Đảng và chính phủ rời Việt Bắc để trở về Hà Nội tiếp tục lãnh đạo phong trào cách mạng. Trước sự kiện đó Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc. Đây là bài thơ ân tình cách mạng, gọi lại những kỉ niệm thân thiết và vẻ đẹp của Việt Bắc từ ngày đầu gian khổ chắt chiu xây dựng căn cứ địa cách mạng cho đến khi kháng chiến thắng lợi. Bài thơ kết cấu theo lối hát giao duyên đối đáp nam nữ nhưng lại thể hiện những ân tình cách mạng, và vì thế bài thơ như một chất men say ngấm sâu vào lòng người, trở nên gần gũi, đằm thắm hơn với những cung bậc lan toả của .. Trước hết khung cảnh chia tay đã được mở ra với những vần thơ rất mực ân tình, lưu luyến, tái hiện lại khung cảnh chia ly của người ra đi và người ở lại, những con người đã từng có một khoảng thời gian dài sống và chiến đấu bên nhau, rất mực gắn bó, thân thuộc, mang trong mình những tình cảm sâu nặng, ấn tượng khó quên. “ Mình về mình có nhớ ta? Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng. Mình về mình có nhớ không? Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn. – Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi Áo chàm đưa buổi phân ly Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…” Người ở lại là người lên tiếng trước, giọng thơ bùi ngùi, xúc động, không chỉ bộc lộ cảm xúc níu kéo sự tiếc nuối khi phải chia xa người chiến sĩ cách mạng tiếc nuối khi phải chia xa người chiến sĩ cách mạng sau một thời gian dài gắn bó mà còn là sự khéo léo nhắc lại, gợi mở ra cả một vùng trời kỷ niệm “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Bên cạnh đó cũng thể hiện tình cảm lưu luyến, buồn bã nhân buổi phân ly không chỉ là đối với người ở lại mà còn là của cả người ra đi về miền xuôi, nỗi xúc động khiến đôi bên đều “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”. Mạch cảm xúc, hay lối nói đối đáp “ta-mình” , cách xưng hô tựa như buổi chia tay của những người yêu nhau mà Tố Hữu sử dụng, đã mang đến những rung cảm mới lạ, đậm âm hưởng vùng miền Tây Bắc, rất thiết tha, ân tình, sự gắn bó sâu sắc, bền chặt giữa đôi bên. Dễ dàng đưa người đọc hòa vào một bầu trời ký ức mà cả hai nhân vật trữ tình “ta” và “mình” luân phiên nhau đối đáp, gợi lại một cách dịu dàng, đằm thắm, như những lời tâm tình, thủ thỉ đầy bịn rịn của đôi lứa yêu nhau. “- Mình đi, có nhớ những ngày Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù? Mình về, có nhớ chiến khu Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai? Mình về, rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng, măng mai để già Mình đi, có nhớ những nhà Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son Mình về, còn nhớ núi non Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh Mình đi, mình có nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa? – Ta với mình, mình với ta Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh Mình đi, mình lại nhớ mình Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu… Nhớ gì như nhớ người yêu Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm khuya bếp lửa người thương đi về. Nhớ từng rừng nứa bờ tre Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy Ta đi, ta nhớ những ngày Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi… Thương nhau, chia củ sắn lùi Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng Nhớ người mẹ nắng cháy lưng Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô Nhớ sao lớp học i tờ Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan Nhớ sao ngày tháng cơ quan Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo." Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều Chày đêm nện cối đều đều suối xa… Người ở lại đã nhắc nhở người ra đi về những ký ức sâu nặng trong suốt một chặng đường chiến đấu dài lâu của dân tộc. Đó là sự gian khổ trong sinh hoạt khi cách mạng phải đối mặt với chốn rừng sâu nước độc, nhiều thiếu thốn, hoàn cảnh chiến đấu khó khăn “Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù” , sự thiếu thốn cái ăn, cái mặc trong những năm đầu với “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”. Thế nhưng sự vất vả, khó khăn chồng chất ấy cũng không thể nào đánh gục được ý chí của những người làm cách mạng, bởi Việt được ý chí của những người làm cách mạng, bởi Việt Bắc đã cho ta những “trám bùi” , “măng mai” dồi dào, những con người Việt Bắc “đậm đà lòng son” và cả núi rừng thủy chung gắn bó, từ thuở còn kháng Nhật, còn là Việt Minh với những sự kiện, những trận chiến gắn liền với các địa danh nổi tiếng như “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa”. Đối đáp lại với những lời gợi nhắc kỷ niệm, thấm đẫm tình cảm, sự gắn bó tha thiết, sâu nặng, người ra đi đã một lòng khẳng định tình cảm của mình dành cho Việt Bắc và cả con người Việt Bắc, những người mà sắp tới đây sẽ phải chia xa, ngày gặp lại chưa biết là khi nào. Rằng “Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh/Mình đi, mình lại nhớ mình/ Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…/Nhớ gì như nhớ người yêu”. Đó là thứ tình cảm dạt dào “đinh ninh” trong dạ trước sau một lòng, đi rồi hãy vẫn còn mãi nhớ, nghĩa tình sâu nặng tựa như nước chảy trong nguồn, gắn bó, tha thiết, nhớ thương như tình cảm của những người yêu nhau. Đồng thời nhân vật “ta” cũng bộc lộ nỗi nhớ, những kỷ niệm khắc ghi trong lòng về thiên nhiên Việt Bắc với cảnh “trăng lên” , “nắng chiều” , “bản khói cùng sương” , “rừng nứa bờ tre” , “ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê” , nhớ cả những ngày sóng vai, cùng nhau chia sẻ “ngọt bùi đắng cay”. Mà mai đây khi về miền xuôi, xa rời Việt Bắc, người ra đi vẫn sẽ giữ nguyên những kỷ niệm đáng nhớ, những xúc động khó quên về một vùng đất lắm ân tình, những con người chân chất, thật thà, đùm bọc cách mạng bằng cả tấm lòng son sắt “Thương nhau, chia củ sắn lùi/Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”. Nỗi nhớ ấy không chỉ bộc lộ trong ký ức về những cảnh điểm của Việt Bắc, mà lộ trong ký ức về những cảnh điểm của Việt Bắc, mà còn là ký ức về những ngày tháng cùng hoạt động, cùng sinh hoạt với những con người nơi đây, vượt qua tất cả mọi gian khó, sao có thể quên những “lớp học i tờ” , những người mẹ địu con lên núi bẻ ngô nuôi cách mạng, những giờ liên hoan vui vẻ, những ngày tháng sinh hoạt cơ quan nhiều khó khăn, những tiếng chày, tiếng mõ vang vọng núi rừng,… Tất cả đã khắc sâu vào trí nhớ của người ra đi bằng những tình cảm quý giá và trân trọng nhất. Hơn thế nữa với cả con người và thiên nhiên Việt Bắc nhân vật trữ tình “ta” tức là người ra đi còn có những cảm nhận, những ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp thực hài hòa và gắn bó trong bức tranh tứ bình: “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng. Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung” Mùa đông hiện lên với vẻ đẹp của “rừng xanh” thăm thẳm, gợi ra hiện thực lạnh lẽo, khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc, tuy nhiên với sự xuất hiện thật tinh tế rực rỡ của bông “hoa chuối đỏ tươi” , gam màu nóng đã phần nào làm dịu đi cái giá rét, độc hại, mang đến sự lãng mạn, trữ tình nhưng không hoàn toàn tránh né hiện thực chiến đấu gian khổ ở nơi đây. Hình ảnh con người nổi bật khỏe khoắn với cảnh “dao gài thắt lưng” , thể hiện tư thế hiên ngang, xông pha núi rừng, lưng” , thể hiện tư thế hiên ngang, xông pha núi rừng, dưới cái ấm áp của ánh nắng mùa đông, nhiệt huyết của con người trong công cuộc trèo đèo lội suối, lao động sản xuất phục vụ kháng chiến. Đông qua, xuân tới với cảnh tượng “mơ nở trắng rừng” , một điểm nhấn đặc biệt của vùng núi Tây Bắc, sắc trắng thanh nhã, dịu dàng càng làm tôn lên cái sự dẻo dai, khéo léo của con người nơi đây với công cuộc lao động tỉ mỉ “chuốt từng sợi giang”. Bức tranh mùa hè được gợi ra không chỉ nằm ở phần nhìn, mà còn mở rộng với cả âm thanh, đó là tiếng ve kêu rộn rã với cảnh “rừng phách đổ vàng” , gợi cho người đọc những cảm giác sôi động, tràn đầy sức sống, mà con người giữa khung cảnh ấy thì vẫn miệt mài lao động, hình ảnh cô em gái giản dị, ngồi hái măng một mình, khiến người ta không khỏi thêm yêu, thêm nhớ và xúc động. Kết thúc bức tranh tứ bình là cảnh tượng mùa thu được gợi ra với “trăng rọi hòa bình” , vốn là một hình ảnh có nhiều ý nghĩa. Xưa nay trăng luôn tượng trưng cho những gì tươi đẹp, dịu dàng, thanh mát, cũng tượng trưng cho sự đoàn tụ, viên mãn, đồng thời nói đến mùa thu người ta vẫn thường nhắc đến rằm tháng tám trăng tròn vành vạnh. Mà trong câu thơ này “trăng rọi hòa bình” cũng chính là ẩn dụ cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi vẻ vang của dân tộc, ánh trăng là tượng trưng cho vẻ đẹp bình yên, tươi sáng. Đồng thời cũng là lúc người chiến sĩ cách mạng chuẩn bị hành trang về thủ đô Hà Nội, nên hình ảnh con người Việt Bắc đã hiện lên thật sâu sắc trong “tiếng hát ân tình thủy chung” sau bao nhiêu năm tháng gắn bó. Có thể nói rằng bức tranh tứ bình về Việt Bắc là một trong những điểm nhấn quan trọng về Việt Bắc là một trong những điểm nhấn quan trọng và đặc sắc nhất của toàn bộ tác phẩm, bộc lộ không chỉ vẻ đẹp con người và thiên nhiên nơi đây mà còn là cả một ẩn dụ cho quá trình kháng chiến bắt đầu vào mùa đông và kết thúc thắng lợi vào mùa thu, thể hiện tài năng quan sát tinh tế, sự khéo léo, chất trữ tình chính trị và cả tình cảm gắn bó sâu nặng của Tố Hữu với vùng đất lắm ân tình thủy chung này Việt Bắc là một tác phẩm xuất sắc, đỉnh cao trong các sáng tác của Tố Hữu cũng như trong nền văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Bài thơ sử dụng kết cấu đối đáp quen thuộc trong ca dao, dân ca xưa, lối xưng hô “ta-mình” thân thiết gắn bó, lời thơ tình cảm, thấm đẫm ân tình, vận dụng tinh tế thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc. Bộc lộ được sự lưu luyến, bịn rịn phút chia ly, tình cảm quân dân gắn bó sâu nặng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kỳ nhiều gian khổ, khó khăn. Đồng thời thi phẩm cũng có ý nghĩa đúc kết một giai đoạn lịch sử hết sức gian lao, nhiều vẻ vang, lắm hào hùng của dân tộc, thể hiện tấm lòng ân nghĩa thủy chung của cách mạng với chiến khu Việt bắc, lòng tự hào, niềm tin , niềm hy vọng vào tương lai tươi sáng của đất nước.