You are on page 1of 61

Tố Hữu là nhà thơ chính trị, là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam.

Thơ Tố Hữu thể hiện lẽ sống lớn, tình cảm lớn của con người cách mạng. Thơ ông đậm đà
tính dân tộc trong nội dung và hình thức thể hiện. Bài thơ “Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ
Tố Hữu và cũng là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp.

Tố Hữu – nhà thơ được biết đến là lá cờ đầu, người tiên phong trong thơ ca cách mạng Việt
Nam. Thơ của Tố Hữu là sự kết hợp hài hòa, gắn kết giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời
thơ. Chính vì vậy khi đọc các tác phẩm thơ của Tố Hữu, ta có thể thấy được những dấu mốc
lịch sử quan trọng của đất nước. Các tác phẩm thơ Tố Hữu như một thước phim quay chậm về
những trang sử vẻ vang hào hùng của dân tộc. Và “Việt Bắc” chính là một trong những bài
thơ như thế.

Tố Hữu đã viết bài thơ “Việt Bắc” vào năm 1954 sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp của
nhân dân ta kết thúc thắng lợi. Đây cũng là lúc mà các cơ quan trung ương Đảng, chính phủ
cùng các cán bộ chiến sĩ từ chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Bài thơ đã tái hiện lại cuộc chia
tay đầy lưu luyến, bịn rin giữa người đi – những người cán bộ với người ở lại – nhân dân Việt
Bắc sau một thời gian dài sống, chiến đấu và gắn bó cùng nhau trải qua bao gian khổ. Tố Hữu
đã sử dụng thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc kết hợp với lối hát đối đáp như ca dao dân
ca quen thuộc để tái hiện cuộc chia tay đầy lưu luyến ấy.

Ngay từ đầu bài thơ, tác giả đã thể hiện tình cảm của người ở lại dành cho người ra đi một
cách đầy tinh tế qua những câu hỏi tu từ: “Mình về mình có nhớ tMười lăm năm ấy thiết tha
mặn nồnMình về mình có nhớ khôngNhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”

Câu mở lời đầu tiên giống như lời chia tay của những cặp đôi yêu nhau đầy ý nhị mà sâu sắc.
Nhà thơ đã vô cùng  khéo léo khi mượn sắc màu của tình yêu đôi lứa để thể hiện tình cách
mạng. Cách sắp xếp câu chữ một cách tinh tế, “mình” mở đầu câu thơ và “ta” kết thúc câu thơ
như gián tiếp thể hiện sự xa cách, nhớ nhung. Từ “nhớ” được nhắc lại những ba lần đã mở ra
dòng cảm xúc lưu luyến, tràn đầy sự nhớ nhung, tình nghĩa của toàn bài thơ.

Để đáp lại tấm lòng của người ở lại, người đi cũng đã thể hiện những tâm tư, tình cảm của
mình qua những câu thơ tiếp theo:“Tiếng ai tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ bồn chồn
bước đi
Áo chàm đưa buổi phân liCầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Áo chàm” hình ảnh hoán dụ hiện lên trong buổi chia ly đã tạo nên màu sắc của Việt Bắc, màu
sắc của núi rừng chiến khu, màu thương nhớ của mối tình quân dân thắm thiết “đậm đà lòng
son” suốt mười 15 năm trời gắn bó cùng nhau chiến đấu.

Tiếng lòng của người ở lại đã khiến người đi không khỏi bồn chồn, bâng khuâng, xúc động.
Tất cả điều đó dường như đã khơi dậy rất nhiều kỉ niệm khó quên trong tâm trí của người
chiến sĩ cách mạng. Nỗi niềm ấy khiến cho cuộc chia ly càng trở nên bịn rịn, lưu luyến hơn.
Nó như một sợi dây níu kéo cả người ở và người đi lại với nhau. Mười lăm năm chung sống,
gắn bó, chiến đấu dài đằng đẵng đã gắn kết người với người lại với nhau. Họ đã cùng nhau
trải qua biết bao nhiêu khó khăn, chia sẻ cho nhau từng miếng cơm, từng manh áo để đến giờ
phút chia ly này cảm xúc trào ra thành từng câu chữ:“Ta với mình, mình với taLòng ta sau
trước mặn mà đinh ninh”

Lúc này không có sự phân biệt giữ mình với ta nữa mà “ta với mình” – “mình với ta” như hòa
quyện lại làm một, hòa vào nhau thành một khối thống nhất, không tách rời. Hai chữ “đinh
ninh” tưởng chừng là mơ hồ nhưng lại là một sự khẳng định chắc chắn về tình cảm sâu sắc mà
người đi dành cho những người ở lại. Đó là một thứ tình cảm thiêng liêng, cao quý không gì
so sánh cũng chẳng có gì có thể thay thế được.

Rời xa Việt Bắc, trở về với cuộc sống nơi phồn hoa đô thị nhưng những người cán bộ chiến sĩ
vẫn mang theo một nỗi nhớ núi rừng, nhớ những ngày khó khăn, gian khổ, nhớ những kỷ
niệm kháng chiến vất vả mà đầy nghĩa tình. Một bức tranh tứ bình nơi chiến khu với nhiều
màu sắc đã làm hiện lên một bức tranh thiên nhiên vùng cao sinh động với những hình ảnh
gần gũi, đơn sơ, quen thuộc. “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươiĐèo cao nắng ánh dao gài thắt
lưng.Ngày xuân mơ nở trắng rừngNhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.Ve kêu rừng
phách đổ vàngNhớ cô em gái hái măng một mìnhRừng thu trăng rọi hoà bìnhNhớ ai tiếng hát
ân tình thuỷ chung”

Mùa đông trở lên ấm áp hơn, rực rỡ hơn với màu đỏ tươi của hoa chuối. Đất trời khi vào xuân
thì nơi đây lại khoác lên mình tấm áo choàng màu xanh mát của núi rừng, điểm tô trên cái nền
xanh ấy là màu trắng tinh khôi của hoa mơ, khung cảnh thiên nhiên thật tươi mát, tràn đầy
nhựa sống. Động từ “nở” kết hợp với tính từ “trắng” tạo ra một khung cảnh tuyệt đẹp của
những bông hoa tinh khôi đang khoe sắc thắm. Trong cảnh xuân tươi đẹp ấy con người vẫn
đang miệt mài lao động làm cho bức tranh càng trở lên hài hòa. Mùa hè tới thì bức tranh này
không chỉ có màu sắc, mà nó còn rộn rã âm thanh tiếng ve, thiên nhiên nơi đây cũng chuyển
mình mang theo một gam màu vàng tươi của rừng phách khi chuẩn bị bước sang thu. Sau
cùng, khi tiết trời sang thu, nơi đây trở lên lung linh huyền ảo hơn dưới ánh trăng mờ mờ ảo
ảo, vẻ đẹp ấy dường như mang theo bao ước mơ về một tương lai tươi sáng hơn. Trong bức
tranh sinh động đó, con người được hiện lên trong hình ảnh lao động khỏe khoắn: 

“Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”“Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Hình ảnh con người lao động hiện lên giữa bức tranh thiên nhiên ấy thật giản dị, mộc mạc, 
điều đó đã làm nên một đoạn thơ trữ tình nhất trong Việt Bắc.

Trong nỗi nhớ của mình, tác giả không chỉ dừng lại ở nỗi nhớ con người, nhớ vẻ đẹp thiên
nhiên mà còn nhớ cả những năm tháng chiến đấu oanh liệt:

“Nhớ khi giặc đến giặc lùngRừng cây núi đá ta cùng đánh tâyNúi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”

Giọng điệu từ nhẹ nhàng, tha thiết đã chuyển sang một giọng thơ hào hùng, đầy khí thế. Tố
Hữu đã nhân hóa núi rừng Việt Bắc từ một khu rừng vô tri vô giác trở thành một sinh thể như
có linh hồn, thành  một bức tường vững chãi bảo vệ cho nhân dân Việt Bắc cùng những người
chiến sĩ cách mạng khỏi vòng vây của quân thù. Rồi nhớ những cuộc hành quân đầy gian lao
nhưng cũng rất sôi động. Cụm từ “đất rung” thể hiện sức mạnh phi thường của đoàn quân, dù
hành quân đêm ngày nhưng họ vẫn giữ sự khỏe khoắn, nhịp điệu trong từng bước đi. Đường
hành quân có bao khó khăn, hiểm nguy nhưng những người chiến sĩ vẫn mặc kệ chẳng lo sợ,
họ vẫn lạc quan, yêu đời, vẫn cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên, mây trời, ngắm cảnh trời đất.
Hai hình ảnh súng và sao mang tính biểu tượng sâu sắc. Súng – hình ảnh gợi lên cảnh chiến
tranh, nhưng sao lại vẽ ra một khung cảnh thanh bình, yên ả trong tương lai. Ánh sao ở đây
còn ẩn dụ cho đôi mắt người yêu.

Ở cuối đoạn thơ, người đi đã trả lời câu hỏi của người ở lại:

“Mình về mình lại nhớ taMái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào”

Qua lời đáp này người đi muốn nhắn nhủ với người ở lại rằng dù họ ở nơi thành thị sung túc,
đủ đầy thì tình cảm mà họ dành cho người ở lại vẫn luôn còn mãi. Như vậy tác giả đã khép lại
đoạn thơ bằng tấm chân tình sắt son của người ở lại. Kết cấu đầu cuối tương ứng này được tác
giẳ một lần nữa sử dụng để khẳng định tấm lòng thủy chung một lòng sắt son của người đi và
người ở.
Người ta nói “Việt Bắc” là một bài thơ điển hình của thơ ca cách mạng vì nó có sự kết hợp
giữa chất trữ tình và chính trị. Không chỉ vậy, bài thơ với việc sử dụng thể thơ truyền thống
cùng lối hát đối đáp quen thuộc, giản dị, gần gũi đã thể hiện rất rõ tính dân tộc. Chính bởi
những điều đó mà Việt Bắc đã khơi gợi được những tình cảm cao đẹp nhất của truyền thống
dân tộc đó là tấm lòng thủy chung son sắc một lòng.

“Việt Bắc” quả thật là câu chuyện nhỏ chứa đựng câu chuyện lớn. Nó không chỉ kể về cuộc
chia ly thấm đẫm nỗi nhớ, sự lưu luyến giữa người chiến sĩ cách mạng và đồng bào Việt Bắc
mà nó còn cho người đọc thấy được sự gian khổ, khó khăn, vất vả trong mười lăm năm chiến
đấu hào hùng của dân tộc. Cũng bởi lẽ đó mà đã bao năm nay bài thơ Việt Bắc vẫn luôn có
một vị trí nhất định trong tâm trí của độc giả.

8 đầu

Bốn câu mở đầu là lời của người dân Việt Bắc hỏi người ra đi, hỏi là để khơi gợi kỷ niệm về
một giai đoạn đã qua, về không gian nguồn cội, về nghĩa tình đã gắn bó keo sơn với nhau
trong suốt mười lăm năm.

Mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ mang âm hưởng ca dao, dân ca chan chứa tình yêu thương
của người ở lại với người ra đi, hỏi để gợi nhắc người ra đi:

Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy, thiết tha mặn nồng.

Khi nói: “Mình về”, chính là biểu thị cho hoàn cảnh để người ở lại bộc lộ nỗi niềm. Bởi nếu
người không về (về xuôi) thì ta đâu có lý do để bộc lộ “tấm chân tình” này. Trong câu hỏi của
người ở, “mình” là chỉ người đi, “ta” là người ở lại, “Mình” ở đầu câu, “ta” ở cuối câu, tưởng
như xa cách nhưng hóa ra lại thật gần. Vì ở giữa “mình” – “ta” có sự gắn kết bởi động từ
“nhớ”. Cách xưng hô “mình” – “ta” mộc mạc, quen thuộc thường thấy ở lối hát của ca dao,
dân ca: Mình về mình có nhớ ta Ta về ta nhớ hàm răng mình cười. Là tình cảm “mình” – “ta”
không thể quên: Mình về ta chẳng cho về Ta nắm vạt áo, ta đề câu thơ Câu thơ ba chữ rành
rành

“Chữ trung, chữ hiếu, chữ tình” Chữ trung thì để phần cha Chữ hiếu phần mẹ, đôi ta chữ tình.

Còn trong thơ Tố Hữu, “mình” – “ta” là nỗi nhớ tình nghĩa giữa đồng bào và cán bộ. Cơ sở
tạo nên nỗi nhớ ấy là: “Mười lăm năm ấy, thiết tha mặn nồng”, Người ở lại hỏi người ra đi:
Có nhớ “ta” trong “mười lăm năm ấy” đã đồng cam cộng khổ cùng mình, đã gắn bó, cùng
chia bùi sẻ ngọt với mình hay không? “Mười lăm năm” là trạng ngữ chỉ thời gian, đó là
khoảng thời gian từ năm 1940, sau cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn cho đến tháng 10 năm 1954.
“Mười lăm năm ấy”, Con số vừa mang nghĩa thực, vừa mang nghĩa hư ảo : đó là mười lăm
năm các mạng. mười lăm năm chiến khu Việt Bắc nhưng đồng thời cũng là mười lăm năm
gắn bó thuỷ chung giữa cán bộ kháng chiến với nhân dân Việt Bắc . Câu thơ mang dáng dấp
một câu Kiều :Những là rày ước mai aoMười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình.

Bốn chữ “thiết tha mặn nồng” đã cho thấy tình cảm giữa Việt Bắc và cán bộ thật thủy chung
son sắt, keo sơn bền chặt. Tất cả những tình cảm ấy, người ở lại đã dành riêng một vị trí đẹp
nhất, quan trọng nhất trong trái tim mình. Bởi vậy, người ở lại hỏi nhưng mục đích chính là để
bộc lộ tình cảm và hỏi là để thể hiện mong muốn người ra đi cũng có tình cảm như mình.

Nếu hai câu đầu là lời gợi nhắc kỷ niệm “mười lăm năm” gắn bó, thì hai câu sau là lời nhắc
nhở chân tình, lời dặn dò kín đáo mà rất đỗi thiết tha: Mình về mình có nhớ không Nhìn cây
nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

Ý thơ cho ta thấy: Đối tượng hỏi không còn bó hẹp trong mối quan hệ giữa “mình” – “ta” và
nỗi nhớ dường như không còn chỉ hướng tới người đi, mà nỗi nhớ đã hướng vào đối tượng
rộng lớn hơn rất nhiều, đó chính là hai không gian: cây, sông (miền xuôi) và núi, nguồn (miền
ngược). “Núi” và “Nguồn” ở Việt Bắc – chính là không gian quen thuộc gắn với người ở lại
và cũng gắn bó với cả người đi. Không gian đó với người đi và người ở lại chứa đầy kỷ niệm
của “mười lăm năm” nghĩa tình. Động từ “nhớ” và “nhìn” được nhắc đi nhắc lại hai lần, tác
động mạnh vào cảm xúc của người đi. Một hành động tác động vào thị giác – “nhìn”, một
hành động tác động vào tâm tưởng – “nhớ”; một hành động hướng đến hiện tại – “nhìn cây”;
một hành động hướng về quá khứ - “nhớ núi”. Sự đan xen giữa các hành động và hình ảnh mà
người ở lại đưa ra chỉ với mong muốn: Nhắc nhở người đi sống ở hiện tại đừng quên quá khứ,
về miền xuôi đừng quên miền ngược, đừng quên những kỷ niệm của một thời đã qua. Các
hình ảnh: “cây – núi –sông – nguồn”, đều là hình ảnh đặc trưng về không gian, núi rừng Việt
Bắc. Phải chăng, cách gợi nhắc khéo léo mà đầy tinh tế này của người ở lại chính là mong
muốn, là lời dặn dò kín đáo rất đỗi chân thành: Việt Bắc là cội nguồn cách mạng, là "Quê
hương cách mạng dựng nên Cộng hòa", là trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến, xin người
về đừng quên. Qua hai thơ, ta thấy tài vận dụng linh

hoạt và ẩn chứa ngữ nghĩa trong thơ của Tố Hữu thật đáng khâm phục, khi ông vận dụng
thành côngđạo lý truyền thống của nhân dân ta: Truyền thống "Uống nước nhớ nguồn", “Ăn
quả nhớ kẻ trồng cây”, để nhắc nhở thế hệ con cháu phải biết hướng về gốc gác, hướng về cội
nguồn, về cái nôi cho ta hình hài.
Sau lời hỏi nhưng để gợi nhắc một cách khéo léo của người ở lại, dù không trực tiếp trả lời
nhưng người ra đi đã bộc lộ tiếng lòng, giãi bày cảm xúc: Bâng khuâng, lưu luyến, bồn chồn,
nhớ thương của mình qua bốn câu thơ tiếp theo:

Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...Đại từ “ai”, không xác định rõ người nào, làm cho cán bộ
về xuôi cảm thấy chan chứa nghĩa tình. Bởi vì, cho dù là ai, là cô gái hay chàng trai, dù bất cứ
người dân Việt Bắc nào thì đã cùng làm việc, cùng gắn bó, cùng sẻ chia thì cũng mãi là ân
tình. Và “ân tình” đó khiến người ra đi nghe như có gì rất “tha thiết”, trìu mến, mà vô cùng
lưu luyến, bâng khuâng:“Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi”. Cách ngắt nhịp 4/4 với
hai vế tiểu đối giữa bên trong và bên ngoài: “trong dạ” thì “bâng khuâng”, còn nét mặt, hành
động thì “bồn chồn”. Từ láy “bâng khuâng” diễn tả cảm xúc nhớ nhung, luyến tiếc, buồn vui
lẫn lộn: “Buồn” vì phải xa Việt Bắc, xa nơi đã gắn bó suốt “mười lăm năm” qua, bao nhiêu kỷ
niệm, bao nhiêu kí ức cứ thi nhau ùa về; “Vui” vì sau bao năm xa cách, đi kháng chiến, nay
hòa bình được trở lại quê hương của mình. Nếu xét về hoàn cảnh, có lẽ từ “bâng khuâng” ở
đây là buồn nhiều hơn vui. “Bồn chồn” là từ láy diễn tả tâm trạng cảm xúc day dứt, hồi hộp,
nôn nao trong lòng khiến cho bước chân đi cũng trở nên ngập ngừng, bịn rịn không muốn chia
xa, “dù bàn chân ta bước mà lòng sao chẳng rời”. Ngoài cảm xúc lưu luyến, trong buổi chia
tay ấycòn có hình ảnh “áo chàm” đầy cảm động :

“Áo chàm” là màu áo bình dị của người dân Việt Bắc, là hình ảnh hoán dụ để chỉ con người
Việt Bắc. Mà cũng là hình ảnh ẩn dụ để chỉ cuộc sống gian khổ, thiếu thốn của những người
chân chất nơi đây. Đó là những con người nghèo khổ “hắt hiu lau xám” nhưng luôn “đậm đà
lòng son”, thủy chung, mặn nồng. Chính màu áo ấy, con người ấy đã góp phần cùng cán bộ,
cùng kháng chiến làm nên chiến thắng vẻ vang cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
oai hùng. Thử hỏi: Làm sao người ra đi, người cán bộ về xuôi có thể quên được màu áo ân
tình đó trong giờ khắc chia ly đầy lưu luyến này? Câu thơ: “Cầm tay nhau biết nói gì hôm
nay”, mang tính chất biểu cảm cao. “Biết nói gì...” không phải là không có gì để nói, mà là
không nói được, không thể cất lời được vì quá xúc động, quá nghẹn ngào trước giờ phút phân
ly. Kỷ niệm trong “mười lăm năm” là quá nhiều, biết nhắc lại kỷ niệm nào bây giờ? Tình
nghĩa trong suốt “mười lăm năm” biết bày tỏ thế nào bây giờ?... Tất cả có lẽ đã được nhắn gửi
hết vào hành động: “Cầm taynhau...”, “cầm tay” là biểu tượng của tình yêuthương, đoàn kết.
“Cầm tay” để nói thay những cảm xúc trong lòng. Mặt khác, dấu chấm lửng “...”đặt ở cuối
câu như càng tăng thêm cái tình cảm mặn nồng ấy. Nó giống như một nốt nhạc trầm trong
một khuông nhạc bổng, chính nốt nhạc trầmấy, là nhịp rơi của cảm xúc sâu lắng dâng trào.
Nhìn chung, tám dòng thơ đầu là cảnh chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn nhưng là cuộc chia
tay lớn mang tính chất chính trị trọng đại trong hình thức cuộc chia tay tình tứ của lứa
đôi. Đoạn thơ đậm đà tính dân tộc với thể thơ lục bát truyền thống được sử dụng nhuần
nhuyễn, kết cấu đối đáp thường thấy trong ca dao được sử dụng sáng tạo, cặp đại từ nhân
xưng mình – ta với sự biến hoá linh hoạt, tác giả tạo dựng được hình tượng kẻ ở, người đi đại
diện cho tình cảm của cả cộng đồng.
Tóm lại, “Việt Bắc” đã tái hiện một thời kháng chiến chống Pháp gian khổ mà anh hùng,
nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những người kháng chiến với Việt Bắc, với nhân dân, đất
nước. Qua đó, tình cảm thuỷ chung truyền thống của dân tộc được nâng lên thành tình cảm
thời đại, đó là ân tình cách mạng – một cội nguồn sức mạnh quan trọng tạo nên thắng lợi của
cách mạng và kháng chiến. Đoạn thơ nói riêng, bài thơ “Việt Bắc” nói chung, đúng là một bản
tình ca ca ngợi đất nước và tình cảm cách mạng cao đẹp của con người Việt Nam trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Trong suốt nhiều thập kỉ từ những năm 1930 – 1970, Tố Hữu luôn được coi là lá
cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Tố Hữu sáng tác đều đặn, rất thành công
và có thể coi là bám sát nhất những nhiệm vụ cách mạng của dân tộc ta và cũng
là nhà thơ được đón đợi, mến mộ nhất trong thời gian ấy. Bài thơ tái hiện những
kỉ niệm Cách mạng, kháng chiến. Khẳng định, ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên, con
người Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp, gợi ra viễn cảnh tươi sáng của đất
nước, ca ngợi công lao của Đảng và Bác Hồ trong kháng chiến chống Pháp. Bài
thơ đồng thời thể hiện tình cảm của Tố Hữu đối với quê hương Cách mạng Việt
Bắc: yêu mến, gắn bó, tự hào về truyền thống cao đẹp của dân tộc, đất nước. Việt
Bắc là khúc hùng ca, tình ca về Cách mạng, về kháng chiến, về những con người
trong kháng chiến chống Pháp.

Cả bài thơ trải dài một bầu trời thương nhớ về Việt Bắc của chủ thể trữ tình. Và có
lẽ đẹp nhất trong nỗi nhớ Việt Bắc là ấn tượng không phai về những người dân
hoà quyện với thiên nhiên , núi rừng tươi đẹp:

“Ta về mình có nhớ ta


Ta về ta nhớ những hoa cùng người”

Đoạn thơ mở đầu bằng một câu hỏi tu từ, nhưng hỏi chỉ là cái cớ để bộc lộ chiều
sâu tình cảm. Điệp từ “ta” và “nhớ” khẳng định , nhấn mạnh nỗi nhớ da diết của
người về thủ đô. Phép liệt kê “những hoa cùng người” nêu lên đối tượng của nỗi
nhớ . Đó là những gì tươi đẹp nhất của chiến khu. Hoa là kết tinh hương sắc của
thiên nhiên còn người là kết tinh vẻ đẹp của đời sống xã hội. Xét cho cùng, người
cũng là một loại hoa của đất. Hoa và người đặt cạnh nhau càng tôn tạo vẻ đẹp
cho nhau , làm sáng lên cả không gian núi rừng Việt Bắc trùng điệp.

Vẻ đẹp của cảnh thiên nhiên Việt Bắc hiện diện đầy đủ qua bức tranh tứ bình
tuyệt đẹp (8 câu sau). Nhớ mùa đông Việt Bắc:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi


Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Nhớ mùa đông là nhớ màu xanh của núi rừng Việt Bắc, nhớ màu đỏ của hoa
chuối như những ngọn lửa thắp sáng rừng xanh, sắc đỏ tươi của hoa chuối giữa
sắc xanh của núi rừng làm cho núi rừng Việt Bắc mùa đông không lạnh lẽo,
không úa tàn mà ấm áp, tươi tắn vô cùng. Cái tài của Tố Hữu là sử dụng gam
màu nóng để vẽ bức tranh thiên nhiên Việt Bắc mùa đông thật đẹp và không thể
quên. Nhớ mùa đông Việt Bắc còn nhớ người đi nương rẫy “dao gài thắt lưng”
trong tư thế mạnh mẽ hào hùng đứng trên đèo cao “nắng ánh”, con dao của
người đi nương rẫy phản quang rất gợi cảm. Màu “xanh” của rừng, màu “đỏ” của
hoa chuối, màu sáng lấp lánh của “nắng ánh” từ con dao, màu sắc hòa hợp làm
bật sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của thiên nhiên và con người Việt Bắc. Con
người Việt Bắc trong tư thế làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời trong kháng
chiến.

Bức tranh thiên nhiên chuyển đối màu sắc khi nhà thơ nhớ về ngày xuân Việt
Bắc:

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng


Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Nhớ ngày xuân Việt Bắc là nhớ hoa mơ “nở trắng rừng”, câu thơ miêu tả độc đáo
của tác giả gợi một thế giới hoa mơ bao phủ mọi cánh rừng Việt Bắc, sắc trắng
tinh khiết của hoa mơ mở ra một không gian bao la, thoáng mát và tràn đầy sức
sống. Cách dùng từ tài hoa của Tố Hữu gợi nhớ câu thơ tả mùa xuân khá độc đáo
của đại thi hào Nguyễn Du: “Cỏ non xanh tận chân trời Cành lê trắng điểm một
vài bông hoa”. Nhớ người thợ thủ công cần mẫn, khéo léo “Nhớ người đan nón
chuốt từng sợi giang” . “ Chuốt “ là làm bóng sợi giang mỏng manh. Có khéo léo,
cần mẫn, tỉ mỉ thì mới có thể “chuốt từng sợi giang” để đan thành những chiếc
nón, chiếc mũ phục vụ kháng chiến, để anh bộ đội đi chiến dịch có “ ánh sao đầu
súng bạn cùng mũ nan”. Người đan nón được nhà thơ nói đến tiêu biểu cho vẻ
đẹp tài hoa, sáng tạo của đồng bào Việt Bắc.

Ấn tượng nhất chắc có lẽ là nỗi nhớ mùa hè Việt Bắc. Không những bức tranh rộn
vang âm thanh mà màu sắc cũng hết sức ấn tượng, trong sạch, giàu sức gợi cảm 

Ve kêu rừng phách đổ vàng


Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Nhớ mùa hè Việt Bắc với tiếng ve kêu làm nên khúc nhạc rừng, nhớ màu vàng
của rừng phách , nhớ cô thiếu nữ đi hái măng một mình. Một chữ “đổ” tài tình,
tiếng ve kêu như trút xuống, “đổ” xuống thúc giục ngày hè trôi nhanh, làm cho
rừng phách thêm vàng thiên nhiên Việt Bắc ngày hè thật tươi đẹp, sinh động .
Nhớ con người Việt Bắc, nhớ cô gái đi hái măng một mình “Nhớ cô em gái hái
măng một mình”. Câu thơ độc đáo, giàu vần điệu, thanh điệu, giàu chất nhạc,
chất thơ tạo một không gian nghệ thuật đẹp và vui, đầy màu sắc và âm thanh..
Hình ảnh cô gái hái măng gợi nét đẹp trẻ trung, yêu đời và hết lòng phục vụ cách
mạng, phục vụ kháng chiến của con người Việt Bắc.
Bức tranh thiên nhiên Việt Bắc bỗng trở nên đằm thắm, chứa chan tình cảm khi
tác giả nhớ về cảnh sắc mùa thu:

“Rừng thu trăng rọi hoà bình


Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”

Nhớ mùa hè rồi nhớ mùa thu Việt Bắc, nhớ khôn nguôi ánh trăng ngà, tiếng hát ,
…. Rừng thu răng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung. Trăng Việt Bắc
trong thơ Bác Hồ là “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”. Trăng Việt Bắc trong thơ
Tố Hữu là “trăng rọi hòa bình”. Người Cách mạng về xuôi nhớ trăng Việt Bắc giữa
rừng thu, trăng rọi qua tán lá rừng xanh, trăng dịu mát nên thơ, trữ tình,… khiến
lòng người ngây ngất. Nhớ người Việt Bắc : “Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung” .
“Ai” là đại từ nhân xưng phiếm chỉ, “nhớ ai” là nhớ về tất cả, về người dân Việt Bắc
giàu tình nghĩa thủy chung đã hy sinh quên mình cho cách mạng, cho kháng
chiến.

Khắc với bức tranh thiên nhiên Việt Bắc đa sắc màu, nhiều chuyển đối, con người
và thiên nhiên hòa hợp nhất thể, bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “Tràng
Giang” hiện lên với tất cả sự đối lập, tương phản giữa thiên nhiên, không gian vũ
trụ mênh mông với sự sống nhỏ bé đơn chiếc, lạc lõng, mong manh… Không gian
với 2 sắc thái rõ chủ đạo: mênh mông vô biên và hoang sơ hiu quạnh. “Sóng gợn
tràng giang buồn điệp điệp, Con thuyền xuôi mái nước song song. Thuyền về nước lại,
sầu trăm ngả; Củi một cành khô lạc mấy dòng”.  răng Việt Bắc trong thơ Bác Hồ là
“Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”. Trăng Việt Bắc trong thơ Tố Hữu là “trăng rọi
hòa bình”. 

Trong Việt bắc, Tố Hữu đã sử dụng thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc một
cách nhuần nhuyễn, điêu luyện. Cách xưng hô ta – mình, mình – mình thân mật,
gần gũi, đậm phong vị ca dao. Lối đối đáp trữ tình của ca dao Việt Nam vừa linh
hoạt, uyển chuyển vừa năng động trẻ trung. Giọng thơ tâm tình, ngọt ngào như
âm hưởng lời ru. Các biện pháp tu từ: so sánh, nhân hóa, cường điệu , điệp,…
cũng phát huy tối đa sức mạnh biểu đạt. Bài thơ sử dụng lời ăn tiếng nói của
nhân dân rất giản dị, mộc mạc nhưng sinh động, hấp dẫn đậm khuynh hướng sử
thi và cảm hứng lãng mạn. Nghệ thuật đậm tính dân tộc

Đoạn thơ mang vẻ đẹp của một bức tranh tứ bình đặc sắc, đậm đà phong cách
dân tộc. Mở đầu cuộc kháng chiến chống Pháp là mùa đông năm 1946, đến mùa
thu tháng 10 năm 1954 thủ đô Hà nội được giải phóng. Tố Hữu thể hiện nỗi nhớ
Việt Bắc qua bốn mùa đông – xuân- hè – thu theo dòng chảy lịch sử. Mỗi mùa ở
Việt Bắc có một nét đẹp riêng dạt dào sức sống: màu xanh của rừng, màu đỏ tươi
của hoa chuối, màu trắng của hoa mơ, màu vàng của rừng phách, màu trăng
xanh hòa bình.

Đoạn thơ ngắn 10 dòng trên mang âm điệu ngọt ngào , từ ngữ trong sáng giản dị
giàu sức gợi , in đậm phong cách thơ Tố Hữu đã bộc lộ sự gắn bó sâu sắc của nhà
thơ với Việt Bắc . Qua nỗi nhớ , niềm trân trọng tha thiết của nhà thơ , cảnh và
người VB hiện lên thật gần gũi , chân thực mà thơ mộng , trữ tình. Thông qua tình
cảm riêng của mình , Tố Hữu đã nói lên tình cảm của cả một thế hệ với quê
hương đất nước , đã ngợi ca tình nghĩa thuỷ chung ân tình của nhân dân ta 

Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị vừa cổ điển vừa hiện đại đoạn thơ trên của Tố Hữu đã
làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc. Cảnh và
người hòa hợp với nhau tô điểm cho nhau làm cho bức tranh trở nên gần gũi thân quen sống
động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung quyến luyến thiết tha trong tâm
hồn người cán bộ về xuôi.

Hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang đìu hiu, mênh mông, hoang vắng,
chia lìa nhau và xa cách với con người. Nhà thơ miêu tả thiên nhiên từ chính thực
tại khách quan và với tâm tình buồn sầu man mác. Thông qua thiên nhiên bày tỏ
tình cảnh cô đơn, thiếu vắng, ngậm ngùi, chua xót. Đó là cảm xúc âm tính, nỗi
buồn đề nặng trong tâm hồn, muốn tìm đến thiên nhiên cho khuây khỏa. Thế
nhưng, càng tìm kiếm càng bơ vơ.

Xho minh ta

“Nhà thơ Tố Hữu: Một trái tim, một hồn thơ Cách mạng” – đó là nhan đề một bài viết
hết sức sâu sắc tưởng nhớ ngày mất của nhà thơ tài hoa của văn học hiện đại Việt Nam. Thực
vậy, thơ Tố Hữu, mà đặc biệt là thơ ca viết về Cách mạng của ông đã khơi lên trong lòng
người đọc biết bao nỗi niềm, cảm xúc. “Việt Bắc” sáng tác năm 1954 là một bài thơ rất nổi
tiếng và giàu ý nghĩa viết về cuộc sống Cách mạng, con người Cách mạng của tác giả. Trong
tác phẩm, cách sử dụng cặp đại từ “mình – ta” là một nét sáng tạo đã lưu lại trong tâm trí
người đọc nhiều dấu ấn sâu sắc.
“Mình – ta” là cặp đại từ xưng hô quen thuộc trong những câu ca dao, dân ca đậm nồng, đằm
thắm của dân tộc. Một cách tinh tế và đầy khéo léo, Tố Hữu vừa kế thừa và sáng tạo, cách tân
để đưa cặp đại từ này vào trong tác phẩm của mình, biến nó trở thành một dấu ấn đặc sắc góp
phần đem đến sự thành công cho bài thơ. Cả tác phẩm gồm 150 câu thơ với những cặp lục bát
dạt dào cảm xúc như khúc ca ân tình được cất lên từ hai chủ thể “mình – ta” ý nói người ở lại
và người ra đi, người đồng bào Việt Bắc và người cán bộ Cách mạng. Đoạn mở đầu bài thơ
nhân vật trữ tình xưng “ta” gọi “mình”, là lời của người ở lại với người ra đi, là tình cảm thiết
tha dạt dào người dân Việt Bắc dành cho cán bộ Cách mạng ngày chia tay:
“Mình về mình có nhớ taMười lăm năm ấy thiết tha mặn nồngMình về mình có nhớ
khôngNhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”
Người ở lại đặt những câu hỏi tu từ chẳng phải để đợi chờ câu trả lời của người ra đi,
mà dường như đó là những lời nhắc nhở đầy ân tình rằng dẫu có ra đi thì cũng sẽ luôn nhớ về
Việt Bắc với trái tim thiết tha, mặn nồng yêu thương. Là đoạn thơ với lời người ở lại nên ở
đây, “mình” được nhắc đến nhiều hơn “ta”. Đến với đoạn thơ thứ hai, lời đáp lại của người ra
đi đã phần nào tạo nên sự cân xứng cho lối nói đối đáp quen thuộc trong ca dao:
“Tiếng ai tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ bồn chồn bước điÁo chàm đưa buổi phân
liCầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Ở đoạn thơ này, chữ “ta” và “mình” không xuất hiện trực tiếp nữa mà được nhà thơ
thể hiện qua một loạt các hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng: “tiếng ai tha thiết bên cồn”, “áo
chàm”. Cặp đại từ “mình – ta” trong hai đoạn thơ thứ ba và bốn tiếp theo được tác giả sử dụng
hết sức tài hoa và khéo léo. Chỉ trong đoạn thơ thứ ba, từ “mình” được sử dụng tới sáu lần
trong sáu câu lục với nghĩa là người ra đi rời chiến khu, là người về với thủ đô:
“Mình đi có nhớ những ngàyMưa nguồn suối lũ những mây cùng mùMình về có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh”
Mỗi lời người ở lại dành cho người ra đi đều gắn với từ “nhớ”, nhắc nhớ lại những kỉ
niệm cực khổ nhưng đầy đáng nhớ thuở còn kháng chiến. Đại từ “mình” bỗng khiến cả đoạn
thơ dạt dào một tình cảm thân thương, đầm ấm vô cùng. Ở những đoạn thơ tiếp theo, cặp đại
từ “mình – ta” tiếp tục được nhà thơ vận dụng hết sức khéo léo và thành công, vừa tạo ra
nhiều nét đặc sắc về âm điệu lời thơ, vừa góp phần làm nên sự sâu sắc cho ý nghĩa tác phẩm.
Chủ thể “mình” và chủ thể “ta”, cả hai như gửi gắm một phần trải nghiệm, một phần kí ức của
người chiến sĩ, người nghệ sĩ Tố Hữu. Cặp đại từ “mình – ta” được đặt trong hình thức đối
đáp vừa để khơi gợi tâm trạng, cảm xúc, vừa tạo ra một sự hô ứng đồng vọng của giai điệu
tình cảm giữa “mình” và “ta”. Có những đoạn thơ, Tố Hữu khiến người đọc cảm tưởng như
“mình” và “ta”, cả hai đang hoán đổi vị trí, chuyển hóa cho nhau khiến âm hưởng lời thơ dịu
dàng, êm ái, thiết tha đậm nghĩa đậm tình. “Việt Bắc” bởi vậy mà bỗng trở thành tiếng nói của
tình yêu, nhưng không phải là một tình yêu đôi lứa thơ mộng như trong ca dao, dân ca xưa,
mà đó là tình yêu cao cả, lớn lao dành cho con người tổ quốc, cho quê hương đất nước, cho
đồng bào gắn bó máu thịt, thủy chung. Phải chăng đó chính là một trong những nét sáng tạo
đầy độc đáo của nhà thơ Tố Hữu trong bài thơ khiến cho tác phẩm này thêm giàu giá trị, ý
nghĩa.

“Một khúc tình ca”, “Một bản anh hùng ca về kháng chiến và con người”, đó là những
so sánh rất thật và rất sâu sắc về bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu. Để tác phẩm nhận được
những so sánh, đánh giá ấn tượng đó, nhà thơ không chỉ có khả năng quan sát, trải nghiệm,
tích lũy vốn sống mà còn biết sáng tạo những cái mới hoặc kế thừa nét đẹp truyền thống để
phát triển. Cách sử dụng đại từ “mình – ta” đã góp phần đem đến thành công cho tác phẩm
cũng như khẳng định tài năng, sự tinh tế và khéo léo của tác giả
Tinh dan toc
Bài làm 2
Tố Hữu là một trong những cánh chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt Nam,
có thể nói cả đời thơ Tố Hữu là sự cống hiến không ngừng nghỉ cho sự nghiệp cách mạng dân
tộc. Bởi vậy mà phần lớn những tác phẩm của nhà thơ thường hướng đến những tư tưởng, lẽ
sống lớn, hay những sự kiện lớn lao của đất nước, đặc biệt hơn cả là những tác phẩm ấy được
Tố Hữu thôi hồn dân tộc vào trở nên sâu sắc, cân đối và bất tử với thời gian. Việt Bắc là một
sáng tác như vậy.
Đánh giá về tính dân tộc đậm đà trong Việt Bắc, có ý kiến cho rằng tính dân tộc là một
trong những phẩm chất vốn có ở bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Vậy trước tiên tính dân tộc
trong văn học là gì? tính dân tộc là một thuộc tính của văn học phản ánh của đời sống mỗi dân
tộc, mang lại cho tác phẩm văn học một bản nhạc dân tộc độc đáo, không thể trộn lẫn. Với
khái niệm như trên có thể khẳng định, "Việt Bắc" có đầy đủ các tiêu chí để trở thành một thi
phẩm đậm đà tính dân tộc, trên tất cả các mặt từ nội dung, đến nghệ thuật.
Trước nhất về đề tài Việt Bắc đề cập tới một sự kiện chính trị lớn lao của dân tộc, đó
là vào thời điểm chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi hiệp định Giơnevơ về Đông
Dương được ký kết, hòa bình lập lại, miền Bắc nước ta được giải phóng và bắt tay vào sự
nghiệp xây dựng cuộc sống mới. Tháng 10 năm 1945 những người kháng chiến từ căn cứ
miền núi trở về miền xuôi, trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ
đô nhân sự kiện có tính lịch sử ấy Tố Hữu đã sáng tác Việt Bắc. Như vậy sự ra đời của Việt
Bắc gắn bó với lịch sử dân tộc, mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam, ghi dấu thời
kỳ chuyển mình của đất nước mở ra một trang sử huy hoàng cho dân tộc Việt Nam, cho nên
có thể thấy tính dân tộc trong Việt Bắc thể hiện ngay ở đề tài.
Thứ hai về nội dung bài thơ Việt Bắc đã tái hiện vẻ đẹp ấn tượng của thiên nhiên núi
rừng Việt Bắc qua đó nhằm tôn vinh Vẻ đẹp thơ mộng và hùng vĩ của tổ quốc ta trong Việt
Bắc có đoạn Tố Hữu viết.
"Ta về mình có nhớ ta,Ta về ta nhớ những hoa cùng người,Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi,Đèo
cao nắng ánh dao cài thắt lưng,Ngày xuân mơ nở trắng rừng,Nhớ người đan nón chuốt từng
sợi giang,Ve kêu rừng phách đổ vàng,Nhớ cô em gái hái măng một mình,Rừng thu trăng rọi
Hòa Bình,Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung".
Thiên nhiên Việt Bắc thật đẹp đẽ, hài hòa biết bao, cảnh sắc thiên nhiên thay đổi, biến
đổi theo từng mùa, phong cảnh mỗi mùa đều mỹ lệ mà thanh nhã có nét đặc biệt riêng không
thể trộn lẫn. Mùa xuân khoác lên mình tà áo choàng màu trắng tinh khiết, trắng của hoa mơ.
Sắc trắng của hoa mơ đem đến cho không gian mùa xuân một vẻ đẹp thanh tao, thuần khiết
mà vẫn giữ được cái trong trẻo, thoáng đãng, phóng khoáng rất đặc trưng của thiên nhiên
vùng sơn cước và khi mùa xuân qua, hạ tới Việt Bắc lại khoác lên mình một phong thái mới,
một khí chất riêng. Vẫn là tiếng ve kêu quen thuộc báo hiệu hè về, nhưng không chỉ có vậy về
Việt Bắc còn gây ấn tượng bởi màu vàng của rừng phách, hãy tưởng tượng chỉ 1 phút chốc cả
không gian như bùng nở bởi sắc vàng uy quyền của hoa phách, ta mới thấy hết được cái bạt
ngàn hùng vĩ và khác biệt của nơi đây, và đây là vẻ đẹp của mùa thu Việt Bắc. Thu đẹp mê
hồn, huyền bí trong những đêm trăng mờ ảo, nhưng trong Việt Bắc là đặc sản của nơi đây, đó
là ánh trăng của hòa bình, tĩnh lặng, bình yên là thứ ánh sáng dịu nhẹ mang theo hơi thở của
nhịp sống thanh bình của hi vọng, niềm tin. Nếu như xuân nồng nàn, thuần khiết, hạ bạt ngàn
kiêu sa, thì vẻ đẹp của mùa thu mang thiên hướng thanh nhẹ, tinh tế như lấy đi mọi thứ vội vã,
ồn ào của cuộc sống thường nhật. Chuyển sang cảnh sắc những ngày mùa đông, cả rừng Việt
Bắc bạt ngàn trong sắc xanh, điểm xuyết trên nền cây lá là màu đỏ rực rỡ của những bông hoa
chuối rừng, điểm nổi bật là mùa đông ở Việt Bắc không lạnh lẽo giá băng mà thật ấm áp, long
lanh và căng tràn sức sống. Đó là điểm rất riêng, có lẽ chỉ ở Việt Bắc thiên nhiên đẹp như vậy.
Thế nên mới khiến con người nhung nhớ, chẳng lỡ rời xa. Ngòi bút của Tố Hữu như tập trung
tối đa những từ ngữ đẹp nhất, kết tinh cho vẻ đẹp độc đáo, đa dạng, hút mắt của thiên nhiên
Việt Bắc. Tái hiện khơi gợi và làm sống dậy vẻ đẹp tự nhiên của đất nước qua từng lời thơ,
con chữ, một lần nữa tính dân tộc đậm đà được thể hiện rõ trong Việt Bắc.
Tính dân tộc của thi phẩm đặc sắc này còn được thể hiện qua sự ngợi ca tự hào của tác
giả, về cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Tố Hữu đã gợi nhắc lại lịch sử hào hùng một
cách vừa hiện thực, vừa lãng mạn, sự kết hợp này vừa khéo hài hòa lại cân đối, ngôn từ thơ
như thổi bùng ngọn lửa tự hào của độc giả về Tổ quốc Việt Nam."Những đường Việt Bắc của
ta,
Đêm đêm rầm rập như là đất rung,Quân đi điệp điệp trùng trùng,Ánh sao đầu súng bạn cùng
mũ nan,Dân công đỏ đuốc từng đoàn, Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay,Nghìn đêm thăm
thẳm sương dày".
Trong không gian của núi rừng hùng vĩ, chất chứa đầy những hiểm nguy, rình rập.
Quân ta ngày đêm chuẩn bị cho cuộc chiến, những cuộc hành quân trong đêm dài khí thế của
quân và dân ta, được tái hiện thật hoành tráng, oai hùng với lực lượng đông đảo, khí phách
hiên ngang, tinh thần quả cảm và dũng khí ngất trời. Những bước chân tiến quân bỗng chốc
trở nên phi thường, có sức mạnh vô song, có khả năng nghiền nát cả đất đá, rung chuyển cả
đất trời. Đây không chỉ là một cuộc hành quân ở Việt Bắc, mà còn thực sự mang theo không
khí, linh hồn, khí chất của cả dân tộc Việt Nam. Một dân tộc đứng lên như vũ bão, thác đổ mà
không một kẻ thù nào đánh bại được, như thông qua cuộc hành quân mang vẻ đẹp huyền thoại
trong Việt Bắc, Tố Hữu đã ngầm ca ngợi, tôn vinh cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc
Việt. Từ đó khơi gợi lòng yêu nước, yêu tổ quốc, hay gợi niềm tự hào về đất nước của mỗi
người. Làm được điều này, một lần nữa khẳng định tính dân tộc là một phẩm chất vốn có ở
Việt Bắc.
Bên cạnh vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng Tố Hữu không quên ngợi ca vẻ đẹp truyền
thống của con người Việt Nam Đó là những con người chăm chỉ cần cù Chịu thương chịu khó
trong lao động họ đã góp một phần sức của mình vào công cuộc kháng chiến anh hùng của tổ
quốc hình ảnh người mẹ bất chấp mệt nhọc địu con lên rẫy làm nương để bắp hiện lên thật
cảm động chân thực qua ngòi bút của Tố Hữu.
"Nhớ người mẹ nắng cháy lưng,Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô".
Con người nơi đây rất chân thành, giản dị và chất phát, cuộc sống tần tảo nhưng
dường như chưa bao giờ họ hết yêu lao động, miệt mài, cần mẫn và kiên trì hơn ai hết. "Nhớ
người đan nón chuốt từng sợi giang", "Nhớ cô em gái hái măng một mình", thêm nữa xuyên
suốt tác phẩm Tố Hữu còn làm nổi bật sự thủy chung, nghĩa tình của con người Việt Bắc.
Cũng là vẻ đẹp truyền thống của con người Việt Nam ta, đó là những khi nhân dân đồng cam
cộng khổ, chia sẻ khó khăn, hoạn nạn với cách mạng.
"Thương nhau chia củ sắn lùi,Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng".
Là những ngày tháng dài tình bên, nghĩa trọn, trước sau như một.
"Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung".
Thêm nữa người dân Việt Bắc còn là những tâm hồn rất lạc quan, yêu đời, "gian nan
đời vẫn ca vang núi đèo". Vậy đó con người nơi đây là vậy, gian khổ thì đã sao, với họ mỗi
một ngày gắn bó với cách mạng là một ngày vui, thế nên dẫu cuộc sống còn nhiều vất vả, lam
lũ họ vẫn vô tư ca vang, tin tưởng vào một tương lai tươi sáng. Không khó để thấy tất cả các
phẩm chất, từ chăm chỉ, chịu khó, yêu lao động, đến thủy chung son sắc, lạc quan yêu đời của
con người Việt Bắc đều hoàn toàn trùng khớp với những đức tính tốt đẹp của con người Việt
Nam xưa nay. Điều đó có nghĩa là Việt Bắc đã rất thành công trong việc tái hiện lại và tôn
vinh cái hồn của dân tộc, thông qua hình ảnh con người nơi đây, cũng chính điều đó làm cho
khoảng cách giữa độc giả và tác phẩm trở nên gần gũi hơn, sự đồng điệu bắt đầu từ đây, tính
dân tộc đậm đà cũng từ đây mà được bộc lộ rõ nét.
Về hình thức Việt Bắc sử dụng thể thơ lục bát, thể thơ truyền thống của dân tộc, hơn
nữa lục bát của Việt Bắc gần giống với lục bát của ca dao kết hợp với lối nói tiểu đối tạo cho
bài thơ thêm âm hưởng thiết tha, da diết như len sâu vào lòng người. Tố Hữu cũng khéo léo
khi vận dụng cách nói đối đáp, giao duyên rất phổ biến trong ca dao dân tộc Việt Nam, để bộc
lộ những tư tưởng, tình cảm tâm sự. Bên cạnh đó tác giả đã cực kỳ tinh tế, khéo léo khi vận
dụng và kết hợp sử dụng các đại từ nhân xưng "mình, ta", mình ta lúc là hai, lúc là một, soi
chiếu tình cảm lẫn nhau, quyện hòa vào nhau khiến cho nhịp thơ đong đầy tình, nghĩa, ngôn
ngữ thơ cũng rất mộc mạc, đơn sơ, không cầu kỳ, độc đáo, cũng không tráng lệ phi phàm, làm
mọi thứ dường như chỉ dừng lại ở mức lời ăn, tiếng nói hằng ngày. Cách nói ví von, những
câu thành ngữ, ca dao được sử dụng vừa hài hòa, vừa triệt để đã tạo cho Việt Bắc một bản sắc
dân tộc Việt sâu sắc, thể hiện cả trên bề mặt chữ lẫn chiều sâu. Cuối cùng là cách tác giả phát
huy cao độ tính nhạc của tiếng Việt, các câu thơ đọc rất phù hợp với mặt trái của thể thơ, của
cảm xúc, nhịp thơ tự do, tha thiết, không gò bó và rất dễ thuộc, dễ nhớ. Đóng góp vào thành
công ấy không thể không kể đến vai trò của hệ thống từ láy linh hoạt, phong phú, độc đáo
suốt dọc chiều dài của tác phẩm. Chính nhờ có điều này mà thơ Việt Bắc không thể khô khan,
kích thích người đọc tiếp nhận tác phẩm. Như vậy, toàn bộ hình thức của Việt Bắc là minh
chứng không thể rõ ràng hơn về tính dân tộc của tác phẩm.
Vậy nhận định ban đầu là một ý kiến hoàn toàn đúng đắn, có cơ sở đầy khẳng định
được giá trị nổi bật của Việt Bắc là tính dân tộc, cũng chính tính dân tộc này đã tạo cho Tố
Hữu một phong cách sáng tác riêng mang phong cách, dấu ấn của riêng ông, không thể trộn
lẫn giữa các dòng chảy của văn học hiện đại. Đồng thời còn là sự ghi nhận tài năng tài chính
của Tố Hữu khi sử dụng ngôn từ để tái hiện hồn cốt dân tộc. Một điều mà ít, rất ít nhà thơ làm
được hoàn hảo, bởi vậy là hoàn toàn xứng đáng khi nói tính dân tộc đã làm Việt Bắc rất cao
và chói sáng trên thi đàn Việt Nam.
Nhìn chung tính dân tộc không phải là yếu tố độc nhất của một thi phẩm hay, nhưng
có lẽ chỉ có nó mới có thể tạo được sức sống lâu bền cho tác phẩm. Nếu như tất cả các tác
phẩm đều có thể dung hòa tính dân tộc sâu sắc, với cái mới, cái hay, cái độc đáo, sáng tạo của
cá nhân tác giả, thì chắc chắn sẽ ngày càng có nhiều hơn nữa những bài thơ hay, làm đẹp cho
đời sống hôm nay và mai sau.

Hinh anh ra tran

Nhà văn Tố Hữu, lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, đã từng chia sẻ:
Tôi phải lòng đất nước và nhân dân mình và cũng đã nói nhiều về đất nước và nhân dân mình
như người đàn bà mình yêu. Có thể nói, thơ Tố Hữu là bản tình ca về đất nước và con người
Việt Nam. Trong số những bản tình ca ấy, ta không thể không nói kể tới "Việt Bắc" - đỉnh cao
của Tố Hữu, là tác phẩm xuất sắc trong văn học kháng chiến chống Pháp. Việt Bắc không chỉ
là bản tình ca sâu sắc mặn nồng giữa kẻ ở người đi mà còn là khúc hùng ca về những người
anh hùng dân tộc. Bên cạnh những vần thơ trữ tình ngọt ngào, ta còn bắt gặp những vần thơ
tràn đầy khí thế chiến thắng của quân và dân ta:

Những đường Việt Bắc của taĐêm đêm rầm rập như là đất rungQuân đi điệp điệp
trùng trùngÁnh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.Dân công đỏ đuốc từng đoànBước chân nát đá
muôn tàn lửa bay.Nghìn đêm thăm thẳm sương dàyĐèn pha bật sáng như ngày mai lên.Tin
vui thắng trận trăm miềnHòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui vềVui từ Đồng Tháp, An KhêVui
lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng

Việt Bắc là một tác phẩm gồm 150 câu thơ lục bát, được viết vào tháng 10/1954 khi
Trung ương Đảng và chính phủ, Bác Hồ và cán bộ từ giã "Thủ đô gió ngàn" đề về với "Thủ
đô nắng Ba Đình" Bài thơ được chia làm hai phần: phần đầu tái hiện những kỉ niệm cách
mạng và kháng chiến, phấn sau gợi viễn cảnh tươi sáng của đất nước và ngợi ca công ơn của
Đảng, Bác Hồ đối với dân tộc. Đoạn thơ "Những đường Việt Bắc của ta...Vui lên Việt Bắc,
đèo De, núi Hồng" tập trung tái hiện lại không khí hào hùng của cuộc kháng chiến lúc quân và
dân ta đang dành được lợi thế.

Trong 8 câu thơ đầu, nhà thơ đã tái hiện lại một cách chân thực hình ảnh đêm Việt Bắc
trong mùa chiến dịch:Những đường Việt Bắc của taĐêm đêm rầm rập như là đất rungQuân đi
điệp điệp trùng trùngÁnh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.Dân công đỏ đuốc từng đoànBước
chân nát đá muôn tàn lửa bay.Nghìn đêm thăm thẳm sương dàyĐèn pha bật sáng như ngày
mai lên.

Câu thơ Những đường Việt Bắc của ta vang lên khỏe khoắn, hùng tráng, chứa chan
niềm tự hào kiêu hãnh. Trăng ngả, trăng đường hướng về Việt Bắc, trăm nẻo đường từ Việt
Bắc tỏa đi muôn nơi đều là "của ta": Hai tiếng của ta giản dị mà vô cùng thiêng liêng. Chúng
thể hiện rõ ý thức làm chủ của người kháng chiến đất nước mình cũng như niềm tự hào về sự
bất khả xâm phạm của vùng căn cứ. Có sống trong những ngày kháng chiến chống Pháp đầy
gian khổ khó khăn, ta mới thấm thía niềm tự hào kiêu hãnh chống Pháp gian khổ khó khăn.
Sau bao ngày tháng trong tình thế ngặt nghèo, phải phòng thủ ta đã vươn lên giành thế chủ
động trong mọi mặt trận. Những con đường từng bị giặc chiếm đóng nay đã là của ta. Hình
ảnh thơ Đêm đêm rầm rập như là đất rừng đặc tả sự lớn mạnh nhanh chóng, vượt bậc và khí
thế ra trận hào hứng, ngất trời của đoàn quân và dân ta. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả lại
chọn thời điểm ban đêm. Trong cuộc sống, đêm là lúc yên bình, tĩnh mịch, vạn vật đã chìm
vào giấc ngủ say nồng nhưng trong kháng chiến, đêm thường là điểm khởi đầu của những
hoạt động, chiến dịch chuẩn bị cho ngày mai thắng lợi. Trong màn đêm bao la bao phủ, trùm
khắm, đoàn quân của ta ra trận rầm rập như vũ bão khiến đất rung, trời lờ. Với những từ láy
rắn rỏi, hình ảnh so sánh, phóng đại, nhịp thơ đanh, chắc kết hợp với những phụ âm rung, câu
thơ bật lên âm hưởng khỏe khoắn hùng tráng góp phần tái hiện sống động cuộc diễu binh
hùng vĩ. Có thể nói, tinh thần chiến đấu quả cảm, khí thế ra trận hào hùng của cha ông trong
suốt bồn nghìn năm dựng nước, giữ nước đã sống dậy trong ngày tháng ra trận.
Chúng ta từng tự hào trước các tráng sĩ thời Trần mang tinh thần Sát Thát, về nghĩa
quân Lam Sơn với sức mạnh Đánh một trận sạch không kình ngạc - Đánh hai trận tan tác
chim muông. Và cho đến bây giờ, chúng ta lại càng tự hào về cuộc kháng chiến thần thánh
của thời đại cách mạng:

Quân đi điệp điệp trùng trùngÁnh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan

Các từ tượng thanh và các từ tượng hình như rầm rập, điệp điệp, trùng trùng được sử
dụng một cách tài tình, diễn tả chính xác khí thế tự tin, hồ hởi bao trùm cả dòng người đang ra
trận với sức mạnh như dòng thác tuôn trào, không gì có thể cản bước nổi quân ta. Hình ảnh
thơ ánh sao đầu súng đậm chất lãng mạn. Nơi đầu súng của người lính cụ Hồ người sáng ánh
sao lí tưởng cách mạng, hòa bình của niềm tin chiến thắng. Hình ảnh ánh sao đầu súng gợi
liên tƣởng đến hình ảnh đầu súng trăng treo trong bài thơ Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu.
Chỉ bằng một hình ảnh thơ, Tố Hữu đã tạc khắc chân dung của đoàn quân chủ lực bình dị mà
cao cả.

Cùng ra trận với những đoàn quân chủ lực còn có lực lượng dân công hỏa tuyến hùng
hậu. Tuy là bức tranh buổi đêm nhưng vẫn rừng rực ánh sáng - ánh sáng của đuốc đỏ, tàn lửa,
đèn pha:

Dân ..mai lên

Dân công đỏ đuốc từng đoàn và muôn tàn lửa bay là những hình ảnh huy hoàng, rực
rỡ tái hiện không khí ra trận sôi nổi của lực lượng tiến công. Với khát vọng giải phóng đất
nước cháy bỏng, những đoàn quân lấy đêm là ngày, từng đoàn, từng đoàn, với bó đuốc rực
cháy trên tay hối hả nối nhau ra trận. Với bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay ấy, núi rừng
như bừng thức. sự im lặng, tăm tối bỗng bị xé toang bởi ánh sáng đèn pha. Hình ảnh Đèn pha
bật sáng như ngày mai lên vừa cực tả ánh sáng chói lòa của đoàn xe cơ giới, vừa nên bật sự
trưởng thành lớn mạnh của quân đội ta, đồng thời, nó cũng thể hiện niềm tin vào một ngày
mai huy hoàng, sáng chói.

Khúc hùng ca Việt Bắc ra trận được khép lại bằng tiếng reo ca khi toàn thắng về ta:

Tin vui thắng trận trăm miềnHòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui vềVui từ Đồng Tháp, An
KhêVui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng

Diệp từ "vui" được điệp đi, điệp lại nhiều lần cùng với nhịp thơ ngắn, nhanh mạnh tạo nên âm
hưởng hào sảng, hùng tráng. Những cụm vui từ, vui về, vui lên tạo nên không khí phấn chấn,
vui tươi, hồ hởi. Từ Việt Bắc, tốc độ của chiến thắng bùng lên, chiến thắng nối tiếp chiến
thắng, niềm vui gọi niềm vui. Điểm đáng chú ý trong đoạn thơ là việc liệt kê hàng loạt các địa
danh mà không làm mất đi sự hấp dẫn của đoạn thơ. Nếu ở Tây Tiếm, những địa danh của
Quang Dũng xuất hiện với niềm thương nỗi nhớ thì Tố Hữu lại gọi tên những địa danh lừng
lẫy chiến công mà làm bừng tỉnh lòng người. Có thể nói, đây là điểm độc đáo trong thơ Tố
Hữu.

Nhìn chung, đoạn thơ Việt Bắc ra trận là minh chứng tiêu biểu cho phong cách thơ
đậm tính sử thi và dạt dào cảm hứng lãng mạn của Tố Hữu. Đọc đoạn thơ, ta thấy như một
khúc ca thắng trận của quân dân Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp Khẳng định, ngợi ca,
tự hào về quê hương Việt Bắc " Quê hương cách mạng dựng nên cộng hòa

Tố Hữu được mệnh danh là ngọn cờ đầu của phong trào thơ cách mạng. Thơ ông là vũ khí để
tuyên truyền, cổ động tinh thần chiến đấu cũng như nêu cao tình yêu và tinh thần yêu nước
mãnh liệt. Mặc dù thơ ông viết về chính trị nhưng không hề khô khan, ngược lại rất tình cảm.
Bài thơ "Việt Bắc" sáng tác sau khi chiến thắng thực dân Pháp, tác giả muốn gợi lại tình quân
dân thắm thiết, ân tình và sâu nặng trong cuộc kháng chiến. Bài thơ được viết theo thể đối đáp
càng gợi lên sự bình dị, ấm áp và than quen đến lạ lùng.

TINH CAM NGUOI RA DI Bài thơ Việt Bắc được viết theo thể lục bát tạo nên âm hưởng
nhẹ nhàng, trầm bổng mà lắng sâu trong lòng người đọc. Đây chính là một sự khéo léo tạo
nên thành công của bài thơ chính trị mà trữ tình, dạt dào cảm xúc này.

Tác giả mở đầu bằng sự nuối tiếc, quyến luyến, bịn rịn của người ở lại và kẻ ra đi trong một
khung cảnh tràn đầy nhớ thương:Mình về mình có nhớ taMười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ khôngNhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn

Những câu thơ chính là tâm trạng của người ở lại trong sự níu kéo và tiếc nuối khi phải chia
xa những người chiến sĩ cách mạng đã bao nhiêu năm gắn bó. Tác giả đặt đại từ "ta" và
"mình" thể hiện sự gắn bó khăng khít, son sắt và chung thủy. Tác giả đã đưa ra quãng thời
gian cụ thể là "mười lăm năm ấy" - quãng thời gian rất dài gắn liền với cuộc chiến tranh ác
liệt của nhân dân ta với thực dân Pháp. Đó cũng chính là quãng thời gian tình quân và dân
thiết tha, nặng tình nặng nghĩa. Lòng người ra đi và người ở lại tràn ngập nỗi nhớ thương,
nhìn đâu đâu cũng thấy bóng dáng của những điều xưa cũ, còn vẹn nguyên và tinh khôi ở
trong lòng. Tố Hữu dường như đã gieo vào lòng người đọc cái cảm giác vấn vương một cách
lạ lùng.

Tâm trạng quyến luyến, bịn rịn của người ở lại khiến cho người ra đi không khỏi bồn chồn
không muốn rời chân bước đi:

Tiếng ai tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ bồn chồn bước điÁo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay

Tâm sự của người ở lại khiến cho người ra đi không đành lòng bước đi. Tiếng nói đó lại làm
chực trào nhớ thương và những kỉ niệm khó quên. Tâm trạng ấy được gói gọn trong từ "bâng
khuâng" như dùng dằng, níu kéo chẳng muốn bước đi. Thật khó để có thể hiểu được cảm xúc
của người trong cuộc lúc này. Lúc này đây chính tâm trạng của người ra đi và người ở lại đều
không thể lý giải được là tại sao lại như vậy. Phải chăng tình yêu đã quá lớn và kỉ niệm đã quá
đầy để có thể quay mặt bước đi. Suốt 15 năm sống và gắn bó với mảnh đất nơi đây, đồng đội
và đồng bào đã phải trải qua bao nhiêu cay đắng, ngọt bùi, san sẻ cho nhau từng bữa cơm giấc
ngủ. Những năm tháng gian khổ ấy đâu chỉ kể với nhau trong vài câu chữ như thế này, nhưng
chính câu chữ đã khiến cho cảm xúc tràn ra, không thể thôi nhớ và thôi mong. Người ra đi đã
đáp trả lại tình cảm người ở lại:

Ta với mình, mình với taLòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

«Ta» và «mình dường như hòa quyện với nhau thành một thể thống nhất, không tác rời nhau.
Người ra đi một mực khẳng định rằng «mặn mà đinh ninh». Hai từ «đinh ninh» như ghim chặt
vào lòng người đọc tấm lòng son sắt và thủy chung trước sau như một. Đó là tình cảm hết sức
thiêng liêng và cao cả.

Khi nhớ về núi rừng việt bắc tác giả nhớ tất thảy thiên nhiên và con người nơi đây. Mọi thứ
hiện lên đều rất sống động, đậm nghĩa, vẹn tình. Chỉ với vài bước phác họa bức tranh tứ bình
về thiên nhiên và con người nơi đây hiện lên một cách vẹn tròn, ý nghĩa, tươi đẹp nhất:
Ta về mình có nhớ taTa về ta nhớ những hoa cùng ngườiRừng xanh hoa chuối đỏ tươiĐèo
cao ánh nắng dao gài thắt lưngNgày xuân mơ nở trắng rừngNhớ người đan nón chuốt từng
sợi giangVe kêu rừng phách đổ vangNhớ cô em gái hái măng một mìnhRừng thu trăng rọi
hòa bìnhNhớ cô em gái hái măng một mình

Một bức tranh tứ bình tuyệt đẹp, sống động và tinh khôi và núi rừng Việt Bắc. Trong bức
tranh ấy không chỉ có hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp, hùng vĩ mà còn xuất hiện thêm hình ảnh
con người chân chất, mộc mạc nhưng lại tình cảm và ý nghĩa biết bao.Có lẽ đây là đoạn thơ
hay nhất, đẹp nhất, trữ tình nhất trong bài thơ Việt Bắc. Nó chính là điểm sáng để cả bài thơ
tràn đầy tình yêu thương và tinh thần lạc quan nhất.

Điệp từ nhớ được lặp đi lặp lại rất nhiều lần khiến cho nỗi nhớ trong cả bài thơ dường như
tràn ra lênh láng, cảm xúc của tác giả cũng như vỡ òa, dội lên mãnh liệt.

Tác giả không chỉ nhớ đến cảnh vật và con người Việt Bắc, quan trọng hơn nữa là ông nhớ
những cuộc chiến tranh ác liệt gian khổ đã diễn ra:

Nhớ khi giặc đến giặc lùngRừng cây núi đá ta cùng đánh tâyNúi giăng thành lũy sắt dàyRừng
che bộ đội rừng vây quân thù

Với giọng điệu không còn dìu dặt, tha thiết đặc trưng của thể lục bát nữa mà đã chuyển sang
sự hào hùng, vang dội khi kể về những trận chiến giữa núi rừng Việt Bắc. Đọc những vần thơ
này, chúng ta nhận ra được hào khí Đông A thật mạnh mẽ và quyết liệt, dữ dội trong lòng của
tác giả. Những năm tháng đó, những cuộc chiến đó vẫn chưa hề xóa nhòa trong lòng quân và
dân.

Thực vậy, bài thơ «Việt Bắc» của Tố Hữu với giọng điệu thiết tha, da diết và hào hùng, đanh
thép đã gợi mở về tình quân dân đậm đà thắm thiết và tinh thần yêu nước mãnh liệt của nhân
dân ta. Đọc bài thơ chúng ta thêm ngưỡng mộ và khâm phục sự tài tình của Tố Hữu

PHAN TICH KHO BA

Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ cách mạng Việt Nam trong thế kỷ 20. Không
chỉ sở hữu số lượng bài thơ lớn mà ông còn có những sáng tác xuất sắc, bám sát và kịp thời
phản ánh các sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước ta. Bài thơ Việt Bắc là một trong những
tác phẩm xuất sắc đó. Tình cảm luyến lưu, bịn rịn giữa kẻ ở, người đi thật thắm thiết, được thể
hiện rõ ở đoạn 2 của bài thơ.
Ở đoạn thơ này, người ở lại nhắc về những kỷ niệm về thiên thiên con người và cả
cuộc kháng chiến nơi núi rừng Việt Bắc. Cụm từ “mình đi, mình về” và điệp từ “nhớ” được
lập lại nhiều lần tạo nên âm hưởng thơ sâu sắc, khắc thêm những kỷ niệm đáng nhớ chẳng thể
nào quên. Hàng loạt các câu hỏi tu từ cũng được sử dụng để diễn tả tình cảm tha thiết của
người dân Việt Bắc dành cho các cán bộ trở về xuôi.
“Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù”
Hình ảnh “mưa nguồn suối lũ, như mây cùng mù” là nét đặc trưng của Việt Bắc, vừa
nói lên giai đoạn kháng chiến đầy khó khăn gian khổ. Đó chính là những gian truân mà cả
người đi và người ở đã từng trải qua, thấm thía trên mảnh đất Việt Bắc trong suốt những ngày
tháng kháng chiến.
“Mình về có nhớ chiến khuMiếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?”
Câu thơ thứ 2 ngắt nhịp 4/4 với hai vế tiểu đối tạo nên một cấu trúc hài hoà. Ý thơ
diễn tả về cuộc kháng chiến thiếu thốn với nhiều khó khăn. Thế nhưng giữa sự thiếu thốn,
nghèo khổ đó, nhân dân Việt Bắc vẫn một lòng chung thủ, chia nhau từng miếng cơm, lúc nào
cũng sát cánh của cán bộ cách mạng chiến đấu với chung một lòng căm thù giặc sâu sắc.
Câu thơ như một biểu tượng về sự đồng lòng, đoàn kết giữa cán bộ cách mạng và quần
chúng nhân dân Việt Bắc. Cụm từ “mối thù nặng vai” thể hiện khả năng dùng từ độc đáo của
nhà thơ Tố Hữu. Tác giả thành công biến cảm xúc vốn trừu tượng thành cái cụ thể, được cân
đó bằng sức nặng để biết đạt cho lòng căm thù giặc.
Trong sự lưu luyến chia xa, người ở lại tiếp tục gọi nhắc về những kỷ niệm cùng nhau
chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ.
“Mình đi có nhớ những nhàHắt hiu lau xám đậm đà lòng son
Mình về rừng núi nhớ aiTrám bùi để rụng, măng mai để già”
Câu thơ miêu tả tình cảm mộc mạc và chân thành của người dân Việt Bắc với cách
mạng qua 2 vế tiểu đối “hắt hiu lau xám” và “đậm đà lòng son”. Cũng chính vì ân tình sâu
nặng ấy nên khi các cán bộ kháng chiến trở về xuôi, dường như cả núi rừng Việt Bắc cũng trở
nên hoang vu, hiu quạnh.
Trám và măng được biết đến là đặc sản của núi rừng Việt Bắc, là món ăn thường nhật
của bộ đội ở chiến khu. Phép hoán dụ trong câu thơ “mình về, rừng núi nhớ ai” gợi nhiều cảm
xúc động. Người về rồi rám không ai hái để rụng khắc rằng, măng chẳng ai ăn để già khắp
núi. Đại từ phiếm chỉ “ai” trong “nhớ ai” làm cho nỗi nhớ giữ kẻ ở người đi càng thêm tha
thiết.
Người ở lại tiếp tục gợi nhắc kỷ niệm về cuộc kháng chiến. Đó là nhắc tới chiến khu
Việt Bắc gắn liền với những sự kiện trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam. “Mình về
còn nhớ núi nonNhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mìnhTân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”
Việt Bắc chứng kiến bao nhiêu sự kiện chính trị quan trọng những ngày đầu của cách
mạng, những địa danh “Tân Trào”, “Hồng Thái”, “mái đình”, “cây đa” đã trở thành nhân
chứng lịch sử cho thời kỳ vất vả nhưng hào hùng của cách mạng Việt Nam.
Chữ “mình” được sử dụng với nhiều ý nghĩa, bao hàm cả người Việt Bắc và những
cán bộ kháng chiến. Ý thơ nhắc nhở người ra đi đừng quên đi những ân tình sâu nặng, quãng
thời gian gắn bó keo sơn. Mỗi kỷ niệm đều được nhắc lại mang ý nghĩa lịch sử sâu sắc: Việt
Bắc là cội nguồn, là quê hương của cách mạng; Việt Bắc là nơi sinh ra lực lượng cách mạng
và nơi bắc đầu của mọi thắng lợi.
12 câu thơ của đoạn 2 Việt Bắc, tác giả sử dụng 8 từ “mình” và 7 từ “nhớ” và hai cặp
từ “mình đi, mình về” được lặp đi lặp lại, kết hợp cùng ngôn ngữ mộc mạc giản dị, giọng thơ
du dương ngọt ngào đã thành công khắc họa tình cảm sâu nặng giữa người ở lại và người ra
đi. Đoạn thơ đã cho thấy “Việt Bắc” chính là khúc tình ca về cách mạng về cuộc sống và con
người kháng chiế

KHO 4

Đoạn trích Việt Bắc là một trong những minh chứng tiêu biểu cho khả năng lay động
trái tim con người, tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu một thi sĩ được mệnh danh là lá cờ
đầu thơ ca cách mạng Việt Nam. Và đoạn thơ thứ tư là một trong những khúc ca của nỗi nhớ
đã để lại dấu ấn trong lòng bao thế hệ bạn đọc.

Đoạn thơ tiếp nối những lời nhắn nhủ, tâm tình của người ở lại trao cho người ra đi.

"Ta với mình mình với taLòng ta sau trước mặn mà đinh ninhMình đi mình lại nhớ
mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu..."


     Dường như thấu tỏ nỗi băn khoăn do dự đoán có nhớ không của người ở lại mình
ra đi đã khẳng định chắc chắn sắt son câu trả lời vang lên như một lời thề. Cặp đại từ ta mình
hòa quyện quấn quýt với lời thề thủy chung gắn bó. "Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh",
không bao giờ thay đổi, không bao giờ vơi cạn như nước nơi thượng nguồn. Câu thơ "nguồn
bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu" vừa là hình ảnh so sánh đậm màu sắc của văn học dân
gian, giản dị mà sâu sắc, lại vừa như lời đồng vọng, nguyện thề trước lời nhắn nhủ thiết tha
của người ở "...nhìn sông nhớ nguồn". Cuộc chia tay của người dân Việt Bắc và con người
kháng chiến cũng đầy bịn rịn, chất chứa nhiều nhớ thương nhưng không đẫm lệ như những
cuộc chia tay trong văn học cổ:

"Cùng trông lại mà cùng chẳng thấyThấy xanh xanh những mấy ngàn dâuNgàn dâu
xanh ngắt một màuLòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai"

     Có lẽ đây là cuộc chia tay của những con người vừa làm nên chiến thắng, đó là
cuộc chia tay trong yêu thương và cả trong niềm vui niềm tin tưởng của ngày mai gặp lại.

     Theo sau lời khẳng định thủy chung sắt son, nỗi nhớ cảnh là người Việt Bắc về
trong tâm trí người ra đi.

“Nhớ gì như nhớ người yêuTrăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nươngNhớ từng bản
khói cùng sươngSớm khuya bếp lửa người thương đi về.Nhớ từng rừng nứa bờ treNgòi Thia,
sông Đáy, suối Lê vơi đầyTa đi, ta nhớ những ngàyMình đây, ta đó đắng cay ngọt bùi…”

     Theo Chế Lan Viên, thơ Tố Hữu nói các vấn đề bằng trái tim của một người đầy
say đắm. Ở đây nỗi nhớ Việt Bắc được so sánh như nỗi "nhớ người yêu" một nỗi nhớ cháy
bỏng, nồng nàn, thiết tha, mãnh liệt. Tình yêu là nỗi nhớ, nhất là khi về cách xa thì nỗi nhớ
càng cồn cào da diết khôn nguôi. Dường như nỗi nhớ của người cách mạng từ thiên nhiên và
con người Việt Bắc có lẽ cũng không kém phần tha thiết như thế. Tố Hữu đã lấy thước đo giá
trị của nỗi nhớ trong tình yêu để cắt nghĩa, lý giải cho tình cảm của cán bộ đối với nhân dân.
Không phải là nỗi nhớ của ý thức , của nghĩa vụ mà nhớ bằng cả trái tim yêu thương chân
thành và da diết. Câu thơ “Trăng lên đầu núi…” như được phân ra làm 2 nửa thời gian: vế đầu
là hình ảnh gợi tả đêm trăng hò hẹn của tình yêu; vế sau là hình ảnh gợi không gian của buổi
chiều lao động trên nương rẫy. Thời gian như chảy ngược - nỗi nhớ như đi từ gần tới xa, thăm
thẳm trong quá khứ. Tình yêu gắn liền với lao động; lao động nảy sinh ra tình yêu . Câu thơ
cùng lúc thể hiện hai không gian của tình yêu và lao động, tạo nên sự hài hoà giữa nghĩa vụ và
tình cảm. Vì vậy cảnh và người phút chốc trở lại đầy vơi trong tâm trí của người ra đi.

     Theo mỗi điệp khúc "nhớ" là một nét đẹp của thiên nhiên Việt Bắc, vừa hiện thực,
vừa thơ mộng, thi vị trong những không gian và thời gian khác nhau. Một vầng trăng thấp
thoáng nơi đầu núi, một ánh nắng chiếu lấp ló lưng nương, những bản làng bồng bềnh trong
khói, trong sương, những rừng nứa bụi tre những núi đèo, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê để vơi
trong nỗi nhớ. Bằng phép liệt kê làm cho những kỷ niệm khơi ra tầng tầng lớp lớp, hết hình
ảnh này, đến hình ảnh khác. Những hình ảnh “rừng nứa bờ tre” chính là nơi hẹn hò, gặp gỡ
cái thở ban đầu ,lúc mới quen nhau. Đây cũng là những danh từ chung mô tả đặc điểm của
không gian Việt Bắc với bao nét đẹp mơ mộng. Còn “Ngòi Thia , sông Đáy , suối Lê … là
những địa danh lịch sử, đã từng khắc ghi trong lịch sử Cách mạng - nơi đã diễn ra nhiều chiến
công oanh liệt. Sương khói hư vô mờ mịt mơ hồ. Nhưng đó là động thái chuẩn bị trong một
thứ ánh sáng đặc biệt hiện ra "sớm khuya bếp lửa người thương đi về". sự đối lập giữa cái
lạnh và cái trừu tượng là cụ thể đã làm nổi bật tình người ấm áp. Tấm lòng của đồng bào với
cách mạng đáng quý đến nhường nào, vì thế mà thương, mà nhớ, thương nhớ đến xót xa. Đó
là những hình ảnh thân thuộc gần gũi của thiên nhiên và con người mang đậm chất Việt Bắc.
Ở đây thiên nhiên Việt Bắc không còn ảm đạm "những mây cùng mù" nữa mà ấm áp, tươi
vui. Thiên nhiên, cuộc sống hiện lên vừa thực, vừa mộng, vừa đơn sơ mà thị vị, gợi rõ nét
riêng biệt độc đáo khác hẳn với bao miền quê đất Việt. Chỉ có những con người sống gắn bó
máu thịt với Việt Bắc để có cái nhìn toàn diện của nỗi nhớ da diết và cảm nhận sâu sắc đến
thế. Như Chế Lan Viên, một người con cũng từng gắn bó với Việt Bắc đã viết:

"Khi ta ở, chỉ là nơi đất ởKhi ta đi đất đã hóa tâm hồn".

     Trên phông nền thiên nhiên Việt Bắc bảo làn khói sương hình ảnh con người
thoáng qua nhưng đem lại hơi ấm và màu sắc rực rỡ cho cảnh thiên nhiên. Trong dòng ký ức
đứt, nối, mở tỏ, những dòng thơ sau hình ảnh con người Việt Bắc hiện lên thật thân thương
mộc mạc gắn liền với kỷ niệm của một thời không thể nào quên. Việt Bắc đã trở thành người
yêu thương của tác giả và của những con người kháng chiến.

"Ta đi ta nhớ những ngàyMình đây ta đó đắng cay ngọt bùi".

     Cuộc sống của đồng bào Việt Bắc nhiều khó khăn nhưng đầy ắp nghĩa tình. Trong
ký ức của người kháng chiến những tháng ngày khó khăn thiếu thốn trở nên thật ấm áp biết
bao. Dù gian nan, dù khổ cực, mình với ta vẫn gắn bó đồng hành bên nhau.

     Việt Bắc ru hồn người đọc bằng giai điệu ngọt ngào, tha thiết của nỗi nhớ, sự cân
đối nhịp nhàng trong từng lời thơ, bên cạnh những hình ảnh gần gũi mà gợi cảm. Sự kết hợp
hài hòa ấy đã đánh thức trong lòng người đọc ý thức trách nhiệm với dân tộc, tình quân dân
keo sơn gắn bó, đạo lý uống nước nhớ nguồn, tự hào về truyền thống anh hùng bất khuất, ân
nghĩa, thủy chung của con người cách mạng. Việt Bắc với tiếng thơ tha thiết, điệu thơ êm ái là
khúc ca trữ tình nồng nàn sôi nổi bậc nhất trong thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại.

KHO 5

Tố Hữu vừa là một nhà chính trị tài ba vừa là một nhà thơ tài hoa. Nói về cảm hứng nghệ thuật, Tố
Hữu có lần chia sẻ: “Tôi đã viết về đất nước, về người dân mình như viết về người phụ nữ mà mình
yêu”. Có lẽ bởi vậy, người ta biết đến nhà thơ nhiều với cái tên gọi “nhà thơ với những bài thơ trữ
tình chính trị” sâu sắc. Ông viết về những vấn đề, những sự kiện trọng đại có ý nghĩa lịch sử của
thời đại với những hình tượng mang đậm màu sắc sử thi. Đọc đoạn 5 của bài thơ ta hiểu được sâu
sắc nỗi nhớ của người ra đi và thiên nhiên, con người Việt Bắc và cuộc sống sinh hoạt kháng chiến

Trong 6 câu thơ đầu nhà thơ đã thể hiện nỗi nhớ sâu đậm của người ra đi với những vẻ đẹp thơ
mộng của thiên nhiên Việt Bắc. Cả 3 cặp câu lục đều bắt đầu bằng một chữ nhớ thật tha thiết. Sắc
thái và mức độ được miêu tả qua một so sánh ngọt ngào thấm thía:

“Nhớ gì như nhớ người yêu”

Nhớ người yêu là nỗi nhớ ám ảnh luôn thường trực, không thể nguôi ngoai vơi cạn, nỗi nhớ nhiều
khi mãnh liệt đến phi lí như trong cảm nhận của Xuân Diệu “ Uống xong lại khát là tình- Gặp rồi lại
nhớ là mình với ta”, đó là nỗi nhớ từng khiến chính Tố Hữu ngạc nhiên: “ Lạ chưa, vẫn ở bên em -
Mà anh vẫn nhớ vẫn thèm gặp em”. Qua so sánh Tố Hữu đã bộc lộ sự gắn bó sâu nặng và nỗi nhớ
thương của người miền xuôi với mảnh đất và con người Việt Bắc. Từng cảnh vật của Việt Bắc trong
mọi không gian và thời gian đã liên tiếp dồn dập trong người ra đi : Việt Bắc khi thơ mộng với ánh
trăng bàng bạc thấp thoáng nơi đầu núi, khi ấm áp nhạt nhòa trong ánh nắng chiều lưng nương, lúc
lại mơ hồ huyền ảo giữa bản khói cùng sương và nhất là luôn nồng đượm ân tình bởi sự quấn quýt
với hình ảnh con người khi sớm khuya bếp lửa người thương đi về từ “nhớ” và cụm từ “nhớ từng”
điệp lại nhiều lần trong đoạn thơ cho thấy nỗi nhớ da diết sâu đậm của người đi không chỉ với
những cảnh vật cụ thể, thân thuộc mà còn nỗi nhớ bao trùm, toàn vẹn với tất cả những gì thuộc về
Việt Bắc. Nhớ những ngày cùng nhau chia sẻ khó khăn gian khổ”

“Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”

Tuy thiếu thốn, gian khổ nhưng cảnh và người Việt Bắc đẹp và tình nghĩa chan hòa. Hình ảnh
tượng trưng: "Chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng" kết hợp với cách dùng từ cùng
nghĩa "chia, sẻ, cùng" diễn tả được mối tình cảm "chia ngọt sẻ bùi" giữa nhân dân Việt Bắc và cán
bộ cách mạng. Biết bao tình nghĩa sâu nặng trong "củ sắn", "bát cơm", "chăn sui"... mà người cán
bộ cách mạng đã chịu ơn Việt Bắc. Đây là một hình ảnh đậm đà tình giai cấp. Nhớ tình cảm của
những người mẹ Việt Bắc:

“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng.Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô”

Hình ảnh chọn lọc “Người mẹ nắng cháy lưng...” gợi người đọc liên tưởng đến sự tần tảo chắt
chiu, cần cù lao động của bà mẹ chiến sĩ trong kháng chiến đã đùm bọc, cưu mang chiến sĩ, cán bộ
cách mạng. Đó là hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp, cái ân tình trong cuộc sống kháng chiến không thể
phai nhòa trong kí ức của người về xuôi.

Người ra đi không chỉ nhớ những hình ảnh của cuộc sống đói nghèo hay gian nan vất vả, tâm trí
họ còn in đậm những kỉ niệm đẹp đẽ, thân thương những nếp sống yên bình thơ mộng của cuộc
sống núi rừng thời kháng chiến. Nỗi nhớ hướng đến lớp học i tờ- hình ảnh cảm động của phong trào
Bình dân học vụ xóa nạn mù chữ ngay những ngày đầu kháng chiến khi được học con chữ Bác Hồ.

Khép lại những thước phim về cuộc sống chiến khu giản dị, nghĩa tình là những âm thanh quen
thuộc thân thương:

“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiềuChày đêm, nện cối đều đều suối xa”

Đọc hai câu thơ thấy văng vẳng những khúc nhạc đồng quê, mỗi một âm thanh lại gợi mở bức họa
bình dị mà thơ mộng. Âm thanh gợi một không gian êm ả, thanh bình. Tiếng giã gạo đêm khuya
bình dị mà ghi dấu bao nghĩa tình sâu nặng. Tiếng suối róc rách nơi rừng xa lại gợi cái trong ngần,
thơ mộng của cảnh vật. Lời thơ rứt mà những âm thanh ấy cứ ngân vang mãi trong lòng người chia
xa Việt Bắc.

Với đoạn thơ cùng với việc sử dụng các biện pháp so sánh, những hình ảnh quen thuộc gần gũi Tố
Hữu đã giúp người đọc cảm nhận chân thực được cuộc sống của người dân Việt Bắc và trở thành
nỗi nhớ chung của con người Việt Nam. Nỗi nhớ, lòng yêu nước trong “Việt Bắc” mãi là điểm sáng
góp phần khẳng định giá trị tác phẩm và tài năng của nhà thơ

KHO 6

Đó là nhà thơ của lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của lòng thương mến và ân tình thủy
chung. Đặc biệt, bài thơ ” Việt Bắc ” trong tập thơ cùng tên của Tố Hữu là một tác phẩm nghệ thuật
đặc sắc. Ở bài thơ ấy, Tố Hữu đã khẳng định tình cảm thủy chung của người cán bộ về xuôi với
nhân dân Việt Bắc, với kháng chiến, với cách mạng. Tiêu biểu trong bài là khổ thơ thứ 10 với nỗi
nhớ người lãnh đạo cách mạng - chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, người cha của dân tộc.

”Ở đâu u ám quân thù


Nhìn lên Việt Bắc: cụ Hồ sáng soi

Mình về mình lại nhớ ta

Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào.”

     Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, hoà bình trở lại nước ta, miền
bắc được giải phóng. Một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở
ra. Lúc này, các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về thủ đô
Hà Nội. đây cũng chính là lúc Tố Hữu đã sáng tác nên bài thơ ”Việt Bắc”. Phần đầu của bài thơ tái
hiện giai đoạn gian khổ, vẻ vang của Cách mạng và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc nay đã trở
thành những kỉ niệm sâu sâu đậm trong lòng người. Phần sau nói lên sự gắn bó giữa miền ngược và
miền xuôi trong một viễn cảnh hòa bình tươi sáng của đất nước và kết thúc bằng lời ngợi ca công
ơn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng đối với dân tộc.

” Ở đâu u ám quân thù

Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi

Ở đâu đau đớn giống nòi

Trông về Biệt Bắc mà nuôi chí bền”

     Qua 4 câu thơ đầu của khổ thơ ta thấy được nỗi nhớ của cán bộ về xuôi cũng như nhân dân
Việt Bắc về vị cha già kính yêu của dân tộc một cách thật tha thiết - người đã mở cho Cách mạng
Việt Nam một con đường mới. Lối điệp cấu trúc qua hai câu thơ 6 chữ bắt đầu bằng chữ ”ở đâu”
đều xuất hiện hình ảnh của hiện thực đau đớn của quê hương đất nước ta: “u ám quân thù”, ”đau
đớn giống nòi”. Đó là những hình ảnh hiện thực đau đớn của một dân tộc bị mất nước, bị giặc ngoại
xâm: chúng bóc lột nhân dân ta một cách vô cùng tàn nhẫn, chúng gây ra nạn đói khủng khiếp khiến
hơn 2 triệu đồng bào ta bị chết đói,… – một hiện thực khó mà phai mờ được. Để làm nhẹ dịu hình
ảnh đau đớn ấy, nhà thơ đã lồng vào 2 hình ảnh đối lập: ”Cụ Hồ sáng soi”, ”mà nuôi chí bền” ở câu
thơ 8 chữ. Điệp từ ”nhìn” và ”trông” ở hai câu thơ 8 chữ đều hướng về Việt Bắc – trung tâm đầu
não của cuộc kháng chiến. ”Cụ Hồ sáng soi” gợi đến ánh sáng của lí tưởng soi đường cho dân tộc,
ánh sáng của những chỉ đạo sáng suốt, áng sáng của niềm tin và hy vọng. Cụm từ ”mà nuôi chí bền”
diễn tả dù hiện thực có gian khổ đến đâu thì phải đối diện với những khó khăn thử thách nhiều thế
nào thì chỉ cần nhìn về Việt Bắc nhân dân sẽ cảm thấy có lòng tin và ý chí chiến đấu, nuôi chí bền,
trường kì kháng chiến chắc chắn sẽ thành công.

Mười lăm năm ấy, ai quênQuê hương Cáng mạng dựng nên Cộng hòa

Mình về mình lại nhớ taMái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào…

     Đoạn thơ trên là bản anh hùng ca của cuộc kháng chiến chống Pháp, là đoạn thơ có tính trữ tình
chính trị sâu sắc. Đây cũng là đoạn thơ khắc họa rõ nét vẻ đẹp tâm hồn, tính cách con người Việt
Nam luôn sống gắn bó thủy chung cho dù trong những ngày khó khăn hay hạnh phúc.

Bài làm 2

“Thảo nguyên Châu Mộc nhớ không?Một thời lính trẻ tang bồng chưa xa.
Mỏ Mù, Tây Bắc, lau già…Kỷ niệm xưa bỗng trắng nhòa sắc ban.”

(Nhớ Tây Bắc, Phạm Ngọc San)

Chẳng biết tự bao giờ, Tây Bắc trở thành miền thương nhớ trong trái tim biết bao người, đặc biệt
là với những người lính đã từng vào sinh ra tử cùng xứ hoa ban. Tây Bắc đã trở thành “nàng thơ”
của biết bao thi sĩ, và tất yếu, không thể không nhắc đến thi phẩm “Tây Tiến” của nhà thơ Quang
Dũng. Giữa cái bộn bề của thị trường thơ hôm nay, lật trang sách cũ, gặp Tây Tiến của Quang
Dũng, chợt xôn xao cõi lòng theo những vần thơ đượm màu kiêu bạc hào hoa: Sông Mã xa rồi Tây
Tiến ơi…

Bên cạnh những bài thơ nổi tiếng một thời như Đồng chí của Chính Hữu, Nhớ của Hồng
Nguyên…, Tây Tiến của Quang Dũng là một thi phẩm đặc sắc. Đoàn quân Tây Tiến là một đơn vị
quân đội được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với quân đội Lào chống quân đội của
thực dân Pháp. Địa bàn hoạt động của lính Tây Tiến rất rộng, từ tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình,
miền Tây Thanh Hóa, Sầm Nứa (Lào), trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn,
bệnh sốt rét hoành hành dữ dội, nhưng họ sống rất lạc quan và chiến đấu dũng cảm. Chiến đấu được
một thời gian thì đoàn binh Tây Tiến trở về Hòa Bình tại trung đoàn 52, khi ấy Quang Dũng là đại
đội trưởng sau đó ông chuyển sang đơn vị khác. Trong nỗi nhớ đồng chí đồng đội đến cồn cào và da
diết, tại làng Phù Lưu Chanh ông đã viết bài thơ Tây Tiến (1948).

Thiên nhiên núi rừng Tây Bắc thơ mộng trữ tình là thế nhưng ẩn sau đó là vẻ hoang sơ với đầy
những hiểm nguy đang rình rập. Trước cảnh hùng vĩ của non nước, hình tượng người lính Tây Tiến
của Quang Dũng hiện lên như một tượng đài bất diệt, mang vẻ đẹp vừa hùng tráng vừa tài hoa lãng
tử của những người con Hà thành. Bài thơ Tây Tiến đã tái hiện chân thực lại sự tàn khốc của chiến
tranh, những gian lao vất vả mà người lính phải trải qua trên chặng đường kháng chiến. Thế nhưng
chưa bao giờ họ lùi bước trước khó khăn thử thách, những người lính vĩ đại ấy vẫn sống lạc quan
yêu đời và chiến đấu anh dũng kiên cường.

Toàn bài thơ là một nỗi nhớ. Tác giả nhớ về cuộc sống gian khổ, nhớ về kỷ niệm những đêm liên
hoan, về cái âm u, hoang dã của rừng núi và in đậm nhất là nỗi nhớ của người lính Tây Tiến. Nổi
bật trong tác phẩm là cảm hứng lãng mạn và bi tráng của từng câu thơ. Mở đầu tác phẩm là nỗi nhớ
miên man trải dài.

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.”

Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi làm nao lòng người. Nỗi nhớ thương, nỗi nhớ như nén chặt, bỗng
trào dâng. Sông Mã không chỉ là một địa danh mà nó còn là một “chứng nhân lịch sử” trong suốt
chặng đường hành quân. Tây Tiến cũng không chỉ là tên một đoàn quân mà nó đã trở thành một
người bạn, một người tri kỉ bấy lâu. “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi” như chứa đựng cả một bầu trời
thương nhớ với bao bâng khuâng hụt hẫng và nuối tiếc. Âm “ơi” như ngân vang ra từ vách đá của
núi rừng Tây Bắc, ngân vang trải dài đến đâu mang theo tâm tư tình cảm của Quang Dũng lan ngấm
thấm tràn đến đó. Từ “ơi” bắt vần với từ láy “chơi vơi” làm cho âm điệu câu thơ trở nên mênh
mang, chơi vơi. Có lẽ Quang Dũng đã học tập cách diễn đạt nỗi nhớ trong ca dao:

“Ra về nhớ bạn chơi vơiNhớ chiếu bạn trảiNhớ chăn bạn nằm”

Có lẽ nếu diễn tả “nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ như những đợt sóng cồn cào, có vẻ không đúng. Hai
chữ “chơi vơi” không để diễn tả sự dồn dập, thắm thiết, diết da. Vốn dĩ nó diễn tả những thứ như
không có điểm tựa, chênh vênh, mênh mang. Và có lẽ nỗi nhớ ở đây cũng vậy, ấy là thứ cảm xúc
như lan tràn, mênh mang, không điểm tựa. Nó như sự hẫng hụt, lại mang đến sự bồn chồn, xôn xao
trong tâm hồn. Nhớ như vậy, có lẽ mới quay quắt, mới khiến người ta nhói lòng.
Từ Phù Lưu Chanh ông nhớ dòng sông Mã, nhớ núi rừng miền Tây, nhớ đoàn binh Tây Tiến –
một đơn vị bộ đội đã hoạt động tại vùng rừng núi miền Tây Thanh Hóa, Hòa Bình, Sơn La – biên
giới Việt Lào trong những năm đầu kháng chiến. Bao kỉ niệm đẹp một thời chinh chiến bỗng sống
dậy. Những tên bản, tên mường của rừng xưa núi cũ yêu thương hiện về, bỗng trở nên gần gũi thân
thiết, làm xao xuyến hồn người chiến sĩ:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Sài Khao, Mường Lát là những địa danh, bản làng xa xôi hẻo lánh mà lính Tây Tiến đã hành quân
qua hoặc đã có những phút giây ngơi nghỉ. Sài Khao là mảnh đất lắm sương nhiều khói, sương che
lấp đường đi, sương phủ kín bóng người, sương như tấm áo choàng bảng lảng trùm lên con sông,
ngọn suối, sườn đèo. Ta nghe đâu đây giữa núi rừng hiểm trở cheo leo có những hơi thở mệt mỏi
của những chàng trai đất Hà thành nhọc nhằn trên từng chặng đường hành quân. Thế mà với trái tim
nhạy cảm, tình yêu tha thiết với mảnh đất và con người Tây Bắc, họ như nghe từng hơi thở nhịp đập
thậm chí là cái khe khẽ trở mình của cỏ cây hoa lá trên đất Mường Lát khi màn đêm buông xuống.

Ngày nối ngày, đêm nối đêm, trải qua bao dãi dầu, “đoàn quân mỏi” giữa cái biển sương mù của
núi rừng miền Tây; “đoàn quân mỏi” tưởng như bị “lấp” đi, bị trĩu xuống trong mệt mỏi, gian truân,
nhưng thật bất ngờ, bỗng xuất hiện “hoa về trong đêm hơi”. Cái mỏi mệt, cái gian khổ như đã tiêu
tan. Sáu thanh bằng liên tiếp diễn tả cái nhẹ nhàng, cái lâng lâng trong tâm hồn người lính trẻ đi tới
đích sau những chặng đường dài hành quân đầy thử thách: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.

Có thể nói Quang Dũng như một phóng viên lia ống kính để mở ra trước mắt người đọc một thước
phim về núi rừng hiểm trở mà cheo leo:

“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm,Heo hút cồn mây súng ngửi trời.

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuốngNhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Các từ láy: “thăm thẳm”, “khúc khuỷu”, “heo hút” được lựa chọn và sử dụng như những nét khắc,
nét vẽ có giá trị tạo hình đặc sắc, làm hiện lên những dốc, những cồn mây mà nhà thơ và đồng đội
phải vượt qua trong những tháng ngày: “áo vải chân không đi lùng giặc đánh” (Hồng Nguyên). Cả
câu thì có 5 chữ mang thanh trắc “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” nhằm nhấn mạnh cuộc hành
quân của đoàn quân Tây Tiến đi qua địa bàn đèo dốc quanh co, lên cao mãi, vô vùng khó khăn,
khốc liệt.

Có câu thơ gồm 2 vế tiểu đối, bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ Tây Tiến được đo bằng:
“Ngàn thước lên cao // Ngàn thước xuống”. Núi tiếp núi, đèo nối đèo, hết lên cao, lại xuống thấp,
đoàn quân đi trong mù sương, trong màn mưa rừng. Dường như câu thơ có sự chuyển động, càng
đẩy ra hai phía là núi cao chất ngất lưng trời, vực sâu thăm thẳm khôn cùng để lại khoảng trống về
một Tây Bắc dữ dội, huyền bí như một ẩn số đối với con người.

Từ những đỉnh cao “ngàn thước”, các chiến binh dõi tầm mắt nhìn xa. Những bản mường, những
nhà sàn thấp thoáng ẩn hiện. Câu thơ thất ngôn, toàn thanh bằng gợi tả cảm xúc tươi vui, lâng lâng
thanh thản dâng lên trong tâm hồn người lính trẻ rất lạc quan yêu đời khi dõi nhìn về xa qua màn
mưa rừng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Cảnh vật bỗng trở nên nửa thực nửa ảo chập chờn như
trong cõi mây, chất lãng mạn như phủ kín cảnh vật, đó là sản phẩm của một họa sĩ ẩn trong tâm hồn
một thi sĩ.

“Súng ngửi trời” là một cách cảm nhận rất ngộ nghĩnh mang đậm chất lính. Một chút tếu táo của
người lính giữa chốn đèo cao càng làm cho họ trở nên đẹp đẽ hơn, như minh chứng cho ý chí, sức
mạnh phi thường và khát khao chinh phục. Thật đúng là:
“Đèo cao thì mặc đèo caoTrèo lên tới đỉnh ta cao hơn đèo”

Tây Bắc được nhà thơ quan sát ở nhiều góc độ: ngước mắt nhìn lên là núi cao lưng trời, đưa mắt
nhìn xuống là vực sâu hun hút, phóng xa tầm mắt trong làn sương ta có cảm giác những ngôi nhà
trên đất Pha Luông đang bồng bềnh trôi giữa chốn xa khơi. Cảnh vật bỗng trở nên nửa thực nửa ảo
chập chờn như trong cõi mây, chất lãng mạn như phủ kín cảnh vật, đó là sản phẩm của một họa sĩ
ẩn trong tâm hồn một thi sĩ.

Sự trắc trở, hiểm nguy của thiên nhiên còn được diễn tả một cách gân guốc:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thétĐêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Cảnh hiểm trở cheo leo nhưng đâu có tĩnh lặng thanh bình… Với những từ “oai linh”, “gầm thét”
thác nước như một sức mạnh thiêng liêng, đầy quyền uy, đầy đe dọa, và những con hổ đi lang thang
hoành hành ngang dọc coi mình là chúa tể của núi rừng làm cho cảnh rừng núi thêm rùng rợn ghê
sợ. “Chiều chiều” rồi “đêm đêm” thiên nhiên dữ dội “gầm thét” và những hiểm nguy luôn rình rập
như thể “trêu người”. Thiên nhiên hùng vĩ mà kì tráng, qua nét bút của Quang Dũng đã trở nên khắc
nghiệt, khó khăn và đầy những những hiểm ngụy. Và vì chiến tranh, vì rừng thiêng nước độc cho
nên rất nhiều chiến sĩ, rất nhiều đồng đội đã phải bỏ mình nơi đó, bỏ lại tuổi trẻ và những ước mơ
dở dang:

"Anh bạn dãi dầu không bước nữaGục bên súng mũ bỏ quên đời”

“Bỏ quên đời” chỉ là cách nói nhằm giảm nhẹ sự mất mát, tang thương khi người lính lìa trần.
Nhưng hình ảnh sử dụng rất đắt là hình ảnh “gục lên súng mũ”. Ta chợt nhớ đến dáng đứng của anh
giải phóng quân về sau trong thơ Lê Anh Xuân:

“Anh ngã xuống trong khi đang đứng bắnMáu anh tuôn theo lửa đạn cầu vồng”

Dáng đứng của anh giải phóng quân mãi mãi đi vào lòng người dân trong kháng chiến chống Mĩ
thì dáng ngã xuống gục xuống của anh lính cụ Hồ hẳn sẽ không phai mờ trong tâm hồn của Quang
Dũng, của đoàn quân Tây Tiến và của những người tham gia kháng chiến. “Gục lên súng mũ” cũng
là cách nói nhẹ và cũng là cách nói của những người thanh niên trí thức lúc bấy giờ. Người lính ra
đi nhưng đồng đội anh lại tiếp bước.

Sự trầm lắng của câu thơ như một nốt trầm lặng thành kính, thiêng liêng trong một bản nhạc hào
hùng vừa qua. Ở đó, những người lính thật đáng quý biết bao. Họ đã hi sinh cả tuổi trẻ – điều tốt
đẹp nhất của cuộc đời – để gìn giữ cho hòa bình hôm nay. Nói về cái chết mà lời thơ không bi lụy.
Đó cũng là một nét trong phong cách biểu hiện của nhà thơ Quang Dũng. Những ngày chiến đấu
bảo vệ biên giới, để giúp bạn giữa núi rừng Tây Bắc thật lắm gian nan khó nhọc. Những gian nan
khó nhọc còn hằn sâu trong trí nhớ. Quang Dũng không khoa trương tính cách anh hùng dũng cảm,
cũng không nói đến cảnh bách chiến bách thắng. Nhưng sống và chiến đấu trong một địa bàn hiểm
trở dữ dội, hoang dã đã là anh hùng rồi.

Đang nói đến cái rùng rợn bí hiểm của rừng già, nhà thơ bỗng nhớ lại một kỉ niệm ấm áp tình quân
dân:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khóiMai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Trong gian khổ thiếu thốn người ta càng nâng niu, càng quý trọng nghĩa tình. Hình ảnh những nồi
cơm lên khói, những mùa màng thơm nếp xôi và đặc biệt là “em” biểu tượng cho người dân Tây
Bắc hiện về trong cảm xúc nhà thơ vừa tự nhiên vừa tinh tế. Sự xuất hiện của những hình ảnh này
khiến cho đoạn kết của khổ thơ có sức bay bổng. Đoạn thơ ấm lại trong tình quân dân mặn nồng.
Hai câu cuối gieo vào tâm hồn độc giả một cảm xúc ấm nóng. Cái ấm nóng của tình người. Đây
chính là chất lãng mạn bay bổng của đoạn thơ và nó như một nét vẽ tươi sáng của bức tranh.

Đoạn thơ là sự phối kết hợp hài hòa giữa hai bút pháp hiện thực và lãng mạn. Cả đoạn thơ như
một bức tranh thủy mặc cổ điển được phác thảo theo lối tạo hình phương đông. Quang Dũng là một
hoạ sĩ. Ông có tài chấm phá trong việc phác thảo cảnh vật. Quang Dũng đã xây một đài kỉ niệm
trong thơ cho thiên nhiên Tây Bắc và người lính Tây Tiến.

Ở đoạn hai, thiên nhiên và con người Tây Bắc lại được mở ra với một vẻ đẹp mới, khác với đoạn
đầu. Anh hùng trong chiến đấu nhưng người lính Tây Tiến cũng say mê, lãng mạn trong đêm hội:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoaKìa em xiêm áo tự bao giờKhèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Đây là kỉ niệm đẹp về tình dân quân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.
Chữ “bừng” là một nét vẽ có thần. “Bừng” là sáng bừng lên, cháy rực lên từ những ngọn đuốc trong
đêm “hội đuốc hoa”. “Hội đuốc hoa” là cảnh thực. Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra dưới những
cánh rừng, người đến dự đều cầm trên tay ngọn đuốc, gió thổi làm những ngọn đuốc lung linh phát
ra những tia lửa. Cảnh tượng này trong đêm quả thật nhìn như hoa đuốc. Cảm nhận của Quang
Dũng vừa tinh tế vừa lãng mạn, câu thơ gợi sức liên tưởng, tưởng tượng cho người đọc. Trên cái
nền không gian ấy “em” xuất hiện.

“Kìa em xiêm áo tự bao giờ”

“Kìa em” là lời chào đón đầy ngạc nhiên, sung sướng đến ngỡ ngàng. Lời chào đón mang tính
phát hiện. Em lạ mà quen, quen mà lạ. Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả
niềm yêu, niềm say đến cảm phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các
thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp
xứ lạ phương xa. Câu thơ thứ ba xuất hiện, lập tức khổ thơ như tràn đầy âm nhạc.

“Khèn lên man điệu nàng e ấp”

Từ “man điệu” mà Quang Dũng sử dụng ở đây cũng rất tài hoa. Người đọc như được chứng kiến
những vũ khúc hoang sơ của văn hóa Âu Lạc. Vũ khúc ấy hòa với vũ điệu của Em duyên dáng, e
ấp, tình tứ. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những người
lính Tây Tiến thực sự ngất ngây trước người và cảnh.

Tây Bắc mênh mang, huyền ảo hiện lên trong bốn câu thơ tiếp:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấyCó thấy hồn lau nẻo bến bờCó nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Một không gian bảng lảng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Cái thực của khí trời
Tây Bắc, cái mộng của không khí bảng lảng sương khói hiện lên như một miền cổ tích. Ta nhớ rằng
Quang Dũng là một họa sĩ bởi vậy đoạn thơ đậm màu sắc hội họa. Nét bút phác thảo của Quang
Dũng thật là tài hoa. Chỉ một vài nét chấm phá vậy mà cái hồn của cảnh vật và con người hiện lên
thật sinh động đầy sức cuốn hút.
Cách sử dụng từ ngữ “ hồn lao, dáng người, hoa đong đưa” có sự cộng hưởng hô ứng với nhau,
sao lại là “ hồn lao” mà không phải là bờ lao. Bởi bờ lao thì sẽ rất cụ thể mà ở đây là cảm nhận.
Cách đặt câu hỏi thật đặc sắc “ Có thấy hồn lau nẻo bến bờ, Có nhớ dáng người trên độc mộc”.
Hình ảnh khỏe khoắn trẻ trung và đầy sức sống, “ hoa đong đưa” gợi lên sự đa tình như để làm nũng
như là đang hấp dẫn những người trên đồi độc mộc, vẻ đẹp tinh tế tài hoa trong cách diễn đạt của
tác giả. Cảnh vật như thiêng liêng, tưởng như đang lạc vào thế giới cõi mây. Ai nói rằng Tây Bắc là
xứ rừng thiêng nước độc, xin hãy một lần để cho tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc ngấm
vào hồn.

Đoạn thơ bộc lộ chất tài hoa, chất lãng mạn của Quang Dũng đến tuyệt vời. Cảm ơn nhà thơ đã
cho ta một chuyến hành trình về với Tây Bắc thơ mộng để khám phá Tây Bắc và yêu Tây Bắc.

Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về người lính vô danh trong khổ thơ thứ ba của bài thơ Tây
Tiến. Ta có thể xem khổ thơ thứ ba này là những nét bút cuối cùng hoàn thiện bức tượng đài về
chân dung người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa. Chân dung người lính hiện lên ở khổ thơ thứ ba
có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp tâm hồn, lí tưởng chiến đấu và phẩm chất hi sinh anh dũng.
Có thể nói cả bài thơ là một tượng đài đầy màu sắc bi tráng về một đoàn quân trên một nền cảnh
khác thường.

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tócQuân xanh màu lá dữ oai hùm.Mắt trừng gửi mộng qua biên
giớiĐêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Làn da xanh mái tóc không mọc do bệnh sốt rét rừng. Số người chết vì sốt rét nhiều hơn chết vì
chiến trận, do điều kiện thiếu thốn khó khăn thiếu nước. Chiến tranh đi liền với nước mắt và đau
thương, cũng như bao nhiêu người chiến sĩ khác người lính Tây Tiến phải chịu bao nhiêu khó khăn
Tuy vậy họ vẫn hiên ngang ngang tàn bi nhưng không lụy, họ luôn ở tư thế chủ động sẵn sàng là “
không mọc tóc” chứ không phải là rụng tóc. Khẩu khí coi thường gian khổ, họ ốm nhưng không
yếu. “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới, đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Đây là đặc trưng riêng
là mộng và mơ” của những chàng lính Hà Nội. Ý chí quyết tâm “Mắt trừng” giết giặc lập công, mơ
giấc mơ thắng trận trở về gặp những dáng kiều thơm, những bóng dáng duyên xinh. Hẳn họ không
phải là những người lính khô khan cứng rắn mà còn rất lãng mạn.

“Rải rác biên cương mồ viễn xaChiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đấtSông Mã gầm lên khúc độc hành”

Chính tinh thần lãng mạn đã là một điểm tựa giúp nhà thơ nói lên một vấn đề mà nhiều người lúc
đó né tránh. Đã là chiến tranh thì phải có mất mát, hi sinh. Vấn đề là không rơi vào bi quan, là nhìn
ra từ sự mất mát tầm vóc cao đẹp của sự hi sinh. Nhà thơ đã dùng những câu thơ sóng đôi, câu sau
cắt nghĩa, lí giải cho câu trước. Những nấm mồ là có thật, tinh thần tự nguyện xả thân cho Tổ quốc
cũng là có thật. Đó là hào khí của một thời đại “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

Cái chết nơi chiến trường thật đơn sơ, giản dị. Anh nằm xuống không có cả màn chiếu bọc thây.
Anh về lại đất mẹ như cái chết của anh đã được dòng sông Mã oai hùng cúi chào vĩnh biệt bằng
những tiếng gầm đau đớn, uất hận. Tiếng gầm của dòng sông Mã ấy sẽ còn mãi mãi đến muôn đời.

“Tây Tiến người đi không hẹn ướcĐường lên thăm thẳm một chia phôiAi lên Tây Tiến mùa xuân
ấyHồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi"

Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ như lời thề gắn bó với Tây Tiến. Tinh thần thắm đượm tư tưởng
và tình cảm cảm của người lính Tây Tiến, tinh thần sẵn sàng hi sinh cống hiến. Tình cảm gắn bó
máu thịt của tác giả đối với binh đoàn Tây Tiến, đại từ phiếm chỉ “ai” có thể là Quang Dũng có thể
là thành viên của binh đoàn Tây Tiến, hoặc là bất cứ ai đã từng gắn bó với Tây Tiến với mảnh đất
Tây Bắc. 

Từ sự kết hợp một cách hài hòa giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã
dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái
quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm
cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp. Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm
hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của
Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình.

Tây Tiến là một tượng đài thi ca qua nhiều thế hệ. Nhưng trên hết và trước hết Tây Tiến là lịch sử.
Lịch sử của một đoàn quân. Lịch sử của một cuộc chiến tranh. Lịch sử của một dân tộc. Và lịch sử
của một con người, một nhà thơ. Tây Tiến trở thành lịch sử của tâm hồn, của văn hóa, của tinh thần
một giống nòi. Nó đã biến đoàn quân thành bất tử.

Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kì

kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất
trí tuệ, cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người Việt
Nam. Nguyễn Khoa Điềm đã thực sự thành công với những sáng tác về đề tài đất nước, tiêu
biểu là trường ca “Mặt đường khát vọng”, trong đó có đoạn trích “Đất Nước”.
Mặt đường khát vọng là tập trường ca hùng tráng được Nguyễn Khoa Điềm hoàn thành ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971. Bản trường ca
khái quát quá trình thức tỉnh của tuổi trẻ các đô thị vùng tạm chiến miền Nam. Họ nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mỹ; hướng về nhân
dân, về đất nước; ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình, đứng dậy xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc.
Đoạn trích Đất Nước thuộc phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng.

Đất Nước có thể coi là chương hay nhất trình bày sự cảm nhận và lý giải của tác giả về đất
nước, cũng đồng thời thể hiện sâu sắc tư tưởng cốt lõi của cả bản trường ca, đó là tư tưởng
"Đất Nước của Nhân dân". Trình tự triển khai mạch suy nghĩ và cảm xúc của tác giả khá chặt
chẽ nhưng cũng rất phóng túng. Đoạn thơ mở đầu bằng những lời định nghĩa say sưa về đất
nước. Tiếp đó là sự hình dung về đất nước qua chiều dài thời gian - lịch sử, qua về rộng của
không gian - lãnh thổ địa lí và qua chiều sâu văn hóa - phong tục, lối sống, tính cách của
người dân Việt Nam, với một niềm tự hào sâu sắc. Từ ba bình diện này, lời thơ hào hứng,
giàu chất suy tư hướng đến tư tưởng chủ đạo: "Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân". Mạch
cảm xúc và suy tư của bài thơ trôi chảy một cách tự nhiên, vừa chặt chẽ vừa đầy hứng khởi,
đồng thời lại cũng có những vang động sâu xa.
Trong phần đầu của đoạn trích, bằng hình thức trữ tình - chính luận, nhà thơ đã đưa ra định
nghĩa riêng của mình về đất nước bằng những cảm nhận về đất nước trong cổ tích, ca dao. Lời
thơ định nghĩa thoát khỏi những khái niệm khó khăn để trở thành một cuộc chuyện trò gần
gũi, thân mật mà bay bổng. Mức độ đậm dặc của các chất liệu lấy từ cổ tích, truyền thuyết, ca
dao, dân ca, huyền thoại.... tạo cho đoạn thơ đầu một âm hưởng đầy quyến rũ. Những câu thơ
như:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "Ngày xửa ngày xưa..."mẹ thường hay kể
Đoạn thơ đầu làm mờ đi khái niệm đất nước là của các vương triều. Ngay từ lúc sơ khai, nó
đã là của nhân dân. Định nghĩa đất nước bằng sự lựa chọn chất liệu từ văn hóa dân gian, đó là
một ẩn ý của Nguyễn Khoa Điềm bời văn hóa dân gian của nhân dân. Cách định nghĩa của
Nguyễn Khoa Điềm là một sự khám phá mới mẻ, độc đáo tạo ra sự hấp dẫn và thú vị đối với
người đọc.
Cách định nghĩa về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã chạm được vào những gì thiêng
liêng nhất, lớn lao nhất nhưng cũng lại gần gũi và thân thiết nhất đối với mỗi chúng ta. Nõ dễ
gợi cho ta những suy ngẫm về quá khứ, về lòng tự hào dân tộc. Và bởi thế, nó thức tỉnh ý thức
dân tộc và tinh thần trách nhiệm đối với dất nước, với nhân dân trong mỗi chúng ta.
Phần sau của đoạn thơ từ "Những người vợ nhớ chồng" đến hết đoạn trích là phần tập trung
làm nổi bật tư tưởng "Đất nước của nhân dân". Trong phần này, tư tưởng đã quy tụ mọi cách
nhìn nhận và đưa đến những phát hiện sâu sắc và mới mẻ của tác giả về địa lí, lịch sử và văn
hóa của đất nước.
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Quả là những phát hiện rất mới về thiên nhiên đất nước. Những núi Bút, non Nghiên, núi
Vọng Phu, hòn Trống Mái... vốn đã rất quen thuộc nay bỗng trở nên thật lạ. Nó không phải là
sản phẩm của tạo hóa mà là tâm hồn, là số phận của nhân dân. Đến đây, thiên nhiên, tạo hóa
không phải là cái làm nảy sinh ra những câu chuyện đầy huyền thoại mà chính những câu
chuyện về những tâm hồn, những số phận của con người trong quá khứ làm cho những danh
thắng kia có tâm hồn, làm cho nó sống mãi. Cái nhìn rất thơ của tác giả đi đến một khái quát
đầy thấm thía:
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…
Tiếp nối những câu thơ khám phá độc đáo về thiên nhiên là những câu thơ khám phá vẻ đẹp
tâm hồn, tính cách Việt Nam, cũng như vai trò, vị trí của con người Việt Nam trong lịch sử
hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đó là những con người yêu thương sâu sắc, thùy
chung tình nghĩa; là những con người cần cù lao động, anh hùng trong đánh giặc; là những
con người "không ai nhớ mặt đặt tên" nhưng chính họ "đã làm ra Đất Nước". Họ là những
người âm thầm làm nên lịch sử, âm thầm gìn giữ những nét văn hóa của dân tộc qua bao
nhiêu thăng trầm của lịch sử dân tộc.
Từ những khái quát giản dị nhưng đầy tính nhân văn, tác giả khẳng định:
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại.
Đó là một chân lí. Một chân lí đã được nhận thức trong suốt quá trình phát triển dài lâu của
lịch sử nhưng chỉ đến văn học Việt Nam hiện đại, nó mới đạt đến đỉnh cao, mới cất lên thành
những tuyên ngôn đầy tự hào và vang động sâu xa.
Làm nên sự thành công của đoạn trích Đất Nước, ngoài sự độc đáo đầy phóng túng của thể
thơ tự do còn phải kể đến tài năng xuất sắc của Nguyễn Khoa Điềm trong việc tiếp thu và sử
dụng những chất liệu dân gian. Bài thơ là sự hòa nhập một cách thật nhuần nhuyễn giữa hình
thức trữ tình - chính trị với các chất liệu từ ca dao, cổ tích, huyền thoại…
Bằng sự vận dụng đầy sáng tạo hình thức thơ tình - chính trị, đoạn trích Đất Nước quy tụ mọi
cảm nhận, mọi cái nhìn, quy tụ vốn liếng sách vở cũng như những trải nghiệm cá nhân của
người nghệ sĩ để làm nên một tuyên ngôn về tư tưởng, về nhận thức của cả một thế hệ nghệ sĩ,
ấy là tư tưởng "Đất nước của nhân dân".
Mặt đường khát vọng là tập trường ca hùng tráng được Nguyễn Khoa Điềm hoàn thành ở
chiến khu Trị - Thiên năm 1971. Bản trường ca khái quát quá trình thức tỉnh của tuổi trẻ các
đô thị vùng tạm chiến miền Nam. Họ nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mỹ; hướng về
nhân dân, về đất nước; ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình, đứng dậy xuống đường đấu
tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc. Đoạn trích Đất Nước thuộc phần đầu
chương V của trường ca Mặt đường khát vọng.
Đất Nước có thể coi là chương hay nhất trình bày sự cảm nhận và lý giải của tác giả về đất
nước, cũng đồng thời thể hiện sâu sắc tư tưởng cốt lõi của cả bản trường ca, đó là tư tưởng
"Đất Nước của Nhân dân". Trình tự triển khai mạch suy nghĩ và cảm xúc của tác giả khá chặt
chẽ nhưng cũng rất phóng túng. Đoạn thơ mở đầu bằng những lời định nghĩa say sưa về đất
nước. Tiếp đó là sự hình dung về đất nước qua chiều dài thời gian - lịch sử, qua về rộng của
không gian - lãnh thổ địa lí và qua chiều sâu văn hóa - phong tục, lối sống, tính cách của
người dân Việt Nam, với một niềm tự hào sâu sắc. Từ ba bình diện này, lời thơ hào hứng,
giàu chất suy tư hướng đến tư tưởng chủ đạo: "Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân". Mạch
cảm xúc và suy tư của bài thơ trôi chảy một cách tự nhiên, vừa chặt chẽ vừa đầy hứng khởi,
đồng thời lại cũng có những vang động sâu xa.
Trong phần đầu của đoạn trích, bằng hình thức trữ tình - chính luận, nhà thơ đã đưa ra định
nghĩa riêng của mình về đất nước bằng những cảm nhận về đất nước trong cổ tích, ca dao. Lời
thơ định nghĩa thoát khỏi những khái niệm khó khăn để trở thành một cuộc chuyện trò gần
gũi, thân mật mà bay bổng. Mức độ đậm dặc của các chất liệu lấy từ cổ tích, truyền thuyết, ca
dao, dân ca, huyền thoại.... tạo cho đoạn thơ đầu một âm hưởng đầy quyến rũ. Những câu thơ
như:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "Ngày xửa ngày xưa..."mẹ thường hay kể
Đoạn thơ đầu làm mờ đi khái niệm đất nước là của các vương triều. Ngay từ lúc sơ khai, nó
đã là của nhân dân. Định nghĩa đất nước bằng sự lựa chọn chất liệu từ văn hóa dân gian, đó là
một ẩn ý của Nguyễn Khoa Điềm bời văn hóa dân gian của nhân dân. Cách định nghĩa của
Nguyễn Khoa Điềm là một sự khám phá mới mẻ, độc đáo tạo ra sự hấp dẫn và thú vị đối với
người đọc.
Cách định nghĩa về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã chạm được vào những gì thiêng
liêng nhất, lớn lao nhất nhưng cũng lại gần gũi và thân thiết nhất đối với mỗi chúng ta. Nõ dễ
gợi cho ta những suy ngẫm về quá khứ, về lòng tự hào dân tộc. Và bởi thế, nó thức tỉnh ý thức
dân tộc và tinh thần trách nhiệm đối với dất nước, với nhân dân trong mỗi chúng ta.
Phần sau của đoạn thơ từ "Những người vợ nhớ chồng" đến hết đoạn trích là phần tập trung
làm nổi bật tư tưởng "Đất nước của nhân dân". Trong phần này, tư tưởng đã quy tụ mọi cách
nhìn nhận và đưa đến những phát hiện sâu sắc và mới mẻ của tác giả về địa lí, lịch sử và văn
hóa của đất nước.
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Quả là những phát hiện rất mới về thiên nhiên đất nước. Những núi Bút, non Nghiên, núi
Vọng Phu, hòn Trống Mái... vốn đã rất quen thuộc nay bỗng trở nên thật lạ. Nó không phải là
sản phẩm của tạo hóa mà là tâm hồn, là số phận của nhân dân. Đến đây, thiên nhiên, tạo hóa
không phải là cái làm nảy sinh ra những câu chuyện đầy huyền thoại mà chính những câu
chuyện về những tâm hồn, những số phận của con người trong quá khứ làm cho những danh
thắng kia có tâm hồn, làm cho nó sống mãi. Cái nhìn rất thơ của tác giả đi đến một khái quát
đầy thấm thía:
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…
Tiếp nối những câu thơ khám phá độc đáo về thiên nhiên là những câu thơ khám phá vẻ đẹp
tâm hồn, tính cách Việt Nam, cũng như vai trò, vị trí của con người Việt Nam trong lịch sử
hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đó là những con người yêu thương sâu sắc, thùy
chung tình nghĩa; là những con người cần cù lao động, anh hùng trong đánh giặc; là những
con người "không ai nhớ mặt đặt tên" nhưng chính họ "đã làm ra Đất Nước". Họ là những
người âm thầm làm nên lịch sử, âm thầm gìn giữ những nét văn hóa của dân tộc qua bao
nhiêu thăng trầm của lịch sử dân tộc.
Từ những khái quát giản dị nhưng đầy tính nhân văn, tác giả khẳng định:
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại.
Đó là một chân lí. Một chân lí đã được nhận thức trong suốt quá trình phát triển dài lâu của
lịch sử nhưng chỉ đến văn học Việt Nam hiện đại, nó mới đạt đến đỉnh cao, mới cất lên thành
những tuyên ngôn đầy tự hào và vang động sâu xa.
Làm nên sự thành công của đoạn trích Đất Nước, ngoài sự độc đáo đầy phóng túng của thể
thơ tự do còn phải kể đến tài năng xuất sắc của Nguyễn Khoa Điềm trong việc tiếp thu và sử
dụng những chất liệu dân gian. Bài thơ là sự hòa nhập một cách thật nhuần nhuyễn giữa hình
thức trữ tình - chính trị với các chất liệu từ ca dao, cổ tích, huyền thoại…
Bằng sự vận dụng đầy sáng tạo hình thức thơ tình - chính trị, đoạn trích Đất Nước quy tụ mọi
cảm nhận, mọi cái nhìn, quy tụ vốn liếng sách vở cũng như những trải nghiệm cá nhân của
người nghệ sĩ để làm nên một tuyên ngôn về tư tưởng, về nhận thức của cả một thế hệ nghệ sĩ,
ấy là tư tưởng "Đất nước của nhân dân".
1. BẢN LĨNH - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về Bản Lĩnh 
Bài làm 3
“Bản lĩnh” – hai từ thật đơn giản nhưng bạn biết không, hàm chứa trong đó là cả một quá
trình quyết tâm kiên cường không ngại gian khổ. Giống như một chiếc áo giáp được tôi luyện
từ những nguyên liệu bền vững nhất, bản lĩnh giúp ta không còn phải lo sợ trước những cơn
gió to hay những ngọn sóng dữ. Vậy bản lĩnh là gì? Bản lĩnh là khả năng giải quyết mọi
chuyện một cách bình tĩnh, thông minh và tỉnh táo. Người bản lĩnh là người dám đương đầu
với khó khăn gian khổ. Thất bại, tự họ sẽ đứng lên. Cay đắng họ sẽ làm cho mọi thứ ngọt
ngào. Họ dám làm những điều lớn lao, kỳ vĩ, xoay trời chuyển đất. Ở những người có bản
lĩnh, họ luôn có trái tim đầy lý trí; có lòng quyết tâm cao độ với một lòng can đảm cùng với
một nghị lực, ý chí mạnh mẽ. Họ sẵn sàng đương đầu với thử thách. Ở họ, ta luôn tìm thấy cái
kiên định nơi đáy mắt và một nụ cười biểu trưng cho sự tự tin. Người bản lĩnh, họ sẽ được
mọi người yêu quý, tin cậy; bản thân họ cũng sẽ hiểu được sứ mệnh của mình là chỗ dựa tinh
thần cho người khác. Vì vậy, người bản lĩnh là người dám nghĩ, dám làm và dám thành công.
Tuy nhiên cũng có những người vừa mới thấy nhấp nhô gợn sóng đã vội vã buông tay chèo,
dễ dàng chấp nhận thất bại. Chắc chắn một điều rằng, những kẻ ấy vĩnh viễn không thể tự
khẳng định vị trí của mình trong xã hội, mãi mãi chỉ có thể sống dưới cái bóng của kẻ khác.
Và bạn ơi, bản lĩnh khởi đầu như thế đấy! Khoan nói đến những thành quả mà bản lĩnh đem
lại, chỉ nói riêng đến quá trình rèn luyện thôi cũng đã được xem là một thành tựu rồi. Đến đây,
tôi chợt nhớ đến bông bồ công anh mạnh mẽ nương mình theo gió để vươn đến những chân
trời cao xa. Ngay cả loài hoa mong manh nhỏ bé còn có thể tự luyện cho mình bản lĩnh, vậy
còn bạn? Bạn có chấp nhận kiếp sống còn thua kém cả một loài hoa?
2. LÒNG DŨNG CẢM - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về “Lòng Dũng
Cảm”
Bài làm 2
Trong cuộc sống, con người ta luôn cần ý chí để vượt qua mọi gian nan, cách trở, nhưng trước
khi có được ý chí ấy, thì không thể không cần đến lòng dũng cảm đối diện với chúng. Lòng
dũng cảm – một điều rất quan trọng mà mỗi người cần và nên có. Lòng dũng cảm là sự can
đảm, không run sợ, nản chí trước bất kỳ một điều gì, dù có khó khăn vẫn giữ được cho mình
sự bình tĩnh, tự tin. Vậy tại sao nó lại quan trọng đến vậy? Ta không thể tránh khỏi có những
lúc gặp phải thất bại khiến ta gần như tuyệt vọng, thế nhưng nếu cứ để cho nỗi tuyệt vọng ăn
mòn đi chính khả năng của bạn thì vĩnh viễn bạn sẽ chẳng thể nào thành công, điều cần thiết
nhất khi ấy là cần biết đứng dậy, nhìn nhận ra lỗi sai của bản thân, can đảm mà bước tiếp bằng
những kinh nghiệm đã rút ra được, rồi một lần, hai lần, ban lần, nhiều lần như vậy, bạn chắc
chắn sẽ đạt được điều mà mình mong muốn. Đó chính là lòng dũng cảm dám đối diện với khó
khăn và lỗi lầm của bản thân mình. Bên cạnh đó, khi mọi thứ dường như quá sức hoặc ngoài
tầm tay của ta thì lòng dũng cảm sẽ giúp đơn giản hóa mọi chuyện, cho ta bản lĩnh, sự tự tin,
kiên cường để đối diện với mọi điều đang chờ ở phía trước. Người có lòng dũng cảm sẽ dám
đương đầu, dám dấn thân, còn kẻ yếu đuối sẽ chẳng bao giờ đi đến được cái đích của mình.
“Bạn không thể yếu đuối trên con đường theo đuổi giấc mơ. Hãy dám vượt qua các rào chắn
để tìm con đường của riêng mình.” (Les Brown). Nếu không có lòng dũng cảm, bạn chắc chắn
sẽ bị bỏ lại ở phía sau, đó là lý do vì sao có rất nhiều những tấm gương sáng về lòng dũng
cảm đã dám đương đầu để đạt được những điều tốt đẹp. Thế hệ ông cha ta ngày trước là biểu
tượng sáng ngời cho lòng dũng cảm, kiên cường chống lại kẻ thù xâm lược để bảo vệ đất
nước, không ngại đổ máu, hy sinh. Người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành một phần
nhờ có lòng dũng cảm đã sẵn sàng ra đi tìm đường cứu nước cho dân tộc, Trên thế giới,
Thomas Edison có lẽ sẽ chẳng thể phát minh ra điện, một bước tiến trong lịch sử phát triển
của nhân loại nếu không có sự dũng cảm đối mặt với bao khó khăn, thất bại trong quá trình
nghiên cứu. Vậy nên, có thể thấy, dũng cảm sẽ đem lại cho ta bản lĩnh để làm nên những kỳ
tích, những điều kỳ diệu, tốt đẹp trong cuộc sống, nó giúp ta nhìn nhận được bản thân mình và
tôi luyện ý chí để vượt qua khó khăn, thử thách. Mỗi người chúng ta, cần biết rèn luyện cho
mình một lòng dũng cảm vì nó rất cần thiết với mỗi người, trước hết hãy học cách dũng cảm
với bản thân mình, đừng bao giờ sợ hãi hay tự ti về bất kỳ một khiếm khuyết nào mà tự tìm ra
điểm yếu để sửa chữa và hoàn thiện, có như thế, con người ta mới có một bản lĩnh kiên
cường, vững vàng. Có lòng dũng cảm, đó sẽ là ngọn đèn soi sáng mọi con đường tối tăm
trong cuộc sống của mỗi người.
3. NGHỊ LỰC/Ý CHÍ - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về vai trò của Ý Chí
(Nghị lực)
Bài làm 2
Nếu nói bản lĩnh nghiêng về thực hành thì ý chí chính là phần lý thuyết. Muốn thực hành thì
phải nắm vững lý thuyết mà áp dụng. Có ý chí, con người mới có đủ quyết tâm để chinh phục
những tầm cao mới. Bản thân ý chí vốn không có một định nghĩa cụ thể. Nói đơn giản, đó là
quyết tâm cố gắng vượt qua gian khổ thử thách; còn nói phức tạp, ý chí là mồi lửa giúp cho
bản lĩnh bùng cháy. Ông bà ta có câu “có chí thì nên” cũng là vì lẽ đó. Chưa nói đến khả năng
bạn đến đâu, chỉ riêng việc bạn có cho mình một ý chí sắt đá cùng niềm tin vững vàng thì bạn
đã đi trước người khác một bước! Nhưng, cái gì cũng có cái giá của nó, ý chí cũng không phải
là một ngoại lệ. Để có được một tinh thần thép khi đứng trước bão tố của cuộc đời, bạn sẽ
phải bỏ ra rất nhiều thời gian và công sức để mài sắt luyện kim! Vậy nên, người nói được câu
“Tôi có ý chí” thì rất nhiều, nhưng người mà hành động của họ nói lên điều đó thì quả thực
không được mấy ai. Những người chỉ mới giáp mặt cơn lốc xoáy hung tợn đã nhụt chí xin
hàng, hay những kẻ sẵn sàng quỳ gối trước những thế lực mạnh mẽ, tất cả bọn họ suy cho
cùng đều là vì thiếu đi cái ý chí cần thiết. Họ không biết cách tự tạo cho riêng mình một đế
chế hùng mạnh. Những người như thế, chung quy lại, cũng chỉ mãi là kẻ thất bại mà thôi. Còn
bạn? Bạn sẽ chọn con đường gập ghềnh hướng tới tương lai hay biến mình thành một con ốc
chỉ biết thu mình trong vỏ?
4. TRUNG THỰC - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200) chữ bàn về tính Trung Thực.
Bài làm 3
Không có gì đáng quý bằng lòng trung thực. Chính nhờ trung thực, con người mới xây dựng
được những mối quan hệ xã hội tốt đẹp và thành công trong cuộc sống. Hiểu đơn giản, trung
thực là tôn trọng sự thật, tôn trọng chân lí, lẽ phải; sống ngay thẳng, thật thà và dám dũng cảm
nhận lỗi khi mình mắc khuyết điểm. Người có lòng trung thực luôn sống công bằng, tốt đẹp,
không bao giờ giả dối hay thiên vị, không bao giờ vụ lợi cá nhân, hãm hại người khác. Ai
cũng cần phải có lòng trung thực bởi chỉ khi biết trung thực, con người mới được tôn trọng,
hợp tác hay giúp đỡ từ người khác để thành công. Người không có lòng trung thực sẽ bị khinh
bỉ, ghét bỏ, nhất định sẽ thất bại. Trung thực là một năng lực do rèn luyện chứ không tự có.
Muốn có lòng trung thực, nhất định phải biết tôn trọng sự thật, tôn trọng lẽ phải ở đời, sống
hòa hợp, thân thiện, không tham lam, vụ lợi, không giả dối, lừa gạt người khác. Cuộc sống có
thể sẽ khó khăn hơn khi chúng ta bảo vệ sự thật và lẽ phải nhưng chắc chắn sẽ tốt đẹp hơn,
hạnh phúc hơn.
5. CỐNG HIẾN - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về Cống Hiến
Bài làm 2
Cống hiến và hưởng thụ là hai biểu hiện trong đời sống của con người. Cống hiến là sự đóng
góp công sức, vật chất và tinh thần của cá nhân cho sự nghiệp phát triển chung của cộng
đồng. Thước đo của cuộc đời không phải thời gian, mà chính là sự cống hiến. Hưởng thụ là
tiếp nhận, tận hưởng những những thành quả do người khác tạo ra. Cuộc sống cần cống hiến
hơn là hưởng thụ bởi cống hiến sẽ tạo ra các giá trị hữu ích, góp phần phát triển xã hội, làm
tăng ý nghĩa cuộc sống. ngược lại, cũng cần phải biết hưởng thụ cuộc sống tốt đẹp để tái tạo
sức lao động, cảm nhận giá trị cuộc sống, tăng cường tinh thần lao động cống hiến hơn nữa.
Không nên sống một cuộc sống chỉ biết hưởng thụ mà không cống hiến bởi như thế sẽ làm
hao mòn các giá trị hữu ích, đẩy cộng đồng vào chỗ nghèo khó, làm nảy sinh các tệ nạn xã
hội. Để sống cống hiến, bạn phải biết sống vì người khác. Cuộc sống có thể khó khăn hơn khi
chúng ta sống vì người khác nhưng chắc chắn sẽ ý nghĩa hơn, hạnh phúc hơn. Ngược lại,
đừng xem nhẹ việc thụ hưởng bởi mục đích cuối cùng trong lao động của con người là được
thụ hưởng thành quả lao động ấy. Lấy lợi ích từ lao đông làm mục đích phấn đấu; đồng thời
biết chia sẻ nguồn lợi lao động ấy cùng người khác. Hãy rộng mở tâm hồn, sống vì cộng đồng
chung, cống hiến nhiều hơn nữa, không tham tham, ích kỉ để xây dựng một xã hội phồn vinh,
thịnh vượng, công bằng và văn minh.
6. SỐNG CÓ ÍCH - Viết đoạn văn Nghị luận xã hội ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về sống
Có Ích
Cách để sự tồn tại của mỗi con người trở nên tốt đẹp - ấy chính là sống sao cho có ý nghĩa,
sống sao cho có ích. Vậy thế nào là sống cho ý nghĩa? Sống ý nghĩa là sống có ích, sống cao
đẹp, cao thượng, biết làm nhiều việc tốt, việc thiện, biết hi sinh và cống hiến; sống cho mọi
người và sống hết mình. Quả đúng như vậy, ý nghĩa cuộc sống hình thành trên vô vàn phương
diện khác nhau. Sống có ích chính là lối sống tích cực phù hợp với thời đại; làm đẹp cho cuộc
sống bản thân, sống hòa hợp với mọi người xung quanh, được nhiều người thừa nhận. Sống
có ích còn phải có những hành động, tình cảm, việc làm thiết thực đem lại hiệu quả cho cá
nhân cũng như cho cộng đồng. Sống có ích là khi chúng ta biết nghĩ đến người khác, biết hi
sinh những cái nhỏ nhặt, và biết rộng mở vòng tay để có chia sẻ với những mảnh đời bất hạnh
hơn chúng ta và biết cách đối nhân xử thế với mọi người, giúp đỡ những người đang hoạn
nạn, lắng nghe và chia sẻ với những mảnh đời bất hạnh.... Sống có ích là khi vấp ngã phải biết
đứng dậy, thành công không tự mãn. Ai cũng đều có thể sống có ích, nếu như thế thì xã hội
này sẽ tốt đẹp biết bao, sẽ không còn những xấu xa, sẽ không còn những mảng tối trong cuộc
sống. Vì thế chúng ta hãy làm nên sự khác biệt, hãy biết sống có ích mỗi ngày, biết phê phán
đấu tranh với cái ác, cái xấu để bảo vệ lẽ phải. Hãy là một tấm gương, hãy tìm một mục đích
sống của mình để sống có ích từng ngày từng giờ, đừng lãng phí một thời gian nào cả và
chúng ta sẽ giúp thế giới trở thành một ngôi nhà tốt đẹp cho mọi người. Sự thật là mọi thứ tồn
tại trên đời này đều có nguyên do của nó. Bông hoa tồn tại để góp hương sắc, làm đẹp cho
đời. Con ong tồn tại để dâng cho đời những chén mật ngọt ngon. Còn con người, tồn tại để
làm cuộc sống của chính mình và mọi người xung quanh trở nên ý nghĩa. Kết lại, chúng ta
“phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những năm tháng sống hoài sống phí, cho khỏi hổ
thẹn vì những dĩ vãng đớn hèn của mình”
7. SẺ CHIA - Viết đoạn văn NLXH 200 chữ bàn về Sự SẺ CHIA trong cuộc sống
Đối với mỗi cuộc đời con người, sự sẻ chia trong cuộc sống là điều vô cùng cần thiết. Vậy sẻ
chia là gì? Tại sao nó lại quan trọng đến vậy? Sẻ chia là một dạng tình cảm xuất phát từ trái
tim, sự đồng cảm, và tình yêu thương, được thể hiện khi ta biết quan tâm, lo lắng và giúp đỡ
những người xung quanh. Nói cách khác, sẻ chia chính là cho đi mà không mong muốn được
nhận lại. Bạn biết đấy, cuộc sống là sự tổng hòa của các mối quan hệ xã hội. Biết sẻ chia chắc
chắn sẽ giúp bạn phát triển các mối quan hệ xã hội, tạo nên sự gắn kết với những người xung
quanh, từ đó không bao giờ cảm thấy cô đơn, lạnh lẽo. Đồng thời khi ai đó gặp khó khăn, giúp
được họ - dù chỉ một chút thôi – chắc chắn bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc và thanh thản hơn rất
nhiều. Trong thực tế, không khó để ta bắt gặp và cảm phục những con người mang trong mình
đức tính này. Những tình nguyện viên mang trên mình màu áo xanh tình nguyện, các mạnh
thường quân không quản ngại khó khăn đến với vùng bão lũ hay đơn giản hơn là một cậu bé
biết dành tiền ăn sáng tặng cho người hành khất…, đó đều là những bông hoa đẹp điểm tô cho
vườn đời thêm rực rỡ. Tuy nhiên, vẫn có một số người sống ích kỉ, chỉ biết nhận lại chứ
không biết cho đi. Họ chỉ biết đến lợi ích của bản thân mình mà không quan tâm đến người
khác muốn gì, nghĩ gì, cần giúp đỡ gì. Đứng trước hiện tượng này, tất cả chúng ta cần học
cách đồng cảm, sẻ chia với những người xung quanh từ những việc làm nhỏ nhất: gửi lời chào
tới bố mẹ trước khi đi học, chúc người bạn cùng bàn một ngày tốt lành khi tới lớp… Như vậy,
chắc chắn cuộc sống ý nghĩa hơn rất nhiều. Bởi đúng như một nhà văn Nga từng nói: “Nơi
lạnh nhất không phải là Bắc Cực mà là nơi thiếu vắng tình thương của con người”.
8. KHÁT VỌNG - Viết đoạn văn 200 chữ bàn về: Khát vọng
Để sống một cuộc đời có ý nghĩa, con người không thể thiếu đi những khát vọng chân chính.
Vậy khát vọng là gì? Nó đóng vai trò như thế nào trong cuộc sống của mỗi chúng ta? Khác
với tham vọng, khát vọng chính là mong muốn hướng tới những điều lớn lao, tốt đẹp với sự
thôi thúc mãnh liệt đến từ sâu thẳm trái tim con người. Nó đem đến một mục đích sống cao
đẹp, trở thành động lực giúp ta vượt qua khó khăn trên đường đời. Đồng thời, nó cũng nâng ta
lên khỏi những cái tầm thường, vươn tới cái cao cả, thuần khiết hơn, trở thành nền tảng quan
trọng để có thể kiến tạo nên lợi ích cho gia đình và xã hội. Thử hỏi, cách đây hơn một trăm
năm, nếu người thanh niên Nguyễn Tất Thành không vì khát vọng giành lại độc lập cho dân
tộc mà đặt chân lên con tàu Đô đốc Đờ Tác – tơ – ri, biết đến bao giờ chúng ta mới được sống
trong hòa bình như ngày hôm nay? Và nếu không có những con người dám ước mơ, dám thực
hiện như Chủ tịch Tập đoàn Vingroup, có lẽ thương hiệu ô tô Made in Vietnam 100% sẽ
chẳng bao giờ trở thành hiện thực. ..Những người biết khát vọng vươn lên xứng đáng để mỗi
chúng ta nêu gương và học tập. Tuy nhiên bên cạnh những con người biết khát vọng và hướng
đến những điều tốt đẹp thì trong xã hội vẫn còn đâu đó những con người không biết vươn lên,
tự mãn với bản thân. Những người như vậy sẽ làm xã hội đi xuống, họ đáng bị phê phán và
lên án. Nói tóm lại, tất cả chúng ta, trong đó có tôi, hãy xây dựng cho mình một khát vọng cao
cả và nỗ lực hết sức để biến nó thành hiện thực. Bởi nếu cuộc đời này là bầu trời rộng lớn,
khát vọng chính là đôi cánh giúp ta có thể bay xa.
9. SÁNG TẠO - Viết đoạn văn 200 chữ bàn về: Sáng tạo
Sáng tạo là yếu tố quyết định trực tiếp tới thành công của con người thời nay. Vậy sáng tạo là
gì? Tại sao con người lại cần nó đến vậy? Sáng tạo chính là khả năng tạo ra những điều mới,
hiệu quả và tiên tiến hơn những gì đã có. Người mang trong mình khả năng sáng tạo luôn
không ngừng nỗ lực, tìm tòi để cải tiến phương thức lao động hay tạo nên những tác phẩm
nghệ thuật độc đáo, giàu giá trị. Như chúng ta đã biết, cuộc sống hiện đại luôn biến đổi không
ngừng, đòi hỏi con người phải thích ứng, thay đổi. Nếu cứ mãi neo mình theo lối mòn đã cũ,
chẳng những đánh mất cơ hội của bản thân mà ta còn kéo lùi sự phát triển của văn minh nhân
loại. Thử hỏi, không có sáng tạo, liệu những con người như Edison, Picasso, Mark
Zukerberg… có ghi được tên tuổi mình vào lịch sử nhân loại; chúng ta có có được những kiệt
tác nghệ thuật để chiêm ngưỡng, những đồ vật, ứng dụng tiện ích để sử dụng hay không? Vậy
nhưng, hiện nay vẫn còn đâu đó trong xã hội có những kẻ thụ động, lười suy nghĩ, thích
hưởng thụ, họ đang dần trở thành gánh nặng cho xã hội. Chính vì vậy, giới trẻ ngày nay cần
nghiêm túc học tập và làm việc, đánh thức khả năng sáng tạo bằng những suy nghĩ, hành động
cụ thể. Có như vậy, chúng ta mới có thể sống một cuộc đời có ý nghĩa, phát triển khả năng
của chính mình cũng như đóng góp tích cực cho quê hương, đất nước.
10. TỰ TIN - Viết bài văn Nghị luận xã hội ngắn trình bày suy nghĩ của Anh/chị về: Sự
tự tin
Thành công đối với mỗi người rất cần nhiếu yếu tố, một trong những yếu tố quan trọng chính
là sự tự tin. Vậy tự tin là gì và tại sao nó lại quan trọng đến thế? Tự tin là sự tin tưởng vào khả
năng, giá trị và sức mạnh của bản thân mình. Người mang trong mình phẩm chất này sẽ có
được một nền tảng tâm lí vững vàng, dễ dàng trả lời được các câu hỏi như: “Tôi là ai? Tôi
muốn gì? Tôi có thể làm gì để biến ước mơ thành hiện thực?” Đồng thời, trên đường đời với
vô số chông gai, họ luôn giữ được sự bình tĩnh, can trường trước mọi biến cố, dễ dàng thuyết
phục và dành được niềm tin từ người đối diện. Người tự tin bao giờ cũng bản lĩnh, kiên cường
và không dễ bị khuất phục trước khó khăn thử thách. Trước đám đông ồn ào họ tự tin đứng ra
thuyết phục, trước đường đi khó – họ tự tin và bình tĩnh vượt qua. Sự tự tin cũng như ý chí,
nghị lực hay lòng dũng cảm, nó chính là thước đó của con người và cũng là kim chỉ Nam để
con người vươn tới thành công. Bởi vậy, Walt Disney – người từ một cậu bé nghèo không có
cả tiền mua giấy vẽ vươn lên thành ông chủ của tập đoàn sản xuất phim hoạt hình lớn nhất thế
giới – đã coi tự tin là một trong bốn điều làm nên cuộc đời mình. Quan trọng là vậy nhưng
không phải ai cũng tạo được cho mình sự tự tin đúng nghĩa. Một số quá nhút nhát, không đủ
can đảm để trình bày ý kiến cá nhân trong khi số khác lại kiêu căng, ngạo mạn, tự phụ về khả
năng của mình, chính vì vậy họ rất khó thành công trong cuộc sống. Hiều được sự quan trọng
của tự tin mỗi chúng ta cần nghiêm túc học tập, rèn luyện để có thể thoát ra khỏi lớp vỏ tự ti,
nhút nhát, mạnh mẽ đứng dậy và thể hiện bản thân mình với thế giới. Bởi đúng như Helen
Keller từng nói: “Bạn chẳng thể làm được điều gì mà thiếu đi sự tự tin.”
11. HY VỌNG - Viết đoạn văn ngắn bàn về Hi vọng
Cuộc sống của mỗi người luôn có muôn vàn những khó khăn, chông gai ở phía trước, nhưng
dù khắc nghiệt đến đâu mỗi chúng ta vẫn không bao giờ ngừng hi vọng, sự lạc quan, tin tưởng
vào tương lai, đó sẽ là chìa khóa thành công của mỗi người. Bởi trên đường đời, chưa ai
không một lần vấp ngã. Điều quan trọng không phải ngã như thế nào, đau đớn ra làm sao mà
là ta phải biết đối mặt với nó như thế nào. Nếu mất đi niềm tin, trở nên tuyệt vọng, không có ý
chí vươn lên, ta sẽ mãi chìm trong vũng bùn tăm tối và chắc chắn sẽ đưa chúng ta đến bờ bực
của những thất bại. Ngược lại, nếu trong tâm có hi vọng, ta luôn có thể nhìn thấy ánh sáng
cuối đường hầm, tìm được sự bình an, thanh thản trong bất hạnh khổ đau. Đồng thời, thái độ
sống lạc quan, vui vẻ sẽ giúp ta nhận được sự yêu quý, gần gũi từ những người xung quanh và
không bao giờ cảm thấy cô đơn, lạc lõng. Gần đây, chúng ta không khỏi cảm phục trước diễn
viên Quốc Tuấn – người không từ bỏ hi vọng, đồng hành cùng con suốt mười lăm năm ròng
rã. Để rồi, sau tất cả, hạnh phúc đã thực sự mỉm cười với anh và gia đình. Dù vậy, không phải
ai cũng tìm được ngọn lửa hi vọng để thắp sáng tương lai của chính mình. Một số dễ dàng bi
lụy trước khó khăn, từ bỏ ước mơ và sống một cuộc đời mờ nhạt. Số khác thì lại cứ lao theo
những ảo vọng xa vời, những mộng tưởng phù phiếm mà dần lãng quên giá trị đích thực của
cuộc sống. và cuối cùng họ trở thành cái bóng mờ nhạt trên chính cuộc đời của mình. Helen
Keller từng nói: “Bạn chẳng thể làm gì mà thiếu đi hi vọng”. Vậy nên, tất cả chúng ta hãy tìm
cho mình những hi vọng đúng đắn và sống hết mình từng giây từng phút để thực hiện những
giấc mơ của bản thân.
12. THÀNH CÔNG - Đề văn Nghị luận xã hội 200 chữ ngắn: Viết đoạn văn ngắn bàn về
Thành công.
Đã bao giờ bạn tự hỏi thành công là gì mà có những người bỏ ra cả cuộc đời để theo đuổi?
Phải chăng, đó là sự hoàn hảo trong công việc, là cuộc sống giàu sang, được nhiều người nể
phục? Thực ra thành công đơn giản và gần gũi hơn rất nhiều. Đó là khi bạn nấu được một bữa
cơm ngon, giải một bài toán khó hay giúp mẹ một vài việc vặt… Nhưng dẫu được định nghĩa
thế nào chăng nữa, thành công vẫn phải là kết quả của quá trình không ngừng cố gắng, nỗ lực,
dám chấp nhận và vượt qua thất bại. Và, tuyệt đối đừng biến con đường theo đuổi thành công
trở thành bi kịch bởi cố gắng không đồng nghĩa với bất chấp tất cả để đạt được điều mình
mong muốn. Thành công cũng giống như con người, chỉ bền vững khi được tạo nên từ chính
sức lực của chính mình với một cái tâm trong sáng. Một giáo sư người Anh từng nói: “Cuộc
sống này không có thất bại, có chăng là cách ta nhìn nhận nó mà thôi”. Vậy nên, mỗi chúng ta
đừng ủ rũ mà cho rằng mình là kẻ thua cuộc, hãy cứ vui lên và bước tiếp con đường đã chọn.
13. THẤT BẠI - Hướng dẫn viết bài văn ngắn suy nghĩ về hai chữ: Thất bại
Bài làm 2
“Thất bại là mẹ thành công” – bạn có đồng ý không? Mới nghe qua có vẻ vô lí vì thất bại là
sự đối lập của thành công vậy tại sao lại là “mẹ” của thành công được? Thành công là trạng
thái mà con người đạt được mục đích mà họ mong muốn. Còn thất bại thì ngược lại đó là khi
chúng ta không đạt được điều mình muốn. Trong câu nói này ý chỉ rằng thất bại chính là tiền
đề để tạo nên sự thành công. Khi bạn thất bại bạn sẽ có kinh nghiệm hơn về việc đó để rồi sau
này có thể hạn chế được mặt tiêu cực và đạt được thành công. Sau thất bại bạn sẽ có động lực
để vực dậy, sửa đổi mặt yếu kém. Cứ như thế thành công sẽ chào đón bạn. Các nhà khoa học
đã phải thất bại rất nhiều trước khi có những phát minh có thể làm thay đổi cả thế giới. Nhưng
nếu khi bạn thất bại mà chán nản, bỏ cuộc để rồi bạn sẽ không bao giờ đạt được thành công
mà bạn mong muốn. Chúng ta cần có ý thức, nghị lực để khắc phục thất bại và biến nó thành
thành công. Thất bại chưa là dấu chấm hết, nó thực sự kết thúc là khi bạn không có nghị lực
sống để giải quyết thất bại. Cánh cửa thành công luôn chào đón bạn, vậy tại sao bạn không tự
đứng lên để Bắt Đầu.
14. KHIÊM TỐN - Viết bài văn NLXH ngắn suy nghĩ về hai chữ: Khiêm tốn
Khiêm tốn không chỉ là nghệ thuật sống mà còn là nền tảng dẫn tới thành công.Vậy khiêm tốn
là gì? Tại sao nó lại quan trọng với chúng ta đến vậy? Khiêm tốn là lối sống không tự đề cao
mình, đánh giá đúng mực về bản thân, không khoe khoang thành công và không ngừng học
hỏi từ những người khác. Chắc hẳn bạn cũng biết, không ai trong chúng ta là hoàn hảo, trí tuệ
của mỗi người cũng chỉ là một hạt cát nhỏ bé giữa sa mạc rộng lớn. Hiểu được khả năng của
mình sẽ là cơ sở quan trọng để ta hoàn thiện bản thân và mở mang tri thức. Đồng thời, biết
khiêm nhường và lắng nghe cũng giúp ta có được sự tôn trọng, tin yêu của những người xung
quanh. Khiêm tốn làm chúng ta cao quý hơn trong mặt mọi người và luôn luôn nhận được sự
nể phục. Khiêm tốn còn làm chúng ta tự kiềm chế bản thân mình để không tự mãn khi thành
công. Chính điều này làm chúng ta luôn thấy mình “thấp” hơn người khác để bản thân không
ngừng cố gắng mỗi ngày. Chính đức tính ấy đã làm cho bức chân dung Chủ tich Hồ Chí Minh
trở nên gần gũi, cao quý hơn đối với nhân dânViệt Nam cũng như bạn bè quốc tế. Vậy nhưng,
trong xã hội hiện nay vẫn có không ít người quá đề cao chủ nghĩa cá nhân, mải khoe khoang
tự mãn, đắm chìm trong những gì đã đạt được để rồi dần thụt lùi so với dòng chảy của văn
minh nhân loại. Hiểu được giá trị của đức tính khiêm tốn mỗi chúng ta cần nói không với cách
sống tiêu cực và rèn luyện đức khiêm tốn từ những điều nhỏ bé hàng ngày. Bởi “khiêm tốn là
lương tri của cơ thể”, thiếu nó ta đâu thể trở thành một con người đúng nghĩa cũng như hoàn
thiện bản thân.
15. TÌNH CẢM GIA ĐÌNH - Viết bài văn ngắn suy nghĩ về Tình Cảm Gia Đình
Trong cuộc đời của mỗi người có nhiều đều đáng để chúng ta trân quý. Một trong những điều
ấy chính là tình cảm gia đình .Vậy tình cảm gia đình là gì? Tại sao nó lại quan trọng với
chúng ta đến vậy? Bởi tình cảm gia đình là sự gắn kết giữa những người có cùng máu mủ,
huyết thống và sống chung với nhau dưới một mái nhà. Rộng hơn, đó còn là sợi dây nối kết
những con người dẫu không chung cội rễ nhưng luôn gắn bó, yêu thương và giúp đỡ lẫn nhau.
Nhưng dù hiểu theo cách nào, tình cảm gia đình vẫn là món quà thiêng liêng và quý giá nhất
mà chúng ta có thể có được. Vì sao ư? Vì gia đình chính là điểm tựa tinh thần vô cùng vững
chãi, là nơi mà bất cứ khi nào chúng ta cũng có thể tìm thấy niềm tin, hi vọng và sức mạnh để
vượt qua những thử thách khó khăn. Thiếu đi thứ tình cảm ấy, trái tim ta sẽ dần bị bóp nghẹt
bởi cái cảm giác cô đơn, lạc lõng và cứ mãi bơ vơ trên nẻo đường kiếm tìm hạnh phúc. Vậy
nhưng, đâu phải ai cũng biết trân trọng tình cảm gia đình, một số người cứ mải chạy theo tiền
tài danh vọng hay những mối quan hệ phù phiếm. Để rồi khi nhận ra xung quanh chẳng còn
một cánh tay nào sẵn sàng nắm lấy mình, đã không còn cơ hội nào cho họ sửa chữa thì tất cả
đã quá muộn. Để tránh đi vào những vết xe đổ ấy, ngay từ hôm nay mỗi chúng ta cần dành
tâm sức để giữ gìn tình cảm gia đình từ những hành động thường ngày. Một lời chúc nhẹ
nhàng mỗi sáng, một bữa cơm ấm áp trong ánh chiều tà, một bông hoa thơm nhân ngày đặc
biệt…, những việc làm nhỏ thôi nhưng chắc chắn sẽ giúp ngọn lửa gia đình mãi cháy sáng, soi
đường và sưởi ấm cho bạn đến hết cuộc đời này. Xin được mượn một câu nói của Euripides
để thay cho lời kết: “Duy chỉ có gia đình, người ta mới tìm được chốn nương thân để chống
lại tai ương của số phận”
16. TRÁCH NHIỆM - Viết bài văn ngắn trình bày về tinh thần Trách Nhiệm
Tinh thần trách nhiệm là một trong những phẩm chất đáng quý nhất của con người. Vậy tinh
thần trách nhiệm là gì? Đó chính là ý thức thực hiện tốt nghĩa vụ, công việc của bản thân,
không ỷ lại, dựa dẫm hay đùn đẩy trách nhiệm cho người khác. Trong công việc và cả cuộc
sống, tinh thần trách nhiệm chiếm một vai trò vô cùng quan trọng. Nó là nguồn động lực thúc
đẩy ta nỗ lực và hoàn thiện bản thân, nâng cao các kĩ năng giải quyết tình huống cũng như
trình độ chuyên môn. Đồng thời, nhờ có phẩm chất này, ta có thể chiếm được lòng tin, sự tôn
trọng và yêu quý từ bạn bè, đồng nghiệp và đối tác, từ đó dễ dàng vươn tới thành công hơn.
Trong thế kỉ 21 - kỉ nguyên của hội nhập quốc tế, nơi không có chỗ cho những kẻ lười biếng,
không dám làm và dám chịu trách nhiệm. Vì vậy mỗi chúng ta cần xây dựng tinh thần trách
nhiệm từ những hành động nhỏ hàng ngày: tự hoàn thành bài tập, tuân thủ luật giao thông,
dũng cảm nhận và sửa lỗi khi phạm sai lầm... Bởi đúng như Richard L Evans đã nói, chỉ khi
biết chấp nhận trách nhiệm cho hành động của mình, ta mới có thể bắt đầu trưởng thành.
17. UỐNG NƯỚC NHỚ NGUỒN - viết đoạn văn Nghị luận xã hội ngắn (khoảng 200
chữ) bàn về đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”
Bài làm 1
Bài làm 2
“Uống nước nhớ nguồn” – câu tục ngữ tuy ngắn gọn, súc tích nhưng lại ẩn chứa một nét đẹp
văn hóa quý báu của dân tộc. Thông qua các hình ảnh ẩn dụ: “nước, nguồn”, cha ông ta dặn
dò con cháu phải trân trọng, biết ơn những người đã giúp đỡ hay tạo dựng thành quả để thế hệ
trẻ hôm nay được hưởng thụ. Đây là một đạo lí hoàn toàn đúng đắn đối với mỗi con người bởi
không gì tự nhiên mà có. Nhỏ bé như cây kim, viên thuốc hay lớn lao như nền hòa bình, độc
lập ta đang tận hưởng, tất cả đều là bắt nguồn từ một quá trình lao động miệt mài và thậm chí
là có cả sự hi sinh máu xương, tính mạng của thế hệ đi trước. Hiểu được điều này, xuyên suốt
mạch nguồn bốn nghìn năm lịch sử, nhân dân ta đã sống trọn với đạo lí tốt đẹp của dân tộc.
Bằng chứng là hiện nay, trên bước đường hội nhập quốc tế, những lễ hội có từ khi vua Hùng
dựng nước vẫn được bảo tồn, những trang sử vàng son thời trung đại chưa bao giờ bị lãng
quên, những gia đình chính sách, người có công với cách mạng luôn luôn nhận được sự quan
tâm từ cộng đồng, xã hội.... Tuy nhiên vẫn còn đâu đó một số cá nhân có lối sống ích kỉ, chỉ
biết hưởng thụ mà quên mất nguồn cội. Những người như vậy đáng bị lên án và phê phán.
Như vậy tư tưởng “uống nước nhớ nguồn” mãi mãi là đạo lí mãi cuộn chảy trong trái tim các
thế hệ người Việt hôm nay và mai sau. Bởi đó là kết kinh của đạo lí thủy chung, của tinh thần
cộng đồng và cũng là nguồn gốc của sức mạnh dân tộc.
18. CUỘC ĐỜI LÀ NHỮNG CHUYẾN ĐI - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200) chữ bàn
về “Cuộc đời là những chuyến đi”
Cuộc đời là những chuyến đi. “Chuyến đi” ở đây có thể hiểu theo nhiều tầng nghĩa. Đó có thể
là sự xê dịch đến vùng đất mới, cũng có thể là hành trình tìm đến những sở thích, đam mê độc
lạ, đôi khi là những cuộc cách mạng trong tâm tưởng, nhận thức. Đó còn có thể là những giai
đoạn trong quá trình hình thành và phát triển của con người. Trái Đất quay miệt mài như
muốn thúc đẩy con người vận động nhiều hơn, tránh dậm chân tại chỗ, tránh thụt lùi. Những
chuyến đi rải đều, rải đều trên quỹ thời gian của chúng ta. Đôi khi số phận buộc ta phải đi, đôi
khi ta tự mình dấn thân vào những trải nghiệm mới mẻ. Sau cùng, bài học được đúc kết từ
những chuyến đi vẫn quan trọng hơn cả. Chúng ta học được cách tôi luyện bản thân, trưởng
thành, mạnh mẽ hơn trong hành đông bởi những kinh nghiệm xương máu tích nhặt được.
Chúng ta biết thêm nhiều điều thú vị, hay ho từ thế giới bên ngoài, khám phá ra những tri thức
vô tận của nhân loại, bởi “đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Đặc biệt hơn, qua mỗi
chuyến đi, ta có thể biết thế mạnh-điểm yếu của bản thân, hiểu rõ hơn về chính mình. Đi
đường dài có thể gian nan, hành trang cho đầy đủ để tránh vấp ngã là điều không tưởng.
Người ta thường ngại những vấp ngã đó nên chỉ khoanh tay đứng nhìn, mặc cho bản thân bị
thụt lùi phía sau. Người ta không biết rằng chính những vấp ngã, sai lầm mới làm nên giá trị
thật của những chuyến đi. Và có những chuyến đi vô giá mới hoàn thiện nên cuộc sống này.
19. LÒNG YÊU THƯƠNG - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về “Lòng yêu
thương”
Con người ta sinh ra, được sống trên đời đã là một hạnh phúc lớn. Nhưng có lẽ được sống
trong lòng của người khác còn là hạnh phúc lớn hơn. Đó chính là khi có cảm giác yêu thương
và được yêu thương. Tình yêu thương là thứ tình cảm tốt đẹp mà con người dành cho nhau.
Tình thương là những nét đẹp bình dị, trong sáng của tình người, lòng nhân hậu, sự khoan
dung, cao thượng, vị tha và công lí. Đó có thể là tình cảm gia đình, tình bằng hữu, tình yêu
lứa đôi, tình người nói chung. Nó có thể là thứ tình cảm vun đắp, xây dựng trong một thời
gian dài nhưng cũng có thể chỉ là một niềm thương cảm chực trào dâng khi ta gặp một hoàn
cảnh nào đó. Yêu thương chính là khi ta cảm thông quan tâm giúp đỡ người có cảnh ngộ bất
hạnh, khó khăn trong cuộc sống, yêu mến và trân trọng những ng có phẩm chất đạo đức tốt,
tình cảm cao đẹp. Nhưng dù với bất cứ biểu hiện nào thì tình yêu thương cũng luôn mang lại
những điều kì diệu riêng cho cả người cho đi và nhận về nó. Cái hạnh phúc mà tình yêu
thương đem lại dành cho cả hai phía. Bên cạnh đó, yêu thương còn là lực hấp dẫn kéo con
người ta xích lại gần nhau, tạo thành khối thống nhất, gây dựng những mối quan hệ tốt đẹp
giữa người với người. Song trong cuộc sống hiện đại ngày nay, còn có những kẻ sống lạnh
lùng như một cỗ máy, vô hồn vô cảm, chỉ biết sống cho mình, luôn đố kị ganh ghét, xung đột,
cướp đoạt, là mối hiểm họa lớn cho xã hội mà ta cần lên án và bài trừ. Yêu thường đem lại
hạnh phúc cho nhân loại, chỉ có yêu thương mới xoa dịu những ngăn cách giàu nghèo, những
bất đồng đố kị, làm cho xã hội văn minh tươi đẹp. Vì vậy hãy dành tình thương của mình cho
mọi người thật nhiều. Hạnh phúc thật sự chỉ đến khi ta biết mạnh dạn cho đi, hãy đem tình
thương của mình gửi đến muôn đời như cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã nhắn nhủ : “Sống trong
đời sống cần có một tấm lòng, để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi”.
20. ĐỪNG TRÔNG CHỜ - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200) chữ bàn về “Đừng trông
chờ vào người khác”
Bill Gates đã từng nói: “Thói quen ỷ lại là một hòn đá cản bước bạn đến với thành công,
muốn làm nên nghiệp lớn, bạn phải đá chúng khỏi con đường của mình”. Trông chờ và người
khác là thói quen ỷ lại, dựa dẫm, trông chờ vào sự giúp đỡ của những người xung quanh. Họ
không muốn bỏ công sức của mình để làm việc và tìm kiếm những việc mình muốn. Không ai
trong chúng ta có thể sống mà không cần sự qtam giúp đỡ của người khác nhưng đó sẽ là sự
giúp đỡ trong khả năng của họ và lúc đó bạn thật sự không thể xoay xở. Đừng mong chờ sự
giúp đỡ của người thân bạn bè khi bạn vẫn có thể tự mình làm được. Ngày nay có khá nhiều
bạn trẻ thích sống dựa dẫm ỷ lại. Trong học tập, khi có bình thường về nhà không chịu làm
mà đợi bạn làm rồi sao chép lại hay khi sinh viên đã có bằng tốt nghiệp nhưng không tự đi
kiếm việc làm mà chờ đợi vào một người thân nào đó kiếm công việc cho... Trông chờ vào
người khác không phải là một giải pháp tối ưu để chúng ta xây dựng cuộc đời mình. Đây là
mộ thói quen xấu để lại rất nhiều hậu quả khôn lường mà ta cần phê phán và loại bỏ. Nó sẽ
biến chúng ta trở thành những kẻ bù nhìn vô thức và sẽ gặp thất bại trong cuộc sống. Hãy tự
đi trên đôi bàn chân của mình và mở ra cánh cửa mà bạn muốn mở. Đừng phó mặc cuộc đời
mình cho người khác cho dù đó là cha mẹ hay người thân của bạn. Bên cạnh đó phải biết rèn
luyện cho bản thân tính tự lập, trau dồi kiến thức, hoàn thiện bản thân mình. Đừng nép bên
cuộc đời ai đó mà hãy sống cuộc đời của chính mình, có như vậy ta mới có thể thành công,
giúp ích cho bản thân, gia đình và xã hội.
21. TÔN SƯ TRỌNG ĐẠO - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200) chữ bàn về “Tôn sư
trọng đạo”
“Nhất tự vi sư – bán tự vi sư” không chỉ là câu nói có ý nghĩa trong xã hội xưa, mà cho đến
ngày nay câu nói vẫn còn để lại ý nghĩa sâu sắc. Trong hành trình dài và rộng của mình, mỗi
chúng ta đều được gặp gỡ, gắn bó với nhiều người thầy, người thầy nào cũng đều để lại một
dấu ấn riêng chiếu rọi vào đời ta những thứ ánh sáng riêng biệt. Thầy là người đã dạy dỗ,
truyền tải cho ta biết bao tri thức, văn hóa, lẽ sống, không chỉ vậy, thầy còn là người chắp
cánh những ước mơ, hoài bão, lí tưởng cao đẹp cho chúng ta. Mỗi một lời giảng của thầy là cả
tâm huyết với nghề, chứa đựng niềm khát khao được chia sẻ kinh nghiệm, vốn sống của mình
cho trò, những lời giảng ấy không đơn thuần chỉ là kiến thức học vấn mà còn đem đến niềm
tin, tình yêu, nghị lực, lí trí và có những thứ đã trở thành kim chỉ nam để ta theo đuổi trong
cuộc đời này. Thật vậy, công lao của thầy to lớn vô ngần, thầy đã hi sinh cả cuộc đời mình
cho ta những bài học hay. Bởi vậy, mỗi chúng ta cần phải biết quý trọng, yêu mến thầy cô, sự
trân trọng, biết ơn không phải chỉ những hành động lớn, những lời đao to búa lớn mới thể
hiện tấm lòng của ta. Đôi khi chỉ một cử chỉ nhỏ như ta luôn chăm học, nghiêm túc nghe
giảng cũng là lời tri ân chân thành, sâu sắc nhất của ta. Nhưng đáng buồn thay, lẽ sống đẹp
này đang bị mai một dần trong xã hội hiện đại, chúng ta cần phê phán nhiều bạn trẻ có những
hành vi thiếu lễ độ, thiếu tôn trọng và có những phát ngôn không tốt đối với thầy cô. Qua đó,
mỗi chúng ta cần rút ra bài học cho mình, cần biết yêu mến quý trọng thầy cô và luôn dưỡng
nuôi truyền thống “tôn sư trọng đạo”.
22. CHO ĐI LÀ CÒN MÃI - Viết đoạn văn nghị luận xã hội ngắn (khoảng 200 chữ) bàn
về “Cho đi là còn mãi”
Nếu ví cuộc đời này là một trường ca bất tận thì có lẽ, lối sống sẻ chia, cho đi là còn mãi là
một nốt trầm sâu lắng chứa đựng giá trị nhân sinh sâu sắc về cách ứng xử của con người trong
cuộc sống. Cho đi là cách ta sẻ chia, giúp đỡ ai đó về mặt vật chất hoặc tinh thần. Cho đi làm
cho chúng ta hạnh phúc hơn, yêu đời hơn, làm cho chính bản thân ta hoàn thiện hơn, cảm
nhận cuộc đời này có ý nghĩa hơn. Không chỉ vậy cuộc sống là một ngọn núi, có lúc dốc, có
lúc bằng phẳng khác nhau, bởi vậy luôn cần đến những con người biết chia sẻ, biết cho đi mà
không nghĩ đến việc nhận lại. Cuộc sống này còn nhiều những mảnh đời bất hạnh, họ cần lắm
một ánh lửa sẻ chia từ chúng ta, đôi khi chỉ là cái nắm tay thật chặt, cái vỗ vai, lời an ủi, động
viên cũng phần nào giúp họ. Nhắc đến lẽ sống đẹp này, chúng ta lại nhớ đến câu chuyện về
chàng thanh niên Nguyễn Hữu Ân đã chia sẻ chiếc bánh thời gian của mình để giúp đỡ những
người bệnh ung thư giai đoạn cuối. Trái với hành động đẹp biết sống cho đi, cần lên án những
người chỉ biết sống ích kỉ, luôn lo sợ nhận lại ít hơn cho đi. Chúng ta cần phải biết mỗi ngày
sống là một trải nghiệm, được yêu thương, được sẻ chia là điều hạnh phúc nhất. Cuộc sống sẽ
tuyệt vời biết bao khi mỗi con người sẵn sàng cho đi, sẻ chia đối với những người xung quanh
mình. Chính vì vậy, bạn trẻ ơi “Còn gì đẹp trên đời hơn thế. Người với người sống để yêu
nhau” (Tố Hữu).
23. CHO VÀ NHẬN - Viết bài văn ngắn bàn về Cho và Nhận
“Cho” và “nhận” là hai quá trình quen thuộc và có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong cuộc
sống của mỗi con người. Vậy “cho” và “nhận” là gì? Nó đóng vai trò như thế nào trong cuộc
sống của mỗi chúng ta? “Cho” chính là sự san sẻ, giúp đỡ, yêu thương xuất phát từ tâm từ trái
tim của một người, còn “nhận” là sự được đáp trả, đền ơn. Giữa “cho” và “nhận” luôn tồn tại
mối quan hệ nhân quả nhưng đồng thời cũng tương trợ, bổ sung cho nhau. Bởi cuộc sống luôn
tồn tại quy luật hai chiều, nếu không cho đi thì đừng mong ngóng được nhận lại. Đồng thời,
khi cho đi bằng cả tấm lòng, thứ ta nhận lại không chỉ là lời cảm ơn từ người nhận mà còn là
sự thanh thản, trạng thái hạnh phúc cho tâm hồn. Hơn nữa, đường đời không bao giờ bằng
phẳng. Những lúc phải đối mặt với khó khăn thử thách , một cái nắm tay thật chặt, một sự
giúp đỡ - dù nhỏ thôi nhưng chắc chắn sẽ giúp người được nhận mạnh mẽ hơn nhiều. Vậy
nhưng, nếu cho đi mà chỉ mong nhận được sự đền đáp, chắc chắn việc đã làm sẽ mất đi ý
nghĩa. Trong cuộc sống, không khó để bắt gặp những người mượn việc từ thiện để đánh bóng
tên tuổi, thương hiệu. Thậm chí, gần đây còn xuất hiện những kẻ lợi dụng lòng tốt của người
khác, giả danh bán tăm nhân đạo để trục lợi. Những người như vậy đáng bị xã hội lên án và
phê phán. Chính vì vậy mỗi chúng ta cần nhận thức được vai trò của “cho” và “nhận”, cương
quyết chối bỏ lối sống ích kỉ, vô cảm, thờ ơ với đồng loại, nỗ lực học tập và rèn luyện để có
thể kiến tạo giá trị cho bản thân cũng như cộng đồng. Bởi đúng như nhà thơ Tố Hữu từng
viết: “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”.
24. TÌNH MẪU TỬ - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về “Tình mẫu tử”
Tự bao đời nay, tình mẹ luôn được ngợi ca như biển Thái Bình, “như nước trong nguồn chảy
ra”. Quả thực vậy tình mẫu tử là một tình cảm thiêng liêng, cao quý theo ta suốt cuộc đời này.
Mẹ là người đã phải trải qua chín tháng mười ngày vất vả, khổ cực để sinh thành nên ta, mẹ
nuôi dưỡng ta bằng tiếng hát, bằng dòng sữa mát ngọt dịu êm. Mẹ tần tảo lo lắng nuôi dạy cho
ta thành người, mẹ như ánh sao rực rỡ soi sáng cuộc đời của ta, làm sao có thể nói hết công
lao to lớn, vĩ đại của mẹ, làm sao gánh hết những vất vả, nhọc nhằn mẹ chịu vì con. Mỗi lần
cất tiếng gọi mẹ là lòng ta lại dâng trào bao cảm xúc, mẹ - chỉ một từ thôi sao mà thiêng liêng
quá đỗi. Mẹ như người thầy, người chị chia sẻ với ta những kinh nghiệm sống, động viên ta
những lúc ta buồn, thất bại trong học tập, chia tay với người yêu. Mẹ là động lực để ta tin
tưởng và có niềm tin vào cuộc đời, mẹ luôn là người dang tay đỡ ta khi ta vấp ngã, khi ta khó
khăn. Mẹ vất vả, hi sinh cả cuộc đời mình cho ta mà không than thở điều gì cả, có những lúc
ta cáu giận vô cớ, nặng lời với mẹ, mẹ chỉ im lặng, mẹ lặng lẽ giấu nước mắt trong nụ cười
với ta. Mẹ luôn động viên, tin tưởng vào quyết định của ta. Mẹ, tình mẹ cao cả và tuyệt vời
biết bao, mỗi chúng ta cần phải biết trân trọng, yêu thương, chăm sóc, quan tâm đến mẹ nhiều
hơn nữa, có bao giờ chúng ta để ý đến tóc mẹ đã điểm những sợi bạc, có hay những nếp nhăn
hằn nơi khóe mắt. Mẹ yêu thương, chăm sóc ta từng li từng tí, vậy mà vẫn còn nhiều kẻ không
biết trân trọng, yêu quí mẹ của mình, có những người con bất hiếu đối xử tệ bạc với mẹ mình,
không làm tròn chữ hiếu, đạo làm con. Hỡi những ai đang còn có mẹ bên mình, hãy trân trọng
những phút giây quí báu này: “Ai còn mẹ xin đừng làm mẹ khóc. Đừng để buồn lên mắt mẹ
nghe không?”
25. TÌNH PHỤ TỬ - Cách Viết đoạn văn Nghị luận xã hội ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về
“Tình Phụ Tử”
“Nước biển mênh mông không đong đầy tình mẹ. Mây trời lồng lộng không đếm được tình
cha”. Thực vậy, công lao của cha dành cho con cái không thể đong đo, cân đếm được, nếu mẹ
luôn ân cần, chăm sóc ta từng li từng tí thì có lẽ cha là người âm thầm yêu thương chúng ta.
Người không thể hiện sự quan tâm rõ ràng như mẹ, người thầm lặng, bảo vệ ta, cha là trụ cột
gia đình, luôn nghiêm khắc với ta nhưng thực chất lại là người mềm lòng nhất, quan tâm ta
nhất. Tuổi thơ của ai mà lại không một lần được “cưỡi” lên lưng cha, được cha dạy chơi thả
diều, đạp xe. Tuy cha không hay nói chuyện, chia sẻ với ta nhiều, nhưng mỗi lời dạy của cha
đều thấm thía, khắc sâu trong lòng con. Dù mai sau khôn lớn, chúng ta sẽ luôn nhớ mãi lời
dặn của cha, nhớ mãi cảm giác ấm áp khi được cha ru ngủ, nhớ mãi cái xoa đầu dịu dàng của
cha cùng lời động viên: “Con làm tốt lắm”. Tình phụ tử – một tình cảm thiêng liêng, sâu sắc
theo ta suốt cuộc đời, phải khi trưởng thành, làm cha, làm mẹ, ta mới thấu hiểu được nỗi vất
vả ấy, mới thấy yêu thương, quí trọng cha. Hãy trở thành một người con cho tròn chữ hiếu,
trân trọng, quan tâm, lo lắng cho cha đừng trở thành những đứa con vô tâm, bất hiếu. Hãy nhớ
“Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng cha”
26. LỜI CẢM ƠN - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200) chữ bàn về “Lời cảm ơn”
Có khi nào bạn tự hỏi rằng từ bé đến lớn bạn đã nói lời cảm ơn bao nhiêu lần chưa? Lời cảm
ơn có lẽ là một trong những lời nói chân thành nhất xuất phát từ trái tim từ tấm lòng của chính
mình. Cảm ơn là một thái độ trân trọng biết ơn những gì mà người khác đã làm cho ta đem lại
cho ta những điều tốt đẹp. Cảm ơn chính là một cách thể hiện tình cảm, lối ứng xử lịch sự, lễ
phép, biết tôn trọng đến những người xung quanh mình. Văn hóa cảm ơn chính là nét đẹp vốn
có của một con người. Lời cảm ơn dù chỉ là bé nhỏ nhưng lại có thể đánh giá được nhân phẩm
của một con người. Thế giới sẽ đẹp hơn rất nhiều nếu ta biết cảm ơn ta biết trân trọng những
thành quả mà người khác đã làm cho ta. Nét đẹp của lối sống này diễn ra thường xuyên biểu
hiện ở lời nói, cử chỉ, hành động và nằm ngay trong chính tình cảm của mỗi người. Cảm ơn
thực ra chỉ là một cách hành xử biết điều, lễ phép, lịch sự. Nét đẹp này không phô trương ra
bên ngoài nhưng lại khiến người xung quanh yêu quý mình. Hằng ngày chúng ta gặp gỡ bao
nhiêu chuyện, tiếp xúc bao nhiêu chuyện. Lời cảm ơn khi được bạn bè giúp đỡ, cảm ơn khi đi
lạc đường được một người lạ chỉ giúp, cảm ơn vì hôm nay xe thủng xăm và có người đưa
mình về. Chỉ là một lời nói đơn giản và rất dễ dàng thể hiện. Hoặc đơn giản hơn là nói lời
cảm ơn ba mẹ vì đã nuôi dạy mình lớn khôn, có thể tự lập được. Nhưng dường như lời nói
cảm ơn với ba mẹ lại khó khăn vì bạn nghĩ nó sáo rỗng, không thật. Đây là lời cảm ơn chân
thành nhất mà ba mẹ vẫn mong một lần con cái sẽ nói với mình. Giá như ai cũng biết nói lời
cảm ơn thì thế giới sẽ toàn là màu hồng, ai cũng sẽ hết lòng vì người khác. Xã hội sẽ tiến bộ
hơn văn minh hơn. Giữa người với người sẽ tràn ngập yêu thương. Hãy nói cảm ơn với tất cả
và đặc biệt là cảm ơn những thất bại vì chính những thất bại ấy đã cho ta thêm kinh nghiệm để
có những thành công sau này. Những người trẻ chúng ta phải học để nói lời cảm ơn. Nó
không chỉ là một truyền thống tốt đẹp mà nó còn là những cư xử đẹp để mọi người yêu
thương và chia sẻ cho nhau nhiều hơn. Vậy hãy cảm ơn và đừng ngần ngại nói lời cảm ơn với
tất cả yêu thương.
27. LỜI XIN LỖI - Viết đoạn văn ngắn bàn về: Lời Xin Lỗi
Có ai đó đã từng nói: “Một lời xin lỗi vụng về vẫn tốt hơn sự im lặng”. Quả thật như vậy, lời
xin lỗi là cái cúi đầu, cái khoanh tay lễ phép và lời chân thành: cháu xin lỗi, em xin lỗi, bác
xin lỗi, thầy xin lỗi…Nhưng trong cuộc sống này đã mấy ai làm được điều đó. Lời xin lỗi khi
mình làm sai không chỉ là cách thể hiện thái độ biết lỗi, tự nhận thấy sai lầm mà còn là phép
lịch sự trong giao tiếp, ứng xử giữa người với người. Lời xin lỗi là thể hiện sự tôn trọng và
khiến người nghe cảm thấy hài lòng, vui vẻ, chấp nhận, bỏ qua, làm cho mối quan hệ tốt đẹp
hơn. Còn người xin lỗi thì cảm thấy nhẹ lòng và trên hết là ý thức được trách nhiệm của mình
trước hành động sai trái. Hành động của cậu bé 8 tuổi ở Hải Phòng lỡ làm vỡ gương ô tô đã
viết giấy gửi lời xin lỗi và số điện thoại ngỏ ý đền bù cho chủ nhân chiếc ô tô để trước cổng
trường mà báo chí đưa tin trong suốt thời gian qua khiến chúng ta phải suy ngẫm. Cho nên
biết nói lời xin lỗi là một hành động lịch sự làm cuộc sống xã hội trở nên văn minh, tốt đẹp
hơn. Cần phê phán những kẻ thiếu tự trọng, thiếu dũng cảm, làm sai nhưng bảo thủ không
nhận trách nhiệm. Cũng qua đây chúng ta cần rút ra bài học cho mình: cần phải nghiêm túc
nhận lỗi khi làm sai, biết nói lời xin lỗi chân thành cũng như dũng cảm, tự trọng trước những
sai lầm của bản thân.
28. ƯỚC MƠ VÀ KHÁT VỌNG - Viết đoạn văn Nghị luận xã hội (khoảng 200 chữ) bàn
về “Ước mơ – Khát vọng”
“Đừng bao giờ từ bỏ ước mơ!”. Quả thật là vậy, chúng ta sẽ chỉ là tồn tại nếu không có ước
mơ và mục tiêu cho riêng mình. Ước mơ là khát vọng là những điều tốt đẹp mà ta luôn muốn
hướng tới. Cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn nếu ta biết ước mơ biết phấn đấu. Sống là phải biết ước
mơ phải nghĩ tới những điều cao đẹp. Chính ước mơ làm cuộc sống chúng ta thêm động lực.
Và ước mơ cũng chính là ngọn núi lửa luôn âm ỷ cháy trong tim ta và hối thúc, đánh thức
chúng ta mỗi ngày. Khi chúng ta có ước mơ và hoài bão thì cuộc sống chúng ta trở nên lãng
mạn hơn, bay bổng hơn. Nó chính là liều thuốc tinh thần kích thích chúng ta nỗ lực phấn đấu.
Tuy nhiên cũng cần phải phân biệt được giữa ước mơ và tham vọng. Tham vọng có thể hướng
đến những điều tốt đẹp nhưng nó mang tính chất cá nhân ích kỷ, háo thắng và phần lớn kẻ
tham vọng bao giờ cũng thất bại. Chúng ta cũng cần phê phán những kẻ sống thiếu ước mơ,
sống không hoài bão. Họ giống như những loài côn trùng chỉ biết rúc mình trong bóng đêm
mà không biết đâu là ánh sáng. Và mỗi chúng ta hãy nuôi dưỡng cho mình một ước mơ, hãy
chăm chút cho ước mơ lớn lên và trưởng thành mỗi ngày. Vâng! “đủ nắng hoa sẽ nở. Đủ gió
chong chóng sẽ quay. Đủ yêu thương hạnh phúc sẽ đong đầy” và chắc chắn đủ ước mơ bạn sẽ
gặt hái được thành công.
29. NIỀM TIN - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về “Niềm tin”
Bài làm 2
Steven Jobs – cựu CEO của đại gia công nghệ Apple – đã nói một câu mà tôi rất tâm đắc:
“Đôi khi cuộc đời sẽ ném gạch vào đầu bạn. Nhưng đừng bao giờ đánh mất niềm tin”. Vậy,
niềm tin được nhắc đến trong câu nói trên được hiểu như thế nào? Đó chính là một trạng thái
tinh thần tồn tại trong ý thức của mỗi người, thường gắn với những cảm xúc tích cực, với ước
mơ, khát vọng về tương lai. Trong cuộc sống của tất cả chúng ta, niềm tin đóng vai trò vô
cùng quan trọng. Bởi trong cuộc sống, chẳng phải lúc nào mọi chuyện cũng diễn ra tốt đẹp, ai
rồi cũng có lúc vấp ngã hay thất bại thảm hại. Rơi vào tình huống ấy, nếu mất đi niềm tin, sẽ
chẳng còn nguồn sức mạnh nào có thể nâng bạn dậy và bước tiếp con đường đã chọn. Thử
hỏi, trong những tháng ngày bôn ba nơi đất khách quê người, thiếu đi sự tin tưởng vào một
tương lai tươi sáng hơn cho dân tộc, liệu rằng Bác Hồ có thể tìm được con đường cách mạng
vô sản và dùng nó để giải phóng đất nước ta hay không? Vậy nhưng, một thực trạng đáng
buồn hiện nay là một bộ phận giới trẻ ngày nay quá dễ dàng gục ngã trước thử thách khó
khăn, trở nên tự ti, bi quan. Số khác lại quá tự phụ, dẫn đến những niềm tin sai lệch, hão
huyền về bản thân. Thế hệ trẻ ngày nay cần xa rời những lối sống như vậy, nghiêm túc học
tập và rèn luyện, phát triển các kĩ năng sống và khám phá được khả năng tiềm ẩn của mình.
Bởi chỉ khi biết được mình là ai, mình có thể làm được những gì, chúng ta mới có thể xây
dựng được một niềm tin vững chắc cho tương lai.
30. VỊ THI - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về “Vị Tha”
“Chúng ta đầy khiếm khuyết và sai lầm; hãy để chúng ta cùng tha thứ cho sự nực cười của
nhau - đó là luật đầu tiên của tự nhiên” (Voltaire). Cuộc sống sẽ bớt đi những điều nực cười
nếu bạn và tôi biết nuôi dưỡng cho mình lòng vị tha. Chỉ là một cái gật đầu chấp nhận lời xin
lỗi, một nụ cười là một lời tha thứ sau lỗi lầm của người khác hay hi sinh vì lợi ích chung
nhưng cũng đủ để xóa tan những sắc màu ma mị đang làm sầu não tâm hồn con người. Vị tha
không đơn thuần là một đức tính tốt mà còn là liều thuốc chữa lành vết thương, là chìa khóa
mở cánh cửa cơ hội hoàn thiện bản thân mà ta nên trao cho người đang cần.Trong lớp có học
sinh học kém hơn, bạn không dè bỉu, xa lánh mà sẻ chia, giúp đỡ bạn mình học tốt. Trong tập
thể có thành viên mắc lỗi, làm điều sai trái, bạn không lên án gay gắt mà ngược lại, giúp đỡ,
tạo mọi điều kiện để giúp họ sửa sai. Chắc chắn cuộc sống chúng ta sẽ tươi đẹp hơn, tập thể
vững mạnh hơn, đó cũng chính là cách bạn đang gieo trồng một hạt giống tốt lành cho tâm
hồn nhân loại, cho quá trình trưởng thành của nhân cách một con người. Song vẫn còn không
ít cá nhân nhỏ nhen, khép mình vào khuôn khổ của sự khắt nghiệt, như mảnh đất cằn cỗi
chẳng bao giờ chịu nuôi dưỡng hạt giống nào. Giữa thế giới lung linh vạn ánh sáng nhân ái và
khu vườn tăm tối với hơi thở của sự lạnh lùng, đâu sẽ là nơi hạnh phúc được lớn dần? Học
cách tha thứ là học cách sống đẹp cho người và cho bản thân. Đó cũng là cách bạn tận hưởng
và tận hiến giữa cuộc đời!
31. GIÁ TRỊ CỦA SÁCH - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về Giá Trị Của
Sách
Bài làm 1
Bài làm 2
Văn hóa đọc là yếu tố vô cùng quan trọng trong đời sống của chúng ta. Văn hóa đọc chính là
thái độ, là cách ứng xử của chúng ta với tri thức sách vở. Trước khi có các phương tiện nghe
nhìn, sách là con đường lớn nhất để con người tiếp cận thông tin, văn hóa, tri thức. Đọc sách
là một trong những cách thức giúp con người thư giãn, tích lũy kiến thức tăng cường khả năng
tư duy cũng như hướng con người đến gần hơn với “chân-thiện-mĩ”. Vì vậy, có thể nói, quốc
gia nào đẩy mạnh được văn hóa đọc, trình độ dân trí sẽ cao và tỉ lệ tội phạm sẽ thấp hơn rất
nhiều. Nhật Bản, quốc gia hiếm hoi trên thế giới có số lượng sách xuất bản hằng năm tăng, là
một ví dụ điển hình. Thế nhưng, giới trẻ Việt Nam ngày nay có vẻ thờ ơ, lãnh cảm với văn
hóa đọc sách, để lại những hệ quả tiêu cực cho mỗi cá nhân cũng như sự phát triển của toàn
dân tộc. Nguyên nhân có lẽ xuất phát từ sự bùng nổ của công nghệ thông tin với sự xuất hiện
của mạng xã hội, game online hay vô số các chương trình truyền hình. Vậy, giải pháp nào để
phát triển văn hóa đọc ở nước ta? Thiết nghĩ, ta nên tổ chức thêm nhiều ngày hội sách, phát
động phong trào đọc sách trong trường học cũng như các cơ quan, tổ chức, tận dụng công
nghệ để đa dạng hóa các loại hình phục vụ, tạo thêm hứng thú cho người đọc. Tóm lại, tất cả
chúng ta cần hiểu và trân trọng hơn văn hóa đọc, biến đọc sách trở thành một sở thích hàng
ngày. Bởi đúng như Cựu Tổng thống Hoa Kì Barack Obama từng nói: “Việc đọc rất quan
trọng. Nếu bạn biết cách đọc, cả thế giới sẽ mở ra cho bạn.”
32. ÍCH KỈ - Viết đoạn văn Nghị luận xã hội ngắn (khoảng 200) chữ bàn về lối sống Ích
Kỉ
Viên thuốc độc duy nhất bóp chết tâm hồn con người bởi vị đắng và vị của sự khắc nghiệt có
lẽ là ích kỉ. Nó sinh ra từ chính sự đố kị, ghen ghét, không gian chật hẹp trong trái tim bạn khi
ở trong một tập thể, cộng đồng. Ích kỉ thể hiện ở nhiều mặt, có thể là không thích san sẻ vì sợ
bản thân thiệt thòi hơn, là nhỏ nhen trước sự hối lỗi của người khác...Song thử hỏi trong cuộc
sống này ai hạnh phúc hơn ai, ai thành công hơn ai…? Biết chia sẻ với mọi người có nghĩa là
bạn đang ghép cho trái tim mình những tế bào nhân ái mạnh khỏe, còn ích kỉ giữ khư khư dẫu
những gì nhỏ nhặt nhất cũng đủ làm già nua gốc rễ tâm hồn. Bởi bạn đang tự tách mình khỏi
mối quan hệ với mọi người, cộng đồng, khỏi tình cảm ấm áp của nhân loại. Chưa đủ, ích kỉ
chính là con virus đẩy lùi sự phát triển văn minh con người, rõ nhất là hệ lụy của nó-căn bệnh
vô cảm.Chỉ vì chỉ ích kỉ, xem trọng bản thân mà không quan tâm đến người khác mà không ít
những vụ vợ chồng , anh em,.. sát hại nhau vì một câu nói, hành động không vừa mắt, hay vì
của cải cha mẹ chia không vừa ý. Chúng ta cần lên án những kẻ vị kỉ cá nhân nghiêm trọng
kia, giúp đỡ những ai còn đang mềm yếu trước virus ích kỉ và ca ngợi, trân trọng lòng tốt của
mọi người.Cuộc sống nồng nàn hương vị hạnh phúc khi ta đối mặt với tinh xấu-ích kỉ, đương
nhiên sẽ ngập tràn oán hờn nếu lựa chọn xuôi theo nó.
33. DỐI TRÁ - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về “Đừng Dối Trá”
Một trong những chiếc gai xuất hiện trong đời thường làm trái tim đau đớn chính là Dối Trá.
Dối trá là sự thiếu trung thực, nói không thật, không đúng với sự thật nhằm che giấu sự thật
hoặc mưu cầu một lợi ích nào đó. Dối trá là không thành thật, nói và làm không thống nhất
với nhau nhằm một mục đích không tốt đẹp. Sự dối trá để lại nhiều tác hại nghiêm trọng. Nói
dối, làm giả làm suy giảm lòng tin giữa con người với con người. Làm cho mọi người nhìn
nhận vấn đề không đúng với bản chất vấn đề. Dối trá làm cho mọi chuẩn mực không được
nhìn nhận đúng. Gây ra nhiều tác hại nguy hiểm về đạo đức, làm cho cuộc sống không ổn
định. Tạo ra sự đau khổ và căm ghét trong lòng người khác khi họ biết mình bị dối trá. Cần
phân biệt nói dối và sự dối trá, bản chất của chữ Dối đã là xấu, Dối trá lại càng xấu hơn nhưng
nói dối thì đôi khi không phải là xấu. Một người mắc bệnh hiểm nghèo nhưng người thân giấu
người bệnh nguồn tin ấy cũng là điều tốt; người cha người mẹ nói dối với con cái về sức khoẻ
của mình cũng là để cho con cái yên tâm công việc mà không phải bận lòng lo lắng. Qua đây
chúng ta cần lên án thói dối trá và rèn cho mình đức tính trung thực, sống đúng với lương tâm
và sống cao thượng cho xứng đáng với danh nghĩa Con Người.
34. BÌNH YÊN - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về “Bình yên”
Khi bạn rời xa vòng tay của bố mẹ đó cũng là lúc bạn trưởng thành. Bạn bị cuốn vào những
bộn bề lo toan của cuộc sống. Và bạn biết đó không ai có cuộc đời trải đầy hoa hồng cả sẽ có
những lúc mọi thứ quay lưng lại với bạn khiến bạn bế tắc tuyệt vọng, điều bạn cần ngay lúc
đó là gì? Đó chính là sự bình yên ngay trong chính tâm hồn của bạn. Vậy bình yên là gì nhỉ?
Hẳn mỗi người đều có câu trả lời cho riêng mình. Nhưng tôi chắc chắn nếu có thứ gì đó đọng
lại sau những biến cố thăng trầm của cuộc đời thì đó chính là bình yên. Bình yên đơn giản là
mỗi sáng sớm nhâm nhi tách cà phê bên những giọt nắng rơi trên cửa sổ. Bình yên là dù bạn
có đi đâu vẫn có người chờ bạn quay trở về. Bình yên là khi bạn biết có người yêu thương bạn
vô điều kiện, chấp nhận việc bạn sống như một đứa trẻ. Đơn giản và mộc mạc thế thôi. Vậy
hà cớ gì bạn không cho bản thân cơ hội tận hưởng điều tuyệt vời đó? Ngưng sự buồn phiền
toan tính lại hãy để cho bản thân cảm nhận được cảm giác an toàn và hạnh phúc nhất cuộc đời
này. Hãy để bình yên tiếp cho bạn sức mạnh để vượt qua những nỗi đau trong cuộc sống bất
ổn này. Hãy bỏ qua ngày tháng mệt mỏi để tìm sự bình yên cho mình. Bạn sẽ hiểu rằng có
những thứ không ai có thể dạy bạn được mà chính bản thân bạn phải cảm nhận tự nắm bắt lấy.
Bình yên không ở đâu xa nó tồn tại trong tâm hồn của bạn. Suy cho cùng bình yên đâu phải
thứ gì đó quá xa xỉ phải không tôi?
35. TRUNG THỰC - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về “Hãy sống trung
thực”
Dân tộc Việt Nam ta có rất nhiều phẩm chất tốt đẹp được truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác, và một trong số đó là đức tính trung thực. Vậy “tính trung thực” là gì? “Trung thực”
nghĩa là ngay thẳng, thật thà, nói đúng sự thật, không làm sai lệch sự thật, dám nhận lỗi khi
mình mắc khuyết điểm. Trong cuộc sống, người có đức tính trung thực luôn tôn trọng sự thật,
chân lý và lẽ phải. Trung thực là một phẩm chất cao đẹp làm nên nhân cách con người. Trung
thực không chỉ là một chính sách. Nó có thể là một nguyên tắc. Có một sự khác biệt giữa
chính sách và nguyên tắc. Một chính sách có thể được thay đổi khi nó không còn đem lại hiệu
quả. Còn quy tắc, cái mà bạn không thể thay đổi ngay cả khi nó gây ra thiệt hại. Có những
nguyên tắc buộc ta phải bỏ đi theo thời gian và thời đại chứ không bất biến. Lòng trung thực
là cần thiết cho một cuộc sống thật sự. Một người có thể lừa cả thế giới nhưng làm sao anh có
thể lừa gạt tâm hồn của chính mình? Một người không trung thực luôn sợ cái gì đó. Điều này
làm cho họ có cảm giác sợ hãi. Một người trung thực có thể là một người nghèo, phải sống
một cuộc sống khó khăn. Tuy nhiên, họ vẫn cảm thấy hạnh phúc. Nhưng ngày nay, hầu như
mọi người đều không tập cho mình làm quen được với tính trung thực. Lòng trung thực mặc
dù không đem lại cho ta sự giàu có và quyền lực, nhưng nó mang đến cho ta một xã hội công
bằng và có sự tin tưởng giữa người với người. Ngược lại, gian dối và không trung thực sẽ biến
con người ta thành những kẻ giả tạo, đạo đức con người dần dần bị hạ thấp, phá bỏ những nét
đẹp truyền thống của dân tộc. Cũng qua đây chúng ta cần rút ra bài học cho mình: là một con
người sống trong xã hội hiện đại, đức tính trung thực là không thể thiếu cho bản thân, cần tích
cực rèn luyện đức tính đáng quý này để hoàn thiện chính mình, trở thành người công dân tốt
đưa đạo đức xã hội ngày càng đi lên, đất nước ngày một phát triển hơn nữa.
36. FACEBOOK - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về mạng xã hội Facebook
Bài làm 2
Xã hội phát triển, công nghệ 4.0 ngày càng bùng nổ mạnh mẽ. Nhiều mạng xã hội ra đời. Nơi
đây là nơi tha hồ cho các bạn trẻ được " sống ảo". Mọi người Sử dụng từ này rất nhiều nhưng
chắc không phải ai cũng hiểu rõ về lối "sống ảo" này. Sống ảo là lối sống, phong cách sống
không giống với hoàn cảnh thực của con người ở trên mạng xã hội. Lối sống ấy được giới trẻ
thể hiện có phần thái quá, lố bịch. Cụ thể hơn sống ảo cũng có nghĩa là mơ tưởng, ảo tưởng về
cuộc sống hiện tại. Hiện nay, sống ảo đã trở thành một xu thế, một trào lưu trong giới trẻ hiện
nay. Các bạn trẻ sống ảo ngày càng nhiều, ở tất cả mọi nơi. Chúng ta ít nhất một lần trong
ngày bắt gặp các bạn trẻ đang sống ảo. Hiện trạng sống ảo này nguyên nhân là do giới trẻ
dành phần lớn quỹ thời gian cho facebook, muốn thể hiện, khoe khoang bản thân. Muốn trở
thành người nổi tiếng, được nhiều người biết đến. Và đặc biệt do sự thiếu quan tâm của gia
đình, người thân. Mọi người nghĩ sống ảo không gây tác hại gì thì đó là một sự lầm tưởng quá
lớn. Sống ảo làm bạn tiêu tốn nhiều thời gian vào những việc vô nghĩa, không quan tâm đến
cuộc sống ở thực tại. Vậy nên chúng ta cần phải biết cân bằng cuộc sống, tích cực tham gia
các hoạt động bên ngoài để giảm thiểu việc sống ảo hàng ngày.
37. VÔ TRÁCH NHIỆM - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về thói vô trách
nhiệm
Như một thứ axit vô hình, thói vô trách nhiệm có thể ăn mòn cả xã hội của chúng ta. Thật vây,
trách nhiệm là có ý thức, có tính tự giác, làm tròn bổn phận của mình với những công việc
được giao. Còn vô trách nhiệm là vô tâm, cẩu thả, không quan tâm đến đúng sai, phải trái. Bởi
thế, thói vô trách nhiệm để lại những hậu quả nghiêm trọng. Thói vô trách nhiệm làm chậm sự
tiến bộ của xã hội và gây ra những thất thoát, lãng phí. Kẻ vô trách nhiệm không hoàn thành
nhiệm vụ dẫn đến mất lòng tin của mọi người. Đôi khi sự vô trách nhiệm của bản thân cũng
mang đến những thất bại ê chề. May mắn thay, thói vô trách nhiệm ấy chỉ là một bộ phận nhỏ,
còn bên cạnh đó là cả một dân tộc với những con người luôn đề cao trách nhiệm và sống hết
mình vì những nhiệm vụ cao cả. Vì vậy, chúng ta cần rút ra bài học cho riêng mình: cần phải
có trách nhiệm với bản thân với gia đình và xã hội, đừng để sau này chúng ta phải hối hận vì
hành động vô trách nhiệm của mình.
38. MẤT MÁT - Hướng dẫn cách viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về “Mất
mát lớn nhất của đời người là đánh mất niềm tin”
Con người ta không thể sống mà không có niềm tin vào bất cứ thứ gì, vì thế đối với mỗi con
người khi đánh mất niềm tin thì đó chính là một sự mất mát lớn khó có thể lấy lại được. Để
hiểu được điều đó đầu tiên chúng ta cần phải hiểu được niền tin là gì? Niềm tin là vào chính
mình, tin vào năng lực, trí tuệ, phẩm chất, giá trị của mình trong cuộc sống. Đó còn là mình
hiểu mình và tự đánh giá được vị trí, vai trò của mình trong các mối quan hệ của cuộc sống.
Niềm tin vào bản thân giúp con người vượt lên mọi thử thách và trưởng thành. Trong cuộc
sống, có biết bao con người không may mắn, họ phải trải qua nhiều khó khăn, thử thách, bất
hạnh. Nhưng càng khó khăn, bản lĩnh của họ càng vững vàng. Họ tin vào ý chí, nghị lực, khả
năng của bản thân và họ đã vượt lên, chiến thắng tất cả. Nếu con người không có ý chí, nghị
lực, niềm tin vào bản thân sẽ không đủ bản lĩnh để vượt qua, không khẳng định được mình,
mất tự chủ, dần buông xuôi, rồi dẫn đến đánh mất chính mình. Khi đã đánh mất chính mình là
đánh mất tất cả, trong đó có những thứ quý giá như: tình yêu, hạnh phúc, cơ hội… thậm chí cả
sự sống của mình đây quả thực là những mất mát quá lớn khi con người đã đánh mất niềm tin.
Vì vậy, con người biết tin yêu vào cuộc sống, tin vào sức mạnh, khả năng của chính mình,
biết đón nhận những thử thách để vượt qua, tất yếu sẽ đạt đến bến bờ của thành công và hạnh
phúc. Trong thực tế, có những người mới va vấp, thất bại lần đầu nhưng không làm chủ được
mình, không tin vào mình có thể gượng dậy mà từ đó dẫn đến thất bại. Khi làm việc không tự
tin vào mình, không có chính kiến của mình mà phải thực hiện theo ý kiến tham khảo của
nhiều người khác thì dẫn đến tình trạng “đẽo cày giữa đường”, “lắm thầy thối ma”. Qua đó
chúng ta rút ra được bài học trong mọi hoàn cảnh sống, đặc biệt khi gặp những khó khăn, thử
thách cần nêu cao bản lĩnh, không đánh mất niềm tin vào chính mình. Luôn sống tự tin nhưng
tránh chủ quan. Phải cảnh giác với những việc tự tin mù quáng. Phải tỉnh táo để biết lắng
nghe, biết học hỏi, hợp tác; biết tu dưỡng phẩm chất và trau dồi năng lực của bản thân vì đó là
cơ sở của niềm tin.
39. TÌNH YÊU THƯƠNG - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về “Tình yêu
thương”
Nếu cuộc sống là những ngày thường nhật kéo dài thì yêu thương sẽ rải lên những hạt nắng
ấm áp, dịu dàng và ngọt ngào nhất. Sức mạnh chân thành của tình yêu thương rất khó để giải
thích, nhưng rất dễ để nhận ra. Nó chính là tình cảm thiêng liêng của đấng sinh thành với con
cái, tình cảm khăng khít của anh em, tình làng nghĩa xóm, sự chân thành của những người bạn
hay cũng chính là tình thương giữa người với người. Suy cho cùng, yêu thương lại chính là
loại vũ khí lợi hại nhất của con người. Bởi nó có khả năng chuốc say gã xấu xa trong tâm can
ta, nó có khả năng thức tỉnh một trái tim đong đầy yêu thương, và nó còn có khả năng dìu
bước con người ta hướng thiện nữa! Một Chí Phèo, “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”, sau cuộc
gặp gỡ bản năng, chính tình thương của Thị Nở, chính bát cháo hành nồng nàn yêu thương
của Thị đã cảm hóa Chí. Ấy chẳng phải là sức mạnh của tình yêu thương hay sao! Đừng biến
cuộc sống của bạn trở nên vô vị và cằn cỗi như mảnh đất bị bỏ hoang. Mảnh đất ấy thì lãng
phí, còn bạn thì thật đáng trách! Hãy gieo lên mảnh đất tâm hồn mình những hạt giống yêu
thương, rồi ánh ban mai sẽ khẽ hôn nhẹ để chúng vươn mình và lan tỏa yêu thương đi muôn
nơi. Bạn biết không, được yêu thương là một hạnh phúc nhưng yêu thương người khác lại
càng hạnh phúc hơn.
40.CẢN ĐẢM - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về “Lòng can đảm”
Quả thực, mỗi chúng ta như một vòng tròn bị khuyết mà cuộc sống thì luôn dung nạp những
yếu tố đối nghịch nhau. Trong đó, khắc tinh của “hèn nhát” chính là “can đảm”. Người Can
đảm trước hết là người không hèn nhát, là người dám đối mặt với sự thật, là người dám đương
đầu với những khó khăn thử thách của bản thân, dám đối diện với chính mình… Nếu bất ngờ
được hỏi về những tấm gương tiêu biểu của lòng can đảm, tôi chẳng ngần ngại gì mà sẽ trả lời
ngay: người con gái anh hùng Võ Thị Sáu đứng trước họng súng quân địch mà vẫn cất cao
tiếng hát, chú bé loắt choắt chạy như bay dưới làn đạn quân thù để đưa mật thư cho kháng
chiến… Nói tóm lại, can đảm là một đức tính vô cùng cần thiết đối với mỗi con người và
người can đảm là người đáng khâm phục. Khi ta có lòng can đảm, nghĩa là ta đã nắm giữ
chiếc chìa khóa vạn năng giúp ta có sức mạnh vượt qua những cánh cửa chứa đựng khó khăn,
thử thách. Cần phê phán những con người hèn nhát, không dám đương đầu với thử thách,
không dám vượt qua chính mình, thấy gian khổ thì chùn bước, thấy nguy hiểm thì không dám
hành động. Và sau cùng, mỗi chúng ta phải học cách dám đương đầu với những thử thách và
hơn cả là can đảm trong trận chiến với chính mình. Đừng quên xếp “can đảm” vào trong chiếc
túi hành trang của mình, bạn nhé!
41. TỰ PHỤ - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về tính “Tự phụ”
“Con người có trăm tính tốt và muôn vàn thói xấu”. Tự phụ là một trong những thói xấu mà
những con người ta thường dễ mắc phải. Tự phụ, hiểu nôm na là thói tự cao tự đại, tự đánh, tự
đánh giá cao bản thân của mình, luôn cho bản thân là “cái rốn của vũ trụ”. “Tự phụ” là một
“căn bệnh nan y” mà người “mắc bệnh” luôn trong trạng thái ảo tưởng về bản thân, luôn
muốn thổi phồng sự thật, huênh hoang, khoác lác, hợm hĩnh đến mức lố bịch. Cái họ nhận
được chỉ là sự xa lánh, cô lập hay thậm chí là thất bại. Thuở vừa nổi tiếng trên thi đàn “Thơ
mới”, Xuân Diệu đã viết: “Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất/Không có chi bè bạn nổi cùng
ta”. Để rồi sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, thi sĩ tự phê phán đó là nhận thức ấu trĩ,
nông nổi của tuổi trẻ. Quả thực, tuổi trẻ thường hăng hái và xốc nổi, hay ngộ nhận về mình.
Có chút tài năng nào đó đã vội cho mình là “trung tâm vũ trụ”. Bản thân tôi cũng đã từng tự
phụ về năng lực của bản thân nhưng kết quả tôi nhận được chỉ là sự thất bại. Vậy, để khắc
phục thói tự phụ, ta cần sống khiêm nhường, hòa đồng, biết lắng nghe và chia sẻ, không
ngừng học hỏi; dám phê bình và tự phê bình bản thân, không nên giấu dốt… Hãy học cách
khiêm tốn, vì “khiêm tốn là một loại nhân đức tu chỉnh thói tự phụ”.
42. TỰ TRỌNG - Viết đoạn văn ngắn bàn về lòng TỰ TRỌNG
Nếu “Tự phụ” là một trong những thói xấu của người đời thì “Tự trọng” lại là một nét tính
cách được coi là nền tảng để làm nên phẩm giá cao quý của một con người chân chính. Bởi
‘’tự trọng’’ là coi trọng và giữ gìn phẩm cách, danh dự của mình. Từ ngàn xưa, ông cha ta đã
đặt danh dự lên hàng đầu: “Đói cho sạch, rách cho thơm”, “Tốt danh hơn lành áo”… Tính “tự
trọng” không phải tự nhiên mà có. Đó là kết quả của một quá trình được giáo dục và tự tu
dưỡng lâu dài của mỗi cá nhân. Khi một học sinh không thuộc bài nhưng dứt khoát không
quay cóp của bạn bên cạnh, không giở sách để chép, đó là “tự trọng”. Có lỗi, biết nhận và biết
sửa lỗi, đó là “tự trọng”. Việc gì làm được thì cố gắng làm, không phiền lụy đến người khác,
đó là “tự trọng’’. Không làm điều gì tổn hại đến thanh danh, không bị khuất phục trước cường
quyền, bạo lực; không bị mua chuộc bởi tiền tài, danh vọng, đó là “tự trọng”. Tóm lại, “tự
trọng” là một đức tính đáng quý và nghiễm nhiên người có tính tự trọng sẽ được mọi người
yêu mến và nể trọng. Song, cũng cần phê phán những kẻ thiếu tự trọng, vì một nguồn lợi cá
nhân nào đó mà bán rẻ danh dự và tự chà đạp nhân phẩm của bản thân. Mỗi chúng ta hãy tự
có trách nhiệm với danh dự của bản thân, bằng cách rèn luyện tính tự trọng – nền tảng làm
nên phẩm giá của một con người chân chính!
43. THÀNH CÔNG - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về “Thành công là
những bậc thang”.
Đã ai trong các bạn đã định nghĩa được “sự thành công” là gì? Trong thế giới quan của tôi:
“thành công là những bậc thang”. “Thành công” là sự nỗ lực, sự phấn đấu và không ngừng
hoàn thiện bản thân mình từng ngày từng chút một. “Thành công” là từ có thể dễ dàng nói ra,
nhưng trong cuộc sống đã mấy ai có thể đạt được hay nắm được nó một cách dễ dàng? Thành
công luôn mang đến cho con người niềm hạnh phúc – bởi, để có được nó – con người phải
trải qua nhiều thử thách chông gai. Thành công càng nhiều thử thách chông gai thì thành công
mới thật có ý nghĩa. Vì thế - thành công đã cho ta ý chí, bản lĩnh được tôi luyện và trưởng
thành trong giông bão. Mặt khác, thành công giống như những bậc thang dẫn ta lên tới đỉnh
cao. Chỉ khi con người xem thành công là những bậc thang thì chúng ta mới có thể đạt được
nhiều thành công hơn – bởi vì bậc thang thành công không có bậc cuối cùng. Thành công thật
khó vươn tới đúng không các bạn? Nhưng khi đạt được rồi, nó sẽ đưa chúng ta tới những nấc
thang mới, nhưng dãy lầu mới nhiều khi còn vượt xa hơn những sự thiếu niềm tin, sự kiên trì.
Đối với thế hệ trẻ ngày nay xác định được ước mơ và nỗ lực không ngừng để đạt thành công
là không dễ. Vì vậy bạn hãy tạo đà cho bước nhảy và đủ dũng khí để vươn tới những bậc
thang cao hơn, xa hơn.
44. LỊCH SỬ - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về “Giá trị của lịch sử”
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Dân ta phải biết sử ta/Cho tường gốc tích nước nhà Việt
Nam”. Thật vậy, câu nói của Hồ Chủ Tịch chính là lời nhắc nhở sâu sắc với con dân đất Việt
về lịch sử nước nhà. Có thể nói, lịch sử là cội rễ của sự hình thành nền văn hóa, là lời giải đáp
về gốc tích tổ tiên cha ông mà mỗi con người, mỗi quốc gia đều mang một ẩn số riêng. Lịch
sử đem lại cho chúng ta cái nhìn sâu sắc hơn về nguồn cội, về cha ông, tổ tiên, nâng cao thêm
lòng tự tôn dân tộc, chắp cho đôi cánh của niềm tự hào về một trang sử đau thương mà oanh
liệt của những con người đã hóa núi sông ta. Bên cạnh đó, lịch sử còn đem lại những giá trị
truyền thống, của đạo đức mà cha ông ta truyền lại cho con cháu ngàn đời. Trong quá trình
dựng nước và giữ nước đầy gian khổ của dân tộc Việt, có biết bao thế hệ cha anh đã ngã
xuống vì độc lập dân tộc, nếu không có lịch sử lưu dấu lại những tháng ngày tang thương mà
hào hùng đó thì làm sao ta có thể hiểu hết ý nghĩa, giá trị của lịch sử cùng niềm tự hào tự tôn
dân tộc là như thế nào? Nhưng trong cuộc sống, có mấy ai đứng lại, nhìn về phía sau một thời
oanh liệt. Và một thế hệ không biết về lịch sử sẽ dẫn đến cả nhiều thế hệ mù mờ lịch sử kéo
theo các giá trị về cội nguồn tổ tiên cũng bị xem nhẹ. Cần phê phán những kẻ lãng quên lịch
sử, phủ nhận và làm mất đi lòng tự tôn dân tộc bằng những hành động, lời nói xuyên tạc về
lịch sử. Qua đây mỗi chúng ta phải thấy được lịch sử là thước đo nhân phẩm của mỗi con
người. Bởi vậy, mỗi công dân đất nước phải có bổn phận kế tục, gìn giữ, bảo vệ và phát huy
những giá trị lịch sử, truyền thống của dân tộc.
45. CÁM DỖ - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về “Vượt qua Cám dỗ”
Có nhận định cho rằng: “Chiến thắng bản thân là chiến thắng hiển hách nhất”. Thật vậy,
chúng ta thường rất khó khăn trong việc chiến thắng những cám dỗ đến với bản thân. Cám dỗ
là ma lực khiến chúng ta đầu hàng trước những dự kiến ban đầu, sao nhãng trước những công
việc còn dang dở. Cám dỗ sẽ ngăn cản bước đi của chúng ta trên con đường tìm kiếm thành
công hay chân lí. Bên cạnh đó, cám dỗ sẽ khiến chúng ta dễ dàng hình thành nên những thói
quen xấu, tìm kiếm những lí do để biện hộ cho cá nhân, tạo nên những vỏ bọc giả tạo trước
những thử thách cuộc sống, hay chỉ là những việc nhỏ nhặt nhưng lại trì hoãn bởi những “lời
cám dỗ ngọt ngào”. Khi đi học, chúng ta thường tìm những lí do để bao biện cho việc trễ nải
chưa làm bài tập và sự lười biếng đó chính là cơn cám dỗ khó cưỡng nhất đối với học sinh.
Nguyên nhân dẫn cám dỗ đến với bản thân đó chính là do ý chí và quyết tâm của chúng ta.
Nhưng bạn không thay đổi, hay không muốn thay đổi bản thân để chống lại cơn cám dỗ ngọt
ngào khiến con tim tan chảy kia? Muốn chiến thắng cám dỗ ta phải rèn luyện ý chí thật kiên
định. Bên cạnh những kẻ để cám dỗ điều khiển khối óc thì còn có những con người có quyết
tâm cao độ dù đương đầu trước vô vàn cám dỗ nhưng đã đạp bằng lên tất cả mà vươn đến một
mục tiêu, một lý tưởng cao đẹp như nhà diễn giảng tài ba Adam Khoo đã vượt lên mọi cám dỗ
bởi bạn bè xung quanh. Và qua đó, mỗi chúng ta cần không ngừng nỗ lực cố gắng vượt qua
mọi cám dỗ và gian khó. Thế nên, thay vì ngồi chờ đợi sự cám dỗ lướt qua thì bạn hãy làm gì
đó để cơn cám dỗ lụi tàn.
46. GIẤU DỐT - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về “Đừng giấu dốt”
“Bất kì một kẻ ngốc nào cũng cố che đậy và hầu hết mọi kẻ ngốc đều làm thế” (Đắc nhân
tâm). Quả thế, khuyết điểm không ngoại trừ bất kì ai, không ai có thể mạnh dạn tuyên xưng:
tôi là người hoàn hảo! Giấu dốt – một hiện tượng ngày nay đã và đang phổ biến ở đại đa số
học sinh, thể hiện qua sự che đậy cái kém cỏi, cái thiếu hiểu biết của mình. Khuyết điểm, kém
cỏi hầu hết phát sinh từ ý thức và khả năng vươn lên của mỗi con người và “giấu dốt” có thể
khiến chúng ta ngày càng lún sâu trong cái vỏ của sự uyên bác giả tạo. Những hành vi giấu
dốt do chính chúng ta tạo nên, nếu đối mặt với thực tại mà xua tay cho qua, nghĩ rằng sẽ
không ai biết đến, ta sẽ tiếp tục sống dưới ngôi nhà học thức giả. Nếu chẳng may có ai đó biết
được, chỉ rõ mà ta chống chế, phủ nhận, đổ lỗi cho hoàn cảnh thì không những ta không vươn
lên được mà đem đến hậu quả khôn lường, càng khiến cho tri thức càng hạn hẹp, uy tín bị suy
thoái, mất niềm tin nơi mọi người. Hẳn ai cũng biết đến anh chàng tự kiêu – giấu dốt trong
“Tam đại con gà”, anh đã đem đến cho chúng ta những tràng cười thư giãn mà hơn hết đó là
bài học cho những kẻ giấu dốt và là hồi chuông cảnh báo cho chúng ta tránh tình trạng che
đậy sự kém cỏi, khuyết điểm của mình, bởi “che dấu khuyết điểm của bản thân sẽ không làm
ta trở nên tốt đẹp hơn. Uy tín của ta tăng lên nếu ta chân thành công nhận khuyết điểm”.
47. CHO VÀ NHẬN - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về: Cho & Nhận
Nếu bạn muốn có một cuộc đời đầy ý nghĩa, hài lòng với bản thân và có được sự thăng hoa
trong tâm hồn, bạn phải biết chia sẻ - biết cho đi, đồng thời cũng phải biết lĩnh hội – biết đón
nhận.Thật vậy, sự sẻ chia, sự đón nhận - mật mã của mọi tình yêu thương . “Cho đi” là san
sẻ , là trao tặng đi những giá trị vật chất hay tinh thần mà bản thân có để đem đến cho những
người xung quanh . “Nhận lại” là đón nhận những món quà vật chất hay tinh thần mà người
khác đem đến cho mình . “Cho – nhận” chính là hai khái niệm tưởng chừng như trái ngược
nhưng luôn song hành với nhau. Quả thế, đời sống sẽ thối mục nếu ta chỉ lo giữ cho mình nó
sẽ nảy nở thêm nếu ta biết chia sẻ cho mọi người. Khi cho đi, thứ mà ta nhận lại chính là niềm
hạnh phúc vì đôi môi có hé mở mới nhận lại nụ cười. Chính vì lẽ ấy, sự sẻ chia và đón nhận
chắc chắn là đôi cánh đưa ta đến gần hơn với mọi người, đôi cánh “cho - nhận” có thể ôm ấp
lấy những tâm hồn nguội lạnh. Bên cạnh những con người biết dung hòa giữa mối quan hệ
cho nhận, thì còn đó những con người chỉ biết giữ cho riêng mình, chỉ biết vun vén cho cái tôi
cá nhân nhỏ nhen thì tình yêu, hạnh phúc sẽ không bao giờ ghé thăm đến những kẻ chỉ biết
nhận mà không biết cho đi. Hãy chia sẻ để biết đời sống thật phong phú, hãy đón nhận để biết
cuộc sống đáng yêu dường nào! Luôn tâm niệm: “ Bàn tay có mở rộng trao ban, tâm hồn mới
ngập tràn vui sướng”.
48. GIẢN DỊ - Viết đoạn văn NLXH ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về sự Giản Dị
Trong cuộc sống không gì quý bằng sự khiêm tốn, và người bạn hiền của khiêm tốn ấy lại là
sự giản dị. Giản dị là một phẩm chất cao quý của con người biểu hiện trong lối sống thanh
sạch hằng ngày từ lời nói, cách ăn mặc, lối sống đều hết sức bình dị, mộc mạc. “Lối sống giản
dị” là lối sống đơn giản, không cầu kỳ, phức tạp, không khoa trương, xa hoa. Sống phù hợp
với hoàn cảnh bản thân và xã hội. Đó là lối sống lành mạnh, chuẩn mực. Bác Hồ từng nói:
Kiệm là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, cần với kiệm phải đi đôi với
nhau. Giản dị và tiết kiệm là phẩm chất đạo đức cần có ở mỗi người. Người sống giản dị, tiết
kiệm sẽ được mọi người xung quanh yêu mến. Người sống tiết kiệm là thể hiện sự quý trọng
kết quả lao động của bản thân và người khác. Hai phẩm chất trên góp phần làm cho đời sống
giao tiếp giữa con người với con người trở nên thân thiện, hoà bình và phồn vinh xã hội. Ngày
nay, không ít người có chút tiền lại đem đi phung phí. Có những mâm tiệc trị giá chục triệu
bạc, nhằm khoe gia thế; có những tiệc cưới phung phí đến kinh hoàng; sự lãng phí tràn lan.
Một số cán bộ nhà nước tha hoá đạo đức và kém năng lực đã làm lãng phí tiền của nhân dân.
Tất cả những điều vừa nói đã đi ngược với truyền thống của dân tộc ta và làm chậm sự phát
triển của đất nước. Ngày nay, đất nước chúng ta đang vươn vai cùng với năm châu trong thế
hội nhập, nhưng nội lực kinh tế đất nước chúng ta chưa thật sự lớn mạnh. Vì thế, chúng ta
càng phải sống giản dị và tiết kiệm. Là thanh niên – thế hệ trẻ – người chủ tương lai của đất
nước lại càng phải ý thức nhiều hơn về điều đó. Hãy dành thời gian học tập nhiều hơn vui
chơi. Hãy giản dị để cuộc sống đáng yêu hơn.
49. LẠC QUAN - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về Lạc quan
Lạc quan là một thái độ sống vô cùng quan trọng góp phần tạo nên một cuộc sống tốt đẹp đối
với tất cả mọi người. Lạc quan tức là không lo lắng thái quá, tinh thần luôn thoải mái dù khó
khăn cận kề. Trong cuộc sống, lạc quan luôn là người bạn đồng hành của mỗi chúng ta để đưa
chúng ta vượt qua những khó khăn thách. Làm việc gì, dù khó khăn tới đâu thì người lạc quan
vẫn tin vào những điều tốt đẹp ở phía trước. Khi gặp thất bại họ vẫn không bỏ cuộc, không
chán nản mà ngược lại sự lạc quan làm tăng cơ hội thành công. Lạc quan là kẻ thù của uỷ mị,
yếu đuối thì chắc chắn sự lạc quan chính là bạn hành trình của con người trên con đường tới
tương lai. Hãy loại bỏ mọi nguồn tin mang tính tiêu cực. Hãy tránh xa những người thường
xuyên kêu ca phàn nàn. Hãy đón nhận những tin tích cực để luôn có suy nghĩ tích cực. Như
vậy, lạc quan đã góp phần tăng giá trị cho bản thân và xã hội!
50. KHOAN DUNG - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về Lòng Khoan Dung
Bài làm 2
Lòng vị tha là biểu hiện cao đẹp nhất của vẻ đẹp tâm hồn con người. Vậy vị tha nghĩa là gì và
đóng vai trò như thế nào trong cuộc sống? Vị tha chính là sống vì người khác, không ích kỉ
hay mưu lợi cá nhân với xuât phát điểm không gì khác ngoài một trái tim biết yêu thương
đồng loại. Trong công việc, một con người có được đức tính này luôn đặt lợi ích tập thể lên
trên tư lợi cá nhân, không lười biếng, ỷ lại hay tránh né, đùn đẩy trách nhiệm. Trong quan hệ
với mọi người, họ luôn vui vẻ, hòa nhã, biết đồng cảm sẻ chia và sẵn lòng thứ tha cho lỗi lầm
của kẻ khác. Bởi vậy, lòng vị tha giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống con
người. Nó giúp ta tìm được sự bình an, thanh thản trong tâm hồn, giữ được cảm tình, sự tôn
trọng từ những người xung quanh. Đồng thời, lòng vị tha cũng kéo người gần lại với nhau
hơn, góp phần kiến tạo một xã hội lành mạnh và bác ái, nơi độc ác mưu toan không còn chỗ
đứng. Và còn một điều ta luôn phải nhớ, sống vị tha không đồng nghĩa với việc nuông chiều,
dung túng những thói hư tật xấu hay mượn hành động thiện nguyện để đánh bóng tên tuổi.
Bởi chỉ những điều xuất phát từ sâu thẳm tâm hồn mới có thể chạm tới trái tim người khác.
Mỗi chúng ta hãy học cách lắng nghe, chia sẻ và tha thứ cho người khác cũng như chính bản
thân mình, để lòng vị tha có thể lan tỏa mạnh mẽ và giúp cho cuộc đời đẹp đẽ, hạnh phúc hơn.
51. TỰ HỌC - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về Tinh thần tự học
Nhà bác học vĩ đại Đác-Uyn, người khiến nhân loại sững sờ trước bộ óc vĩ đại của ông, đã rất
khiêm tốn khi phát biểu: “Tất cả những gì có giá trị một chút tôi đều đã thu nhận được nhờ tự
học”, ý kiến đó đã khẳng định tầm quan trọng của tự học đối với mỗi cá nhân. Học tập là hoạt
động thu nhận kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm từ trong sách vở, nhà trường và ngoài xã hội.
Song, việc học không đơn giản chỉ là tiếp thu kiến thức một cách máy móc, sách vở mà còn
gắn với ý thức của người học về việc biến những kiến thức ấy thành kĩ năng, vốn sống, là
hành trang mang theo suốt đời của mỗi người đó chính là tinh thần tự học. Tự học chính là ý
thức học, là sự chủ động suy nghĩ, tìm tòi, khám phá, nghiên cứu và nắm được bản chất vấn
đề giúp ta tiếp thu được kiến thức từ nhiều nguồn khác nhau. Nhờ có tinh thần tự học, chúng
ta có thể chủ động ghi nhớ các bài học trên lớp, tiết kiệm được thời gian. Và nhờ tự học, ta có
thể biến lý thuyết thành thực hành để nắm vững hơn vừa lý thuyết vừa hình thành kĩ năng.
Chủ động trong việc học giúp chúng ta tìm được cách học tốt mang lại hiệu quả cao cho chính
mình. Ví như Đác-Uyn, Bác Hồ, Bill Gates…nhờ tự học mà đi đến vinh quang. Thực tế ngày
nay cho thấy nhiều bạn học sinh còn quá lệ thuộc vào bài giảng của các thầy cô giáo, học và
ghi chép lại một cách thụ động, máy móc, lười suy nghĩ, thuộc bài nhưng không hiểu được
nội dung, học xong quên ngay, không áp dụng được những kiến thức đã đạt được vào thực tế
cuộc sống… dẫn đến kết quả không cao thậm chí còn để lại nhiều tiêu cực trong môi trường
giáo dục. Vì vậy, đề đạt được kết quả tốt, để thành công, để vững vàng bước vào đời, mỗi học
sinh chúng ta cần phải nỗ lực tự học, bởi “life long leaning” – học tập là công việc suốt đời,
học không ngừng nghỉ, đủ ý chí và sức mạnh, niềm tin vào bản thân đề chạm đích thành công.
52. HI SINH - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về Đức hi sinh
Những người mẹ ngày đêm tảo tần, vật lộn với cuộc sống mưu sinh, những người cha hằng
ngày vẫn vật lộn với gánh nặng trụ cột gia đình, những chiến sĩ nơi hải đảo xa xôi vẫn cầm
chắc tay súng… đó là những hi sinh lặng thầm cho tất cả từ nhỏ bé đến lớn lao vô tận. Hi sinh
là hành động đánh đổi một thứ quan trọng của bản thân cho một điều gì đó đáng quý hơn, đó
là sự quên mình, cống hiến, sẵn sàng hi sinh cho sự nghiệp chung, lợi ích chung. Đức hi sinh
đòi hỏi con người sẵn sàng san sẻ những quyền lợi về vật chất, tinh thần cho người khác mà
không tính toán thiệt hơn, thậm chí còn xả thân vì người khác. Từ những việc làm rất nhỏ như
nhường chỗ cho người già, san sẻ cho những người còn khó khăn đến lý tưởng cao đẹp cống
hiến hết mình cho Tổ quốc của những người lính và còn vô số những sự hi sinh thầm lặng
khác mà nhờ đó xã hội chúng ta đã phát triển tốt đẹp và bền vững. Nhưng không phải việc
làm, hành động nào cũng đáng được biểu dương nếu đó là những hi sinh giả tạo, nhằm mang
lại danh tiếng cho bản thân, muốn nhận cái hư danh “người tốt”. Nhiều người còn ích kỉ, sống
chỉ biết lợi ích của riêng mình, tham sống sợ chết… đó vẫn là một mảng tối trong xã hội hiện
nay. Vì vậy, chúng ta phải biết rộng mở trái tim mình, phải biết sống vì người khác, quan tâm,
chia sẻ, đừng ích kỉ, hãy đề đôi bàn tay phảng phất hương hoa vì những hành động tốt đẹp của
bản thân, để vị ngọt tình người lan tỏa khắp cuộc đời này.
53. SỐNG NHƯ HÒN ĐÁ - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về “Đừng sống
như hòn đá”
Triết gia người Mỹ, Elbert Hubbard đã từng nói: “Cuộc sống chỉ thực sự phong phú khi nó
tràn ngập tình yêu và sự cao thượng”. Ý nghĩa của ông muốn gửi gắm qua câu nói chính là
thông điệp sâu xa về lòng yêu thương giữa con người với con người trong cuộc sống này. Vậy
muốn có được lòng yêu thương, bao dung, vị tha cao thượng thì trước hết chúng ta hãy “đừng
sống giống như hòn đá”. Hòn đá chính là ẩn dụ tượng trưng cho lòng vô cảm của con người.
Nếu như con người sống nghèo nàn về mặt tâm hồn, chai sạn cảm xúc trước tình yêu thương
thì rồi kết cục cũng sẽ trở thành hòn đá kia - trơ trọi một mình, cô đơn giữa đời, tâm hồn sẽ
hóa đá. Sống như đá là lối sống vị kỷ, sống chỉ cho riêng bản thân mình, luôn đặt lợi ích tư
lên đầu mà không để tâm đến những người xung quanh. Cuộc sống đó không tồn tại tình yêu
thương và cũng không thể có được yêu thương, chính vì thế mà nó trở nên vô nghĩa và ảm
đạm tối tăm. Sống như hòn đá sẽ đẩy con người vào tình cảnh cô đơn, bị mọi người xung
quanh xa lánh không muốn tiếp xúc. Ta cần phải làm thế nào để không sống như một hòn đá?
Cần phải tăng cường hành động hành động yêu thương nếu như chính ta muốn được yêu
thương, bởi chăng : “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau” (Trịnh Công Sơn). Trong cuộc đời
này, ta nên hòa mình vào với cộng đồng, biết mở tâm hồn ra để đón nhận tình thương cũng
như biết cho đi, vì khi cho đi chính là còn mãi.
54. THÀNH CÔNG - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về “Thành công chỉ đến
khi chúng ta cố gắng hết sức và không ngừng hoàn thiện bản thân mình”.
Không ai vươn đến sự thành công mà lại không có sự nỗ lực, cố gắng từng ngày. Bởi vậy chỉ
khi chúng ta cố gắng hết sức và không ngừng hoàn thiện bản thân mình thì thành công mới
chạm đến cuộc sống của ta. Thành công cũng không đến với những người không chịu thay
đổi theo chiều hướng tích cực và cũng không ở lại quá lâu với những ai dễ dàng hài lòng với
bản thân. Con người là chủ thể quyết định suy nghĩ, hành vi của chính mình và kết quả của
mỗi việc làm, hành động của họ. Do đó, thành công chỉ gõ cửa nhà bạn khi bạn không ngừng
cố gắng và hoàn thiện bản thân. Leonardo Davinci trở thành danh họa kiệt xuất thế giới nhờ
tháng ngày khổ luyện vẽ những quả trứng để rồi hoàn thiện kĩ năng của mình hơn qua mỗi
bức hình tưởng chừng như đơn giản. Các vận động viên giành được thứ hạng cao trong các
đại hội thể thao thế giới do luyện tập gian khổ ngay từ thuở lên năm, sáu tuổi. Đằng sau mỗi
tấm huy chương là những giọt mồ hôi, nước mắt nơi phòng tập. Đôi khi, thành công đến sau
mỗi thất bại, vì vậy, nếu bỏ cuộc giữa chừng thì bạn không bao giờ vươn tới mục tiêu của
mình. Theo đuổi thành công đến cùng không có nghĩa là bất chấp tất cả để có được điều mình
mong muốn. Thành công chỉ bền vững nếu con người cố gắng dựa trên nội lực của bản thân
và không ngừng hoàn thiện chính mình.
55. LÒNG YÊU NƯỚC - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về Lòng yêu nước
Nhắc đến các phẩm chất của những người con đất Việt, ta không thể không kể đến tình yêu
nước nồng nàn. Yêu nước không phải một khái niệm xa xôi, trừu tượng. Đó là tình cảm giản
dị, gần gũi nhưng vô cùng thiêng liêng bắt nguồn từ sự trân trọng, nâng niu mà ta dành cho
những sự vật quanh mình, cho những con người ta yêu thương, gắn bó. Biểu hiện của lòng
yêu nước cũng nằm ngay trong ý thức, hành động hàng ngày của mỗi chúng ta. Trong thời
chiến, nó sục sôi và cuộn trào cùng các cuộc khởi nghĩa, cùng lớp lớp thanh niên sẵn sàng hi
sinh tính mạng khi lên đường nhập ngũ. Trong thời bình, mỗi người thể hiện tình yêu nước
bằng cách chăm chỉ trau dồi tri thức, cần cù lao động và rèn luyện đạo đức với ước mong đem
đến cuộc sống tươi đẹp hơn cho bản thân, gia đình và dân tộc mình. Cứ như vậy, lòng yêu
nước đã truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, trở thành nguồn sức mạnh vô giá, thành sợi
dây nối kết trái tim của những “con Lạc cháu Hồng”, giúp ta có thể lập nên những chiến công
“lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Chính tình yêu nước của thế hệ đi trước đã tạo dựng
niềm tin cho thế hệ mai sau. Dù thế hệ trẻ có lập nghiệp nơi đâu trên địa cầu rộng lớn, những
con người Việt Nam ta vẫn luôn giữ trong trái tim mình tình yêu nước nồng nàn, để nhớ, để
ngưỡng vọng và cũng để khao khát được làm điều gì đó cho mảnh đất hình chữ S thân thương
Việt Nam.
56. ĐƯỜNG ĐẾN THÀNH CÔNG - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về
“Đường đến Thành Công”
“Đường đến thành công” là ẩn dụ để nói đến hành trình gian nan mà con người phải vượt qua
để đến những điều tốt đẹp. “Thành công” là kết quả đạt được một cách mỹ mãn trong lĩnh vực
nào đó mà con người theo đuổi. Để thành công, người ta phải đổ mồ hôi, công sức, thời gian,
trí tuệ, gian nan vất vả, thậm chí phải nếm trải những thất bại mới có được. Con đường đó
không dành cho những kẻ lười biếng. Vì con đường dẫn tới thành công là con đường chông
gai, đầy khó khăn, thử thách chứ không phải bằng nhung lụa; là cả quá trình học tập, lao
động, nghiên cứu, sáng tạo không ngừng, đòi hỏi con người phải cần cù, miệt mài, chịu khó
và có ý chí quyết tâm cao mới thành. Không có một thành công, thành quả nào mà không phải
đổi bằng mồ hôi, công sức. Như vậy, đường thành công không dành cho những ai lười biếng.
Đây là một chân lý, khẳng định được cái giá của sự thành công: bất cứ sự thành công nào
cũng đổi bằng sự cần cù, chăm chỉ, kiên trì, chịu khó. Lười biếng, ỉ lại, ngại khó ngại khổ sẽ
chẳng bao giờ làm được việc gì có ý nghĩa. Mỗi người phải nắm vững chân lý này để xây
dựng cho mình một phương hướng cụ thể nhằm đạt được những thành công trong cuộc sống;
không ngừng rèn luyện nhân cách, bản lĩnh, dám nghĩ dám làm, dám thành công.
57. MỤC TIÊU - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về “Không có mục tiêu nào
quá lớn”
“Mục tiêu” là điểm là đích mà chúng ta hướng đến trong cuộc đời, là một dự định, một định
hướng được đề ra trước mắt ta. Có mục tiêu thì chúng ta mới có động lực để thúc đẩy mình và
nếu không có mục tiêu thì chúng ta sẽ giống như con thuyền giữa đại dương không biết đâu là
bến bờ. Bản thân mỗi người phải đề ra cho mình mục tiêu vì đó chính là tương lai của bản
thân. Đừng nghĩ là nó quá lớn với bạn vì nghĩ nó quá lớn bạn lại đâm ra sợ hãi với chính bản
thân. Đôi khi bạn gặp thất bại nhưng thất bại lại là chỗ dựa lớn nhất cho sự trưởng thành.
Đừng sống không có ước mơ, vì như thế bạn đã để tâm hồn tàn lụi ngay khi còn sống. Ước
mơ giống như con đường chưa có nhưng sẽ khám phá và vượt qua. Và thử hỏi nếu con người
sống mà không có ước mơ ? Chắc chắn đó là cuộc sống vô nghĩa nhất. Cần phê phán những
kẻ sống thiếu mục tiêu vì những kẻ đó là những kẻ sống nhờ sống gửi, sống ký sinh lên người
khác; ăn bám gia đình, bạn bè; thiếu chí hướng, mục đích, ước mơ nghĩa là đã “chết ngay khi
còn sống”. Trong cuộc sống mỗi con người hãy xây dựng cho mình một mục tiêu, một ước
mơ. Hãy thực hiện nó vì nó không có gì “quá lớn”, không có gì quá “xa vời”.
58. THẤT BẠI - Viết đoạn văn Nghị luận xã hội ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về “Nhìn
vào thất bại để nâng mình lên”
Trong cuộc sống của chúng ta, thành hay bại, thắng hay thua là đều phụ thuộc vào tính cách
của con người. Thường thì phải qua thất bại rồi mới đến thành công. Nhưng cũng có người
thấy thất bại đã cúi đầu chấp nhận một cách dễ dàng. Bàn về thái độ của con người trước thất
bại, tổng thống Mỹ - A.Linconl cho rằng “Điều tôi muốn biết trước tiên không phải là bạn đã
thất bại ra sao mà bạn đã chấp nhận nó như thế nào”. “Thất bại” là hỏng việc, thua mất, là
không đạt được kết quả, mục đích như dự định. Điều quan trọng hơn cả là nhận thức, thái độ
của con người trước sự thất bại trong cuộc sống. Trước một sự việc không thành, con người
cần có sự bình tĩnh để tìm hiểu nguyên nhân của sự thất bại (khách quan và chủ quan). Dám
đối mặt để chấp nhận, không né tránh sự thật, cũng không đổ lỗi hoàn toàn cho khách quan.
Biết “dậy mà đi” sau mỗi lần vấp ngã, biết rút ra bài học từ những thất bại đã qua để tiếp tục
thực hiện công việc và ước mơ của mình. Thất bại là môi trường tôi luyện ta trưởng thành hơn
(A.Linconl là con người đã 8 lần thất bại nặng nề trong cuộc đời và một ngày ông trở thành
tổng thống của nước Mỹ). Cần phê phán những kẻ ủy mị, yếu đuối, ngại khó ngại khổ. Qua
đây chúng ta cần nhớ: Phải biết cách chấp nhận sự thất bại để có thái độ sống tích cực. Không
đắm chìm trong thất vọng nhưng cũng không được bất cần trước mọi sự việc, không để một
sự thất bại nào đó lặp lại trong đời. Đó là bản lĩnh sống.
59. HIẾU THẢO - Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về “Lòng Hiếu Thảo”
Đạo làm con là phải hết lòng phụng dưỡng, báo đáp mẹ cha, vì thế Hiếu Thảo là tình cảm tự
nhiên và cũng là đạo đức của con người. Người con hiếu thảo là người con luôn biết kính
trọng và yêu thương cha mẹ của mình. Cha mẹ nuôi con không bao giờ mong được đền đáp
lại công lao ấy - nhưng nghĩa vụ của mỗi người con là phụng dưỡng khi cha mẹ tuổi già sức
yếu. Lòng hiếu thảo luôn mang lại hạnh phúc cho gia đình, làm cho gia đình yên ấm. Hiếu
thảo cũng mang lại một xã hội tốt đẹp văn minh. Bởi gia đình vốn là tế bào của xã hội. Nếu
mỗi gia đình là những tấm gương hiếu thảo thì xã hội này sẽ tốt đẹp biết bao. Muốn vậy ta cần
phê phán những kẻ bất hiếu, không vâng lời cha mẹ, ngược đãi cha mẹ mình, luôn làm cha mẹ
đau lòng. Đúng như đức nhân Khổng Tử từng nói: “Tội ác lớn nhất của con người chính là tội
bất hiếu”. Tóm lại, bổn phận làm con phải biết giữ tròn chữ hiếu với đấng sinh thành. Ngày
nay, không chỉ hiếu thảo với cha mẹ, chữ hiếu còn được mở rộng ý nghĩa như trong lời Bác
Hồ dạy: “Trung với nước, hiếu với dân”.
60. ĐAM MÊ - Luyện viết đoạn văn Nghị luận xã hội ngắn (200 chữ) bàn về thông điệp:
“Hãy giữ cho mình niềm đam mê khác biệt”
Bài làm 1
“Mỗi người đều phải rước một đam mê. Đam mê - ngọn lửa sinh tồn hay ngọn lửa hủy diệt
đều do tự tay mình thắp lên” - đây là câu nói giàu ý nghĩa của hoạ sĩ Bửu Ý về niềm đam mê.
Lại còn hay hơn nữa, đặc biệt hơn nữa nếu mỗi người có một niềm đam mê khác biệt. Đam
mê khác biệt là niềm say mê, yêu thích, theo đuổi một sở thích độc đáo riêng biệt không trùng
lặp với người khác. “Hãy giữ cho mình một niềm đam mê khác biệt” là một câu nói khuyên
chúng ta nên tìm kiếm cho bản thân một đam mê mà không phụ thuộc vào bất kì ai. Vì sao lại
giữ cho mình niềm đam mê riêng biệt? Đam mê riêng biệt đem lại nguồn cảm hứng cho cuộc
sống tạo nên động lực mãnh mẽ để chúng ta vượt qua khó khăn để biến ước mơ thành hiện
thực.Nó giúp ta tập trung toàn bộ trí lực không ngừng sáng tạo để mở ra những con đường
mới mẻ đạt đến những đỉnh cao nghề nghiệp, giúp ta khẳng định mình tạo dấu ân riêng cho
bản thân. thêm vào đó nó sẽ kích thích sự sáng tạo và phát triển của xã hội có nhiều giá trị
nhiều thành quả mới được. Như Đặng Lê Nguyên Vũ – là ông chủ của cà phê Trung Nguyên,
ông đã can đảm theo đuổi con đường kinh doanh khi đang học nghề y năm thứ 4,cho dù trên
bước đường lập nghiệp ông gặp không ít thử thách nhưng cho đến nay ông đã và đang là một
doanh nhân thành công. Bên cạnh tấm gương như Đặng Lê Nguyên Vũ, thì lại có nhiều người
sống phù phiếm, không biết mình đam mê cái gì hoặc có đam mê mà không có can đảm theo
đuổi. Tìm kiếm và sống với đam mê không dễ dàng nên đòi hỏi mỗi cá nhân phải tập trung
cao độ trí tuệ,dũng cảm để vượt qua thử thách và mỗi bản thân ai cũng đều cần phải tìm ra
một đam mê thực sự cho chính mình trong cuộc sống.
61. HẠNH PHÚC - Đoạn văn Nghị luận xã hội ngắn 200 chữ bàn về: Hạnh phúc
Cuộc sống này là hành trình không ngừng nghỉ nhằm kiếm tìm hạnh phúc. Vậy hạnh phúc là
gì và có vai trò như thế nào trong cuộc sống của mỗi chúng ta? Hạnh phúc chính là trạng thái
vui vẻ, thoải mái khi chúng ta được thỏa mãn một điều gì đó. Trừu tượng như vậy nhưng ta có
thể tìm được hạnh phúc trong những điều gần gũi và giản đơn vô cùng: một lời khen của cô
giáo, một bức tranh nguệch ngoạc mà đứa trẻ lên ba dành tặng mẹ hay một bàn thắng vào
khung thành đối phương… Hoặc lớn lao hơn, đó là niềm hân hoan rạo rực khi ta làm nên
những điều kì diệu, thỏa ước mơ cháy bỏng bấy lâu: đạt được tấm huy chương vàng ở đấu
trường quốc tế, đỗ vào ngôi trường mơ ước hay mua được căn nhà đẹp đẽ... Nhưng dẫu là gì
chăng nữa, hạnh phúc vẫn mang ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống của mỗi cá nhân cũng
như cả cộng đồng. Nó mang tới cho tâm hồn sự thoải mái, thanh thản, là nền tảng vững chắc
để ta chinh phục những hoài bão lớn hơn. Tương tự, ở một quốc gia có chỉ số hạnh phúc cao,
con người sẽ gắn bó với nhau hơn, tỉ lệ tội phạm cũng nhờ vậy mà giảm bớt. Do vậy, thế hệ
trẻ cần nhận thức rõ về ý nghĩa thực sự của hạnh phúc và phấn đấu hết sức để đạt được hạnh
phúc, trước là cho bản thân và sau là cho cả cộng đồng. Muốn làm được điều này, mỗi người
phải không ngừng bồi dưỡng trí tuệ, tạo lập nhân cách để có thể vững vàng trên “con đường
kiếm tìm và chia sẻ hạnh phúc”. “Mỗi người đều là kiến trúc sư hạnh phúc cho riêng mình”.
Vậy nên hãy sống hết mình với những điều mình muốn và bạn sẽ tìm được ý nghĩa của cuộc
đời mình.
62. THÀNH CÔNG VÀ THẤT BẠI - Nghị luận xã hội 200 chữ: Bàn về Thành Công và
Thất Bại
Trong cuộc sống, không có ai muốn bản thân mình rơi vào cái hố của thất bại, nên luôn cố
gắng để đạt được thành công. Tuy nhiên thất bại hay thành công đều là những việc chúng ta
cần phải trải qua để thấy bản thân mình đã trưởng thành lên như thế nào. Thất bại và thành
công luôn tồn tại song song và triệt tiêu nhau. Thành công chính là kết quả đạt được sau quá
trình cố gắng, phấn đấu không ngừng nghỉ. Đó chính là công sức do lao động, học tập mà có.
Thành công cũng có thể xem là niềm vui tinh thần tạo nên nhiều niềm vui khác mà nhiều
người vẫn cố gắng muốn vươn tới. Còn thất bại chính là trạng thái rơi vào hụt hẫng, bế tắc khi
không thể hoàn thành được mục tiêu mà mình đã đặt ra, không thể trở thành một ai đó mà
mình mong. Thành công và thất bại luôn tồn tại trong mỗi con người. Đây là hai trạng thái
xuất hiện nhiều lần trong một người. Có người đi từ thất bại này đến thất bại khác rồi cuối
cùng mới chạm đến được với thành công. Để đi đến sự thành công, cần phải trải qua nhiều
khó khăn, thử thách, cả những thất bại cần phải đối mặt và bước qua. Những thất bại đó
không nhỏ, đó có thể là đánh đổi nhiều thứ khác để đạt được cái mà mình mong. Những thất
bại mà chúng ta trải qua không phải đều là bế tắc và con đường cùng. Chính những thất bại
mà mình phải gánh chịu chính là kinh nghiệm, sự trưởng thành nhận lấy sau này. Như vậy hà
cớ gì không dám thất bại, không dám đánh đổi? Có câu nói “Thất bại là mẹ thành công”. Có
thể thấy rằng tầm quan trọng của thất bại đối với thành công, đó chính là nền tảng để chúng ta
có thể tự đứng lên và học tập không ngừng. Không có con đường đi nào trải toàn hoa hồng,
chỉ có đánh đổi thì mới có thể lâu dài được. Con đường đi của mỗi chúng ta chưa bao giờ
bằng phẳng, bởi vậy không nên ngại khó khăn, thử thách, ngại thất bại. Phải trải qua những
điều đó thì tự bản thân mới thấy mình trưởng thành và thành công sẽ đến trong nay mai. Bởi
vậy chúng ta hãy đừng ngại ngần thất bại để đổi lấy thành công về sau. Những người không
dám đối mặt với thất bại là những người không có ý chí và nghị lực, không có quyết tâm vượt
qua mọi chuyện.
63. CHÂN THÀNH - Nghị luận xã hội 200 chữ: Bàn về sự Chân Thành
Sự chân thành là một thứ phương thuốc thần diệu nhất giúp con người tạo được cho mình một
thế quân bình trong đời sống. Sống trong một xã hội cuộc sống thường ngày phải chung đụng
cùng bao nhiêu người mà ta bắt buộc phải giao tiếp thường xuyên, nếu trong những cuộc tiếp
xúc chúng ta thiếu lòng chân thành tự nhiên sẽ bị mọi người coi thường và tìm phương trốn
lánh, nói một cách khác là chúng ta sẽ hoàn toàn bị cô lập. Đó chính là một điều thất bại vô
cùng tai hại cho công cuộc tiến thủ cho chúng ta trên bước đường đi tìm tương lai. Ngoài ra
lòng thành thật còn giúp chúng ta có thêm một phương tiện để chinh phục lòng người. Nếu
một con người sống ngoài xã hội lại thiếu tinh thần ngay thẳng, nghĩa là sống không có lòng
thành thật tự nhiên sẽ tạo cho mình một sự thất bại không phương cứu vãn. Một con người có
lòng thành thật, luôn luôn bao giờ cũng tôn trọng chữ thành và chữ tín, nhất định sẽ được mọi
người sống chung quanh mình ưu đãi bằng tất cả sự kín đáo tha thiết. Ngược lại một người
chủ trương lọc lừa, xảo trá, gian ngoa làm bất cứ một công việc gì cũng luôn luôn bị những
người chung quanh tìm những cách lánh xa. Lòng chân thành là một thứ tính tình quan hệ để
giúp con người bảo toàn được thiên chức làm người của cá nhân, chính lòng chân thành cũng
giúp cho con người nêu cao nhân cách. Vì những lý do đó cho nên trong phương diện xử thế
vấn đề được đặt ra trước nhất là lòng chân thành, sự thành thật giữa người đối với người là
như thế. Con người nếu sống trong xã hội luôn bị những người khác cạnh tranh thì vấn đề
chân thành càng phải được bảo toàn hơn bao giờ hết. Vì chân thành, con người mới tạo được
những uy tín cho cá nhân mình và làm cho mọi người chung quanh khâm phục, từ chuyện
khâm phục cá nhân con người mới có thể nói đến những vấn đề mật thiết lâu bền. Tóm lại,
con người muốn thành công trên trường đời bao giờ cũng phải tạo cho mình lòng chân thành
tuyệt đối và chỉ có lòng thành thật mới đem đến cho con người sự chiến thắng ở đời mà thôi.
64. LÒNG YÊU THƯƠNG - Đoạn văn Nghị luận xã hội 200 chữ mẫu: Bàn về sức mạnh
của lòng yêu thương
Bình an và hạnh phúc sẽ đến với những người có tâm hồn trong sáng và tình yêu thương. Quả
đúng như vậy, tình yêu thương là tình cảm xuất phát từ lòng yêu mến, đồng cảm, cảm thông
và quý mến đối với đồng loại và mọi điều xung quanh. Tình thương yêu có sức mạnh rất lớn,
nó giúp người khác vững tin hơn trong cuộc sống, giúp người khác vượt qua gian khổ, nó cảm
hóa và làm thay đổi những người sống chưa tốt. Tình yêu thương chân thành của Thị Nở đã
chạm đến trái tim cằn khô, sỏi đá của Chí Phèo và thức dậy trong anh những giây phút người
nhất. Tình yêu thương làm cuộc đời này đẹp hơn. Tình yêu thương của ta đưa người khác đến
đỉnh cao của thành công và đưa ta vượt lên trên những điều tầm thường. Tình yêu thương là
điều quý giá nhất trên đời mà người với người có thể trao tặng nhau. Rất nhiều người hối hận
vì chưa kịp nói lời yêu thương với người thân khi người thân của họ còn sống. Vì vậy đừng
ngại nói lời yêu thương với những người mà ta quý mến họ. Đôi khi cuộc sống nhiều mâu
thuẫn, hiểu nhầm, hận thù và nó chỉ được hóa giải khi xuất hiện sự tha thứ và tình yêu thương
vĩ đại. Khi bên trong bạn có tình yêu thương, bạn sẽ lan tỏa tình yêu thương ra cho mọi người
xung quanh, vì “bàn tay tặng hoa hồng bao giờ cũng phảng phất hương thơm”. Một người chủ
động trao tặng tình yêu thương thì bên trong họ tràn đầy tình yêu thương. Muốn có tình yêu
thương thì trước hết, ta phải trao tặng tình yêu thương cho thế giới. Ta cũng cần phê phán
những kẻ sống vô cảm, ích kỷ, hận thù. Và nhiệm vụ của chúng ta là hãy cảm hoá họ, vì chỉ
có tình yêu thương mới có thể biến thế giới đầy khổ đau này thành biển cả của hoà bình và
hạnh phúc. (Nguyễn Hữu Hiếu)
65. CAO THƯỢNG - Viết đoạn văn (200 chữ) bàn về “Tình cảm cao thượng không chỉ
giúp con người sống thanh thản mà còn có tác dụng thúc đẩy xã hội và đồng loại tiến
bộ”.
Tình cảm cao thượng không chỉ giúp con người sống thanh thản mà còn có tác dụng thúc đẩy
xã hội và đồng loại tiến bộ. Thật vậy, tình cảm cao thượng là tấm lòng vị tha, bao dung. Tình
cảm ấy luôn hướng đến những điều cao đẹp trong cuộc đời, tới những khát vọng và chân lý
của sự toàn thiện. Trong thực tế nếu con người chỉ có lòng đố kỵ thì lúc nào bản thân cũng chỉ
thấy mình đau khổ bởi thấy mình thua kém người khác. Vì thế kẻ đố kỵ không bao giờ được
thanh thản trong tâm hồn. Ngược lại, người có tình cảm cao thượng thì luôn xem thành công
của người khác là niềm vui cũng như hạnh phúc của mình. Luôn lấy sự thành công ấy làm
mục tiêu để bản thân phấn đấu thì tâm lý lúc nào cũng nhẹ nhàng thanh thản. Người có tình
cảm cao thượng bao giờ cũng mang tâm lý lạc quan, yêu đời. Họ luôn phấn đấu nỗ lực để
vươn lên trong cuộc sống. Nếu xã hội vắng bóng những kẻ đố kỵ mà chỉ toàn là những con
người có lòng cao thượng thì xã hội ấy luôn có sự cạnh tranh lành mạnh, mọi người đều cố
gắng nỗ lực không ngừng để vươn đến thành công. Điều này tạo nên động lực, tạo nên sức
mạnh làm nền tảng cho xã hội phát triển. Nhận thức được tình cảm cao thượng là đức tính tốt
đẹp, mỗi chúng ta cần đấu tranh lên án và loại bỏ những kẻ đố kỵ, ích kỷ làm xã hội chậm tiến
bộ. Bản thân phải luôn có ý thức phấn đấu rèn luyện nhân cách sống vị tha, bao dung và cao
thượng.
66. HI SINH - Viết đoạn văn nghị luận (200 chữ) bàn về đức hi sinh, lòng dũng cảm của
64 chiến sĩ Hải quân Việt Nam đã hi sinh trong trận chiến bảo vệ Gạc Ma, ngày
14.3.1988.
Lòng nhân ái, vị tha, đức hi sinh, lòng dũng cảm... vốn là những phẩm chất cao quý của con
người. Trong đó, đức hi sinh và lòng dũng cảm còn là truyền thống quý báu của người Việt từ
bao đời nay. Hình ảnh 64 chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam đã ngã xuống trong cuộc
chiến đấu bảo vệ biển đảo là minh chứng hùng hồn cho phẩm chất cao quý ấy. Trong cuộc
sống, đức hi sinh và lòng dũng cảm chính là sống dâng hiến, quên bản thân mình vì người
khác. Sự kiện Gạc Ma 1988, các chiến sĩ hải quân đứng thành một vòng tròn bất tử chính là
biểu tượng cao đẹp cho sự quên mình vì Tổ quốc. Họ chính là biểu tượng của lòng yêu nước,
sự bất khuất, kiên gan, sự hy sinh vô bờ bến – “thà hi sinh đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ
biển đảo”. Thật xúc động biết bao khi những chàng trai - những người con ưu tú đã ngã xuống
khi tuổi xuân còn nồng nàn. Họ đã hiến dâng cả tuổi trẻ của mình vì đất nước. Sự anh dũng hi
sinh của những người lính hải quân năm nào đã nhắc nhở chúng ta phải biết sống tốt hơn giữa
cuộc đời này. Biết ơn những liệt sĩ bao nhiêu ta lại càng căm phẫn bấy nhiêu trước hành động
đê hèn của quân xâm lược Trung Quốc. Chúng ta cũng cần lên án những kẻ thiếu sự dũng
cảm, trong chiến tranh thì phản bội đồng đội, khi hòa bình thì chỉ biết sống cho riêng mình.
Được sống trong hòa bình, mỗi chúng ta phải ghi nhớ công ơn trời biển của thế hệ cha ông.
Phải tôn trọng sự thật lịch sử cũng như luôn nêu cao bài học cảnh giác trước âm mưu của kẻ
thù. Tuổi trẻ ngày nay phải sống có mục đích, có lý tưởng - nhất là phải có lòng yêu nước.
Phải học tập lòng dũng cảm, đức hi sinh, sẵn sàng lên đường làm nhiệm vụ khi tổ quốc kêu
gọi. Xin được mượn mấy lời ca trong bài hát Tự Nguyện thay cho lời kết: “Nếu là chim tôi sẽ
là loài bồ câu trắng - Nếu là hoa tôi sẽ là một đóa hướng dương- Nếu là mây tôi sẽ là một
vầng mây ấm- Nếu là người tôi xin chết cho quê hương”
67. TÌNH BẠN - Đoạn văn nghị luận xã hội 200 chữ: Bàn về Tình Bạn
Bài làm 2
Trong cuộc sống, bên cạnh những tình cảm ruột thịt, máu mủ thân thiết thì tình bạn cũng là
một tình cảm thiêng liêng, đáng trân trọng. Là một phạm trù tinh thần, tình bạn được hiểu là
tình cảm gắn bó, yêu thương, đoàn kết giữa những người có mối quan hệ bạn bè với nhau,
không kể tuổi tác, địa vị, nghề nghiệp… Tình bạn được hình thành từ sự thấu hiểu, đồng cảm
và giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Chúng ta có thể kể đến những tình bạn nổi tiếng trong
giới văn học, ví dụ như đôi bạn vong niên Lí Bạch – Mạnh Hạo Nhiên (Trung Quốc), Nguyễn
Khuyến – Dương Khuê (Việt Nam),… và còn rất nhiều những tình bạn trong sáng, đáng quý
quanh ta. Tình bạn đẹp sẽ làm cho cuộc sống của chúng ta trở nên thú vị hơn, đó là mối dây
để ta “trao đi yêu thương và nhận lại yêu thương”, là cách để con người gần gũi nhau hơn.
Tình bạn cần phải được xây dựng trên cơ sở tình cảm vững chắc, trong sáng, không vụ lợi,
không ích kỉ. Có rất nhiều người lợi dụng tình bạn, lợi dụng lòng tin của bạn bè để làm lợi cho
bản thân, hãm hại người khác. Chính vì vậy, để xây dựng một tình bạn đẹp, chúng ta cần hiểu
rõ giá trị của tình bạn, thấu hiểu và đồng cảm với đối phương, có như vậy, tình bạn mới bền
lâu và đáng quý.
68. TIẾT KIỆM - Đoạn văn nghị luận xã hội 200 chữ: Bàn về Tiết Kiệm
Tiết kiệm là đức tính cần có của tất cả chúng ta. Vậy bản chất của tiết kiệm là gì? Tại sao nó
lại quan trọng với con người đến vậy? Tiết kiệm là sử dụng hợp lí, không lãng phí hay bừa bãi
các giá trị vật chất. Ai cũng hiểu tài nguyên trên Trái Đất không gì là vô tận. Nước, than, dầu
mỏ, khí đốt…, dẫu có nhiều đến đâu mà không được sử dụng đúng cách chắc chắn sẽ sớm cạn
kiệt. Tương tự, khả năng tích lũy của con người cũng là có hạn. Nếu không có dự tính lâu dài,
ăn tiêu phung phí, chẳng mấy chốc ta sẽ rơi vào nghèo túng nợ nần. Bởi vậy, có thể khẳng
định, tiết kiệm chính là nền tảng đảm bảo cho sự phát triển lâu dài, bền vững của mỗi cá nhân
nói riêng cũng như xã hội nói chung. Vậy nhưng, ngày nay, vẫn còn không ít kẻ sử dụng
phung phí, thậm chí là tận thu tận diệt sản vật tự nhiên, không có ý thức giữ gìn, nâng niu tài
sản chung của bản thân và nhân loại. Đồng thời, cũng có những người lầm lẫn giữa tiết kiệm
với ki bo, bủn xỉn, không biết cách cho đi dù chỉ một đồng. Là thế hệ trẻ nắm giữ tương lai
của đất nước, chúng ta cần nói không với các hiện tượng tiêu cực này và bắt đầu thực hành
tiết kiệm từ những điều nhỏ nhất: tắt đèn khi ra khỏi phòng, vặn vòi nước thật chặt nếu không
sử dụng... Bởi đúng như Benjamin Frankmin đã nói: “Hãy cẩn thận với những chi phí nhỏ.
Một lỗ ròbé có thể làm đắm cả con tàu.”
69. SỐNG ẢO - Đoạn văn nghị luận xã hội 200 chữ: Lối sống “ảo” ở một bộ phận giới
trẻ
Hiện nay, lối sống “ảo” ở một bộ phận giới trẻ đang là vấn đề thu hút sự quan tâm của toàn xã
hội. Vậy, “sống ảo” là gì? Nó có tác động như thế nào tới cuộc sống của chúng ta? Theo tôi,
đó là lối sống quá phụ thuộc vào mạng xã hội, thiếu đi sự liên lệ cần có với cuộc sống thực
tại. Lối sống này đã và đang để lại rất nhiều hệ lụy cho một bộ phận thanh thiếu niên. Trước
hết, dành quá nhiều thời gian lang thang trên mạng sẽ khiến ta thiếu đi cơ hội học tập, giao
tiếp trực tiếp với những người xung quanh cũng như gây ra các vấn đề về thể chất: cận thị,
cong vẹo cột sống… Đồng thời, đắm mình trong một thế giới mà mọi thứ đưa lên đều được
chỉnh sửa kĩ lưỡng và đầy hào nhoáng, ta sẽ dễ cảm thấy ghen tị và rơi vào trạng thái tự ti, bất
hạnh. Đó là chưa kể đến một số bị ám ảnh bởi những nút “like”, những lời khen sáo rỗng trên
mạng xã hội để rồi dùng đủ mọi chiêu trò để thu hút sự chú ý. Chẳng hạn, cách đây không lâu,
dư luận từng xôn xao trước sự việc một nam thanh niên nhảy cầu Tân Hóa sau khi nhận được
40 nghìn lượt thích hay một người khác tự thiêu khi có được điều tương tự. Đây đều là những
hành động mù quáng, gây tổn hại cho bản thân cũng như tác động tiêu cực tới xã hội. Bởi vậy,
tất cả chúng ta cần nghiêm túc lên án những hiện tượng này, cẩn trọng khi ấn từng nút “like”,
từng lời bình luận và trân trọng hơn những giá trị đích thực của cuộc sống. Mạng xã hội là
con dao hai lưỡi. Hãy sử dụng một cách thông minh và chắc chắn nó sẽ đem lại cho bạn nhiều
lợi ích.
70. CÔNG NGHIỆP 4.0 - Cách viết Nghị luận xã hội ngắn 200 chữ: Cách mạng công
nghiệp 4.0
Bài làm 2
Chúng ta đang sống trong thời kì công nghệ 4.0, cuộc cách mạng khoa học công nghệ và khoa
học kĩ thuật hiện đại can thiệp ngày càng sâu vào đời sống của con người. Nhờ có cuộc cách
mạng công nghệ ấy mà, đời sống con người ngày càng được cải thiện về mọi mặt, đặc biệt là
sự xuất hiện của trí tuệ nhân tạo - một thành tựu khoa học của thế hệ số. Đứng trước cuộc
cách mạng công nghệ ấy là một công dân toàn cầu chúng ta cần nghiêm túc học tập, trau dồi
tri thức, phát triển khả năng tư duy sáng tạo, tư duy khoa học của bản thân, có như vậy chúng
ta mới không bị tụt hậu, bắt kịp được những tiến bộ và văn minh trên thế giới. Bên cạnh
những mặt tích cực, cuộc cách mạng ấy còn bộc lộ những hạn chế, đó là vấn đề về môi
trường, ô nhiễm không khí, nước, đất,…ngày càng tăng. Thanh niên hiện đại cần phải hạn chế
tối đa những mặt tiêu cực, tận dụng những điểm mạnh để phát huy được tiềm lực quốc gia của
dân tộc, đưa đất nước phát triển hùng mạnh. Và ngày từ việc nhỏ nhất, hãy tích cực rèn luyện
và phát triển bản thân mình, trở thành một công dân tiến bộ và hiện đại.

You might also like