng rất
đỗi anh hùng. Những con người ấy là đại diện cho một dân tộc Việt Nam vừa hào hùng lại vừa hào hoa.

Tác giả đã khéo léo lựa chọn từ “phân li” như thể hiện buổi chia tay ấy như là sự chia cắt. Dường như họ
không muốn rời xa nhau nhưng do ho|n cảnh họ phải chia li, xa rời nhau mỗi người một nơi. Qua đó thể
hiện nỗi tiếc thương nhung nhớ, khẳng định tình cảm gắn bó s}u đậm của người Việt Bắc vàngười chiến
sĩ cách mạng. Tình cảm ấy được khẳng định rõ ràng hơn trong c}u thơ cuối: “Cầm tay nhau biết nói gì
hôm nay”. “Cầm tay” là biểu tượng của tình yêu thương, đoàn kết. Không nói ra được họ chỉ biết cầm
tay nhau, chỉ hành động “cầm tay” thôi đã cho ta cảm nhận thấy tình yêu thương mặn nồng giữa họ.
Quả thực, trong khoảnh khắc tất cả mọi thứ lùi xa chỉ còn nghĩa tình ở lại, cái nắm tay là điều vô giá có
sức mạnh to lớn gìn giữ trọn vẹn những phút giây.

Không phải không có gì để nói mà là có quá nhiều điều để nói, không thể nói hết và không biết nói điều
gì đầu tiên, cụm từ “biết nói gì” đã thể hiện rõ điều đó. Mười lăm năm gắn bó keo sơn, mười lăm năm
cùng nhau vượt qua bao khó khăn gian khổ tình cảm của họ quá s}u đậm, có quá nhiều điều để nói
nhưng những lời nói ấy tại sao không thốt nên lời, nó cứ nghẹn lại trong cổ họng mà thứ trào ra chỉ có
nước mắt của sự chia li. Đó làsự thể hiện tình cảm, tâm trạng chưa xa đã nhớ của người chiến sĩ cách
mạng và đó cũng chính là tiếng lòng của họ. Dấu chấm lửng ở cuối câu như càng làm tăng thêm cái tình
cảm mặn nồng, dào dạt, nó như kéo dài ra vô tận đồng thời như nốt lặng trong một khuôn nhạc mà ở đó
tình cảm cứ ngân dài sâu lắng.

BỨC TRANH TỨ BÌNH

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 hòa bình được lặp lại,miền Bắc được giải phóng, nhân dân bắt
tay vào xây dựng cuộc sống mới. Tháng 10 năm 1954 các cơ quan trung ương Đảng rời chiến khu Việt
Bắc trở về thủ đô Hà Nội, nhân sự kiện có tính là sử ấy TH viết bài thơ Việt Bắc.Bức tranh tứ bình là đoạn
thơ đặc sắc phác họa khung cảnh bốn mùa xứ Tây Bắc hoang sơ , thơ mộng , trữ tình.

Có thể thấy người ra đi hỏi mà không cần chờ lời giải đáp, không có sự băn khoăn, trăn trở hỏi chỉ để
bộc lộ nỗi bồi hồi ,xao xuyến trong phút chia ly và có lẽ vì thế nên ngay sau câu hỏi họ đã vội trả lời “Ta
về ta nhớ những hoa cùng người” hai câu thơ đầy ắp những ta và mình những “mình nhớ” “ta nhớ” yếu
tố đẹp của ngôn từ cho thấy hình ảnh họ đầy ắp trong lòng nhau .Hình ảnh “những hoa cùng người”
mang ý vị sâu xa, khi hoa-người được đặt cạnh nhau và nối với nhau bởi chữ cùng phải chăng ở đây nhà
thơ muốn ý nghĩa nói rằng vẻ đẹp của người Việt Bắc tựa như hoa hoa , người và hoa đứng cạnh nhau
lẫn lộn không thể phân biệt , nói về ý này gợi ra cho ta hình ảnh người ta là hoa đất vẫn thường được
nhắc tới trong văn học.Khung cảnh nơi đây vừa là nền cho con người xuất hiện vừa là một phần trong
nỗi nhớ của người ra đi.

(Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi/ Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng)

Bức tranh tứ bình được mở ra, mở đầu là bức tranh thiên nhiên mùa đông. Nhắc đến mùa đông người
ta thường nghĩ đến cảnh rét mướt, lụi tàn, lòng người cô đơn, trống trải, tiết trời u ám. Nhưng đến với
mùa đông của Việt Bắc thì ngược lại, thiên nhiên ở đây lại giàu sức sống và mang cái cảm giác ấm áp lạ
thường. Gam màu cơ bản của bức tranh này là màu xanh. Đó là một màu xanh mênh mông và trầm tĩnh
của rừng già. Nó là màu xanh của sự sống, màu của cánh rừng mùa đông tươi tốt chứ không hề tàn lụi.
Nó gợi ra hình ảnh một xứ sở êm đềm, lặng lẽ, tĩnh. Phải nói rằng tuy là mùa đông nhưng qua thơ Tố
Hữu, cảnh sắc không buồn, không trầm lắng, mà người lại rất sáng, rất ấm áp qua hình ảnh “hoa chuối
đỏ tươi”. Màu đỏ của hoa chuối như phun trào từ giữa màu xanh của núi rừng. Trong gam màu hội họa,
đỏ là gam màu nóng, cho nên chính nó cũng đã xua đi gam màu lạnh lẽo của rừng xanh mang đến sự ấm
áp cho bức tranh thiên nhiên. Cái “đỏ tươi” của hoa chuối như xóa nhòa đi sự lạnh lẽo cô độc của mùa
đông nơi núi rừng, như chất chưa, tiềm ẩn sức sống của đất trời. Đây được xem là nghệ thuật chấm phá
rất đắc điệu của Tố Hữu giúp người đọc thấy ấm lòng khi nhớ về Việt Bắc. Hai màu xanh đỏ tương phản
nhưng cùng tô điểm cho bức tranh thiên nhiên thêm đẹp và rực rỡ với đường nét, màu sắc vừa đối lập,
vừa hài hòa, vừa cổ điển vừa hiện đại. Sự đối lập trong màu sắc nhưng lại hài hòa trong cách diễn đạt
khiến mùa đông nơi đ}y mang hơi hướng của mùa hè ấm áp trong thơ Nguyễn Trãi: “Thạch lựu hiên còn
phun thức đỏ Hồng liên trì đã tiện mùi hương” Trước thiên nhiên bao la, con người dường như càng trở
nên kỳ vĩ, hùng tráng hơn. Hình ảnh con người lao động với con dao sắc nhọn là vũ khí phòng thân, công
cụ làm việc thể hiện sự sinh động của con người trong công việc thường nhật của mình. Ánh nắng mặt
trời chiếu xuống làm cho con dao lấp lánh ánh sáng tạo nên hình ảnh con người thật đẹp không thể nào
quên. Ở đây, câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng cũng vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp
ảnh. Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người được đặt giữa “đèo cao, nắng ánh”, ở vị trí
trung tâm giữa núi rừng Tây Bắc, vượt lên cả không gian với hình ảnh lớn lao, làm chủ thiên nhiên, làm
chủ đất nước với hình ảnh kỳ vĩ, lớn lao. Con người đang chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng, tự do,
làm chủ tình thế. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.

(Ngày xuân mai nở trắng rừng / nhớ người đang nói chút từng sợi giang)

Mùa xuân đến, nền xanh trầm tĩnh đã nhường chỗ cho nền trắng tinh khiết của hoa mơ rừng. Bao trùm
lên cảnh vật mùa xuân là một màu trắng dịu dàng, trong trẻ của hoa mơ. Hoa mơ chính là dấu hiệu báo
trước khi mùa xuân tới, bởi loại hoa này thường chỉ ra vào mùa xuân, giống như hoa đào và hoa mai.
Nghệ thuật đảo ngữ “trắng rừng” sử dụng từ “trắng” với vai trò động từ chứ không còn là tính từ chỉ
màu sắc. Thêm vào đó, động từ “nở” như sự lan tỏa của sắc trắng, lấn át mọi sắc xanh của lá rừng, tạo
nên một không gian trong lành, dịu mát của hoa mơ, khiến bức tranh trở nên trữ tình hơn. Nó làm sức
sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống.

Mùa xuân càng trở nên tươi tắn hơn nữa bởi sự xuất hiện của hình ảnh con người với hoạt động "chuốt
từng sợi giang". Con người đẹp tự nhiên trong những công việc hằng ngày. Từ "chuốt" và hình ảnh thơ
đã nói lên được bàn tay của người dân lao động: cần mẫn, tỉ mẩn, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm
chút đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc để đan thành những chiếc nón, chiếc
mũ phục vụ kháng chiến, để anh bộ đội đi chiến dịch có "ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan". Dường
như đối với Tố Hữu, bao nhiêu sợi giang là bấy nhiêu sợi nhớ. Nỗi nhớ về người và cảnh cứ liên tiếp, đan
xen vào nhau và cứ thế kéo dài mãi.

Nhớ về Việt Bắc là nhớ mùa hè với tiếng ve kêu làm nên khúc nhạc rừng. Mùa hè đến trong âm thanh
rộn rã của tiếng ve, bức tranh Việt Bắc lại sống động hơn bao giờ hết. Tiếng ve như xé tan sự yên tĩnh
của núi rừng, đánh thức sự bình yên nơi đây. Trong câu thơ lục, ta thấy dường như có một phản ứng dây
chuyền chạy từ đầu đến cuối câu thơ: ve kêu gọi hè đến, hè đến làm cho những rừng phách ngả sang
màu vàng. Một loài động vật nhỏ bé không chỉ biết kêu, biết gọi mà còn có khả năng xui khiến rừng
phách “đổ vàng”. Không gian càng thêm lung linh hơn khi sắc vàng đổ xuống. Bức tranh mùa hạ Việt Bắc
óng vàng tựa như một bức tranh sơn mài vừa đậm chất cổ điển vừa mang những đường nét hiện đại.
Hoa phácch là đặc trưng của mùa hè Việt Bắc, mọc thành rừng, rất nhạy cảm với thời tiết. Những ngày
cuối xuân, cả rừng phách còn là màu xanh bạt ngàn, những nụ hoa còn náu kín trong kẽ lá, khi bản đàn
ve vừa dạo khúc đầu tiên của mùa hè thì những nụ hoa nhất tề đồng loạt trổ bông, cả rừng phách lai
láng sắc vàng. Đây là một bức tranh được vẽ lên bằng hoài niệm cho nên nó lung linh ánh sáng, màu sắc
và rộn rã âm thanh, nó gợi sự chú ý cho người đọc bằng cả thị giác và thính giác. Chữ “đổ” là một cách
dùng từ độc đáo. Nó nhấn mạnh vào khía cạnh mau lẹ trong việc biến đổi màu sắc, đồng thời diễn tả
những trận mưa hoa vàng rừng phách mỗi khi có một luồng gió ào qua. Dường như âm thanh đã làm đổi
thay màu sắc. Chỉ với một câu thơ mà gợi lên cả sự vận động của thời gian, của cuộc sống.
Trên nền cảnh ấy xuất hiện một hình ảnh lao động đầy kiên nhẫn của một cô gái Việt Bắc: “Nhớ cô em
gái hái măng một mình” – một câu thơ đặc sắc, giàu vần điệu, thanh điệu. Hình ảnh này làm toát lên
dáng điệu chịu thương, chịu khó, hay lam hay làm, giàu đức hy sinh. Hái măng một mình mà không gợi
lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; trái lại rất trữ tình,
thơ mộng, gần gũi thân thương tha thiết. Tuy nhiên, nàng thơ của Tố Hữu đang làm việc một mình
nhưng vẫn không cảm thấy lẻ loi, vì cô đang lao động giữa nhạc rừng, làm bạn với thiên nhiên, đang làm
chủ lao động, làm chủ tự do; cô gái hái măng để góp phần "nuôi quân" phục vụ kháng chiến trong một
niềm hân hoan, hồ hởi. Rõ ràng thiên nhiên và con người đã hòa quyện vào nhau, tô điểm cho nhau.
Phải chăng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ kia có một phần góp sức lao động thầm lặng của những cô
em gái?

Rừng thu trăng rọi hòa bình?Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

Mùa thu đã về Việt Bắc mang theo vẻ đẹp dịu dàng ,đằm thắm .Ánh trăng hòa bình trong núi rừng không
chỉ là ánh trăng thu thơ mộng trữ tình,mà còn như niềm khao khát mong hòa bình của thế giới .Vừa chỉ
ánh trăng thật của thiên nhiên vừa tượng trưng cho ánh sáng lý tưởng của cách mạng,ước mơ ,khát
khao về nền độc lập của nước nhà. Tiếng hát có sự yêu đời lạc quan của con người nơi đây đã thổn thức
trong tâm trí của tác giả nó mang màu sắc ân tình thủy chung sâu sắc giữa mình và ta .

You might also like