01 Nguyễn Thị Ngọc Anh Trình bày Power Point; Tìm nội dung phần ( ) 03 Phạm Thiên Ân Thuyết trình phần ( ) 12 Hồ Minh Huy Trình bày Word; Tìm nội dung mở đầu, mở rộng, liên hệ. 27 Ngô Thị Diệu Linh Thuyết trình phần ( ) 31 Nguyễn Trầnh Khánh Nhi Trình bày Power Point; Tìm nội dung phần ( ) 39 Phạm Tuấn Tú Thuyết trình phần ( ) MỤC LỤC NỘI DUNG A Phân chia nội dung – Tóm tắt ý chính 1. Tổng quan – Lời dẫn 2. Nỗi nhớ của người ở lại về cuộc kháng chiến đầy khó khăn 3. Con người Việt Bắc trọn vẹn, thủy chung với Cách mạng 4. Nhớ về cuộc kháng chiến và những sự kiện trọng đại của dất nước 5. Tiểu kết B Nội dung thuyết trình – Bài văn hoàn chỉnh ĐÁNH GIÁ TIẾN ĐỘ HOÀN THÀNH NỘI DUNG A Phân chia nội dung – Tóm tắt ý chính 1. Mở đầu Khổ thơ thứ 3 trong bài thơ “Việt Bắc” của nhà thơ Tố Hữu: “- Mình đi, có nhớ những ngày Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù? Mình về, có nhớ chiến khu Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai? Mình về, rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng, măng mai để già. Mình đi, có nhớ những nhà Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son Mình về, còn nhớ núi non Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh Mình đi, mình có nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?” - Kết thúc 8 câu đầu bằng dấu “...”: Chấp chứa biết bao điều muốn nói chưa kể hết giữa kẻ ở (nhân dân Việt Bắc) và người đi (cán bộ kháng chiến) với khung cảnh chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn. Ta đến với khổ 3, cảm xúc dường như tuôn trào dữ đội bởi những kỉ niệm, nỗi nhớ da diết ùa về đối với người ở lại. - Những nỗi nhớ về thiên nhiên, cuộc sống, tình người Việt Bắc: + Mưa nguồn, suối lũ, mây mù: Thiên nhiên khắc nghiệt. + Cơm chấm muối, mối thù nặng vai: Nhớ một chiến khu đầy gian khổ, lòng căm thù giặc sâu sắc. + Trám bùi, măng mai: Nhớ những sản vật miền rừng. + Nhớ những mái nhà nghèo nàn nhưng ấm áp tình người, tình cách mạng. + Tân Trào Hồng Thái mái đình cây đa Nhớ những năm đầu kháng Nhật với những địa danh lịch sử. - Sau mỗi cụm “Mình đi”, “Mình về” là dấu “,”: Tố Hữu tinh tế đưa vào tạo nên nhịp ngắt => Đây là giây phút ngưng đọng để kỷ niệm ùa về trong tâm tưởng. 2. Nỗi nhớ của người ở lại về cuộc kháng chiến đầy khó khăn Bốn câu thơ đầu khổ 3 là nỗi nhớ đưa người ở lại trở về với những kỉ niệm của cuộc kháng chiến gian nan, vất vả, thiếu thốn: “Mình đi, có nhớ những ngày Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù Mình về, có nhớ chiến khu Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?” - Thời gian “những ngày”, không gian “chiến khu” - Đoạn thơ sử dụng phép điệp ngữ liên hoàn kết hợp với hình thức điệp từ, điệp cấu trúc để diễn tả những cảm xúc dồn dập trong lòng người ở lại trong giờ phút phân li. Câu lục có hình thức câu hỏi, câu bát trả lời nhằm tái hiện những kỉ niệm trong cuộc kháng chiến. Đại từ “mình” được sử dụng linh hoạt, có lúc là là người ở lại, có lúc là người về xuôi tạo cảm giác quấn quýt yêu thương giữa nhân dân và cách mạng. - Thiên nhiên ở Việt Bắc thật khắc nghiệt: những cơn mưa nguồn xối xả, những trận lũ quét bất ngờ, sương mù đậm đặc, giá lạnh bao phủ quanh năm. Hình ảnh mưa, lũ, mây, mù vừa là hình ảnh tả thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng cho những gian khổ, thử thách mà quân và dân ta phải vượt qua. - Cuộc sống thời kháng chiến đạm bạc, thiếu thốn. Bữa ăn ngày ấy thường là sắn, khoai, cháo bẹ, rau măng, thiếu trước hụt sau. Thủ pháp hoán dụ được nhà thơ Tố Hữu đặt trong thế tiểu đối mang ý nghĩa sâu sắc. Tác giả lấy cái cụ thể “Miếng cơm chấm muối” để tô đậm cái trừu tượng “mối thù nặng vai”. Cuộc sống càng vất vả, gian nan thì mối thù đế quốc, thực dân càng sâu nặng. - Hầu hết các câu thơ ngắt theo nhịp 4/4 làm nên những tiểu đối cân xứng, hô ứng về câu trúc, nhạc điệu: Mưa nguồn suối lũ/những mây cùng mù; Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai… Có những cặp tiểu đối khắc ghi những sự kiện, có những cặp tiểu đối vế đầu nói về hiện thực gian khổ, vế còn lại khắc sâu vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Bắc gắn bó son sắt cùng với lối sống ân nghĩa thủy chung. Phép tiểu đối đã khiến khó khăn thử thách càng khơi dậy quyết tâm, ý chí của con người. 3. Con người Việt Bắc trọn vẹn, thủy chung với Cách mạng “Mình về, rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng, măng mai để già. Mình đi, có nhớ những nhà Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son” - Hoán dụ “rừng núi” và phép nhân hóa “rừng núi nhớ ai” đã khẳng định tấm lòng nhung nhớ của người Việt Bắc. - Tố Hữu đã vận dụng khéo léo chất liệu của ca dao truyền thống qua đại từ phiếm chỉ “ai” để thể hiện kín đáo và duyên dáng nỗi nhớ lòng người ở lại: “Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ, Nhớ ai ai nhớ, bây giờ nhớ ai?” “Nhớ ai nhớ mãi thế này, Nhớ đêm quên ngủ, nhớ ngày quên ăn.” - Hình ảnh “Trám bùi” và “măng mai” là những sản vật, là nguồn thực phẩm mà núi rừng Việt Bắc đã ban tặng cho con người trong những năm kháng chiến chống Pháp. Hiểu theo nghĩa khác khi chiến tranh kết thúc, khi người chiến sĩ cách mạng về xuôi thì cuộc sống nơi đây như dừng lại, con người nơi đây như cảm thấy chênh vênh. Núi rừng trống vắng hay chính người ở lại đang trống vắng, héo úa vì nỗi “nhớ ai”? Những sản vật thắm đượm ân tình kia giờ đã bị lãng quên do nỗi nhớ nhung đã chiếm lĩnh trọn vẹn tâm hồn người ở lại. - Hai dòng thơ sau chứa đựng nghệ thuật tương phản, đảo ngữ và ẩn dụ. Hình ảnh “Hắt hiu lau xám” vừa gợi khung cảnh hoang vu của núi rừng vừa mang ý nghĩa biểu tượng cho cuộc sống nghèo khó. Ẩn dụ “lòng son” và từ láy “đậm đà” là lời khẳng định tấm lòng thủy chung, gắn bó sâu nặng của nhân dân Việt Bắc đối với cách mạng. Cuộc sống dù có khó khăn, vất vả nhưng người dân Việt Bắc vẫn giàu lòng yêu nước, một lòng đi theo Đảng. Đó chính là đạo nghĩa thủy chung, là cội nguồn chiến thắng của dân tộc. => Câu thơ đã kết hợp khéo léo nghệ thuật tiểu đối, phép đảo ngữ và biện pháp ẩn dụ để khẳng định tình nghĩa sắt son dành cho kháng chiến, dành cho cách mạng. 4. Nhớ về cuộc kháng chiến và những sự kiện trọng đại của dất nước “Mình về, còn nhớ núi non Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh Mình đi, mình có nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?” - Hai chữ “núi non” gợi đến không gian hùng vĩ và hiểm trở ở Việt Bắc. Núi non trùng trùng, điệp điệp trở thành tấm áo giáp, bức tường thành che chở bộ đội, bao vây quân thù. Đây là căn cứ địa vững chắc, là quê hương của cách mạng, góp phần làm nên chiến thắng của quân và dân ta: “Núi giăng thành lũy sắt dày Rừng che bộ đội rừng vây quân thù” (Việt Bắc - Tố Hữu) - Ba chữ “mình” được điệp lại trong cùng một dòng thơ “Mình đi, mình có nhớ mình” gợi hai đối tượng, vừa là người ra đi và người ở lại tạo nên sự quấn quýt, gắn bó không rời giữa người Việt Bắc và người cách mạng. - Một loạt các địa danh có thực ở Việt Bắc được liệt kê như “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa” gợi nhắc những sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước. Cây đa Tân Trào là nơi làm lễ xuất quân của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Đình Hồng Thái là nơi họp Quốc dân Đại hội. Những tên gọi ấy vang lên kiêu hãnh, tự hào vì sự trưởng thành của quân đội. - Đoạn thơ có 6 cặp câu lục bát đều là câu hỏi tu từ mà chỉ có 2 cặp câu xuất hiện dấu chấm hỏi. Trước hết ta có thể thấy dấu chấm hỏi được sử dụng hai lần trong đoạn thơ không giản chỉ mang chức năng nhận biết nữa, mà nó được sử dụng hết sức phù hợp với tứ, giọng điệu của đoạn thơ, với mạch cảm xúc của tác giả. “….Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?” ; “….Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?” Cả đoạn thơ là lời nhắn gửi của người ở lại với người ra đi, của đồng bào Việt Bắc với các đồng chí cán bộ miền xuôi. Dấu chấm hỏi được đặt cuối hai dòng thơ trên như muốn nhấn mạnh hơn các anh đừng quên những tháng ngày kháng chiến gian khổ, cùng nhau trả mối thù cho đất nước, đừng quên những ngày sôi sục nhiệt huyết cách mạng, đứng lên giành chính quyền. Từ “…Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?” đến “…Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?” là cả một quá trình đi từ hiện thực gian khổ đến tương lai thắng lợi của cách mạng, từ “bùn đen” vươn tới ánh sáng chói lòa. Không chỉ có thế, dấu chấm hỏi được sử dụng còn tạo nên giọng điệu đầy tính nhạc cho đoạn thơ, khi vang khi trầm, khi dồn dập lại có khi lắng đọng. Điều này cũng hết sức phù hợp với thơ Tố Hữu – một lối thơ giàu nhạc tính. Việc này cũng từng xuất hiện trong “Nhớ đồng” – Bài thơ số 7 của phần “Xiềng xích” trong tập thơ “Từ ấy”: “Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi Đâu ruồng che mát thở yên vui Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi ?” 5. Tiểu kết Nỗi nhớ được thể hiện bằng những dòng thơ lục bất đậm chất dân gian, những cặp câu thơ lục bát có sự phối hợp thanh điệu hài hòa. Sáu dòng lục tào thành một điệp khúc âm thanh đan dày thành những cấu trúc thanh bằng – trắc – bằng tạo ra nhạc điệu ngân nga trầm bổng nhẹ nhàng, khoan thai. Đoạn thơ đã tái hiện chân thực những kỉ niệm đầy ắp yêu thương của nhân dân Việt Bắc và những người cách mạng miền xuôi trong cuộc kháng chiến chống Pháp vất vả, gian nan mà sâu nặng nghĩa tình. “Việt Bắc” đã trở thành khúc hùng ca, bản tình ca biểu dương tình cảm gắn bó của người cách mạng và nhân dân Việt Bắc. Chiều sâu của tình cảm ấy chính là lòng yêu nước và đạo nghĩa thủy chung của dân tộc. B Nội dung thuyết trình – Bài viết hoàn chỉnh Tố Hữu đã từng tâm sự: “Tôi yêu đất nước và nhân dân tôi, tôi viết về đất nước và nhân dân tôi như viết về người đàn bà tôi yêu”. Thật vậy mỗi trang thơ của Tố Hữu là một bản tình ca về quê hương Tổ quốc và người dân đất Việt. Đặc biệt hơn, đó chính là vùng đất Việt Bắc, nơi “đậm đà tình son” đối với người chiến sĩ cách mạng - Tố Hữu. Vùng đất ấy đi vào thơ ca của ông một cách nhẹ nhàng mà sâu lắng biết bao. Thi phẩm được viết ra như lời hát tâm tình của một mối tình thiết tha đầy lưu luyến giữa người kháng chiến và đồng bào Việt Bắc: “- Mình đi, có nhớ những ngày Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù? Mình về, có nhớ chiến khu Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai? Mình về, rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng, măng mai để già. Mình đi, có nhớ những nhà Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son Mình về, còn nhớ núi non Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh Mình đi, mình có nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”