You are on page 1of 28

ĐỀ BÀI: Cảm nhận tám câu đầu bài thơ “Việt Bắc”

Bài làm:
“Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”
Đã từ lâu mảnh đất Tây Bắc – Điện Biên được coi là quê hương của kháng chiến, là mảnh
đất trung du nghèo khó mà nặng ân tình khiến ai đặt chân đến đây cũng phải bồi hồi, xao
xuyến. Mảnh đất ấy đã trở thành niềm thương và nỗi nhớ đối với biết bao con người, trong đó
có nhà thơ Tố Hữu – lá cờ đầu của văn nghệ cách mạng Việt Nam. Banzắc từng nói: “Thơ là
sự sung mãn của tình cảm mãnh liệt”. Chính những niềm thương, nỗi nhớ trào dâng ấy đã
thôi thúc Tố Hữu viết nên tác phẩm “Việt Bắc”. Tám câu đầu bài thơ là nỗi niềm trăn trở, lưu
luyến của người đi, kẻ ở trong cuộc chia tay lịch sử:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn

Tiếng ai tha thiết bên cồn


Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Việt Bắc là khu căn cứ địa kháng chiến được thành lập từ năm 1940. Nơi đây, cán bộ
kháng chiến và nhân dân Việt Bắc đã có mười lăm năm gắn bó keo sơn, nghĩa tình. Tháng 10
năm 1954 hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, hòa bình được lập lại, cán bộ kháng chiến chia
tay đồng bào Việt Bắc để trở về miền xuôi, chia tay thủ đô gió ngàn để về với thủ đô Hà Nội.
Buổi chia tay ấy bao kí ức cứ ùa về, khiến người đi, kẻ ở day dứt, bồn chồn không yên, tạo
cảm hứng cho Tố Hữu viết nên những vần thơ “Việt Bắc”. Ở đó, giữa bộn bề của những kí ức
và hoài niệm, ta cảm nhận được những cung bậc cảm xúc của nỗi nhớ trong người đi, kẻ ở
qua tám câu đầu bài thơ.
Bài thơ mở đầu với tiếng lòng khắc khoải, chân thành, tha thiết của người ở lại:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
1
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”
Cặp từ xưng hô “mình” – “ta” vang lên mang âm hưởng ca dao dân gian gợi nhiều cảm
xúc. Nó tạo giọng điệu tâm tình, ngọt ngào mà bâng khuâng, da diết đến nghẹn ngào trong
người ở lại. Chúng ta đã từng bắt gặp cách xưng hô ấy trong những câu ca dao xưa:
“Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm vạt áo, ta đề câu thơ”
Hay:
“Mình về có nhớ ta chăng
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”
Hai chữ “mình” và “ta” lại được buộc chặt vào nhau bằng điệp ngữ “có nhớ” và điệp cấu
trúc, tạo nên giọng thơ đầy khắc khoải, thể hiện sự trào dâng cảm xúc như những đợt sóng
cuộn xoáy vào tâm thức người ở lại. Bằng hai câu hỏi tu từ, người dân Việt Bắc đã khơi mở,
gợi nhắc những kỉ niệm gắn bó keo sơn, nghĩa tình. Đó là những kỉ niệm gắn với quãng thời
gian lịch sử:
“Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”
Men theo chiều dài lịch sử của một dân tộc “viết bằng máu cả ngàn chương sử đỏ”, con số
“mười lăm năm ấy” quả không phải là dài, nhưng đó là những năm tháng không thể nào quên
của người đi, kẻ ở, của hàng triệu trái tim con người Việt Nam. Bởi lẽ đó là thời gian được đo
đếm bằng kỉ niệm, được đong đầy bằng những kí ức ấm áp, đẹp đẽ. Trong khoảng thời gian
ấy, Việt Bắc dường như đã trở thành quê hương thứ hai, trở thành cái nôi nuôi dưỡng biết bao
tâm hồn, trở thành “thủ đô gió ngàn” trong lòng những người đã gắn bó nơi đây. Không chỉ
vậy, nỗi nhớ đó còn bám theo không gian:
“Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”
“Cây”, “núi”, “sông”, “nguồn” là những hình ảnh thiên nhiên đặc trưng của núi rừng Tây
Bắc. Nó là chứng nhân một thời của lịch sử, nhân chứng cho những kỉ niệm gắn bó nặng sâu
giữa cán bộ kháng chiến và đồng bào Việt Bắc. Vì thế, nhắc đến những hình ảnh này, người ở
lại muốn lay thức, gợi nhớ trong lòng người ra đi, nhắc nhở họ không bao giờ quên những kí
ức nơi mảnh đất Việt Bắc. Có lẽ, hơn ai hết, họ hiểu rằng, sau khi rời xa mảnh đất này, nỗi
nhớ của người ra đi không hướng về vật thể nào xa xôi, to lớn mà nằm trong chính những
hình ảnh quen thuộc nhất, gần gũi nhất, thân thương nhất ở phương trời đó, bởi lẽ:
2
“Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn”
Câu thơ khiến ta chợt nghĩ đến lời nhắc nhở trong buổi chia tay mà ta đã từng bắt gặp
trong câu ca dao xưa:
“Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?”
Hình ảnh “nguồn” ở đây còn mang tính ẩn dụ, biểu tượng cho quê hương Việt Bắc – cội
nguồn cách mạng. Ca dao có câu:
“Con người có tổ có tông
Như cây có cội, như sông có nguồn”
Ý thơ không chỉ đơn giản dừng lại ở việc gợi nhắc kỉ niệm mà còn là lời nhắc nhở thiêng
liêng về cội nguồn cách mạng, về đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Và có lẽ, đặc sắc của đoạn
thơ không chỉ nằm trong kết cấu mà còn là sự vận dụng tài hoa trong âm điệu dân ca, làm cho
câu thơ trở nên nhẹ nhàng như một hơi thở nhè nhẹ, trong lời dặn dò tĩnh nghĩa, chân thangh
rất đỗi thiết tha mà ta cứ ngỡ chỉ trong ca dao dân gian hay những câu hát giao duyên mới có:
“Ra đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”
Như thấu được nỗi lòng của người ở lại, anh cán bộ sắp sửa về xuôi cũng không kìm được
lòng mình mà cất lên nỗi niềm xúc động, bâng khuâng, lưu luyến:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Một tiếng “ai” bật lên đầy xao xuyến! Đại từ phiếm chỉ “ai” thường được sử dụng trong ca
dao tình yêu để tạo giọng điệu tình tứ, lấp lửng:
“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
3
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt…”
Ở đây, tiếng “ai” có thể là tiếng gọi người ở lại, cũng có thể là tiếng lòng trong nhịp bước
của người về xuôi. Tố Hữu sử dụng đại từ này trong câu thơ tạo nên giọng điệu trìu mến, thân
thương đến tột cùng. Nhà thơ còn sáng tạo các từ láy nằm ở vị trí đầu câu và vị trí mở nhịp
(“tha thiết”, “bâng khuâng”, “bồn chồn”) nhằm diễn tả các cung bậc cảm xúc khác nhau của
người ra đi. “Tha thiết” là sự láy lại của từ “thiết tha” trong câu hỏi của người Việt Bắc. Nó
gợi hình ảnh người ra đi trong trạng thái phân vân, nửa muốn đi, nửa không đành lòng xa
cách. “Bâng khuâng” ở đây là bởi đã cùng ăn, cùng ở, cùng sinh hoạt với nhau đã “mười lăm
năm” rồi, đâu dễ gì xa cách mà tránh khỏi luyến tiếc? “Bồn chồn” là bởi kháng chiến đã
thắng lợi, dẫu muốn ở lại với đồng bào Việt Bắc nhưng người ra đi phải về bên “mái ấm nhà
vui” (Hoàng Trung Thông). Bởi thế, thẳm sâu bên trong người ra đi là nỗi lưu luyến, bâng
khuâng trong cõi lòng, những bước chân như ngập ngừng lưu luyến, dùng dằng, nửa muốn
bước đi, nửa muốn nán lại… Từ “dạ” là thanh trắc, âm vực thấp đã vít cong câu thơ xuống
trĩu nặng, tạo nên một khoảng lặng giữa câu thơ, bộc lộ niềm xúc động đầy mãnh liệt, gợi tả
bước chân đầy lưu luyến…
“Áo chàm” – một hình ảnh hoán dụ – hiện lên đầy thiêng liêng và gợi cảm. Chiếc áo chàm
là đặc trưng của con người nơi đây, tuy giản dị nhưng tôn lên được vẻ đẹp “đậm đà lòng son”
của người dân Việt Bắc. Màu chàm bình dị, mộc mạc đã để thương, để nhớ trong lòng cán bộ
về xuôi:
“Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Chàm nâu thêm đậm, phấn son chẳng nhòa”
Hai tiếng “phân li” sao mà buồn quá! Không phải là chia tay mà là “phân li”, là tống biệt,
để rồi từ hai tiếng ấy ta cảm nhận được nỗi bịn rịn, lưu luyến. Phân li rồi biết bao giờ mới
sum họp bên nhau? Ý thơ khiến ta liên tưởng đến những câu thơ bùi ngùi cảm xúc trong
“Tống biệt hành” của Thâm Tâm:
“Đưa người ta không đưa sang sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong”

4
Trong giây phút đó, ngôn từ dường như bất lực, người đi, kẻ ở chỉ biết “Cầm tay nhau biết
nói gì hôm nay”. Có lẽ, nói bao nhiêu cũng không đủ, không thể diễn tả hết biết bao ân nghĩa
trong mười lăm năm gắn bó, chia ngọt sẻ bùi. Họ chỉ còn biết tay nắm chặt tay để lưu giữ lại
hơi ấm thân thương cho nhau. Câu thơ biến nhịp 3/2/3 kết hợp dấu chấm lửng cuối dòng thơ
tạo nên nhịp thơ đứt đoạn, rời rạc. Khoảng lặng trong ngôn từ ấy đã giúp người đọc hình
dung được tâm trạng lưu luyến, bịn rịn của cán bộ kháng chiến trong giây phút chia ly ấy…
Như vậy, đoạn thơ đã khắc họa thành công bức tranh chia tay đầy lưu luyến, cảm động
giữa cán bộ miền xuôi với đồng bào Việt Bắc. Người đọc như đến với thế giới của nỗi nhớ
trong tâm tưởng người đi và kẻ ở. Nỗi nhớ đó bao trùm lên không gian, chi phối đến thời gian
và cuộn xoáy, cuồn cuộn trong nỗi niềm của những con người trong buổi chia tay lịch sử. Tố
Hữu cũng thật tài tình trong sáng tạo nghệ thuật. Ông đã vận dụng thể thơ lục bát truyền
thống của dân tộc một cách khéo léo, linh hoạt. Giọng thơ ở đây được cất lên một cách nhẹ
nhàng, tha thiết, trìu mến. Cùng với đó là ngôn từ giản dị, mộc mạc, gần gũi với lời ăn tiếng
nói hằng ngày và các phép tu từ điệp ngữ, điệp cấu trúc, câu hỏi tu từ… Tất cả đã góp phần
khắc sâu vào lòng người không khí xúc động, nghẹn ngào của buổi chia tay lịch sử năm 1954.
Đằng sau đó là tấm lòng trân trọng, tin yêu, biết ơn và trái tim gắn bó, luôn hướng về Việt
Bắc của Tố Hữu – mảnh đất dù nhà thơ đã chia tay nhưng luôn để thương, để nhớ cho con
người đã gắn bó với nơi đây mười lăm năm, như chính nhà thơ đã từng bộc bạch rằng: “Cảnh
vật và tinh thần Việt Bắc đã nhập vào hồn tôi, vào máu thịt tôi. Việt Bắc ở trong tôi”. Có lẽ,
chính những tình cảm ấy đã giúp thi sĩ viết nên những vần thơ đẹp đến thế! “Việt Bắc” đã
thật sự trở thành thi phẩm “chín trong lẽ sống, chín trong tài năng và chín trong cảm xúc”, để
rồi luôn vượt qua mọi không gian, thời gian mà làm say mê, làm rung động trái tim bạn đọc
qua nhiều thế hệ, bởi “Thơ cũng như nhạc có thể trở thành một sức mạnh phi thường khi nó
chinh phục được trái tim của quần chúng nhân dân” (Sóng Hồng)…
“Thơ là đi giữa nhạc và ý. Rơi vào cái vực ý, thì thơ sẽ sâu, nhưng rất dễ khô khan. Rơi
vào cái vực nhạc, thì thơ dễ làm đắm say người, nhưng cũng dễ nông cạn. Tố Hữu đã giữ
được thế quân bình giữa hai vực thu hút ấy. Thơ của anh vừa ru người trong nhạc, vừa thức
người bằng ý” (Chế Lan Viên). Sự hòa quyện ấy đã góp phần làm nên thành công cho đoạn
thơ nói riêng và “Việt Bắc” nói chung, đưa “Việt Bắc” trở thành “đỉnh thơ cao nhất mà Tố
Hữu đã bước lên” (Xuân Diệu) và đi vào lòng người một cách say đắm, bền chặt cùng với
thời gian!
5
ĐỀ BÀI: Cảm nhận bức tranh tứ bình Việt Bắc
Bài làm:
“Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”
Đã từ lâu mảnh đất Tây Bắc – Điện Biên được coi là quê hương của kháng chiến, là mảnh
đất trung du nghèo khó mà nặng ân tình khiến ai đặt chân đến đây cũng phải bồi hồi, xao
xuyến. Mảnh đất ấy đã trở thành niềm thương và nỗi nhớ đối với biết bao con người, trong đó
có nhà thơ Tố Hữu. Banzắc từng nói: “Thơ là sự sung mãn của tình cảm mãnh liệt”. Chính
những niềm thương, nỗi nhớ trào dâng ấy đã thôi thúc Tố Hữu viết nên tác phẩm “Việt Bắc”.
Người đọc sẽ nhớ mãi những vần thơ thật hay về bức tranh tứ bình trong bài thơ:
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Việt Bắc là khu căn cứ địa kháng chiến được thành lập từ năm 1940. Nơi đây, cán bộ
kháng chiến và nhân dân Việt Bắc đã có mười lăm năm gắn bó keo sơn, nghĩa tình. Tháng 10
năm 1954 hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, hòa bình được lập lại, cán bộ kháng chiến chia
tay đồng bào Việt Bắc để trở về miền xuôi, chia tay thủ đô gió ngàn để về với thủ đô Hà Nội.
Buổi chia tay ấy bao kí ức cứ ùa về, khiến người đi, kẻ ở day dứt, bồn chồn không yên, tạo
cảm hứng cho Tố Hữu viết nên những vần thơ “Việt Bắc”. Ở đó, giữa bộn bề của những kí ức
và hoài niệm, bức tranh tứ bình của Việt Bắc dần hiện lên trong nỗi nhớ người về xuôi như
một dấu son tươi nguyên của kỉ niệm...
Hai câu thơ đầu đoạn thơ là cảm xúc nhớ nhung không nguôi hướng đến Việt Bắc, cũng
chính là cảm xúc bao trùm toàn bộ đoạn thơ:

6
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
Đoạn thơ mở đầu bằng một câu hỏi tu từ bâng khuâng thấm vào hồn người và cảnh vật.
Vẫn là cách xưng hô “mình” - “ta” quen thuộc mà ta thường bắt gặp trong ca dao, nhất là ca
dao về tình yêu:
“Mình về, ta chẳng cho về
Ta níu vạt áo, ta đề câu thơ”
Hay:
“Ta về ta cũng nhớ mình
Nhớ yếm mình mặc, nhớ tình mình trao”
Hai câu thơ chẳng khác gì câu hát giao duyên tình tứ của người ra đi dành cho người ở lại,
vừa hỏi lại vừa như khẳng định tình cảm của chính mình. Điệp từ “ta” được nhắc lại bốn lần
cùng với từ “hoa” có âm mở khiến cho dòng cảm xúc của người đi như bỗng trở nên mênh
mang sâu lắng hơn. Người về mang theo nỗi nhớ “hoa cùng người”. “Hoa” là vẻ đẹp của
thiên nhiên Tây Bắc, còn “người” ở đây là “hoa của đất”, tượng trưng cho con người Tây
Bắc. Hai câu thơ như cánh cửa không gian – thời gian, mở ra bộ bức tranh tứ bình đẹp đến
mê hoặc lòng người.
Không giống như những bức tranh tứ bình thông thường xuân – hạ – thu – đông, bức tranh
tứ bình trong “Việt Bắc” được bắt đầu bằng khung cảnh mùa đông:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Sức sống mùa đông của Việt Bắc truyền thẳng đến người đọc bằng màu xanh trầm tĩnh
của đại ngàn. Nó gợi ra hình ảnh một xứ sở êm đềm và lặng lẽ. Điểm xuyết trên cái nền màu
xanh bát ngát bao la của cánh rừng là màu “hoa chuối đỏ tươi” đang nở rộ lung linh dưới ánh
nắng mặt trời. Từ xa trông tới, những bông hoa như những bó đuốc thắp sáng, tạo nên bức
tranh tươi sáng, ấm áp. Màu đỏ là gam màu nóng, lại thêm “đỏ tươi” làm cho thiên nhiên Việt
Bắc như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ, lạnh giá, hắt hiu vốn có của núi rừng.
Cảnh nên thơ, cảnh có hồn chứ không vô hồn như bức tranh mùa đông mà ta thường thấy
trong thơ kim cổ:
“Mùa đông lạnh gió lùa qua phên cửa
Phía trời xa mây cũng ủ ê buồn
7
Cây trụi lá đứng tần ngần gõ cửa
Ai có về tôi gửi áo len cho”
(Việt Phương)
Bức tranh mùa đông càng sống động hơn bởi sự xuất hiện của con người: ”Đèo cao nắng
ánh dao gài thắt lưng”. Đó là con người của vùng chiến khu lên núi làm nương, phát rẫy sản
xuất lương thực cung cấp cho kháng chiến. Ở đây nhà thơ không khắc họa gương mặt mà
chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất, đó là khi người đứng trên đỉnh đèo cao, ánh mặt trời
chớp lóe trên lưỡi dao rừng gài ở thắt lưng. Giờ đây, con người như một điểm hội tụ của ánh
sáng. Đứng trên “đèo cao”, con người dường như đã làm chủ được thiên nhiên, núi rừng,
chiếm lĩnh tự do, hừng hực khí thế lao động. Tố Hữu thường miêu tả con người trong tư thế
ấy, như trong bài “Lên Tây Bắc” tác giả cũng từng viết:
“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo”
Nối tiếp bức tranh mùa đông, bức tranh mùa xuân lan tỏa và bừng sáng một sức sống tràn
trề nơi đây:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Đến đây, nền xanh trầm tĩnh đã nhường chỗ cho nền trắng tinh khiết của hoa mơ. Phép
đảo tính từ “trắng” lên trước ”rừng” khiến cho cả khu rừng như bừng sáng, nở trắng mọi thời
gian, lan tỏa khắp không gian và tràn đầy nhựa sống. Có lẽ đây chính là hình ảnh ám ảnh nhất
trong hồn thơ Tố Hữu, và Việt Bắc trong nỗi nhớ của Tố Hữu dường như không thể thiếu
được sắc hoa này. Về sau, trong bài thơ ”Theo chân Bác”, thi sĩ cũng đã viết:
“Ôi sáng xuân nay, xuân bốn mốt
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ”
Dưới bóng hoa mơ dịu mát, thấp thoáng hình ảnh con người lao động với hoạt động
“chuốt từng sợi giang”. Người Việt Bắc đẹp tự nhiên trong những công việc hằng ngày, đó là
công việc đan nón bằng thủ công, một nghề truyền thống của Việt Bắc. Hai chữ ”chuốt từng”
gợi ra dáng điệu cần mẫn, cẩn trọng, tỉ mỉ, chăm chút và tài hoa. Không biết người đan nón

8
kia gửi gắm vào “từng sợi giang” nỗi niềm gì, ước mơ gì? Câu thơ gợi ta nhớ đến câu dân ca
quan họ:
“Ai làm chiếc nón quai thao
Để cho anh thấy cô nào cũng xinh”
Xuân đi, hè lại tới, bức tranh mùa hạ Việt Bắc óng vàng tựa như một bức tranh sơn mài
vừa đậm chất cổ điển vừa mang những đường nét hiện đại:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Ở những bức tranh trước, ta mới chỉ cảm nhận được màu sắc, đường nét và ánh sáng. Đến
đây, chúng ta như nghe thấy được âm thanh của rừng núi qua tiếng ve – âm thanh quen thuộc
của mùa hè. Tiếng ve làm cho không khí trở nên xao động. Câu thơ như chứa đựng một phản
ứng dây chuyền chạy từ đầu đến cuối câu thơ. Ve kêu gọi hè đến, hè đến làm cho “rừng
phách đổ vàng”. Ai đã từng đặt chân lên Việt Bắc sẽ dễ dàng nhìn thấy hình ảnh kì lạ của
những cánh rừng phách: trong những ngày cuối cùng của mùa xuân, những cây phách vẫn
mang màu xanh, nụ hoa vẫn náu kín trong từng kẽ lá; nhưng khi những tiếng ve đầu tiên của
mùa hè cất lên thì chúng nhất loạt trở hoa vàng. Chữ “đổ” được dùng thật chính xác, thật tinh
tế. Nó vừa gợi sự biến chuyển mau lẹ của sắc màu, vừa diễn tả tài tình từng đợt mưa hoa rừng
phách khi có ngọn gió thoảng qua, vừa thể hiện chính xác khoảnh khắc hè sang. Tác giả đã sử
dụng nghệ thuật âm thanh để khơi dậy màu sắc, dùng không gian để miêu tả thời gian. Bởi
vậy, cảnh thực mà vô cùng huyền ảo, lung linh ánh sáng, màu sắc và rộn rã âm thanh.
Hiện lên trên nền thiên nhiên óng ả và rộn rã ấy là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái
búp măng rừng cung cấp cho bộ đội: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Hai chữ “một
mình” không gợi lên sự lẻ loi mà góp phần tạo nên bức tranh thơ hoàn chỉnh. Cô gái đang
làm bạn với thiên nhiên tươi đẹp, đang làm chủ lao động, làm chủ tự do. Hình ảnh thơ toát lên
sự tần tảo, hay lam hay làm, chịu thương chịu khó của cô gái. Ba chữ “măng” - “một” -
“mình” đi liền với nhau tạo nên nhạc tính, làm cho giọng thơ trở nên da diết, bâng khuâng.
Có thể thấy, “hoa” và “người” Việt Bắc trong thơ Tố Hữu đã hòa quyện, tôn vinh cùng nhau.
Nhà thơ đã dùng bút lực của mình để ngợi ca sự hài hòa đó bằng tất cả tình yêu, tình thương
với mảnh đất và con người Việt Bắc yêu dấu.
Bộ tranh tứ bình khép lại bằng bức tranh mùa thu:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
9
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Mùa thu với ánh trăng huyền ảo, trải dài khắp núi rừng khiến ta liên tưởng đến câu thơ:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”
(“Cảnh khuya” – Hồ Chí Minh)
Bức tranh thu nào có thể thiếu ánh trăng? Trăng là người bạn tri âm tri kỉ của con người,
khiến con người và thiên nhiên trở nên gần gũi, thân thương hơn bao giờ hết. Chữ “rọi” rất
hay, nó diễn tả được ánh trăng tràn ngập cả không gian đại ngàn bao la. Đó là ánh trăng của
tự do, của hòa bình, soi sáng niềm vui, niềm lạc quan lên từng bản làng Việt Bắc.
Giữa bao la ánh trăng vàng dịu mát ấy lại vang lên tiếng hát. Đó là tiếng hát trong trẻo của
đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình. Đây cũng chính là tiếng hát của
Việt Bắc, của núi rừng, của tình cảm mười lăm năm gắn bó tha thiết mặn nồng:
“Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?”
Vâng! Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng và
khép lại đoạn thơ bằng tiếng hát “ân tình thủy chung” gợi cho người về và cả người đọc
những rung động sâu xa của tình yêu quê hương, đất nước!
Đoạn thơ dường như đã trở thành tuyệt tác về cảnh và người Việt Bắc. Tố Hữu đã thật tài
tình trong sáng tạo nghệ thuật với thể thơ lục bát dân tộc cùng với kết cấu đối đáp quen thuộc
trong ca dao giao duyên, kết hợp với ngôn từ, hình ảnh đậm sắc thái dân gian... Tất cả đã góp
phần làm bật nổi bộ tranh tứ bình tuyệt đẹp, từ đó diễn tả tình cảm sâu nặng giữa người đi, kẻ
ở, giữa cán bộ cách mạng với đồng bào Việt Bắc, giữa mảnh đất cội nguồn cách mạng với
những chiến sĩ cộng sản. “Việt Bắc” đã thật sự trở thành thi phẩm “chín trong lẽ sống, chín
trong tài năng và chín trong cảm xúc”! Chính lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam
đã từng khẳng định: “Cảnh vật và tinh thần Việt Bắc đã nhập vào vào hồn tôi, vào máu thịt
tôi. Việt Bắc ở trong tôi”. Có lẽ, niềm thương nỗi nhớ về mảnh đất và con người Việt Bắc
chưa bao giờ phai mờ trong nhà thơ trữ tình – chính trị ấy, có lẽ dù phải chia tay nhưng trái
tim ông hòa chung nhịp đập với những con người và cảnh vật đã từng gắn bó mười lăm năm
nghĩa tình ấy, như Chế Lan Viên đã từng thốt lên rằng:
10
“Khi ta ở, đất chỉ là nơi ta ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn”
“Thơ là đi giữa nhạc và ý. Rơi vào cái vực ý, thì thơ sẽ sâu, nhưng rất dễ khô khan. Rơi
vào cái vực nhạc, thì thơ dễ làm đắm say người, nhưng cũng dễ nông cạn. Tố Hữu đã giữ
được thế quân bình giữa hai vực thu hút ấy. Thơ của anh vừa ru người trong nhạc, vừa thức
người bằng ý” (Chế Lan Viên). Sự hòa quyện ấy đã góp phần làm nên thành công cho bức
tranh tứ bình, đưa “Việt Bắc” trở thành “đỉnh thơ cao nhất mà Tố Hữu đã bước lên” (Xuân
Diệu) và đi vào lòng người một cách say đắm, bền chặt cùng với thời gian!

11
ĐỀ BÀI: Cảm nhận của anh/ chị về đoạn thơ sau:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Từ đó nhận xét về khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn được thể hiện trong bài
thơ.
Bài làm:
“Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”
Đã từ lâu mảnh đất Tây Bắc – Điện Biên được coi là quê hương của kháng chiến, là mảnh
đất trung du nghèo khó mà nặng ân tình khiến ai đặt chân đến đây cũng phải bồi hồi, xao
xuyến. Mảnh đất ấy đã trở thành niềm thương và nỗi nhớ đối với biết bao con người, trong đó
có nhà thơ Tố Hữu – lá cờ đầu của văn nghệ cách mạng Việt Nam. Banzắc từng nói: “Thơ là
sự sung mãn của tình cảm mãnh liệt”. Chính những niềm thương, nỗi nhớ trào dâng ấy đã
thôi thúc Tố Hữu viết nên tác phẩm “Việt Bắc”. Đặc biệt, người đọc như được sống lại với
không khí ra trận và niềm vui chiến thắng của quân và dân ta trong mười hai câu thơ:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
12
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Việt Bắc là khu căn cứ địa kháng chiến được thành lập từ năm 1940. Nơi đây, cán bộ
kháng chiến và nhân dân Việt Bắc đã có mười lăm năm gắn bó keo sơn, nghĩa tình. Tháng 10
năm 1954 hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, hòa bình được lập lại, cán bộ kháng chiến chia
tay đồng bào Việt Bắc để trở về miền xuôi, chia tay thủ đô gió ngàn để về với thủ đô Hà Nội.
Buổi chia tay ấy bao kí ức cứ ùa về, khiến người đi, kẻ ở day dứt, bồn chồn không yên, tạo
cảm hứng cho Tố Hữu viết nên những vần thơ “Việt Bắc”. Ở đó, giữa bộn bề của những kí ức
và hoài niệm, bức tranh xuất quân và niềm vui chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống
Pháp dần dần hiện lên trong nỗi nhớ của thi sĩ như một dấu son tươi nguyên của kỉ niệm...
Cũng chính từ những vần thơ đó, người đọc thấy được khuynh hướng sử thi và cảm hứng
lãng mạn – một trong những đặc điểm tiêu biểu trong phong cách thơ của “con chim đầu đàn
thơ ca cách mạng Việt Nam”.
Trước hết, Tố Hữu đã vẽ nên bức tranh không khí ra trận của quân và dân ta. Mở đầu đoạn
thơ mà ấn tượng chung về sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc ta:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung”
Hai chữ “của ta” vang lên khảng khái, chắc nịch, hùng hồn, bộc lộ niềm tự hào về những
con đường Việt Bắc đã và đang được giải phóng, hé mở tương lai làm chủ đất nước của
những người dân đất Việt. Sau này Nguyễn Đình Thi cũng có ý thơ hùng hồn như thế:
“Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta”
Cụm từ “Những đường Việt Bắc” mở ra không gian vô cùng rộng lớn, đó là những con
đường mở ra cùng với chiến thắng của quân và dân ta, và cũng là con đường đầy ý nghĩa
tượng trưng, khái quát cả một quá trình đi lên của kháng chiến và cách mạng. Con đường ấy
đang mở tới những chiến công lừng lẫy của cả dân tộc Việt Nam anh hùng! Bên cạnh đó,
“Đêm đêm” là thời gian liên tục kéo dài, kết hợp từ láy “rầm rập” và phép so sánh “như là đất
13
rung” đã khiến cho câu thơ vút lên với âm hưởng hết sức hùng tráng của bài ca kháng chiến.
Sức mạnh của quân và dân ta được đo bằng thước đo sông núi, khí thế hào hùng bao trùm lên
toàn Việt Bắc. Tất cả tạo nên bức tranh tổng hợp của sức mạnh Việt Nam!
Hình ảnh Việt Bắc trong những năm tháng hào hùng bỗng trở nên rực sáng và hùng vĩ bởi
hình ảnh những đoàn quân ra trận:
“Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”
Điệp ngữ “điệp điệp”, “trùng trùng” tạo ấn tượng về sự lớn mạnh khổng lồ của quân đội
nhân dân Việt Nam. Sức mạnh đó là kết tinh của lòng yêu nước, tình đoàn kết, lòng căm thù
giặc ngoại xâm và ý chí “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Sức mạnh đó tựa như vũ bão, có
thể đương đầu, đập tan và đánh bại mọi kẻ thù xâm lược. Đoàn quân nối dài trên những con
đường Việt Bắc thật hùng vĩ đông đảo như trải dài, vươn rộng mọi nẻo đường. Ở đây, không
còn kết cấu hài hòa, cân xứng, tiết tấu ngân nga, dìu dặt như lời ru nữa mà đã được thay thế
bằng nhịp thơ dồn dập, mạnh mẽ, làm bật nổi khí thế xuất quân của đoàn quân tham gia chiến
đấu. Những người lính ra trận với khí thế của Phù Đổng Thiên Vương có thể san núi bạt
rừng, có thể dời non lấp bể, lớp lớp như sóng cuộn điệp trùng:
“Xuân hãy xem! Cuộc diễu binh hùng vĩ
Ba mươi mốt triệu nhân dân
Tất cả hành quân
Tất cả thành chiến sĩ”
(Tố Hữu)
“Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” là một tứ thơ sáng tạo vừa hiện thực lại vừa lãng
mạn. Từ cổ chí kim, trăng sao luôn là người bạn đồng hành với chiến sĩ trong những đêm
hành quân gian khổ:
“Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh
Soi sáng đường chiến sĩ giữa hàng quân”
Và giờ đây, trong giờ phút hành quân của hàng nghìn, hàng triệu chiến sĩ Việt Bắc, ánh
sao tiếp tục tỏa sáng để bầu bạn, để soi đường, dẫn lối các anh. Ánh sao đêm hiện lên vừa
thực khi phản chiếu vào nòng súng thép, vừa mang ý nghĩa tượng trưng – ánh sao lí tưởng
chiến đấu vì độc lập tự do và tầm vóc vươn tới sao trời của người lính. Dưới ánh trăng ấy

14
quân đội ta càng đánh càng mạnh, càng chiến thắng giòn giã, lập nên những chiến công vang
dội. Hình ảnh này khiến ta liên tưởng đến câu thơ của Chính Hữu:
“Đầu súng trăng treo”
Hay trong bài “Núi đôi” của Vũ Cao, ta cũng bắt gặp một hình ảnh thơ như thế:
“Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường”
Song hành với “ánh sao đầu súng” là hình ảnh “mũ nan”. Chiếc mũ nan là sản phẩm được
tạo thành từ đôi tay khéo léo của đồng bào Việt Bắc, nó trở thành hình ảnh thân thương gắn
bó của anh chiến sĩ, mang nét riêng vừa giản dị, thô mộc vừa rất đáng yêu. Ta đã từng bắt gặp
hình ảnh này trong một bài thơ khác của Tố Hữu:
“Vẫn đôi dép lội chiến trường
Vẫn vành mũ lá coi thường hiểm nguy”
Và như thế, vẻ đẹp của lý tưởng cao cả, của ý chí bất khuất kiên cường đã được Tố Hữu
thể hiện một cách thật lãng mạn ngay trong hình ảnh bình dị, chân thực của người chiến sĩ
trên đường hành quân!
Trong bức tranh tổng hợp về sức mạnh của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến, Tố Hữu đã
khái quát thêm một sức mạnh – đó là sức mạnh của đoàn dân công:
“Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay”
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ban ngày địch dễ dàng hoành hành nhưng vào ban
đêm, lợi thế làm chủ tình hình thuộc về quân và dân ta. Vì thế, những đoàn dân công đỏ đuốc
đi trong đêm để tiếp vận, chuyển lương thực phục vụ chiến trường là hình ảnh tả thực.
Nhưng, với ánh đuốc đỏ rực ấy cùng với “muôn tàn lửa bay” thì lại lãng mạn biết bao! Có
khác gì một hội hoa đăng tràn ngập ánh sáng, có khác gì một ngày hội tiếp tế hùng tráng, tưng
bừng, náo nức! Thật đẹp đẽ biết bao, thật đáng tự hào biết bao về khí thế ra trận của những
con người ấy, và quả thật “Cách mạng là ngày hội của quần chúng” (Mác). Ở đây, tác giả
không viết “Từng đoàn dân công đỏ đuốc” mà mở đầu câu thơ bằng hai chữ “Dân công”, kết
thúc bằng hai chữ “từng đoàn”. Cấu trúc đảo ấy gợi ra sự điệp trùng vô tận của những đoàn
dân công. Hình ảnh “bước chân nát đá” được nhà thơ Tố Hữu sử dụng biện pháp tu từ phóng
đại. “Bàn chân” là hình tượng biểu trưng cho sức mạnh của con người gắn liền với những
chặng đường đấu tranh cách mạng. Đó là bước chân của những con người đạp bằng mọi
15
chông gai để đi tới, của những con người kiên cường, không bao giờ chịu khuất phục. Hình
ảnh thơ vừa toát lên ánh sáng lãng mạn, vừa tràn đầy khí thế oai hùng, lẫm liệt. Lấy ý từ câu
ca dao “Trông cho chân cứng đá mềm”, Tố Hữu đã sáng tạo nên một hình ảnh thơ vừa quen
thuộc, vừa mới lạ để ngợi ca sức mạnh của những con người đang hướng đến tương lai chiến
thắng của đất nước!
Bức tranh kháng chiến còn hiện lên với hình ảnh đoàn xe cơ giới kéo nhau ra mặt trận:
“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”
“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày” là ẩn dụ để nói đến những năm tháng đêm trường nô
lệ của cả dân tộc, nay đêm trường ấy đã bị xua đi bởi “Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”.
Sự tương phản giữa quá khứ “thăm thẳm sương dày” với ánh sáng của “ngày mai lên” là sự
tương phản làm nổi bật giá trị của nghìn đêm kháng chiến. Ánh sáng đó chính là ánh sáng của
lí tưởng cách mạng soi đường cho dân tộc ta bước qua đêm trường nô lệ để hướng đến một
ngày mai tươi sáng, một thời đại thắng lợi huy hoàng của cách mạng – một thời đại độc lập,
tự do. Chữ “bật sáng” cực tả được cái khoảnh khắc chói lòa ấy – khoảnh khắc kháng chiến
chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ chiến thắng, tiến lên làm chủ đất nước của dân tộc ta! Câu
thơ để lại nhiều dư vị, dư vang về cảnh ra quân hoành tráng, đầy hào khí và tràn ngập niềm
tin vào tương lai tươi sáng của đất nước!
Có thể thấy, chỉ với tám câu thơ, Tố Hữu đã khắc họa thành công bức tranh “Việt Bắc ra
quân” thật đẹp! Từng câu chữ, từng ý thơ tràn ngập ánh sáng: ánh sao, ánh đuốc, ánh đèn pha,
…, ánh sáng của niềm tin, niềm vui tràn ngập. Tất cả góp phần tạo nên khúc hùng ca kháng
chiến của cả dân tộc. Việt Bắc không còn là của “mình” hay của riêng “ta” mà là của chúng ta
– của mọi người dân Việt Nam kháng chiến. Bức tranh không chỉ làm sống dậy những năm
tháng hào hùng của quân và dân ta trên căn cứ địa Việt Bắc mà còn đem đến cho ta niềm tin
yêu, tự hào về quê hương cách mạng anh hùng. Bức tranh chính là kết tinh của niềm thương,
nỗi nhớ, sự gắn bó ruột thịt của Tố Hữu đối với mảnh đất và con người nơi đây, như nhà thơ
đã từng bộc bạch: “Cảnh vật và tinh thần Việt Bắc đã nhập vào hồn tôi, vào máu thịt tôi. Việt
Bắc ở trong tôi”.
Trong bốn câu thơ cuối đoạn thơ, Tố Hữu đã tái hiện một cách sinh động không khí chiến
thắng đang dồn dập trên khắp cả nước:
“Tin vui chiến thắng trăm miền
16
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”
Tố Hữu là nhà thơ có biệt tài đưa địa danh vào trong thơ một cách linh hoạt, uyển chuyển
mà không hề khô khan. Ở đây, thi sĩ đã liệt kê những địa danh kết hợp với từ “trăm miền”
nhằm mở ra không gian rộng lớn của chiến thắng từ miền núi đến đồng bằng, từ Bắc đến
Nam. Điệp từ “vui” như tiếng reo mừng chiến thắng, vút lên những cảm xúc tự hào, vui
sướng khi tin vui chiến thắng dồn dập đổ về từ khắp mọi nẻo đường đất nước. Nó còn được
kết hợp với các từ chỉ hướng “về”, “từ”, “lên” để rồi vẽ nên một “bản đồ vui” mà trong đó
Việt Bắc là trung tâm, là tâm điểm của mọi niềm vui. Nhịp thơ dồn dập, tươi vui cho thấy tốc
độ thần kì, nhanh chóng của tin tức chiến thắng. Giọng thơ say mê, náo nức diễn tả được
niềm hân hoan tràn ngập trong lòng triệu triệu con người từ Bắc chí Nam. Khúc ca chiến
thắng đã lan tỏa trong những niềm vui sướng vỡ òa của cả dân tộc!
Qua đoạn thơ, ta thấy được khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn dưới ngòi bút của
Tố Hữu. Khuynh hướng sử thi được hiểu là những tình cảm, cảm xúc ngợi ca của tác giả về
những vấn đề lớn lao, quyết định vận mệnh chung của cả cộng đồng. Ở đây, khuynh hướng
sử thi được biểu hiện qua việc tái hiện sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc (những chiến
công vang dội của quân và dân ta trong kháng chiến chống Pháp để đi đến thắng lợi cuối cùng
– chiến dịch Điện Biên Phủ), xây dựng hình tượng trung tâm là những con người anh hùng
mang sức mạnh của tinh thần đoàn kết, lòng dũng cảm, tinh thần yêu nước, quyết tâm xả thân
để giành lại hòa bình cho đất nước. Trên phương diện nghệ thuật, khuynh hướng sử thi thể
hiện qua giọng thơ hào hùng, nhịp thơ nhanh, dồn dập, ngôn ngữ hoành tráng… Bên cạnh đó,
toàn bộ đoạn thơ còn được bao trùm bới cảm hứng cảm hứng lãng mạn cách mạng. Cảm
hứng cách mạng được hiểu là cảm hứng khẳng định cái tôi đầy tình cảm, vượt lên hiện thực
để hướng đến một lí tưởng cao đẹp. Ở đây, cảm hứng lãng mạn được bộc lộ qua sự xuất hiện
dày đặc của ánh sáng trong đoạn thơ, từ đó thể hiện niềm tin về tương lai tươi sáng của dân
tộc. Nghệ thuật tạo nên cảm hứng lãng mạn ở đây chủ yếu nhờ vào bút pháp lãng mạn của Tố
Hữu. Đây cũng chính là đặc điểm tiêu biểu trong phong cách thơ của Tố Hữu, là kim chỉ nam
xuyên suốt các sáng tác của ông!
Như vậy, đoạn thơ đã khắc họa thành công bức tranh Việt Bắc ra trận và tin vui chiến
thắng của quân và dân ta. Ta như sống lại với không khí chiến đấu hào hùng của cả một dân
17
tộc kiên cường, bất khuất với một tinh thần, ý chí quyết tâm đánh thắng mọi kẻ thù để giành
lại độc lập, tự do cho nước nhà. Tinh thần ấy, ý chí ấy đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ
“lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, để rồi khúc ca chiến thắng đã được vút lên trong
niềm vui vỡ òa của những người con đất Việt. Tố Hữu cũng thật tài tình trong sáng tạo nghệ
thuật. Ông đã vận dụng thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc một cách khéo léo, linh hoạt.
Giọng thơ ở đây được cất lên một cách hào sảng, kết hợp với nhịp thơ dồn dập, ngôn từ hùng
hồn và các phép tu từ so sánh, phóng đại… đã tạo nên không khí hùng tráng bao trùm lên cả
đoạn thơ. Đằng sau đó là tấm lòng trân trọng, tin yêu, biết ơn và trái tim gắn bó, luôn hướng
về Việt Bắc của Tố Hữu – mảnh đất dù nhà thơ đã chia tay nhưng luôn để thương, để nhớ cho
con người đã gắn bó với nơi đây mười lăm năm, bởi lẽ:
“Khi ta ở đất chỉ là nơi ta ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”

Có lẽ, chính những tình cảm ấy đã giúp thi sĩ viết nên những vần thơ đẹp đến thế! “Việt
Bắc” đã thật sự trở thành thi phẩm “chín trong lẽ sống, chín trong tài năng và chín trong cảm
xúc”, để rồi luôn vượt qua mọi không gian, thời gian mà làm say mê, làm rung động trái tim
bạn đọc qua nhiều thế hệ, bởi “Thơ cũng như nhạc có thể trở thành một sức mạnh phi thường
khi nó chinh phục được trái tim của quần chúng nhân dân” (Sóng Hồng)…

“Thơ là đi giữa nhạc và ý. Rơi vào cái vực ý, thì thơ sẽ sâu, nhưng rất dễ khô khan. Rơi
vào cái vực nhạc, thì thơ dễ làm đắm say người, nhưng cũng dễ nông cạn. Tố Hữu đã giữ
được thế quân bình giữa hai vực thu hút ấy. Thơ của anh vừa ru người trong nhạc, vừa thức
người bằng ý” (Chế Lan Viên). Sự hòa quyện ấy đã góp phần làm nên thành công cho đoạn
thơ nói riêng và “Việt Bắc” nói chung, đưa “Việt Bắc” trở thành “đỉnh thơ cao nhất mà Tố
Hữu đã bước lên” (Xuân Diệu) và đi vào lòng người một cách say đắm, bền chặt cùng với
thời gian!

18
ĐỀ BÀI: Cảm nhận đoạn:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù

Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”
Bài làm:
“Khi ta ở đất chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”
Thật vậy, trong tâm hồn của mỗi con người luôn có một mảnh đất để thương để nhớ,
không thể nào quên. Đó có thể là nơi vùng cao Tây Bắc với những con người chân chất, thật
thà với sức sống tiềm tàng, mãnh liệt, hoặc cũng có thể là nơi cái đói, cái nghèo có sức bóp
méo nhân hình, nhân tính nhưng trên cái nền tối đen ấy vẫn lóe lên tia sáng tình người và
niềm hi vọng trong trang văn của Kim Lân. Và với Tố Hữu, Việt Bắc chính là mảnh đất gắn
với niềm thương nỗi nhớ, đong đầy kỉ niệm khó phai. Bằng tất cả tình yêu mà ông dành cho
nơi đây, Tố Hữu đã viết nên “Việt Bắc” – khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách
mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Đến với “Việt Bắc”, ta làm sao quên
được những vần thơ viết về những kỉ niệm gắn bó sâu nặng giữa cán bộ kháng chiến và người
dân nơi đây:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”
19
Việt Bắc là khu căn cứ địa kháng chiến được thành lập từ năm 1940. Nơi đây, cán bộ
kháng chiến và nhân dân Việt Bắc đã có mười lăm năm gắn bó keo sơn, nghĩa tình. Tháng 10
năm 1954 hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, hòa bình được lập lại, cán bộ kháng chiến chia
tay đồng bào Việt Bắc để trở về miền xuôi, chia tay « thủ đô gió ngàn » để về với « thủ đô
hoa vàng nắng Ba Đình ». Buổi chia tay ấy bao kí ức cứ ùa về, khiến người đi, kẻ ở day dứt,
bồn chồn không yên, tạo cảm hứng cho Tố Hữu viết nên những vần thơ “Việt Bắc”. Ở đó,
giữa bộn bề của những kí ức và hoài niệm, nhà thơ như đưa ta đến với những thước phim
quay chậm khoảng thời gian gắn bó với những kỉ niệm không bao giờ quên trong người đi và
kẻ ở...
Đến với đoạn thơ, điều ta ấn tượng đầu tiên có lẽ là cách xưng hô “mình” - “ta” quen
thuộc mà ta thường bắt gặp trong ca dao, nhất là ca dao về tình yêu:
“Mình về, ta chẳng cho về
Ta níu vạt áo, ta đề câu thơ”
Hay:
“Ta về ta cũng nhớ mình
Nhớ yếm mình mặc, nhớ tình mình trao”
Với cách xưng hô này, lời thơ bỗng trở nên ngọt ngào, tình tứ tựa như những câu hát giao
duyên. Ý thơ vì thế mà trở nên thật thiết tha, như một lời thủ thỉ, tâm tình đầy trìu mến của
người ở lại đối với người ra đi. Cùng với đó là thủ pháp liệt kê những câu hỏi tu từ liên tiếp,
dồn dập, lại được kết hợp với phép điệp cấu trúc « Mình đi... có nhớ... », « Mình về... có
nhớ ... » khiến cho lời thơ tuôn trào như một dòng chảy hồi ức cứ ùa về mãnh liệt. Để rồi từ
đó, Tố Hữu đã « tua ngược thời gian », vẽ ra trước mắt người đọc một khoảng trời đầy ắp kỉ
niệm giữa đồng bào Việt Bắc và cán bộ miền xuôi trong suốt mười lăm năm gắn bó nghĩa
tình...
Mở đầu đoạn thơ là những kí ức về thiên nhiên khắc nghiệt nơi núi rừng Việt Bắc:
« Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù »

20
ĐỀ BÀI: Trong bài thơ “Việt Bắc”, nhà thơ Tố Hữu đã tái hiện những tháng ngày kháng
chiến gian khổ:

Mình đi có nhớ những ngày


Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai

Và tái hiện những chiến thắng lịch sử hào hùng của quân dân Việt Bắc:

Tin vui chiến thắng trăm miền


Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De núi Hồng.

Anh/ chị hãy phân tích bức tranh Việt Bắc qua hai đoạn thơ trên, từ đó làm nổi bật sự vận
động của cảm xúc trong thơ Tố Hữu.

Bài làm:

Tố Hữu đã từng mượn thơ để bày tỏ lòng mình:


“Tôi muốn viết những dòng thơ tươi xanh
Vẫn nóng viết những vần thơ lửa cháy”

Hiện thực Cách mạng vô cùng phong phú khơi nguồn sáng tạo cho Tố Hữu – một nhà thơ
tiên phong của văn nghệ Cách mạng Việt Nam – là đối tượng phản ánh chủ yếu trong thơ ca
của ông. Tuy nhiên, đâu phải vần thơ nào của Tố Hữu cũng ngùn ngụt “lửa cháy”, cũng là
hình ảnh nhân dân kháng chiến đó thôi nhưng trôi vào thơ Tố Hữu lại mềm mại và gợi cảm
đến lạ kì. “Việt Bắc” là một bài thơ như thế! Có thể nói “Việt Bắc” là minh chứng hùng hồn
cho sự vận động cảm xúc của Tố Hữu. Giai điệu tình ca và nhịp điệu tráng ca là nét nổi bật
trong thanh âm vang vọng của bài thơ này, được thể hiện rõ nét ở hai đoạn thơ:

“Mình đi có nhớ những ngày


Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai”

21
Và:

“Tin vui chiến thắng trăm miền


Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De núi Hồng”

Trên tờ Báo văn nghệ (số 50) Nguyễn Đình Thi có nhận xét: “Trọn đời, Tố Hữu là một
chiến sĩ Cách mạng làm thơ và là một nhà thơ Cách mạng. Và trong lửa thơ của anh có biết
bao thương yêu, dịu dàng đối với đất nước, quê hương và những con người của đất nước, quê
hương”. Đọc “Việt Bắc”, ta nhận ra những dòng thơ kia không “dịu dàng” sao được khi Tố
Hữu đang gợi về những kỉ niệm sâu nặng trong lòng người, những kỉ niệm về một thời kháng
chiến gian khổ mà hào hùng, vẻ vang? Không “dịu dàng” sao được khi đó là tiếng lòng của
đồng bào Việt Bắc mến thương và dòng nhớ da diết chảy trong hồn người đã từng sống và
chiến đấu ở miền núi thẳm non ngàn, nay sắp phải xa rời Việt Bắc để trở về chốn “Nhà cao
thành thị xa xôi”, phố đông rực rỡ sáng đèn? “Việt Bắc” của Tố Hữu ra đời ngay sau khi
chiến thắng Điện Biên Phủ kết thúc, Hiệp định Gionever về Đông Dương được kí kết, hòa
bình trở lại, miền Bắc nước ta được giải phóng. Một trang sử mới của đất nước và một giai
đoạn mới của Cách mạng được mở ra. Trung ương Đảng, Chính phủ rời Việt Bắc trở về Hà
Nội. Câu chuyện kháng chiến được Tố Hữu khơi gợi, thể hiện trong dáng dấp của một câu
chuyện tình yêu lứa đôi trong khung cảnh chia tay bịn rịn, se lòng.

Rồi cũng đến giây phút “Mình về thành thị xa xôi”, biết rằng “mình” có còn nhớ những kỉ
niệm ngọt ngào “mười lăm năm ấy” “ta” và “mình” đã gắn bó bên nhau nữa hay chăng?
Người ở lại (đồng bào Việt Bắc) không sao kìm được lòng mình nên đã lên tiếng hỏi trước.
Trong mười hai câu hỏi xao lòng có bốn câu hỏi khơi nhắc những kỉ niệm về cuộc sống ở
chiến khu Việt Bắc trong những ngày kháng chiến gian lao, thuở ấy, “ta” với “mình” cùng
chung sức chung lòng chịu đựng những gian lao, cùng đồng cam cộng khổ:

“Mình đi có nhớ những ngày


Mưa nguồn suốt lũ những mây cùng mù
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai”

22
Lời thơ nhẹ nhàng đưa ta vào một miền không gian lung linh trong tâm tưởng người ở lại.
Trong những tháng ngày chiến đấu gian khổ ấy, đồng bào Việt Bắc đã cưu mang những cán
bộ chiến sĩ, sự cưu mang ấy thật trọn vẹn, lớn lao. Người Việt Bắc nhạy cảm trước hoàn cảnh
đổi thay, biết rằng mai này về xuôi, “Phố đông còn nhớ bản làng – Sáng đèn còn nhớ mảnh
trăng giữa rừng”? Thôi thì trong khoảnh khắc này, người Việt Bắc nhắc lại lần sau cuối mong
sao người ra đi đừng quên những ân nghĩa ân tình mà đồng bào Việt Bắc đã dành cho cán bộ
và kháng chiến suốt “mười lăm năm” trời. “Mười lăm năm” không phải là ngắn, cũng không
phải dài một nửa đời người. Khoảng thời gian ấy đủ để những kỉ niệm trĩu nặng tâm can,
khiến người xa vấn vương hoài không dứt. Hai tiếng “Mình đi” nghe sao thân thương mà
khắc khoải lòng người quá! Ừ thì “mình” đi, đó là sự thật! “Ta” với “mình” dẫu có thương
nhau cũng đâu thể sống trọn đời với nhau? Nhưng xa nhau chưa hẳn là mất mát. Những kỉ
niệm ngọt ngào sẽ là sợi dây nối lòng dạ người chiến sĩ Cách mạng với đồng bào sâu nặng
nghĩa tình. Tố Hữu đã gợi tả không gian núi rừng Việt Bắc trong ngày “suối lũ” “mưa
nguồn”. Việt Bắc thật đẹp, thật hữu tình, nhưng đôi khi Việt Bắc cũng xám xịt bởi sự khắc
nghiệt của thiên nhiên. Tiết trời Việt Bắc “dở chứng”, mưa trên nguồn, dòng nước lũ ào ào
ngoài con suối, mây mù giăng mắc ôm trùm cả núi rừng Việt Bắc, khiến núi rừng trở nên tối
tăm và lạnh lẽo hơn. “Mưa nguồn, suối lũ, những mây cùng mù” chính là những nét vẽ chân
thực về thiên nhiên Việt Bắc – dấu ấn không phai mờ trong lòng người cán bộ về xuôi.

Ừ thì “Mình về” Hà Nội, thành phố của ánh đèn, của những nói cười, thủ hô cờ hoa rực rỡ,
biết rằng “mình” có còn nhớ “chiến khu” Việt Bắc, nơi đã từng dốc lòng chở che, bảo bọc,
yêu thương người chiến sĩ Cách mạng những tháng ngày chiến đấu? Người ở lại khéo léo
nhắc nhở những gian nan, khổ ải, nhọc nhằn mà đồng bào Việt Bắc cùng người cán bộ chiến
sĩ phải chịu đựng trong những năm tháng ấy. Cuộc sống ở chiến khu Việt Bắc hiện lên trong
hoài niệm của người ở lại. Mai này, dù cuộc sống có đổi thay thì “ta” với “mình” làm sao
quên được những ngày đói khổ cùng dằn lòng với “miếng cơm chấm muối”? Món ăn bình dị,
mộc mạc ấy đã giúp chúng mình chống chọi qua cơn đói, để từ đó mạnh mẽ cầm súng chiến
đấu bảo vệ quê nhà, bảo vệ căn cứ địa Cách mạng của quân và dân ta. Thuở ấy đôi ta chung
một mối thù. Mối thù không có hình khối, không trọng lượng nhưng dường như nó đang đè
nặng đôi vai: “mối thù nặng vai”. “Ta” với “mình” chiến đấu để trả “mối thù” mà dân tộc
mình phải gánh chịu trong những ngày giặc Pháp giày xéo quê hương, xứ sở mình khói lửa
điêu tàn. Những kỉ niệm đó làm sao mà quên được?
23
Chỉ với bốn dòng thơ, Tố Hữu đã gợi lại cả một miền kí ức thân thương chất chứa lòng
người. Lời thơ man mác buồn, giọng thơ ngọt ngào như lời hát, lời ru. Những hình ảnh được
Tố Hữu lựa chọn gợi hình, gợi cảm, khiến câu thơ trở nên có linh hồn, như thế thì không “dịu
dàng” sao được?

Nhưng “Việt Bắc” đâu chỉ là một bản tình ca trữ tình lay láng thế?! Xuôi dọc bài thơ, ta
bắt gặp những dòng thơ “lửa cháy”, thể hiện khí hào hùng, phấn khởi của quân dân Việt Bắc
trong cuộc kháng chiến chống quân thù. Sau cuộc chiến, quân dân Việt Bắc lại náo nức lòng
mình trong niềm vui chiến thắng. Tin vui từ khắp nơi đổ dồn về chiến khu Việt Bắc, âm
hưởng hùng hồn ngợi ca Tổ quốc máu xương. Ngày Việt Bắc rợp màu cờ chiến thắng là ngày
không thể nào quên trong lòng người cán bộ về xuôi:

“Tin vui chiến thắng trăm miền


Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”

Sau những ngày chiến đấu gian khổ, mất mát hi sinh, gian lao khổ ai muôn trùng, cuối
cùng quân và dân ta đã chiến thắng thực dân Pháp. Chiến dịch Điện Phủ đã viết nên một trang
sử hào hùng cho Tổ quốc Việt Nam. Cụm từ “Tin vui chiến thắng” nghe sao tự hào quá đỗi.
Cuối cùng, mọi nỗ lực của Đảng bộ quân dân ta đã được đền đáp, quân và dân ta đã dẹp tan
bọn giặc hung tàn mở ra những ngày tươi sáng cho gương mặt đất nước, một giai đoạn mới
cho Cách mạng Việt Nam.

Những tên đất, tên miền trở thành điểm nhớ thân thương trong tâm khảm người cán bộ về
xuôi. Bằng biện pháp liệt kê, kết hợp với điệp khúc: “vui về”, “vui từ”, “vui lên”, ta nhận ra
hào khí chiến thắng đang vang khắp mọi nẻo đường, mọi vùng miền, từ đồng bằng lên núi
cao, nơi này sang nơi khác. Ở chiến khu nghe tin chiến dịch Hòa Bình thắng lợi, chiến dịch
Tây Bắc giải phóng nhiều vùng rộng lớn ở các tỉnh miền núi cao, chiến dịch Điện Biên Phủ
mùa xuân năm 1954 rộn ràng, sôi sục, lòng người vui tươi hẳn lên. Cùng ca ngợi những chiến
công vang dội, ta làm sao quên những dòng thơ ngùn ngụt sắt lửa trong bài “Hoan hô chiến sĩ
Điện Biên” của Tố Hữu:

24
“Điện Biên vời vợi nghìn trùng
Mà lòng bốn biển nhịp cùng lòng ta
Đêm nay bè bạn gần xa
Tin về chắc cũng chan hòa vui chung”

Tự hào lắm! Cách mạng Việt Nam từ trong “trứng nước” đã trưởng thành. Nước Việt Nam
ta từ trong máu lửa hung tàn đã “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”, chói ngời lí tưởng yêu nước bảo
vệ từng tấc đất quê hương. Từ đồng bằng, tin vui Đồng Tháp Mười thắp trận bay về Việt Bắc.
Trên Tây Nguyên đất đỏ, chiến thắng An Khê giải phòng một vùng rộng lớn cũng đổ dồn về
cơ quan đầu não của Đảng ta.

Không gian từ rộng đến hẹp, từ xa tới gần, “đèo De, núi Hồng” là những địa danh trong
vùng chiến khu Việt Bắc, nơi mà các cơ quan Trung ương với chiến sĩ dũng cảm không khuất
phục quân thù trực tiếp cầm súng chiến đấu, đem đến thắng lợi vẻ vang.
Những chiến công đó là tín hiệu mới cho Cách mạng Việt Nam. Thơ mang âm hưởng anh
hùng ca ca ngợi chiến thắng pha lẫn niềm tự hào dâng tràn trong lòng người.

“Việt Bắc” vừa là khúc tình ca nghĩa tình Cách mạng, vừa là khúc hùng ca về cuộc kháng
chiến chống Pháp. Đọc hai đoạn thơ trên, ta nhận ra sự thay đổi trong mạch cảm xúc của Tố
Hữu. Nếu ở đoạn thơ thứ nhất, nỗi nhớ hướng về những kỉ niệm của một thời chiến đấu gian
khổ được Tố Hữu thể hiện qua giọng điệu tha thiết, chân thành, mộc mạc như lời người con
gái man sơ giữa núi đồi Việt Bắc, như lời người vợ tâm sự với chồng trước lúc xa nhau… thì
ở đoạn thơ thứ hai, Tố Hữu tái hiện những chiến công bằng giọng điệu tự hào, mạnh mẽ, rắn
rỏi, những từ ngữ hô ứng bộc lộc cảm xúc như: “mình ơi”, “mình về”, “mình đi”… được hạn
chế hẳn đi. Sự vận động trong mạch cảm xúc của Tố Hữu từ trong thương nhớ ngọt ngào
sang ngợi ca, khẳng định; từ thiết tha bổi hổi như lời ru chuyển sang hùng tráng; từ “tươi
xanh” lai láng chuyển thành “lửa cháy” rực lòng. Chẳng những ở hai đoạn thơ này mà ở
những đoạn thơ sau cũng vậy, mạch cảm xúc trong thơ Tố Hữu luôn đổi thay, vừa gợi lại
những kỉ niệm đẹp để khẳng định nghĩa tình son sắt thủy chung, vừa ngợi ca công ơn của
Đảng, của Bác Hồ, của quê hương Việt Bắc trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Và khi đọc
đến dòng thơ cuối bài thơ “Việt Bắc”, không chần chừ gì nữa mà ta có thể khẳng định ngay
mạch thơ hướng về phía niềm vui, phía tương lai xán lạn: “Ngàn năm non nước mai sau –
Đời đời ơn Đảng càng sâu càng nồng – Cầm tay nhau hát vui chung – Hôm nay mình nhé, hát
25
cùng Thủ đô”. Đây chính là cảm hứng lãng mạn – một biểu hiện chung của văn học Việt Nam
thời kì kháng chiến chống Pháp.

Tố Hữu là nhà thơ của tình thương mến, nhà thơ của triệu triệu con tim hướng về Tổ quốc
Việt Nam. Mấy mươi năm trôi qua, “Việt Bắc” vẫn đi trong dư vang của lòng người để rồi
mỗi lần đọc lại, người đọc như sống về những ngày chiến đấu gian khổ mà hào hùng, những
ngày đói khổ mà chung mối thù, chung ý chí, cùng quyết tâm hướng đến ngày chiến thắng
rộn vang. Nói hộ lòng dân, tái hiện lịch sử bằng những vần thơ trĩu nặng cái tình, Tố Hữu
xứng đáng là cánh chim đầu đàn của nền văn nghệ Cách mạng, là cái bóng mát rợp của văn
học Việt Nam. Rõ ràng “sắt lửa mặt trận” đã hun đúc cho nền văn nghệ chúng ta một Tố Hữu
đầy nhiệt huyết.

26
1. Tố Hữu và tác phẩm ” Việt Bắc”
Cảnh vật và tinh thần Việt Bắc đã nhập vào hồn tôi, máu thịt tôi, Việt Bắc ở trong tôi.
(Tố Hữu – “Nhà văn nói về tác phẩm”)
Thơ là đi giữa nhạc và ý. Rơi vào cái vực ý, thì thơ sẽ sâu, nhưng rất dễ khô khan. Rơi vào cái
vực nhạc, thì thơ dễ làm đắm say người, nhưng cũng dễ nông cạn. Tố Hữu đã giữ được thế
quân bình giữa hai vực thu hút ấy. Thơ của anh vừa ru người trongnhạc, vừa thức người bằng
ý.
(Chế Lan Viên – “Lời nói đầu tuyển tập thơ Tố Hữu”)
Việt Bắc là đỉnh thơ cao nhất mà Tố Hữu đã bước lên. (Xuân Diệu – “Tập thơ Việt Bắc của
Tố Hữu”)
Sức mạnh của thơ Tố Hữu trong những ngày đen tối ấy chính là vì nó nói với trái tim, chính
là bởi người cách mạng ấy là một thi sĩ chính cống, thật sự.
(Xuân Diệu -“Tố Hữu với chúng tôi”)
Lịch trình tiến triển về thơ của Tố Hữu đi song song với lịch trình tiến triển về tư tưởng và
trình độ giác ngộ, về sức hoạt động của Tố Hữu.
Thơ Tố Hữu không phải là một trò tiêu khiển mà là một khí cụ đấu tranh, một công tác vận
động của người cách mạng.
Người Tố Hữu là một thi sĩ, một chiến sĩ nhưng chúng ta đừng quên cốt cách của nó là thi sĩ.
(Lời giới thiệu tập Thơ của Tố Hữu,Văn hóa Cứu quốc Việt Nam xuất bản, 1946)
Tố Hữu không tô vẽ lên nhân vật quần chúng những nét sơn hào nhoáng, giả tạo. Tình cảm
của nhân vật thơ anh biểu hiện lên từ bản chất giai cấp, từ đời sống thực.
Người bộ đội chiếm một địa vị quan trọng trong tập thơ Việt Bắc, chính là người nông dân
nghèo khổ.
(Chặng đường mới của chúng ta, 1961, Hoàng Trung Thông)
Với Tố Hữu, thơ là vũ khí đấu tranh cách mạng. Ðó chính là đặc sắc và cũng là bí quyết độc
đáo của Tố Hữu trong thơ
(Lời giới thiệu tập thơ Từ ấy, Văn học, 1959, Đặng Thai Mai)
Xem thêm 18 cuốn sách ôn thi Đại học hay nhất năm 2017
Thơ Tố Hữu là thơ một con người biết trân trọng lấy đời mình, muốn làm cho đời mình trở
nên hữu ích. Vậy thì ai kia còn phung phí đời mình, làm gì cũng được, sống sao cũng xong,
trong khi đọc thơ này hãy bắt đầu thử dừng lại mà biết quý lấy đời mình, mà đem xây dựng
nó.
Phong cách dân tộc ở Tố Hữu thể hiện ở chỗ thơ anh giàu chất nhạc, anh nắm rất vững cái âm
điệu, vần điệu của dân tộc.
… Thơ anh là lối thơ lấy cái đường đi toàn đời, lấy cái hơi toàn tập, lấy cái tứ toàn bài là
chính… Anh là một con chim vụ ở đường bay hơn là bộ lông, bộ cánh, tuy vẫn là lông cánh
đẹp.
(Lời nói đầu cho tuyển tập 1938 – 1963 của Tố Hữu, Văn học, 1964, Chế Lan Viên)

27
Nhà thi sĩ ấy tự muốn mình là tiếng nói của dân tộc mình. Vậy thì dân tộc ấy có năng khiếu
thơ thông qua nhà thi sĩ. Các dân tộc hiện đại, đã công nghiệp hóa rồi, đã bị san phẳng bởi
những phương tiện tuyên truyền, không còn có một năng khiếu về hình tượng như thế nữa;
không còn suối nguồn ở bản thân mình nữa. Nhưng Tố Hữu đắm mình trong dân tộc của
mình, đồng thời là một thi sĩ độc đáo, một nhà sáng tạo ra các hình thể. Người ta càng cảm
thấy điều đó rõ hơn khi anh nói một cách rất hay về thơ.
(Lời tựa tập thơ Máu và hoa, xuất bản ở Pháp, năm 1975, Pierre Emmanuel)
Tập thơ Máu và hoa này xuất bản vào mùa thu năm 1975. tôi tin rằng tạp chí Châu âu
(Europe) sẽ đón chào nó như một sự kiện văn học.
Jacques Gaucheron – Con đường của Tố Hữu (trong tập Máu và hoa (Sang et Fleurs) EFR,
Paris, 1975)
Thơ của chàng thanh niên Tố Hữu khi ấy từ trái tim vọt ra cũng như thơ của chúng tôi, cũng
lãng mạn như thể chúng tôi, nhưng là thứ lãng mạn khác, có nhiều máu huyết hơn; thơ chúng
tôi chỉ đập cho mở cửa trời, nhưng thơ Tố Hữu thì mới có chìa khóa: Cách mạng, giải phóng
dân tộc, giải phóng cho người lao khổ.
(Tố Hữu với chúng tôi, 1975, Xuân Diệu)
Một tiếng nói yêu thương luôn luôn chan hòa ánh sáng, tự nó cũng là ánh sáng, lại hết sức
linh hoạt và uyển chuyển, mỗi lúc một khác, mỗi nơi một khác, kể cả những lúc chỉ là sự im
lặng giữa các dòng thơ. Phải chăng đây chính là bản sắc riêng của thơ Tố Hữu.
(Chuyện thơ, 1978, Hoài Thanh)
Thơ Tố Hữu bao giờ cũng mới, càng ngày càng mới, vì nó thể hiện thế giới quan cách mạng
của chủ nghĩa Mác, hệ tư tưởng vô sản, đạo đức cộng sản chủ nghĩa là những tư tưởng càng
ngày càng trở thành cách nhìn, nếp sống phổ biến của những con người mới của thời đại.
(Bình luận văn học, 1964, Như Phong)

28

You might also like