You are on page 1of 7

CHỮA ĐỀ VIỆT BẮC

ĐỀ1

MB: Nhận xét về nhà thơ Tố Hữu, GS Hà Minh Đức cho rằng: “Một người đã đốt
lửa và gieo hạt trên cánh đồng thơ ca cách mạng với niềm yêu và niềm tin không
bao giờ vơi cạn”. Thơ Tố Hữu thể hiện lẽ sống lớn, tình cảm lớn của con người
Cách mạng. Bài thơ "Việt Bắc" trích trong tập thơ cùng tên là một trong những vần
thơ “đi cùng năm tháng ” của nhà thơ. Một trong những đoạn thơ đi vào lòng người
nhất đó chính là đoạn:

Mình đi có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù

…………………………..

Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”

Đọc đoạn thơ ta thấy đó là một khúc tình ca nồng nàn về truyền thống đạo lí ân
nghĩa thủy chung của dân tộc Việt Nam và cũng là khúc hùng ca về sức mạnh của
nhân dân.

MB 2

Nhà văn Macxen Prut cho rằng : Thế giới được tạo lập không phải một lần mà
mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo thì lại một lần thế giới được tạo lập. Một người
nghệ sĩ độc đáo là một người có phẩm chất độc đáo, tài năng độc đáo. Mỗi lần
người nghệ sĩ ấy xuất hiện là họ lại mang đến cho chúng một thế giới riêng, một
cách cảm nhận thế giới và con người. Là nhà thơ của lí tưởng và cộng sản, Tố Hữu
xuất hiện giữa làng thơ Việt Nam với phong cách nghệ thuật độc đáo. Thơ của ông
mang tính trữ tình, chính trị, đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn,
thấm nhuần tính dân tộc. Tiêu biểu cho giọng thơ rất riêng và độc đáo của Tố Hữu
phải kể đến bài thơ Việt Bắc – bài thơ kết tinh tình cảm của con người Việt Nam
mà bao trùm là tình yêu nước. Bài thơ được triển khai theo lối kết cấu đối đáp giữa
kẻ ở người đi. Trong những lời đối đáp của người đi, đã có biết bao nhiêu tình cảm
nhớ nhung, da diết, về những tháng ngày gắn bó nơi chiến khu Việt Bắc. ( Trích
đoạn thơ)
LUẬN ĐIỂM 1: KHÁI QUÁT CHUNG ( học thuộc để áp dụng cho các đoạn thơ
trong bài Việt Bắc).

- Nhắc đến Tố Hữu thì ai cũng biết ông làm một trong những nhà thơ trữ tình cách
mạng hàng đầu của nền Văn học Việt Nam. Thơ Tố Hữu là thơ của tiếng sống lớn,
tình cảm lớn niềm vui lớn của con người Cách mạng và cuộc sống Cách mạng. Bài
thơ Việt Bắc là đinh cao thơ Tố Hữu, cũng là xuất thần trong văn học kháng chiến
chống Pháp. Nhắc đến Việt Bắc , ta nhắc đến lịch sử hào hùng của dân tộc. Chiến
dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi, hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, hòa bình
được lập lại ở miền Bắc. Tháng 10 – 1954, trung ương Đảng và Chính phủ đã trở
về tiếp quả Hà Nội. Sự kiện lịch sử đã trở thành nguồn cảm hứng viết bài thơ Việt
Bắc. Có thể nói, bài “Việt Bắc” là một khúc tình ca cũng là khúc hùng ca thể hiện
ân tình sâu nặng, thủy chung của nhà thơ đối với căn cứ địa Cách mạng trong cả
nước.
Cả bài thơ dâng đầy nỗi nhớ, nỗi nhớ khởi đầu từ cuộc chia tay của anh cán bộ miền xuôi với người dân
VB

Dẫn dắt

- Vị trí: - Đoạn thơ được phân tích nằm sau 8 câu thơ mở đầu của bài thơ VB.

- Nội dung đoạn thơ trước: Trước đó bài thơ miêu tả khung cảnh chia tay thấm đẫm sắc màu núi rừng
VB và tâm trạng bịn rịn, quyến luyến của người đi và người ở.

- Nội dung đoạn thơ này: -Đến 12 câu thơ này là lời nhắn gửi của người ở lại với người về xuôi hãy nhớ
về buổi đầu kháng chiến gian khó nhớ về VB nghèo mà thấm đượm nghĩa tình và mong ước người về
xuôi hãy coi núi rừng VB như chính quê hương cuộc đời và tam hồn của mình

LUẬN ĐIỂM 2: Cảm nhận đoạn thơ


- Khái quát: Nếu hai câu hỏi ở phần đầu mới chỉ gợi ra hình ảnh khái quát của quá khứ mười lăm năm ấy
với những gắn bó thiết tha của chiến khu Việt Bắc với núi với nguồn thân thuộc thì những câu hỏi trong
đoạn thơ sau đã hướng tới những kỉ niệm thật cụ thể, xúc động. Đoạn thơ gồm 6 câu hỏi của người ở lại
với người ra đi, những câu hỏi dồn dập, gấp gáp bởi nỗi nhớ trào dâng khi giờ phút chia tay đang đến gần.
Sự đắp đổi nhịp nhàng trong điệp ngữ ở các câu 6 mình đi có nhớ... mình về có nhớ ...; sự đăng đối trong
hai vế của các câu 8 với nhịp 4/4 , đó là những yếu tố tạo nên nhạc điệu ngân nga, dìu dặt ngọt ngào cho
đoạn thơ. Nhịp điệu trữ tình ấy đã góp phần thể hiện tính tế nỗi vấn vương xao xuyến giăng mắc trong
lòng kẻ ở lẫn người đi để từ đó, quá khứ đầy ắp kỉ niệm ào ạt trở về.

-Trong những lời nhắc nhở da diết của người ở lại với người ra đi, Việt Bắc hiện lên thật sống động từ
những khắc nghiệt của thiên nhiên với mưa nguồn, suối lũ, lau xám, mây mù... tới cuộc sống kháng chiến
gian khổ, thiếu thốn với miếng cơm chấm muối, từ những trang sử hào hùng khi kháng Nhật, thuở còn
Việt Minh tới những sự kiện trọng đại của cách mạng và kháng chiến nơi Tân Trào, Hồng Thái...

- Những câu hỏi tha thiết của người ở lại đã làm rõ cội nguồn tạo nên sự gắn bó sâu nặng giữa mình và ta,
giữa đồng bào Việt Bắc và những người kháng chiến. Họ đã cùng nhau chia sẻ từ những gian khổ thiếu
thốn khi nhường nhau miếng cơm chấm muối đến những tâm tư nỗi niềm khi chung nhau mối thù nặng
vai; họ đã sát cánh bên nhau trong những năm tháng ác liệt hào hùng từ thời Mặt trận Việt minh tới 9 năm
kháng chiến chống Pháp... Sự chia sẻ trong quá khứ tạo nên sự gắn bó trong hiện tại và nghĩa tình thuỷ
chung trong tương lai. Gian truân vất vả chỉ càng làm ngời lên vẻ đẹp trong tâm hồn của những người dân
Việt Bắc nghèo khổ mà sắt son, trung hậu, nghĩa tình, một lòng với cách mạng và kháng chiến.

- Những gắn bó ân tình suốt 15 năm ấy đã làm tăng thêm nỗi nhớ nhung và cảm giác trống vắng cho núi
rừng khi chia biệt:

Mình về rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già.

Câu 6 vẫn mang hình thức của một câu hỏi nhưng không dùng để hỏi người đi mà chỉ để thể hiện nỗi lòng
người ở lại. Rừng núi là hoán dụ cho người dân Việt Bắc ở lại nơi rừng xanh núi đỏ heo hút, hoang sơ, ai
chính là mình, người ra đi. Nỗi nhớ nhung và một chút mặc cảm ngậm ngùi được bộc lộ gián tiếp qua
cách nói tránh và cấu trúc câu nghi vấn khiến ý thơ càng thêm xao xuyến. Tính chất phiếm chỉ khiến hình
ảnh người đi càng trở nên xa xôi hơn trong ánh mắt nhớ nhung của những người dân Việt Bắc mộc mạc,
chân thành. Câu 8 gồm hai vế đối xứng nhắc đến trám bùi và măng mai là những sản vật quen thuộc và
quí giá của núi rừng. Phép điệp trong cấu trúc để rụng... để già gợi lên hình ảnh cuộc sống như ngưng trệ,
núi rừng như hoang phế sau lưng người đi cùng cảm giác buồn bã, hẫng hụt, trống trải trong lòng người ở
lại. Dường như sau khi người ra đi, trám bùi trên cây không ai hái, rụng xuống đất không ai nhặt, măng
mai để già hoang phí giữa rừng sâu - người ra đi đã để lại một khoảng trống mênh mông trong lòng người
Việt Bắc giữa heo hút núi rừng.

- Sự gắn bó khiến họ thêm hiểu nhau, thêm thương cảm và trân trọng. Câu hỏi:
Mình đi có nhớ những nhà

Hẳt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Là một lời nhắc nhở cảm động với người ra đi: xin đừng bao giờ quên những con người nghèo khổ mà
son sắt kiên trung, một lòng đi theo cách mạng và kháng chiến. Phép tương phản trong hai tiểu đối của
câu 8 đã trở thành những nét khắc hoạ đặc trưng nhất cho cuộc sống và con người Việt Bắc. Hắt hiu lau
xám vừa là hình ảnh thực gợi tả không gian hoang vắng, tiêu sơ, buồn bã của núi rừng, vừa mang ý nghĩa
ẩn dụ cho cuộc sống nghèo khổ của người dân nơi đây, Nhà là hoán dụ cho con người, đậm đà lòng son là
hình ảnh ẩn dụ ca ngợi tấm lòng trung hậu, nghĩa tình của những người dân Việt Bắc nghèo khổ. Và có lẽ
chính màu lau xám hắt hiu của núi rừng càng làm đậm thêm những tấm lòng son sắt, thuỷ chung.

-Câu thơ Mình đi, mình có nhớ mình có nhiều cách hiểu căn cứ vào những nét nghĩa khác nhau của từ
mình ở cuối câu thơ. Có thể hiểu chữ mình ấy là ta- người ở lại, khi ấy, câụ hỏi sẽ xao xuyến một nỗi nhớ
nhung, day dứt một niềm trăn trở: mình về, mình có nhớ ta - mình đi, mình có còn nhớ đến ta không, đây
cũng là nỗi niềm da diết trong suốt bài thơ. Cách hiểu này cho thấỵ sự hoà nhập gắn kết thật đằm thắm
giữa ta và mình, tuy hai mà một, không thể chia xa, không thể tách rời. Lại cũng có thể hiểu mình là
người ra đi. Và khi ấy, câu hỏi sẽ là một lời nhắc nhở tha thiết, sâu xa và nghiêm nghị: mình đi, mình có
nhớ và có giữ được mãi là con người mình ngày xưa ấy, con người mà ta đã yêu mến, trân trọng, nhớ
thương; có mãi còn là con người bất khuất, nghĩa tình thuỷ chung nhân hậu đã sát cánh bên ta trong kháng
chiến, đã cùng ta chia ngọt sẻ bùi trong suốt mười lăm năm ấy? Câu hỏi vì thế cũng trở thành lời nhắc:
đừng đánh mất chính con người mình trong cuộc sống phồn hoa đô hội, đừng bao giờ quên mảnh trăng
giữa rừng khi đã trở về với ánh đèn thành phố, đừng bao giờ quên những năm tháng kháng chiến gian
khổ, hào hùng khi trở về với cuộc sống hoà bình!

-Sau câu hỏi Mình đi, mình có nhớ mình, câu 8 khẳng định lại một lần nữa tấm lòng gắn bó sắt son của
Việt Bắc với cách mạng và kháng chiến, lí do cùa tình yêu, nỗi nhớ và đạo lí thuỷ chung trong lòng người
đi:

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa

Câu thơ đã được nhà thơ gửi gắm những tầng nghĩa sâu sắc khi Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào
được tách ra trong hai vế với những tập họp ngôn từ mới mẻ. Vế thứ nhất là hai danh từ riêng: Tân Trào,
Hồng Thái, đó là những địa danh gắn liền với những sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc và kháng
chiến: đình Hồng Thái là nơi họp Quốc dân Đại hội 8/1945, thành lập Uỷ ban dân tộc giải phóng và phát
lệnh Tổng khởi nghĩa; bên gốc đa Tân Trào, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã làm lễ xuất
phát chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa, vế sau là hai danh từ chung trong đó mái đình cây đa chính là những
hình ảnh bình dị, quen thuộc cùa làng quê Việt Nam, là nơi tụ họp, hẹn hò, là không gian gần gũi thân yêu
với cả cộng đồng và đôi lứa. Hai tiểu đổi trong câu thơ đã thể hiện sự gắn bó sâu sắc của người dân với
cách mạng và kháng chiến: khi Việt Bắc trở thành quê hương cách mạng, khi người dân Việt Bắc một
lòng đi theo cách mạng thì những sự kiện lớn lao của cách mạng sẽ trở thành sự quan tâm sâu sắc, thiêng
liêng, thành những tâm tư sâu nặng trong lòng người; những địa danh gắn với các sự kiện quan trọng của
cách mạng và kháng chiến cũng trở nên gần gũi như cây đa, bến nước, con đò, tình cảm của người dân
Việt Bắc dành cho những người kháng chiến cũng trở nên thân yêu như tình làng nghĩa xóm hay tình yêu
lứa đôi...

Bốn câu cuối của đoạn thơ: Tiếp tục khẳng định nỗi nhớ, sự thuỷ chung son sắt của người ra đi khi từ
biệt quê hương cách mạng về xuôi

- Câu thơ đầu gồm hai tiểu đối trong đó nhà thơ sử dựng phép lặp đan xen giữa ta - mình cùng từ với như
một thứ keo gắn kết Ta với mình, mình với ta. Kết cấu ngôn ngữ đặc sắc ấy đã gợi tả sự quấn quít, giao
hoà giữa người đi, kẻ ở khăng khít không thể tách rời.

- Sau câu thơ thể hiện sự gắn bó thân thiết giữa mình và ta là một lời khẳng định sắt son của người ra đi:

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh.

Nghĩa tiếng Hán của cụm từ sau trước chính là thủy chung, sống có trước có sau là đạo lí thuỷ chung
truyền thống của người Việt Nam từ bao đời nay. Nhưng với những ý nghĩa của cụm từ sau trước, ý thơ
không chỉ khẳng định sự thuỷ chung mà còn lí giải sự thuỷ chung một cách sâu xa, thuyết phục. Sau trước
còn gợi một khoảng thời gian dài từ trước đến sau, từ quá khứ qua hiện tại đến tương lai, thức lâu mới
biết đêm dài, thời gian khiến con người thêm hiểu lòng nhau. Khi đã có những năm tháng gắn bó trong
quá khứ, khi cùng nhau chung vai gánh vác những khó khăn gian khổ, cùng nhau chia sẻ những tâm tình,
tình cảm giữa họ thêm mặn mà, đằm thắm; đinh ninh là chắc chắn, là không quên, không đổi, tình cảm đã
mặn mà trong quá khứ sẽ mãi bền chặt theo thời gian, không bao giờ nhạt phai, thay đổi.

Hai câu cuối như một lời thề chung thuỷ:


Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu

Nếu người ở lại băn khoăn, trăn trở trong một câu hỏi hàm chứa bao ý nghĩa sâu xa: mình đi,
mình có nhớ mình thì người đi cũng trả lời trong một sự hô ứng, đồng vọng, đồng cảm: mình đi
mình lại nhớ mình. Câu thơ thật đặc biệt: Mình đi, mình có nhớ mình. Tác giả Nguyễn Đức
Quyền cho rằng đó là câu thơ hay nhất trong bài thơ VB, câu thơ sáu chữ mà có tới 3 chữ mình
lặp lại. Bản thân chữ “mình” đuợc hiểu theo nhiều nét nghĩa khác nhau: vừa chỉ ngôi thứ nhất là
bản thân, vừa chỉ đối tượng giao tiếp thân thiết với mình, nhưng mình cũng có nghĩa tự hỏi lòng
mình liệu thời gian chia ly, không gian cách xa có chia lòng nhung nhớ. Câu thơ kín đáo thể hiện
sự gắn bó khăng khít giữa kẻ ở người đi: Mình với ta tuy hai mà một – Ta với mình tuy một mà
hai. Qua đó câu thơ còn hàm chứa lời nhắn nhủ sâu sắc. Rời chiến khu gian khổ, trở về với thủ
đô phồn hoa, cán bộ kháng chiến liệu có quên mất quá khứ, đánh mất chính mình không? Đó là
băn khoăn lớn của người ở lại. Cũng trong bài thơ Việt Bắc ở phần thứ hai, nỗi băn khoẳn thể
hiện rõ ràng hơn:

– Mình về thành thị xa xôi


Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông, còn nhớ bản làng
Sáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?

-Câu 8 xuất hiện một hình ảnh so sánh phảng phất phong vị ca dao đình bao nhiêu ngói thương mình bấy
nhiêu. Hình ảnh Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu trước hết đã nhấn mạnh sắc thái và mức độ
của nỗi nhớ. Nỗi nhớ vốn là một khái niệm trừu tượng, nay được cụ thể hoá, được định lượng, hiện hữu
như nước trong nguồn, đầy ắp, lặng thầm và vô tận; sau nữa, hình ảnh nước trong nguồn còn gợi những
suy ngẫm sâu xa về nguồn cội, về đạo lí thuỷ chung tình nghĩa uống nước nhớ nguồn. Hình ảnh so sánh
trong câu thơ còn như thầm đáp lại sự trăn trở của Việt Bắc: mình về mình có nhớ không - nhìn cây nhớ
núi, nhìn sông nhớ nguồn?

LUẬN ĐIỂM 3: Phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu

Đoạn thơ tuy ngắn nhưng thể hiện đầy đủ phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu.

- Tiếng thơ trữ tình – chính trị (sự kiện lịch sử năm 1954 trở thành cảm hứng )

- Tính dân tộc đậm đà

Bài thơ sử dụng thể thơ lục bát. Một thể thơ truyền thống của dân tộc phù hợp với những vấn đề đạo lý và
nghĩa tình. Nhịp thơ chậm, thể hiện tiếng lòng của người ra đi lưu luyến, lâng khuâng, bin rịn. Ngôn ngữ
thơ bình dị, dễ hiểu, giàu hình ảnh, giàu chất nhạc. Bên cạnh đó Tố Hữu sử dụng rất nhiều biện pháp nghệ
thuật: lặp từ “nhớ, nhớ sao) nhân hóa, so sánh, sử dụng thành ngữ, … những thành công nghệ thuật nói
trên đã giúp cho Tố Hữu làm sống lại một mảng hiện thực đã qua của cuộc kháng chiến chống Pháp, nhà
thơ đã khái quát được cuộc sống sinh hoạt ở chiến khu Việt Bắc gian nan, nghèo khó mà nghĩa tình, lạc
quan. Điều quan trọng nhất đó là Tố Hữu gửi vào những lời thơ ấy ân tình sâu nặng của người cán bộ với
Việt Bắc - mảnh đất là cái nôi của cách mạng.

KB: Khi Tố Hữu được phỏng vấn về thơ ca ông đã trả lời với phóng viên tạp chí Văn nghệ
rằng “Thơ là chuyện đồng điệu…. Thơ là tiếng nói đồng ý và đồng tình, tiếng nói đồng chí”. Đó
là một quan niệm trong suốt hành trình sáng tác của Tố Hữu. Thơ ông không chỉ xúc động người
đọc bởi cái tình tha thiết, mà còn lôi cuốn người đọc bởi nghệ thuật biểu đạt tài hoa, đậm đà tính
dân tộc. Chỉ với 8 câu thơ ở đoạn trên, Tố Hữu đã đưa ta vào thế giới hoài niệm, kỉ niệm của
Cách mạng. “Giọng thơ tâm tình tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc” của Tố
Hữu đã góp phần làm nên thành công của Việt Bắc. Vì vậy, Việt Bắc là một “bài ca không quên”
của con người, là những gì không thể sói mòn của cội nguồn dân tộc Việt Nam.

You might also like