You are on page 1of 6

Phân tích bài thơ Việt Bắc

Bài làm 2
Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh năm 1920 tại Phù Lai, một ngôi
làng gần cố đô Huế. Ông sinh ra khi nước nhà còn chịu cảnh bị xâm lược, vậy nên
Tố Hữu đã đến với cách mạng rất sớm, từ năm 18 tuổi: “Từ ấy trong tôi bừng nắng
hạ – Mặt trời chân lý chói qua tim” (Từ ấy). Cũng trong thời gian đó, ông đã đến
với thi ca, mà như ông viết: “Cùng với hoạt động cách mạng, tôi làm thơ cũng vì
sự nghiệp cách mạng.” Bởi thế, cuộc đời thơ và cuộc đời cách mạng của Tố Hữu
hào quyện cùng nhau, không thể tách rời. Đó cũng là điều làm nên nét riêng có của
ông, khi toàn bộ thế giới nghệ thuật thơ Tố Hữu chính là sự xuyên suốt thống nhất
mối quan hệ đó. Từng tập thơ trong từng giai đoạn đều đánh dấu những bước ngoặt
trọng đại của cách mạng Việt Nam. Với giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945-
1954), Tố Hữu đã có những sáng tác về tình cảm quân và dân vùng Việt Bắc như:
Phá đường, Bà mẹ Việt Bắc, Bầm ơi, Lượm,Sáng tháng Năm, Hoan hô chiến sĩ
Ðiện Biên,Ta đi tới… trong đó tiêu biểu là bài thơ Việt Bắc, thể hiện tâm tình của
con người Việt Nam trong kháng chiến, nêu cao quyết tâm bảo vệ sự toàn vẹn của
đất nước. Cuộc kháng chiến thật nhộn nhịp, hồ hởi nhưng vô cùng gian khổ, đau
thương.
Là một người con của xứ Huế, cố đô của nền phong kiến cuối cùng của Việt
Nam, cả cha và mẹ Tố Hữu đều yêu thích văn, thơ, đặc biệt mẹ Tố Hữu thuộc
nhiều ca dao và dân ca Huế. Vậy nên tâm hồn thơ ông đã được nuôi dưỡng bởi cội
nguồn dân tộc, đặc biệt ông sử dụng nhuần nhuyễn, giàu cảm xúc với thể thơ lục
bát. Trong bài thơ Việt Bắc, lối thơ được ông sử dụng chính là thể lục bát, điều này
đã tạo nên cho bài thơ một sự gần gũi, mộc mạc, biểu trưng cho nhân dân các dân
tộc vùng Việt Bắc. Mở đầu bài thơ, tác giả sử dụng câu hỏi tu từ:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Hai đại từ nhân xưng “mình” và “ta” cho ta thấy sự thiết tha, tình cảm mà
ông dành cho những người “về”. Câu hỏi cũng chính là lời bộc bạch, lời tâm sự mà
những người ở lại nhắn gửi những người về xuôi. “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn
nồng”. Mười lăm năm, đây là khoảng thời gian những người chiến sĩ cách mạng
lấy Việt Bắc làm căn cứ để tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp. Mười lăm năm
là một khoảng thời gian cụ thể, nhưng trong đó chất chứa biết bao ân tình mà
người ở lại cũng như người ra đi luôn khắc sâu trong lòng. Những câu hỏi được đặt
ra dường như để nhắc nhớ những người về xuôi, về những năm tháng gian khổ mà
thắm đượm nghĩa tình giữa đại ngàn Việt Bắc: “Mình về mình có nhớ không? Nhìn
cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
Tố Hữu đã gieo vào lòng người đọc một cảm giác bồi hồi trong giờ phút
chia tay. Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta đã giành chiến thắng vào
năm 1954, những người chiến sĩ cách mạng trở về tiếp quản thủ đô. Trong giờ phút
chia tay đó, thời gian dường như ngừng trôi, núi rừng như bịn rịn hơn, còn con
người “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”. Cuộc chia tay có cả niềm vui và nước
mắt, vui vì non sông vẹn toàn, cuộc chiến đấu đã giành thắng lợi, nhưng đó cũng là
lúc những người lính phải rời xa Việt Bắc. Trong mười lăm năm đó, giữa những
người cách mạng và đồng bào nơi đây đã trải qua biết bao kỉ niệm, ngọt bùi, đắng
cay. Tất cả những ân tình của mười lăm năm đó, giờ đây gói gọn trong giờ phút
chia tay. Những kỉ niệm dường như ùa về trong tâm trí của mọi người.
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
Một loạt hình ảnh được đưa ra, như minh chứng cho những năm tháng gắn
bó bên nhau của những người cách mạng và đồng bào Việt Bắc, là thiên nhiên, là
bữa cơm no đói cùng nhau, là những tình cảm gắn bó chặt chẽ. Và như để trả lời
cho những tình cảm của người ở lại, Tố Hữu viết:
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu
Nguồn bao nhiêu nước thì nghĩa tình giữa những người chiến sĩ và đồng bào
Việt Bắc có bấy nhiêu. Đây là một sự so sánh vô cùng ý nghĩa, nước nguồn mát
lành và dồi dào, và cũng là một hình ảnh ẩn dụ cho việc sẽ không bao giờ vơi cạn
tình cảm của những người chiến sĩ và đồng bào dành cho nhau. Và tác giả cũng
khẳng định: “Ta với mình, mình với ta/Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”.
Để rồi sau đó, mạch cảm xúc dường như được khai mở, tuôn trào như nước
nguồn Việt Bắc. Những kỉ niệm, những hình ảnh của mười lăm năm ấy được tác
giả vẽ lên như một bức tranh sống động, trong đó có cả tình yêu, cả những gian
khó và hào hùng. Nhớ từng bản khói cùng sương/Sớm khuya bếp lửa người thương
đi về/Nhớ từng rừng nứa bờ tre/Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy/Ta đi, ta nhớ
những ngày /Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Ngọt bùi và đắng cay được tác giả đưa song hành trong câu thơ đã diễn tả
đầy đủ tình cảm của ông dành cho Việt Bắc.
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…
Hình ảnh chia nhau củ sắn lùi, sẻ nửa bát cơm, chiếc chăn sui, loại chăn
được làm từ vỏ cây cũng được chia nhau đắp cùng. Tất cả những điều đó như một
sợi dây gắn kết những chiến sĩ lại với đồng bào, một sự đồng cam cộng khổ để
hướng tới chiến thắng cuối cùng. Nhưng Việt Bắc không chỉ có những gian khó,
nơi đây còn chứa đựng một vẻ đẹp đến từ con người và thiên nhiên hùng vĩ. Hình
ảnh người mẹ địu con lên rẫy đã tô điểm cho màu xanh của núi rừng, một khung
cảnh bình yên và dịu dàng đến lạ thường giữa những ngày chiến tranh khốc liệt.
Đó cũng là hình ảnh một người chiến sĩ yêu đời, vẫn ca vang trên đại ngàn Việt
Bắc, dẫu cho ngày tháng chiến đấu có gian nan.
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Cách xưng hô ta – mình đã được Tố Hữu sử dụng nhuần nhuyễn, hợp lý
trong một sự hòa quyện khăng khít tuy hai mà một – mình và ta. Chữ nhớ trở thành
một chiếc cầu nối giữa hai chữ mình càng làm tăng thêm sự da diết nhớ nhung
trong tình cảm của người dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến. Một khung cảnh
thiên nhiên Việt Bắc chan hòa giữa màu sắc của núi rừng hòa với vẻ đẹp của con
người nơi đây đã tạo ra cho bài thơ một sắc màu riêng có, một sắc màu dịu dàng
của vùng Việt Bắc, một bức tranh trữ tình mà ta chỉ gặp trong thơ của Tố Hữu.
Nhưng Việt Bắc không chỉ có những bức tranh thơ mộng, Việt Bắc còn là
nơi ta đánh giặc, và không chỉ có con người mới biết cầm súng chiến đấu, chính
thiên nhiên nơi đây cũng góp phần vào cuộc chiến đấu đó.
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.
Như vậy có thể thấy, đất và người Việt Bắc đã được hòa nhập làm một trong
thơ Tố Hữu, thiên nhiên che chở và nuôi sống cho chiến sĩ, thiên nhiên cùng chiến
sĩ chống giặc và con người sinh sống hài hòa cùng thiên nhiên nhiên.
Hai khổ thơ cuối của đoạn trích, tác giả đã miêu tả rõ nét về cuộc chiến đấu
của quân và dân Việt Bắc, tỏ rõ sự hào hùng, khuất, ý chí kiên cường của người
chiến sĩ cách mạng.
(…) Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
(…)
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ đó, chúng ta nhìn thấy những
bước chân dũng mãnh, những niềm tin sắt đá vào một chiến thắng vĩ đại của dân
tộc, là những niềm vui từ khắp nơi gửi tới Việt Bắc thân yêu. Bởi Việt Bắc là đầu
não của cuộc kháng chiến, là nơi có Đảng và Bác Hồ làm việc. Bởi thế cho nên từ
khắp các vùng miền xa xôi của Tổ quốc luôn hướng về Việt Bắc với niềm tin sắt
son vào một chiến thắng, về một ngày mai tươi sáng.
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.
Tố Hữu lại một lần nữa khẳng định nỗi nhớ của người “về” đối với người “ở
lại”. Những mái đình, cây đa, những ngòi Thia, sông Đáy và những năm tháng
gian khổ nhưng ngọt bùi tình cảm quân dân – cá nước luôn là hành trang đẹp của
những người chiến sĩ đã từng sống và chiến đấu ở nơi đây.

Xuyên suốt bài thơ cũng như đoạn trích là nỗi nhớ của người về với đại ngàn
Việt Bắc, nơi có những con người dung dị mà đong đầy nghĩa tình, nơi có những kỉ
niệm không phai trong những năm tháng chiến đấu gian khổ. Bài thơ như nỗi lòng
của những người chiến sĩ cách mạng nói chung và của Tố Hữu nói riêng dành cho
đất và người Việt Bắc.

Việt Bắc là một bài thơ kết tinh những tình cảm chân thành của đất và người
Việt Bắc, của những người “về” và người “ở lại”. Bức tranh thiên nhiên hòa quyện
với con người nơi đây, tạo nên một gam màu tươi sáng cho tập thơ Việt Bắc. Và
trong lòng mỗi người “về” luôn có một hình bóng Việt Bắc mang theo, đó là tình
cảm của nhân dân các dân tộc Việt Bắc, là núi rừng, thiên nhiên nơi đây. Bài thơ
dường như có được sức sống mãnh liệt trong lòng người đọc, cũng vì những tình
cảm chân thành như thế.

You might also like