You are on page 1of 20

VIỆT BẮC

-Tố Hữu-
Đoạn số 1:
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu:
- Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

Tiếng ai tha thiết bên cồn


Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.109)
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
- Giới thiệu yêu cầu của đề bài:
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
2. Phân tích đoạn thơ
2.1. Khái quát
2.2. Bốn câu thơ: Lời ướm hỏi ngọt ngào của Việt Bắc hỏi người Cách mạng về xuôi.

“Mình về mình có nhớ ta


Mười năm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
- Bốn câu thơ đầu của bài thơ là lời ướm hỏi ngọt ngào của người ở lại. Trong cuộc chia tay nhà thơ
đã để cho người ở lại là người lên tiếng trước bởi trong cuộc chia tay những người ở lại thường là
người nhạy cảm hơn. Đoạn thơ có hai câu hỏi tu từ "Mình về mình có nhớ ta" và Mình về mình có nhớ
không", hỏi không phải để được trả lời mà hỏi để nhắn nhủ, nhắc nhở người đi, ra về hãy nhớ. Con
người đang đứng trước cuộc biệt li nên hình thức câu thơ cũng nhuốm màu li biệt. Tác giả đã đặt hai từ
mình - ta ở vị trí đầu và cuối câu tạo cảm giác xa xôi, cách biệt. Còn ở giữa là cụm từ "mình có nhớ"
thể hiện tâm trạng băn khoăn, nhớ thương của người ở lại.
- Cụm từ "mình có nhớ" được lặp lại 2 lần, riêng từ nhớ được lặp lại 4 lần trong thể hiện nỗi nhớ da
diết, khôn nguôi của người ở lại. Họ lo sợ mai này bạn mình về nơi phồn hoa đô hội đầy cám dỗ sẽ
không giữ được tình cảm son sắt, thủy chung. "Việt Bắc" là bài ca tình nghĩa. Câu hỏi vang lên dồn
dập như nhắc nhở, như khắc sâu những tình cảm tốt đẹp của quân dân, của cách mạng và kháng
chiến, của mình với ta.
- Lời người ở lại khơi gợi lại thời gian gắn bó trong suốt 15 năm. Mười lăm năm ấy là mười lăm
năm gắn bó giữa những người cách mạng miền xuôi với nhân dân Việt Bắc trên chiến khu cách mạng.
1
. Bốn từ "thiết tha mặn nồng" cho thấy tình cảm giữa Việt Bắc và cán bộ thật thủy chung sâu
nặng, keo sơn bền chặt. Hỏi không chỉ để nhắn nhủ người đi mà đây cũng là cách để người ở
lại bày tỏ tình cảm của mình. Không biết ra về mình có nhớ không, còn ta không thể nào quên
những ngày tháng ấy.
- Lời người ở lại còn gợi nhớ cả không gian Việt Bắc qua các hình ảnh chỉ thiên nhiên như
cây, núi, sông, nguồn. Ra về rồi, thấy cây hãy nhớ đến núi rừng chiến khu, nhìn sông hãy nhớ
đến suối nguồn Việt Bắc. Cách gợi nhắc như lời dặn dò kín đáo mà chân thành. Việt Bắc là cội
nguồn cách mạng, ". Câu thơ này là sự vận dụng linh hoạt và tài tình của nhà thơ Tố Hữu với
câu tục ngữ "Uống nước nhớ nguồn". Đó là đạo lý làm người, là truyền thống văn hóa của người
Việt Nam. Qua đó nhà thơ cũng nhắc nhớ các thế hệ con cháu phải biết hướng về gốc gác, về
nơi bén rễ, về cái nôi cho ta hình hài.
=> Bốn câu thơ như một bài ca dao đầy chất trữ tình thể hiện những băn khoăn, trăn trở của người ở
lại, của Việt Bắc thuỷ chung với cách mạng. Tố Hữu đã chọn được cách nói để khơi nguồn cho cảm
xúc, mạch thơ trong những câu mở đầu này cứ thế tuôn chảy suốt bài thơ.
2.3. Bốn câu thơ: Tiếng lòng của người ra đi, người cách mạng
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
*Hai câu đầu:
- Trước những lời tha thiết của người ở lại, người ra đi không trực tiếp trả lời những câu hỏi
của người ở lại mà lắng nghe, rồi như tự nói với chính mình như một lời độc thoại nội tâm trữ
tình đầy sâu lắng. Đại từ "ai" tuy phiếm chỉ nhưng rất cụ thể, gần gũi, thân thương và chỉ người
ở lại. Cồn là hình ảnh gợi không gian núi rừng Việt Bắc. Trong câu thơ hình ảnh người Việt
Bắc hiện lên giữa không gian thiên nhiên quen thuộc cất lên những lời tha thiết, nhớ thương.
Người ra cũng cảm được nỗi lòng của người ở lại nên trong lòng họ cũng trào dâng bao tình
cảm nhớ thương, quyến luyến... Bởi vậy, đoạn thơ trở thành lời đồng vọng của người đi và kẻ ở.
- Tố Hữu đã thể hiện thật tinh tế tâm trạng người về xuôi bằng hai từ láy: Bâng khuâng và
bồn chồn.
+“Bâng khuâng” là nhớ thương, lưu luyến, bịn rịn.
+ “Bồn chồn” diễn tả tâm trạng hồi hộp, day dứt, nôn nao.
Trong lòng cồn lên bao nỗi nhớ thương, không nỡ chia xa nên bước chân người ra đi trở nên
ngập ngừng, dùng dằng vừa muốn đi lại vừa muốn ở. Ai đó cũng đã diễn tả thật hay tâm trạng
ấy của người ra đi "Bước đi một bước lâu lâu lại dừng". Nghệ thuật tiểu đối kết hợp với đảo ngữ
vừa tạo chất nhạc, chất thơ ngọt ngào, vừa nhấn mạnh vào tâm tư với nhiều cảm xúc rối bời
trong lòng người ra đi.
*Hai câu sau:
- Lời người gợi lên cảnh một cuộc chia tay đầy lưu luyến bịn rịn. Trong đó "áo chàm" là biện pháp
nghệ thuật hoán dụ dùng hình ảnh chiếc áo màu chàm để chỉ người Việt Bắc, là cách dùng bộ phận để
chỉ toàn thể vì người Việt Bắc thường nhuộm và mặc áo màu chàm. Màu chàm là màu sắc của núi
rừng, bền bỉ, không hề phai nhạt như tình cảm mãi không bao giờ nhạt phai. Màu áo chàm thể

2
hiện phẩm chất của người Việt Bắc giản dị, mộc mạc, chịu thương chịu khó và ân tình, thủy
chung:
Cuộc chia tay có những người dân Việt Bắc đầy ân nghĩa đưa tiễn, giãi bày tình cảm nhớ
thương. Người ra đi cũng chưa đi đã nhớ nhớ tiếng ai tha thiết, nhớ áo chàm, cồn nhỏ, nhớ cảnh
nhớ người và tình cảm của người ra đi cũng thật son sắc, thủy chung.
- Câu thơ “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” là câu thơ gợi nhiều cảm xúc, là hình ảnh có
giá trị biểu cảm cao cho thấy người đi kẻ ở đều chung một nỗi niềm lưu luyến bịn rịn khiến
cảnh chia tay hiện lên thật cảm động.
3. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật
Bằng thể thơ lục bát êm dịu, kết cấu đối đáp của ca dao, dân ca, ngôn ngữ, hình ảnh giản
dị, quen thuộc, đậm chất ca dao, dân ca, giọng điệu thơ ngọt ngào, truyền cảm, đặc biệt thể hiện
qua việc sử dụng cặp từ mình - ta thân mật cùng với các biện pháp tu từ như điệp từ, hoán dụ,
tiểu đối... đoạn thơ đã trở thành một khúc trữ tình, sâu lắng thể hiện tình cảm son sắc, thủy
chung giữa người đi và kẻ ở, giữa những người cán bộ cách mạng miền xuôi và nhân dân Việt
Bắc. Tình cảm trong sáng ấy là tình cảm cách mạng. tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách
mạng của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp, là cội nguồn sức mạnh để Việt Bắc trở
thành quê hương cách mạng, cội nguồn chiến thắng.

Đoạn số 2:
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.110)
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Giới thiệu yêu cầu của đề bài:
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
2. Phân tích đoạn thơ: Lời người ở lại gợi nhắc về những ngày tiền khởi nghĩa, cách mạng tháng
Tám Trong đoạn thơ 12 câu có 4 câu thơ đầu tái hiện những ngày tháng gian khổ trên chiến khu Việt

3
Bắc, 4 câu thơ tiếp theo là những ngày tháng nghĩa tình và 4 câu thơ cuối khẳng định những ngày
tháng trên chiến khu Việt Bắc đã làm nên những trang sử vẻ vang của đất nước.
2.2. Bốn câu thơ: Những ngày tháng gian khổ
- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
- Bốn câu thơ trước hết gợi lên bức tranh thiên nhiên Việt Bắc dữ dội, khắc nghiệt với mưa nguồn,
suối lũ, mây mù. Núi rừng Việt Bắc có những cơn mưa rừng dầm dề tê buốt, những trận bão rừng đá
nghiêng, cây đổ, những con suối róc rách, hiền lành bỗng dưng thành dòng nước lũ cuốn phăng tất cả,
rừng núi Việt Bắc thương bị mây mù bao phủ bởi nó rất cao so với mực nước biển. Cảnh sương mù ở
vùng rừng núi miền Bắc nước ta cũng được nhà thơ Quang Dũng tái hiện trong "Tây Tiến" để nói về
những khó khăn, gian khổ của người lính:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Cách nói tăng tiến “những mây cùng mù” càng nhấn mạnh khung cảnh hoang sơ, đầy thách với
người cán bộ cách mạng. Những ngày đầu lập căn cứ địa cách mạng ấy, người cán bộ từ miền xuôi
chưa quen với cái khắc nghiệt của thiên nhiên rừng núi nên bao nhiêu khó khăn gian khổ. Nhưng cũng
từ buổi ấy, nhân dân và cán bộ đã cùng nhau đồng cam, cộng khổ, gắn bó chia sẻ cùng nhau.
- Không chỉ đối diện với sự khắc nghiệt của thiên nhiên, những người cán bộ cách mạng và nhân
dân Việt Bắc còn phải sinh hoạt trong điều kiện vật chất vô cùng thiếu thốn, kham khổ. Thiếu thốn nên
chỉ có miếng cơm chấm muối, bát cơm cũng phải chia đôi, không có cơm thì ăn trám, ăn măng, cùng
đắp chăn làm từ vỏ cây sui. Mặc dù khó khăn gian khổ là thế nhưng họ vẫn cùng nhau vượt qua bởi
cùng khắc sâu mối thù với giặc. “Mối thù nặng vai” là hình ảnh hoán dụ có tác dụng vật chất hóa, cụ
thể hóa mối thù sâu nặng của nhân dân đối với bè lũ cướp nước và bán nước. Nghệ thuật đối lập giữa
miếng cơm nhỏ bé với mối thù to lớn đè nặng trên vai đã nâng cao tầm vóc con người Việt Nam trong
cuộc kháng chiến chống Pháp. Với ý chí quyết tâm, người Việt Nam đã vượt qua mọi khó khắn gian
khổ để chiến đấu và chiến thắng quân thù.
2.3. Bốn câu thơ: Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Những ngày tháng nghĩa tình
*Hai câu thơ đầu:
- Chính những ngày tháng khó khăn, gian khổ ấy đã làm nên nghĩa nên tình, khiến cho những
người cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc xích lại gần nhau, yêu thương gắn bó với nhau hơn. Bởi
vậy mà những ngày tháng gian khổ cũng là những ngày tháng nghĩa tình. Nghĩa tình sâu nặng nên khi
phải chia tay mới lưu luyến, bịn rịn, bâng khuâng, không cầm nổi lòng mình mà cất lên lời giãi bày, thổ
lộ tình cảm.
- Trong cuộc chia tay người ở lại đã lên tiếng giãi bày, thổ lộ tình cảm nhớ thương, tha thiết qua hai
hình thức gián tiếp và trực tiếp:

4
+ Ban đầu, người ở lại giãi bày tình cảm một cách gián tiếp, tế nhị bằng cách mượn các hình ảnh
thiên nhiên như rừng núi, trám bùi, măng mai. Đây là cách nói lấp lửng, giãi bày tình cảm đầy ý nhị,
khéo léo mà nhà thơ Tố Hữu học được từ ca dao:
Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào
Nghệ thuật nhân hóa kết hợp với nghệ thuật hoán dụ “rừng núi nhớ ai”, trong đó hoán dụ "rừng
núi" chỉ Việt Bắc và người Việt Bắc, đại từ phiếm chỉ "ai" chỉ người cán bộ về xuôi đã diễn tả trong
cuộc chia tay này, dường như cả thiên nhiên và con người Việt Bắc đều thương nhớ người cán bộ về
xuôi.
Người ở lại còn khéo léo bày tỏ tình cảm chân thành, mộc mạc của mình qua hình ảnh trám bùi,
măng mai vốn sản vật của núi rừng Việt Bắc. Đây là các món ăn thường nhật của cán bộ kháng chiến,
cũng được Hồ Chí Minh nhắc đến trong bài thơ "Tức cảnh Pác Bó":
Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Khi những người cán bộ cách mạng ở Việt Bắc, người Việt Bắc lấy măng, hái trám để nuôi cán bộ.
Vì thế bài thơ mới có những câu thơ tuyệt bút:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Tình cảm quân dân thắm thiết nên khiến hình ảnh cô gái hái măng một mình trong rừng mà không
hề gợi cảm giác lẻ loi, đơn chiếc. Nhưng bây giờ khi những người cán bộ cách mạng về xuôi trám và
măng không có người thu hái nên để trám rụng, măng già.
=> Nhìn chung, việc mượn các hình ảnh thiên nhiên để giãi bày tình cảm đã thể hiện tình cảm nhớ
thương, cảm giác lẻ loi, trống vắng đến thẫn thờ, ngẩn ngơ của người ở lại. Mình về ta nhớ và nỗi
lòng của con người lan tỏa cả ra thiên nhiên,cảnh vật khiến cả núi rừng dường như cũng ngẩn ngơ,
trống trải, buồn bã đến lạ thường.
*Hai câu thơ sau:
- Gợi ra cảnh vật Việt Bắc với những mái nhà tranh, vách đất, những bờ lau xám hiu hắt. Đây vẫn
là những hình ảnh được sử dụng để bộc lộ gián tiếp tình cảm của người ở lại trong cuộc chia tay. Từ
láy"hắt hiu" kết hợp với màu lau xám càng làm nổi bật lên khung cảnh hoang vắng, đơn sơ, buồn bã
của cảnh vật.
- Nhưng dường như diễn tả tình cảm một cách gián tiếp chưa đủ, chưa thỏa, chưa diễn tả hết được
tình cảm sâu nặng nên người Việt Bắc sau đó không cần mượn hình ảnh gián tiếp mà khẳng định trực
tiếp, rõ ràng tình cảm của mình là "đậm đà lòng son". "Lòng son" là từ ngữ rất đắt để thể hiện tình cảm
sâu sắc, thủy chung, kết hợp thêm với từ láy "đậm đà" cùng nghệ thuật đối lập, đối lập giữa "hắt hiu lau
xám" với "đậm đà lòng son"càng góp phần khẳng định tấm lòng sắc son, cao quý của nhân dân Việt
Bắc.
2.4. Bốn câu thơ: Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
5
Việt Bắc là cội nguồn cách mạng, làm nên những trang sử vẻ vang của dân tộc
- Người ở lại một lần nữa nhắn nhủ người đi nhớ về Việt Bắc. "Núi non" ở đây là hoán dụ chỉ thiên
nhiên, con người Việt Bắc. Núi non này đã từng chở che và cùng cán bộ kháng chiến, nhân dân Việt
Bắc đánh giặc:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”
Lời người ở lại gợi nhắc lại những ngày còn là Việt Minh kháng Nhật, là những ngày đầu đầu gian
khổ của cuộc kháng chiến, người ở lại mong người về xuôi nhớ ghi những thời khắc lịch sử ấy, bởi
“mình – ta” đã gắn bó với nhau từ khi đó để làm nên chiến thắng hôm nay.
- Ở đoạn thơ 12 câu này cặp từ mình - ta được lặp đi lặp lại 8 lần. Trong đó, mười câu thơ đầu của
đoạn thơ "mình" chỉ người ra đi nhưng đến câu thơ "Mình đi, mình có nhớ mình" thì từ mình chỉ cả
người đi và kẻ ở. Mình với ta chuyển hóa, tuy hai mà một thể hiện tình cảm gắn bó, mặn nồng.
- Người ở lại còn nhắc đến các tên địa danh Tân Trào, Hồng Thái nay đã trở thành hai di tích lịch sử
nổi tiếng, gắn với hai sự kiện quan trọng của cách mạng. Cây đa Tân Trào là nơi làm lễ xuất quân của
Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội Việt Nam. Đình Hồng Thái là nơi
họp quốc dân đại hội phát động khởi nghĩa cách mạng tháng Tám. Những sự kiện lớn lao ấy đã làm
nên thắng lợi của cách mạng tháng Tám, mở ra là những trang sử vẻ vang của dân tộc. Nhắc đến các
địa danh này, người ở lại muốn nhắn nhủ người ra đi nhớ về Việt Bắc là nhớ về quê hương cách mạng.
3. Đánh giá chung về nội dung và nghệ thuật
- Bằng thể thơ lục bát êm dịu, kết cấu đối đáp của ca dao, dân ca, ngôn ngữ, hình ảnh
giản dị, quen thuộc, đậm chất ca dao, dân ca, giọng điệu thơ ngọt ngào, truyền cảm, đặc biệt thể
hiện qua việc sử dụng cặp từ mình - ta thân mật cùng với các biện pháp tu từ như điệp từ, ẩn dụ,
tiểu đối... Nét đặc sắc trong đoạn thơ này là ở chỗ tiết tấu rất giàu nhạc điệu. Tố Hữu đã sử dụng nghệ
thuật đối một cách triệt để trong các câu thơ tám chữ làm cho nhạc điệu của đoạn thơ trở nên réo rắt và
tạo nên những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc với người đọc. Đoạn thơ vì thế đã trở thành một khúc trữ
tình, sâu lắng thể hiện tình cảm son sắc, thủy chung giữa người đi và kẻ ở, giữa những người
cán bộ cách mạng miền xuôi và nhân dân Việt Bắc. Tình cảm trong sáng ấy là tình cảm cách
mạng, tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống
Pháp, là cội nguồn sức mạnh để Việt Bắc trở thành quê hương cách mạng, cội nguồn chiến
thắng.

Đoạn số 3:
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu:
- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...

Nhớ gì như nhớ người yêu


Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
6
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...

Thương nhau, chia củ sắn lùi


Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...
(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.110,111)
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Giới thiệu yêu cầu của đề bài:
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
2. Phân tích đoạn thơ: Người ra đi gợi nhắc tình cảm gắn bó
2.2. Bốn câu thơ đầu: - Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Người ra đi khẳng định tình cảm mặn nồng, trước sau như một
- Trước nỗi lòng của người ở lại, người ra đi cũng khẳng định tình cảm son sắc thủy chung.
“Ta – mình”, “mình – ta” được lặp đi lặp lại, quấn quýt, quyện hoà làm một. Câu thơ đầu của
đoạn thơ là sự vận dụng sáng tạo câu ca dao về tình cảm lứa đôi:
Ta với mình tuy hai mà một
Mình với ta tuy một mà hai
"Đinh ninh" là sự khẳng định chắc chắn, mãi mãi gắn bó, thuỷ chung. Như vậy, người ra đi ở
đây đã khẳng định tình cảm của mình với Việt Bắc và người Việt Bắc trước sau như một, lúc
nào cũng mặn mà đinh nình, dù có thế nào cũng không thay lòng đổi dạ.
- Câu thơ "Mình đi, mình lại nhớ mình” là sự hô ứng, để trả lời cho câu hỏi đặt ra của đồng
bào Việt Bắc “Mình đi mình có nhớ mình". Người cán bộ kháng chiến về nơi đô thành nhưng
vẫn nhớ đến những ngày sống ở chiến khu Việt Bắc. Đây cũng chính là lời khẳng định phẩm
chất đạo đức của người cán bộ kháng chiến, luôn nhớ về cội nguồn cách mạng.
- Biện pháp nghệ thuật so sánh “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” đã khẳng định
7
một lần nữa sự chung thuỷ son sắt, tình cảm bền chặt của người cán bộ kháng chiến với Việt
Bắc. Nhà thơ Tố Hữu có lẽ đã sáng tạo câu thơ dựa trên hình ảnh ca dao:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Trong ca dao, tình mẹ vô bờ bến được so sánh với nước trong nguồn, tuôn chảy bất tận
không bao giờ cạn. “Bao nhiêu” thành cặp với “bấy nhiêu” là cái vô tận đi liền với một cái vô
tận khác. Câu thơ chính là tiếng lòng được thốt lên từ một trái tim tràn đầy xúc động của kẻ ở
người về trong giây phút li biệt, thể hiện tình cảm nhớ thương gắn bó của những người cách
mạng về xuôi với cảnh và người Việt Bắc cũng như nước trong nguồn không bao giờ vơi cạn.
2.3. Câu thơ "Nhớ gì như nhớ người yêu"
Nhớ Việt Bắc và người Việt Bắc như nỗi nhớ của tình yêu đôi lứa:
- Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, nhà thơ đã diễn tả nỗi nhớ về một mảnh đất như nỗi
nhớ người yêu, một mối quan hệ chính trị lại giống như một tình yêu đôi lứa. Tình yêu luôn đi
liền với nỗi nhớ và nỗi nhớ trong tình yêu thì luôn là nồng nàn, da diết, cháy bỏng nhất. Với
hình ảnh so sánh này, Tố Hữu đã thể hiện được tình cảm rất sâu đậm của người đi bởi có nỗi
nhớ nào thổn thức, thường trực và mãnh liệt hơn nỗi nhớ trong tình yêu.
- Điệp từ "nhớ" được lặp lại hai lần trong câu thơ đã nhấn mạnh nỗi nhớ cồn cào, da diết
khôn nguôi. Mười lăm năm trên chiến khu Việt Bắc đã để lại bao tình cảm luyến thương nên
trong giờ phút chia tay tất cả kỉ niệm trong suốt 15 năm gắn bó bỗng chốc ùa về với những ấn
tượng, tình cảm sâu đậm nhất. Và người ra đi cũng nhu cầu được bày tỏ nỗi lòng.
2.4. Đoạn thơ: Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
Nhớ thiên nhiên việt Bắc yên ả, thanh bình, thơ mộng
- Trong nỗi nhớ của người ra đi thiên nhiên Việt Bắc rất đẹp và thơ mộng. Đó là Việt Bắc
vào những đêm trăng. “Trăng lên đầu núi" là vầng trăng mới lên, mới lấp ló nơi đầu núi thật đẹp
và lãng mạn
"Nắng chiều lưng nương” cũng là khoảnh khắc đẹp của thiên nhiên Việt Bắc, ánh nắng
dịu nhẹ trải vàng cả núi rừng và nương rẫy trong buổi chiều tà. Các hình ảnh thiên nhiên thơ
mộng ấy còn gợi hình ảnh con người Việt Bắc trong những khoảnh khắc đẹp, gợi những đêm
trăng hò hẹn, những buổi chiều lao động trên nương rẫy.
- Nỗi nhớ không chỉ trải dài theo thời gian “trăng lên – nắng chiều – sớm – khuya” mà
còn trải rộng khắp không gian: Bản khói cùng sương – bếp lửa – rừng nứa – bờ tre – ngòi Thia
– sông Đáy – suối Lê... Nghệ thuật liệt kê đã tái hiện nỗi nhớ vơi đầy của người cán bộ kháng
chiến đồng thời khắc họa được vẻ đẹp của quê hương Việt Bắc. Những đồi tre bát ngát, những
dòng suối mát trong, con sông hiền hòa, những bếp lửa ấp iu nồng đượm, tất cả cứ in sâu trong
nỗi nhớ người về. Nhắc đến dòng sông, đồi núi, rừng nứa, bờ tre là rưng rưng bao kỉ niệm, đong
đầy bao yêu thương. Những cái tên: Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê có lẽ không đơn thuần chỉ là
những địa danh mà còn ẩn dấu bao kỉ niệm, cảm xúc. Có thể nói mỗi thời gian, không gian này
với người về xuôi đều lung linh kỉ niệm, cham chứa yêu thương.
8
- Câu thơ “Sớm khuya bếp lửa người thương đi về” là một điểm nhấn của nỗi nhớ với sự
xuất hiện của hình ảnh con người Việt Bắc. Hai chữ “người thương” thật hay, đó là những con
người gắn bó với nhau bằng tình sâu nghĩa đậm. “Người thương” ấy là những ai? Đó có thể là
người em liên lạc “Sớm bản Na chiều em qua bản Bắc, mười năm tròn không mất một phong
thư”, có thể là người anh du kích với “Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách”, là người mế “Lửa
hồng soi tóc bạc/ năm con đau mế thức một mùa dài” như trong bài thơ “Tiếng hát con tàu” Chế
Lan Viên cũng đã từng nói đến. Họ là những người đã cưu mang, đùm bọc, che chở cán bộ
kháng chiến, là những người mà cán bộ kháng chiến coi như máu thịt, như gia đình. Hai chữ
“người thương” vì vậy mà chất chứa biết bao ân tình của người về xuôi.
- Các điệp từ: nhớ gì, nhớ từng, nhớ những cùng với nghệ thuật so sánh (như nhớ người
yêu), các tên địa danh ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê và tiểu đối đều góp phần thể hiện thành
công những cung bậc cảm xúc phong phú của nỗi nhớ quê hương cách mạng, tạo nên chất nhạc
chất họa mê li, say đắm cho khổ thơ.
2.5. Đoạn thơ: Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lung
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ người Việt Bắc nghèo về vật chất nhưng sâu nặng nghĩa tình
- Hai câu thơ “Ta đi ta nhớ những ngày/ Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi” đã khái quát
và khẳng định được tình cảm của người ra đi, ta về là ta luôn nhớ. Cụm từ “đắng cay ngọt bùi”
là ẩn dụ, trong đó “đắng cay” là ẩn dụ cho những gian khổ, vất vả; “ngọt bùi” tượng trưng cho
niềm vui, hạnh phúc. Trong nỗi nhớ của người ra đi có những kỉ niệm về những ngày tháng khó
khăn, gian khổ những cũng có nhiều kỉ niệm ngọt ngào, có niềm vui chiến thắng, có hạnh phúc
tình yêu.
- Nếu hai câu thơ trước có ý nghĩa khái quát, thì hai câu thơ “Thương nhau chia củ sắn
lùi/ bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng” đã cụ thể hóa những đắng cay, ngọt bùi trong cuộc sống
kháng chiến. Bao nhiêu gian khổ đã cùng nhau nếm trải như thiên nhiên khắc nghiệt, thiếu thốn
kham khổ về vật chất, giặc đến giặc lùng... Khó khăn gian khổ lại làm người cán bộ kháng
chiến và người dân Việt Bắc yêu thương, đùm bọc nhau hơn. Nghệ thuật đảo ngữ với từ
"Thương nhau" được đặt lên đầu cặp lục bát cho thấy đó là căn nguyên, cội nguồn để dẫn đến
những hành động nhường cơm, sẻ áo. Sắn lùi là món ăn bình dị, dân dã. Chăn sui được làm từ
vỏ cây sui, thô ráp nhưng là thứ duy nhất họ có để xua đi cái giá lạnh của vùng núi cao. Họ phải
chia nhau từng củ sắn, bát cơm sẻ làm đôi, đắp cùng chăn sui để tỏa cho nhau hơi ấm. Các động
từ “chia”, “sẻ”, “đắp cùng” thể hiện những hành động đầy ân nghĩa của người Việt Bắc, làm
người ra đi mãi ghi nhớ, khắc sâu.
- Người Việt Bắc nhường cơm, sẻ áo, nuôi giấu người cán bộ cách mạng còn được thể
hiện qua hình ảnh người mẹ Việt Bắc “nắng cháy lưng, địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”. Đây
có lẽ là một trong những hình ảnh in đậm nhất trong lòng người ra đi. Người mẹ địu con lên
nương rẫy trong cái nắng đến cháy da, cháy thịt để vừa trông nom, che chở cho đứa con thơ
bên mình vừa kiên trì, cần mẫn “bẻ từng bắp ngô” để nuôi con, nuôi cán bộ. Sự tương phản, đối
9
lập giữa cái dữ dội của thiên nhiên với ý chí nghị lực của con người càng làm tôn lên vẻ đẹp cần
cù, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh của người mẹ dân tộc. Hình ảnh những người mẹ
tuyệt vời, kì diệu trong những cuộc kháng chiến còn được gặp lại trong bài thơ "Khúc hát ru
những em bé lớn trên lưng mẹ" của Nguyễn Khoa Điềm:
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng”
Chính người mẹ Việt Bắc, những người mẹ Việt Nam anh hùng với tình mẫu tử và tình
cảm cách mạng thiêng liêng đã góp phần to lớn làm nên chiến thắng của dân tộc, trở thành
những nhân vật lịch sử trong các cuộc kháng chiến vĩ đại.
2.6. Đoạn thơ:
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...
Nhớ cuộc sống kháng chiến gian khổ nhưng đầy niềm vui
- Nhớ về những ngày ấy là nhớ về không khí của những lớp học i tờ, những ngày tháng
vừa làm cách mạng vừa diệt giặc dốt. Trước khi cách mạng đến, dân ta có biết bao cuộc đời tủi
cực, tăm tối, bị nô lệ và thiếu ánh sáng văn hóa, đa số nhân dân mù chữ. Muốn làm cách mạng
phải dạy dân học chữ vì vậy mà những lớp bình dân học vụ ra đời. Cụm từ "đồng khuya đuốc
sáng" cho thấy đêm đêm giữa mênh mông núi rừng Việt Bắc vang lên tiếng học i tờ, làm nên
một sức sống mới trên quê hương cách mạng. Cụm từ "những giờ liên hoan” trong câu thơ cho
thấy lớp học tuy có những vất vả gian khổ nhưng vẫn đầy niềm vui, tưng bừng náo nức nhất là
trong những giờ liên hoan sôi nổi.
- Những ngày tháng ấy là những ngày tháng cơ quan đầy gian nan, thử thách. Nhưng với
tinh thần lạc quan cách mạng người cán bộ miền xuôi và nhân dân Việt Bắc vẫn vượt qua, họ
vẫn yêu đời nên tiếng hát vẫn bay cao, vang xa giữa núi đồi. Tinh thần lạc quan vốn là truyền
thống của người Việt Nam, càng khó khăn gian khổ phẩm chất ấy càng được bộc lộ rõ ràng.
Tinh thần ấy đã được những người những người cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc phát
huy cao độ trong cuộc kháng chiến chống Pháp, góp phần cổ vũ, nâng đỡ, chắp cánh niềm tin
để ta có đủ sức mạnh đi đến chiến thắng.
- Trong nỗi nhớ của người ra đi còn có những âm thanh quen thuộc, bình dị, thân thương
là âm thanh tiếng mõ tiếng chày vang lên giữa núi rừng Việt Bắc. Đó là tiếng mõ trâu buổi
chiều trở về bản làng, là tiếng chày nhịp nhàng của cối giã gạo bên suối. Mỗi một âm thanh lại
gợi mở bức họa bình dị mà thơ mộng. Tiếng giã gạo đêm khuya bình dị mà ghi dấu bao nghĩa
tình sâu nặng. Tiếng suối róc rách nơi rừng xa lại gợi cái trong ngần, thơ mộng của cảnh vật.
Những âm thanh của cuộc sống lao động thường ngày, khi sống cùng có lẽ chẳng mấy ai để ý,
nhớ nhung, nhưng khi xa rồi thì những âm thanh ấy lại khiến con người bồi hồi, xao xuyến,
thổn thức. Lời thơ dứt mà những âm thanh ấy cứ ngân vang mãi trong lòng người chia xa Việt
Bắc. Từ láy "đều đều" không chỉ thể hiện âm thanh đều đều của tiếng mõ tiếng chày vào các

10
buổi chiều và vào ban đêm hòa quện giữa âm thanh của rừng núi mà còn thể hiện nhịp sống đều
đều, êm ả thanh bình trên chiến khu.
3. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật
Bằng thể thơ lục bát êm dịu, kết cấu đối đáp của ca dao, dân ca, ngôn ngữ, hình ảnh giản
dị, quen thuộc, đậm chất ca dao, dân ca, giọng điệu thơ ngọt ngào, truyền cảm, đặc biệt thể hiện
qua việc sử dụng cặp từ mình - ta thân mật cùng với các biện pháp tu từ như điệp từ, ẩn dụ, tiểu
đối...Qua nỗi nhớ của người ra đi, đoạn thơ gợi ra trước mắt người đọc bức tranh thiên nhiên,
con người Việt Bắc vừa thơ mộng vừa giàu chất hiện thực, diễn tả sâu sắc tình cảm ân tình thủy
chung son sắc giữa những con người đã cùng đồng cam cộng khổ, là những kỉ niệm in đậm
trong lòng nhà thơ cũng như bao người trong cuộc kháng chiến. Việt Bắc tiêu biểu cho phong
cách thơ Tố Hữu có sự hòa quyện giữa chất trữ tình chính trị và nghệ thuật biểu hiện đậm đà
tính dân tộc.

Đoạn số 4:
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.111)
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Giới thiệu yêu cầu của đề bài:
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
2. Phân tích đoạn thơ: Bức tranh tứ bình về Việt Bắc
2.1. Giới thiệu về đoạn thơ

11
- Kết cấu đối đáp được thể hiện rất rõ trong suốt đoạn trích, bao gồm cả đoạn thơ này. Người ta đã
có lý khi nói thơ Tố Hữu là thứ thơ "đốt cháy trái tim để trở thành trí tuệ", với ý tưởng trữ tình hoá sự
kiện chính trị cũng như đời sống chính trị của đất nước, viết "Việt Bắc", Tố Hữu đã sáng tạo nên một
cấu tứ rất độc đáo-khúc hát đối đáp trong cuộc chia tay giữa người ở và người về xuôi để khơi gợi
những kỉ niệm gắn bó trong những ngày kháng chiến gian khổ mà vẻ vang. Ngoài ra, bên ngoài là đối
đáp, còn bên trong là lời độc thoại, là biểu hiện tâm tư tình cảm của chính nhà thơ, của những người
tham gia kháng chiến.
- Ở những đoạn thơ trước, người cán bộ cách mạng miền xuôi và người Việt Bắc đã lần lượt nhắc
lại những kỉ niệm gắn bó trong suốt 15 năm và khẳng định tình cảm son sắc thủy chung. Đến đoạn thơ
này người ra đi tiếp tục gợi nhắc những kỉ niệm gắn bó bằng những ấn tượng sâu đậm nhất, kết tinh
nhất về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Đây được coi là 10 câu thơ tuyệt bút đạt đến độ toàn bích
trong bài thơ. Trong đó, hai câu thơ đầu được đánh giá là chủ đề, khái quát được nội dung của cả đoạn
thơ là nỗi nhớ về thiên nhiên con người Việt Bắc trong bốn mùa theo thứ tự Đông - Xuân - Hạ - Thu.
2.2. Hai câu thơ đầu: Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Hai câu thơ chủ đề cho cả đoạn
- Cách xưng hô mình - ta gần gũi thân thương được Tố Hữu vay mượn trong ca dao, dân ca.
Sáng tạo của nhà thơ là ở chỗ nếu trong ca dao, dân ca mình - ta là đôi lứa yêu nhau với một nam một
nữ thì trong bài thơ mình - ta là người đi (người cán bộ miền xuôi) và kẻ ở (nhân dân Việt Bắc).
Sáng tạo hơn nữa là trong bài thơ mình - ta có sự chuyển hóa, hòa quyện thành sự đồng vọng diễn tả
chung tâm tư của cả người đi, kẻ ở. Cả mình và ta đều chung những kỉ niệm gắn bó, chung một nỗi
niềm tâm trạng, nay phải chia tay biết bao lưu luyến, bịn rịn. Bài thơ đã vượt ra khỏi những cảm xúc
riêng tư để chuyển tải một vấn đề rất lớn của đời sống cách mạng – đó là vấn đề ân nghĩa thủy
chung của cách mạng với nhân dân.
- Câu thơ thứ nhất là lời ướm hỏi của người ra đi với người ở lại. "Ta về" được lặp lại hai lần như
xác nhận hoàn cảnh chia li tiễn biệt, trong đó ta chỉ người ra đi. Nhưng người ra đi ở đây đặt câu hỏi
với người ở lại không phải để được trả lời bởi đến đoạn thơ này cả người đi kẻ ở đều đã cảm nhận
được tình cảm sâu sắc, mặn nồng mà họ dành cho nhau. Bởi vậy, câu thơ chỉ là cái cớ, là cây cầu để
người ra đi dẫn dắt, thổ lộ tình cảm của mình là ra về mà lòng đầy thương nhớ.
- Câu thớ thứ hai đã cụ thể hóa nỗi nhớ của người về xuôi. Ra về là ta nhớ, nhớ hoa và nhớ người.
Hoa ở đây là ẩn dụ chỉ vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc. Nhớ hoa là nhớ những gì đẹp nhất, tinh túy
nhất, tươi sáng nhất về thiên nhiên Việt Bắc. "Nhớ hoa cùng người" nghĩa là cùng với nỗi nhớ về thiên
nhiên là nỗi nhớ về con người Việt Bắc. Tố Hữu lựa chọn thật đắt hai hình ảnh đối xứng: hoa - người.
Hoa là vẻ đẹp tinh tuý nhất của thiên nhiên, tương xứng với hoa là con người như người ta thường nói
"Người ta là hoa của đất".
2.3. Bốn cặp lục bát còn lại là bức tranh tứ bình về thiên nhiên, con người Việt Bắc
- Trong quan niệm mĩ học thời cổ điển, tứ bình là cấu trúc nghệ thuật đạt đến sự hài hòa, cân xứng.
Chẳng hạn, khi miêu tả thiên nhiên người xưa thường sử dụng mô-típ Tùng - cúc - trúc - mai, Xuân -
hạ - thu - đông; khi miêu tả người thì theo mô-típ ngư - tiều - canh - mục; khi miêu tả các con vật thì là
Long - ly - quy - phụng... Trong đoạn thơ này Tố Hữu đã sử dụng cấu trúc nghệ thuật tứ bình để thể
hiện một cách cô đúc nhất vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc

12
- Sự đối xứng giữa hoa và người khiến bốn cặp lục bát còn lại được cấu tạo với phương thức miêu
tả khá thống nhất là cứ câu lục nói đến thiên nhiên, câu bát nói tới con người. Tả thiên nhiên thì gắn với
màu sắc đặc trưng của từng mùa, tả con người thì gắn với công việc lao động, thể hiện những phẩm
chất tốt đẹp của người Việt Bắc.
- Tố Hữu viết bài thơ “Việt Bắc” vào tháng 10 năm 1954, khi ấy miền Bắc nước ta đang vào mùa
đông. Cho nên, mùa đông là mùa trong hiện tại, cũng là mùa mở ra bộ tranh tứ bình. Cũng có ý kiến
cho rằng, sở dĩ mùa đông là mùa bắt đầu trong đoạn thơ này là vì Tố Hữu lấy cảm hứng từ thắng lợi
của chiến dịch Việt Bắc thu đông.
2.4. Mùa đông: Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
- Vẻ đẹp của thiên nhiên: Qua con mắt tinh tế của nhà thơ, thiên nhiên mùa đông gắn với hai màu
sắc xanh và đỏ thể hiện qua các hình ảnh rừng xanh và hoa chuối đỏ tươi.
+ Rừng xanh: Mùa đông rừng núi hiện lên trong màu xanh bạt ngàn của cây rừng, bao phủ cả một
không gian rộng lớn tạo thành cái nền cho bức tranh cảnh vật. Chính cái màu xanh của núi rừng Việt
Bắc đã:
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
+ Hoa chuối đỏ tươi (nhãn tự): Trên cái nền xanh ấy có điểm xuyết những bông hoa chuối đỏ tươi,
thắp sáng cả cánh rừng đại ngàn. Màu đỏ tươi của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi
rừng như ngọn lửa ấm thắp sáng lên bức tranh cảnh vật, xua tan bớt cái lạnh giá, u ám, hiu hắt của rừng
núi vào mùa đông. Hai chữ "đỏ tươi" không chỉ là từ ngữ chỉ sắc màu, mà chứa đựng cả một sự bừng
thức, một khám phá ngỡ ngàng, một rung động rất thi nhân.
- Hình ảnh con người: Hình ảnh con người trong bức tranh cảnh vật mùa đông là hình ảnh người
với công việc lên rừng hái củi, phát nương làm rẫy góp công góp sức cho cuộc chiến đấu. Bước chân
đã tới lưng đèo, hình ảnh con người đứng giữa đèo cao, giữa núi đồi đầy vững chãi, tự tin, mang tâm
thế của người làm chủ núi rừng, làm chủ cuộc sống
- Hình ảnh người lên rừng lấy củi, phát nương, làm rẫy còn được miêu tả với con dao giắt cạnh
sườn, ánh nắng mùa đông phản chiếu vào sáng lấp lánh. Ở đây, câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng
lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con
người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.
- Hình ảnh con người trong hai câu thơ không chỉ mang vẻ đẹp sử thi, tiêu biểu cho con người Việt
Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp mà còn gợi lên phẩm chất tốt đẹp của người Việt Bắc cũng là
phẩm chất tốt đẹp của người Việt Nam cần cù, chăm chỉ, chịu thương, chịu khó.
2.5. Mùa xuân: Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
- Vẻ đẹp của thiên nhiên:
+ Cụm từ chỉ thời gian "ngày xuân" : Nhà thơ không viết là mùa xuân mà là ngày xuân đầy tinh tế
thể hiện sự ngỡ ngàng trước vẻ đẹp lộng lẫy của đất trời, vạn vật khi vào xuân và tác giả đã chớp lấy
khoảnh khắc đẹp nhất, có thần nhất của mùa xuân Việt Bắc.
+ Màu sắc, hình ảnh: Nếu màu sắc của mùa đông là hai sắc màu xanh, đỏ thì bức tranh mùa xuân
gắn với sắc trắng. Cùng với sự chuyển mùa, mùa đông sang mùa xuân, là sự chuyển màu trong bức
tranh thơ. Màu xanh trầm tĩnh, lạnh giá của rừng già chuyển sang màu trắng tinh khôi của hoa mơ khi
13
mùa xuân đến. Cụm từ "trắng rừng" cho thấy hoa mơ nở trắng, bao phủ cả khu rừng. Núi rừng Việt
Bắc ngập tràn một sắc trắng tinh khôi, dịu nhẹ, ngọt ngào và mang sức sống bất diệt, xôn xao, rạo rực
của mùa xuân.
- Hình ảnh con người: Nhớ sắc trắng hoa mơ nơi xuân rừng Việt Bắc không thể không nhớ đến
con người Việt Bắc vào mùa xuân. Trong dân gian từ ngàn xưa cho đến nay luôn cho rằng mùa xuân là
mùa của các lễ hội thế nên mới có câu ca “tháng giêng là tháng ăn chơi”. Nhưng trong những năm
tháng mùa xuân khi đất nước có chiến tranh, quê hương còn bóng giặc thì dù mùa xuân nhân dân gác
lại việc vui chơi để miệt mài với, say mê với công việc. Vào mùa xuân con người xuất hiện trong công
việc đan nón. Hình ảnh người đan nón được tập trung miêu tả qua đôi bàn tay. Hai chữ "chuốt từng"
gợi liên tưởng về đôi bàn tay tỉ mỉ, dường như bao yêu thương đợi chờ mong ngóng đã gửi vào từng
sợi nhớ, sợi thương kết nên vành nón; gợi phẩm chất của người Việt Bắc kiên trì, khéo léo, cẩn trọng,
tài hoa.
2.6. Mùa hè:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
- Vẻ đẹp của thiên nhiên: Có thể nói bức tranh cảnh vật mùa hè là bức tranh gợi cảm nhất. Bởi vì
nếu như trong bức tranh của hai mùa đông và xuân chỉ gắn với những đường nét và màu sắc thì đến
bức tranh mùa hè, tác giả đã đánh thức thêm giác quan mới. Bức tranh cảnh vật mà hè không chỉ gắn
với màu vàng của rừng phách mà còn làm thính giác choàng tỉnh bởi âm thanh rộn rã, tưng bừng của
tiếng ve.
Mùa hè đến tiếng ve kêu râm ran trong vòm lá như tiếng đàn, tiếng nhạc. Cái hay của câu thơ là ở
chỗ nó thể hiện được một phản ứng có tính dây chuyền. Cây phách nở hoa vàng vào mùa hè và khi ve
kêu báo hiệu mùa hè đến cũng là lúc nhưng bông hoa phách ẩn hiện trong tán lá nở rộ.
Từ "đổ" là được dùng thật chính xác, tinh tế khi nó gợi sự thay đổi đột ngột và đồng loạt của
màu sắc. Và chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động khi tiếng
ve kêu báo hiệu mùa hè đến, rừng phách đột ngột, đồng loạt đổi sang màu vàng rực rỡ.
- Hình ảnh con người: Hai câu thơ mùa hè càng trở nên gợi cảm hơn với hình ảnh cô em gái hái
măng một mình. Cách gọi "Cô em gái" thể hiện rõ cách sử dụng ngôn từ rất tinh tế của Tố Hữu thể
hiện rõ sự gần gũi, thân thương, trìu mến. Cô gái Việt Bắc hái măng một mình trong rừng không gợi sự
cô đơn, lẻ loi bởi vì cô hái măng để nuôi cán bộ, nuôi bộ đội thể hiện tình cảm sâu nặng của người Việt
Bắc với người cán bộ cách mạng miền xuôi, thể hiện tình quân dân thắm thiết. Bởi vậy nên khi cán bộ
về xuôi, cả rừng núi dường như cũng ngẩn ngơ: “Trám bùi để rụng, măng mai để già”.
2.7. Mùa thu: Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Khép lại bộ tứ bình là cảnh mùa thu. Đây là cảnh đêm thật phù hợp với khúc hát giao duyên trong
thời điểm chia tay giã bạn. Nếu như bức tranh mùa hè được đánh giá là gợi cảm nhất thì bức tranh mùa
thu lại thơ mộng và được miêu tả bằng cách thức khác biệt nhất. Bức tranh cảnh vật không được miêu
tả vào ban ngày mà được miêu tả vào ban đêm, không được miêu tả qua màu sắc mà gắn với vẻ đẹp
của ánh trăng, con người không xuất hiện qua công việc lao động mà xuất hiện qua tiếng hát.
- Vẻ đẹp của thiên nhiên: Ấn tượng đẹp nhất về mùa thu Việt Bắc là những đêm trăng. Ánh trăng
sáng trong, mát dịu chiếu rọi khắp núi rừng gợi một không gian huyền ảo, thơ mộng, thanh bình.

14
- Hình ảnh con người: Đại từ phiếm chỉ "ai" thể hiện cách nói bóng gió, lấp lửng của ca dao, dân
ca và ở đây chỉ người Việt Bắc. Trong không gian mờ ảo, thơ mộng, thanh bình của đêm trăng vang
lên tiếng hát của người Việt Bắc. Tiếng hát về tình cảm ân nghĩa, thủy chung hòa quyện vào bức tranh
cảnh vật không chỉ làm cho bức tranh mùa thu thêm gợi cảm mà còn thể hiện phẩm chất ân tình, thủy
chung của người Việt Bắc nói riêng, của người Việt Nam nói chung.
3. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật
Thể thơ lục bát được tác giả phô diễn với những tình cảm, tư tưởng mới mẻ vẫn đậm đà bản sắc
dân tộc. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu phong phú cho bài thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận
dụng khéo léo. Ngôn ngữ trong sáng, nhuần nhị, và có nhiều nét cách tân. Đặc biệt, tiếng nói yêu
thương – nét nổi bật trong phong cách thơ Tố Hữu được thể hiện thấm thía... Qua đoạn thơ, Tố Hữu đã
tái hiện bức tranh cảnh vật, con người bằng những ấn tượng đẹp nhất, sâu đậm nhất. Trong đó người và
cảnh không thể tách rời, thiên nhiên không thể thiếu bóng dáng con người và con người được đặt trong
khung cảnh thiên nhiên. Chúng hỗ trợ, bổ sung cho nhau làm tôn lên vẻ đẹp của nhau. Bức tranh tứ
bình về thiên nhiên, con người Việt Bắc trong bốn mùa đã xóa bỏ cách nghĩ thông thường về thiên
nhiên Việt Bắc, cho rằng đó là vùng rừng núi xa xôi, heo hút, hoang vắng, rừng thiêng, nước độc và
cho thấy một Việt Bắc tươi đẹp, thơ mộng, đáng yêu biết bao. Đoạn thơ cũng như bài thơ vì thế đã bồi
đắp thêm cho ta tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước tươi đẹp.

Đoạn số 5:
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu:
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.

Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng.
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao - Lạng, nhớ sang Nhị Hà...
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.

15
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.112,113)
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Giới thiệu yêu cầu của đề bài:
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
2.2. Mười câu thơ: Nhớ khi giặc đến giặc lùng
... Nhớ từ Cao Lạng, nhớ sang Nhị Hà.
Khí thế chiến đấu và những trận đánh, chiến thắng bước đầu
- Những ngày kháng chiến trên chiến khu Việt Bắc là những ngày tháng đầy gian khổ. Những ngày
đầu ấy quân và dân ta không chỉ phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt là mưa nguồn, suối lũ,
mây mù, với điều kiện sinh hoạt vật chất vô cùng thiếu thốn chỉ có miếng cơm chấm muối, chia sẻ với
nhau từng củ sắn, bát cơm, cùng đắp chăn làm từ vỏ cây sui... mà còn có cả những ngày giặc đến giặc
lùng. "Giặc đến" là thời điểm nguy kịch, "giặc lùng" là cảnh nguy biến, hoảng loạn, tan tác, loạn lạc.
Nghệ thuật chiến tranh du kích là phải dựa vào là phải dựa vào địa hình hiểm trở, rừng núi để đánh
giặc. Bởi vậy mà núi đá, rừng cây cũng tham gia đánh giặc. Núi rừng Việt Bắc tươi đẹp, hiền hòa trong
bức tranh tứ bình nay bỗng trở thành những chiến sĩ thực thụ trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm
lược.
+ Núi đá tham gia đánh giặc: Những dãy núi trùng điệp dàn trải như thành lũy kiên cố bất
khả xâm phạm che chở bộ đội, dân quân, du kích,… Tư thế hiên ngang kiêu hùng của những
vách núi làm cho kẻ thù bất lực.
+ Rừng cây cũng tham gia đánh giặc: Rừng cây vừa bao vây quân thù, vừa chở che bộ
đội. Rừng núi vốn là những vật vô tri, song dưới con mắt của nhà thơ, trong cuộc kháng chiến
trường kì toàn dân, toàn diện cũng trở nên có ý chí, có tình người. Chúng cùng quân dân ta
tham gia chiến đấu và trở thành đồng đội với quân và dân ta trong cuộc chiến. Với nghệ thuật
nhân hóa, Tố Hữu đã biên núi rừng, thiên nhiên thành những người lính anh dũng kiên cường.
+ Bốn mặt sương mù: Khung cảnh chiến đấu vừa hào hùng vừa thơ mộng, đất trời bao la
chìm trong sương mù dày đặc. Màn sương ấy như che chở cho quân ta và cản bước quân thù.
+ "Cả chiến khu một lòng": Cả núi rừng Việt Bắc giờ đây đang cùng chung một nhịp đập
trái tim. Tất cả đang hướng về cuộc chiến đấu, hướng về sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ quê
hương yêu dấu. Cụm từ này đã nhấn mạnh tình đoàn kết quân dân, sự gắn bó giữa con người và
thiên nhiên. Tất cả bừng lên ngọn lửa căm hờn, ngọn lừa hừng hực tinh thần quyết chiến, quyết
thắng.
Qua những câu thơ này, Tố Hữu thế hiện lòng tự hào trước sức mạnh của dân tộc ta. Khi
Tổ quốc, quê hương cần, tất cả thiên nhiên và con người đều sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng hi
sinh. Ngay từ những ngày đầu vất vả, gian khổ nhất khí thế chiến đấu của quân và dân ta trên
chiến khu Việt Bắc đã cao ngất trời, không khác gì khí thế của quân đội nhà Trần trong cuộc
kháng chiến chống Nguyên Mông:
16
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Ba quân tì hổ khí thôn ngưu
(Múa giáo non sông trải mấy thâu - Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)
- Câu thơ "Ai về ai có nhớ không?": Đại từ "ai" lặp lại 2 lần, tuy phiếm chỉ nhưng kết hợp
thành "ai về" rõ ràng là chỉ người đi. Cả câu thơ là một câu hỏi. Câu hỏi ấy cũng không phải để
được trả lời mà là một câu hỏi tu từ để cho thấy người ra đi đang tự nhìn vào lòng mình và sử
dụng câu hỏi như một cây cầu nối để dẫn dắt vào nỗi nhớ về những trận đánh, chiến thắng.
- Với quyết tâm đánh giặc, cả chiến khu từ thiên nhiên đến con người đều một lòng chiến đấu
nên ta đã có những trận đánh, những chiến thắng bước đầu. Điệp từ "nhớ" được lặp lại 4 lần trong 4
câu thơ khẳng định sâu sắc nỗi nhớ niềm thương của người cán bộ về xuôi. Cũng trong 4 câu
thơ, nhà thơ còn sử dụng nhiều tên địa danh. Nhưng đó không phải những địa danh đơn thuần
mà là những địa danh diễn ra những trận đánh, những chiến thắng của quân và dân ta. Nhà thơ
Quang Dũng trong bài thơ "Tây Tiến" cũng nhắc đến rất nhiều tên địa danh như Sài Khao,
Mường Lát, Mai Châu, Pha Luông, Mường Hịch...
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Những tên địa danh ấy gợi lên trong lòng người đọc bao nhiêu niềm thương nỗi nhớ về
một thời Tây Tiến. Nhưng ở đây, các địa danh trong thơ Tố Hữu không chỉ gợi niềm thương,
nỗi nhớ mà còn là niềm tự hào chiến thắng. Đoạn thơ là lời khẳng định đầy tự hào rằng ta vẫn
có thể chiến đấu và chiến thắng trong những ngày đầu khó khăn, gian khổ nhất.
2.3. Hai câu thơ:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Nét tả khái quát: Những con đường ra trận trên chiến khu Việt Bắc
- Nếu như đoạn thơ 10 câu trên là những ngày đầu khó khăn, gian khổ mới chỉ có những trận đánh,
chiến thắng bước đầu thì đoạn thơ tiếp theo đã tái hiện khí thế chiến đấu, chiến thắng ngút trời của
quân và dân ta. Đoạn thơ được kết cấu theo cấu trúc mà trong đó nét tả khái quát là miêu tả những con
đường ra trận trên chiến khu Việt Bắc làm hiện lên khí thế ra trận của quân và dân ta. Sau đó là miêu tả
cụ thể những đoàn quân, đoàn dân công và những đoàn xe cơ giới ra chiến trường trên những nẻo
đường Việt Bắc. Và cuối cùng là nêu các tên địa danh là những chiến thắng trên khắp mọi miền tổ
quốc, khẳng định chiến thắng về ta.
- Khí thế chiến đấu và chiến thắng ấy được thể hiện trước hết qua nét tả khái quát về những con
đường ra trận trên chiến khu Việt Bắc. Hai câu thơ mở ra một không gian rộng lớn, hùng tráng là trên
khắp các ngả đường Việt Bắc. Thời gian được thể hiện qua từ láy "đêm đêm" không chỉ thể hiện quãng
thời gian lặp đi lặp lại là hàng đêm mà còn xác nhận một hiện thực thời đó là quân ta chủ yếu hoạt
động và kiểm soát về đêm. Mặt khác, trong cuộc kháng chiến thần tốc ấy, để tiếp tế, chi viện cho chiến
trường đủ cả về nhân lực và vật lực thì quân và dân ta phải hoạt động cả trong đêm.
- Khí thế chiến đấu dũng mãnh của quân và dân ta được thể hiện rõ qua từ láy "rầm rập" và biện
pháp nghệ thuật so sánh "như là đất rung":
+ Từ láy "rầm rập": cho thấy sự chuyển động của những bước chân trên con đường ra mặt trận và
hơn nữa cho thấy sức mạnh, nhịp độ khẩn trương của quân ta.

17
+ Nghệ thuật so sánh có phần cường điệu "như là đất rung" càng nhấn mạnh khí thế chiến đấu, sức
mạnh quân và dân ta, là sức mạnh nhân nghĩa của mấy ngàn năm lịch sử. Khí thế chiến đấu và chiến
thắng ấy tưởng chừng có thể làm rung chuyển trời đất, lay động cả càn khôn. Mặt đất tưởng chừng
rung chuyển dưới bước chân của những người khổng lồ đầu đội trời, chân đạp đất trong cuộc ra quân
vĩ đại.
+ Từ "của ta" một lần nữa khẳng định tâm thế làm chủ. Đó là tâm thế của cả dân tộc trong cuộc
kháng chiến chống Pháp.
Nhìn chung, hai câu thơ thể hiện rõ niềm tự hào làm chủ và khí thế chiến đấu chiến thắng cao ngất
trời của những con người chưa ra trận mà như đã nắm chắc phần thắng trong tay.
2.4. Hai câu thơ: Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Hình ảnh đoàn quân ra trận
- Hình ảnh đoàn quân được miêu tả trong sự trưởng thành, lớn mạnh, đội ngũ đông đảo,
hùng hậu. Nghệ thuật trùng điệp với hai từ láy “điệp điệp" và “trùng trùng" đi liền nhau ở câu
thơ có sức gợi tả đó, nó vừa gợi lên hình ảnh đoàn quân với sức mạnh vô song, tầng tầng, lớp
lớp như sóng cuộn. Đoàn quân ra mặt trận hùng tráng, mang cả sức mạnh của lòng yêu nước,
của lí tưởng cách mạng, khát khao chiến đấu và chiến thắng quân thù.
- Câu thơ thứ hai "Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan" đầy sáng tạo, được ngắt theo nhịp
4/4 càng làm tăng thêm vẻ đẹp của người lính - một vẻ đẹp vừa hiện thực vừa mộng ảo, gợi lên
những ấn tượng đẹp về anh bộ đội cụ Hồ. Câu thơ trước hết tả thực hình ảnh những người lính
trong cuộc hành quân đêm, súng khoác trên vai, ánh sao chênh chếch trên đầu mũi súng. Nhưng
câu thơ không chỉ có ý nghĩa tả thực mà còn gợi nhiều liên tưởng. Trong đó, ánh sao là biểu
tượng cho lí tưởng của người chiến sĩ, là ánh sáng cách mạng, là ý chí đánh giặc của người lính.
Những người lính chiến đấu vì lí tưởng cao đẹp, vì độc lập tự do cho đất nước. Cụm từ "ánh sao
đầu súng" đã nâng tầm vóc những người lính khiến họ vươn tới tận sao trời. Từ "bạn cùng" đã
nhấn mạnh sự hài hòa giữa vẻ đẹp và lí tưởng ngời sáng của người chiến sĩ với cái bình dị, đời
thường của người lính được gợi ra từ hình ảnh "mũ nan".
Như thế, hình ảnh “Ánh sao đầu súng" ở đây cũng có nét giống với hình ảnh "Đầu súng
trăng treo” trong bài thơ "Đồng chí" của Chính Hữu.
2.5. Hai câu thơ: Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Hình ảnh đoàn dân công
- Trên các nẻo đường Việt Bắc còn có những đoàn dân công bền bỉ tải lương thực, súng
đạn để phục vụ cho chiến trường. Hình ảnh của họ cũng thật đẹp, thật hào hùng và đầy lạc quan
không kém những người lính. Cụm từ "từng đoàn" thể hiện đội ngũ rất đông đảo, hùng hậu.
Điều đó khẳng định cuộc kháng chiến chống Pháp của ta là cuộc kháng chiến toàn dân, toàn
diện, là cuộc chiến tranh nhân dân mà cả nước đều dốc lòng, dốc sức cho tiền tuyến lớn.
- Hình ảnh đoàn dân công đi trong đêm cũng là hình ảnh rất thực ở thời ấy. Họ đi dưới ánh
sáng của những ngọn đuốc và từ những ngọn đuốc bay ra muôn tàn lửa tạo nên một hình ảnh rất
đẹp, đậm chất lãng mạn, thậm chí có thể liên tưởng muôn tàn lửa bay ra từ những bó đuốc ấy
như đã tạo ra một đêm hội hoa đăng. Nghệ thuật cường điệu “dấu chân nát đá” đã tạo nên hình
ảnh thơ đầy chất thần thoại. Bước chân đoàn dân công như bước chân của những con người đội
18
đá, vá trời, làm rung chuyển vũ trụ. Biện pháp nghệ thuật này có tác dụng nhấn mạnh sức mạnh
và ý chí của đoàn dân công sẵn sàng đạp bằng mọi chông gai để đi tới.
2.6. Hai câu thơ: Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Đoàn xe cơ giới ra chiến trường
- Trên những con đường Việt Bắc không chỉ có đoàn quân, đoàn dân công mà còn có những đoàn
xe cơ giới chở lương thực, đạn dược, chở bộ đội ra chiến trường. Hai câu thơ với bút pháp chủ đạo là
nghệ thuật tương phản, đối lập đã cho ta cái nhìn toàn diện về cuộc kháng chiến của dân tộc. Hình ảnh
thơ ở đây vừa có nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa biểu trưng:
+ Nghĩa thực: Những đoàn xe đi trong đêm giữa bóng tối nghìn đêm thăm thẳm của núi rừng Việt
Bắc với đèn pha bật sáng xua tan bóng tối sương dày để soi rõ con đường ra tiền tuyến cho đến ngày
mới sẽ có hừng đông ló rạng.
+ Nghĩa biểu trưng: Cụm từ thời gian “nghìn đêm thăm thẳm sương dày” như gợi lại cả một thời kì
dài đất nước ta chìm trong ách nô lệ, tăm tối, hết nghìn năm Bắc thuộc lại Pháp thuộc. Đồng thời là
muôn vàn những gian khổ, hi sinh, thử thách, khó khăn trên con đường cách mạng, kháng chiến. Cụm
từ“ngày mai lên” chỉ một tương lai tươi sáng. Con đường ra trận trên chiến khu Việt Bắc là con đường
đầy khó khăn gian khổ, hi sinh nhưng cũng chính là con đường đi tới ngày mai tươi sáng.
- Nghệ thuật tương phản, đối lập càng bộc lộ rõ cảm hứng lãng mạn, thể hiện khát vọng và niềm tin
cháy bỏng của nhân dân ta vào một ngày mai tất thắng.
2.7. Bốn câu thơ: Tin vui chiến thắng trăm miềm
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Tin vui chiến thắng
Với khí thế chiến đấu và chiến thắng mạnh mẽ, với sức mạnh, ý chí to lớn nên cuối cùng ta đã
chiến thắng. Tin vui thắng từ khắp các mặt trận dồn dập ùa về. Gọi tên các địa danh để nói đến chiến
thắng trở thành một nét riêng của thơ Tố Hữu. Nghệ thuật liệt kê, trong đó mỗi địa danh được liệt kê ra
là một chiến thắng. Vì vậy, gọi tên địa danh là thể hiện niềm tự hào dân tộc, niềm tự hào chiến thắng.
(Mở rộng về cách sử dụng địa danh trong thơ: Xem ở trên)
- Với các địa danh được liệt kê ở khắp mọi miền đất nước cùng với cách sử dụng ngôn ngữ như
"trăm miền", cấu trúc "...vui về...vui từ...vui lên..." càng thể hiện rõ hơn chiến thắng vẻ vang của dân
tộc.
3. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật
Thể thơ lục bát được tác giả phô diễn với những tình cảm, tư tưởng mới mẻ vẫn đậm đà bản sắc
dân tộc. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu phong phú cho bài thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận
dụng khéo léo. Ngôn ngữ trong sáng, nhuần nhị, và có nhiều nét cách tân. Đặc biệt, đáng chú ý trong
bài thơ là âm hưởng rất hùng tráng khi miêu tả cuộc ra quân vĩ đại của dân tộc. Có thể nói "Việt Bắc"
là thơ trữ tình chính trị và đoạn thơ này mang đầy cảm hứng anh hùng ca, đậm màu sắc sử thi lãng
mạn. Đoạn thơ là âm vang của cuộc kháng chiến thần thánh, là bản tổng kết bằng thơ về mười lăm
năm chống Pháp nhưng vẫn nằm trong mạch cảm xúc về nỗi nhớ Việt Bắc, ân tình ân nghĩa của người
cán bộ cách mạng miền xuôi với Việt Bắc và nhân dân việt Bắc.

19
20

You might also like