You are on page 1of 28

Việt Bắc

MB: Đất nước Việt Nam đã trải qua những năm đấu tranh kháng chiến để giữ gìn độc lập tự do, có
những con người thầm lặng góp sức tinh thần trong chiến đấu qua những lời thơ, lời văn. Trong các tác
phẩm văn chương đó có thể kể đến bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu. Tố Hữu quê ở tỉnh Thừa Thiên Huế - cái
nôi của văn học dân gian. Ông là nhà thơ trữ tình chính trị xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại.
Một nhà thơ được đánh giá là người mở đường, là cánh chim đầu đàn của thơ ca cách mạng. Ông xuất
thân trong một gia đình nhà nho nghèo ham thích văn chương. Chính truyền thống gia đình và cảnh sắc
thơ mộng của xứ Huế cùng những nét văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc góp phần quan trọng trong việc
hình thành hồn thơ Tố Hữu. Ở Tố Hữu có sự thống nhất hài hòa giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ.
Chính vì vậy có thể nói rằng, qua các tác phẩm của ông, ta không chỉ thấy được thế giới tâm hồn tình cảm ,
sự vận động của tư tưởng, thấy được phong cách nghệ thuật độc đáo của ngòi bút thơ Tố Hữu , mà qua đó
dường như nhà thơ đã phản ánh một cách rõ nét nhất những dấu mốc lịch sử quan trọng xuyên suốt quá
trình kháng chiến bảo vệ nền độc lập dân tộc, người đọc vì thế mà có thể thấy được trọn vẹn những trang
sử vẻ vang của đất nước như những thước phim quay chậm.
Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hoà bình được lập lại. Chủ tịch Hồ Chí
Minh, trung ương Đảng, cán bộ, bộ đội rời Việt Bắc– thủ đô gió ngàn của dân tộc trở về Thủ đô Hà Nội.
Trong không khí chia tay đầy nhớ thương lưu luyến giữa nhân dân Việt Bắc và những người cán bộ cách
mạng, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc” để gợi lại những kỉ niệm kháng chiến anh hùng mà
đầy tình nghĩa. Cuộc chia li giữa nhân dân Việt Bắc và những người chiến sĩ cách mạng như là cuộc chia tay
của một đôi bạn tình đầy bịn rịn, lưu luyến, của một tình cảm gắn bó thân thiết như những người máu mủ
ruột già.

Trước hết, Việt Bắc là quê hương của cách mạng, là căn cứ địa vững chắc, kiên cường, là đầu não của
cuộc kháng chiến, là nơi hội tụ tình cảm, suy nghĩ, niềm tin và hi vọng của những người Việt Nam yêu nước.
Trong những năm tháng đen tối trước Cách mạng, hình ảnh Việt Bắc hiện dần từ mờ xa (mưa nguồn suốt
lũ, những mây cùng mù) đến xác định như một chiến khu kiên cường, đây là nơi nuôi dưỡng bao sức mạnh
đấu tranh và là nơi khai sinh ra những địa danh mãi mãi đi vào lịch sử của dân tộc. Bài thơ được viết theo
thể lục bát, thể thơ truyền thống của dân tộc mang âm hưởng nhẹ nhàng uyển chuyển thấm đẫm chất trữ
tình của những câu ca dao.

TB: Tám câu thơ đầu là tâm trạng lưu luyến bịn rịn trong buổi chia li.
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Sau bao nhiêu năm chung sống trong tình quân dân chan hòa nồng thắm ấy thế mà nay những người
chiến sĩ đành phải cất bước ra đi, rời xa mảnh đất Việt Bắc gắn bó. Đại từ phiếm chỉ “ai” gợi lên nhiều cảm
xúc kết hợp với cặp xưng hô “mình-ta” thể hiện sự gần gũi thân thiết giữa cán bộ và người dân, giữa “kẻ
đi” và “người ở”, là những người đã từng gắn bó, trở thành gia đình, anh em cùng một nhà với nhau. Cách
xưng hô ấy vừa mang tính dân tộc đậm đà lại thể hiện được tính trữ tình chính trị sâu sắc trong thơ Tố

1
Hữu. Để cho Việt Bắc – người ở lại – mở lời trước là rất tế nhị, vì trong chia tay thì người ở lại thường
không yên lòng đối với người ra đi.
Tố Hữu mượn màu sắc của tình yêu mà phô diễn tình cảm cách mạng. Động từ “nhớ” được điệp lại
bốn lần trong một khổ thơ ngắn đã tạo ra âm hưởng chủ đạo của bài thơ: lưu luyến, nhớ thư ơng, ân tình
ân nghĩa đồng thời gợi nhắc người đi về những kỉ niệm đã từng gắn bó. Không biết rằng những người chiến
sĩ về có còn nhớ không, nỗi nhớ không to lớn, xa vời mà là với những sự vật hết sức gần gũi, thân quen gắn
liền với một kỉ niệm thiết tha, sâu nặng: cây, sông, núi, nguồn. Nỗi nhớ ấy giờ đã lan tỏa khắp các địa điểm,
không gian Việt Bắc, phải yêu, phải gắn bó, phải sống một trái tim chân tình biết mấy mới có thể có những
cảm xúc thiết tha đến vậy? Thời gian “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” chỉ một khoảng thời gian gắn
bó, chiến đấu gian khổ, đã vun đắp nên bao tình cảm gắn bó sâu sắc sắt son của cán bộ, chiến sĩ cách mạng
với người dân nơi đây. Mười lăm năm là quãng thời gian không ngắn cũng chẳng dài nhưng nó đủ khiến
cho những cảm xúc biến thành hoài niệm, không thể nào lãng quên. Nhịp thơ gợi lên một cảm xúc lưu
luyến, dường như không đành lòng chia li, mọi cảm xúc, mọi kỉ niệm đã từng gắn bó dường như đang trực
trào trong lòng của kẻ ở, người đi tạo thành một không khí của buổi phân li da diết đến nao lòng.

Tình cảm gắn bó với đất, với người mà khi phải rời đi ta mới thấu cảm được hết cũng đã từng được
Chế Lan Viên thể hiện qua những vần thơ:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”
Người về như lặng đi trước những câu hỏi nặng tình nặng nghĩa của Việt Bắc. Những người chiến sĩ
cách mạng đã đáp lại những ân tình ấy.
“- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Trong lòng người chiến sĩ ấy cũng lưu luyến những kỉ niệm nơi đây không khác gì so với người dân. Các
chiến sĩ như cảm nhận được sự tha thiết trong câu hỏi của người ở lại. Có thể nói các từ láy ấy đã thể hiện
phần nào cảm xúc trong lòng người chiến sĩ. Từ láy “tha thiết” được lấy lại từ “thiết tha” đã khắc họa rõ
ràng hơn tình cảm đang hiện hữu của cả hai bên, từ “bâng khuâng” và “bồn chồn” chất chứa nhiều tâm
tình, ở đó có niềm vui toàn thắng, niềm vui được về lại quê hương, đoàn tụ với gia đình; và ở đó cũng ẩn
chứa nhiều nỗi buồn, phải chia tay mảnh đất thấm đẫm nghĩa tình. Nghệ thuật hoán dụ với hình ảnh “áo
chàm” chính là để chỉ người dân Viêt Bắc bịn rịn đưa tiễn các chiến sĩ về với thủ đô , đây là trang phục
truyền thống và là hình ảnh đặc trưng của con người nơi đây. Hình ảnh “áo chàm” rất dung dị, quen thuộc
hiền hòa, phần nào thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của con người vùng núi rừng Tây Bắc. ”Cầm tay nhau biết nói
gì hôm nay”, những tình cảm gắn bó đến giờ phút biệt ly chỉ còn có thể nhìn nhau bịn rịn, mọi lời nói đều
không thể thể hiện được hết tấm chân tình, vì vậy đã tạo nên khoảng lặng ngậm ngùi, nghẹn lòng trong
thời khắc chia ly. Có lẽ không cần nói mà cả hai đều biết được những ý nghĩa trong lòng nhau. Nhịp thơ 3/4
ở câu thơ cuối như tạo một khoảng lặng giữa lúc chia li ngậm ngùi, nhìn nhau mà nghẹn lòng, ngập ngừng
không muốn nói điều chi, để cảm xúc ấy phiêu lãng, len lỏi trong tâm hồn, thành kỷ niệm khó phai. Cái bắt
tay này ta cũng đã từng gặp trong thơ của Chính Hữu:

2
“Áo anh rách vai / Quần tôi có vài mảnh vá
Chân không giày/ Thương nhau tay nắm lấy bàn tay…”
Mười hai câu tiếp theo kể về một thời quá khứ với những kỉ niệm đẹp trong buổi đầu cách mạng
kháng chiến chống Pháp và Nhật. Đây cũng là đoạn thơ tiêu biểu cho sắc thái phong cách thơ của Tố Hữu,
giọng điệu thơ ngọt ngào truyền cảm, mang đậm phong vị ca dao dân gian, đề cập đến con người và cuộc
sống kháng chiến. Thông qua hình tượng Việt Bắc, tác giả ca ngợi phẩm chất cách mạng cao đẹp của quân
dân ta, khẳng định nghĩa thủy chung son sắt của người cán bộ, chiến sĩ đối với Việt Bắc. Khúc tráng ca anh
hùng của một dân tộc thắng trận sau hơn ba ngàn ngày máu lửa.
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”
Lời thơ như lời tâm sự da diết của người dân Việt Bắc dành cho các chiến sĩ bộ đội và đó cũng là lời
nhắc nhở gửi đến người đi. Sau mỗi cụm từ “Mình đi”, “Mình về”, nhà thơ đã tinh tế đặt một dấu phẩy,
đây chính là giây phút, là khoảnh khắc ngưng đọng, để kỷ niệm ùa về trong tâm tưởng. Những kỉ niệm đó
giờ đây chỉ còn là những kỉ niệm trong dòng kí ức chầm chậm trôi. Hàng loạt những câu hỏi tu từ nối tiếp
nhau xuất hiện làm nên một điệp khúc thấm đẫm tâm trạng của nhân vật trữ tình. Tình cảm lưu luyến của
người đưa tiễn, gửi đi nỗi nhớ mong, gửi lại niềm thương theo cách:
“Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.”
Cũng chính qua những dòng thơ này mà khung cảnh núi rừng Việt Bắc đại ngàn hiện ra rõ nét nhất. Và
giữa bức tranh đó nổi bật lên chính là cuộc sống sinh hoạt và chiến đấu hết sức gian lao, khổ cực nhưng vô
cùng gắn bó, đoàn kết, thắm tình nghĩa như những người con cùng chung một dòng máu giữa cán bộ
kháng chiến và nhân dân Việt Bắc. Cuộc sống chiến đấu tuy vất vả và khó khăn trong điều kiện trang bị tiếp
tế còn thô sơ, thiếu thốn nhưng nhờ có sự ủng hộ và nâng đỡ tinh thần của những con người chân chất nơi
núi rừng đại ngàn đó nên tất cả đã trở thành những kỉ niệm đẹp đẽ không thể nào quên trong trái tim của
hai phía. Đó là những ngày cùng chịu chung cảnh thiên nhiên khắc nghiệt “mưa nguồn suối lũ” về, cả trời
đất bị “mây mù” che kín, khung cảnh rừng núi hiện lên ảm đạm trong những ngày đầu kháng chiến. Chiến
khu khi ấy nghèo chỉ có cơm chấm muối thế nhưng nó tràn đầy những niềm yêu thương cưu mang đùm
bọc của nhân dân nơi đây. Và trong hoàn cảnh chiến tranh khó khăn như thế miếng cơm chấm muối kia là
đã quá đầy đủ rồi. Người dân như đang san sẻ mối thù đè nặng trên vai cho người chiến sĩ. Biện pháp nhân
hóa “rừng núi nhớ ai” như thổi vào khung cảnh núi rừng nỗi nhớ nhung dạt dào, sâu thẳm, từ phiếm chỉ

3
“ai” thấm đẫm bao cảm xúc ân tình. Việt Bắc nhắc người cán bộ chiến sĩ đừng quên những năm tháng gian
lao vất vả, hoạt động chiến đấu.
Cụm từ “trái bùi để rụng”, “măng mai để già” đã thể hiện nỗi buồn sâu thẳm, vắng lặng khi người cách
mạng về xuôi để lại núi rừng Tây Bắc chênh vênh, lạ lẫm khi nhịp sống đột ngột thay đổi từ đông vui về
vắng vẻ đìu hiu. Quả trám (trám xanh và trám đen) và măng mai là hai món ăn thường nhật của bộ đội và
cán bộ kháng chiến. Những gì của thiên nhiên Việt Bắc vốn là để cho những chiến sĩ cách mạng thì giờ đây
người đi những thứ ấy lại để rụng để già. Mượn cái thừa để nói cái thiếu, thật hay! Hình thức đối lập của
người dân Việt Bắc, nhưng trong lòng thì thuỷ chung son sắt với cách mạng. Từ “nhớ” được nhắc đi nhặc
lại nhiều lần như vang vào trong lòng người những nhớ thương không muốn rời. Cặp xưng hô “mình-ta”
như biến hóa thành nhiều nghĩa, cứ lúc thì chỉ người ở lại nhưng lúc lại chỉ người ra đi. Điều đó thể hiện sự
yêu thương gắn bó của những con người nơi đây với các anh chiến sĩ. Những địa danh được nhắc đến.

Nỗi nhớ ấy càng được thể hiện rõ ràng hơn với từ “những nhà”, nghệ thuật đối lập giữa cái bên ngoài
(hắt hiu lau xám) và bên trong (đậm đà lòng son) biểu hiện chân thật cuộc sống lam lũ, nghèo đói, khẳng
định một chân lý rằng càng khó khăn gian khổ, thì tình nghĩa quân dân lại càng thêm đoàn kết gắn bó, sắt
son một lòng. Những người ở lại nhắc về kỷ niệm xưa cũ từ những ngày đầu mới quen, từ những năm còn
kháng chiến chống Nhật để kỷ niệm càng thêm khắc sâu vào tâm hồn người đi. Từ “mình” được lặp lại
trong câu thơ “Mình đi mình có nhớ mình” đã gợi nhắc đến câu ca dao “Ta với mình tuy hai mà một” càng
khẳng định sự gắn bó thiết tha. Những địa danh vô cùng quen thuộc với người ra đi và cả người ở lại “Tân
Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”, gợi nhắc lại những kỷ niệm xưa cũ như chứng minh cho những trận
chiến thắng hào hùng mà các anh chiến sĩ đã lập nên tại đây. Bây giờ xa cách, mình về thành thị, nhớ đừng
thay lòng đổi dại với ta, mà cũng đừng thay lòng đổi dạ với chính mình:
“Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông, còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?”
Những câu thơ mang đậm nét trữ tình, ca dao sâu lắng về nghĩa tình dân tộc. Trong cuộc kháng chiến
vĩ đại ấy đã có cụ Hồ soi sáng, có “trung ương, chính phủ luận bàn việc công”, những con người tài giỏi,
những lý tưởng cao đẹp, những con đường đúng đắn sáng suốt ấy đã tạo nên sự thắng lợi.
“Ở đâu đau đớn giống nò
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền
Mười lăm năm ấy, ai quên
Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hòa”
Tố Hữu từ tình yêu đối với Việt Bắc đã đặt niềm tin vững chắc vào một ngày mai tươi sáng, đặt niềm
tin vào sức mạnh của toàn nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ. Nhà thơ đã vẽ nên một bức
tranh tươi đẹp của dân tộc:
“Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng
Than Phấn Mễ, thiếc Cao Bằng”

4
Đáp lại tình cảm chân thành, thắm thiết của người ở lại, những chiến sĩ cách mạng cũng không
ngần ngại, thể hiện tấm lòng biết ơn, tình cảm sâu nặng của bản thân với con người và thiên nhiên nơi
đây:
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...”
Tố Hữu cũng học cách nói dân dã như chính những người nhân dân nơi đây vậy. Lối đối đáp “mình-ta”
tiếp tục được sử dụng, kết cấu “Ta với mình, mình với ta” tạo nên lời đồng vọng tha thiết. Đến đây, ta cũng
là mình, mình cũng như ta. Khổ thơ là lời khẳng định chắc nịch tình cảm tha thiết, bền vững của người đi
đối với người ở lại. Đó là tình cảm không thể đổi thay “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu” : việc
sử dụng biện pháp so sánh để diễn tả nghĩa tình của con người Việt Bắc thật trong trẻo, đong đầy không có
bao giờ có thể vơi cạn như tình yêu thương của lòng mẹ hiền với con cái của mình. Nghĩa tình son sắt thủy
chung giữa kẻ ở và người đi tựa như nguồn nước suối trong mát đổ về bản làng, nó dào dạt ào ạt mãi mãi.
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...”
Nhà thơ đã so sánh nỗi nhớ ở đây giống như nỗi nhớ người yêu, để trữ tình hóa tình cảm cách mạng,
tình quân dân để tất cả trở nên tha thiết hơn, dịu ngọt hơn. Và cũng bởi lẽ nỗi nhớ trong tình yêu là nỗi
nhớ thẳm sâu và tha thiết nhất, từ nỗi nhớ ấy, Việt Bắc hiện ra với môt không gian thật thơ mộng, câu thơ
“Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương” đã thể hiện nỗi nhớ lan tỏa trong không gian và ngự trị trong
từng khoảnh khắc của thời gian, cả đêm lẫn ngày. “Người tình trong mắt hoá Tây Thi” có lẽ Việt Bắc trong
5
Tố Hữu cũng như vậy. Hình ảnh “Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.” gợi về một miền Việt Bắc mến
thương, nồng nàn, ấm áp luôn chào đón đồng bào chiến hữu ở khắp mọi miền Tổ quốc. Và để khẳng định
cho tình cảm chân thành đó, Tố Hữu cũng vô cùng tinh tế tái hiện lại kỉ niệm gắn bó trong mười lăm năm
kháng chiến gian khổ mà hết sức vui tươi, hào hùng qua biện pháp tu từ điệp ngữ “nhớ từng” cho chúng ta
những cảm nhận như nhà thơ đang lật giở từng trang ký ức, Tố Hữu đã liệt kê những địa danh “sông Đáy,
suối Lê” và đến hai tiếng “vơi đầy” khép lại đoạn thơ thì đây không chỉ còn đơn thuần là địa danh mà là nơi
đong đầy kỷ niệm: Bao nhiêu nước, bao kỷ niệm đầy vơi, bao nghĩa tình ấm áp ngọt ngào.
Những kí ức như ào ạt dội về, mỗi kỉ niệm đều vô cùng rõ nét như mới diễn ra ngày hôm qua vậy : là
bản làng sáng tinh sương mịt mù trong mây tỏa khói cùng sương, vầng trăng tròn đầy sau những rặng núi
xa sau bản, những vạt nắng vàng như màu mật đổ xuống những cánh đồng ruộng bậc thang ngào ngạt mùi
lúa chín; là những địa danh quen thuộc “Ngòi Thia”, “sông Đáy” là lớp học chữ quốc ngữ trong những đêm
trăng, là sự chia sẻ ngọt bùi, hương vị của củ sắn lùi, bát cơm phải sẻ nửa tuy bình dị nhưng nồng thắm
nghĩa tình, tấm chăn phải đắp cùng, là niềm biết ơn vô hạn với người mẹ Việt Bắc với dáng hình địu con lên
nương hái bắp, mà rộng ra là với nhân dân đã nuôi dưỡng, đã tiếp thêm sức mạnh cho những người chiến
sĩ. Một vẻ đẹp cần cù chịu thương chịu khó của nhân dân. Bên cạnh đó, thiên nhiên núi rừng Việt Bắc lại
một lần nữa hiện lên qua từng câu thơ hết sức hùng vĩ thơ mộng khiến cho ai đi xa mà chẳng nhớ về.
Những kỉ niệm ấy quả thực vô cùng đẹp đẽ và đã trở thành một phần máu thịt của người lính nơi Việt Bắc.
Câu thơ cuối khép lại với tiếng mõ, tiếng chày, tiếng suối xa gợi nhiều cảm xúc mênh mang, lan tỏa. Đoạn
thơ không chỉ tái hiện kỉ niệm những năm tháng vừa gian khổ, vừa hào hùng mà còn thể hiện lòng biết ơn
sâu nặng đối với nhân dân Việt Bắc.

6
(Bức tranh tứ bình) Các anh chiến sĩ lại kể tiếp về những hình ảnh thiên nhiên nơi đây hiện lên qua
những lời kể ấy thật sự rất đẹp. Những câu thơ như vẽ lên một bức tranh tứ bình nơi đây, bốn mùa thiên
nhiên hiện lên vô cùng đẹp:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”
Những người chiến sĩ ấy cũng đã hỏi những người ở lại rằng có nhớ họ không. Hỏi như thế nhằm thể
hiện sự lưu luyến yêu thương với mảnh đất và con người ở đây. Câu thơ đầu tiên sử dụng câu hỏi tu từ
"mình có nhớ ta" chất chứa bao nỗi niềm, là cái cớ để người ra đi bộc lộ bao nỗi nhớ nhung, bao yêu
thương. Câu thơ thứ hai là tự trả lời, điệp từ "ta" lặp lại bốn lần cùng với âm "a" là âm mở khiến câu thơ
mang âm hưởng ngân xa, tha thiết nồng nàn. Với Tố Hữu, người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến những
ngày tháng gian khổ "bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng", mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng yêu của “hoa cùng
người” có kết cấu như một thành ngữ. Ở đây, “hoa” tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc. Còn
“người” chính là con người Việt Bắc với tấm áo chàm nghèo khổ nhưng đậm đà lòng son. Hoa và Người
quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hài hòa đằm thắm để tạo nên cái nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất
này. Chính điều ấy đã tạo nên cái cấu trúc đặc sắc cho đoạn thơ. Cảnh và Người trong mỗi câu lại có những
sắc thái đặc điểm riêng thật hấp dẫn.
Chỉ qua một vài câu thơ mà nhà thơ đã tái hiện lại một cách chân thực và rõ nét nhất thiên nhiên
Việt Bắc qua bốn mùa xuân hạ thu đông. Dòng chảy cuộc sống như đang ngưng tụ lại trên từng câu chữ.
Con người và thiên nhiên Việt Bắc như là trung tâm trong bức hoạ tứ bình ấy. Những nàng tiên đại diện
cho sắc màu bốn mùa như đang lướt nhẹ trên những câu chữ vậy.
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”
Nhà thơ chọn miêu tả mùa đông trước, phải chăng là những cán bộ chiến sĩ đến vào mùa đông và
cũng ra đi vào mùa đông. Nhắc đến mùa đông ta thường nhớ đến cái lạnh thấu xương da, cái ảm đạm của
những ngày mưa phùn gió bấc, cái buồn bã của khí trời u uất. Nhưng đến với Việt Bắc trong thơ Tố Hữu thì
thật lạ, mùa đông bỗng ấm áp lạ thường. Mùa đông – mùa của những cánh rừng bạt ngàn màu xanh tươi
mát, và điểm xuyết trên cái nền màu xanh ấy là những bông hoa chuối đỏ tươi đang nở rộ lung linh dưới
ánh nắng mặt trời. Từ xa trông tới, bông hoa như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với
đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa, vừa cổ điển vừa hiện đại. Cái màu "đỏ tươi" - gam màu nóng
của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi
sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng. Câu thơ
làm ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:
"Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tịn mùi hương"
Từ liên tưởng ấy ta thấy, mùa đông trong thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè chứ không lạnh
lẽo hoang sơ bởi màu đỏ của hoa chuối cũng như đang phun trào từ giữa màu xanh của núi rừng. Con
người hiện lên trong bức tranh thơ mộng đó đang trong tư thế kiên cường sẵn sàng chinh phục tự nhiên,
lên núi làm nương, phát rẫy sản xuất ra nhiều lúa khoai cung cấp cho kháng chiến: “Đèo cao nắng ánh dao
gài thắt lưng”. Con dao đối với người miền núi là vật bất ly thân và cũng là đặc trưng của người miền núi.
Không khắc hoạ gương mặt khi nói đến con người Việt Bắc nhà thơ đã chớp lấy một nét thần tình rực sáng
7
nhất khi ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ở ngang lưng. Có thể thấy, Tố Hữu không chỉ là một nhà
thơ mà còn là một nhiếp ảnh gia chớp lấy thời cơ. Trước thiên nhiên bao la, con người dường như càng trở
nên kỳ vĩ, hùng tráng hơn. Câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật
nhiếp ảnh. Con người như một tụ điểm của ánh sáng xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất - "đèo
cao". Họ đang chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng, tự do. Đấy là cái tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và
vững chãi: Giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang. Con người ấy đã trở thành linh
hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.

"Núi rừng đây là của chúng ta


Trời xanh đây là của chúng ta".
Đông qua, xuân lại tới. Nhắc đến mùa xuân ta liên tưởng ngay đến sức sống mới của cỏ cây, hoa lá,
của trăm loài đang cựa mình thức dậy sau mùa đông dài. Mùa xuân Việt Bắc cũng vậy bức tranh xuân lại
khoác lên mình màu áo mới. Đó chính là sắc trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết khắp rừng của hoa mơ.
"Trắng rừng" được viết theo phép đảo ngữ và được dùng để nhấn mạnh vào màu sắc, màu trắng dường
như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng,
dịu mát của hoa mơ. Động từ "nở" làm sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống. Đây không phải là
lần đầu tiên Tố Hữu viết về màu trắng ấy, năm 1941, Việt Bắc cũng đón bác Hồ trong màu sắc hoa mơ:
"Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ"
Mùa xuân càng trở nên tươi tắn hơn nữa bởi sự xuất hiện của hình ảnh con người trong lao động
hiện lên với vẻ đẹp của sự cần cù miệt mài "chuốt từng sợi giang", dường như có bao nhiêu sợi giang là có
bấy nhiêu sự nhớ. Từ "chuốt" và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay của con người lao động: cần mẫn, tỉ
mẩn, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc.

Mùa hè đến trong âm thanh rộn rã của tiếng ve, bức tranh Việt Bắc lại sống động hơn bao giờ hết .
Thiên nhiên cánh rừng được thay từ màu trắng hoa mơ thành màu vàng của rừng phách cùng tiếng ve kêu
như thúc giục lòng người. Thời điểm ve kêu cũng là thời điểm rừng phách (cây đặc trưng của rừng núi Việt
Bắc) đổ vàng. Động từ "đổ" là động từ mạnh, diễn tả sự vàng lên đồng loạt của hoa phách đầu hè. Màu của
cây phách đổ vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu râm ran kia
nữa cũng trở nên óng vàng ra. Đây là một bức tranh sơn mài được vẽ lên bằng hoài niệm, nên lung linh ánh
sáng, màu sắc và rộn rã âm thanh. Tố Hữu không chỉ có biệt tài trong việc miêu tả vẻ đẹp riêng của từng
mùa, mà còn có tài trong việc miêu tả sự vận động đổi thay của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu
thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây
phách ngả sang màu vàng rực rỡ. Đây chính là một biểu hiện đặc sắc của tính dân tộc. Hiện lên trong cái
thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy là hình ảnh người con gái Việt Nam hái măng một mình cung cấp cho bộ
đội kháng chiến cũng thật thơ mộng làm sao. Hái măng một mình mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn,
hiu hắt như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; trái lại rất trữ tình, gần gũi thân thương tha thiết.
Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu khó chịu thương của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao
niềm cảm thông, trân trọng của tác giả.
Khép lại bức tranh tứ bình là cảnh mùa thu, mùa thu hòa bình, mùa thu của cách mạng tháng tám
thành công, mùa thu năm 1954. Khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng rằm xanh
huyền ảo lung linh dịu mát. Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình
rọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Ta cũng từng biết đến mùa thu đầy ánh trăng
trong thơ của Bác khi còn ở chiến khu:
"Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu
Ấy tin thắng trận liên khu báo về"

8
Ở đây không có tiếng chuông báo thắng trận nhưng lại vang lên tiếng hát đâu đây của những người
dân Tây Bắc. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình. Đây
cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc của núi rừng của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng.
Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng và khép lại đoạn thơ bằng
tiếng hát "ân tình thủy chung" gợi cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê
hương đất nước. Qua đó thể hiện thiên nhiên Việt Bắc với những cảnh đẹp phong phú, đa dạng, thay đổi
theo từng mùa. Gắn với cảnh tượng đẹp đó là những con người là những con người thật giản dị, đi làm
nương rẫy, trồng khoai, trồng sắn…Nhưng tất cả đều góp công, góp sức để chung tay làm nên sức mạnh to
lớn, kết thành làn sóng xây nên cuộc kháng chiến trường kì.

9
Và thế rồi không ai bảo ai cả kẻ ở người đi đều nhớ đến những ngày ráo riết chuẩn bị hành quân
cho cuộc chiến đấu chống lại chiến dịch của thực dân Pháp. Những hình ảnh chiến đấu hào hùng, những
hoạt động sôi nổi, tinh thần sục sôi chiến đấu âm vang trong những câu thơ trong bài thơ Việt Bắc của
Tố Hữu đậm chất sử thi đã miêu tả một cách hùng tráng. Khi ấy chính là lúc tình quân dân thể hiện rõ
nhất.
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh
Tây Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà....”
Những kí ức ùa về trong tâm trí, đó là những tháng ngày các chiến sĩ và người dân cùng vào sinh ra tử,
cùng nhau một lòng quyết tâm kháng chiến chống giặc. “Giặc đến giặc lùng”, từ “lùng” đã thể hiện sự nguy
hiểm của quân thù, chúng lùng sục như những kẻ háo máu săn mồi, chỉ cần nhìn thấy bóng dáng của con
người là chúng không hề thương tiếc mà nổ súng, mặc kệ tiếng khóc lầm than hay lời trách mắng oán hận
của nhân dân ta. Nhịp thơ ở những câu thơ mạnh, dồn dập, âm hưởng tạo nên bức tranh sử thi hoành
tráng, ca ngợi những tháng ngày đoàn kết, đồng tâm hiệp lực chống quân thù của cả dân tộc Việt Nam. Khi
quân giặc đến, không chỉ bộ đội ta mà cả núi rừng thiên nhiên hoang dã cùng đồng lòng đồng sức đánh
giặc. Đối với quân và dân ta, những núi đá dựng thành chiến hào thành quách để che chở cho người chiến
sĩ và nhân dân nơi đây. Rừng dang bàn tay âu yếm che chở và bảo vệ, những tán lá rừng xanh mát như một
thứ ngụy trang khiến cho bộ đội yên lòng chiến đấu và chiến thắng quân thù. Còn đối với quân giặc, rừng
lại như một vùng địa thế hiểm trở như một ma trận bao vây khiến chúng có thể rơi vào rất nhiều cạm bẫy.
Thiên nhiên núi rừng Việt Bắc đã trở thành một sinh thể có linh hồn, chở che cho bộ đội, bủa vây quân thù
đã góp phần làm nên chiến thắng, làm nên những trang sử vẻ vang của dân tộc. Lời thơ mạnh mẽ, hình
ảnh thơ sinh động cùng việc sử dụng những biện pháp nghệ thuật tu từ đã giúp nhà thơ khẳng định sức
mạnh vĩ đại của dân tộc, đồng cũng bộc lộ nỗi nhớ và niềm tri ân sâu sắc đối với núi rừng Việt Bắc thấm
đẫm tình thương.
Người về nhưng trong vẫn nhớ đến những địa danh kia. Nhớ đến chiến công nơi Việt Bắc là phải nhớ
đến mỗi tên sông, tên núi, tên phố: Phù Thông, đèo Giàng, sông Lô, Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên…Một Việt
Bắc với khí thế chiến đấu hào hùng, sôi động của cuộc kháng chiến chống giặc, một tinh thần đoàn kết –
một sự anh dũng, kiên cường trong chiến đấu. Tố Hữu đã đi sâu vào để giải thích cội nguồn sức mạnh
chung một lòng để giành những thắng lợi vẻ vang ấy.
Đó là sức mạnh toàn dân, toàn quân kháng chiến, sự gắn bó giữa con người và thiên nhiên:
“Những đường Việt Bắc của ta
10
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp An Khê
Vui lên Việt Bắc đèo De núi Hồng.”
Khí thế của đoàn quân vô cùng mạnh mẽ được thể hiện thông qua hình ảnh so sánh “đêm đêm rầm
rập như là đất nung”, qua những từ ngữ gợi hình gợi tả “điệp điệp trùng trùng”, qua hình ảnh hoán dụ ánh
sao đầu súng và mũ nan – những hình ảnh biểu tượng cho bộ đội và những người dân Việt Bắc. Ngọn đuốc
trên tay quân dân không chỉ thắp sáng lên cả bầu trời Việt Bắc khi ấy mà nó còn thắp lên cả những thế hệ,
thắp lên tương lai, thắp lên niềm tin và hi vọng về một chiến thắng không xa. Sức mạnh của cả một đoàn
quân khí thế đến nỗi có thể làm cho đá nát lửa bay không một thế lực nào có thể ngăn cản được. Bằng
nghệ thật phóng đại cường điệu, nhà thơ Tố Hữu dường như đã tái hiện lại bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ để
rồi giờ đây chỉ qua những dòng thơ ngắn gọn, ta như trở về với một thời hào hùng của cha ông. Giữa bóng
tối vây quanh ngọn đèn pha như thắp lên niềm tin niềm hi vọng của quân dân về một tương lai tốt đẹp
hơn. Cuối cùng, sau những tháng ngày chiến đấu gian lao và khổ cực quân và dân ta đã giành được thắng
lợi vô cùng vẻ vang. Hạnh phúc vỡ òa không từ ngữ nào có thể diễn tả. Từ Hòa Bình Tây Bắc hay Điện Biên,
nhân dân như vui cùng một niềm hạnh phúc. Điều này chứng tỏ sự gắn bó máu thịt sự đoàn kết không thể
nào phá rời của quân và dân ta khi đất nước gặp khó khăn.

Trong niềm thương nhớ nuối tiếc khi chia xa, nhà thơ cất lên những giai điệu hào hùng ca ngợi tổ
quốc ca ngợi Đảng và Chính phủ Việt Nam:
Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Điều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu

Ở đâu u ám quân thù


Nhìn lên Việt Bắc cụ Hồ sáng soi
11
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.
Ngày hôm qua ấy mãi ở trong lòng người chiến sĩ cách mạng, tồn tại như một phần kí ức không thể
nào tách rời. Hình ảnh ngọn cờ sao vàng như một minh chứng cho những thắng lợi vẻ vang của dân tộc.
Hình ảnh Bác Hồ như một biểu tượng tiếp thêm dũng khí và nghị lực cho quân dân ta tiếp tục chiến đấu và
chiến thắng. Bác như tiếp thêm cho chúng ta ý chí lòng can đảm bởi chỉ có ý chí mới vượt qua được những
chông gai thử thách và khó khăn đang đợi chờ phía trước.
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?
Mình đi ta hỏi thăm chừng
Bao giờ Việt Bắc tưng bừng thêm vui?
Lời thơ như lời băn khoăn day dứt khôn nguôi của người dân Việt Bắc đối với người chiến sĩ cách
mạng trong giờ phút chia tay. Các hình ảnh hoán dụ như nhà cao, núi đồi, phố đông, sáng đèn, mảnh trăng
giữa rừng là các hình ảnh tượng trưng cho cuộc sống nơi thành thị và nơi núi rừng. Đối lập giữa một bên là
cuộc sống sung túc và đủ đầy và một bên là cuộc sống dân dã nghèo khổ nhưng đầy ắp kỉ niệm nơi núi
rừng thiên nhiên, tác giả đã diễn tả sự băn khoăn trong lòng người dân rằng liệu hoàn cảnh sống thay đổi,
những người cán bộ có thay lòng đổi dạ, có lãng quên quá khứ, lãng quên đi những con người đã cùng kề
vai sát cánh trong những tháng ngày gian khó, đang ngày đêm nhớ nhung và mong chờ họ trở về thăm.
Đáp lại, người cán bộ bày tỏ:
Đường về đây đó gần thôi
Hôm nay rời bản về nơi thị thành
Nhà cao chẳng khuất núi xanh
Phố đông càng giục chân nhanh bước đường
Ngày mai về lại thôn hương
Rừng xưa núi cũ yêu thương lại về
Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tàu chạy bốn bề núi giăng…
Người cán bộ cách mạng đã khẳng định tấm lòng son sắt thủy chung của mình: dù hoàn cảnh sống
có thay đổi nhưng lòng luôn hướng về Việt Bắc, con tim luôn dạt dào nỗi nhớ và tình cảm dành cho con
người và thiên nhiên nơi đây. Dù sống trong nhà cao nhưng sẽ không quên được những rặng núi xanh mát.
Vào một ngày không xa họ sẽ trở về thăm lại bản làng, tình cảm lại trở về tươi mới vẹn nguyên như thuở
ban đầu.
12
Trong những giây phút chia li cuối cùng, lời nhắn cuối cùng mà người dân Việt Bắc muốn nhắn nhủ là:
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ người
Nhớ ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi rừng núi trông theo bóng Người.

Hình ảnh Bác lại một lần nữa hiện lên trong bài thơ. Chỉ có điều Bác hiện lên không phải như một
biểu tượng đẹp tiếp thêm cho người chiến sĩ cách mạng ý chí và niềm tin, không phải là một biểu tượng
cho sức mạnh đánh tan quân thù nữa mà Bác hiện lên trong những câu thơ này là một con người hết sức
đời thường: mắt sáng ngời, áo nâu túi vải trong tư thế ung dung trên yên ngựa vào mỗi sáng tinh sương.
Quả thật hình ảnh Bác hiện lên như một ông tiên trong những câu chuyện cổ, rất bình dị nhưng vẫn đẹp
một cách phi thường. Giờ đây con người đó đã đi xa cả rừng núi như dõi theo từng bước đi của Người.
Kết thúc bài thơ là hai câu thơ với âm hưởng tươi sáng:
Cầm tay nhau hát vui chung
Hôm sau mình nhé hát cùng thủ đô.
Hai câu cuối bài thơ mang âm hưởng tươi vui chính vì vậy mà dù đề tài có viết về cảnh chia tay nhưng
không hề gây cho người đọc cảm giác buồn bã đau thương hay nuối tiếc mà trái lại vẫn tươi vui trong sáng,
mở ra một tương lai huy hoàng, một viễn cảnh tương lai khi đất nước phát triển đi lên không ngừng. Khúc
ca cuối bài khép lại bài thơ như là lời ngợi ca sức sống của Tổ quốc, cũng chính là khúc ca chia tay đầy tin
tưởng.

13
NT: Bài thơ Việt Bắc khép lại nhưng để lại trong lòng người đọc những dư vị khó phai. Có được
thành công như vậy trước hết là phải kể đến những nét đặc sắc về nghệ thuật. Bài thơ mang tính dân tộc
được thể hiện khá rõ xuyên suốt bài thơ. Thể thơ lục bát – một thể thơ quen thuộc trong dân gian được
nhà thơ sử dụng hết sức thành công, âm hưởng nhẹ nhàng tinh tế in sâu vào tâm trí mỗi người. Chất văn
xuôi cũng được đưa vào trong thơ và được vận dụng sáng tạo linh hoạt, những hình ảnh so sánh, những
cách nói ví von cũng góp phần tạo nên giọng điệu của bài thơ.
Bài thơ Việt Bắc không chỉ tái hiện lại được không khí vào những năm kháng chiến chống Pháp mà
còn đưa người đọc ngược dòng thời gian để tìm về với những nét đẹp trong tâm hồn người quân dân: vẻ
đẹp của tấm lòng thủy chung son sắt, vẻ đẹp của sự đoàn kết gắn bó, rộng hơn nữa đó chính là ý thức
trách nhiệm đối với Tổ quốc với nhân dân. Cũng từ đó mà ta thấy được tài năng và khả năng giao cảm tinh
tế với cái đẹp của thiên nhiên, của con người Việt Bắc của Tố Hữu. Để làm được điều đó Tố Hữu đã trải qua
một thời gian dài sống và gắn bó với người dân, với thiên nhiên núi rừng Việt Bắc.
Bài Việt Bắc của Tố Hữu cùng với những bài thơ khác cùng thời, cùng đề tài như “Đồng chí” của
Chính Hữu, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật, đã góp phần rất lớn vào trong chủ đề
thơ ca cách mạng không những có tác dụng cổ vũ động viên tinh thần người chiến sĩ mà còn như những
tấm gương phản chiếu về một thời đại vẻ vang của dân tộc, để cho thế hệ sau mãi tự hào từ đó mà càng
thấy được

KB: “Việt Bắc” là tiếng hát nghĩa tình sắt son thủy chung của “mình” với “ta”, của chiến sĩ, cán bộ, đồng
bào đối với chiến khu Việt Bắc, với cách mạng và kháng chiến, đối với Đảng và Bác Hồ của miền xuôi và
miền ngược; là khúc tráng ca anh hùng của một dân tộc thắng trận sau hơn ba ngàn ngày máu lửa. Bài thơ
"Việt Bắc" mang tầm vóc một trường ca, dài 150 câu thơ lục bát, vừa mang âm điệu ca dao, dân ca đậm đà,
vừa mang vẻ đẹp thơ ca cổ điển và thơ ca cách mạng dân tộc. Tập thơ “Việt Bắc” nói chung và bài thơ “Việt
Bắc” nói riêng là bản anh hùng ca, phản ánh những chặng đường gian lao, vất vả nhưng cũng đầy tự hào,
thấm đượm tình quân dân của dân tộc ta.

14
Đất nước (khổ 1- 9 câu đầu)
MB: Từ bao đời nay, đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, là nơi gặp gỡ của các nhà thơ,
nhà văn và của bao triệu trái tim con người từ khắp mọi miền. Tình yêu quê hương đất nước đi vào đời
chúng ta qua những lời ru ngọt ngào êm dịu, qua những làn điệu dân ca mượt mà và những vần thơ sâu
lắng, thiết tha rất đỗi tự hào của bao lớp thi nhân. Không giống như “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi hay
Hoàng Cầm, qua ánh nhìn của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, hình hài đất nước hiện lên thật đầy đủ và trọn
vẹn. Bài thơ "Đất nước" của tác giả không đặt nặng màu sắc tuyên truyền mà đơn giản là xoay quanh cuộc
sống sự gần gũi, bình dị với tình yêu chan chứa của nhân dân Việt Nam, nhưng cũng đầy kiên cường, mạnh
mẽ vươn lên trên mọi sóng gió. Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943, quê ở tỉnh Thừa Thiên Huế. Sinh ra và
lớn lên trong một gia đình trí thức có truyền thống yêu nước và cách mạng. Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết
hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam , không
ồn ào, rộn rã mà ông cho riêng cho mình một chất giọng êm dịu, thiết tha, gần gũi và thân thuộc. “Đất
nước” là đoạn trích của tác phẩm trường ca “Mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn thành ở chiến khu
Trị-Thiên năm 1971 viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất
nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu chống Đế quốc
Mỹ xâm lược. Hình ảnh đất nước trong đoạn thơ đầu (9 câu) hiện lên muôn màu muôn vẻ, sinh động lạ
thường, lắng đọng trong tâm tưởng ta qua những nét đẹp về phong tục, tập quán, văn hóa, truyền thống
mang đậm dấu ấn con người Việt.

TB: Bình thường, khi viết về Đất nước thường các tác giả sẽ chọn ở một khoảng cách rất xa và sử dụng
những từ ngữ mĩ lệ để miêu tả vẻ đẹp của Đất nước nhưng đối với Nguyễn Khoa Điềm thì lại khác, ông đã
chọn điểm nhìn gần gũi để miêu tả một đất nước tự nhiên, bình dị mà không kém phần thiêng liêng, tươi
đẹp trên nhiều phương diện như chiều rộng của không gian địa lý, chiều dài của lịch sử và chiều sâu của
văn hóa Việt Nam.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...”
Câu thơ mở đầu đã được nhà thơ khẳng định một cách chắc chắn về sự trường tồn của đất nước qua
mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước bằng giọng thơ nhẹ nhàng như là câu ca thủ thỉ tâm tình,
tâm sự: “Đất Nước đã có rồi”. Cấu trúc câu “Đất nước có – bắt đầu – lớn lên” đã hữu hình hóa quá trình
phát triển của đất nước trong trường kì lịch sử, đất nước tựa như một sinh mệnh sống với nội lực mãnh
liệt. Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết ở
ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người. Khi nói đến vẻ đẹp của đất nước trên bình diện của chiều
sâu văn hóa, ta phải hiểu văn hóa là những giá trị mà con người ở một vùng đất tạo ra. Có thể đó là giá trị
tinh thần cũng có thể là giá trị vật thể. Nguyễn Khoa Điềm nhìn nhận người Việt Nam không chỉ ra đi để
bảo vệ đất đai xứ sở mà còn truyền và bảo vệ cho nhau những hạt giống dân ta, những vẻ đẹp mang đậm
cốt cách của con người Việt Nam được truyền từ đời này sang đời khác, từ trái tim của người già sang lồng
ngực của người trẻ, đó là vẻ đẹp mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam ta. Đất Nước bắt đầu từ một cách
trang trọng mà hết sức bình dị, gần gũi. Đại từ xưng hô “ta” vừa là nhân vật trữ tình, vừa là mỗi chúng ta –
những người dân đất Việt.
15
Bằng chất giọng dịu nhẹ, ngọt ngào, nhà thơ ngược dòng cảm xúc của mình về với những cái “ngày xửa
ngày xưa” mang điệu hồn của những câu chuyện huyền thọai, đưa ta về miền cổ tích diệu kì, nơi có ông
bụt, có bà tiên, nơi cái thiện chiến thắng cái ác từ lâu đã trở thành cội nguồn của đời sống, nó là nguồn sữa
lành chăm bẵm nuôi dưỡng cho tâm hồn ta, cho ta những bài học nhân sinh về lẽ sống nhân hậu, sống
nghĩa tình, sống yêu thương, đùm bọc, chở che nhau, nhận ra “chân-thiện-mĩ” của cuộc đời. “Ngày xửa,
ngày xưa" một khoảng không gian dài đằng đẵng hiện lên, đánh dấu những điều gì đó rất xa, rất xưa,
nhưng cũng gần gũi đến lạ thường. Quãng thời gian không xác định thời gian cụ thể, chỉ biết rằng nó đã có
từ lâu đời. Về ý nghĩa của truyện cổ với đời sống tinh thần con người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động
mà viết nên:
“Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần”
Câu “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn” gợi cho chúng ta nhớ đến sự tích Trầu Cau,
đồng thời đó cũng là câu ca dao tục ngữ “miếng trầu là đầu câu chuyện”, là vẻ đẹp của người già Việt Nam.
Đất Nước là văn hóa kết tinh từ tâm hồn Việt. Từ truyện ca dao, cổ tích đến tục ngữ, “miếng trầu” đã là
một hình tượng nghệ thuật mang tính thẩm mĩ, là hiện thân của tình yêu thương, lòng thủy chung của tâm
hồn dân tộc, khơi gợi lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Như vậy là thẩm thấu vào trong miếng
trầu dung dị ấy là 4000 năm phong tục, 4000 năm dân ta gìn giữ phong tục ăn trầu. Miếng trầu là biểu
tượng của tình yêu, vật chứng cho lứa đôi cũng là biểu tượng tâm linh của người Việt. Từ phong tục ăn
trầu, tác giả còn gợi lại những cái phong tục đẹp của nhân dân ta ấy là tục nhuộm răng có có từ thuở vua
Hùng dựng nước và giữ nước.

Cùng với sự tích Trầu Cau, thì qua câu thơ “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh
giặc” tác giả diễn tả sự trưởng thành của Đất Nước đồng thời tiếp tục gợi nhắc chúng ta nhớ về truyền
thuyết Thánh Gióng-chàng trai Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre làng Ngà đánh giặc vô cùng quen thuộc. Đó
là vẻ đẹp khỏe khoắn của truyền thống yêu nước, bất khuất đứng lên chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
Như vậy, có thể thấy rằng Đất Nước hình thành từ nền tảng là tình nghĩa sâu nặng của dân tộc, thế nhưng
Đất Nước chỉ có thể lớn lên khi nhân dân ta có được tinh thần yêu nước, có được lòng dũng cảm, kiên
cường đấu tranh chống giặc ngoại xâm để giữ nước. Vẻ đẹp của các chị, các anh với dáng đứng hiên ngang,
kiêu hùng, bất khuất đã tạc vào lịch sử Việt Nam như chị Võ Thị Sáu, Trần Văn Ơn, Nguyễn Văn Trỗi… Vẻ
đẹp ấy song hành với hình ảnh cây tre Việt Nam. Cây tre hiền hậu trên mỗi làng quê. Nó như là sự đồng
hiện những phẩm chất trong cốt cách con người Việt Nam: thật thà chất phác, đôn hậu thuỷ chung, yêu
chuộng hoà bình nhưng cũng kiên cường bất khuất trong tranh đấu. Tre đứng thẳng hiên ngang bất khuất
cùng chia lửa với dân tộc "Một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ ", bởi:
"Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường".

Đi từ những câu chuyện cổ tích, những truyền thuyết xa xưa thì tác giả lại tiếp tục chỉ ra Đất Nước có
từ rất lâu đời, bắt đầu từ những thuần phong mỹ tục. “Tóc mẹ thì bới sau đầu”, nhắc người đọc nhớ lại
phong tục búi tóc thành búi tóc tròn, thấp sau gáy của các bà, các mẹ thời xưa. Mà dù cho đã qua hàng
ngàn năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, mấy chục năm trời Pháp thuộc, thế nhưng búi tóc ấy vẫn giữ
cho mình dáng vẻ ban đầu không đổi, vẫn kiên cường trụ vững sau gáy của người phụ nữ Việt Nam. Hình
ảnh bới tóc mang một vẻ đẹp đầy nữ tính thuần hậu, rất riêng. Nét đẹp ấy gợi nhớ ca dao:
“Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài cho rối lòng anh”

16
Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú, lao động, chiến đấu
trên mảnh đất Việt để giữ gìn tôn tạo mảnh đất thân yêu. Ở đó đạo lí ân nghĩa thủy chung đã trở thành
truyền thống ngàn đời của dân tộc: "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn" chính là đại diện cho
truyền thống coi trọng tình nghĩa vợ chồng, càng trong những thử thách, gian lao thì vợ chồng lại càng trở
nên thương yêu và gắn kết bền chặt với nhau hơn. Ý thơ được toát lên từ những câu ca dao đẹp:
“Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ nhẹ nhàng mà thấm
đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời: gừng càng già càng cay, muối càng lâu
năm càng mặn, con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa càng đong đầy. Có lẽ chính vì vậy mà Đất
Nước còn ghi dấu ấn của cha của mẹ bằng Hòn trống mái, núi Vọng Phu, Hòn Trống Mái… đi vào năm
tháng.

Đất Nước có từ rất lâu đời được hình thành cùng với tiến trình phát triển của con người Việt Nam
trong cuộc sống đời thường. Cái kèo cái cột thành tên”, từ chỗ con người ta sống tạm bợ trong những hang
đá thô sơ, nhân dân ta đã bắt đầu chủ động hơn trong cuộc sống biết xây dựng nên các mái nhà che mưa,
che nắng cho mình. Đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà vững chãi, bền chặt.
Đó cũng là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ màu dồn thành sự
sống. “Những hình ảnh mộc mạc tưởng như vô tri, vô giác nhưng lại mang một linh hồn của sự sống "cái
cột", "cái kèo”- dụng cụ được tạo ra để phục vụ cho đời sống sản xuất cũng như sinh hoạt của con người
đã gắn bó với lịch sử ra đời của đất nước. Từ đó, tục đặt tên con “cái Kèo, cái Cột” cũng ra đời. Rất bình dị,
rất chân thực nhưng nó như là một sự giải thích đúng đắn.

Rồi “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần, sàng”, ta cũng thấy được từ cái chỗ nhân dân ta
sống phụ thuộc vào thiên nhiên với công việc hái lượm bấp bênh, thì người Việt Nam đã bắt đầu biết đến
nền văn minh lúa nước, biết tạo ra hạt thóc hạt gạo làm lương thực chính để phục vụ cuộc sống. Thành
ngữ “Một nắng hai sương” gợi nên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta những ngày long đong, lận đận trong
đời sống nông nghiệp lạc hậu. Đó là truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó. Các động từ “Xay
- giã - dần - sàng” là quy trình sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra hạt gạo ta ăn hằng ngày, người nông dân phải
trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị
mặn nhọc nhằn của giai cấp nông dân. Bởi vậy, ăn hạt gạo dẻo thơm ta phải nhớ công ơn người đã làm ra
nó:
“Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.”
Và cuối cùng sau khi dùng ba ý trên để trả lời cho câu hỏi “Đất Nước có từ khi nào?”, tác giả đã chốt
lại bằng câu thơ “Đất Nước có từ ngày đó”, “ngày đó” vừa là trạng từ chỉ thời gian trong quá khứ vừa là
một phép thế đại từ . Ấy à ngày những truyền thuyết, cổ tích ra đời, là ngày chúng ta có thuần phong mỹ
tục, là ngày mà chúng ta biết trồng tre diệt giặc, cũng là ngày bà con người Việt Nam ta biết dựng nhà,
trồng lúa biết ăn trầu, búi tóc, biết sống yêu thương, thủy chung. Có thể nói Đất Nước mà Nguyễn Khoa
Điềm gợi lại thông qua các chất liệu văn hóa dân gian lâu đời của dân tộc đã đem đến cho người đọc những
xúc cảm gần gũi, thân thuộc và bình dị, để lại trong tâm hồn con người cảm giác tha thiết và gắn bó vô
cùng. Đúng như lời Bác dặn trước lúc đi xa “Rằng muốn yêu tổ quốc mình, phải yêu những câu hát dân ca”.
Bởi văn hóa ca dao chính là Đất Nước. Thật đáng yêu đáng quý, đáng tự hào biết bao lời thơ dung dị, ngọt
ngào của Nguyễn Khoa Điềm.

17
NT: Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào việc vận dụng khéo léo chất liệu văn hóa dân gian như
phong tục ăn trầu, tục búi tóc, truyền thống đánh giặc, truyền thống nông nghiệp gợi về một vẻ đẹp tinh
thần Đất nước, thấm đẫm ngọn nguồn lịch sử dân tộc. Đất nước còn là hiện thân của những phong tục tập
quán ngàn đời, minh chứng của một dân tộc giàu truyền thống văn hóa, giàu tình yêu thương gắn bó với
mái ấm gia đình. Nhà thơ sáng tạo thành ngữ dân gian, ca dao tục ngữ, thành ngữ. Nguyễn Khoa Điềm luôn
viết hoa hai từ Đất Nước tạo nên sự thành kính, thiêng liêng… Tất cả làm nên một đoạn thơ đậm đà không
gian văn hóa người Việt. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình nhưng
vẫn mang đậm hồn thơ triết lí. Nghệ thuật liệt kê là biện pháp chủ đạo quán xuyến toàn bộ bài thơ, góp
phần khắc họa đất nước bình dị, gần gũi. Đất nước gắn liền với bà, với mẹ, với cha, đất nước hài hòa trong
mối quan hệ gia đình, làng xóm. Đất nước là một phần máu thịt trong kí ức của mỗi con người với vẻ giản
dị, thân thương, Đất Nước của nhân dân, một Đất Nước bước ra từ những câu chuyện kể, những truyền
thuyết, những phong tục tập quán của 4000 năm văn hiến tự hào.

KB: Chín dòng thơ đầu là cảm nhận của nhà thơ về sự hình thành và phát triển lâu đời của đất nước.
Đất nước đc cảm nhận cụ thể trong những cái hằng ngày như“miếng trầu, hạt gạo”, trong những gương
mặt dung dị, đời thường của nhân dân, trong mối quan hệ ruột thịt thân thương như “ông – bà”, “cha –
mẹ”, ngay trong mái nhà của mỗi chúng ta cũng hiện diện dáng hình đất nước. Ẩn trong đó là tình yêu
nứơc thiết tha, niềm tự hào về đất nước thân thương, gần gũi. Hình ảnh thơ hàm súc, giàu chất liệu văn
hóa, văn học dân gian nên có sức lắng đọng sâu sắc. Những chất liệu dân gian ấy đã tạo nên một thế giới
nghệ thuật vừa gần gũi, quen thuộc, vừa sâu xa, kì diệu, đủ sự gợi lên một hồn thiêng sông núi. Điều đó ko
đơn thuần chỉ là thủ pháp nghệ thuật, cũng ko phải là một môtúyp sáng tạo văn học dân gian. Có thể nói,
tư tưởng “đất nứơc của nhân dân” – tư tưởng chủ đạo của trang thơ đã thấm nhuần từ quan điểm đến
cảm xúc, từ hình tượng đến chi tiết nghệ thuật của tác phẩm.

18
Đất nước (Tư tưởng “Đất nước là của nhân dân”)
MB: Từ bao đời nay, đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, là nơi gặp gỡ của các nhà thơ,
nhà văn và của bao triệu trái tim con người từ khắp mọi miền. Tình yêu quê hương đất nước đi vào đời
chúng ta qua những lời ru ngọt ngào êm dịu, qua những làn điệu dân ca mượt mà và những vần thơ sâu
lắng, thiết tha rất đỗi tự hào của bao lớp thi nhân. Không giống như “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi hay
Hoàng Cầm, qua ánh nhìn của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, hình hài đất nước hiện lên thật đầy đủ và trọn
vẹn. Bài thơ "Đất nước" của tác giả không đặt nặng màu sắc tuyên truyền mà đơn giản là xoay quanh cuộc
sống sự gần gũi, bình dị với tình yêu chan chứa của nhân dân Việt Nam, nhưng cũng đầy kiên cường, mạnh
mẽ vươn lên trên mọi sóng gió. Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943, quê ở tỉnh Thừa Thiên Huế. Sinh ra và
lớn lên trong một gia đình trí thức có truyền thống yêu nước và cách mạng. Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết
hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam, không
ồn ào, rộn rã mà ông cho riêng cho mình một chất giọng êm dịu, thiết tha, gần gũi và thân thuộc. “Đất
nước” là đoạn trích của tác phẩm trường ca “Mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn thành ở chiến khu
Trị-Thiên năm 1971 viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất
nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu chống Đế quốc
Mỹ xâm lược. Tư tưởng đất nước của nhân dân là một tư tưởng tiến bộ của thơ ca thời đại cách mạng.
Đoạn trích dưới đã thể hiện một cách sâu sắc và cụ thể sự hóa thân của nhân dân và đất nước muôn đời.

TB: Ấn tượng ban đầu của chúng ta khi đọc tám câu thơ ta dường như bị chìm ngập trong không gian
địa lí và thời gian lịch sử cùng với những dấu ấn quan trọng mà bất kì đứa con Việt Nam nào cũng không
thể quên.
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Tư tưởng đất nước của nhân dân dẫn nhà thơ đến một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lý. Bằng
ngòi bút ví von mà chân thực tác giả Nguyễn Khoa Điềm lần lượt vẽ nên những chiến công hiển hách của
cha ông ta. Là hình ảnh những người con đất Việt hi sinh cả tuổi xuân, cả cuộc đời mình để góp xương, góp
máu cho Đất nước, để lại con thơ, vợ hiền da diết ngóng trông. Là tình yêu vững bền thuỷ chung như
những tảng đá lớn, đứng hiên ngang chờ đợi mòn mỏi qua bao năm tháng chiến tranh và li tán chẳng ngại
gió mưa, bão bùng. Là niềm tự hào về mảnh đất thiêng, về xứ sở thanh bình dạt dào sông nước đã hóa
thành tên gọi Cửu Long – tên một dòng sông xanh thẫm đất phương Nam Là truyền thống hiếu học của
những ng học trò nghèo VN bao đời đã đc tạc ghi trong tên gọi “Núi Bút, Non Nghiên”. Là cuộc sống bình dị
và sự đóng góp thầm lặng, khai khẩn đất hoang của những người dân đã đặt tên cho non núi “Ông Đốc,
Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”..... Đất nước có một phần xương máu của những con người bất khuất, trung
kiên, một đời vì Đất nước, nguyện hi sinh tất cả để đất nước được trường tồn hơn bốn nghìn năm và lâu
hơn thế. Vẽ ra bức tranh toàn cảnh rộng lớn của đất nước, sự tươi đẹp của non sông gắn liền với những
trang sử hào hùng, dũng mãnh của cả một dân tộc.
Mỗi một dòng thơ tuy độ dài ngắn khác nhau nhưng đều có chung một kết cấu. Mỗi dòng thơ đều
chia ra hai phần đối lập và liên kết với nhau bằng điệp từ “góp”. Nửa trước nói về nhân dân, lời thơ mộc
mạc, bình dị, cảm xúc, có pha chút ngại ngùng, xót thương. Trái lại, nửa sau từ “góp” lại nói về đất nước,
lời thơ lộng lẫy những sắc màu muôn hình vạn trạng. Nghệ thuật tương phản này chính là bài ca ca ngợi sự
hi sinh của nhân dân để tạo nên đất nước huy hoàng. Đằng sau mỗi địa danh là một tên gọi, đằng sau mỗi

19
tên gọi là một huyền thoại và sau những huyền thoại là cuộc đời của những con người. Nhân dân làm nên
đất nước, đó là những cặp vợ chồng thủy chung, là những anh hùng, những người lính quyết tử cho tổ
quốc quyết sinh, là những người học trò nghèo nghiền bút, là ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm... Hơn
thế nữa, nhân dân còn là những cái tên bé nhỏ vô danh được ẩn dụ bằng những hình ảnh con cóc, con gà..
Trong nhân dân còn có những nhân vật mà chỉ nhắc đến ta đã thấy hùng vĩ thiêng liêng, ngưỡng mộ, tôn
thờ, được ẩn dụ bằng hình ảnh “Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương” phúc quanh
núi Hy Cương hay “Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”. Nhân dân ta đa dạng là thế, đông
đảo là vậy mà chỉ làm một việc chung và thống nhất: góp sức chung lòng để xây dựng nên đất nước Việt
Nam ta. Nhà thơ sử dụng điệp từ “góp” thật ấn tượng, gợi sự kiên trì, bền bỉ, ý chí thống nhất, tình đoàn
kết trăm người chung một việc: góp phần kiến tạo nên không gian huy hoàng cho nhân dân. Nhân dân đã
góp sức, góp sự đoàn kết và góp cả máu xương, cả tính mạng, góp tên tuổi, góp tài hoa. Nhờ đó mà thế hệ
chúng ta mới có được một đất nước hữu hình – đất nước của những anh hùng.
Có thể nói, tám câu thơ đều đã giúp người đọc thấy được sự kỳ diệu của thế hệ trước. Nó giống
như một bông vàng chói lọi mà tổ quốc gọi công cho nhân dân – người đã hi sinh để làm nên tác phẩm kỳ
diệu là nhân dân ta.

Nếu như tám dòng thơ trước tưng bừng những màu sắc lấp lánh, hình tượng đầy chất thơ thì bốn
câu thơ sau lại là những cảm xúc chứa đựng đầy suy ngẫm của lối nói chính luận xen lẫn sự trầm ngâm
của một trí thức.

“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi


Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”

Sau khi diễn giải tư tưởng Đất Nước của nhân dân ở các chi tiết, thì Nguyễn Khoa Điềm chuyển sang
nâng ý thơ lên tầm khái quát. Được viết liền mạch theo lối vắt dòng và diễn tả bằng lối phủ định để khẳng
định. Nó giống như một tuyên ngôn sôi nổi mang hình thức tranh luận để khẳng định mạnh mẽ những hi
sinh to lớn của nhân dân. Tầm vóc kỳ vĩ của Đất Nước được thể hiện ở phương diện địa lý qua hình ảnh
“khắp ruộng đồng gò bãi” để mở ra một không gian lớn lao cao rộng, sau đó khẳng định sự trường tồn,
vĩnh hằng của Đất Nước ở phương diện lịch sử “Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm”. Sử dụng thán từ “Ôi” nhà
thơ như không giấu nổi lòng mình, bộc lộ cảm xúc nghẹn ngào trước những hi sinh vĩ đại của nhân dân. Tác
giả nhấn mạnh ở cụm từ “bốn nghìn năm” – đó là chiều dài lịch sử dân tộc, bốn nghìn lớp cha ông đều
chiến đấu, đời cha đi trước, đời con đi sau, cha con đều là những đồng chí đồng đội chiến đấu vì độc lập
dân tộc. Từ đó dẫn dắt, khẳng định nhân dân chính là người đã tạo ra Đất Nước vừa kỳ vĩ, vừa có bề dày
lịch sự ở những ý thơ rất hay, rất tha thiết, nồng đượm yêu thương khẳng định Đất Nước đã được tạo nên
bằng chính cuộc đời của các thế hệ cha ông, bằng các dáng hình, những ước mơ, những phong tục tập
quán đã in hằn trên dáng vẻ của Đất Nước.
Kết thúc đọan thơ là một câu thơ vô cùng ấn tượng: “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...” bởi có sự
chuyển đổi. Những câu thơ trước đó mỗi dòng đều có từ mười ba đến mười lăm âm tiết nhưng ở câu thơ
cuối lại chỉ vỏn vẹn trong tám âm tiết. Đó như một sự trầm ngâm, một sự đúc kết để rút ra chân lý cô đọng.
Bên cạnh đó, nó còn được kết thúc bởi hai thanh bằng như một lời hạ giọng để suy tư in dấu vào âm
20
hưởng. Dấu ba chấm kết thúc đoạn thơ như một phút lặng của long người trước những xáo trộn của tâm
hồn. Nhưng ấn tượng nhất là câu thơ thật hàm súc. Cuộc đời của những con người tuy ngắn ngủi hữu hạn
là thế nhưng lại hóa thành núi sông ta, gởi những cái hùng vĩ vô hạn, vĩnh hằng bất biến. Đây chính là sự
biến đổi phi thường khẳng định nhân ta thật kỳ diệu! Họ chẳng những hóa thân để làm nên hình hài đất
nước mà còn làm nên linh hồn đất nước.

Bên cạnh vẻ đẹp chiều rộng không gian địa lý đất nước còn hiện lên với chiều dài của lịch sử. Như
chúng ta đã biết, Nguyễn Trãi là một nhà sử gia chính thống, là một quan đại thần dưới triều Lê, ông là
một nhà chép sử, nghiên cứu về lịch sử. Nguyễn Trãi nhìn nhận lịch sử Việt Nam là sự tiếp nối của các
triều đại, của các đời vua:

“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”.
Nhưng ngược lại, Nguyễn Khoa Điềm không nhìn nhận lịch sử theo lối của một nhà sử gia chính
thống mà ông đã nhìn nhận lịch sử theo lối gợi mở lịch sử.

“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ”

Ông xoáy sâu và nhấn mạnh vào con số “bốn ngàn năm”. Bốn ngàn năm ấy là bốn ngàn lớp người ,
bốn ngàn thế hệ Việt Nam ra trận, lớp cha trước lớp con sau cũng thành đồng chí chung câu quân hành. Đó
là một cuộc chạy đua tiếp sức của người dân Việt Nam. Nói về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước, nhà
thơ không nhắc lại các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà tập trung nhấn mạnh vai trò của những con
người bình dị, vô danh, những người lao động cần cù chăm chỉ chịu thương chịu khó. Đó là “họ”, là “lớp
lớp, con gái, con trai” đã chiến đấu suốt bốn nghìn năm để dựng nước và giữ nước. Họ là Nhân dân. Khi
không có giặc họ chỉ đơn thuần là những người lao động nông dân chân chất, thật thà, nồng hậu chỉ biết
cầm cuốc, cầm xẻng vậy mà nghe tin đất nước bị xâm lăng thì chính họ cũng trở thành những nghĩa sĩ, anh
hùng cứu quốc. Họ luôn đặt quyền lợi của tổ quốc lên trên hết. Đó là truyền thống của chúng ta từ bao đời
nay vẫn thế, nhân dânsẵn sàng hi sinh với thái độ rất dứt khoát không hề so đo thiệt hơn, hi sinh tình cảm
riêng như tình yêu, tình vợ chồng, tình máu mủ ruột rà. Qua đó thể hiện chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa
anh hùng mang tính tập thể bất phân già, trẻ, trai, gái, đàn ông hay đàn bà. Chúng ta dễ dàng bắt gặp
những hình ảnh của các “anh hùng” như chị Út Tịnh, Nguyễn Thị Minh Khai,… hay như Bà Trưng, bà Triệu.
Cuộc đời thầm lặng của mỗi người đã “hóa núi sông ta”. Cảnh sắc núi sông gắn liền với tâm hồn dân tộc,
khí phách của giống nòi.
“Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
21
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.”
Đất nước do nhân dân giữ gìn và lưu truyền cho các thế hệ người Việt về giá trị văn hóa vật chất và
tinh thần. Trong suốt 4000 năm dù cho “không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng chính họ lại là những người đã
lưu giữ và truyền lại cho chúng ta những gì mà họ có
“Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân”
Họ truyền cho nhau ngọn lửa mang tên sức sống của dân tộc Việt Nam. Họ bảo vệ đất đai xứ sở từ
thời vua Hùng cầm gươm đi mở cõi. Họ đã gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn
minh tinh thần và vật chất của đất nước, của dân tộc: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, cả tên
xã, tên làng và truyền thống chống thù trong giặc ngoài. Nhứng thứ ấy đều rất giản dị nhưng lại chính là sự
sống của mỗi cá nhân, sự sống của cả dân tộc, là nền văn hóa, là hồn thiêng sông núi mà chính nhân dân đã
sáng tạo, giữ gìn, truyền qua muôn đời, tạo thành bản sắc văn hóa VN. Nhân dân ko chỉ lao động, chiến
đấu, mà con là những ng sáng tạo ra văn hóa dân tộc. Hàng lọat những động từ đc liệt kê “giữ, truyền,
chuyền, đắp, be, trồng cây, hái trái” thể hiện sự cần cù, siêng năng, tinh thần chăm lo lao động của bao thế
hệ VN. Chính nhân dân đã viết lên những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Qua đó ta thấy được một
tư tưởng mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm: nêu lên vai trò của nhân dân đối với đất nước. Biết bao thế hệ
những người dân từ già, trẻ, trai, gái đã ngã xuống, máu của họ đã tạo thành sông suối, xương của họ đã
tạo thành dáng núi, tâm hồn của họ thì đã trở thành hồn thiêng sông nước. Họ đã làm chủ đất nước.
Như triết gia người Đức – Engels đã từng nói: “Nếu như không có máu, mồ hôi và nước mắt thì
không có lịch sử dân tộc”.

Mạch suy nghĩ sâu lắng dẫn đến tư tưởng cốt lõi, điểm hội tụ và cũng là điểm đỉnh của cảm xúc trữ
tình để nhà thơ khẳng định một chân lí ở cuối đoạn:

“Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân. Khi thể hiện tư tưởng Đất Nước của Nhân dân, tác giả đã
trở về với ngọn nguồn phong phú, đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao, vẻ đẹp tinh
thần của nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm thấy trong ca dao, dân ca, truyện cổ : Đất Nước của Nhân dân,
Đất Nước của ca dao, thần thoại. Câu thơ hai vế song song là một cách định nghĩa về Đất Nước thật giản dị
mà cũng thật độc đáo. Nền văn hóa của Đất Nước Việt Nam là nền văn hóa của Nhân dân, bởi “ca dao thần
thọai”chính là sáng tác của nhân dân, phản ánh đời sống, tâm tư, tình cảm của nhân dân. Trong nền văn
hóa ấy, ca dao thần thoại luôn chứa đựng cả lịch sử, xã hội, văn hóa của Đất Nước, đặc biệt là đời sống tâm
hồn của nhân dân.

22
Ở đọan thơ này, nhà thơ đã vận dụng và chuyển ý sáng tạo những câu ca dao thành lời thơ đằm thắm,
ca ngợi nhân dân, ca ngợi bản sắc dân tộc. Trong cả kho tàng ca dao dân ca phong phú của dân tộc, nhà
thơ đã chọn lọc ba câu đểe nói về ba phương diện truyền thống của nhân dân. Đó là sự say đắm trong tình
yêu nhân văn – “dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi”, đó là quý trọng lối sống tình nghĩa - “biết quý
công cầm vàng những ngày lặn lội” và một phẩm chất nữa là bền bỉ kiên cường trong chiến đấu giữ nước -
“biết trồng tre…dài lâu”.
Vẫn là ý và hình ảnh của những câu ca dao, vẫn gợi ý tứ của ca dao nhưng đã trở thành một câu thơ,
gắn bó với toàn mạch cảm xúc của đoạn thơ. Cái gì đã làm cho nước VN tồn tại mà ko xóa nhòa bản sắc của
mình? Cái gì đã làm cho con người VN có một truyền thống văn hiến rực rỡ? Chính là nhân dân VN đã sống
rất đôn hậu, nhiệt tình, đời thường, ngay cả những khi hoàn cảnh lịch sử khắc nghiệt gian nan.
“Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”

Kết lại đoạn trích Đất Nước tác giả đã nêu lên những cảm nhận rất tinh tế về vẻ đẹp của quê hương,
của Đất Nước. Khép lại bằng hình ảnh “dòng sông” dù có bắt nguồn từ đâu thì khi chảy đến mảnh đất quê
hương cũng đều mang giọng hát của Đất Nước, mang đậm bản sắc của dân tộc đem lại cảm nhận: đất
nước ta đẹp hiền hoà và vĩnh cửu như một dòng sông vô tận, chảy từ quá khứ đến hiện tại và vĩnh hằng với
tương lai. Trên dòng sông đất nước, âm vang những sắc màu và giai điệu văn hóa VN, phẩm chất tâm hồn
VN vô cùng tự hào và yêu quý. Thán từ “ôi” mang một cảm xúc vỡ òa giữadòng chảy văn hóa. “Gợi trăm
màu” là một cách hình tượng hóa ngôn ngữ, nhưng đồng thời cũng là sự kì vọng về tinh thần hội nhập
nhưng biết giữ gìn văn hóa đối với thế hệ mai sau. Đây chính là nội dung triết lí sâu sắc, một cấu trúc quy
nạp đấm chất trữ tình đầy sáng tạo của nhà thơ. Mỗi con người Việt Nam, trong công cuộc mưu sinh, lao
động trên cái dòng chảy ấy lại có những cách ứng xử khác nhau rồi cuối cùng tạo nên một dòng chảy văn
hóa kéo dài suốt 4000 ngàn năm văn hiến.

KB: Nguyễn Khoa Điềm qua đoạn trích Đất Nước với giọng văn chính luận trữ tình đã bộc lộ suy nghĩ
sâu sắc và nói lên những tình cảm tha thiết của mình đối với đất nước trên nhiều bình diện, địa lý, lịch sử,
và bình diện văn hóa với tư tưởng bao trùm xuyên suốt ấy là tư tưởng Đất Nước của nhân dân. Về nghệ
thuật đoạn trích được viết theo lối quy nạp, biểu hiện nội dung chính luận một cách trữ tình bằng cách
mượn các chất liệu văn hóa dân gian thân thuộc, mượt mà, êm ái, mang đến cho người đọc những xúc cảm
thẩm mỹ độc đáo. Giọng điệu xuyên suốt đoạn trích là giọng thơ tâm tình tình, tha thiết, sâu lắng như
giọng điệu của đôi lứa yêu nhau làm cho nội dung nghị luận vốn khô khan trở nên mềm mại, ngọt ngào
thấm sâu vào lòng người.

23
Hình tượng người lái đò Sông Đà
MB: Nguyễn Tuân là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Là một
trí thức giàu tinh thần dân tộc, gắn bó với những giá trị văn hoá cổ truyền, mỗi tác phẩm của Nguyễn Tuân
là một bài ca về cái đẹp của con người, của cuộc sống với tư tưởng, tình cảm với quê hương. Đánh giá về
Nguyễn Tuân, nhà văn Nguyễn Minh Châu thật có lí khi cho rằng: “Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người
nghệ sĩ”. Nguyễn Tuân luôn tìm mọi cách để kiếm tìm và phát hiện cái mới lạ, độc đáo “xưa nay chưa từng
có” trong hành trình sáng tạo. Tuỳ bút “Người lái đò Sông Đà” in trong tập “Sông Đà” (1960) là kết quả của
hành trình bền bỉ và sáng tạo về vẻ đẹp kì diệu của thiên nhiên và con người Tây Bắc. Tây Bắc đã trở thành
vùng đất hứa của thi ca nghệ thuật những năm 58-60 khi miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội , bằng
sự tài hoa, uyên bác, cùng lòng yêu thiên nhiên sâu sắc Nguyễn Tuân đã khắc hoạ một dấu ấn không thể
mờ phai về con sông Đà vừa hung bạo vừa trữ tình và nổi bật lên trên thác dữ là vẻ đẹp của một chiến binh
sông nước với “tay lái ra hoa” đã vượt bao trùng vi thạch trận như một người nghệ sĩ lành nghề trong nghệ
thuật vượt thác leo ghềnh độc hành đưa con đò mưu sinh chiến đấu với con sông Đà.

TB: Ngay từ nhan đề, tác giả đã dành cho người lái đò một ví trí trung tâm, vị trí trọng yếu. “Người
lái đò Sông Đà” miêu tả con sông Đà kì vĩ, hung bạo. Tuy xuất hiện không nhiều, nhưng vị thế của nhân vật
được thể hiện rất rõ. Hình ảnh con người làm chủ sông nước, chinh phục thiên nhiên, một con người nhỏ
bé về hình thể nhưng vĩ đại trước thiên nhiên Tây Bắc rộng lớn.
Nói về quan điểm của Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng để hiểu được vì sao con người trong
“Người lái đò Sông Đà” lại đẹp đến thế. Trước Cách mạng, ông đi tìm cái đẹp trong quá khứ, cái đẹp nổi
loạn, phi thường. Ông tìm đến những bậc nho sĩ tài hoa, những vị anh hùng hào kiệt vang bóng một thời.
Sau cách mạng, cái đẹp Nguyễn Tuân hướng tới là sự bình dị, được tìm thấy ở những con người rất đời, rất
thường. Từ bác lái đò, đến anh bộ đội, cô dân quân, những nhân vật không tên, bình dị mà cao quý. Ở góc
nhìn này, người lái đò Sông Đà là một con người đẹp, một nhân vật đẹp với cuộc sống lao động bình dị, đời
thường. Dưới ngòi bút đầy hứng thú và tài hoa, bằng sự quan sát tỉ mỉ và khả năng mô tả cùng với một kho
chữ nghĩa vô cùng phong phú và chuẩn xác của Nguyễn Tuân thì mọi cảnh vật thiên nhiên đều trở thành
những công trình mĩ thuật, tái hiện một cách độc đáo, vẻ đẹp kỳ vĩ giàu sức hấp dẫn, thơ mộng được ví
như bản trường ca bất tận rừng già của sông Đà, và ở nơi đây con người đã trở thành những nghệ sĩ điêu
luyện.

Với quan niệm duy mỹ về cái đẹp, hình ảnh người lái đò được nhà văn xây dựng qua công việc lao
động thường nhật. Ông lái đò chính là chất vàng mười đã được thử lửa mà Nguyễn Tuân tìm kiếm, người
anh hùng trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người lái đò gan dạ, thông minh, hiểu rõ từng ngóc
ngách, từng tảng đá trên thác sông Đà dữ dội. Dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Tuân khi miêu tả sự ác nghiệt
của thác nước cũng là lời khẳng định sức mạnh chế ngự, điều khiển thiên nhiên của con người và vẻ đẹp
của người dân lao động.
Nguyễn Tuân đã có nhận xét “Cuộc sống của người lái đò sông Đà quả là một cuộc chiến đấu hằng
ngày với thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa của
một kẻ thù số một”. Để thấy rằng cuộc sống mưu sinh trên dòng sông hùng vĩ kiêu ngạo ấy phải vất vả, gian
lao biết mấy, có lẽ là nơi chỉ dành cho những chàng trai lực lưỡng trẻ khỏe, đủ can đảm mà chiến đấu với
con sông mang tâm tình bất định “lúc van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”, như một
con thú với tiếng rống “như một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa…”.
Ấy thế mà chẳng như chúng ta hằng tưởng tượng, người lái đò ấy lại là một ông lão, phải, là một ông lão đã
ngoài bảy mươi, ở độ tuổi thất thập cổ lai, với bao người là độ tuổi được an hưởng tuổi già, chứ chẳng phải
lênh đênh kiếm kế mưu sinh trên sóng nước hiểm trở. Hình ảnh ông lái đò Lai Châu hiện lên với một vẻ

24
ngoài đầy phong sương, cơ thể in hằn mùi sông nước- gắn liền với nghề nghiệp của ông, ông đò có thân
hình rắn chắc như một bức tượng cẩm thạch: ngực ông đầy những củ nâu - thương tích của những ngày
tháng chiến đấu vật lộn trên chiến trường Sông Đà mà Nguyễn Tuân đã dí dỏm ví nó như là “huân chương
lao động siêu hạng”, tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông khuỳnh khuỳnh. Đó là một người lái đò lão
luyện: Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược không dưới trăm lần, trong đó đã có tới 60 lần ông cầm lái
chính trong thời gian hơn chục năm làm cái nghề đầy nguy hiểm và gian khổ này. Nguyễn Tuân đã xây dựng
một hình tượng người lái đò đầy xuất sắc với hai vai trò nổi bật, vừa là một chiến sĩ can trường trên mặt
trận sông nước với vũ khí duy nhất là mái chèo, vừa là một người nghệ sĩ tài hoa hằng ngày vẫn viết nên
bản những bản hùng ca tuyệt đẹp về sức mạnh của những con người lao động.

Hình tượng người lao động không chỉ khắc họa qua ngoại hình mà còn được khắc họa qua tính cách
và trí thông minh. Ông lái đò không phải là người an phận mà ngược lại ông thích đương đầu với hiểm
nguy, khó khăn, với những pha hành động gay cấn, thế nên ông thích đi qua những ghềnh thác khó nhằn
của con sông Đà, ông bảo rằng: “Chạy thuyền trên khúc sông không có thác nó dễ dạy, chân tay dễ buồn
ngủ”. Dù tuổi đã cao, nhưng ông luôn mang một tâm hồn trẻ khỏe, hiếu chiến, bản tính mạnh mẽ, can
trường, niềm tin yêu cuộc sống, cùng sự gắn bó với nghề nghiệp và con sông Đà hùng vĩ, công việc của ông
nghiễm nhiên trở thành niềm đam mê bất diệt, là niềm vui trong cuộc sống lao động vốn vất vả của ông.
Ông lái đò nắm vững “binh pháp của thần sông thần núi”, như một vị tướng tài vận dụng xuất sắc binh
pháp Tôn Tử “biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng”, lại cũng như một người nghệ sĩ chuyên nghiệp nắm
rõ cái mặt trận nghệ thuật đầy cam go của mà ông đã theo đuổi gần hết đời người. Trong cuộc chiến không
cân sức, giữa người lái đò lẻ loi, cùng con sông Đà hung bạo, nguy hiểm, ông lái đò như một người hùng
cưỡi chiến mã, tay vung gươm vượt qua kẻ địch, như chiến thần Triệu Vân của Tam Quốc, đơn thương độc
mã phá vòng vây quân thù, chỉ khác mỗi điều mặt trận của ông là mênh mông sóng nước. Chính vì vậy
trong trận thủy chiến đầy binh hùng tướng mạnh, phần thắng vẫn thuộc về con người trí dũng và tài hoa.
Trí và dũng của ông khách Sông Đà được Nguyễn Tuân khắc họa một cách đậm nét với ba trùng vi thạch
trận.
Chỉ bằng những nét khái quát như vậy, hình ảnh ông lái đò của Nguyễn Tuân đã để lại một dấu ấn
sâu sắc, ấn tượng trong lòng độc giả. Sông Đà trong lòng ông lái đò như một bản thiên anh hùng ca mà ông
đã thuộc lòng, thuộc đến “từng dấu chấm câu, dấu chấm than, cả những đoạn xuống dòng”, sự tài hoa, tỉ
mẩn ấy được tác giả ví như “đóng đanh vào lòng”. Thật là một cách so sánh “rất văn chương” đầy thú vị và
cũng “rất là Nguyên Tuân”.

Người lái đò là một anh hùng sông nước. Cuộc chiến đấu giữa người lái đò với thạch trận Sông Đà là
một cuộc chiến gay go, quyết liệt và dữ dội. Đây không đơn thuần chỉ là một cuộc vượt thác, đây giống như
một trận chiến sinh tử. Ở đó có sự giằng co giữa sự sống và cái chết.Trên cái mặt trận hung hiểm, trèo thác
vượt ghềnh ấy, đòi hỏi người chiến sĩ phải cực kỳ dũng cảm và bình tĩnh để ứng phó với mọi sự biến đổi
khôn lường, giảo hoạt của con sông, bởi chỉ sơ sẩy một chút thôi thì đến mạng cũng chẳng còn. Nguyễn
Tuân đã đặt cho những khó khăn, cửa ải mà ông lái đò phải vượt qua một cái tên rất “nhà binh” và cũng
đầy tính nghệ thuật là “trùng vi thạch trận”. Trận thủy chiến này là một cảnh tượng “xưa nay chưa từng
có”. Ông lái đò đã xuất sắc lần lượt vượt qua những cửa ải hung hiểm ấy một cách điêu luyện, mặc dù có
những lúc đã bị thương, nhưng nỗi đau đớn ấy chẳng thấm vào đâu so với việc bị mất mạng.

Với kinh nghiệm dày dạn và lòng dũng cảm, một tinh thần vững chãi cùng lòng tự tin đã “nắm chắc
binh pháp của thần sông thần núi”, ông lái đò bước vào “trùng vi thạch trận thứ nhất” đầy căng thẳng .
Thác đá sông Đà đã chuẩn bị dàn trận địa sẵn, đó là trận địa với bốn cửa tử, một cửa sinh. Ở đây nước phối
hợp với đá reo hò làm thanh viện; những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt; một hòn ấy trông như đang hất
hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào.
Bằng các từ ngữ: “reo hò, bệ vệ, oai phong lẫm liệt, hất hàm hỏi, thách thức…”, người đọc cảm nhận được
không khí trận chiến nóng bỏng gay cấn hồi hộp, kịch tính. Đó chính là biệt tài phù thuỷ ngôn ngữ của
25
Nguyễn Tuân. ”. Không để cho ông đò có cơ hội xoay xở, sông Đà lại chuyển thể đánh miếng đòn hiểm độc
nhất “cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Dính miếng đòn hiểm, mắt ông
hoa lên, tưởng như “một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống châm lửa lên đầu sóng”. Đòn đau khiến ông đò
“mặt méo bệch đi”. Đó là cái méo bệch vốn do cái lạnh của nước lại thêm miếng đòn đau làm ông khách
sông Đà mặt như tím tái, ngây dại. Phép điệp động từ “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ
hiểm” gợi lên cơn đau dồn dập, hành hạ người lái đò. Nhưng ông đò nén đau , làm sao dám buông lỏng, chỉ
cố nhịn đau mà “kẹp chặt lấy cuống lái”, giọng ông vẫn bình tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ huy sáu bơi chèo
còn lại vượt cửa tử vào cửa sinh.
Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, ở trùng vi thạch trận thứ hai ông lập tức thay đổi chiến thuật
chuyển từ thế trận phòng ngự, ông lái đò chuyển thế chủ động tấn công “đánh nhanh thắng nhanh”,
không cho con sông Đà có một cơ hội phải kích nào. So với trùng vi một thì trùng vi này khó khăn hơn.
Nhưng không vì thế mà ông đò nao núng. Nếu ở trùng vi thứ nhất, Nguyễn Tuân tập trung miêu tả thế trận
một chiều từ sông Đà thì ở trùng vây thứ hai này nhà văn tập trung miêu tả thế trận của ông ở sự thông
minh, linh hoạt và tài nghệ vượt thác dũng mãnh, phi thường. Vòng thứ hai này có phần hung hiểm hơn
trước khi “tăng thêm nhiều cửa tử để lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch sang bờ hữu ngạn”.
Thế nhưng cái bẫy đó cũng chẳng qua nổi con mắt tinh tường của ông lái đò, bởi ông đã nắm chắc “quy
luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. Ông ví lái đò qua khúc này như “cưỡi hổ phải cưỡi tới
cùng”, phải nắm đúng cái “bờm sóng” , rồi cứ thế “phóng nhanh vào cửa sinh, lái miết một đường chéo về
phía cửa đá ấy”. Ngặt thay lại có một bọn đá cũng không phải dạng vừa định lôi con thuyền vào tập đoàn
cửa tử thì ông đò “vẫn nhớ mặt bọn này”, bọn thác đá vẫn không ngừng khiêu khích, nhưng chúng chỉ như
đang làm trò hề trước mặt ông đò, bởi ông đã tự tin “tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên
chặt đôi mà mở đường tiến”. Thế là xong nốt ải thứ hai, nhanh và chuẩn xác Chính nhờ sự mưu trí và tài
năng ấy ông đò vượt qua hết các cửa tử. Một trùng vi với bao cửa tử, cửa sinh mà chỉ vài ngón đòn ông lái
đò đã đánh sập vòng vây của lũ đá, đồng thời làm cho bọn đá phải thua cuộc với bộ mặt “tiu nghỉu, xanh lè
thất vọng”. Nói nghe thì dễ đấy, nhưng có mấy ai đủ bình tĩnh và tay chèo điêu luyện để nhằm trúng vào
cửa sinh như ông lái đò Lai Châu?
Còn một ải cuối nữa, ải này “ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở chặng ba
này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”, mới nghe đã thấy khó khăn đủ bề. Có thể nói trận chiến
này sông Đà đã dùng thế “trên đe dưới búa” làm cho người lái đò phải đối mặt với thế “tiến thoái lưỡng
nan” nhưng vào “cái khó lại ló cái khôn”: ông đò rất mạnh dạn “phóng thẳng thuyền, chọc thủng giữa cửa
đó” ,“thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”. Vậy là qua hết cả ba ải, mà ải nào cũng
nguy hiểm vô cùng, con sông lại trở về với vẻ thanh bình, lặng lẽ.

Đọc hết đoạn vượt thác đầy cam go, gay cấn của ông lái đò Lai Châu, ta cứ cảm tưởng mình vừa coi
một bộ phim hành động nghẹt thở, hồi hộp đến từng phút giây, mà ông lái đò chính là nhân vật chính. Quả
là “Đọc Người lái đò sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng, của một đấng hóa công
thực sự trong nghệ thuật ngôn từ” (Phan Huy Đông). Hình ảnh người lao động anh hùng, hằng ngày chiến
đấu vật lộn với thiên nhiên trong nguy hiểm trùng trùng đã làm nổi bật lên vẻ đẹp và sức mạnh của con
người trước thiên nhiên hùng vĩ và kiêu ngạo. Đây là một cuộc chiến không cân sức, nhưng bằng sự thông
minh, gan dạ, kiên cường bất khuất, con người lao động đã chế ngự, vượt lên trên cái sự khiêu khích, hằn
học của thiên nhiên. Nguyễn Tuân có một quan điểm nghệ thuật đầy mới mẻ, ông cho rằng nghệ thuật
không phải chỉ là những người nghệ sĩ với những hình tượng thơ mộng, mơ hồ cao xa như mây-trăng, gió-
núi, mà người làm nghệ thuật còn là những người lao động, vốn đã nhuần nhuyễn, đạt đỉnh cao điêu luyện
trong chính nghề nghiệp của mình thì cũng là người làm nghệ thuật chân chính, thứ nghệ thuật ấy chính là
nghệ thuật trong lao động. Bởi trong những con người ấy chất chứa cả một niềm đam mê sâu sắc, niềm tin
yêu, luôn tìm cách sáng tạo, đột phá, tạo ra những cung đường mới mẻ cho nghề nghiệp của mình.

Viết về người lái đò, Nguyễn Tuân không ca ngợi trực tiếp nhân vật mà chỉ thông qua những lời miêu
tả và chiến thắng thạch trận cũng đủ giúp người đọc hình dung ra vẻ đẹp, tài nghệ của ông. Trên trang viết

26
của Nguyễn Tuân, người lái đò không chỉ được chú trọng về phẩm chất anh hùng, một nghệ sĩ vượt thác
mà còn là một người lao động bình dị giữa đời thường, những con người đã cống hiến thầm lặng mà cao
cả. Những con người say mê với công việc, tình yêu với nghề nghiệp mà bất chấp hiểm nguy, vất vả.
Nguyễn Tuân không gọi nhân vật với cái tên cụ thể, chỉ đơn giản là “ông lái đò”, tên gọi gắn liền với nghề
nghiệp để khắc họa hình ảnh người lao động bình dị giống bao người khác. Sau bao gian khổ, khốc liệt dữ
dội, ông cũng chỉ muốn trở về nhà, trở về với cuộc sống bình thường, thư thái và lạc quan. Tâm thế này
không phải ai cũng có được, nhất là những người trở về từ cõi chết. Một tâm hồn đẹp đẽ, bình dị mà cao
quý, linh thiêng. Với tác giả, vốn quan niệm “mỗi trang đời là một trang nghệ thuật”, nghệ sĩ là một hình
tượng điển hình trong tư duy sáng tạo văn học của ông.

KB: Hình ảnh người lao động anh hùng, hằng ngày chiến đấu vật lộn với thiên nhiên trong nguy hiểm
trùng trùng đã làm nổi bật lên vẻ đẹp và sức mạnh của con người trước thiên nhiên hùng vĩ và kiêu ngạo.
Đây là một cuộc chiến không cân sức, nhưng bằng sự thông minh, gan dạ, kiên cường bất khuất, con người
lao động đã chế ngự, vượt lên trên cái sự khiêu khích, hằn học của thiên nhiên. Hình tượng ông lái đò được
tác giả xây dựng trên hai vai trò, vừa là người chiến sĩ anh hùng, quả cảm, vừa là người nghệ sĩ tài ba đã
viết nên một bản hùng ca tuyệt đẹp về cuộc sống lao động, về nghệ thuật chèo lái trên con sông Đà rộng
lớn. Nguyễn Tuân có một quan điểm nghệ thuật đầy mới mẻ, ông cho rằng nghệ thuật không phải chỉ là
những người nghệ sĩ với những hình tượng thơ mộng, mơ hồ cao xa như mây-trăng, gió-núi, mà người làm
nghệ thuật còn là những người lao động, vốn đã nhuần nhuyễn, đạt đỉnh cao điêu luyện trong chính nghề
nghiệp của mình thì cũng là người làm nghệ thuật chân chính, thứ nghệ thuật ấy chính là nghệ thuật trong
lao động.

27
Đất nước (Trách nhiệm của thế hệ trẻ)

28

You might also like