You are on page 1of 20

VIỆT BẮC

Đề 1: Cảm nhận về đoạn thơ sau đây trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

Tố Hữu được coi là cây đại thu của làng thơ ca Việt Nam hiện đại. Hồn thơ
Tố Hữu thường nhạy bén với những sự kiện trọng đại trong đời sống dân tộc và
cách mạng. Việt Bắc chính là một bài thơ như vậy, một đỉnh cao của thơ Tố Hữu,
một trong những thi phẩm xuất sắc của nền thơ Việt Nam từ sau Cách mạng tháng
Tám 1945. Mặc dù là đề tài cũ nhưng bài thơ vẫn mới mẻ bởi “Việt Bắc” ra đời
trong cuộc chia tay đặc biệt giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến vào
tháng 10/1954. Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ không mang cảnh trạng của một
cuộc chia ly với nỗi buồn đầy nước mắt, mà là nỗi niềm chia ly trong tình cảm giữa
cán bộ và nhân dân sâu đậm ân tình. Đoạn thơ mở đầu của bài thơ là sự thể hiện
tinh tế và sâu sắc những rung động trong trái tim của người đi và người ở trong giờ
phút phân ly: (trích đoạn thơ)
Sau hiệp định Giơnevơ, tháng 10/1954, Trung ương Đảng và cán bộ rời Việt
Bắc. Buổi chia tay lịch sử ấy đã trở thành niềm cảm hứng cho Tố Hữu sáng tác bài
thơ “Việt Bắc”. Trải dài khắp bài thơ là niềm thương nỗi nhớ về những kỷ niệm
kháng chiến gian khổ nhưng nghĩa tình. Toàn đoạn thơ có 8 câu, được viết theo thể
thơ lục bát với âm điệu nhẹ nhàng tha thiết mang âm hưởng của ca dao dân ca, là
lời ướm hỏi và sự giãi bày nỗi niễm, cảm xúc của cả người đi lẫn người ở lại.
4 câu thơ đầu là lời ướm hỏi chân thành của người Việt Bắc với cán bộ
kháng chiến. Người ở lại lên tiếng trước, như nhạy cảm với hoàn cảnh đổi thay, gợi
nhắc những kỷ niêm gắn bó, những cội nguồn nghĩa tình:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Lời hỏi của người ở lại đã khơi dậy cả một quá vãng đầy kỷ niệm, khơi nguồn cho
dòng mạch nhớ thương tuôn chảy. Như ở trên đã nói, đối đáp ở đây chỉ là một thủ
pháp khơi, gợi bộc lộ tâm trạng và tạo ra sự hô ứng, đồng vọng trong tình cảm của
người ở và người về. 4 câu thơ nhưng lại xuất hiện những 2 câu hỏi: "có nhớ ta? ",
"có nhớ không? ", rồi đến 4 chữ "nhớ" như để diễn tả cảm xúc hết sức dồn dập,
mãnh liệt, da diết. Điệp từ “nhớ” luyến láy trong cấu trúc câu hỏi tu từ đồng dạng,
tràn đầy thương nhớ. Cách xưng hô “mình- ta” như lời bày tỏ tình yêu đôi lứa
trong dân gian. Đại từ “mình” trong dân gian chỉ thể hiện ở cao trào của tình yêu
khi hai con người hoá thân thành một. Gịong thơ như chảy ra từ trong nguồn mạch
của ca dao:
“Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm dải áo, ta đề bài thơ”.
Ở đây, tác giả lấy phép màu nhiệm của tình yêu để cắt nghĩa, lý giải cho mối quan
hệ gắn bó giữa các bộ với nhân dân. Cách dùng những từ ngữ gợi ý niệm về thời
gian “mười lăm năm…” làm cho nỗi nhớ càng như thăm thẳm. “15 năm” là chi tiết
thực chỉ độ dài thời gian từ năm 1940 thời kháng Nhật và tiếp theo là phong trào
Việt Minh, đồng thời cũng là chi tiết gợi cảm nói lên chiều dài gắn bó thương nhớ
vô vàn. Câu thơ mang dáng dấp một câu Kiều - Mười lăm năm bằng thời gian Kim
- Kiều xa cách thương nhớ mong đợi hướng về nhau. Cảm xúc đậm đà chất dân
gian, đậm đà chất Kiều. Âm điệu ngọt ngào, giọng thơ nồng ấm, tình cảm do vậy
dạt dào thiết tha.
Âm điệu ngọt ngào, giọng thơ nồng ấm, tình cảm do vậy dạt dào thiết tha.
Việt Bắc hỏi người về :
“Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”.
Câu hỏi chất chứa tình cảm lưu luyến, bao hàm lời dặn dò kín đáo: đừng quên cội
nguồn Việt Bắc – cội nguồn cách mạng. Cách dùng hình ảnh gợi ý niệm về không
gian “cây…núi”; “sông…nguồn” làm cho nỗi nhớ bồng bềnh, thăm thẳm. Các cặp
hình ảnh “ cây-núi”; “sông-nguồn” cũngvừa mang nghĩa thực, vừa mang nghĩa ảo,
gợi được không gian núi rừng Việt Bắc với những nét riêng, đặc thù. Ngoài ra, nó
còn gợi lên tình cảm chung thuỷ trong mối quan hệ cội nguồn : Cán bộ từ dân mà
ra. Nhớ về nhân dân, như nhớ về cội nguồn. Cách liên tưởng so sánh trong bài thơ
đã nới rộng về không gian của nỗi nhớ, làm cho kỷ niệm cứ được tuôn ra tầng tầng
lớp lớp.
4 câu sau là sự thể hiện tâm trạng bâng khuâng, lưu luyến, bịn rịn của người
đi với người ở lại:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Khoảng cách về không gian có thể xa xôi, nhưng tiếng nói trái tim thì đã đến
được với nhau, tạo ra một nghịch lý: tình cảm thì bâng khuâng day dứt, không
muốn rời xa, nhưng bước chân thì vẫn phải tiếp tục lên đường. Đại từ phiếm chỉ
“ai” tạo nên một cõi mơ hồ, mông lung trong nỗi nhớ như cách bày tỏ trong ca dao:
Ai về ai có nhớ ai… “Tha thiết, Bâng khuâng, bồn chồn” là ba từ láy gợi cảm, diễn
tả trạng thái tâm lí tình cảm buồn vui, luyến tiếc, nhớ thương, chờ mong lẫn lộn
cùng một lúc đã tạo ra hiệu quả nghệ thuật đặc biệt: sự hô ứng đồng vọng của cảm
xúc đã được biểu thị bằng bước chân ngập ngừng, dùng dằng níu kéo. Mười lăm
năm, Việt Bắc cưu mang người cán bộ chiến sĩ, mười lăm năm gian khổ có nhau,
mười lăm năm đầy những kỉ niệm chiến đấu, giờ phải chia tay rời xa để làm nhiệm
vụ mới về tiếp quản tại thủ đô Hà Nội, biết mang theo điều gì, biết lưu lại hình ảnh
nào, tâm trạng của người về do vậy không tránh khỏi là nỗi niềm bâng khuâng khó
tả. “Áo chàm đưa buổi phân li” là một hoán dụ, màu áo chàm, màu áo xanh đen
đặc trưng của người miền núi Việt Bắc - tác giả hướng nỗi nhớ Việt Bắc qua hình
ảnh cụ thể “áo chàm”, chiếc áo, màu áo bình dị, đơn sơ, mộc mạc của vùng quê
nghèo thượng du đồi núi nhưng sâu nặng nghĩa tình, đã góp phần không nhỏ vào
sự nghiệp kháng chiến cứu nước. Tấm áo vốn dành để tượng trưng cho con người,
rưng rưng kỉ niệm. Ở bài thơ khác, Chế Lan Viên đã từng có kỉ niệm sâu sắc với
đồng bào Tây Bắc.
"Con nhớ anh con, người anh du kích
Tấm áo nâu anh mặc đêm công đồn
Tấm áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh gửi lại cho con."
Màu chàm: màu của đất, của thiên nhiên, màu của Việt Bắc. Trong thơ ca đã
không ít những cuộc chia li gắn với những gam màu ấn tượng. Nhà thơ Nguyễn
Mỹ trong những năm kháng chiến chống Mỹ đã viết :
“Đó là cuộc chia li chói ngời sắc đỏ
Tươi như cánh nhạn lai hồng
Tôi nhìn thấy một cô áo đỏ
Tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa
Chồng của cô sắp sửa đi xa
Cùng với nhiều đồng chí nữa
Chiếc áo đỏ rức như than lửa
Cháy không nguôi trước cảnh chia li."
Vậy là, "khi Tổ quốc cần, họ biết sống xa nhau". Cuộc chia li giữa đồng bào với
người chiến sĩ là điều tất yếu. Những người chiến sĩ ra đi lúc này mang nhiệm vụ
mới. Câu thơ “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…” đầy tính chất biểu cảm - biết
nói gì không phải không có điều để giải bày mà chính vì có quá nhiều điều muốn
nói không biết phải nói điều gì. Ba dấu chấm lửng đặt cuối câu là một dấu lặng trên
khuôn nhạc để tình cảm ngân dài, sâu lắng…
Đoạn thơ trên tiêu biểu cho phong cách Tố Hữu: thể thơ lục bát, kết cấu đối
đáp, biện pháp tu từ hoán dụ, điệp từ ngữ, sử dụng từ láy, giọng điệu thơ ngọt ngào
truyền cảm, mang đậm phong vị ca dao dân gian…Cách ngắt nhịp 3/3; 3/3/2 diễn
tả mộc cách thân tình cái ngập ngừng, bịn rịn trong tâm trạng, trong cử chỉ của
người đi kẻ ở. Có thể nói, đây là đoạn thơ hay nhất của bản tình ca Việt Bắc, bởi lẽ
nhà thơ đã miêu tả rất đúng quy luật nỗi nhớ trong tình cảm của con người ở vào
giờ phút chia li : nỗi nhớ nào cũng làm cho thời gian đằng đẵng và không gian
mênh mông. Nhớ nhau, người ta tính từng khoảng cách. Có điều ở đây, chưa chia li
mà đã nhớ. Người còn đấy, cảnh còn đây, mặt đối mặt mà lòng đã bâng khuâng,
lưu luyến. Dù miêu tả tình cảm mang tính chất chính trị, nhưng đoạn thơ không
khô khan, trừu tượng bởi tác giả nắm vững quy luật của tình đời, tình người.
Là người, ai mà chẳng có trong tim mình một miền đất để nhớ để thương.
Bởi “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở – Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”. Có lẽ vì thế mà quê
hương cách mạng Việt Bắc đã không ngần ngại chắp cánh cho hồn thơ Tố Hữu
viết nên thi phẩm cùng tên mà ngày nay chúng ta vẫn nâng niu trên tay như một
hòn ngọc quý. đoạn thơ nói riêng, “Việt Bắc” nói chung đã vượt qua ranh giới của
thời đại, thấm sâu vào hồn của người.

Đề 2: Cảm nhận đoạn thơ:


“- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa.
- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...

Tố Hữu được coi là cây đại thu của làng thơ ca Việt Nam hiện đại. Hồn thơ
Tố Hữu thường nhạy bén với những sự kiện trọng đại trong đời sống dân tộc và
cách mạng. Việt Bắc chính là một bài thơ như vậy, một đỉnh cao của thơ Tố Hữu,
một trong những thi phẩm xuất sắc của nền thơ Việt Nam từ sau Cách mạng tháng
Tám 1945. Mặc dù là đề tài cũ nhưng bài thơ vẫn mới mẻ bởi “Việt Bắc” ra đời
trong cuộc chia tay đặc biệt giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến vào
tháng 10/1954. Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ không mang cảnh trạng của một
cuộc chia ly với nỗi buồn đầy nước mắt, mà là nỗi niềm chia ly trong tình cảm giữa
cán bộ và nhân dân sâu đậm ân tình. Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm sâu nặng về
những ngày xây dựng chiến khu gian khổ mà thắm thiết nghĩa tình, qua đó bày tỏ
tình cảm tha thiết, lòng biết ơn sâu nặng đối với quê hương cách mạng, với nhân
dân, với đất nước, tiêu biểu là qua đoạn thơ sau: (….)
Đọan thơ là sự tiếp nối cảm xúc chia ly "Cầm tay nhau biết nói gì hôm
nay" thật bồn chồn, da diết ở những câu thơ đầu. Trong hoàn cảnh chia ly, nỗi
buồn của kẻ ở, người đi đều dâng trào nhưng người ở lại bao giờ cũng nhạy cảm
hơn với hoàn cảnh đổi thay cho nên nhà thơ đã để cho người ở lại gợi nhắc kỉ niệm
về những ngày xây dựng chiến khu gian khổ mà thắm thiết nghĩa tình.
“Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Nhà thơ đã sử dụng hàng loạt những hình ảnh lấy ra từ thực tế đời sống kháng
chiến như “mưa nguồn”, “suối lũ”, “mây mù”. Câu thơ đã đặc tả được cảnh thiên
nhiên hoang sơ, thời tiết khắc nghiệt nơi núi rừng Việt Bắc, tuy khung cảnh có chút
ảm đạm nhưng vẫn đậm chất trữ tình, thơ mộng, phóng khoáng và hùng vĩ. Ngoài
việc phải đối mặt với sự khắc nghiệt, khó khăn của thiên nhiên, mình và ta còn
phải đối diện với cuộc sống thiếu thốn, đầy gian khổ. “Miếng cơm chấm muối” là
chi tiết thực, phản ánh cuộc sống kháng chiến gian khổ. Hình ảnh hoán dụ mối thù
nặng vai, gợi liên tưởng đến mối thù sâu nặng của nhân dân đối với kẻ thù cướp
nước. Biện pháp tiểu đối giữa hai vế trong câu thơ làm nổi bật giữa một bên là đời
sống thiếu thốn, gian khổ và một bên là là lòng căm thù giặc oằn nặng trên vai.
Cách nói của Tố Hữu rất giàu hình ảnh. Mối thù là một tình cảm trừu tượng không
thể thấy được, sờ được nhưng nói “mối thù nặng vai” thì cái điều trừu tượng đã
được trọng lượng hoá một cách cụ thể. Mối thù càng nặng bao nhiêu thì lòng căm
thù giặc sâu sắc bấy nhiêu. Hai hình ảnh “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng
vai” đối xứng và kết lại với nhau tạo nên một ý nghĩa mới mẻ, sâu xa: mối tình
đoàn kết chiến đấu cùng chung gian khổ, cùng mang một mối thù thực dân là cội
nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng vang dội, chiến công chói lọi. Nghệ thuật
tiểu đối kết hợp với cách ngắt nhịp 2/2/2 – 4/4 đều đặn khiến cho câu thơ trở nên
nhịp nhàng, cân đối, lời thơ càng thêm tha thiết.
Cảm xúc thương nhớ xa vắng thả vào không gian rừng núi, gợi nỗi niềm dào
dạt:
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Tố Hữu đã sử dụng biện pháp hoán dụ “rừng núi nhớ ai”, rừng núi chính là hình
ảnh người ở lại, còn đại từ “ai” chỉ người cán bộ về xuôi, nhằm nhấm mạnh tình
cảm thắm thiết và nỗi nhớ da diết của nhân dân Việt Bắc đối với cán bộ kháng
chiến. Trám bùi và măng mai là hai món ăn thường nhật của bộ đội, của cán bộ
kháng chiến đồng thời cũng là đặc sản của thiên nhiên Việt Bắc. Mình về khiến núi
rừng Việt Bắc bỗng trở nên trống vắng, buồn bã đến lạ thường, ngay cả khi trám
bùi, măng mai mà cũng không ai thu hái.
Nhân dân Việt Bắc vẫn tiếp tục hỏi, nhưng ở đoạn thơ này lời hỏi được nhấn
mạnh hơn, thể hiện cụ thể và rõ ràng hơn:
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh.
Từ láy “hắt hiu” kết hợp với hình ảnh “lau xám” đặc trưng của thiên nhiên Việt
Bắc càng làm nổi bật hơn khung cảnh hoang vắng, đơn sơ, im lặng nơi núi rừng.
Nhưng đối lập với khung cảnh ấy là tấm lòng son, tấm lòng ấm áp và chân thành
của con người Việt Bắc. Chính nghĩa tình của đồng bào Việt Bắc đối với bộ đội,
với Cách Mạng, sự đồng cảm cùng san sẻ mọi gian khổ, niềm vui, cùng gánh vác
nhiệm vụ nặng nề, khó khăn đã làm cho Việt Bắc càng thêm ngời sáng trong tâm
trí nhà thơ nói riêng và trong lòng người đọc nói chung.
Kết lại lời của người ở lại là nỗi nhớ về những địa danh lịch sử:
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.
Chỉ với hai câu thơ, nhưng tác giả đã gửi gắm rất nhiều tình cảm, ẩn chứa rất nhiều
điều. Đặc biệt là ở câu thơ sáu chữ có đến ba từ “mình” quyện vào nhau nghe thật
tha thiết và chân thành. Từ “mình” thứ nhất và thứ hai dùng để chỉ người cán bộ về
xuôi, còn từ “mình” thứ ba ta có thể hiểu theo nhiều cách. Nếu hiểu theo nghĩa
rộng, mình là Việt Bắc- đại từ nhân xưng ngôi thứ hai - thì câu thơ mang hàm ý:
Cán bộ về xuôi, về Hà Nội không biết cán bộ có còn nhớ đến nhân dân Việt Bắc,
nhớ đến người ở lại không? Ở nghĩa hẹp hơn, “mình” chính là cán bộ về xuôi - đại
từ nhân xưng ngôi thứ nhất - khiến cho câu thơ được hiểu theo một nghĩa khác:
Cán bộ về xuôi, cán bộ có nhớ chính mình trong quá khứ hay không? Với cách
hiểu thứ hai này, người ở lại đã đặt ra một vấn đề có tính thời sự, sợ rằng mọi
người sẽ ngủ quên trên chiến thắng, quên đi quá khứ của mình, thậm chí sẽ phản
bội lại lí tưởng cao đẹp của bản thân. Nhà thơ Tố Hữu đã hình dung trước được
diễn biến tâm lý của con người sau chiến thắng, đây quả là câu thơ mang tính trừu
tượng và triết lý sâu sắc.
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.
Ở câu thơ cuối, người ở lại nhắc đến hai địa danh nổi tiếng gắn liền với hai sự kiện
quan trọng đã từng diễn ra ở Việt Bắc. Địa điểm thứ nhất: cây đa Tân Trào - nơi
đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân làm lễ xuất phát. Còn địa điểm thứ hai
là đình Hồng Thái, nơi Bác đã chủ trì cuộc họp quyết định làm cuộc Cách mạng
tháng Tám, chính nhờ quyết định sáng suốt này mà cuộc kháng chiến chống Pháp
đã thành công vang dội. Tố Hữu lồng hai địa danh lịch sử vào trong câu thơ nhằm
nhấn mạnh câu hỏi của người ở lại, đồng thời còn là lời nhắc nhở nhẹ nhàng:
Không biết rằng cán bộ về xuôi có còn nhớ rằng VB chính là cái nôi của Cách
mạng, là nguồn nuôi dưỡng Cách Mạng hay không? Và liệu rằng cán bộ về xuôi có
còn thủy chung, gắn bó với Việt Bắc như xưa không hay là đã thay lòng đổi dạ?
Trước những lời nhắc nhớ của người ở lại, người ra đi cất tiếng khẳng định
tình cảm bền chặt:
- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Cặp đại từ “ta – mình” hoán đổi vị trí thật linh hoạt, khéo léo tự nhiên. Ta – mình,
mình – ta cứ quấn quýt, hòa quyện, thật nồng nàn, tuy hai mà một. Nếu ở câu thơ
trên, nghĩa tình khăng khít giữa đồng bào cán bộ được thể hiện kín đáo qua nghệ
thuật hoán đổi cặp đại từ “ta – mình” thì đến câu thơ “lòng ta sau trước mặn mà
đinh ninh” lại khẳng định một cách rõ ràng. Câu thơ vang lên như một lời thề son
sắt, thủy chung. Là trước sau như một, không thay đổi theo thời gian, mặn mà,
nồng nàn, thắm thiết, sâu đậm. Dù cuộc đời có thăng trầm đảo điên, đổi trắng thay
đen, lòng ta vẫn không thay đổi. Tình nghĩa cách mạng giữa cán bộ kháng chiến
với đồng bào miền Bắc đã nhập sâu vào truyền thống thủy chung cao đẹp của
người Việt:
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Tào Khê nước chảy vẫn còn chơ chơ
Người ra đi đã khẳng định “mình đi mình lại nhớ mình” là để trả lời cho câu
hỏi đặt ra của đồng bào Việt Bắc ở trên “Mình đi mình có nhớ mình”. Chỉ thay chữ
“có” thành chữ “lại” đã đáp trọn tình ý sâu xa mà đồng bào đã nhắn gửi. Đây là lời
khẳng định: người cán bộ kháng chiến vẫn luôn nhớ đến con người Việt Bắc, nhớ
những ngày sống ở chiến khu Việt Bắc. Nghĩa tình Cách mạng con được cán bộ
miên xuôi khẳng định qua hình ảnh so sánh đậm màu sắc dân gian: Nguồn bao
nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu. Nước trong nguồn bao lao, vô tận, không bao
giờ vơi cạn. Người Việt xưa dùng hình ảnh nước trong nguồn làm biểu tượng tình
mẫu tử thiêng liêng :
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Trong tâm thức của người Việt Nam, nước nguồn được chảy ra vì công lao, tình
nghĩa vô bờ bến của người mẹ, tuôn chảy bất tận không bao giờ cạn. Bao nhiêu
nước thì bấy nhiêu nghĩa tình sâu nặng, như nghĩa mẹ tình cha. “Bao nhiêu” được
so sánh với “bấy nhiêu”. Đó là cách so sánh giữa một sự vô tận với một sự vô tận.
Đọc câu thơ, ta có cảm giác dường như đó không còn là những dòng chữ im lặng
nữa mà là tiếng lòng được thốt lên từ một trái tim tràn đầy xúc động của kẻ ở
người về trong giây phút li biệt.
Chỉ với mười bốn câu thơ của bài VB, Tố Hữu đã đưa ta vào thế giới của
hoài niệm và kỉ niệm, vào một thế giới êm ái,ngọt ngào, du dương của tình nghĩa
Cách Mạng. Nhà thơ đã kết hợp khéo léo hai cụm từ đối lập mình đi - mình về.
Thông thường, đi và về là chỉ hai hướng trái ngược nhau, nhưng ở trong khổ thơ
này thì mình đi - mình về đều chỉ một hướng là về xuôi, về Hà Nội. Điệp từ “có
nhớ” lặp đi lặp lại mang nhiều sắc thái ý nghĩa: nhớ là nỗi nhớ, là ghi nhớ, là nhắc
nhớ. Cái độc đáo trong đoạn thơ là chất nhạc. Chính nhạc điệu làm cho kỉ niệm trở
nên ngân nga réo rắt, thấm sâu vào tâm trí người đọc. Với lối điệp cấu trúc kết hợp
nhịp thơ 2/2/2 – 4/4 đều đặn, khiến cho âm điệu thơ trở nên nhịp nhàng, cân xứng
giống như nhịp chao của võng đong đưa. Lời thơ Tố Hữu vì thế vừa phảng phất
màu sắc cổ điển như những câu Kiều, vừa bình dị gần gũi thân quen như những
câu ca dao, dân ca.
Đoạn thơ mang đậm phong cách trữ tình – chính trị của Tố Hữu. Nhà thơ nói
về vấn đề lớn lao của dân tộc nhưng được diễn tả qua ngôn ngữ mềm mại, giản dị,
nên thơ, nên nhạc gây ấn tượng ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Là người,
ai mà chẳng có trong tim mình một miền đất để nhớ để thương. Bởi “Khi ta ở chỉ là
nơi đất ở – Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”. Có lẽ vì thế mà quê hương cách mạng
Việt Bắc đã không ngần ngại chắp cánh cho hồn thơ Tố Hữu viết nên thi phẩm
cùng tên mà ngày nay chúng ta vẫn nâng niu trên tay như một hòn ngọc quý. đoạn
thơ nói riêng, “Việt Bắc” nói chung đã vượt qua ranh giới của thời đại, thấm sâu
vào hồn của người.

Đề 3: Cảm nhận về đoạn thơ sau đây trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nên cối đều đều suối xa…”
Tố Hữu được coi là cây đại thu của làng thơ ca Việt Nam hiện đại. Hồn thơ
Tố Hữu thường nhạy bén với những sự kiện trọng đại trong đời sống dân tộc và
cách mạng. Việt Bắc chính là một bài thơ như vậy, một đỉnh cao của thơ Tố Hữu,
một trong những thi phẩm xuất sắc của nền thơ Việt Nam từ sau Cách mạng tháng
Tám 1945. Mặc dù là đề tài cũ nhưng bài thơ vẫn mới mẻ bởi “Việt Bắc” ra đời
trong cuộc chia tay đặc biệt giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến vào
tháng 10/1954. Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ không mang cảnh trạng của một
cuộc chia ly với nỗi buồn đầy nước mắt, mà là nỗi niềm chia ly trong tình cảm giữa
cán bộ và nhân dân sâu đậm ân tình. Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm sâu nặng về
những ngày xây dựng chiến khu gian khổ mà thắm thiết nghĩa tình, qua đó bày tỏ
tình cảm tha thiết, lòng biết ơn sâu nặng đối với quê hương cách mạng, với nhân
dân, với đất nước, tiêu biểu là qua đoạn thơ sau: (…)
Đoạn thơ trên nằm ở khổ ba của phần 1 bài thơ. Đoạn thơ là lời của người
cán bộ nói với nhân dân Việt Bắc. Mỗi lời thơ viết ra là lời của ruột gan, của sâu
thẳm nghĩa tình. Đó là những kỷ niệm kháng chiến gợi lên những ký ức khó phai
mờ về Việt Bắc về những năm tháng đã qua. Qua đó khẳng định, Việt Bắc là chiến
khu an toàn, nhân dân ân tình, thủy chung, hết lòng với cách mạng và kháng chiến.
Một nỗi nhớ da diết, không nguôi được tác gỉa so sánh thật lạ:
“Nhớ gì như nhớ người yêu”
Tố Hữu đã lấy thước đo giá trị của nỗi nhớ trong tình yêu để cắt nghĩa, lý giải cho
tình cảm của cán bộ đối với nhân dân. Không phải là nỗi nhớ của ý thức, của nghĩa
vụ mà nhớ bằng cả trái tim yêu thương chân thành và da diết. Một dòng thơ mà hai
lần chữ “nhớ” được lặp lại. Nỗi nhớ cứ lơ lửng ám ảnh mãi tâm trí người đi đến
mức không thể kìm nén được. Lời thơ buông ra với ngữ điệu hết sức đặc biệt, nửa
như nghi vấn, nửa như cảm thán tạo ấn tượng, ám ảnh người đọc. “Như nhớ người
yêu” là hình ảnh so sánh, ví von thật lãng mạn, tình tứ. Nỗi nhớ Việt Bắc được cảm
nhận như nỗi nhớ thương người yêu. Có khi ngẩn ngơ, ngơ ngẩn; có khi bồn chồn,
bối rối, bổi hổi, bồi hồi. Khi da diết khắc khoải, khi lại đau đáu thăm thẳm. Nỗi
nhớ khi chia xa Việt Bắc phải chăng hàm chứa mọi cung bậc cảm xúc ấy. Nguyễn
Đình Thi trong bài thơ Nhớ cũng đã từng viết:
Anh yêu em như anh yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần
Chảy về trong nỗi nhớ niềm thương là cảnh sắc Việt Bắc thơ mộng hiền hòa:
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Những câu thơ như một bức họa gợi cảm về cảnh rừng Việt Bắc thơ mộng,
hữu tình. Có đêm trăng huyền ảo, mảnh trăng lấp ló nơi đầu núi, có những chiều
tỏa nắng trên nương và hình ảnh những nếp nhà, bản làng thấp thoáng trong sương
khói bồng bềnh. “Nhớ từng” là nỗi nhớ gắn với từng chi tiết, từng hình ảnh, dù chỉ
là nhỏ bé, đơn sơ. Chỉ khi nào con người thực sự gắn bó, yêu thương với một miền
đất thì mới có được nỗi nhớ chân thành, sâu nặng đến vậy. Không miêu tả chi tiết,
Tố Hữu chỉ chấm phá, khơi gợi. Tuy nhiên, với những người trong cuộc, chỉ chừng
ấy thôi cũng đủ bồi hồi, xao xuyến biết bao. Viết về núi rừng Quãng Dung và Chế
Lan Viên cũng có cảm nhận giống Tố Hữu khi khắc họa hình ảnh bức tranh đầy
sương khói:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” (Tây Tiến)
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ” (Tiếng hát con tàu)
Có điều sương khói ở đây không gợi ra cảm giác âm u, lạnh lẽo mà nó khiến con
người cảm thấy ấm áp, gần gũi, thân thương bởi sương khói xuất hiện với hình ảnh
bếp lửa và người thương:
“Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.”
Hình ảnh thơ gợi tả tinh tế sự tần tảo, đảm đang, chịu thương, chịu khó của những
cô gái nuôi quân nơi chiến khu Việt Bắc. Không quản khó nhọc gian nan, những
người phụ nữ Việt Bắc vẫn sớm hôm cần mẫn nuôi dấu cán bộ. Hình ảnh bếp lửa
gợi những buổi đoàn tụ ấm cùng và nghĩa tình quân dân nồng đượm. Tình quân
dân, cách mạng mà mang không khí ấm áp, yêu thương như tình cảm gia đình. Hai
chữ “Người thương” chứa đựng bao ân tình. Đây có thể là một cô gái mà nhà thơ
hầm thương trộm nhớ, nhưng cũng có thể hiểu rộng hơn là những người dân ở Việt
Bắc. Phải chăng tác giả đã xem nơi đây như là gia đình thứ hai của mình.Vần chân
“sương” và “thương” làm cho giọng điệu câu văn trở nên da diết, diễn tả một nỗi
nhớ bịnh rịnh, lưu luyến, không muốn rời xa.
Vẫn tiếp tục là nỗi nhớ, nhưng dường như ngày càng sâu đậm hơn với những
tên gọi địa danh gắn liền với quá khứ cách mạng mà tác giả từng trãi qua:
“Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”
Những đồi tre bát ngát, những dòng suối mát trong, con sông hiền hòa, tất cả cứ in
sâu trong nỗi nhớ người về. Nhắc đến dòng sông, đồi núi, rừng nứa, bờ tre là dưng
dưng bao kỉ niệm, đong đầy bao yêu thương. Những cái tên: Ngòi Thia, sông Đáy,
suối Lê có lẽ không đơn thuần chỉ là những địa danh mà còn ẩn dấu bao kỉ niệm
cảm xúc.
Bốn dòng thơ là lời người ra đi đáp lại nghĩa tình của người ở lại. Giọng thơ
tha thiết, chân thành gợi lên bao nỗi nhớ về những ngày khó khăn gian khổ của ta
và mình.
“Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”
Nếu người ở lại hỏi “mình đi có nhớ những ngày” thì người ra đi đáp lại: “Ta đi ta
nhớ những ngày”. “Những ngày” ở đây là cách nói chỉ thời gian gắn bó nhớ
thương vô vàn giữa người đi kẻ ở. Đó là nỗi nhớ về “mười lăm năm ấy thiết tha
mặn nồng” với bao ân tình cao đẹp. Mười lăm năm ta đã cùng mình gánh vác giang
sơn, chịu đựng bao gian khổ, thiếu thốn; đã cùng nhau đi qua bao biến cố; mười
lăm năm ấy giờ đã thành máu thịt trong nhau rồi. Bốn chữ “mình đây, ta đó” gợi
lên mối quan hệ gắn bó khăng khít. Chữ “đây – đó” chỉ hai con người liền kề, gần
gũi, cùng nhau kề vai sát cánh. Thành ngữ “đắng cay ngọt bùi” giàu sức gợi.
“Đắng cay ngọt bùi” là bốn tính từ chỉ bốn dư vị, bốn giai âm của cuộc sống.
“Đắng cay ngọt bùi” cũng là ẩn dụ để nói đến những thăng trầm trong cuộc đời mà
ta và mình đã cùng nhau trải qua. “Đắng cay” là để chỉ những gian khổ, mất mát,
hi sinh; “ngọt bùi” chỉ niềm vui, hạnh phúc, vinh quang. Ý thơ thể hiện ý nghĩa sâu
xa: ta đã cùng mình trải qua những thăng trầm, trải qua bao gian khó, bao buồn vui,
ngọt bùi cay đắng, cùng nhau đi qua vinh nhục… nên đã thấu hiểu, đồng cảm với
nhau. Từ đây ta và mình đã mãi mãi trở thành tri kỷ.
Nghĩa tình ấy còn được Tố Hữu thể hiện thật sâu sắc qua ý thơ:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”
Các hình ảnh: “chia củ sắn”, “bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui đắp cùng” kết hợp ba
động từ “chia-sẻ- đắp” đã cụ thể hoá tình đoàn kết, hữu ái giai cấp, gắn bó sâu sắc,
chân thành giữa cách mạng và nhân dân. Đó cũng là những động từ bộc lộ tình
cảm đồng cam cộng khổ của Việt Bắc và cách mạng. Nhớ những ngày đói kém, ta
cùng mình chia bùi sẻ ngọt: đói ăn ta có củ sắn chia đôi, bát cơm sẻ nửa; nhớ mùa
đông lạnh giá, ta đã cùng mình đắp chung một mảnh chăn sui. Thế mà cùng nhau
đi qua bao gian khó. Đó là tình cảm thuỷ chung, gắn bó được chưng cất qua thời
gian dài mà ta cùng mình chung lưng đấu cật, có phúc cùng hưởng, có hoạ cùng
chia. Tình cảm ấy là muôn đời không thời gian nào có thể làm cho phai mờ.
Nỗi nhớ trải dài qua khắp núi rừng Việt Bắc rộng lớn, để rồi quy tụ về
những kỷ niệm. Trước
hết là nhớ người mẹ nuôi Việt Bắc đã hết lòng vì cán bộ chiến sĩ:
“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô”
Hình ảnh “người mẹ nắng cháy lưng” gợi cho người đọc liên tưởng đến thiên nhiên
Việt Bắc vô cùng khắc nghiệt. Nắng thì đến cháy lưng, mà rét thì như cắt da cắt
thịt. Hai chữ “cháy lưng” nhói lên nỗi xót thương vô hạn của tác giả đối với những
bà mẹ Việt Bắc. Các động từ “địu con”, “bẻ từng” cũng gợi lên sự tần tảo, cần cù
lao động, vất vả gian khổ của bà mẹ nuôi trong kháng chiến đã đùm bọc, cưu mang
chiến sĩ, cán bộ cách mạng. Người mẹ không quản ngại thời tiết khắc nghiệt, dữ
dội “nắng cháy lưng” vẫn cần mẫn vừa địu con vừa lao động. Hai chữ “bẻ từng”
gợi ra dáng vẻ người mẹ đang cặm cụi lao động, mẹ đang chắt chiu, dành dụm
từng hạt bắp làm lương thực nuôi quân. Đó là những ân tình không thể nào quên
trong ký ức của người về. Nguyễn Khoa Điềm cũng đã từng có những câu thơ đầy
cảm động:
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka-Lưi
Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ
Em ngủ ngoan em đừng làm mẹ mỏi
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng.
Hai thời đại, hai vùng đất nhưng hình ảnh những người mẹ đều gặp nhau ở một
điểm, họ đã hòa làm một tình yêu thương con với tình yêu đất nước. Họ là hiện
thân cho vẻ đẹp của những người phụ nữ Việt Nam.
Ở những câu thơ tiếp theo, tác giả đã sử dụng phép liệt kê để làm sống dậy
những kỷ niệm, những sinh hoạt ở Việt Bắc. Điệp ngữ “nhớ sao” đứng đầu mỗi
câu thơ khiến cho nỗi nhớ như mênh mang, như trải dài vô tận. Đó là kỷ niệm với
lớp học bình dân học vụ – nơi cán bộ dạy chữ cho nhân dân vùng cao, là những
đêm liên hoan văn nghệ giữa núi rừng đầy náo nức, tưng bừng, là những ngày
tháng hoạt động cách mạng:
“Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo”.
Những ngày tháng hoạt động cách mạng đầy gian nan, vất vả nhưng tinh thần thì
luôn vui vẻ. Câu thơ “gian nan đời vẫn ca vang núi đèo” có sự tương phản giữa đời
sống vật chất gian khổ và tinh thần luôn lạc quan, yêu đời. Đến cả những âm thanh
của đời thường cũng đi vào nỗi nhớ của người ra đi khiến cho mỗi chiều, mỗi đêm
khuya càng thêm thao thức:
“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nên cối đều đều suối xa”.
Hai câu thơ cuối gợi nhớ vẻ đẹp thanh bình của núi rừng Việt Bắc. Tiếng mõ rừng
chiều gợi hình ảnh từng đàn trâu, đàn bò từ rừng núi thong thả trở về bản làng,
tiếng mõ vang vọng, rộn ràng cả buổi chiều sơn cước. Mỗi đêm khuya thanh vắng,
tiếng chày giã gạo từ suối xa vẫn đều đều vỗ về trong giấc ngủ.
Đoạn thơ đã khơi dậy kỷ niệm mười lăm năm gắn bó keo sơn bền chặt với
bao vất vả gian lao thiếu thốn nhưng luôn đầy lạc quan, tin yêu. Qua đó người về
cũng tự nhắc nhở mình đừng quên cội quên nguồn. Đoạn thơ tiêu biểu cho phong
cách thơ Tố Hữu: phong cách trữ tình chính trị. Câu chuyện chính trị, chuyện chia
tay lịch sử giữa nhân dân và cách mạng đã được lãng mạn hóa thành cuộc chia tay
của “ta” và “mình” đang tạm xa nhau đi làm nghĩa vụ. Phong cách thơ Tố Hữu còn
được thể hiện qua tính dân tộc trong nội dung và hình thức thể hiện. Về nội dung,
đoạn thơ để lại vẻ đẹp của truyền thống dân tộc với đạo lý “uống nước nhớ nguồn”.
Về hình thức nghệ thuật, thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào một số yếu tố
nghệ thuật đã được Tố Hữu vận dụng một cách nhuần nhuyễn và sáng tạo: thể thơ
lục bát truyền thống với âm điệu ngọt ngào, sâu lắng, cách miêu tả giàu hình ảnh,
lối hát đối đáp tạo ra giai điệu phong phú cho bài thơ, nhiều biện pháp tu từ được
tác giả vận dụng khéo léo: câu hỏi tu từ, điệp từ, điệp ngữ, liệt kê. Tất cả đã hòa
quyện lại và chắp cánh, nâng đỡ cho ngòi bút của Tố Hữu thăng hoa cùng Việt
Bắc.
Là người, ai mà chẳng có trong tim mình một miền đất để nhớ để thương.
Bởi “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở – Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”. Có lẽ vì thế mà quê
hương cách mạng Việt Bắc đã không ngần ngại chắp cánh cho hồn thơ Tố Hữu
viết nên thi phẩm cùng tên mà ngày nay chúng ta vẫn nâng niu trên tay như một
hòn ngọc quý. đoạn thơ nói riêng, “Việt Bắc” nói chung đã vượt qua ranh giới của
thời đại, thấm sâu vào hồn của người.

Đề 4: Cảm nhận bức tranh tứ bình. NX tính dân tộc trong thơ Tố Hữu.
Tố Hữu được coi là cây đại thu của làng thơ ca Việt Nam hiện đại. Hồn thơ
Tố Hữu thường nhạy bén với những sự kiện trọng đại trong đời sống dân tộc và
cách mạng. Việt Bắc chính là một bài thơ như vậy, một đỉnh cao của thơ Tố Hữu,
một trong những thi phẩm xuất sắc của nền thơ Việt Nam từ sau Cách mạng tháng
Tám 1945. Mặc dù là đề tài cũ nhưng bài thơ vẫn mới mẻ bởi “Việt Bắc” ra đời
trong cuộc chia tay đặc biệt giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến vào
tháng 10/1954. Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ không mang cảnh trạng của một
cuộc chia ly với nỗi buồn đầy nước mắt, mà là nỗi niềm chia ly trong tình cảm giữa
cán bộ và nhân dân sâu đậm ân tình. Nhận xét về bài thơ có ý kiến cho rằng tác
phẩm mang tính dân tộc đậm đà, thấm nhuần trong từng câu, từng chữ. Điều đó
được thể hiện rõ nét qua đoạn thơ:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.
Quả không sai khi nói rằng với người làm thơ, bài thơ là một phương tiện
quan trọng biểu đạt tư tưởng, tình cảm. Chỉ có những cảm xúc mãnh liệt, chân thật
mới là cơ sở để xây dựng nên một tác phẩm nghệ thuật chân chính. Có lẽ đây chính
là lí do vì sao các tác phẩm của ông luôn có tính dân tộc đậm đà- một trong những
nét nổi bật của phong cách thơ Tố Hữu. Nếu ở đoạn thơ trước, nhà thơ tái hiện lại
khung cảnh chia tay bịn rịn của kẻ ở người đi đều “cầm tay nhau biết nói gì hôm
nay” với hình ảnh của thiên nhiên và con người Việt Bắc hiện lên trong tâm tưởng
với cảnh “mưa nguồn suối lũ”, “trăng lên đầu núi”, “nắng chiều lưng nương” thì
đến với mười câu thơ bức tranh tứ bình trong cái nhìn của Tố Hữu, con người đã
trở nên đẹp hơn bao giờ hết khi hòa mình vào với thiên nhiên.
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”
Vẫn là kết cấu đối đáp “ta- mình” quen thuộc, câu hỏi tu từ “Ta về, mình có nhớ
ta”, hỏi như không để hỏi, hỏi như là duyên cớ đề nhà thơ nhớ về thiên nhiên và
con người Việt Bắc. Nỗi nhớ càng được tô đậm hơn qua động từ “nhớ” được điệp
lại hai lần. “Hoa” là biểu tượng cho thiên nhiên Việt Bắc, người là con người Việt
Bắc.
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Cả không gian Việt Bắc như được tắm trong màu xanh của rừng già.Chốc
chốc lại xuất hiện màu đỏ tươi của hoa chuối.Với nghệ thuật điểm xuyết, Tố hữu
đã tạo nên điểm nhấn cho bức tranh mùa đông. Tính từ đỏ đã làm bừng sáng cả bức
tranh, tạo nên cảm giác ấm áp trong lòng người đọc. Tuy là bức tranh mùa đông
nhưng không hề có cảm giác lạnh lẽo. Trong khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ ấy,
con người đã xuất hiện trong tư thế “Đèo cao nắng ánh dao già thắt lưng”. Đó là
hình ảnh thể hiện sự khỏe khoắn trong công việc, trong lao động của con người.
Giữa bạt ngàn “rừng xanh hoa chuối”, con người hiện lên không hề nhỏ bé mà
trong tư thế chủ động, đó là tư thế đẹp nhất, làm chủ thiên nhiên, vũ trụ.
Nếu bức tranh mùa đông được định vị về không gian thì bức tranh mùa xuân
lại được định vị về thời gian “Ngày xuân”.
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Giữa không khí xuân tràn ngập là sắc trắng của hoa mơ. Cách kết hợp khéo léo
giữa anh, động và tính từ “mơ nở trắng” đã gợi lên trước mắt người đọc một không
gian tinh khiết. Có lẽ đọc đến đây, nhiều người sẽ đặt ra câu hỏi tại sao tác giả lại
chọn hoa mơ mà không phải là hoa nào khác? Phải chăng là bởi hoa mơ chính là
biểu tượng cho mùa xuân nơi đây và tính dân tộc trong tác phẩm cũng được hiện
lên từ đó. Trong một bài thơ khác Tố Hữu cũng đã từng bắt gặp vẻ đẹp này:
“Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt
Trắng rừng biên giới nở hoa mở”
Không còn là sự khỏe khoắn đứng ở đèo cao, con người trong bức tranh xuân lại
được miêu tả với vẻ nhịp nhàng “chuốt từng sợi giang” trong công việc đan nón.
Động từ chuốt đã diễn tả sự nhanh chóng nhưng vô cùng cẩn thận và tỉ mỉ của con
người lao động Việt Bắc. Đối với nhiều người thì đây chỉ là một hình ảnh nhỏ nhặt
không đáng nhắc đến nhưng đối với Tố Hữu đã gắn bó suốt “mười lăm năm ấy
thiết tha mặn nồng” thì hình ảnh của con người đang lặng thầm “chuốt từng sợi
giang” đã in sâu, khắc ghi trong tâm khảm của nhà thơ.
Trong tâm trí của Tố Hữu, Việt Bắc còn được hiện lên qua khung cảnh lung
linh rực rỡ của mùa hè:
“Ve kêu, rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em giá hái măng một mình”
Bức tranh mùa hè được gợi nhắc từ âm thanh của tiếng ve kêu cùng với sắc vàng
của hoa phách.Khi ve cất tiếng cũng là lúc rừng phách lập tức trổ hoa. Động từ
“đổ” đã tạo ra phản ứng dây truyền diễn tả sự chuyển đổi nhanh chóng, đột ngột
của không gian.Cả không gian như trở nên lung linh, rực rỡ sắc màu. Cách cảm
nhận này của Tố Hữu ta cũng đã từng bắt gặp trong bài “Thơ duyên” của Xuân
Diệu: “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá”. Trong không gian ấy là hình ảnh của “cô
em gái hái măng một mình”. Thiếu nữ hiện lên với công việc hái măng một mình
nhưng không hề đơn độc. Nếu trong thơ Xuân Diệu, hình ảnh cô thiếu nữ hiện lên
với nét buồn, cô đơn:
“Thiếu nữ ít nhiều buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”
Thì trong Việt Bắc của Tố Hữu, hình ảnh của cô thiếu nữ ấy lại vôc tươi trẻ, tràn
đầy sức sống. Và chính hoạt động trong lao động của cô đã làm sáng rực cả bức
tranh hè.
Kết thúc bức tranh tứ bình về bốn mùa là bức tranh thu trong trẻo dịu mát
được gợi lên cả về không gian lẫn thời gian.
“Rừng thu trăng rọi hòa bình”
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.
Không gian rừng thu, cùng thời gian trăng rọi đã mở ra trước mắt ta một khung
cảnh yên bình. Đó đây đều tràn ngập ánh trăng, trăng tắm mình trên dòng sông, lót
vàng trên cành lá, rọi vào những ngôi nhà. Giữa không gian trăng ấy, vọng lại “
“Nhớ ai” không xác định, tiếng hát ấy là của ai? Tiếng hát ân tình đầy trong trẻo ấy
có thể là tiếng hát của những người ở lại để gợi nhắc tình nghĩa của những năm
tháng gắn bó, cũng có thể là tiếng hát thể hiện niềm tin vào tương lai. Trình tự sắp
xếp bức tranh tứ bình này khác với thứ tự thông thường. Bắt đầu từ mùa đông và
kết thúc bằng mùa thu với hình ảnh ánh trăng hòa bình êm dịu. Sự sắp xếp này
phản ảnh tư duy nghệ thuật luôn bám sát xu hướng vận động của cách mạng, luôn
hướng về tương lai, hòa bình và tự do.
Tính dân tộc được hiểu là một đặc tính nhưng đồng thời cũng là thước đo giá
trị của một tác phẩm văn học. Những tác phẩm văn chương lớn từ trước cho đến
nay vừa mang tính nhân loại, vừa mang tính dân tộc sâu sắc. Trong văn học, tính
dân tộc được thể hiện ở cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Về nội dung, một tác
phẩm mang tính dân tộc phải thể hiện được những vấn đề nóng bỏng liên quan đến
vận mệnh dân tộc, thể hiện được khát vọng, tình cảm và ý chí của một dân tộc.
“Việt Bắc” ra đời trong cuộc chia tay đặc biệt giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ
kháng chiến vào tháng 10/1954. Bài thơ vừa là sự tổng kết một giai đoạn lịch sử,
vừa thể hiện niềm hy vọng, niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước trong
thời kỳ mới. Tính dân tộc được thể hiện ở đoạn trích trên chính là sự tái hiện một
cách chân thực cảnh sắc, phong cảnh quê hương, đất nước và những nét đẹp truyền
thống của con người Việt Nam. Tính dân tộc trong tác phẩm “Việt Bắc” nói chung
và đoạn trích Việt Bắc nói riêng còn được thể hiện ở thể thơ lục bát mang tính
thuần việt, kết cấu đối đáp quen thuộc minh- ta trong ca dao, những hình ảnh quen
thuộc mái đình, cây đa, qua những tâm tình thủ thỉ, nhẹ nhàng của Tố Hữu…Tất cả
đã khiến cho Việt Bắc mang đậm tính dân tộc.
Thơ là tiếng hát của trái tim, là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại. Chính
những cảm xúc chân thật, cùng tính dân tộc đậm đà khiến Việt Bắc nói chung và
đoạn thơ nói riêng dù sáng tác đã lâu nhưng vẫn không bị lớp bụi thời gian phủ
mờ. Tác phẩm đã kết thúc nhưng mỗi lần đọc lại trong lòng ta như thấy được hình
ảnh về thiên nhiên và con người Việt Bắc đầy gợi cảm, chân thật. Và thông qua
đoạn thơ nói riêng, tác phẩm nói chung, Tố Hữu muốn nhắc nhở bạn đọc hãy luôn
cố gắng xây dựng và cống hiến để đất nước trở nên tốt đẹp hơn.

Đề 5: Cảm nhận đoạn thơ


“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà...
Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Đoạn trích nằm từ câu 53 đến 74 trong bài thơ Việt Bắc. Đoạn thơ đã tái
hiện lại nỗi nhớ về cuộc kháng chiến gian khổ mà hào hùng của dân tộc cho đến
ngày toàn thắng, ca ngợi vẻ đẹp của đoàn quân kháng chiến, khẳng định vai trò của
núi rừng Việt Bắc trong cuộc kháng chiến của dân tộc.
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mở đầu đoạn thơ là từ “nhớ” gợi lên ấn tượng sâu đậm khó phai trong lòng
nhà thơ về cuộc kháng chiến của dân tộc. Giọng điệu của đoạn thơ có sự thay đổi
để phù hợp với cảm xúc của nhà thơ và đối tượng miêu tả. Từ giọng tâm tình, thủ
thỉ, tha thiết chuyển sang giọng điệu mạnh mẽ, dồn dập, tạo âm hưởng hào hùng,
khắc họa khí thế cả thiên nhiên núi rừng ra trận. Hình ảnh núi rừng được nhà thơ
tập trung khắc họa một cách cụ thể, chân thực. Chỉ với bốn câu thơ, chữ “rừng” và
“núi” được lặp đi lặp lại đến năm lần, nó rải kín câu thơ, rải kín đất Việt Bắc tạo
lên thế hiểm của trường thành của lũy thép vây bọc quân thù. Ở cặp lục bát thứ hai
ta sẽ thấy rõ hơn vai trò của thiên nhiên núi rừng Việt Bắc. Núi thì giăng thành lũy,
rừng như một người mẹ che chở bao bọc cho bộ đội, rừng trở nên kiên quyết đến
dữ dằn cùng với việc vây riết quân thù.
Chiến khu Việt Bắc với thiên nhiên khắc nghiệt, vừa hùng tráng vừa thơ
mộng ở cặp lục bát tiếp theo là hình ảnh thiên nhiên, đất trời Việt Bắc trong giai
đoạn kháng chiến.
“Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng”
Trời đất bị chìm lấp trong cả màn sương giăng khắp nơi, khiên cho khung cảnh
chiến đấu trở nên uy linh và không kém phần lãng mạn. Những dù giữa một biển
sương mù khó khăn, con người vẫn không mất đi vẻ đẹp lãng mạn của lòng mình.
Với hình ảnh chọn lọc “mênh mông bốn mặt sương mù”, chiến khu mang nét đặc
trưng rộng lớn, đồng thời thể hiện sự phát triển của kháng chiến, chiến khu giải
phóng được mở rộng hơn. Cùng với cụm từ “Đất trời ta cả” khẳng định quyền làm
chủ vùng giải phóng. Cả vũ trụ, núi rừng Việt Bắc giờ đây đang cùng nhìn về một
hướng, đang hướng về cuộc chiến đấu, hướng về sứ mệnh bảo vệ quê hương đất
nước yêu dấu của mình thầm thể hiện tinh thần đoàn kết của dân tộc trong cuộc
kháng chiến chống Pháp.
Sức mạnh của khối đại đoàn kết daan tộc đã làm nên những chiến công vang
dội, hàng loạt những địa danh vang lên, mỗi nơi đều gắn với một thắng lợi vinh
quang.
“Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ Phố Ràng
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà.”
Bằng câu hỏi tu từ, đại từ phiếm chỉ “ai”, tác giả thể hiện niềm vui to lớn trước
chiến thắng vẻ vang của dân tộc. Sau đó là câu trả lời: “Ta về ta nhớ” vừa là câu trả
lời, đồng thời cũng là câu nói khẳng định ẩn chứa biết bao niềm tự hào không nhỏ.
Bằng phép liệt kê các địa danh ở Việt Bắc gắn liền với những sự kiện quan trọng
như Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, Phố Ràng, Cao –Lạng, Nhị Hà là nơi đã diễn
ra các trận hồi đầu cuộc kháng chiến chống pháp. Đó là những chiến công tiêu biểu
góp phần quan trọng, mang tính quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến. Chiến
thắng nào mà chẳng phải trả giá. Có lẽ họ không những nhớ đến những chiến công
oanh liệt như thế mà còn nhớ về những kỉ niệm buồn bên đồng đội của mình, có
những người đã ra đi vĩnh viễn trong nước mắt và sự xót thương của cả dân tộc.
Qua đó nhà thơ như cũng muốn thắp lên nén tâm hương để tưởng nhớ những người
đã ngã xuống vì nghĩa lớn vì sự nghiệp của dân tộc, của đất nước.
Ở những câu thơ tiếp theo, chỉ bằng vài nét phác họa, Tố Hữu đã ghi lại cảnh
tượng hào hùng, khí thế ra trận của cuộc kháng chiến chống Pháp. Đoạn thơ tràn
đầy âm hưởng anh hùng ca mang dáng dấp của một sử thi hiện đại.
Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Hình ảnh những con đường Việt Bắc khiến người đọc hình dung ra một không gian
rộng lớn.. Hai từ “của ta thể hiện rõ ý thức làm chủ, thái độ kiêu hãnh, tự hào của
người chiến sĩ kháng chiến đối với quê hương, đất nước. Đó là con đường ra trận,
con đường cách mạng, con đường đấu tranh cho chân lý. Từ láy “đêm đêm” vừa
gợi thời điểm của cuộc hành quân, vừa cho thấy tính chất trường kì của cuộc kháng
chiến ẩn sau là tinh thần chiến đấu bền bỉ, dẻo dai của nhân dân. Nghệ thuật tách từ
“trùng điệp” tạo thành cụm từ láy “điệp điệp trùng trùng” nhằm tô đậm ấn tượng
về một đội quân hùng hậu với sức mạnh như vũ bão. Khí thế ra trận bừng bừng của
quân ta được miêu tả hết sức chân thực bằng những hình ảnh gân guốc, khỏe
khoắn, bằng những từ tượng hình, tượng thanh chính xác; bằng một so sánh độc
đáo: Đêm đêm rầm rập như là đất rung. Nhà thơ đã tái dựng lại bức tranh hành
quân với bước chân mạnh mẽ làm rung chuyển cả núi rừng, đó là sức mạnh của cả
một tập thể lớn, một ý chí lớn. Không khí của câu thơ khiến ta hồi tưởng lại hào
khí Đông A ngút trời trong Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão:
“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”
(Ra quân khí mạnh nuốt trôi trâu)
Hình ảnh “Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” vừa có ý nghĩa tả thực vừa
có ý nghĩa khái quát tượng trưng. Trước hết nó diễn tả đoàn quân đi trong đêm, đầu
súng lấp lánh ánh sao trời. Nhưng đó cũng là lấp lánh ánh sao lý tưởng. Ánh sao
gắn liền với lí tưởng chiến đấu cao đẹp, là ánh sáng soi đường chỉ lối, là niềm tin
vào Cách mạng, là niềm tự hào trong tim mỗi người lính. Hình ảnh tươi sáng ấy
kết hợp với hình ảnh chiếc mũ nan giản dị, mộc mạc của anh bộ đội, tạo cho anh
một vẻ đẹp bình dị mà cao cả, bình thường mà vĩ đại. “Bạn cùng mũ nan” là cách
nói hóm hỉnh, tinh nghịch, sử dụng phép tu từ nhân hóa. Nhà thơ Chính Hữu cùng
đã có câu thơ rất hay “Đầu súng trăng treo”.
Cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân toàn diện. Cho nên
trong cuộc tổng phản công hôm nay có đủ mọi binh chủng, tầng lớp ra trận. Tiếp
theo những binh đoàn bộ đội, là dân công tiếp tế lương thực, đạn dược. Cũng như
những người chiến sĩ rầm rập lên đường, những nam nữ dân công cũng vào trận
đầy khí thế và sức mạnh.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
“Dân công” là lực lượng phục vụ chiến trường. Họ không trực tiếp chiến đấu
nhưng đã góp phần làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến. Hình ảnh “muôn tàn
lửa bay” ra từ những bó đuốc đỏ làm cho con đường ra trận thêm lung linh và
huyền ảo. Với cách nói cường điệu “bước chân nát đá” diễn tả sức mạnh và lòng
quyết tâm từ hàng vạn con người, họ sẵn sàng đạp bằng mọi chông gai để đi tới
chiến thắng. Đó là sức mạnh bạt núi, san rừng, sức mạnh khiến thiên nhiên cũng
phải khâm phục, đêm tối cũng phải bừng sáng. Hai câu tiếp là hình ảnh những
đoàn xe cơ giới, xe tăng, xe tải chở lính chở vũ khi và lương thực. Nhà thơ đã sử
dụng những từ chỉ số nhiều “nghìn đêm” và từ láy “thăm thẳm” để khắc họa những
khó khăn, gian khổ mà quân dân ta phải đối mặt. Đây là hình ảnh vừa thực nhưng
cũng rất lãng mạn. Hình ảnh của ngày mai lạc quan phơi phới “Đèn bật sáng như
ngày mai lên”. Tác giả đã sử dụng rất thành công biện pháp so sánh, phóng đại
“đèn pha” được ví như mặt trời mọc, như ngày mai đến sau bóng đêm thăm thẳm
thể hiện khí thế sôi nổi, hào hùng bộc lộ trọn niềm vui sướng, tin tưởng tuyệt đối
vào ngày mai chiến thắng.
“Tin vui chiến thắng trăm miềm
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”
Niềm tin tưởng đã được khẳng đinh, niềm vui của tác giả của nhân dân Việt
Bắc trước tin thắng trận trên khắp mọi miền đất nước dồn dập bay về. Nhà thơ đã
sử dụng nghệ thuật liệt kê: Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên,… Mỗi địa danh đều ghi
dấu những chiến công, niềm tự hào của dân tộc, cùng với những địa danh ấy là
điệp từ “vui” kèm với các giới từ “vui về – vui từ – vui lên” gợi tả những chiến
thắng giòn giã, dồn dập như tiếng reo mừng cất lên trong lòng hàng triệu con người
từ Bắc, Trung, Nam. Nhịp thơ nhanh, dồn dập diễn tả một cách sâu sắc niềm tự
hào, vui sướng của cái tôi trữ tình.
Đoạn thơ đã thực sự làm sống dậy không khí hào hùng của một thời kì lịch sử
không thể nào quên. Nhà thơ vẽ lại rất sống động hình ảnh những đêm Việt Bắc
trong mùa chiến dịch. Tố Hữ đã thành công trong cách chọn lọc những từ ngữ,
hình ảnh gợi tả, gợi cảm, sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ như phép điệp; so
sánh; cường điệu, liệt kê…Gịong thơ sôi nổi, hào hùng thể hiện khí thế ra trận của
dân tộc trong kháng chiến chống Pháp. Đoạn thơ thể hiện sâu sắc khuynh hướng sử
thi và cảm hứng lãng mạn. Qua đoạn thơ, ta thấy rõ Tố Hữu quả là người chép sử
trung thành của cách mạng và là nhà thơ có khả năng tạo dựng những bức tranh
hoành tráng về lịch sử dân tộc.

You might also like