You are on page 1of 8

1 Phân tích đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc từ Mình đi có nhớ…mái đình cây đa

2 Mình đi có nhớ những ngày

3…

4 Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa

Phân tích đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc từ Mình đi có nhớ…mái đình cây đa

Mình đi có nhớ những ngày

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa

GỢI Ý PHÂN TÍCH

1. Bốn câu thơ đầu là những câu thơ gợi nhắc đến những kỷ niệm kháng chiến gian khổ :

Mình đi có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù

Mình về có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai

– Điệp từ “nhớ” được lặp lại hai lần cùng với hai câu hỏi tu từ “có nhớ những ngày”, “có nhớ
chiến khu” đã khơi gợi những kỷ niệm gian khổ nhưng nghĩa tình:
Mình còn nhớ hay không những ngày sống giữa thiên nhiên khắc nghiệt ?

+ Liệt kê các hình ảnh: “Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù” – chỉ thiên nhiên, thời tiết
khắc nghiệt dữ dội. Đây cũng là hình ảnh ẩn dụ để chỉ cảnh “ăn tuyết nằm sương”, “nếm mật
nằm gai” mà cán bộ và nhân dân phải chịu đựng. Qua đó khẳng định quyết tâm cao độ của cán
bộ và nhân dân.

– Mình còn nhớ hay không những cảnh sinh hoạt thiếu thốn nhưng tinh thần luôn lạc quan?

+ Gian khổ vì thiếu thốn vật chất, ăn uống kham khổ: “miếng cơm chấm muối” – ăn không đủ
no, mặc không đủ ấm. Chính sự gian khổ đã gắn kết ta và mình để chung vai đấu cật, có phúc
cùng hưởng có hoạ cùng chia. Gạt đi những khó khăn “ta” và “mình” cùng gánh lên vai nhiệm
vụ chung – nhiệm vụ giải phóng dân tộc mà nhân dân giao phó, đó là “mối thù nặng vai” – mối
thù giặc Pháp đang đè nặng lên đôi vai. Ở đây, cái chung luôn đặt trên cái riêng, nghĩa vụ lớn
hơn khó khăn gian khổ – đây chính là tinh thần lớn của thời đại. ThầyPhan Danh Hiếu.

2. Bốn câu thơ tiếp theo, người ở lại khơi gợi những kỷ niệm gắn bó với thiên nhiên và con
người nặng nghĩa nặng tình:

– Nhớ thiên nhiên:

Mình về rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già

+ “Rừng núi nhớ ai” vừa là nghệ thuật hoán dụ, vừa là câu hỏi tu từ – gợi lên nỗi niềm
bâng khuâng thương nhớ.
+ Cách nói “Trám bùi để rụng măng mai để già” toát lên nỗi bùi ngùi thương nhớ. Cấu trúc
câu “để rụng…để già” gợi lên hình ảnh thiên nhiên núi rừng buồn bã, hiu quạnh, trống vắng đến
mênh mông vì thiếu vắng bóng dáng người cán bộ.

– Nhớ con người Việt Bắc:

Mình đi có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son

+ Nỗi nhớ hướng về “những nhà”, những con người Việt Bắc: “Hắt hiu lau xám, đậm đà
lòng son”. Câu thơ sử dụng phép đảo ngữ, đưa “hắt hiu” lên đầu câu tạo thành hai vế tương
phản:

++ “Hắt hiu lau xám” là để chỉ nỗi buồn trống vắng, hiu hắt của núi rừng; vừa có ý chỉ
những ngôi nhà của những con người áo chàm dân dã, bình dị; cũng là ẩn dụ cho sự nghèo khổ
của đồng bào Việt Bắc.

++ Vế sau nhấn mạnh phẩm chất người Việt Bắc: “đậm đà lòng son”. Đó là tấm lòng nhân
dân thủy chung, đậm đà luôn hướng về Cách mạng; luôn hi sinh, nhường cơm, sẻ áo cho bộ đội.
Chính những công sức của Việt Bắc và tấm lòng son đậm đà ấy đã góp phần không nhỏ để làm
nên chiến thắng Điện Biên “nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng” và “lừng lẫy năm châu chấn
động địa cầu”.

3. Bốn câu thơ cuối, Việt Bắc gợi nhắc những sự kiện lịch sử gắn liền với những địa danh, những
tên gọi đã trở thành điểm mốc của chiến khu:

– Câu hỏi tu từ thứ nhất:


“Mình về, có nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh”

+ Câu thơ có sự liệt kê hình ảnh “núi non”, liệt kê sự kiện “khi kháng Nhật, thuở còn Việt
Minh” để nhắc nhở người về xuôi rằng: Việt Bắc là nơi có mặt trận Việt Minh lãnh đạo cách
mạng đánh Pháp, đuổi Nhật, Việt Bắc là căn cứ quan trọng của cách mạng giải phóng dân tộc
thời kì trước 1945.

– Kết thúc đoạn thơ là một câu hỏi lạ: “Mình đi mình có nhớ mình”. Đây là một cách nói
sâu sắc. Từ “mình” thứ nhất và thứ hai chỉ người cán bộ về xuôi, từ “mình” thứ ba chỉ người
Việt Bắc. Giữa người Việt Bắc và cán bộ như đã có sự gắn bó mật thiết, hòa nhập, tuy hai mà
một.

– Hình ảnh liệt kê mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào chỉ hai địa danh gắn với hai sự kiện
quan trọng trước cách mạng tháng Tám, nhằm khẳng định Việt Bắc chính là cái nôi cách mạng,
là cội nguồn cách mạng. Ths Phan Danh Hiếu.

4. Nghệ thuật: Cả đoạn thơ có 7 chữ “mình” được lặp lại. Khi thì “mình đi”, “mình về” rồi lại
“mình về”, “mình đi” rồi “mình đi mình lại nhớ”… tạo nên một giai điệu trữ tình luyến láy như
khắc như chạm vào trong sâu thẳm tâm hồn người đi. Tác giả dùng từ “mình” kết hợp hai từ “đi
– về” biến hóa, linh hoạt gợi ra một cuộc chia tay đầy lưu luyến. Điệp từ “có nhớ” là tâm tình
người về với Việt Bắc. Thể thơ lục bát với âm điệu nhẹ nhàng, sâu lắng góp phần diễn tả tình
cảm tha thiết của Việt Bắc với cách mạng, của con người Việt Nam trong kháng chiến.
Đề số 4. Cảm nhận đoạn thơ sau trong bài “Việt Bắc” – Tố Hữu:

“Ta đi ta nhớ những ngày

Chày đêm nên cối đều đều suối xa”

I. MỞ BÀI

II. THÂN BÀI

1. Khái quát: Việt Bắc là khu căn cứ địa kháng chiến được thành lập từ năm 1940, gồm sáu
tỉnh viết tắt là “Cao – Bắc – Lạng – Thái – Tuyên – Hà”. Nơi đây, cán bộ chiến sĩ và nhân
dân Việt Bắc đã có mười lăm năm gắn bó keo sơn, nghĩa tình (1940 – 1954).
2. Sau hiệp định Giơ-ne-vơ, tháng 10.1954, Trung ương Đảng và cán bộ rời Việt Bắc. Buổi
chia tay lịch sử ấy đã trở thành niềm cảm hứng cho Tố Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc”.
Trải dài khắp bài thơ là niềm thương nỗi nhớ về những kỷ niệm kháng chiến gian khổ
nhưng nghĩa tình. Đoạn thơ trích dẫn trên là lời của người cán bộ nói với nhân dân Việt
Bắc. Mỗi lời thơ viết ra là lời của ruột gan, của sâu thẳm nghĩa tình. Đó là những kỷ niệm
kháng chiến gợi lên những ký ức khó phai mờ về Việt Bắc về những năm tháng đã qua.
Qua đó khẳng định, Việt Bắc là chiến khu an toàn, nhân dân ân tình, thủy chung, hết
lòng với cách mạng và kháng chiến.

2. Nội dung

2.1. Bốn dòng thơ đầu là lời người ra đi đáp lại nghĩa tình của người ở lại. Giọng thơ tha thiết,
chân thành gợi lên bao nỗi nhớ về những ngày khó khăn gian khổ của ta và mình.

“Ta đi ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi

Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”


Nếu người ở lại hỏi “mình đi có nhớ những ngày” thì người ra đi đáp lại: “Ta đi ta nhớ những
ngày”. “Những ngày” ở đây là cách nói chỉ thời gian gắn bó nhớ thương vô vàn giữa người đi kẻ
ở. Đó là nỗi nhớ về “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” với bao ân tình cao đẹp. Mười lăm
năm ta đã cùng mình gánh vác giang sơn, chịu đựng bao gian khổ, thiếu thốn; đã cùng nhau đi
qua bao biến cố; mười lăm năm ấy giờ đã thành máu thịt trong nhau rồi. Bốn chữ “mình đây, ta
đó” gợi lên mối quan hệ gắn bó khăng khít. Chữ “đây – đó” chỉ hai con người liền kề, gần gũi,
cùng nhau chung lưng đấu cật, kề vai sát cánh.

Thành ngữ “đắng cay ngọt bùi” giàu sức gợi. “Đắng cay ngọt bùi” là bốn tính từ chỉ bốn dư
vị, bốn giai âm của cuộc sống. “Đắng cay ngọt bùi” cũng là ẩn dụ để nói đến những thăng trầm
trong cuộc đời mà ta và mình đã cùng nhau trải qua. “Đắng cay” là để chỉ những gian khổ, mất
mát, hi sinh; “ngọt bùi” chỉ niềm vui, hạnh phúc, vinh quang. Ý thơ thể hiện ý nghĩa sâu xa: ta đã
cùng mình trải qua những thăng trầm, trải qua bao gian khó, bao buồn vui, ngọt bùi cay đắng,
cùng nhau đi qua vinh nhục… nên đã thấu hiểu, đồng cảm với nhau. Từ đây ta và mình đã mãi
mãi trở thành tri kỷ.

Nghĩa tình ấy còn được Tố Hữu thể hiện thật sâu sắc qua ý thơ:

“Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”

Các hình ảnh: “chia củ sắn”, “bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui đắp cùng” kết hợp ba động từ “chia-
sẻ-đắp” đã cụ thể hoá tình đoàn kết, hữu ái giai cấp, gắn bó sâu sắc, chân thành giữa cách mạng
và nhân dân. Đó cũng là những động từ bộc lộ tình cảm đồng cam cộng khổ của Việt Bắc và
cách mạng. Nhớ những ngày đói kém, ta cùng mình chia bùi sẻ ngọt: đói ăn ta có củ sắn chia
đôi, bát cơm sẻ nửa; nhớ mùa đông lạnh giá, ta đã cùng mình đắp chung một mảnh chăn sui.
Thế mà cùng nhau đi qua bao gian khó. Đó là tình cảm thuỷ chung, gắn bó được chưng cất qua
thời gian dài mà ta cùng mình chung lưng đấu cật, có phúc cùng hưởng, có hoạ cùng chia. Tình
cảm ấy là muôn đời không thời gian nào có thể làm cho phai mờ.

2.2. Nỗi nhớ trải dài qua khắp núi rừng Việt Bắc rộng lớn, để rồi quy tụ về những kỷ niệm:

Trước hết là nhớ người mẹ nuôi Việt Bắc đã hết lòng vì cán bộ chiến sĩ:

“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô”

Hình ảnh “người mẹ nắng cháy lưng” gợi cho người đọc liên tưởng đến thiên nhiên Việt Bắc vô
cùng khắc nghiệt. Nắng thì đến cháy lưng, mà rét thì như cắt da cắt thịt. Hai chữ “cháy lưng”
nhói lên nỗi xót thương vô hạn của tác giả đối với những bà mẹ Việt Bắc. Các động từ “địu con”,
“bẻ từng” cũng gợi lên sự tần tảo, cần cù lao động, vất vả gian khổ của bà mẹ nuôi trong kháng
chiến đã đùm bọc, cưu mang chiến sĩ, cán bộ cách mạng. Người mẹ không quản ngại thời tiết
khắc nghiệt, dữ dội “nắng cháy lưng” vẫn cần mẫn vừa địu con vừa lao động. Hai chữ “bẻ từng”
gợi ra dáng vẻ người mẹ đang cặm cụi lao động, mẹ đang chắt chiu, dành dụm từng hạt bắp
làm lương thực nuôi quân. Đó là những ân tình không thể nào quên trong ký ức của người về.
Thầy Phan Danh Hiếu

2.3. Đoạn thơ sau đó sử dụng phép liệt kê và điệp ngữ “nhớ sao” để làm sống dậy những kỷ
niệm, những sinh hoạt ở Việt Bắc:

Điệp từ “nhớ” và kiểu câu bắt đầu bằng “nhớ sao” khiến cho nỗi nhớ như mênh mang, như
trải dài vô tận. Đó là kỷ niệm với lớp học bình dân học vụ – nơi cán bộ dạy chữ cho nhân dân
vùng cao (lớp học i tờ); nhớ những đêm liên hoan văn nghệ giữa núi rừng đầy náo nức, tưng
bừng:

“Nhớ sao lớp học i tờ

Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan”

Nhớ những ngày tháng hoạt động cách mạng:

“Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo”.

Đó là ngày tháng hoạt động cách mạng đầy gian nan, vất vả nhưng tinh thần thì luôn vui vẻ. Câu
thơ “gian nan đời vẫn ca vang núi đèo” có sự tương phản giữa đời sống vật chất gian khổ và
tinh thần luôn lạc quan, yêu đời. Dù có khó khăn đến đâu thì vẫn cứ “ca vang núi đèo”. Đến cả
những âm thanh của đời thường cũng đi vào nỗi nhớ của người ra đi khiến cho mỗi chiều, mỗi
đêm khuya càng thêm thao thức:

“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nên cối đều đều suối xa”.

Hai câu thơ cuối gợi nhớ vẻ đẹp thanh bình của núi rừng Việt Bắc. Tiếng mõ rừng chiều gợi hình
ảnh từng đàn trâu, đàn bò từ rừng núi thong thả trở về bản làng, tiếng mõ vang vọng, rộn ràng
cả buổi chiều sơn cước. Mỗi đêm khuya thanh vắng, tiếng chày giã gạo từ suối xa vẫn đều đều
vỗ về trong giấc ngủ.

3. Nhận xét, đánh giá nội dung và nghệ thuật.


– Nội dung: đoạn thơ vừa phân tích trên đây là đoạn thơ tiêu biểu cho nghĩa tình cao đẹp giữa
cán bộ và nhân dân Việt Bắc. Đoạn thơ đã khơi dậy kỷ niệm mười lăm năm gắn bó keo sơn bền
chặt với bao vất vả gian lao thiếu thốn nhưng luôn đầy lạc quan, tin yêu. Qua đó người về cũng
tự nhắc nhở mình đừng quên cội quên nguồn.

– Nghệ thuật: Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu: phong cách trữ tình chính trị. Câu
chuyện chính trị, chuyện chia tay lịch sử giữa nhân dân và cách mạng đã được lãng mạn hóa
thành cuộc chia tay của “ta” và “mình” đang tạm xa nhau đi làm nghĩa vụ. Phong cách thơ Tố
Hữu còn được thể hiện qua tính dân tộc trong nội dung và hình thức thể hiện. Về nội dung,
đoạn thơ để lại vẻ đẹp của truyền thống dân tộc với đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Về hình
thức nghệ thuật, thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào một số yếu tố nghệ thuật đã được
Tố Hữu vận dụng một cách nhuần nhuyễn và sáng tạo: thể thơ lục bát truyền thống với âm điệu
ngọt ngào, sâu lắng. Cách miêu tả giàu hình ảnh. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu phong phú cho
bài thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo (câu hỏi tu từ, điệp từ, điệp ngữ,
liệt kê…). Ngôn ngữ trong sáng, nhuần nhị, và có nhiều nét cách tân (đặc biệt là hai đại từ Ta –
Mình). Tất cả đã hòa quyện lại và chắp cánh, nâng đỡ cho ngòi bút của Tố Hữu thăng hoa cùng
Việt Bắc.

You might also like