You are on page 1of 28

VIỆT BẮC "Tiếng ai tha thiết bên cồn

Tố Hữu Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi"


Tháng 10 năm 1954, sau khi cuộc kháng chiến gian khổ chống thực dân Người ra đi lặng im là để tri âm, để "tiếng ai" từ từ ngân vang, đi sâu vào
Pháp kết thúc thắng lợi vẻ vang, Trung ương Đảng và Chính phủ rời Việt hồn mình cho thật trọn vẹn, thật đầy đủ. Lặng im nhưng vẫn không kém
Bắc để trở lại Hà Nội tiếp tục lãnh đạo cách mạng. Trước sự kiện đó, Tố phần mãnh liệt. Người ở lại nói "thiết tha", người đi nghe "tha thiết ", sự hô
Hữu đã viết một bài thơ dài "Việt Bắc". Đây là bài thơ ân tình cách mạng, ứng ngôn từ này tạo được sự đồng vọng trong lòng người. Nhịp thơ lục bát
gợi lại những kỷ niệm thân thiết và đẹp của Việt Bắc từ ngày đầu gian khổ đang đều đặn, nhịp nhàng uyển chuyển, níu kéo nhau ở đoạn trên, đến đây
chắt chiu xây dựng căn cứ địa cách mạng cho đến khi kháng chiến thắng như cũng vì chút bối rối ấy ở trong lòng người mà thay đổi:
lợi. Bài thơ kết cấu theo lối hát giao duyên đối đáp nam nữ. Tố Hữu đã thay "Áo chàm đưa/ buổi phân li
nội dung tình yêu của dân ca thành tình nghĩa cách mạng. Người Việt Bắc Cầm tay nhau/ biết nói gì/ hôm nay..."
và người cán bộ về xuôi gọi nhau bằng "mình" , "ta" như đôi lứa yêu nhau. Trong giờ phút chia tay sau một khoảng thời gian dài gắn bó, có biết bao
Tình nghĩa cách mạng được thể hiện như tình yêu đôi lứa. Vì thế bài thơ nhiêu kỉ niệm ngọt bùi, sâu nặng, có nhiều điều để nói nhưng không thể nói
như một thứ men say ngấm sâu vào hồn người, trở nên gần gũi, đằm thắm đủ, nói trọn vẹn. Vì thế nên lòng người cũng "bâng khuâng", bước chân
hơn với những cung bậc lan tỏa của nó. cũng "bồn chồn". Và mặc dù người đi không trực tiếp trả lời câu hỏi của Việt
Mở đầu bài thơ là những lời phảng phất phong vị ca dao, tái hiện lại cảnh Bắc nhưng hình ảnh "áo chàm", hình ảnh con người Việt Bắc được nhắc
tiễn biệt đầy dùng dằng, quyến luyến: đến một cách ý tứ trong đoạn thơ chính là để nói lên tình cảm của người ra
"Mình về mình có nhớ ta đi đối với người ở lại là vô cùng thủy chung, sâu nặng.
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng Câu hỏi nối tiếp câu hỏi, tất cả như khơi sâu vào kỉ niệm, làm hiện lên chân
Mình về mình có nhớ không dung một Việt Bắc gian nan mà tình nghĩa, thơ mộng mà rất đỗi hào hùng ...
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn" trong miên man nỗi nhớ của người ra đi:
Con người đang đứng trước một cuộc biệt li nên câu thơ cũng nhuốm màu "Mình đi, có nhớ những ngày
li biệt. Tác giả đặt đại từ "mình" và "ta" ở hai đầu câu thơ tạo cảm giác xa Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
xôi, cách biệt, ở giữa là tâm trạng băn khoăn của người ở lại: sợ bạn không Mình về, có nhớ chiến khu
giữ được thủy chung trước bao đổi thay, "cám dỗ" của cuộc sống mới. Lòng Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
ngập tràn nhớ thương, người Việt Bắc không nén được lòng mình đã đưa Mình về, rừng núi nhớ ai
ra những câu hỏi dồn dập: "mình có nhớ ta", "mình có nhớ không"?... càng Trám bùi để rụng, măng mai để già
làm cho lòng người ra đi thêm nhiều quyến luyến, cứ vang lên như một Mình đi, có nhớ những nhà
niềm khắc khoải khôn nguôi. Không chỉ đưa ra những câu hỏi, người Việt Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Bắc còn nhắc lại khoảng thời gian dài "mười lăm năm" như trong truyện Mình về, có nhớ núi non
Kiều. Nhưng nếu mười lăm năm trong đời Kiều là mười lăm năm truân Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
chuyên lưu lạc thì ở đây là mười lăm năm thiết tha, mặn nồng, mười lăm Mình đi, mình có nhớ mình
năm chung sống, gắn bó. Mới đọc cặp lục bát đầu tiên, ta ngỡ như nghe Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa."
một câu ca dao quen thuộc kiểu như: "Mình về có nhớ ta chăng, Ta về ta Nhớ Việt Bắc là nhớ những ngày gian khổ hy sinh: "Mưa nguồn suối lũ
nhớ hàm răng mình cười" ...trong đó người tình chỉ nhắc nhớ kỉ niệm về những mây cùng mù" khó khăn nhiều, gian khổ cũng lắm nhưng cán bộ và
"mười lăm năm ấy" . Nhưng đến cặp lục bát tiếp theo thì nó lại không còn là đồng bào cùng đồng cam cộng khổ, cùng có mối thù sâu nặng với quân
thơ tình yêu nữa mà gợi đến tình cảm cội nguồn. "Núi" là quê hương của xâm lược: "Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai". Đồng thời nhớ Việt
cây, "nguồn" là nơi bắt đầu của mỗi dòng sông. Nói "nhớ núi", "nhớ nguồn" Bắc là nhớ tình nghĩa đồng bào sâu nặng. Người về khiến núi rừng cũng trở
là nói đến nỗi nhớ quê hương cách mạng, ngọn nguồn cách mạng. nên trống vắng, ngẩn ngơ, các điệp khúc "mình đi", "mình về" được nhắc đi
Bốn câu thơ đầu tạo thành hai câu hỏi rất khéo: một câu hỏi về thời gian, nhắc lại một cách tha thiết, khiến cho không gian, thời gian của Việt Bắc
một câu hỏi về không gian, gói gọn một thời cách mạng, một vùng cách hiện ra từ trong khói sương của hoài niệm, của tâm trạng chất chứa nhớ
mạng. nhung trở nên rõ nét và rõ tình hơn. Bằng cách sử dụng đại từ "ai" phiếm
Trước tâm trạng, nỗi niềm bộc bạch của kẻ ở, người đi im lặng lắng nghe: định mà ca dao thường dùng để diễn đạt những tình cảm kín đáo, bằng
cách dùng cái thừa để nói cái thiếu, người Việt Bắc hỏi về người về xuôi và Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
cũng là hỏi vào sự trống vắng nay mai của lòng mình. Qua cách sử dụng Nhớ từng bản khói cùng sương
thủ pháp đối lập giữa "lau xám" và "lòng son", giữa "hắt hiu" và "đậm đà", Sớm khuya bếp lửa người thương đi về"
người Việt Bắc nhấn mạnh sắc độ của nỗi nhớ: nỗi nhớ xám trắng như Nhớ không tách rời với thương, nhớ là vì thương mà sinh ra nhớ. Cái nghĩa
ngàn lau hiu hắt, nỗi nhớ còn vẹn nguyên, còn sắt son ở trong lòng. Người đậm đà, cái tình đằm thắm trong hồn thơ và giọng thơ Tố Hữu hòa điệu với
Việt Bắc còn bày tỏ nỗi lo âu, dự cảm: "Mình đi mình có nhớ mình". Ba chữ khả năng quan sát tinh tế của nhà thơ đã làm cho hình ảnh "trăng lên đầu
"mình" được dùng liên tiếp trong một dòng thơ làm cho ý thơ trở nên đa núi nắng chiều lưng nương" để lại dấu ấn rất sâu trong tâm trí người cán bộ
nghĩa một cách thú vị: "Anh đi anh có nhớ tôi không?" "Anh đi anh có nhớ kỉ cách mạng. Nhớ Việt Bắc là nhớ những bản làng mờ trong sương sớm,
niệm của chúng ta không?" và cũng có thể người Việt Bắc muốn nhắc nhở: những bếp lửa nhà sàn rực hồng trong đêm lạnh để sớm khuya đón đợi
" Anh đi anh có nhớ chính anh không?". Cả người ở lại lẫn người ra đi đều "người thương đi về". Thi ảnh này bỗng dưng làm nhớ đến một câu trong
được gói vào trong một chữ "mình" tha thiết bởi "mình" là bản thân mình, là "Tiễn dặn người yêu":
ta, nhưng cũng là người khác, một người khác thân thiết của mình, người "Lửa sàn hoa để bạn trai xa hơ áo
bạn đời của mình, vì vậy cũng có thể xem như chính mình. Mình là một mà Em bẻ đóm ngồi chờ mồi thuốc anh yêu"
cũng là hai, là hai mà cũng là một ... Đồng thời còn là vì "ta" và "mình" đều Và cứ thế nghĩa tình Việt Bắc càng sâu nặng, thủy chung qua trùng trùng
là kháng chiến, đều là cách mạng nên gắn bó không tách rời nhau là lẽ dĩ liên tưởng. Và dẫu "ngoại tại" có chia xa thế nào thì "nội tại" chẳng bao giờ
nhiên, là điều dễ hiểu. Người Việt Bắc còn nhớ đến những địa danh đã đi tắt lửa, "ta" và "mình" ủ ấm tình nghĩa năm xưa không chỉ bằng tro, than
vào lịch sử, gắn liền với những sự kiện cách mạng: "Tân Trào Hồng Thái, của hoài niệm mà bằng cả những gì tốt đẹp nhất đang bùng cháy trong
mái đình cây đa" nhau. Dẫu phải cách xa để tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ thì "ta" và "mình"
Đáp lại những câu hỏi, những băn khoăn của người Việt Bắc, người cán bộ vẫn mãi là thủy chung, son sắt trọn đời.
về xuôi khẳng định tình nghĩa của mình là vẫn còn sâu đậm, dẫu có thế nào Những nẻo đường kháng chiến đã qua, những địa danh thân quen được
thì sự keo sơn, gắn bó vẫn là bền chặt, vẫn không phai nhạt theo thời gian: cất lên ngân nga như tiếng hát:
"Ta với mình, mình với ta "Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh" Ngòi Thia, sông Đáy, suôi Lê vơi đầy"
Nếu trong câu thơ Hàn Mặc Tử: "Lối theo lối gió mây đường mây" đã từng Hiện lên trong nỗi nhớ của người miền xuôi là một Việt Bắc tuy thiếu thốn
làm lòng người phải run lên vì cô độc: đi đâu rồi mình cũng chỉ gặp mình, gian khổ nhưng vẫn đầy ắp nghĩa tình:
gió đi về với gió, mây cuộn tròn trong mây, chia lìa tan vỡ ... thì trong câu "Ta đi ta nhớ những ngày
thơ trên của Tố Hữu, cũng với phép điệp nhưng "ta" và "mình" xoắn xuýt, Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi
hòa quyện vào nhau tạo tình cảm thủy chung, sâu nặng và bền chặt: đi đâu Thương nhau chia củ sắn lùi
rồi "ta" cũng sẽ gặp "mình", "mình" đi đâu rồi cũng sẽ về với "ta". Cô đơn, Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng"
chia lìa không còn nữa mà chỉ còn tràn ngập hạnh phúc trong niềm vui đoàn Đắng cay cùng hưởng, ngọt bùi cùng chia, vui vẻ chia nhau củ sắn lùi nóng
kết với nhau. hổi tình người hay chung nhau đắp chiếc khăn mỏng nhưng ấm áp nghĩa
Đáp lại băn khoăn của người Việt Bắc: "Mình đi mình có nhớ mình", người tình... Tất cả những khoảnh khắc ấy làm sao quên được? Nó cứ sáng mãi
cán bộ về xuôi đã có một câu trả lời chắc nịch:"Mình đi mình lại nhớ mình" trong lòng người ra đi, sống trong tâm trí người ở lại, ghi dấu một thời
và khẳng định tình nghĩa là dạt dào không bao giờ cạn: "nguồn bao nhiêu chẳng thể xóa nhòa.
nước nghĩa tình bấy nhiêu". Nhớ Việt Bắc còn là nhớ đời sống cần lao của đồng bào, nhớ những sinh
Sự gắn bó sâu nặng với Việt Bắc đã làm cho cảnh Việt Bắc được tái hiện hoạt kháng chiến, những lớp bình dân học vụ, những đêm liên hoan văn
trong nỗi nhớ của người miền xuôi đã đẹp lại càng thêm lung linh, sinh nghệ ca hát rộn vang núi rừng. Nhớ Việt Bắc còn là nhớ những âm thanh
động. Nỗi nhớ trong tác giả thiết tha đến độ day dứt, cồn cào, ám ảnh như rất đặc trưng của miền rừng núi: tiếng mõ trâu về trong rừng chiều, tiếng
là nhớ người yêu. Cuộc sống, hình ảnh khi dòng thời gian đi qua đã biến chày giã gạo đêm đêm ngoài suối xa.
thành kỉ niệm, thành tình cảm, lúc rõ nét, thấm thía, lúc lại mơ màng, xa vợi, Có những khổ thơ được trình bày như một bức tranh tứ bình về cảnh bốn
chung rất chung mà riêng cũng riêng đến từng chi tiết: mùa với những nét đặc trưng của Việt Bắc:
"Nhớ gì như nhớ người yêu "Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người đẹp thơ mộng rất riêng của Việt Bắc cũng một phần ở cách diễn tả sự vật,
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi hiện tượng độc đáo nửa hư nửa thực của nhà thơ.
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng Thiên nhiên sống động, tươi sáng hẳn lên phải chăng là nhờ sự xuất hiện
Ngày xuân mơ nở trắng rừng của con người. Đó là hình ảnh người lên nương với con dao đi rừng chói
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang sáng ánh trời. Đó là hình ảnh con người đang cần mẫn chuốt từng sợi
Ve kêu rừng phách đổ vàng giang đan nón giữa mùa xuân. Đó là hình ảnh cô em gái đang hái măng
Nhớ cô em gái hái măng một mình một mình trong rừng vàng. Có phải vì trong kí ức của tác giả, bốn mùa ở
Rừng thu trăng rọi hòa bình Việt Bắc đều là mùa vui nên tất cả đều ấm áp, tươi sáng. Màu xanh, đỏ,
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung" trắng, vàng trong cả bốn bức tranh bỗng nhiên trở thành sắc màu riêng của
Trong bề bộn của kí ức và hoài niệm, bức tranh sáng, đẹp về Việt Bắc hiện nỗi nhớ, của hoài niệm; một sắc màu rất riêng chỉ có ở núi rừng Việt Bắc.
ra trong nỗi nhớ của người về xuôi như một dấu son tươi nguyên của kỉ Nhưng có lẽ, để lại ấn tượng sâu đậm nhất là tiếng hát ân tình thủy chung
niệm. của người Việt Bắc, nó vượt qua trập trùng núi rừng, băng qua mênh mông
Câu thơ mở đầu của đoạn vừa là lời đối thoại, vừa là cái cớ để người ra đi biển cả của thời gian mà vướng vít bước chân người đi. Điệp từ "nhớ "
bày tỏ nỗi lòng mình. Ấn tượng sâu đậm trong nỗi nhớ của người về xuôi là được lặp lại nhiều lần khiến cả đoạn thơ bao trùm một tình cảm nhớ thương
thiên nhiên Việt Bắc, hòa vào thiên nhiên ấy là hình ảnh con người. Phải là tha thiết.
một nhà thơ tài hoa, Tố Hữu mới có những khéo léo nghệ thuật đến vậy. Nhớ về Việt Bắc là nhớ cảnh nhớ người nhưng quan trọng hơn là nhớ về
Bằng kí ức, hoài niệm về ngày qua, nhà thơ đã chuyển bức tranh tứ bình kháng chiến - một Việt Bắc kháng chiến thật hào hùng:
thiên nhiên (xuân - hạ - thu - đông) thành bức tranh tứ bình nỗi nhớ - một "Nhớ khi giặc đến giặc lùng
nỗi nhớ được "thị giác hóa": mùa đông với màu xanh bạt ngàn của núi Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
rừng, với nét đỏ tươi của hoa chuối điểm lên trên nền màu xanh; mùa xuân Núi giăng thành lũy sắt dày
với màu hoa mơ trắng xóa cả núi rừng; mùa hạ với màu vàng rực của rừng Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù"
phách đổ lá; mùa thu với màu trăng huyền ảo trải đầy khắp núi rừng. Nhờ Chỉ với bốn câu thơ, chữ "rừng" và chữ "núi" lặp đi lặp lại đến năm lần, nó
đó mà bức tranh theo kiểu bộ tứ bình của nghệ thuật truyền thống Đông rải kín câu thơ, rải kín đất Việt Bắc tạo thế hiểm của trường thành, lũy thép
phương đã đạt đến độ hài hòa, cân xứng theo cả hai mảng xa và gần: vây bọc quân thù.
mảng xa là thiên nhiên, mảng gần là con người, hòa quyện vào nhau trong Trong những ngày đầu gian khổ của giai đoạn cầm cự, phòng ngự, bộ đội
nỗi nhớ về Việt Bắc của người ra đi. phải dựa vào nhân dân, dựa vào núi rừng Việt Bắc hiểm trở để đánh địch.
Đoạn thơ này còn mang một vẻ đẹp cổ điển như truyện Kiều nhờ ở sự đan Trước giờ khắc quyếtl định của lịch sử, không chỉ nhân dân mà cả núi rừng
cài vẻ đẹp thiên nhiên vào vẻ đẹp con người: ở câu thơ thứ 2 của đoạn thơ cũng đều vùng lên, chung sức đánh Tây. Trước cuộc kháng chiến đầy gian
này, chữ thứ 6 là "hoa", chữ thứ 8 là "người", thì ở trong 8 câu thơ tiếp lao của quân dân Việt Bắc, núi rừng cũng trở nên có chí, có tình người, đã
theo, tác giả cũng theo "nguyên tắc" ấy: câu thơ 6 chữ nói về thiên nhiên, trở thành những người đồng đội, những chiến sĩ anh hùng của toàn quân.
câu thơ 8 chữ nói về con người. Thiên nhiên, con người quấn quýt nhau. Trong một hoàn cảnh, rừng đảm nhận hai vai trò: đối với các chiến sĩ, rừng
Thiên nhiên làm nền cho con người, con người thổi hồn mình vào cảnh như người mẹ dịu hiền ôm ấp, chở che cho đàn con thơ; trước mặt kẻ thù
khiến thiên nhiên trở nên sống động và đẹp hơn. cướp nước, rừng trở nên kiên quyết đến dữ dằn bởi trước cái ác, cái xấu
Từ cái nền phương Đông cổ điển, đoạn thơ ánh lên những câu thơ đột mà nhún nhường sẽ là hèn nhát biết bao. Cái trùng điệp của rừng, cái tư
xuất. Câu thơ: "Ve kêu rừng phách đổ vàng" hơi là lạ. Tác giả muốn nói đến thế hiên ngang, kiêu hùng của vách núi... đã làm biết bao kẻ thù khi đến
tiếng ve kêu râm ran trong rừng phách đang đổ lá vàng hay muốn nói chính Việt bắc đã phải khiếp sợ và bất lực. Quả thật Việt Bắc là một vùng "địa linh
tiếng ve kêu làm cho rừng phách vàng trút lá? Có lẽ là ở cả hai phương nhân kiệt" để từ đó:
diện ấy chăng ? Mỗi người đọc có thể từ cái logic của sự vật mà tìm đến cái "Mênh mông bốn mặt sương mù
logic của từ ngữ để nghĩ đến một màu thật dịu nhẹ, sáng trong của bức Đất trời ta cả chiến khu một lòng"
tranh. Ta cũng đã từng gặp một câu thơ có cấu trúc như thế của Khương Đất trời chìm lấp trong cả màn sương giăng mắc khắp nơi khiến cho khung
Hữu Dụng: "Một tiếng chim kêu sáng cả rừng" - phép ảo hóa đã giúp cảnh chiến đấu vừa hùng dũng lại vừa mơ mộng. Có lẽ vì thế mà dù giữa
Khương Hữu Dụng phát hiện ra màu bình minh của tiếng chim và có lẽ, vẻ một biển sương mù khó khăn, con người vẫn không mất đi vẻ đẹp lãng mạn
của lòng mình, giúp họ có được cái nhìn tươi sáng hơn về ngày mai. Cả vũ mạnh của đoàn binh tràn đầy nhiệt huyết hơn những từ ấy? Nó vừa diễn tả
trụ, núi rừng Việt Bắc giờ đây đang cùng nhìn về một hướng: đang hướng vẻ đẹp hùng dũng bên ngoài lại vừa miêu tả sức mạnh quật cường bên
về cuộc chiến đấu, hướng về sứ mệnh bảo vệ quê hương, đất nước dấu trong. Trong những con người hiên ngang ấy, họ không chỉ biết làm bạn với
yêu của mình. khói lửa đạn bom mà họ còn đôi lúc thả hồn theo trăng sao; sự hài hòa giữa
Sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc đã tạo cho nhân dân Việt Bắc làm sự dữ dội và vẻ đẹp lãng mạn đã làm nên sự chói sáng trong tâm hồn
nên những chiến công vang dội. Hàng loạt địa danh vang lên, mỗi nơi gắn người lính. Hình ảnh "ánh sao đầu súng" mặc dù không mới vì ta đã từng
với một thắng lợi vinh quang: gặp một lần trong thơ Chính Hữu: "Đầu súng trăng treo" (Đồng chí) nhưng
"Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng vẫn có sức lay động lạ kì cái phần hồn dân tộc trong mỗi người Việt Nam.
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng Gian khổ hy sinh nào rồi cũng được đền bù xứng đáng, những địa danh
Nhớ từ Cao Lạng, nhớ sang Nhị Hà" chiến thắng ghi dấu niềm vui cứ tuôn trào ra theo từng câu chữ, theo từng
Những thắng lợi quan trọng bước đầu ấy đã thay đổi cục diện chiến trường, nhịp đập rộn ràng của trái tim con người:
tạo thế và lực cho cuộc kháng chiến, củng cố niềm tin vào thắng lợi cuối "Tin vui chiến thắng trăm miền
cùng. Những thắng lợi ấy không chỉ trải dài theo chiều rộng thời gian mà Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
còn trải dài trong mênh mang nỗi nhớ. Nhớ đến những trận đánh, những Vui từ Đồng Tháp, An Khê
chiến công không chỉ vì đó là những vinh quang mà vì còn biết bao nhiêu Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng"
máu xương mà đồng đội đã để lại nơi chiến trường. Chiến thắng nào lại Năm xưa, cũng trong không khí rộn ràng phấn khởi của chiến thắng như
không phải trả giá đâu? Vì thế, càng đau thương lòng người ra đi lại càng bây giờ, Nguyễn Trãi đã từng sung sướng ngồi đếm lại những tháng ngày
thêm nhớ. Nhắc đến những chiến công với một niềm tự hào và trân trọng, ghi tên trong lịch sử:
nhà thơ như muốn thắp lên nén tâm hương để tưởng nhớ những người anh "Ngày mười tám ...
hùng đã ngã xuống vì độc lập, tự do của đất nước, của dân tộc. Ngày hai mươi ...
Không khí của cuộc kháng chiến chống Pháp vào giai đoạn tấn công được Ngày hai lăm ...
miêu tả thật hào hùng, lạc quan. Thực tiễn cách mạng lúc này đòi hỏi phải Ngày hai tám ..."
miêu tả khí thế của đám đông trên nền không gian lớn. Do vậy mà bút pháp Ngày nay, nhà thơ hay nói đúng hơn là người ra đi cũng đang tự hào ngồi
thủ thỉ "mình -ta" kia phải nhanh chóng vươn tới hình thức tráng ca để tạc liệt kê những địa danh soi mình trong sách sử.
lấy bức tượng đài hùng vĩ của Việt Bắc kháng chiến: Trong hoài niệm của người ra đi còn hiện lên những hình ảnh của Đảng và
"Những đường Việt Bắc của ta Chính phủ với bộn bề trăm công nghìn việc: vừa tổ chức chiến đấu, vừa tổ
Đêm đêm rầm rập như là đất rung chức sản xuất để phát triển đời sống, phát triển giáo dục.
Quân đi điệp điệp trùng trùng Ở khổ thơ cuối đoạn trích, hình thức hỏi - đáp đã trở nên hết sức tinh tế và
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan sâu sắc, tạo cho đoạn thơ có một sự khái quát lớn:
Dân công đỏ đuốc từng đoàn "Ở đâu u ám quân thù'
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày Ở đâu đau đớn giống nòi
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên" Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền"
Tiết tấu ngân nga, dìu dặt như lời ru ở đoạn thơ trên đến đây được tác giả Màu sắc trữ tình đã chuyển sang lí trí trong những câu thơ mang dáng vẻ
phá vỡ tính cân xứng để tạo ra một kết cấu khác phi đối xứng ("Quân đi / khẳng định chân lí kiểu châm ngôn. Biện pháp điệp ngữ "ở đây" kết hợp với
điệp điệp trùng trùng, Dân công / đỏ đuốc từng đoàn .., Nghìn đêm / thăm phép đối giữa "u ám" và "sáng soi", giữa "đau đớn" và "chí bền" đã làm cho
thẳm sương dày... ") làm giọng thơ trở nên gắt, mạnh, dồn dập như âm Việt Bắc thành đầu mối quy tụ tư tưởng., tình cảm của cả dân tộc, là điểm
hưởng bước hành quân vũ bão. Hệ thống từ vựng mở căng cường độ diễn chốt lại của bài thơ. Việt Bắc không còn là một ký hiệu riêng tư mà trở thành
tả, hình ảnh kì vĩ, ý thơ phóng xa vào viễn cảnh... tất cả tạo nên một bức biểu tượng của niềm tin và hy vọng. Việt Bắc bình dị thành Việt Bắc thiêng
tranh sử thi hoành tráng để ca ngợi sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, của liêng.
nhân dân anh hùng. Miêu tả cảnh hành quân, nhà thơ sử dụng cụm từ "điệp Đoạn thơ khép lại bằng một lời đáp về nỗi nhớ một thời cách mạng và một
điệp trùng trùng" thật chính xác. Còn từ ngữ nào có thể diễn đạt được sức vùng cách mạng:
"Mười lăm năm ấy, ai quên chính. Vì thế vượt qua thời gian, bài thơ của Quang Dũng ngày càng thêm
Quê hương cách mạng dựng nên cộng hòa"
tỏa sáng trên thi đàn dân tộc.
Thơ ca cách mạng đã tìm được vẻ đẹp khá toàn bích của mình trong thành
công của bài thơ "Việt Bắc". Tiếng thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu đã "Tây Tiến" là sự hòa trộn của ba cuộc đời - cuộc đời một vùng đất (với
mượn hình thức cấu tứ và thể loại đậm tính dân tộc; nhờ thế giọng lục bát mênh mông núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở và rất đỗi mộng mơ), cuộc
điêu luyện, ngọt ngào như suối của Tố Hữu vừa nói được những vấn đề lớn
đời những chàng trai Hà thành mặc áo lính Tây Tiến, dũng cảm, hào hoa,
lao của thời đại mới, vừa chạm được vào chỗ thẳm sâu trong truyền thống
ân nghĩa, thủy chung của tâm hồn dân tộc Việt. Với tình thơ tha thiết, điệu lãng mạn, và cuộc đời Quang Dũng gắn bó bằng sinh mệnh mình với Tây
thơ êm ái, "Việt Bắc" trở thành một khúc trữ tình nồng nàn, sôi nổi bậc nhất Bắc một thời binh lửa.
trong thơ ca cách mạng hiện đại và cũng là một trong những bài thơ hay
Người xưa thường luận về phép làm thơ: ý kị nông, mạch kị lộ. Có phải
nhất của đời thơ Tố Hữu.
Quang Dũng đã thấu được điều ấy hay không mà mới đầu bài thơ có tên là
"Nhớ Tây Tiến" nhưng sau đó ông bỏ đi chữ "Nhớ", làm mạch thơ không bị
lộ, đồng thời tô đậm được hai chữ quan trọng nhất: Tây Tiến - một cái tên
máu thịt, một nét khảm vào hoài niệm, một dư âm không dứt của đời chiến
TÂY TIẾN
Quang Dũng binh.
Nhớ Tây Tiến là nhớ ngay về rừng núi. Đấy là một nỗi nhớ chơi vơi,
dâng sóng ngay từ những câu mở đầu, làm cho bài thơ ăm ắp cả nỗi nhớ:
"Chúng tôi đi chẳng tiếc đời mình " Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
(Tuổi hai mươi làm sao không khỏi tiếc) Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi Ta bắt gặp ở đây cái cảm giác trống vắng, nuối tiếc, lửng lơ không định
Thì còn chi Tổ quốc" hình, định vị. Đó là cái cảm giác của một người đang nhớ về những gì đã
(Thanh Thảo) qua, đã tuôt khỏi tay mình. "Nhớ chơi vơi" là nỗi nhớ không có hình, có
Đó là ý chí "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" của những chàng trai thời lượng, nó nhẹ tênh mà lại nặng khôn cùng, bởi không thể đo được, cân được.
chiến. Nhà thơ Quang Dũng với "Tây Tiến" - một trong những bài thơ hay Chỉ biết nó lửng lơ, đầy ắp, mênh mông, nó cồn cào, ám ảnh tâm trí mình, nó
nhất của thơ kháng chiến chống Pháp - đã trở thành một trong những nhà thơ da diết thương nhớ đến vô cùng. Trong dòng hoài niệm đã xuất hiện một cái
trẻ đầy tài năng của những năm tháng không thể nào quên ấy. Năm 1948, tên lịch sử: Tây Tiến, mà gắn liền với nó là dòng sông Mã hùng vĩ đã chứng
Quang Dũng từ biệt đoàn quân Tây Tiến thân yêu, ngồi ở làng Phù Lưu kiến biết bao nhiêu vui buồn của cuộc đời người chiến binh. Bây giờ sông
Chanh, tác giả viết bài thơ này trong nỗi nhớ cồn cào về đơn vị cũ, về một Mã và Tây Tiến đã xa rồi, đã cuộn tròn lại thành nỗi nhớ. Nỗi nhớ ấy cũng
đoạn đời chiến đấu đã qua, về những miền đất mà mình đã từng đặt chân dạt dào như thơ lãng mạn thời 1930 - 1945.
đến, về những đồng đội sống chết có nhau và cả về những kỉ niệm khó "Tương tư nâng lòng lên chơi vơi" (Xuân Diệu)
quên của mình.
Và trong ca dao cũng đã từng có một nỗi nhớ chơi vơi như thế:
Bài thơ "Tây Tiến" đã từng có một số phận khá truân chuyên, song thời
"Ra về nhớ bạn chơi vơi"
gian luôn là ông thầy công minh nhất cho những tác phẩm nghệ thuật chân
Có điều nỗi nhớ ấy là nhớ người yêu, còn ở đây là nhớ những kỉ niệm Vì thế, khi nó hiện ra trước mắt thì ấn tượng về nó thật là dữ dội. Tâm hồn
kháng chiến. Hai tiếng "chơi vơi" hiệp vần với âm "ơi" ở câu trên đã tạo lãng mạn, hào hoa của những người lính xuất thân từ thành thị này dễ bắt
được một hiệu quả ngữ âm đáng kể. Nó lan tỏa, ngân dài như tiếng vọng vào gặp với những cái phi thường. Họ sẵn sàng tô đậm, phóng đại những nét
vách đá mà phản âm lại, như dao động của những con sóng kế tiếp nhau vỗ cảnh cho phù hợp với kích cỡ tâm trí lãng mạn. Và mặc dù sương dày đến
bờ, như tiếng vang bất chợt bật ra từ cõi nhớ. Trong đời, có một lúc nào đó, mức che lấp cả đoàn quân mỏi, dốc núi ghập ghềnh tựa như vách đá hai bên
những kỉ niệm cũ trong ta bất chợt sống dậy với những đường nét và sắc lối đi hẹp và dựng đứng, phía trước mặt mịt mờ, xa lạ... nhưng với bản lĩnh
màu nóng bỏng cùng kéo nhau ùa về chật chội choáng ngợp trong hồn mình. của những con người trẻ tuổi, thích chinh phục khó khăn, họ đã vượt qua tất
Sau hai tiếng "chơi vơi" ấy, những ấn tượng sâu đậm về núi rừng miền Tây cả. Người lính trèo lên những ngọn núi cao như đang đi trên những đám
đã hiện ra. Nó mới thật dữ dội và khắc nghiệt làm sao: núi cao, dốc thẳm, mây, mũi súng chạm đến đỉnh trời... Quang Dũng đã khắc họa được bức
sương dày, thác gầm, cọp dữ và những cơn mưa mịt mù trời đất: tượng đài sừng sững về người chiến sĩ đứng hiên ngang giữa bầu trời quê
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi hương. Hình ảnh "súng ngửi trời" là một thi ảnh thật đẹp, táo bạo, vừa hóm
hỉnh, tinh nghịch mang đậm chất lính, khiến người lính Tây Tiến trước thiên
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
nhiên khắc nghiệt không bị chìm đi mà lại nổi lên đầy thách thức, gợi nhớ
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
hình ảnh rất đẹp của người vệ quốc quân trong thơ Tố Hữu:
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
"Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"
Núi không đè nổi vai vươn tới
Để chứng minh cho ý kiến "thi trung hữu họa", đoạn thơ trên của Quang
Lá ngụy trang reo với gió đèo"
Dũng là một điển hình. Chỉ với mấy câu thơ, thi sĩ Quang Dũng đã vẽ ra một
"Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống", câu thơ với dấu phẩy ở giữa
bức tranh hoành tráng diễn tả rất đạt sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo
câu như bị bẻ đôi diễn tả dốc núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng, nhìn
hút của núi rừng Tây Bắc - địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến. Ở
lên - cao chót vót, nhìn xuống - sâu thăm thẳm... Đoạn thơ của Quang Dũng
đoạn thơ trên, bút pháp tác giả đã đạt đến độ kết tinh - một đoạn thơ đầy âm
sử dụng hàng loạt những thanh trắc liên tiếp nhau, đọc lên nghe vất vả, nhọc
điệu. Sự hiểm trở của núi cao, vực thẳm hiện lên trong thơ không chỉ ở
nhằn. Tác giả còn sử dụng hàng loạt các địa danh nghe lạ tai: Sài Khao,
những tính từ mà chính là ở những âm điệu của thơ. Âm điệu dựng thành
Mường Lát, Pha Luông... đã làm tăng cái ấn tượng xa lạ, hoang sơ lên một
dốc: khúc khuỷu, thăm thẳm, cao, xuống... cứ hun hút đến ghê người. Khi
bậc, thật đúng là "đời bình phương nhưng thơ phải lập phương". Sau hàng
xưa, Nguyễn Du với những âm điệu trúc trắc, gập ghềnh trong một câu thơ
loạt câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc, tác giả đã hạ một câu thơ lơ lửng
"Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh" đã dự báo được số phận bi thảm
những vần bằng:
của nàng Kiều. Còn ngày nay, cũng bằng bút pháp ấy, Quang Dũng đã làm
hiện lên con đường hành quân đầy gian lao, vất vả của người lính Tây Tiến. "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"
Nhưng người lính Tây Tiến vốn là những thanh niên, học sinh ra đi từ một Câu thơ như tiếng thở phào nhẹ nhõm của người lính sau khi vượt qua
mái trường, góc phố của Hà Nội hoa lệ, nơi chỉ có những dãy phố dài cổ bao đèo cao, suối sâu, tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ngang
kính, có chùa Nghiên tháp Bút thâm nghiêm, có Tây Hồ liễu rũ... Cảnh núi ra xa, qua một không gian mịt mù sương rừng mưa núi, thấy thấp thoáng
rừng, cảnh chiến trường, họ chỉ được biết đến qua những trang sách học trò. những ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giữa biển khơi, trong một "đêm
hơi" mơ hồ, huyền ảo... gợi một niềm đầm ấm, thân mật trong lòng người. đại khi mà cả nước bước vào cuộc chiến đấu, đối mặt với đạn bom của một
Câu thơ giống như một gam màu lạnh giữa những gam màu nóng trong hội họa, bầy giặc mạnh mà mỗi người chỉ có hai bàn tay không và một tấm lòng
làm dịu lại, xoa mát cả đoạn thơ. "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Mỗi cuộc ra đi ngày ấy đều không hẹn
Đọc đoạn thơ, sự trùng điệp của núi rừng Tây Bắc làm nhớ đến mấy câu ngày về như lời một bài hát rất thịnh hành bấy giờ: "Đoàn vệ quốc quân một
thơ trong "Chinh phụ ngâm" : "Hình khe thế núi gần xa. Đứt thôi lại nối, lần ra đi, là có sá chi đâu ngày trở về". Ở họ, mỗi người lên đường lúc ấy
thấp đà lại cao" cũng như ta bắt gặp ở đây cái rợn ngợp như trong thơ đều mang trong mình hình ảnh và tâm trạng Kinh Kha:
Lý Bạch: "Tráng sĩ nhất khứ bất phục hoàn"
"Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên" Hai câu thơ của Quang Dũng dẫu có buồn vì nói đến sự hy sinh mất mát
(Thục đạo nan) nhưng vẫn không bi đát bởi thái độ của người hy sinh. Người chiến sĩ đã
vượt lên mình, dẫu không áp đảo được khó khăn nhưng họ cũng không chịu
(Đường xứ Thục khó đi, khó hơn cả lên trời xanh)
khuất phục. Họ bỏ cả tuổi xuân quý giá, nhưng là vì Tổ quốc nên nhẹ nhàng
Và như thế, sự hiểm nguy của thế núi đèo Tây Bắc được nhân mãi lên
như bỏ quên một vật gì bình thường. "Vì nước quên thân", thái độ sống ấy
qua trùng trùng liên tưởng.
của người chiến sĩ Việt Nam nói chung và Tây Tiến nói riêng cứ sáng lên
Miền Tây ngày ấy là nơi ngự trị của những vẻ âm u, hoang dã, là những rạng rỡ: Rạng rỡ trong không gian, rạng rỡ trong thời gian và rạng rỡ trong
thử thách ghê gớm đặt ra cho con người. Nó không chỉ được mở theo chiều hồn người, rạng rỡ để mà bất diệt. Đoạn thơ kết thúc đột ngột bằng kỷ niệm
không gian mà còn được khám phá ở cái chiều thời gian, những đe dọa ấm áp của một Tây Tiến khác:
khủng khiếp luôn luôn rình rập con người.
"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"
Sau khi vượt qua bao nhiêu rừng sâu, núi cao heo hút, người lính đến
Núi rừng miền Tây luôn có những âm thanh ghê rợn, luôn cất tiếng để được những bản làng có khói bếp, vườn tược với những cô gái Mai Châu
khẳng định cái uy lực đe dọa từ ngàn đời của nó. trao tặng nắm xôi còn thơm mùi nếp mới. "Nhớ ... Tiến ... khói". Ba thanh
Nhưng nói đến cái hùng vĩ, khắc nghiệt của núi rừng cũng là để làm nổi trắc bay lên như tạc hình tia khói mảnh len qua kẽ lá, tỏa lan ấm áp cả rừng
bật sự hào hùng của người chiến sĩ Tây Tiến. "Tây Tiến" là một cuộc hành chiều. Một thoáng thanh bình dọc đường hành quân đã trở thành những kỷ
quân vô cùng gian khổ, gian khổ đến nỗi: niệm ngọt ngào. Nó như một ốc đảo xanh tươi làm dịu lòng kẻ lữ hành qua
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa sa mạc. Đó là nguồn động viên, tiếp sức cho người lính băng qua những năm
Gục lên súng mũ bỏ quên đời" tháng chiến đấu gian khổ trong đời mình. Hai chữ "mùa em" là một sáng tạo
ngôn từ đột xuất, thật bạo lạ, thật đa tình và thật ... Quang Dũng. "Mùa em"
Gian khổ tưởng như đã vượt lên trên giới hạn chịu đựng của con người.
là gì? Không rõ lắm, chỉ biết nó là sự hòa hợp giữa cảnh và người Tây Bắc,
Người chiến sĩ ấy đã gục xuống khi chân không còn bước được nữa, gục
tạo nên một sự say đắm lòng người đến bâng khuâng ... Cái hay của câu thơ
xuống ngay trên đường đi, trong tư thế của người đang hành quân, ngay trên
là ở đấy, nó chông chênh giữa ranh giới của cái nắm bắt được và cái không
quân trang của mình. Cái chết của những chàng trai trẻ được miêu tả không
thể nào tìm hiểu đến ngọn ngành.
phải là nằm xuống, ngã xuống mà là "bỏ quên đời" - một cái chết nhẹ như
lông hồng ("Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao"). Nó đúng với không khí thời
Đoạn thơ mở đầu với mười bốn dòng thơ ôm quyện trong một khuôn bốc men say, ngất ngây rạo rực. Hai chữ "Kìa em" thể hiện cái nhìn vừa ngỡ
vần duy nhất, nhịp thơ khi căng khi chùng, có chỗ đối ý, có chỗ đối thanh, ngàng, ngạc nhiên vừa hân hoan, vui sướng của người chiến sĩ. Nhân vật
lúc uy nghi như tòa thạch tự, lúc gân guốc như vách đá hoang sơ, lúc trôi nổi trung tâm, linh hồn của đêm văn nghệ là những cô gái Thái núi rừng Tây Bắc
bồng bềnh như mây, như nước, lúc khoan khoái như mặc sức hít thở khí trời. bất ngờ hiện ra trong những bộ xiêm áo lộng lẫy, vừa e thẹn, vừa tình tứ
Tất cả đóng đinh thành một ấn tượng khá độc đáo trong lòng người đọc về trong một vũ điệu mang đậm màu sắc xứ lạ. Hình ảnh "Nhạc về Viên Chăn
cảnh núi rừng Tây Bắc và hình ảnh những người chiến sĩ quyết hiến mình xây hồn thơ" là hình ảnh đẹp, thơ mộng, diễn tả tâm hồn phong phú của
cho Tổ quốc, cho non sông. người lính Tây Tiến. Vẫn tưởng rằng những thử thách khắc nghiệt của núi
Trong nỗi nhớ của Quang Dũng còn có một thế giới khác của Tây Bắc. rừng dữ dội, những gian truân vất vả phải chịu đựng trên suốt dọc đường
Cảnh núi rừng hoang vu, hiểm trở, dữ dội, đã lùi dần rồi khuất hẳn để bất hành quân ... sẽ làm cho tâm hồn của người chiến sĩ trở nên chai sạn, khô
ngờ hiện ra vẻ mỹ lệ, thơ mộng, duyên dáng của Tây Bắc. Những nét bạo, cứng ... Nhưng không, tâm hồn họ vẫn phơi phới niềm lạc quan yêu đời. Họ
khỏe, gân guốc ở đoạn thơ đầu đến đoạn thơ này được thay bằng những nét vẫn tổ chức hội vui dù có thể chỉ ngày hôm sau, một người nào đó trong số
mềm mại, uyển chuyển, tinh tế. Cái thực, cái ảo đan cài, dệt nên cảnh đêm họ phải nằm lại nơi núi rừng u tịch, nhưng hôm nay tâm hồn họ vẫn ắp đầy
liên hoan văn nghệ với đuốc sáng hoa rừng và cảnh một buổi chiều sương mộng mơ. Luôn lạc quan yêu đời, vẫn sống với tâm hồn trẻ trung tươi mát,
bên ghềnh suối, bờ sông: người lính Tây Tiến mãi ôm ấp trong lòng những hình ảnh rất đỗi bình
thường. Trong dòng hoài niệm, hiện lên không gian dòng sông trong một
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
buổi chiều giăng mắc khói sương. Sông nước, bến bờ lặng tờ, hoang dại như
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
thời tiền sử. Và trên dòng sông đậm màu sắc cổ tích, huyền thoại ấy nổi bật
Khèn lên man điệu nàng e ấp
lên hình dáng mềm mại, uyển chuyển của cô gái Thái trên chiếc thuyền độc
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
mộc xuôi về Châu Mộc. Hoà hợp với con người, những bông hoa rừng cũng
như đong đưa, như muốn làm duyên bên dòng nước lũ. Ở cái nẻo bến bờ xa
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
khuất ấy, ngàn lau vô tri như cũng có linh hồn. Ngòi bút tài hoa của Quang
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Dũng không tả mà chỉ gợi. Nét bút mờ nhòa này đã vẽ được cái mộng mơ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
của cảnh vật, cái hư ảo của hoài niệm, cái tinh tế của tình cảm. Tất cả da diết
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
một màn sương nhớ nhung bọc kín những câu thơ.
Tâm hồn lãng mạn của người lính Tây Tiến dễ bị hấp dẫn trước vẻ đẹp
mang màu sắc bí ẩn của cảnh vật và con người nơi xứ lạ, phương xa. Cảnh Xuyên qua cảnh vật là một hoài niệm tinh tế mà sâu nặng, bâng khuâng
ấy, người ấy được hiện lên trong một thời gian làm nổi bật vẻ lung linh, huyền không nói hết của tác giả với một vùng đất nước gắn bó thiết tha một thời
ảo của nó. với người lính.
Đêm liên hoan văn nghệ của người lính Tây Tiến có đồng bào địa Trên cái nền hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng và duyên dáng thơ
phương đến góp vui thật tưng bừng, nhộn nhịp. Cả doanh trại bừng sáng, mộng, mỹ lệ của Tây Bắc, hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến
tưng bừng sôi nổi hẳn lên khi đêm văn nghệ bắt đầu. Đó là cái bừng sáng của xuất hiện với một vẻ đẹp đầy tính chất bi tráng:
ánh lửa bập bùng mà cũng là cái bừng sáng của tâm trí, hoài niệm khi nghĩ "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
về một kỷ niệm đã qua. Trong ánh sáng lung linh của lửa đuốc, trong âm Quân xanh màu lá dữ oai hùm
thanh réo rắt của tiếng khèn, cả cảnh vật, cả con người đều như ngả nghiêng, Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm" Bốn câu thơ tiếp theo, tác giả nhìn thẳng vào cái bi nhưng đem đến cho
Như ở trên đã thấy, cách tả cảnh của Quang Dũng đã lạ mà đến đây, nó một vẻ hào hùng, lẫm liệt và sang trọng:
cách tả người càng lạ hơn. Thơ ca thời kháng chiến khi viết về người lính "Rải rác biên cương mồ viễn xứ
thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài thơ "Đồng Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
chí" đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy:
Áo bào thay chiếu anh về đất
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Sốt run người, vầng trán ướt mồ hôi"
Những từ Hán Việt cổ kính trang trọng "biên cương", "viễn xứ" đã làm
Hay Tố Hữu trong bài "Cá nước" cũng đã nói về anh Vệ quốc thật cụ cho những nấm mồ chiến sĩ được vùi lấp vội vàng nơi rừng hoang biên giới
thể mà cũng thật xót xa: cũng trở thành những mộ chí tôn nghiêm. Cái bi của câu trên được câu dưới
"Giọt giọt mồ hôi rơi nâng lên thành bi tráng bởi nhân cách của người đã chết: "Chiến trường đi
Trên má anh vàng nghệ" chẳng tiếc đời xanh". Đời xanh tuổi trẻ biết bao nhiêu là hoa mộng nhưng họ
Còn ở đây, nhắc đến hình ảnh "Đoàn binh không mọc tóc", tác giả đã vui vẻ hiến dâng cho Tổ quốc. Họ đi vào cái chết như đi vào một giấc ngủ
gợi lại hình ảnh anh "vệ trọc" một thời. Nhưng câu thơ còn có ý tả thực về nhẹ nhàng và thanh thản vô cùng. Họ quả là những người "nhẹ xem tính
một hiện thực trần trụi và khắc nghiệt: Những con suối độc, những trận sốt mệnh như màu cỏ cây", đã thực hiện chí làm trai hết sức trọn vẹn khi quyết
rét rừng đã làm cho người lính xanh xao, rụng tóc. Hình ảnh lạ thường nhưng "xếp bút nghiên lên đường tranh đấu". Nếu người tráng sĩ ngày xưa với hình
không hề quái đản. Người lính dù có tiều tụy nhưng vẫn ngời lên một phẩm ảnh "da ngựa bọc thây" đầy vinh quang thì người lính Tây Tiến với hình ảnh
chất đẹp đẽ, kiêu hùng: "Không mọc tóc" chứ không phải là "tóc không mọc" "áo bào thay chiếu" đầy sức mạnh ngợi ca. Thực tế, những người lính gục
. "Không mọc tóc" có vẻ như là không thèm mọc tóc, không cần mọc tóc ... chết trên chiến trận nhiều khi manh chiếu bọc thây cũng không có, huống chi
thể hiện thái độ coi thường gian nguy, vượt lên hoàn cảnh của người lính "áo bào". Nhưng thái độ trân trọng, yêu thương cùng cảm hứng lãng mạn đã
Tây Tiến. Dù đói rét bệnh tật và muôn ngàn gian khổ như thế, nhưng người tạo ra ở Quang Dũng một cái nhìn của chủ nghĩa anh hùng cổ điển trước cái
lính vẫn bừng bừng khí thế, vẫn "dữ oai hùm". Ở đây, ta thấy được cái chí và chết của người lính. Trong cách nhìn ấy, cái chết của người lính Tây Tiến
cái tình của người lính. "Chí" trong ánh mắt quyết tử: "mắt trừng gửi mộng không chìm trong cái lạnh lẽo đến rợn người như trong thơ Đặng Trần Côn:
qua biên giới", tình bâng khuâng trong giấc mơ lãng mạn: "Đêm mơ Hà Nội "Hồn tử sĩ gió ù ù thổi" mà được bao bọc trong một âm hưởng hùng tráng:
dáng kiều thơm". Trong bài thơ có một cái tên thành thị, hoa lệ: Hà Nội, "Sông Mã gầm lên khúc độc hành".
nhưng đó không phải là một cái mốc có thật trên đường Tây Tiến mà ở đây Câu thơ vang dội như một khúc nhạc kì vĩ. Âm hưởng bi hùng của khúc
trở thành một cái mốc của độ cao bởi giấc mơ kia chính là một đỉnh điểm. chiêu hồn tử sĩ dội lên từ chữ "gầm". Thiên nhiên đã tấu lên khúc nhạc dữ
Câu thơ diễn tả tinh tế, chân thật tâm lý của những người lính ra đi từ thủ đô. dội, oai hùng của nó, vừa là để đưa tiễn linh hồn người chiến sĩ về nơi vĩnh
Hình ảnh Hà Nội và dáng kiều thơm hiện về trong đêm mơ không làm cho hằng, vừa nâng cái chết lên tầm sử thi hoành tráng. Các anh ra đi và lại trở
họ nản lòng, thối chí mà ngược lại là nguồn động viên, cổ vũ đối với các về với đất mẹ, về với những người anh hùng dân tộc đã ngã xuống, là tiếp
chiến sĩ. Một thoáng kỷ niệm êm đềm trong sáng ấy đã tiếp sức cho họ trong nối những truyền thống của cha ông. Và phải chăng tiếng gầm của dòng sông
cuộc chiến đấu gian nan. Nó là động lực tinh thần giúp người lính băng qua Mã cũng chính là tiếng lòng của người còn sống ? Bởi cái chết của đồng đội
những tháng năm chiến tranh gian lao của đời mình. không làm họ chùn bước mà chỉ làm tăng thêm lòng quả cảm và chí căm thù.
Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ vừa thâu tóm tinh thần chung của Đi vào thời kì ấy, ta nghiêng mình trước hình tượng bất tử về người lính -
toàn bài, vừa tạo ra trong lòng người đọc những rung động mạnh trước bức những con người không ai biết mặt biết tên nhưng họ đã làm nên đất nước
tượng đài bất tử của người lính Tây Tiến. Quyết định dấn thân vào chốn bom Việt Nam tươi đẹp. Với ý nghĩa đó, "Tây Tiến" còn như lời cảnh tỉnh cho những
đạn hiểm nguy, cái chết sẽ có thể đến với bất cứ ai và bất cứ ở nơi nào, lúc ai muốn chối bỏ quá khứ./.
nào. Nhưng những chàng trai của đất Hà Thành ngày ấy vẫn hăng hái đi, vẫn
"không hẹn ước" ngày trở về. Cái ý chí "tráng sĩ nhất khứ bất phục hoàn"
TÂY TIẾN
một thời cứ bình thản mà đi vào lòng người, làm dậy những niềm kính yêu, Quang Dũng
nể phục. Và dẫu cho khoảng cách có nghìn trùng xa xôi "đường lên thăm
thẳm một chia phôi" nhưng người chiến sĩ vẫn gắn bó khăng khít: "Hồn về
Sầm Nứa chẳng về xuôi". Khoảng cách không gian không tách được lòng "Chúng tôi đi chẳng tiếc đời mình
người sâu nặng với Tây Bắc kháng chiến. Khi cái khát vọng muốn cống hiến (Tuổi hai mươi làm sao không khỏi tiếc)
sức mình cho Tổ quốc còn sôi sục trong lòng, khi nhiệm vụ chưa hoàn thành, Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi
người lính còn ra đi. Dẫu có phải hy sinh, linh hồn cũng không rời bước khỏi
Thì còn chi Tổ quốc"
đồng đội.
(Thanh Thảo)
Câu cuối của bài thơ cứ gợi nhớ đến người nghĩa sĩ Cần Giuộc trong lời
Đó là ý chí "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" của những chàng trai thời
ai điếu của Nguyễn Đình Chiểu: "Sống đánh giặc thác cũng đánh giặc, linh
chiến. Nhà thơ Quang Dũng với "Tây Tiến" - một trong những bài thơ hay
hồn theo giúp cơ binh"
nhất của thơ kháng chiến chống Pháp - đã trở thành một trong những nhà thơ
Đoạn thơ cuối của bài thơ như những dòng chữ khắc vào mộ chí, tạc ghi trẻ đầy tài năng của những năm tháng không thể nào quên ấy. Năm 1948,
những lời thề thiêng liêng của người Tây Tiến. Quang Dũng từ biệt đoàn quân Tây Tiến thân yêu, ngồi ở làng Phù Lưu
Quả thật, hạnh phúc nhất là khi người ta có kỉ niệm để yêu thương ấp ủ Chanh, tác giả viết bài thơ này trong nỗi nhớ cồn cào về đơn vị cũ, về một
bên lòng, hạnh phúc nhất là khi người ta có quá khứ để quay lại và nhìn xem đoạn đời chiến đấu đã qua, về những miền đất mà mình đã từng đặt chân
mình đã lớn được bao nhiêu. Quang Dũng là người hạnh phúc. Bởi vì ông đến, về những đồng đội sống chết có nhau và cả về những kỉ niệm khó
không chỉ có kỉ niệm đẹp, mà ông còn biết ôm ấp, biết giữ gìn, biết ghi lòng quên của mình.
tạc dạ không quên những kỉ niệm của ngày đã qua ấy. Đành rằng không thể Bài thơ "Tây Tiến" đã từng có một số phận khá truân chuyên, song thời
sống mãi với quá khứ nhưng đừng bao giờ quên đi quá khứ. Quang Dũng gian luôn là ông thầy công minh nhất cho những tác phẩm nghệ thuật chân
mãi không quên cái "mùa xuân ấy", cái mùa xuân của ngày thành lập trung chính. Vì thế vượt qua thời gian, bài thơ của Quang Dũng ngày càng thêm
đoàn Tây Tiến và cũng là mùa xuân tuổi hai mươi của những người lính. tỏa sáng trên thi đàn dân tộc.
Cảm hứng lãng mạn và sắc thái bi tráng tạo nên tính sử thi đặc biệt của "Tây Tiến" là sự hòa trộn của ba cuộc đời - cuộc đời một vùng đất (với
bài thơ. Từ bức chân dung người lính Tây Tiến hào hoa và dũng cảm trên cái mênh mông núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở và rất đỗi mộng mơ), cuộc
nền hùng vĩ và mĩ lệ của núi rừng Tây Bắc, Quang Dũng hướng hồn thơ đời những chàng trai Hà thành mặc áo lính Tây Tiến, dũng cảm, hào hoa,
ngưỡng vọng vào cả một thế hệ anh hùng. Bài thơ "Tây Tiến” như một tàng lãng mạn, và cuộc đời Quang Dũng gắn bó bằng sinh mệnh mình với Tây
thư cất giữ những kỉ niệm về một thời kì kháng chiến hào hùng của dân tộc. Bắc một thời binh lửa.
Người xưa thường luận về phép làm thơ: ý kị nông, mạch kị lộ. Có phải đã hiện ra. Nó mới thật dữ dội và khắc nghiệt làm sao: núi cao, dốc thẳm,
Quang Dũng đã thấu được điều ấy hay không mà mới đầu bài thơ có tên là sương dày, thác gầm, cọp dữ và những cơn mưa mịt mù trời đất:
"Nhớ Tây Tiến" nhưng sau đó ông bỏ đi chữ "Nhớ", làm mạch thơ không bị "Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
lộ, đồng thời tô đậm được hai chữ quan trọng nhất: Tây Tiến - một cái tên Mường Lát hoa về trong đêm hơi
máu thịt, một nét khảm vào hoài niệm, một dư âm không dứt của đời chiến
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
binh.
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Nhớ Tây Tiến là nhớ ngay về rừng núi. Đấy là một nỗi nhớ chơi vơi,
dâng sóng ngay từ những câu mở đầu, làm cho bài thơ ăm ắp cả nỗi nhớ: Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
" Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi" Để chứng minh cho ý kiến "thi trung hữu họa", đoạn thơ trên của Quang
Dũng là một điển hình. Chỉ với mấy câu thơ, thi sĩ Quang Dũng đã vẽ ra một
Ta bắt gặp ở đây cái cảm giác trống vắng, nuối tiếc, lửng lơ không định
bức tranh hoành tráng diễn tả rất đạt sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo
hình, định vị. Đó là cái cảm giác của một người đang nhớ về những gì đã
hút của núi rừng Tây Bắc - địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến. Ở
qua, đã tuôt khỏi tay mình. "Nhớ chơi vơi" là nỗi nhớ không có hình, có
đoạn thơ trên, bút pháp tác giả đã đạt đến độ kết tinh - một đoạn thơ đầy âm
lượng, nó nhẹ tênh mà lại nặng khôn cùng, bởi không thể đo được, cân được.
điệu. Sự hiểm trở của núi cao, vực thẳm hiện lên trong thơ không chỉ ở
Chỉ biết nó lửng lơ, đầy ắp, mênh mông, nó cồn cào, ám ảnh tâm trí mình, nó
những tính từ mà chính là ở những âm điệu của thơ. Âm điệu dựng thành
da diết thương nhớ đến vô cùng. Trong dòng hoài niệm đã xuất hiện một cái
dốc: khúc khuỷu, thăm thẳm, cao, xuống... cứ hun hút đến ghê người. Khi
tên lịch sử: Tây Tiến, mà gắn liền với nó là dòng sông Mã hùng vĩ đã chứng
xưa, Nguyễn Du với những âm điệu trúc trắc, gập ghềnh trong một câu thơ
kiến biết bao nhiêu vui buồn của cuộc đời người chiến binh. Bây giờ sông
"Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh" đã dự báo được số phận bi thảm
Mã và Tây Tiến đã xa rồi, đã cuộn tròn lại thành nỗi nhớ. Nỗi nhớ ấy cũng
của nàng Kiều. Còn ngày nay, cũng bằng bút pháp ấy, Quang Dũng đã làm
dạt dào như thơ lãng mạn thời 1930 - 1945.
hiện lên con đường hành quân đầy gian lao, vất vả của người lính Tây Tiến.
"Tương tư nâng lòng lên chơi vơi" (Xuân Diệu) Nhưng người lính Tây Tiến vốn là những thanh niên, học sinh ra đi từ một
Và trong ca dao cũng đã từng có một nỗi nhớ chơi vơi như thế: mái trường, góc phố của Hà Nội hoa lệ, nơi chỉ có những dãy phố dài cổ
"Ra về nhớ bạn chơi vơi" kính, có chùa Nghiên tháp Bút thâm nghiêm, có Tây Hồ liễu rũ... Cảnh núi
Có điều nỗi nhớ ấy là nhớ người yêu, còn ở đây là nhớ những kỉ niệm rừng, cảnh chiến trường, họ chỉ được biết đến qua những trang sách học trò.
kháng chiến. Hai tiếng "chơi vơi" hiệp vần với âm "ơi" ở câu trên đã tạo Vì thế, khi nó hiện ra trước mắt thì ấn tượng về nó thật là dữ dội. Tâm hồn
được một hiệu quả ngữ âm đáng kể. Nó lan tỏa, ngân dài như tiếng vọng vào lãng mạn, hào hoa của những người lính xuất thân từ thành thị này dễ bắt
vách đá mà phản âm lại, như dao động của những con sóng kế tiếp nhau vỗ gặp với những cái phi thường. Họ sẵn sàng tô đậm, phóng đại những nét
bờ, như tiếng vang bất chợt bật ra từ cõi nhớ. Trong đời, có một lúc nào đó, cảnh cho phù hợp với kích cỡ tâm trí lãng mạn. Và mặc dù sương dày đến
những kỉ niệm cũ trong ta bất chợt sống dậy với những đường nét và sắc mức che lấp cả đoàn quân mỏi, dốc núi ghập ghềnh tựa như vách đá hai bên
màu nóng bỏng cùng kéo nhau ùa về chật chội choáng ngợp trong hồn mình. lối đi hẹp và dựng đứng, phía trước mặt mịt mờ, xa lạ... nhưng với bản lĩnh
Sau hai tiếng "chơi vơi" ấy, những ấn tượng sâu đậm về núi rừng miền Tây của những con người trẻ tuổi, thích chinh phục khó khăn, họ đã vượt qua tất
cả. Người lính trèo lên những ngọn núi cao như đang đi trên những đám
mây, mũi súng chạm đến đỉnh trời... Quang Dũng đã khắc họa được bức "Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên"
tượng đài sừng sững về người chiến sĩ đứng hiên ngang giữa bầu trời quê (Thục đạo nan)
hương. Hình ảnh "súng ngửi trời" là một thi ảnh thật đẹp, táo bạo, vừa hóm (Đường xứ Thục khó đi, khó hơn cả lên trời xanh)
hỉnh, tinh nghịch mang đậm chất lính, khiến người lính Tây Tiến trước thiên
Và như thế, sự hiểm nguy của thế núi đèo Tây Bắc được nhân mãi lên
nhiên khắc nghiệt không bị chìm đi mà lại nổi lên đầy thách thức, gợi nhớ
qua trùng trùng liên tưởng.
hình ảnh rất đẹp của người vệ quốc quân trong thơ Tố Hữu:
Miền Tây ngày ấy là nơi ngự trị của những vẻ âm u, hoang dã, là những
"Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
thử thách ghê gớm đặt ra cho con người. Nó không chỉ được mở theo chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo không gian mà còn được khám phá ở cái chiều thời gian, những đe dọa
Núi không đè nổi vai vươn tới khủng khiếp luôn luôn rình rập con người.
Lá ngụy trang reo với gió đèo" "Chiều chiều oai linh thác gầm thét
"Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống", câu thơ với dấu phẩy ở giữa Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"
câu như bị bẻ đôi diễn tả dốc núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng, nhìn Núi rừng miền Tây luôn có những âm thanh ghê rợn, luôn cất tiếng để
lên - cao chót vót, nhìn xuống - sâu thăm thẳm... Đoạn thơ của Quang Dũng khẳng định cái uy lực đe dọa từ ngàn đời của nó.
sử dụng hàng loạt những thanh trắc liên tiếp nhau, đọc lên nghe vất vả, nhọc
Nhưng nói đến cái hùng vĩ, khắc nghiệt của núi rừng cũng là để làm nổi
nhằn. Tác giả còn sử dụng hàng loạt các địa danh nghe lạ tai: Sài Khao,
bật sự hào hùng của người chiến sĩ Tây Tiến. "Tây Tiến" là một cuộc hành
Mường Lát, Pha Luông... đã làm tăng cái ấn tượng xa lạ, hoang sơ lên một
quân vô cùng gian khổ, gian khổ đến nỗi:
bậc, thật đúng là "đời bình phương nhưng thơ phải lập phương". Sau hàng
loạt câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc, tác giả đã hạ một câu thơ lơ lửng "Anh bạn dãi dầu không bước nữa
những vần bằng: Gục lên súng mũ bỏ quên đời"
"Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi" Gian khổ tưởng như đã vượt lên trên giới hạn chịu đựng của con người.
Câu thơ như tiếng thở phào nhẹ nhõm của người lính sau khi vượt qua Người chiến sĩ ấy đã gục xuống khi chân không còn bước được nữa, gục
bao đèo cao, suối sâu, tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ngang xuống ngay trên đường đi, trong tư thế của người đang hành quân, ngay trên
ra xa, qua một không gian mịt mù sương rừng mưa núi, thấy thấp thoáng quân trang của mình. Cái chết của những chàng trai trẻ được miêu tả không
những ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giữa biển khơi, trong một "đêm phải là nằm xuống, ngã xuống mà là "bỏ quên đời" - một cái chết nhẹ như
hơi" mơ hồ, huyền ảo... gợi một niềm đầm ấm, thân mật trong lòng người. lông hồng ("Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao"). Nó đúng với không khí thời
Câu thơ giống như một gam màu lạnh giữa những gam màu nóng trong hội họa, đại khi mà cả nước bước vào cuộc chiến đấu, đối mặt với đạn bom của một
làm dịu lại, xoa mát cả đoạn thơ. bầy giặc mạnh mà mỗi người chỉ có hai bàn tay không và một tấm lòng
"Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Mỗi cuộc ra đi ngày ấy đều không hẹn
Đọc đoạn thơ, sự trùng điệp của núi rừng Tây Bắc làm nhớ đến mấy câu
ngày về như lời một bài hát rất thịnh hành bấy giờ: "Đoàn vệ quốc quân một
thơ trong "Chinh phụ ngâm" : "Hình khe thế núi gần xa. Đứt thôi lại nối,
lần ra đi, là có sá chi đâu ngày trở về". Ở họ, mỗi người lên đường lúc ấy
thấp đà lại cao" cũng như ta bắt gặp ở đây cái rợn ngợp như trong thơ
đều mang trong mình hình ảnh và tâm trạng Kinh Kha:
Lý Bạch:
"Tráng sĩ nhất khứ bất phục hoàn"
Hai câu thơ của Quang Dũng dẫu có buồn vì nói đến sự hy sinh mất mát Trong nỗi nhớ của Quang Dũng còn có một thế giới khác của Tây Bắc.
nhưng vẫn không bi đát bởi thái độ của người hy sinh. Người chiến sĩ đã Cảnh núi rừng hoang vu, hiểm trở, dữ dội, đã lùi dần rồi khuất hẳn để bất
vượt lên mình, dẫu không áp đảo được khó khăn nhưng họ cũng không chịu ngờ hiện ra vẻ mỹ lệ, thơ mộng, duyên dáng của Tây Bắc. Những nét bạo,
khuất phục. Họ bỏ cả tuổi xuân quý giá, nhưng là vì Tổ quốc nên nhẹ nhàng khỏe, gân guốc ở đoạn thơ đầu đến đoạn thơ này được thay bằng những nét
như bỏ quên một vật gì bình thường. "Vì nước quên thân", thái độ sống ấy mềm mại, uyển chuyển, tinh tế. Cái thực, cái ảo đan cài, dệt nên cảnh đêm
của người chiến sĩ Việt Nam nói chung và Tây Tiến nói riêng cứ sáng lên liên hoan văn nghệ với đuốc sáng hoa rừng và cảnh một buổi chiều sương
rạng rỡ: Rạng rỡ trong không gian, rạng rỡ trong thời gian và rạng rỡ trong bên ghềnh suối, bờ sông:
hồn người, rạng rỡ để mà bất diệt. Đoạn thơ kết thúc đột ngột bằng kỷ niệm "Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
ấm áp của một Tây Tiến khác: Kìa em xiêm áo tự bao giờ
"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Khèn lên man điệu nàng e ấp
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi" Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Sau khi vượt qua bao nhiêu rừng sâu, núi cao heo hút, người lính đến
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
được những bản làng có khói bếp, vườn tược với những cô gái Mai Châu
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
trao tặng nắm xôi còn thơm mùi nếp mới. "Nhớ ... Tiến ... khói". Ba thanh
Có nhớ dáng người trên độc mộc
trắc bay lên như tạc hình tia khói mảnh len qua kẽ lá, tỏa lan ấm áp cả rừng
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
chiều. Một thoáng thanh bình dọc đường hành quân đã trở thành những kỷ
Tâm hồn lãng mạn của người lính Tây Tiến dễ bị hấp dẫn trước vẻ đẹp
niệm ngọt ngào. Nó như một ốc đảo xanh tươi làm dịu lòng kẻ lữ hành qua
mang màu sắc bí ẩn của cảnh vật và con người nơi xứ lạ, phương xa. Cảnh
sa mạc. Đó là nguồn động viên, tiếp sức cho người lính băng qua những năm
ấy, người ấy được hiện lên trong một thời gian làm nổi bật vẻ lung linh, huyền
tháng chiến đấu gian khổ trong đời mình. Hai chữ "mùa em" là một sáng tạo
ảo của nó.
ngôn từ đột xuất, thật bạo lạ, thật đa tình và thật ... Quang Dũng. "Mùa em"
là gì? Không rõ lắm, chỉ biết nó là sự hòa hợp giữa cảnh và người Tây Bắc, Đêm liên hoan văn nghệ của người lính Tây Tiến có đồng bào địa
tạo nên một sự say đắm lòng người đến bâng khuâng ... Cái hay của câu thơ phương đến góp vui thật tưng bừng, nhộn nhịp. Cả doanh trại bừng sáng,
là ở đấy, nó chông chênh giữa ranh giới của cái nắm bắt được và cái không tưng bừng sôi nổi hẳn lên khi đêm văn nghệ bắt đầu. Đó là cái bừng sáng của
thể nào tìm hiểu đến ngọn ngành. ánh lửa bập bùng mà cũng là cái bừng sáng của tâm trí, hoài niệm khi nghĩ
về một kỷ niệm đã qua. Trong ánh sáng lung linh của lửa đuốc, trong âm
Đoạn thơ mở đầu với mười bốn dòng thơ ôm quyện trong một khuôn
thanh réo rắt của tiếng khèn, cả cảnh vật, cả con người đều như ngả nghiêng,
vần duy nhất, nhịp thơ khi căng khi chùng, có chỗ đối ý, có chỗ đối thanh,
lúc uy nghi như tòa thạch tự, lúc gân guốc như vách đá hoang sơ, lúc trôi nổi bốc men say, ngất ngây rạo rực. Hai chữ "Kìa em" thể hiện cái nhìn vừa ngỡ
ngàng, ngạc nhiên vừa hân hoan, vui sướng của người chiến sĩ. Nhân vật
bồng bềnh như mây, như nước, lúc khoan khoái như mặc sức hít thở khí trời.
trung tâm, linh hồn của đêm văn nghệ là những cô gái Thái núi rừng Tây Bắc
Tất cả đóng đinh thành một ấn tượng khá độc đáo trong lòng người đọc về
bất ngờ hiện ra trong những bộ xiêm áo lộng lẫy, vừa e thẹn, vừa tình tứ
cảnh núi rừng Tây Bắc và hình ảnh những người chiến sĩ quyết hiến mình
trong một vũ điệu mang đậm màu sắc xứ lạ. Hình ảnh "Nhạc về Viên Chăn
cho Tổ quốc, cho non sông.
xây hồn thơ" là hình ảnh đẹp, thơ mộng, diễn tả tâm hồn phong phú của
người lính Tây Tiến. Vẫn tưởng rằng những thử thách khắc nghiệt của núi
rừng dữ dội, những gian truân vất vả phải chịu đựng trên suốt dọc đường Sốt run người, vầng trán ướt mồ hôi"
hành quân ... sẽ làm cho tâm hồn của người chiến sĩ trở nên chai sạn, khô Hay Tố Hữu trong bài "Cá nước" cũng đã nói về anh Vệ quốc thật cụ
cứng ... Nhưng không, tâm hồn họ vẫn phơi phới niềm lạc quan yêu đời. Họ thể mà cũng thật xót xa:
vẫn tổ chức hội vui dù có thể chỉ ngày hôm sau, một người nào đó trong số "Giọt giọt mồ hôi rơi
họ phải nằm lại nơi núi rừng u tịch, nhưng hôm nay tâm hồn họ vẫn ắp đầy
Trên má anh vàng nghệ"
mộng mơ. Luôn lạc quan yêu đời, vẫn sống với tâm hồn trẻ trung tươi mát,
người lính Tây Tiến mãi ôm ấp trong lòng những hình ảnh rất đỗi bình Còn ở đây, nhắc đến hình ảnh "Đoàn binh không mọc tóc", tác giả đã
thường. Trong dòng hoài niệm, hiện lên không gian dòng sông trong một gợi lại hình ảnh anh "vệ trọc" một thời. Nhưng câu thơ còn có ý tả thực về
buổi chiều giăng mắc khói sương. Sông nước, bến bờ lặng tờ, hoang dại như một hiện thực trần trụi và khắc nghiệt: Những con suối độc, những trận sốt
thời tiền sử. Và trên dòng sông đậm màu sắc cổ tích, huyền thoại ấy nổi bật rét rừng đã làm cho người lính xanh xao, rụng tóc. Hình ảnh lạ thường nhưng
lên hình dáng mềm mại, uyển chuyển của cô gái Thái trên chiếc thuyền độc không hề quái đản. Người lính dù có tiều tụy nhưng vẫn ngời lên một phẩm
mộc xuôi về Châu Mộc. Hoà hợp với con người, những bông hoa rừng cũng chất đẹp đẽ, kiêu hùng: "Không mọc tóc" chứ không phải là "tóc không mọc"
như đong đưa, như muốn làm duyên bên dòng nước lũ. Ở cái nẻo bến bờ xa . "Không mọc tóc" có vẻ như là không thèm mọc tóc, không cần mọc tóc ...
khuất ấy, ngàn lau vô tri như cũng có linh hồn. Ngòi bút tài hoa của Quang thể hiện thái độ coi thường gian nguy, vượt lên hoàn cảnh của người lính Tây
Dũng không tả mà chỉ gợi. Nét bút mờ nhòa này đã vẽ được cái mộng mơ Tiến. Dù đói rét bệnh tật và muôn ngàn gian khổ như thế, nhưng người lính
của cảnh vật, cái hư ảo của hoài niệm, cái tinh tế của tình cảm. Tất cả da diết vẫn bừng bừng khí thế, vẫn "dữ oai hùm". Ở đây, ta thấy được cái chí và cái
một màn sương nhớ nhung bọc kín những câu thơ. tình của người lính. "Chí" trong ánh mắt quyết tử: "mắt trừng gửi mộng qua
biên giới", tình bâng khuâng trong giấc mơ lãng mạn: "Đêm mơ Hà Nội
Xuyên qua cảnh vật là một hoài niệm tinh tế mà sâu nặng, bâng khuâng
dáng kiều thơm". Trong bài thơ có một cái tên thành thị, hoa lệ: Hà Nội,
không nói hết của tác giả với một vùng đất nước gắn bó thiết tha một thời
nhưng đó không phải là một cái mốc có thật trên đường Tây Tiến mà ở đây
với người lính.
trở thành một cái mốc của độ cao bởi giấc mơ kia chính là một đỉnh điểm.
Trên cái nền hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng và duyên dáng thơ Câu thơ diễn tả tinh tế, chân thật tâm lý của những người lính ra đi từ thủ đô.
mộng, mỹ lệ của Tây Bắc, hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến Hình ảnh Hà Nội và dáng kiều thơm hiện về trong đêm mơ không làm cho
xuất hiện với một vẻ đẹp đầy tính chất bi tráng: họ nản lòng, thối chí mà ngược lại là nguồn động viên, cổ vũ đối với các
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc chiến sĩ. Một thoáng kỷ niệm êm đềm trong sáng ấy đã tiếp sức cho họ trong
Quân xanh màu lá dữ oai hùm cuộc chiến đấu gian nan. Nó là động lực tinh thần giúp người lính băng qua
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới những tháng năm chiến tranh gian lao của đời mình.
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm" Bốn câu thơ tiếp theo, tác giả nhìn thẳng vào cái bi nhưng đem đến cho
Như ở trên đã thấy, cách tả cảnh của Quang Dũng đã lạ mà đến đây, nó một vẻ hào hùng, lẫm liệt và sang trọng:
cách tả người càng lạ hơn. Thơ ca thời kháng chiến khi viết về người lính
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài thơ "Đồng
chí" đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy: Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành" một thời cứ bình thản mà đi vào lòng người, làm dậy những niềm kính yêu,
Những từ Hán Việt cổ kính trang trọng "biên cương", "viễn xứ" đã làm nể phục. Và dẫu cho khoảng cách có nghìn trùng xa xôi "đường lên thăm
cho những nấm mồ chiến sĩ được vùi lấp vội vàng nơi rừng hoang biên giới thẳm một chia phôi" nhưng người chiến sĩ vẫn gắn bó khăng khít: "Hồn về
cũng trở thành những mộ chí tôn nghiêm. Cái bi của câu trên được câu dưới Sầm Nứa chẳng về xuôi". Khoảng cách không gian không tách được lòng
nâng lên thành bi tráng bởi nhân cách của người đã chết: "Chiến trường đi người sâu nặng với Tây Bắc kháng chiến. Khi cái khát vọng muốn cống hiến
chẳng tiếc đời xanh". Đời xanh tuổi trẻ biết bao nhiêu là hoa mộng nhưng họ sức mình cho Tổ quốc còn sôi sục trong lòng, khi nhiệm vụ chưa hoàn thành,
vui vẻ hiến dâng cho Tổ quốc. Họ đi vào cái chết như đi vào một giấc ngủ người lính còn ra đi. Dẫu có phải hy sinh, linh hồn cũng không rời bước khỏi
nhẹ nhàng và thanh thản vô cùng. Họ quả là những người "nhẹ xem tính đồng đội.
mệnh như màu cỏ cây", đã thực hiện chí làm trai hết sức trọn vẹn khi quyết Câu cuối của bài thơ cứ gợi nhớ đến người nghĩa sĩ Cần Giuộc trong lời
"xếp bút nghiên lên đường tranh đấu". Nếu người tráng sĩ ngày xưa với hình ai điếu của Nguyễn Đình Chiểu: "Sống đánh giặc thác cũng đánh giặc, linh
ảnh "da ngựa bọc thây" đầy vinh quang thì người lính Tây Tiến với hình ảnh hồn theo giúp cơ binh"
"áo bào thay chiếu" đầy sức mạnh ngợi ca. Thực tế, những người lính gục Đoạn thơ cuối của bài thơ như những dòng chữ khắc vào mộ chí, tạc ghi
chết trên chiến trận nhiều khi manh chiếu bọc thây cũng không có, huống chi những lời thề thiêng liêng của người Tây Tiến.
"áo bào". Nhưng thái độ trân trọng, yêu thương cùng cảm hứng lãng mạn đã Quả thật, hạnh phúc nhất là khi người ta có kỉ niệm để yêu thương ấp ủ
tạo ra ở Quang Dũng một cái nhìn của chủ nghĩa anh hùng cổ điển trước cái bên lòng, hạnh phúc nhất là khi người ta có quá khứ để quay lại và nhìn xem
chết của người lính. Trong cách nhìn ấy, cái chết của người lính Tây Tiến mình đã lớn được bao nhiêu. Quang Dũng là người hạnh phúc. Bởi vì ông
không chìm trong cái lạnh lẽo đến rợn người như trong thơ Đặng Trần Côn: không chỉ có kỉ niệm đẹp, mà ông còn biết ôm ấp, biết giữ gìn, biết ghi lòng
"Hồn tử sĩ gió ù ù thổi" mà được bao bọc trong một âm hưởng hùng tráng: tạc dạ không quên những kỉ niệm của ngày đã qua ấy. Đành rằng không thể
"Sông Mã gầm lên khúc độc hành". sống mãi với quá khứ nhưng đừng bao giờ quên đi quá khứ. Quang Dũng
Câu thơ vang dội như một khúc nhạc kì vĩ. Âm hưởng bi hùng của khúc mãi không quên cái "mùa xuân ấy", cái mùa xuân của ngày thành lập trung
chiêu hồn tử sĩ dội lên từ chữ "gầm". Thiên nhiên đã tấu lên khúc nhạc dữ đoàn Tây Tiến và cũng là mùa xuân tuổi hai mươi của những người lính.
dội, oai hùng của nó, vừa là để đưa tiễn linh hồn người chiến sĩ về nơi vĩnh Cảm hứng lãng mạn và sắc thái bi tráng tạo nên tính sử thi đặc biệt của
hằng, vừa nâng cái chết lên tầm sử thi hoành tráng. Các anh ra đi và lại trở bài thơ. Từ bức chân dung người lính Tây Tiến hào hoa và dũng cảm trên cái
về với đất mẹ, về với những người anh hùng dân tộc đã ngã xuống, là tiếp nền hùng vĩ và mĩ lệ của núi rừng Tây Bắc, Quang Dũng hướng hồn thơ
nối những truyền thống của cha ông. Và phải chăng tiếng gầm của dòng sông ngưỡng vọng vào cả một thế hệ anh hùng. Bài thơ "Tây Tiến” như một tàng
Mã cũng chính là tiếng lòng của người còn sống ? Bởi cái chết của đồng đội thư cất giữ những kỉ niệm về một thời kì kháng chiến hào hùng của dân tộc.
không làm họ chùn bước mà chỉ làm tăng thêm lòng quả cảm và chí căm thù. Đi vào thời kì ấy, ta nghiêng mình trước hình tượng bất tử về người lính -
Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ vừa thâu tóm tinh thần chung của những con người không ai biết mặt biết tên nhưng họ đã làm nên đất nước
toàn bài, vừa tạo ra trong lòng người đọc những rung động mạnh trước bức Việt Nam tươi đẹp. Với ý nghĩa đó, "Tây Tiến" còn như lời cảnh tỉnh cho những
tượng đài bất tử của người lính Tây Tiến. Quyết định dấn thân vào chốn bom ai muốn chối bỏ quá khứ./.
đạn hiểm nguy, cái chết sẽ có thể đến với bất cứ ai và bất cứ ở nơi nào, lúc
nào. Nhưng những chàng trai của đất Hà Thành ngày ấy vẫn hăng hái đi, vẫn
"không hẹn ước" ngày trở về. Cái ý chí "tráng sĩ nhất khứ bất phục hoàn"
ĐẤT NƯỚC gia đình, mỗi con người. Câu chuyện cổ tích của mẹ kể, miếng trầu của bà,
(Trích trường ca “Mặt đường khát vọng” – Nguyễn Khoa Điềm) cây tre trước nhà ... Câu chuyện cổ tích mà mẹ vẫn kể mỗi đêm ru con đi
vào giấc mơ. Ngay cả đến miếng trầu cay nồng quen thuộc bà vẫn ăn hàng
ngày cũng thấy dáng hình bình dị của đất nước mình trong ấy, nó gợi nhớ
“Đất Nước” luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của bao đến sự tích trầu cau thuở nào và đã khiến cho lòng người rung động trước
triệu trái tim con người. Đất Nước đi vào đời chúng ta qua những lời ru ngọt tình thương cao cả của người anh đối với em, tình yêu sâu nặng của người
ngào êm dịu, qua những làn điệu dân ca mượt mà và qua những vần thơ vợ đối với chồng.
thiết tha, sâu lắng mà rất đỗi tự hào của bao lớp thi nhân. Ta đã từng gặp Người Việt Nam vốn bao dung, hiền hậu dịu dàng là thế nhưng cũng kiên
một Đất Nước đau thương nhưng vẫn mạnh mẽ căm hờn và sáng ngời ý cường mạnh mẽ vô cùng trong công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm.
chí đấu tranh trong trang thơ Nguyễn Đình Thi đồng thời cũng rất dịu dàng, Tre mọc tự bao giờ? Chỉ biết rằng Thánh Gióng đánh giặc đến gãy roi thì
tình tứ trong lời thơ của nhà thơ Kinh Bắc Hoàng Cầm. Đến với Trường ca nhổ tre bên đường mà tiếp tục xông vào quân giặc. Từ đó về sau, tre trở
“Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm – một nhà thơ trẻ trưởng thành vũ khí thời chiến “tre xung phong vào xe tăng đại bác, tre giữ làng,
thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, ta lại có được một cách nhìn giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín ...” (Thép Mới).
toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện khác nhau về một “Đất nước của Hình ảnh của đất nước ngày càng thêm rõ nét hơn qua mỗi dòng thơ nhờ
nhân dân”. Tư tưởng ấy đã quy tụ mọi cách nhìn và cảm nhận của Nguyễn vào sự liên tưởng hết sức tự nhiên và tinh tế của nhà thơ. Đất nước còn là
Khoa Điềm về đất nước. Thông qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc những phong tục tập quán lâu đời đến nay vẫn còn hiện hữu: “Tóc mẹ thì
và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, với cả trường ca nói chung và đoạn trích bới sau đầu”. Búi tóc “củ hành củ kiệu” không chỉ là biểu hiện nét đẹp truyền
“Đất Nước” nói riêng, nhà thơ muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình thống của người phụ nữ Phương Đông nói chung mà nó còn là vẻ đẹp thủy
cảm với nhân dân đất nước của thế hệ trẻ miền Nam trong những năm chung, tiết hạnh của mỗi người phụ nữ khi đã có chồng. Đất nước còn có
chống Mỹ. trong nghĩa tình yêu thương của cha mẹ: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng
Mở đầu đoạn trích là giọng thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ như những lời tâm tình cay muối mặn”. Gừng tất nhiên là cay và muối muôn đời là mặn. Tình yêu
kết hợp với hình ảnh thơ bình dị gần gũi đưa ta trở về với cội nguồn của đất của ba mẹ mãi mãi nồng nàn đằm thắm như những chân lý tự nhiên kia.
nước. Đất nước có từ ngày tháng năm nào không ai rõ, chỉ biết rằng: Hình ảnh thơ chợt khiến ta rưng rưng nhớ đến lời nhắc nhở thiết tha của ai
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi đấy hôm nào: “Tay bưng dĩa muối chén gừng. Gừng cay muối mặn xin
Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa ... mẹ thường hay kể đừng quên nhau”.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn Đất nước còn là thành quả của công cuộc lao động vất vả để sinh tồn, xây
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” dựng cơ ngơi nhà cửa.
Thật vậy, đất nước được hình thành từ lâu lắm rồi, tận cái thuở “Khai thiên “Cái kèo, cái cột thành tên
lập địa”, và khi ta cất tiếng chào đời thì đất nước cũng đã trải qua lịch sử Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
tồn tại hơn bốn nghìn năm. Giữa mênh mông rừng già, giữa muôn trùng cây cối, cây vẫn cứ là cây, khi
Nhưng khi còn nhỏ, vô tư với những trò chơi hồn nhiên, nghịch ngợm, mấy được con người đem về nhà thì được gọi là kèo, là cột ... Cây lúa vốn sinh
ai trong chúng ta nhận ra điều ấy. Chỉ đến khi lớn lên bắt đầu biết suy nghĩ, ra và lớn lên nơi đồng hoang cũng được đem về cấy trồng chăm bón để rồi
biết đặt ra những câu hỏi về thế giới xung quanh, về cuộc đời; mỗi người trở thành tên gọi khác của nền văn minh Âu Lạc: nền văn minh lúa nước.
mới chợt nhận ra: “Ta đã đi qua những năm tháng không ngờ. Vô tư quá để Hạt gạo ta ăn hàng ngày đâu phải dễ dàng mà có, hạt lúa phải chịu “một
bây giờ xao xuyến”. Dù vậy nhưng vẫn chưa muộn, chúng ta vẫn kịp nhìn nắng hai sương”, rồi lại phải trải qua quá trình “xay, giã, giần, sàng”, gian
về quá khứ xa xưa để hiểu hơn về nơi bắt đầu của đất nước. khổ và đau đớn biết bao. Thật đúng như câu hát “Ai ơi bưng bát cơm đầy,
Bởi “Đất nước của nhân dân” nên khi truy nguyên về cội nguồn đất nước, dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”.
nhà thơ không đi tìm trong chính sử mà lại tìm trong dã sử. Trong chính sử, Ở đây, “Đất Nước” không còn là một khái niệm trừu tượng nữa mà cụ thể,
đất nước là của các triều đại vua quan phong kiến; trong ca dao, thần thoại, quen thuộc và giản dị biết bao. Việc tác giả sử dụng những chất liệu dân
truyện cổ tích, nhân dân đã gửi gắm biết bao nỗi niềm, tâm sự, ước mơ của gian để thể hiện suy tưởng của mình về đất nước không thể xem là một thủ
mình. Và khi soi vào đấy, nhà thơ nhận ra dáng hình của đất nước thân pháp nghệ thuật mà phải nhìn nó qua sự thấm nhuần quan niệm “Đất nước
yêu. Đất nước là những gì có thể bắt gặp ở ngay trong cuộc sống của mỗi
của nhân dân”, là sự thể hiện sâu sắc tư tưởng ấy trong cảm hứng và sáng Đất Nước trường tồn trong không gian và thời gian: “Thời gian đằng đẵng,
tạo hình tượng thơ. không gian mênh mông” để mãi mãi là nơi “dân mình đoàn tụ” – không gian
Đời sống của những người trẻ tuổi miền Nam đang trải qua thời kì Âu hóa. sinh tồn của cả cộng đồng dân tộc trải dài theo thời gian “đằng đẵng” qua
Văn hóa Phương Tây nhất là văn hóa Mỹ đang dần biến đổi tâm hồn họ, nhiều thế hệ.
khiến cho những câu thơ khơi lại nguồn mạch truyền thống kia càng tăng Theo mạch suy tưởng, tác giả tiếp tục cảm nhận đất nước ở bình diện lịch
thêm ý nghĩa chiến đấu. sử với huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết Hùng Vương
Bằng lời trò chuyện tâm tình với một nhân vật đối thoại tưởng tượng, tác với ngày giỗ tổ:
giả đã diễn giải khái niệm “đất nước” theo kiểu riêng của một nhà thơ: “Đất là nơi Chim về
“Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi Rồng ở
Nước là nơi em tắm Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đất Nước là nơi ta hò hẹn Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm và: “Hằng năm ăn đâu làm đâu
Đất là nơi “Con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc" Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
Nước là nơi “Con cá ngư ông móng nước biển khơi”” Nhắc đến Lạc Long Quân và Âu Cơ, nhắc đến giỗ Tổ Hùng Vương, tác giả
Đất nước không chỉ cảm nhận bởi không gian địa lý mênh mông từ rừng muốn nhắc nhở mọi người nhớ về cội nguồn của dân tộc. Dù bôn ba ở tận
đến bể mà còn được cảm nhận bởi không gian sinh hoạt bình thường của chốn nào, người dân Việt Nam cũng đều hướng về đất Tổ, nhớ đến dòng
mỗi người, không gian của tình yêu đôi lứa, không gian của nỗi nhớ giống Rồng Tiên của mình.
thương. Ý niệm về đất nước được gợi ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp Nhắc đến chuyện xưa ấy như để khẳng định, cũng là để nhắc nhở:
thành là đất và nước với những liên tưởng gợi ra từ đó. Sử dụng lối chiết tự “Những ai đã khuất
mà vẫn không hề ngô nghê, mà vẫn thật duyên dáng và ý nhị, có thể gợi ra Những ai bây giờ
cho thấy một quan niệm mang những đặc điểm riêng của dân tộc ta về khái Yêu nhau và sinh con đẻ cái
niệm đất nước, mà tư duy thơ có thể tách ra, nhấn mạnh. Gánh vác phần người đi trước để lại
Đất mở ra cho anh một chân trời kiến thức, nước gột rửa tâm hồn em trong Dặn dò con cháu chuyện mai sau”
sáng, dịu hiền. Cùng với thời gian lớn lên đất nước trở thành nơi “anh” và Cảm hứng thơ của tác giả có vẻ phóng túng, tự do nhưng thật ra đây là
“em” hò hẹn. Không những thế, đất nước còn là người bạn chia sẻ những một hệ thống lập luận khá rõ mà chủ yếu là tác giả thể hiện đất nước trong
tình cảm nhớ mong của những người đang yêu. Cách sử dụng từ ngữ thật ba phương diện: trong chiều rộng của không gian lãnh thổ địa lý; trong
khéo léo của nhà thơ đã gợi lên sự hài hòa, nồng thắm của “anh”, của “em”, chiều dài thăm thẳm của thời gian lịch sử, từ quá khứ xa xưa đến hiện tại
của đất nước mình. Khi nói riêng về anh, về em “đất” ở một dòng thơ, và hướng tới tương lai; trong bề dày của văn hóa – phong tục, lối sống,
“nước” ở một dòng thơ. Khi chuyển từ “anh” “em” sang “ta” thì Đất, Nước đi tâm hồn và tính cách dân tộc.
liền với nhau, không thể tách rời ở chung một dòng thơ. Chiếc khăn – biểu Ba phương diện ấy được thể hiện gắn bó thống nhất và ở bất cứ phương
tượng của nỗi nhớ thương – đã từng làm bao trái tim trẻ tuổi bâng khuâng diện nào thì tư tưởng “đất nước của nhân dân” vẫn là tư tưởng cốt lõi, nó
trong bài ca dao quen thuộc thuở xưa thì ở bài thơ này, một lần nữa lại như một “hệ quy chiếu” mọi cảm xúc và suy tưởng của nhà thơ.
khiến cho lòng người bồi hồi, xúc động trước tình cảm chân thành của Đất nước gần gũi với “anh“, với “em” vì đất nước ở ngay trong máu thịt của
những tâm hồn yêu thương say đắm. mỗi người:
Đất Nước còn là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương. “Trong anh và em hôm nay
Hình ảnh “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc – con cá ngư ông Đều có một phần đất nước”
móng nước biển khơi” đều là những hình ảnh mượn từ dân ca Huế, quê Đất nước còn là sự gắn bó giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân và
hương của nhà thơ. Đất Nước mình bình dị, quen thuộc nhưng đôi lúc cũng dân tộc, giữa thế hệ này với thế hệ khác:
lớn rộng, tráng lệ và kỳ vĩ vô cùng, nhất là đối với những người đi xa. Dù “Khi hai đứa cầm tay
“chim ham trái chín ăn xa” thì cũng “giật mình nhớ gốc cây đa lại về”, gia Đất nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
đình người Việt là như thế, lúc nào cũng hướng về quê hương, hướng về Khi chúng ta cầm tay mọi người
cội nguồn. Đất nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên Với quan niệm "Đất nước của nhân dân", nhà thơ đã có một cái nhìn bao
Con sẽ mang đất nước đi xa quát trên khắp lãnh thổ đất nước và thấy ở đâu cũng có sự hóa thân của
Đến những tháng ngày mơ mộng” nhân dân:
Sự kết hợp giữa các cá nhân, cá thể khiến đất nước thêm bền chặt, đầy "Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước
sức sống, khi có sự liên kết, gắn bó giữa các cá nhân với cả cộng động thì những núi Vọng Phu
đất nước có sức mạnh vô biên, có tầm vóc lớn lao. Được kế thừa những Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái"
thành quả cha ông để lại, thế hệ sau “con ta lớn lên” không những “sẽ mang Và "Người học trò nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút non Nghiên"
đất nước đi xa” mà còn sẽ mang đất nước “đến những tháng ngày mơ Trong những năm giặc giã triền miên, dáng hình mỏi mòn ngóng trông tin
mộng”. Từ hiện tại, lòng người vươn tới tương lai với một niềm tin chắc tức chồng của những người vợ đã tạc vào đá núi quê hương nhắc người
chắn: con cái sẽ mang hết tâm huyết xây dựng và phát triển đất nước sau nhớ về những tấm lòng thủy chung, tiết hạnh. Hòn Trống Mái là biểu
chẳng những giàu đẹp để khắp thế giới đều biết đến dải đất hình chữ S này tượng của cặp vợ chồng yêu thương, gắn bó với nhau suốt đời. Ngay đến
(đi xa) mà còn có cả thanh bình, hạnh phúc (những tháng ngày mơ mộng). cả núi Bút non Nghiên cũng là vật phẩm mà anh học trò nghèo muốn để lại
Hiện tại là mơ mộng nhưng tương lai sẽ là hiện thực. Sống ở chiến trường, cho đời, gợi nhớ đến truyền thống hiếu học của cha ông ngày trước.
trước ranh giới mong manh của sự sống và cái chết nhà thơ vẫn thiết tha Đến những người dân nghèo không có gì thì cũng góp cho đất nước những
hy vọng, đấy cũng là một phẩm chất đáng quý của dân tộc Việt Nam: dù cái tên của mình, nhờ đó mà những ngôi làng, con sông cũng được có tên
trong bất kì hoàn cảnh nào cũng không mất hy vọng, không hết niềm tin vào có họ: "Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà
cuộc sống, vào tương lai. Điểm". Tự hào và đáng quý biết bao những con người đã hiến dâng tất cả
Đất nước đã thấm tự nhiên vào máu thịt, đã hóa thành máu xương của mỗi những gì mình có cho quê hương đất nước mà không chút e dè ngại
con người, vì thế sự sống của mỗi cá nhân không phải là riêng của mỗi con ngùng. Ngay đến những con vật gần gũi trong đời sống hàng ngày hay
người mà là của cả đất nước. Mỗi con người đều thừa hưởng ít nhiều di trong trí tưởng của nhân dân cũng hóa thân vào đất nước.
sản văn hóa vật chất và tinh thần của đất nước, phải giữ gìn và bảo vệ để Hàng trăm ao đầm là vết tích của gót ngựa Thánh Gióng:
làm nên đất nước muôn đời "Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại"
"Em ơi em đất nước là máu xương của mình Từ truyền thuyết vua Hùng Vương dựng nước, nhà thơ có cách cảm nhận
Phải biết gắn bó và san sẻ độc đáo về vẻ hùng vĩ của vùng đồi núi Phong Châu:
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở "Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương"
Làm nên Đất Nước muôn đời" Những dòng sông Cửu Long cuồn cuộn đổ ra biển kia cũng là hình tượng
Ở đây có sự giao thoa tự nhiên giữa điệu trữ tình và giọng chính luận làm của những con rồng nằm im:
cho âm sắc đoạn thơ trở nên sâu lắng, thiết tha, làm người đọc bồi hồi nhận "Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm"
ra ý nghĩa cuối cùng về đất nước: "Đất nước là máu xương của mình". Vì Cả đến con cóc, con gà bé nhỏ bình dị cũng góp mình cho vẻ đẹp của đất
thế bổn phận trách nhiệm với đất nước không phải là cái gì khác mà cũng nước:
chính là trách nhiệm đối với chính bản thân mình. Biết quí, biết giữ gìn, biết "Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh"
đoàn kết góp sức, thậm chí hy sinh cái riêng vào cái chung thì đất nước sẽ Cái nhìn bao quát đã đem đến cho nhà thơ một cách khái quát sâu sắc:
mãi vững bền. Lời nhắc nhở thế hệ trẻ về trách nhiệm với đất nước không "Ôi Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
mang giọng “giáo huấn” mà như một lời tâm sự, tự nhủ chân thành. Nói về Những cuộc đời đã hóa núi sông ta..."
đất nước nhưng lại bằng ngôn ngữ của tình yêu, ta đã gặp trong những bài Câu thơ đọc lên nghe như một niềm xúc động mãnh liệt trong lòng tác giả
thơ trước. Hoàng Cầm từng mượn lời trò chuyện với một "người em" nào bởi nó được đúc kết từ quá trình chiêm nghiệm, tìm hiểu sâu xa của nhà
đó để bắc nhịp cầu đến với những vần thơ viết về đất nước, viết về quê thơ về quê hương, đất nước thân yêu.
hương Kinh Bắc thân yêu của mình: "Em ơi buồn làm chi, Anh đưa em về Vẫn với lối trò chuyện tâm tình, tha thiết với nhân vật "em", nhà thơ đưa
sông Đuống, Ngày xưa cát trắng phẳng lì" (Bên kia sông Đuống). Ở đây người đọc trở về với lịch sử bốn ngàn năm đất nước - lịch sử của những
Nguyễn Khoa Điềm cũng bằng cách ấy để đến được với trái tim mọi người con người không bao giờ khuất
một cách nhẹ nhàng mà tha thiết đằm sâu. "Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất nước Người Việt Nam lớn lên không phải nhờ vào sâm banh, bánh mì hay sữa bò
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp mà nguồn sống chủ yếu là hạt lúa, hạt gạo. Có lẽ người đi trước truyền lại
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta hạt lúa cho người đi sau tiếp tục gieo trồng cũng chính là muốn truyền lại sự
Cần cù làm lụng sống cho nhiều thế hệ tiếp theo. Ngọn lửa được truyền từ nhà nọ sang nhà
Khi có giặc người con trai ra trận kia đơn thuần chỉ là giúp cho con người nấu chín thức ăn và để thắp sáng
Người con gái trở về nuôi cái cùng con hay đấy còn là ngọn lửa của khát vọng được thắp lên trong tim mỗi người?
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh Đã một thời người Trung Quốc sang đô hộ nước ta, muốn biến nước ta
Nhiều người đã trở thành anh hùng thành một quận, huyện của Trung Quốc. Vì thế mà chúng buộc dân ta phải
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ" theo phong tục tập quán của người Trung Quốc, học chữ Hán ..... Nhưng
Những lớp người "bằng tuổi chúng ta" đã sống như thế nào? Họ đã vất vả ông cha ta vẫn giữ vững bản sắc, ngôn ngữ riêng của dân tộc mình và
một nắng hai sương để tạo ra hạt lúa, củ khoai cho cuộc sống của mình. truyền bá cho con cháu.. Trong những năm tháng sống tản cư, người Việt
Khi đất nước có ngoại xâm thì họ sẵn sàng gác bỏ tất cả lại phía sau, hy Nam vẫn luôn mang theo hình ảnh của quê hương, làng xã bên mình, phải
sinh cái riêng nhỏ nhoi "căn nhà không mặc kệ gió lung lay" để gìn giữ cái chăng là vì họ không muốn con cái quên đi gốc gác, quên đi nơi chôn nhau
chung to lớn: giang sơn Tổ quốc. Đấy là những người con trai. Còn người cắt rốn của mình? Và trái ngọt quả thơm - những thành quả ngọt ngào mà
con gái cũng anh dũng bất khuất không kém. Họ vừa "cần cù làm lụng, vừa thế hệ sau thừa hưởng cũng đều là kết quả của những tháng ngày "đắp
nuôi con chờ chồng, và khi "giặc đến nhà" thì "đàn bà cũng đánh" đập, be bờ" gian lao khó nhọc của cha ông ngày trước.
Những vị vua hiền, tướng giỏi thì đời nào cũng có, nhưng khi nhắc đến lịch Mạch cảm xúc, suy tưởng của đoạn thơ cứ dồn tụ dần để cuối cùng dẫn tới
sử dân tộc, nhà thơ không điểm mặt các vương triều mà nhấn mạnh đến vô cao trào, làm bật lên tư tưởng cốt lõi của cả bài thơ vừa bất ngờ, vừa giản
vàn những con người bình dị vô danh: dị và độc đáo:
"Họ đã sống và chết "Để Đất Nước này là Đất Nước nhân dân
Giản dị và bình tâm Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại"
Không ai nhớ mặt đặt tên Nói "Đất nước của ca dao thần thoại" cũng chính là nói đến "Đất nước của
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước" nhân dân", là để nhấn mạnh, khắc sâu gốc nguồn nhân dân, cội nguồn đất
Đất Nước trước hết là của những con người vô danh và bình dị ấy, họ âm nước.
thầm cống hiến và lặng lẽ hy sinh, không một lời kể công, kể tích. Vì thế mà Hành trình theo chiều dài thẳm sâu của lịch sử dân tộc, nhà thơ đã tổng kết
"không ai nhớ mặt đặt tên" họ cả. Lịch sử đã có thật nhiều những con người được từ ca dao dân ca những đức tính tốt đẹp của người Việt Nam: yêu
như thế: một cô gái mở đường trên tuyến đường lửa Trường Sơn trong thơ thương say đắm, quý trọng nghĩa tình, quyết liệt trong căm thù và chiến
Lâm Thị Mỹ Dạ, một cô gái "ở Thạch Nhọn, Thạch Kim" trong trang thơ đấu:
Phạm Tiến Duật, một anh thanh niên lặng lẽ làm việc trên đỉnh núi Yên Sơn "Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi
quanh năm vắng bóng người, bốn bề chỉ có cỏ cây, mây mù lạnh lẽo... Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
trong trang văn Nguyễn Thành Long... Tất cả họ là những con người "đã Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
làm ra Đất Nước". Họ không để lại tên tuổi cho đời nhưng trái tim nhiệt tình Đi trả thù mà không sợ dài lâu"
của họ thì còn chiếu sáng mãi cùng thời gian, dáng hình họ mãi mãi trường Bốn dòng thơ ngắn gọn nhưng có sức gợi mở vô cùng, hàng loạt câu ca
tồn cùng đất nước. dao được đánh thức và ăm ắp ùa về. Ta nghe đâu đây lời tâm sự của anh
Họ không chỉ là những người đánh bại ngoại xâm, chống nội thù mà còn là trai làng say đắm yêu: "Yêu em từ thuở trong nôi, em nằm em khóc anh
những con người sáng tạo, gìn giữ và truyền lại mọi giá trị vật chất và tinh ngồi anh ru" hình như văng vẳng bên tai lời xuýt xoa của một người vì tiếc
thần cho hậu thế: công sức đã bỏ ra vô ích: "Cầm vàng mà lội qua sông, vàng rơi không tiếc,
"Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng tiếc công cầm vàng"; lại có tiếng một người nhất quyết muốn trả mối thù
Họ truyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi thâm sâu: "Thù này ắt hẳn còn lâu, trồng tre nên gậy, gặp đâu đánh què".
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói Vẻ đẹp thơ mộng của núi sông đất nước như được kết đọng trong những
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân câu dân ca, nhất là những câu ca sông nước, hay cũng có thể nói chính
Họ đắp đập, be bờ cho người sau trồng cây hái trái"
tâm hồn giàu chất thơ của dân tộc ta đã hòa nhập, soi bóng cùng vẻ đẹp nhau nhưng tình yêu vẫn là đề tài chính trong sáng tác của nhà thơ. Đến Xuân Quỳnh,
của núi sông rất nên thơ: thơ Việt Nam hiện đại mới có được một tiếng nói bày tỏ trực tiếp những khát khao tình
"Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
yêu vừa hồn nhiên chân thật, vừa mãnh liệt sôi nổi của một của một trái tim phụ nữ.
Mà khi đến Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác Thơ Xuân Quỳnh vừa nồng nàn, mãnh liệt đắm say vừa dịu dàng e ấp đầy nữ tính.
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi...." "Sóng" là bài thơ được biết đến nhiều nhất trong số những bài thơ tình đặc sắc của Xuân
Những câu thơ kết thúc đoạn trích quả thật đã để lại dư ba sâu sắc trong Quỳnh.
hồn người. Tứ thơ là những dòng sông, ý thơ là tâm hồn lạc quan vượt qua
Tình yêu mặc dù là câu chuyện không lạ nhưng vẫn luôn mới mẻ bởi thế giới này
mọi gian khó. Tất cả ào ạt tuôn chảy trong mỗi người đọc, tí tách reo vui ...
"Đất Nước" của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành công trong dòng có bao nhiêu người yêu là có bấy nhiêu mối tình, bấy nhiêu cách yêu. Trong sự mênh
thơ về đất nước giữa những ngày chống Mỹ, làm sâu sắc thêm nhận thức mông của "thiên địa đa tình", mỗi nhà thơ tìm cho mình một đối tượng thích hợp để gửi
về nhân dân, về đất nước. Niềm tôn kính đất nước của nhà thơ không chỉ gắm tâm tình. Xuân Diệu trước đó đã tìm đến Biển, nhờ Biển chuyển tải chất men yêu
thể hiện ở việc tìm về với lịch sử dân tộc mà còn biểu hiện trực tiếp qua đang say nồng trong tim mình đến nhân vật "em" - được ông ví như "bờ cát trắng" đứng
cách viết hoa hai từ "Đất Nước" khiến cho đất nước trở nên thiêng liêng vô
cạnh bên Biển. Còn Xuân Quỳnh nhà thơ đã mượn hình tượng sóng để nói về tình yêu,
cùng. Thành công của bài thơ còn ở chỗ nó đưa ta vào một thế giới gần
gũi, mĩ lệ và giàu sức bay bổng của ca dao truyền thống nhưng vẫn mới mẻ hình dung và so sánh với tình yêu. Sóng có đặc trưng động, đặc trưng này thích hợp
bởi cách vận dụng sáng tạo của tác giả, kết hợp với việc sử dụng thể thơ tự biểu tượng cho những trạng thái tình cảm mãnh liệt, thiết tha say đắm, day dứt khôn
do, không câu nệ số câu, số chữ hay vần điệu... phù hợp với lời trò chuyện nguôi. Chẳng hề giấu diếm, Xuân Quỳnh đã mượn sóng để nói với mình, với người về
tâm tình nhắc nhở, thể hiện được những cung bậc khác nhau của tình cảm. tình yêu trẻ trung, nồng nhiệt, gắn với hạnh phúc muôn thuở của con người. Sự tự bạch
Bài thơ vừa là nén tâm hương mà nhà thơ muốn dâng lên những thế hệ đi này là táo bạo và cũng rất chân thành. Nó là sự thể hiện của một tâm hồn luôn khao
trước đã tạo dựng nên đất nước Việt Nam tươi đẹp như ngày hôm nay;
khát, không phút nào yên định mà luôn rạo rực, sôi nổi.
đồng thời vừa khơi dậy tinh thần dân tộc trong mỗi con người Việt Nam
giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra quyết liệt ngày trước, và Với thể thơ năm chữ thường không ngắt nhịp cộng với sự bồi hoàn trở đi trở lại
ngay cả bây giờ. của hình tượng sóng, tác giả đã tạo cho bài thơ những âm hưởng dạt dào, nhịp nhàng,
lúc sôi nổi trào dâng, lúc thầm thì lắng sâu, gợi âm hưởng của những đợt sóng miên
man nối tiếp nhau vỗ bờ. Đó là những con sóng lòng đang xao động, trào dâng trong
SÓNG người nữ sĩ khi đứng trước biển cả bao la, đối diện với những con sóng vô hồi, vô hạn.
Xuân Quỳnh Sóng là hình tượng ẩn dụ, nó là sự hóa thân của "cái tôi" trữ tình của nhà thơ.
"Sóng" và "em" tuy hai mà một, có lúc phân đôi ra để soi chiếu vào nhau làm nổi bật sự
"Em đánh chắt chơi chuyền từ nhỏ tương đồng, có lúc lại hòa nhập vào nhau để tạo nên sự âm vang cộng hưởng. Và có thể
Hái rau dền, rau rệu nấu canh nói rằng qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã bày tỏ tình yêu dạt dào, mênh mông và
Tập vá may kết tóc một mình khát vọng trường cửu.
Rồi úp mặt lên bàn tay khóc mẹ" Mở đầu bài thơ hình ảnh con sóng được gợi lên với những trạng thái trái ngược
(Bàn tay em) nhau bằng những từ cặp đôi vừa là nhịp sóng, vừa nghĩ về đôi lứa:
Có lẽ vì ngay từ nhỏ đã thiếu thốn tình thương: mẹ mất sớm, cha đi bước nữa nên "Dữ dội và dịu êm
Xuân Quỳnh hết sức tha thiết với hạnh phúc gia đình. Nhà thơ luôn khao khát yêu và
Ồn ào và lặng lẽ"
được yêu, và tất cả những nỗi niềm ấy của lòng mình đã được thi sĩ gởi gắm vào trong
Những trạng thái ấy của con sóng vừa thân quen vừa kì lạ, vừa hời hợt vừa sâu
những vần thơ vừa dịu dàng đằm thắm vừa sôi nổi thiết tha. Dù viết về nhiều đề tài khác
sắc, vừa dễ hiểu vừa đầy mâu thuẫn. Tiếng sóng không bình lặng mà có gì đó trăn trở
khôn nguôi. Sóng không nhẹ nhàng nhẹ hôn lên bờ cát trắng hay nũng nịu ấp ôm mà Vẫn những con sóng từ khơi xa mải miết chạy vào bờ, tan mình trên bờ bãi. Biển
như đang dỗi hờn trở nên "dữ dội", "ồn ào" nhưng rồi lại "dịu êm", lặng lẽ". "Dữ" đấy muôn đời là xôn xao, cồn cào, xáo động. Biển mãi mãi là hình ảnh của sự bất diệt. Đứng
rồi "êm" đấy, chợt "ồn" rồi chợt "lặng", nhưng tất cả đều là sóng cả. Nói về đặc tính này trước sự bất diệt của thiên nhiên, nhà thơ liên tưởng đến sự bất diệt khác, sự bất diệt của
của sóng cũng là để chỉ ra sự tương hợp với trạng thái tâm hồn của những người đang khát vọng tình yêu nơi trái tim tuổi trẻ:
yêu. Tình yêu như sóng, đang khuấy động trong cõi lòng nhà thơ như chị đã có lần bộc "Nỗi khát vọng tình yêu
bạch sau này "Vì tình yêu muôn thuở/ Có bao giờ đứng yên" (Thuyền và Biển). Trong
Bồi hồi trong ngực trẻ"
lòng người con gái đang yêu, tình yêu đôi khi cũng "dữ dội - ồn ào" mạnh mẽ vô cùng,
như các cô gái đang yêu trong ca dao xưa từng thổ lộ tâm tình: Tình yêu không phân biệt tuổi tác hay giới tính và nỗi khát vọng tình yêu luôn làm
bồi hồi trái tim người, mà nhất là tuổi trẻ. Trái tim tuổi trẻ luôn là nơi ngọn sóng tình
"Đêm nằm lưng chẳng bén giường
yêu dâng tràn mãnh liệt nhất và tình yêu ở lứa tuổi mùa xuân của đời người này luôn
Trông trời mau sáng ra đường gặp anh" luôn tươi trẻ, tuyệt vời. Dẫu có chút đắng cay thì đó vẫn mãi là đắng cay ngọt ngào.
Nhưng là tình yêu con gái nên đôi khi cũng rất âm thầm, rất " dịu êm - lặng lẽ" Thomas Moore cũng đã từng tâm sự: " Trên đời chẳng có gì ngọt ngào bằng nửa sự
nhưng vẫn không kém phần say đắm. Nỗi lòng ấy ta cũng từng gặp nhiều trong ca dao: ngọt ngào của giấc mộng tình yêu thời tuổi trẻ". Đến Xuân Diệu, ông cho rằng tình yêu
"Thò tay mà bứt cộng ngò luôn luôn là diệu kỳ với người trẻ tuổi:

Thương anh đứt ruột giả đò ngó lơ" "Hãy để cho trẻ con nói cái ngon của kẹo

Trước những trạng thái đối nghịch nhau của lòng mình, sóng không thể nào tự lý Hãy để tuổi trẻ nói hộ tình yêu"
giải được; vì thế phải làm một cuộc hành trình để đi tìm lời giải đáp: Xuân Quỳnh cũng đã lựa chọn từ ngữ thật chính xác để chuyển tải trọn vẹn nỗi
"Sông không hiểu nổi mình lòng mình. Ở đây, thi sĩ nói đến "khát vọng tình yêu" chứ không nói đến "ước vọng tình
yêu". "Ước vọng" chỉ mới là ước và mong, còn "khát vọng" thì đã là sự đam mê cháy
Sóng tìm ra tận bể"
bỏng, mãnh liệt, không giới hạn. Đấy cũng là nét đặc trưng nhất của tình yêu: tình yêu
Hai câu thơ là một khát vọng tìm tòi đến tột độ, khao khát được nhận thức về thật sự bao giờ cũng thật mãnh liệt, nồng nàn. Con người Xuân Quỳnh cũng vậy, khi đã
mình, sóng đã dũng cảm từ bỏ dòng sông với những giới hạn chật chội, những thỏa mãn yêu thì chị yêu hết mình, sống hết mình vì tình yêu.
tầm thường để đến với biển cả bao la soi mình vào trăm ngàn con sóng anh em khác.
Xưa nay, đã có không biết bao người đã bị tình yêu làm cho mù quáng, quên đi tất
Chỉ có ra đến bể, con sóng mới thật sự tìm thấy mình, mới nhận thức được sức mạnh và
cả: "Chỉ biết yêu thôi, chẳng biết gì" , họ chỉ nhìn vào cõi hư vô, chìm đắm trong ngất
khát khao của mình.
ngây mộng ước. Nhưng với Xuân Quỳnh thì không, chị khao khát một hạnh phúc đời
Nhịp thơ lúc đầu là 2/ 3 đến hai câu sau là 3/2 đã giúp Xuân Quỳnh mô phỏng thường nên tình yêu của chị cũng gắn với cuộc đời hiện tại. Mà cuộc đời thì luôn là một
được nhịp sóng vốn biến đổi mau lẹ, biến hóa không ngừng, cũng như những trăn trở bài toán rối rắm, sống giữa cõi đời này, con người có không biết bao là nghĩ suy. Xuân
muốn nhận thức về mình là luôn luôn day dứt, khắc khoải trong mỗi con sóng, trong Quỳnh nồng cháy yêu, nhưng không vì thế mà trở nên hời hợt:
mỗi một đời người.
" Trước muôn trùng sóng bể
Ra đến bể rộng, con sóng mới thấy được những trạng thái trái ngược kia, những
Em nghĩ về anh, em
dao động khác thường kia là vĩnh hằng, muôn thuở với thời gian:
Em nghĩ về biển lớn
"Ôi con sóng ngày xưa
Từ nơi nào sóng lên ?"
Và ngày sau vẫn thế"
Từ cái của muôn đời, của muôn người đến cõi tình yêu riêng của "anh" và "em"
nhờ thế mà ý thơ trở nên sâu sắc, lời thơ trở nên thiết tha, bồi hồi. Điệp từ "em nghĩ"
được nhắc đi nhắc lại càng làm rõ hơn sự suy nghĩ trong lòng nhà thơ. Chị đã thao thức, Triết lý này cũ xưa như trái đất, ai cũng biết, nhưng ai cũng phải ngỡ ngàng khi lần đầu
đã lo lắng, đã đặt ra biết bao câu hỏi... Khi bước chân vào tình yêu. Chị nghĩ ngợi, suy nhận ra nó bằng chính sự trải nghiệm của bản thân. Cái hay của Xuân Quỳnh không
tư thật nhiều: nghĩ về mình, nghĩ về người mình yêu, nghĩ về cuộc đời đầy thử thách. phải ở chỗ phát hiện ra điều gì mới lạ mà là ở cách nói hồn nhiên, tiếng nói từ chính tâm
Đặt những lo lắng, nghĩ suy của mình bên cạnh "muôn trùng sóng bể", nhà thơ đã thể trạng có thật của mình. Tuy nhiên nói "em cũng không biết nữa" là còn để nói về sự bất
hiện được tình yêu mãnh liệt và chân thành của mình. Yêu càng nhiều thì những nghĩ lực trong khi đi tìm câu trả lời: "Khi nào ta yêu nhau" (cũng là "vì sao ta yêu nhau").
suy về tình yêu càng thêm lớn lao. Như nhiều người vẫn nói trong mỗi nhà thơ đều có ít Tại sao giữa muôn người mà với người này lại không, còn với người kia thì lại nảy sinh
nhiều bóng dáng của một "đứa trẻ con". Có thể "đứa trẻ con" ấy sẽ giúp nhà thơ có ra tình yêu? Nói như thế nhưng có một điều mà cô gái trong bài thơ của Xuân Quỳnh
được cái nhìn thú vị hơn về cuộc đời hay cũng nhờ "đứa trẻ con" ấy mà tâm sự của nhà biết rất rõ: đó là độ sâu sắc và sức mãnh liệt trong tình yêu của mình:
thơ được bày tỏ một cách tự nhiên, vô tư hơn. Ở bài thơ này cũng vậy, đứng trước điều "Con sóng dưới lòng sâu
kì diệu, "đứa trẻ con" trong tâm hồn nhà thơ bỗng bật lên câu hỏi: "Từ nơi nào sóng lên
Con sóng trên mặt nước
?" và rồi nhanh chóng tìm được câu trả lời: "Sóng bắt đầu từ gió". Nhưng trẻ con thì
Ôi con sóng nhớ bờ
không bao giờ thỏa mãn được những gì đã biết mà luôn đặt ra câu hỏi mới bởi tính tò
mò, hiếu động: "Gió bắt đầu từ đâu?" Đến đây thì đứa trẻ trong tâm hồn nhà thơ đành Ngày đêm không ngủ được
chịu: "Em cũng không biết nữa". Câu thơ như một cái lắc đầu thật thà, ngúng nguẩy, Lòng em nhớ đến anh
đáng yêu. Đó là một câu thơ có tính chất bắc cầu: không biết về nơi khởi nguồn của con Cả trong mơ còn thức"
sóng, cũng là không biết về sự bắt đầu tình yêu của mình: "Khi nào ta yêu nhau". Đến
Nỗi nhớ thương song hành với tình yêu, yêu cuồng si thì nhớ cũng nát tan. Vì thế
đây, sóng lại hiện lên với một ý nghĩa khác. Nguồn gốc của sóng cũng là nguồn gốc bí
mà không lạ gì khi có người cho rằng: nỗi nhớ là thước đo nồng độ của tình yêu.
ẩn của tình yêu.
Sóng thao thức "ngày đêm không ngủ được" là vì " sóng nhớ bờ". Nói "con sóng
Xưa nay không riêng gì các thi sĩ mà tất cả những người khi bước chân vào tình
dưới lòng sâu - con sóng trên mặt nước" là muốn nói đến sự toàn diện. Dù ở không gian
yêu cũng đều bối rối đặt ra câu hỏi về tình yêu, nhưng tất cả đều bất lực chẳng thể nào
nào, dù ở bất cứ tận đâu, sóng cũng chỉ có một nơi để nhớ, chỉ có một nơi để thương: đó
trả lời trọn vẹn được. Nó là tình cảm, cảm xúc làm sao biết được nó là như thế nào, đến
là bờ. Hai từ "dưới" và "trên" ở hai dòng thơ đối xứng với nhau càng làm cho không
từ đâu ... Hơn nữa, tình yêu là của trái tim, mà trái tim là sự tự do nên chẳng ai có thể
gian nhớ cứ rộng mãi ra. Nỗi nhớ thiết tha đến cồn cào choáng ngập cả không gian sâu
nắm bắt được tình yêu cả. Ngay đến Xuân Diệu - người được mệnh danh là " thi sĩ của
rộng và thời gian lâu dài. Nhưng nếu như ở các khổ thơ trên " sóng" và "em" như hòa
tình yêu" cũng lắc đầu:
nhập vào nhau thì đến đây dường như đã có sự phân đôi vì nhà thơ cảm thấy sóng
"Nào ai định nghĩa được tình yêu không thể nói hộ được nỗi lòng mình nữa. Tác giả đã tự bộc lộ mình thật chân thật, thiết
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều tha: "Lòng em nhớ đến anh, cả trong mơ còn thức". Một lời tâm sự không chút màu mè
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt hoa mỹ mà vẫn còn sức lay động khôn cùng bởi tình yêu nồng nàn đến độ nỗi nhớ đi sâu
vào tiềm thức, cả trong những giấc mơ.
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu"
Nỗi nhớ của trái tim đang yêu đã in dấu thật nhiều trong thơ từ cổ chí kim. Từ
Tình yêu đến với ta lúc nào ta cũng đâu biết và chiếm ta lúc nào ta đâu hay. Một
những câu ca dao nóng bỏng nỗi nhớ:
ánh mắt bâng quơ, một nụ cười bất chợt, một câu nói vô tình nhiều khi cũng làm cho
những trái tim nhạy cảm bất ngờ "loạn nhịp", huống chi ở đây lại có cả một khoảng thời "Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
gian dài nỗi khát vọng tình yêu cứ xao xuyến, bồi hồi. "Khi nào ta yêu nhau", một câu Như đứng đống lửa như ngồi đống than "
hỏi rất con gái, nhẹ nhàng, bối rối lẫn chút đắm say ngọt ngào đã khái quát được bản đến những câu thơ ngập tràn nhớ của "Ông hoàng thơ tình" Xuân Diệu:
chất muôn đời của tình yêu: tình yêu chỉ có thể cảm nhận chứ không thể cắt nghĩa được.
"Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh
Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi!" duy nhất: phương Anh. Chiếc kim la bàn của trái tim tình yêu nơi "em" luôn định vị về
(Tương tư chiều) phía "anh" - người "em" suốt đời yêu mến.

Nhưng nỗi nhớ "cả trong mơ còn thức" thì chỉ đến trong thơ của Xuân Quỳnh, ta Trong bài thơ này sóng là em mà em cũng là sóng, nên nói về em cũng là để nói về
mới có dịp biết đến, độc đáo và mới mẻ vô cùng. Nỗi nhớ tự lòng người mà thấm sâu sóng:
vào cảnh vật, nỗi nhớ cứ trải dài mênh mang. Trái tim dạt dào nhớ Xuân Quỳnh không "Ở ngoài kia đại dương
chỉ được thể hiện trong riêng bài thơ này, ở "Thuyền và Biển" ta cũng nhận ra: Trăm ngàn con sóng đó
"Những ngày không gặp nhau Con nào chẳng tới bờ
Biển bạc đầu thương nhớ Dù muôn vời cách trở"
Những ngày không gặp nhau Mọi con sóng đều có một định hướng duy nhất là bờ. Người con gái dùng quy luật
Lòng thuyền đau rạn vỡ" ấy của tự nhiên để động viên an ủi mình, động viên người mình yêu. Tình yêu đẹp là
Có nhà thơ nào diễn tả được nỗi nhớ của mình sâu sắc đến thế chưa? tình yêu biết vượt qua thử thách.

Dẫu có đắm say, nồng nhiệt yêu, Xuân Quỳnh vẫn giữ được nét dịu dàng vốn có Nhịp thơ đang tuôn trào, dạt dào cùng nhịp sóng đến đây bỗng dưng như chùng lại
của người con gái. Chị không vồ vập, táo bạo như Xuân Diệu: thấm đẫm suy tư:

"Đã hôn rồi hôn lại "Cuộc đời tuy dài thế

Hôn mãi đến muôn đời Năm tháng vẫn đi qua

Đến tan cả đất trời Như biển kia dẫu rộng

Anh mới thôi dào dạt" Mây vẫn bay về xa"

(Biển) Dường như ở đây có một nỗi lo âu dự cảm mơ hồ. Hồn thơ Xuân Quỳnh vốn rất
nhạy cảm với thời gian và sự chảy trôi biến đổi: cuộc đời thì dài nhưng năm tháng trong
Mà càng đến cuối bài thơ Xuân Quỳnh càng chứng tỏ sự sâu sắc thủy chung của
mỗi đời người thì vô cùng hạn hẹp; cũng như biển, biển dẫu bao la nhưng biển không hề
lòng mình:
là vô tận, "mây vẫn bay về xa"
"Dẫu xuôi về phương Bắc
Trong thực tế, tình yêu có khi chỉ là một khoảnh khắc:
Dẫu ngược về phương Nam
"Anh vẫn biết một điều mong manh nhất
Nơi nào em cũng nghĩ
Là tình yêu, là tình yêu ngát hương"
Hướng về anh một phương" (Đỗ Trung Quân)
Tình yêu của Xuân Quỳnh không chỉ dừng lại ở sự nhớ thương ngây ngất phút ban Và Xuân Quỳnh yêu say đắm là thế nhưng vẫn không khỏi có những phút giây mơ
đầu mà còn là tình yêu thủy chung như nhất, không đổi dạ thay lòng. Lời thề nguyền ấy hồ sợ hãi:
càng được khắc sâu bằng cách nói trái lệ thường (Xuôi Nam, ngược Bắc): "Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn
" Dẫu xuôi về phương Bắc Hôm nay yêu mai có thể xa rồi"
Dẫu ngược về phương Nam" (Nói cùng anh)
Dẫu có đi đâu giữa cuộc đời đầy biến động, dù đất trời có đảo lộn dữ dội đến đâu, Vì thế mà nỗi lo về sự mong manh của tình yêu đã trở thành nỗi ám ảnh nhiều xót
trong bốn phương tám hướng của đất trời, "Em" vẫn chỉ chọn cho mình một phương xa trong lòng nhà thơ:
"Lời yêu mỏng mảnh như màu khói
Ai biết tình anh có đổi thay" Đọc thơ Xuân Quỳnh, phần nào đó ta hiểu được con người nhà thơ. Thơ Xuân
(Hoa cỏ may) Quỳnh cũng chính là con người Xuân Quỳnh, như nhận xét của Võ Văn Trực: "Chị
Tâm trạng ấy của Xuân Quỳnh cũng là tâm trạng chung của những người đang không quanh co dấu giếm một điều gì. Mỗi dòng thơ, mỗi trang thơ đều phơi bày một
yêu. Càng yêu tha thiết, càng sợ mất người mình yêu. tình cảm và suy nghĩ của chị... Thành thật, đây là cốt lõi của thơ Xuân Quỳnh".
Dường như ý thức được sự mong manh của tình yêu trên cuộc đời nên giữa bao Bài thơ "Sóng" ra đời trong những năm tháng người ta ngại nói đến cái riêng,
nhiêu khao khát có thể dành cho tình yêu, Xuân Quỳnh chỉ khao khát có một điều: ấy là những gì là riêng tư thầm kín phải được nén xuống nhưng Xuân Quỳnh thì vẫn không
sự trường tồn: ngần ngại nói lên nỗi lòng mình. Xuân Quỳnh được đông đảo bạn đọc trẻ đón nhận
"Làm sao được tan ra không chỉ vì chị đã nói hộ nỗi lòng họ mà bởi vì họ quí cái thật trong thơ chị.

Thành trăm con sóng nhỏ Qua hình tượng sóng, người đọc cảm nhận được sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của
Giữa biển lớn tình yêu người phụ nữ trong tình yêu. Người phụ nữ ấy mạnh bạo chủ động bày tỏ những khát
khao và rung động rạo rực của lòng mình trong tình yêu, một tình yêu trong sáng và
Để ngàn năm còn vỗ"
thiết tha, đắm say và bền vững, gần gũi với quan niệm của mọi người và của cả dân tộc
Người con gái mong muốn hòa mình vào bể đời rộng lớn, bứt mình ra khỏi những
ta. Những người đang yêu ngày trước, bây giờ, và có thể cả mai sau sẽ tìm gặp được
lo toan tính toán, để ngập mình trong biển tình yêu. Phải có một tình yêu như thế nào thì
mình trong bài thơ "Sóng" của Xuân Quỳnh. "Sóng" ra đời cách đây đã lâu nhưng dư ba
mới có được một mong muốn cao cả đến dường ấy. Khát vọng yêu cũng là khát vọng
và độ say nồng của nó vẫn còn mãi mãi, nói như cách nói của một nhà phê bình thơ:
sống mãnh liệt đủ đầy. Cuộc đời còn tình yêu thì cuộc đời còn tươi đẹp và đáng sống và
"Sóng" mãi mãi còn nổi sóng và Xuân Quỳnh xứng đáng được coi là nhà thơ nữ xuất
sống trong tình yêu là một điều hạnh phúc. Xuân Quỳnh mong ước được sống mãi trong
sắc của thơ ca Việt Nam hiện đại./.
tình yêu, bất tử với tình yêu.
Ngày trước ta đã từng gặp một Hồ Xuân Hương mạnh mẽ táo bạo nhưng khi nói
đến chuyện tình yêu thì vẫn có một sự khiêm nhường nhún mình; nhưng đến Xuân Bài hay! (của TS Chu Văn Sơn về thơ XQ)
Quỳnh mọi khát khao thầm kín bấy lâu trong tim người phụ nữ đã được dịp giãi bày,
thổ lộ. Xưa nay người phụ nữ cũng chỉ gặp một chút nỗi niềm riêng của lòng mình qua SÓNG XUÂN QUỲNH
những dòng thơ mạnh mẽ của "phái mày râu".
"Tôi yêu em âm thầm không hy vọng
Sóng không chỉ là tên một thi phẩm đã gây xốn xang cho nhiều thế hệ. Sóng
Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen" không chỉ là biểu trưng cho một hồn yêu chưa từng nguôi yên. Sóng còn là một nguồn
"Tôi yêu em yêu âm thầm đằm thắm sống, nguồn năng lượng mà nữ thi sĩ ấy đã truyền lại cho mai hậu qua mỗi tiếng thơ.
Cầu cho em được người tình như tôi đã yêu em" Và, lâu nay, lòng thơ của mỗi chúng ta, người mờ, người tỏ, người đang yêu, người đã
(Puskin) yêu, chẳng đã từng thu từng phát thứ sóng đặc biệt ấy : sóng Xuân Quỳnh.

Thì bây giờ, với bài thơ "Sóng" người phụ nữ đã gặp được trọn vẹn nỗi lòng riêng
của mình. Sóng đã giúp Xuân Quỳnh thể hiện lòng mình, còn Xuân Quỳnh đã giúp cho Không còn phân biệt được sóng tạo nên Xuân Quỳnh, hay Xuân Quỳnh đã tạo nên
tất cả phụ nữ nói lên khát vọng yêu và sống hết mình vì tình yêu. sóng. Chỉ biết rằng chị sinh ra là để dành cho thơ. Dù đầu đời, vốn học vấn còn chưa
cao, nhưng hồn thơ ở người con gái đất La Khê - Hà Đông ấy đã luôn dào dạt. Dù chặng
đời đầu từng dấn thân vào nghiệp múa, nhưng chị đã sớm rời sân khấu để gia nhập thi Đại văn hào Mác-két đã từng nói rất hay về tình yêu: “Con bướm phải mất 180
đàn. Dù cuộc sống nhiều trắc trở với tuổi thơ lận đận, tuổi xuân gian lao, tổ ấm đầu đổ triệu năm mới cất cánh bay lên được. Con người phải mất bằng ấy năm mới biết khóc,
vỡ, tổ ấm sau sóng gió, nhưng lòng chị vẫn không khi nào nguôi thơ. Ngay từ đầu cuộc biết cười và biết chết cho tình yêu”. Tình yêu là món quà vô giá mà tạo hóa ban tặng
chiến chống Mỹ cho đến ngày thống nhất hòa bình và cả thời hậu chiến, các tập thơ của cho loài người. Đó cũng là nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn đối với các văn nghệ
chị vẫn tuần tự ra đời theo mỗi chặng đường : Chồi biếc, Hoa dọc chiến hào, Gió lào cát sĩ. Nói đến thơ tình Việt Nam hiện đại, người đọc không thể không nhắc đến nữ hoàng
trắng, Lời ru trên mặt đất, Tự hát, Sân ga chiều em đi, Hoa cỏ may. Cứ thế, sóng thơ tình yêu Xuân Quỳnh – người đã đem đến cho làng thơ Việt Nam một tình yêu nồng
náu sẵn trong hồn đã thầm dẫn lối cho chị ra với biển lớn thi ca để trở thành một tên nhiệt, táo bạo mà thiết tha, dịu dàng, hồn nhiên, giàu tự cảm mà lắng sâu những trải
tuổi nổi bật trong nền thơ Việt hiện đại. Quả như chị từng ý thức, nếu không làm thơ nghiệm suy tư. “Sóng” là một trong áng tình ca hay nhất của Xuân Quỳnh
nữa, Xuân Quỳnh đâu còn là mình. Thơ thực là nghiệp dĩ của chị.

Với cấu trúc bài thơ đặc biệt, sóng và em song song tồn tại, hòa hợp vào nhau.
Thơ Xuân Quỳnh là niềm đau đáu bình an giữa thời tao loạn. Khi binh lửa, đạn Mỗi khổ thơ là khám phá thù vị về sóng cũng là một phát hiện mới mẻ của Xuân Quỳnh
bom cuốn mọi thân phận, mọi nguồn lực vào cuộc chiến, thơ ca cũng không thể không về tình yêu. Sóng là tiếng lòng yêu thương nồng cháy cất lên từ sâu thẳm đại dương của
say máu anh hùng mà cất lời sắt máu. Dù khó cưỡng lại thời, song, những tiếng lòng trái tim yêu.
mãnh liệt nhất, Xuân Quỳnh vẫn chỉ dành cho một niềm thơ thầm kín duy nhất : niềm
khao khát yên lành. Cho góc vườn chờ đôi lứa, tổ ấm đợi sáng đèn, vành nôi rời cửa
Hồn nhiên, giản dị mà duyên dáng đằm thắm là vẻ đẹp độc đáo tạo nên sức quyến
hầm, chiếc tã đón ban mai. Cho những lời ru thèm mặt đất, tiếng gà nhớ nắng trưa. Cho
rũ của thơ Xuân Quỳnh. Những câu thơ mở đầu cũng không nằm ngoài vẻ đẹp ấy:
những bông hoa thôi nghẹn hương, cánh chuồn qua dông bão… Những thứ bé mọn thôi,
vô nghĩa nữa, mà lại hằng nhen nhóm, cưu mang, chăm chút cả cõi sống này. Đó mới
thực là những con sóng dưới lòng sâu của hồn thơ Xuân Quỳnh. Theo cách ấy, Xuân Dữ dội và dịu êm
Quỳnh là người đàn bà bước dưới đạn bom mà làm thơ về sự sống.
Ồn ào và lặng lẽ
Không bị mắc kẹt bởi nguồn thơ lửa máu, nên chị không phải quá bận lòng tìm lối
ra như bao người khác. Tạnh bom đạn, về lại đời thường, mạch thơ Xuân Quỳnh vẫn cứ Giữa lòng biền khơi, sóng không bao giờ yên định mà luôn tồn tại ở những trạng
đà xưa mà tuôn chảy. Chỉ khác là, giờ đây những tâm sự đàn bà nhất được dịp khơi sâu, thái đối nghịch. Lúc biển động giông tố, sóng tung bọt trắng xóa, dữ dội, cuồng nộ. Ấy
những tiếng lòng từng cắt xén được hồn nhiên biểu tỏ. Thiết tha với một tình yêu nặng là lúc sóng sống cuộc đời sôi nổi ồn ào của mình. Khi trởi yên biển lặng, sóng dịu dàng
về gắn bó, chở che và chia sẻ, chị luôn trăn trở với sự mỏng mảnh của yêu đương, sự ca hát bên hành dương xanh biếc. Ấy là lúc sóng chìm vào cõi dịu êm, yên lặng. Cũng
mong manh của hạnh phúc, luôn băn khoăn về nỗi lạnh nhạt của thời gian, phôi pha của như sóng, tâm hồn của người con gái khi yêu luôn xôn xao đầy biến động. Lúc dịu
tuổi trẻ, luôn nơm nớp với mưa bão bất thường, đổ vỡ xa xôi… Đây là lúc những day dàng, tha thiết, lúc mạnh mẽ, quyết liệt. Khi hiền hòa, yêu thương, khi hờn ghen, giận
dứt về trái tim đập sau làn áo mỏng, về bàn tay ngón chẳng thon dài luôn sóng sánh dữ. Bề ngoài yếu mềm nhưng bên trong kiên định. Giận hờn, dữ dội nhưng lại sẵn lòng
trong thơ chị. Những dự cảm về nhà ga của chia ly gặp gỡ, con tàu của kh bao dung, tha thứ, hi sinh, dâng hiến tất cả cuộc đời cho người mình yêu. Ngỡ ngàng
SÓNG (st) trước thái cực trái ngược của trái tim con gái khi yêu. Trong “Thuyền và biển”, một lần
nữa Xuân Quỳnh chia sẻ:
KHÁT VỌNG TÌNH YÊU HAY SỰ THỦY CHUNG TRONG
Những đêm trăng hiền từ TÌNH YÊU?

Biển như cô gái nhỏ Ý niệm vĩnh hằng trong hình tượng sóng được Xuân Quỳnh hơn một lần
nhắc đến trong các khổ thơ của bài Sóng, một trong những thi phẩm đặc sắc
về đề tài tình yêu của người nữ sĩ đa đoan. Có lẽ đó là nguyên nhân khiến
Thì thầm gửi tâm tư
quá trình đọc – hiểu trong trường phổ thông đôi khi có những nhầm lẫn
tưởng không ai có thể nhầm lần. Xin chia sẻ đôi điều.
Quanh mạn thuyền sóng vỗ Thật ra, tất cả các câu thơ, khổ thơ trong bài Sóng, dù nhắc tới bất kì
đặc điểm, trạng thái nào của sóng đều luôn hàm chứa ý niệm về sự vĩnh
Cũng có khi vô cớ hằng: sóng thất thường khi dữ dội, lúc dịu êm; sóng trong hành trình hướng
ra biển rộng được người phụ nữ hiện đại những năm 60 thế kỉ trước cảm
nhận như một sự lựa chọn, kiếm tìm và rời bỏ...; sóng thao thiết với đại
Biển ào ạt xô thuyền
dương tự ngàn xưa tới ngàn sau; sóng bí ẩn như tình yêu, không thể cắt
nghĩa; sóng luôn hiện hữu như nét đặc trưng của biển khơi và luôn có xu thế
Bởi tình yêu muôn thuở hướng vào bờ khiến nỗi nhớ của người đang yêu gán cho sóng nhân tính
nhớ nhung trong khổ 5, nỗi chênh chao của những dự cảm lo âu trong khổ 7
Có bao giờ đứng yên lại gán cho sóng niềm tin vào đích đến tốt đẹp cuối cùng của tình yêu như
một cách bám víu vào quy luật bất biến của thiên nhiên để thỏa hiệp với cái
thường biến ngay trong lòng mình... – tất cả những đặc điểm ấy đều tồn tại
Trái tim người con gái đang yêu bên cạnh vẻ dịu dàng lặng lẽ là cái dữ dội, ồn ào.
vĩnh hằng cùng đại dương, từ triệu triệu năm trước, tới triệu triệu năm sau...!
Và cái dữ dội, ồn ào được thể hiện rõ nét trong những khát khao tình yêu.
Sự vĩnh hằng của sóng trên đại dương như một giá trị, không chỉ dùng
cho một trạng thái hay đặc điểm nào đó của tình yêu, tùy theo mỗi cảnh
Sông không hiểu nổi mình huống, nữ sĩ dùng nó cho một nỗi niềm, một phẩm chất..., và hình như lần
nào cũng thật đắc địa. Chỉ xin dừng lại trong hai khổ thơ số 2 và số 6.
Sóng tìm ra tận bể Trước hết là khổ 2, khi sóng được soi chiếu trong thời gian:“Ôi con
sóng ngày xưa/Và ngày sau vẫn thế”. Sự trôi chảy từ “ngày xưa” tới “ngày
sau” và ý nghĩa khẳng định trong cụm từ “vẫn thế” đã đem đến một ý niệm
Xuân Quỳnh đã khéo vận dụng nghệ thuật ẩn dụ để từ quy luật muôn sông đổ ra
vĩnh hằng cho sóng bởi trong thực tế, biển là một thế giới vô biên với vô vàn
bể mà gợi dậy hành trình đi tìm tình yêu đích thực của trái tim phụ nữ. Vì sông không
những con sóng vĩnh viễn xao động. Sự hòa nhập tinh tế các nét nghĩa ẩn dụ
hiểu nổi sóng nên sóng dứt khoát từ bỏ sông mà tìm ra biển lớn bao la để được thấu
trong khổ thơ đưa người đọc đến một cảm nhận về sự tương đồng giữa tình
hiểu, để được vỗ về, chở che. Những người con gái khi yêu
yêu và sóng: giống như những con sóng từ ngàn xưa cho đến mai sau mãi
cồn cào trong lòng biển, mãi trường tồn vĩnh cửu với thời gian, nỗi khát Trước hết, có thể cảm nhận hình tượng sóng được gợi ra trong cả bài thơ bằng âm
vọng tình yêu xôn xao, rạo rực trong trái tim con người cũng là khát vọng đã điệu. Bài thơ có một âm hưởng dào dạt, nhịp nhàng, lức sôi nổi trào dâng, lúc thầm thì
có tự thuở Adam và Eva và sẽ tồn tại đến muôn đời trong hành trình cuộc sâu lắng, gợi âm hưởng của những đợt sóng miên man. Âm hưởng ấy được tạo nên bởi
sống của nhân loại; đúng như lời khẳng định của Xuân Diệu: Làm sao sống thể thơ năm chữ có vận cách với những câu thơ liền mạch, từng câu không ngắt nhịp,
được mà không yêu- Không nhớ không thương một kẻ nào! các khổ thơ lại được gắn kết bằng cách nối vần từ câu cuối khổ trên xuống câu đầu khổ
Hai câu thơ sau là một ẩn dụ tinh tế từ sóng tới tình yêu: “Nỗi khát vọng dưới, ví dụ :
tình yêu/Bồi hồi trong ngực trẻ”.Có thể trong cảm nhận của người phụ nữ
đang yêu khi đứng trước đại dương, mặt biển giống như vồng ngực trẻ trung, — Bồi hồi trong ngực trẻ
cường tráng của trời đất, sóng tựa nhịp thở phập phồng mang khát vọng tình yêu
bồi hồi trong ngực biển. Hình tượng thơ làm hiện ra một tương đồng rạo rực: biển tựa
Trước muôn trùng sóng bể
như con người, sóng giống như nhịp đập của trái tim yêu đương, còn biển thì còn sóng,
còn con người thì còn khát vọng tình yêu
—Khi nào ta yêu nhau

SÓNG (bài tham khảo số 2)


Con sóng dưới lòng sâu…

Mở bài
Nhịp sóng đó cũng là nhịp lòng của tác giả, một tâm trạng đang xao động, trào
dâng, miên man và chất chứa những khát khao, rạo rực.
Sóng là một trong những bài thơ tình đặc sắc của Xuân Quỳnh. Hình tượng trung
tâm và nổi trội trong bài, như tựa đề đã chỉ rõ, đó là sóng. Sức sống và vẻ đẹp tâm hồn
của nhà thơ cũng như mọi sáng tạo nghệ thuật trong bài thơ đều gắn liền với hình tượng Đi vào phân tích những biểu hiện cụ thể của tâm trạng trữ tình trong bai thơ, ta sẽ
sóng. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình của một người phụ nữ được khơi dậy khi thấy mỗi trạng thái tâm hồn lại tìm thấy sư tương hợp với một đặc tính, một dạng thức
đứng trước biển cả, đối diện với những con sóng vô hạn vô hồi. Thực ra thì trong bài biểu hiện của sóng.
thơ, còn có một hình tượng trữ tình nữa, đó là “em”. Sóng là một hình tượng ẩn dụ, nó Sóng “Dữ dội và dịu êm – ồn ào và lặng lẽ”, những trạng thái thật đối nghịch, như
là sự hoá thân của cái tôi trữ tình của nhà thơ, “sóng” và “em” vừa hoà nhập làm một, là tâm tình người phụ nữ đang yểu, mang trong lòng những trạng thái thật trái ngược và
lại vừa phân đôi ra để soi chiếu vào nhau, cộng hưởng. Tâm hồn người phụ nữ đang yêu bất thường, ẩn chứa sức sống mạnh mẽ. Với sức sống và khát vọng không lúc nào nguôi
soi vào sóg để thấy rõ lòng mình, nhờ sóng để biểu hiện những trạng thái của lòng ngoai, yên* định, con sóng không thể không “tìm ra tận bể”, cũng như có lần Xuân
mình. Với hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã tìm được một cách thể hiên thật chính xác Quỳnh đã phát hiện cái quy luật của sự sống trong tình yêu là ở sự vận động của nó :
tâm trạng của ngươi phụ nữ trong tình yêu. “Vì tình yêu muôn thuở – Có bao giờ đứng yên ?” (Thuyên và biển).

Thân bài Hành trình của sóng hướng ra bể rộng cũng chính là sự dứt khoát chối bỏ những
giới hạn chật chội, những thoả mãn tầm thường, để tìm đến nhũng chân trời bao la,
những khát khao rộng lớn. Chỉ có- ra đến biển, con sóng mới thực sự tìm thấy mình,
mới nhận thức được sức mạnh và những khát khao của nó.

Biển là biểu tượng cụ thể của không gian lớn rộng, cũng như sóng là sự vĩnh hằng
với thời gian. Đứng trước biển, người ta thường nghĩ đến cái vô cùng, vô tận của tự
nhiên, của vũ trụ. Với Xuân Quỳnh thì bao giờ biển cũng khơi dậy những khát khao,
ước vọng lớn lao :

Sóng trường tồn với thời gian như sự sống không ngừng nghỉ và không mệt mỏi,
cũng như khát vọng tình yêu của con người sẽ còn mãi mãi, trướe hết là trong những lồ

You might also like