You are on page 1of 9

VIỆT BẮC

Tố Hữu
A. GIỚI THIỆU CHUNG:
I. Hoàn cảnh sáng tác và cảm hứng chủ đạo:
- Tháng 10-1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, miền Bắc hoàn toàn được giải
phóng. Các cơ quan của Đảng và Chính phủ rời Việt Bắc trở về HN. Sự kiện chính trị,
lịch sử này là nguồn cảm hứng cho Tố Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc”.
- Bao trùm, xuyên suốt bài thơ là cảm hứng ngợi ca nghĩa tình CM thủy chung, son sắt
giữa cán bộ kháng chiến và đồng bào chiến khu VB. Qua đó, tg ngợi ca tình cảm thắm
thiết, sâu nặng giữa quân với dân, miền ngược với miền xuôi.
 Bài thơ được đánh giá là bản hùng ca của thời chống Pháp.
II. Kết cấu – Thể loại:
- Tác giả lựa chọn kiểu kết cấu đối đáp vốn rất quen thuộc trong ca dao, dân ca. Bài thơ
có hình thức của lời đối thoại, tâm tình giữa người ở lại (đồng bào chiến khu VB) và
người ra đi (cán bộ kháng chiến):
+ Người ở lại cất lên lời nhắn nhủ tha thiết: “Mình về, có nhớ…”, “Mình đi, có
nhớ…” thể hiện tình cảm lưu luyến, niềm mong mỏi và niềm tin người ra đi sẽ không
quyên nghĩa tình sâu nặng của mười lăm năm gắn bó, kề vai sát cánh bên nhau.
+ Người ra đi đáp lại bằng lời khẳng định: “Ta về, ta nhớ…” về nghĩa tình thủy chung,
son sắt, lòng biết ơn sâu nặng dành cho VB.
+ Cặp đai từ xưng hô “ta - mình” được sử dụng linh hoạt, biến hòa tinh tế, tài tình.
“Ta” và “mình” có sự chuyển hóa rất đa nghĩa.
- Cùng với kết cấu đối đáp, Tố Hữu còn sử dụng nhuần nhuyễn thể thơ lục bát truyền
thống khiến bản hùng ca của thời kháng chiến vang lên với chất giọng ngọt ngào, tha
thiết như một khúc tình ca.

B. PHÂN TÍCH:
I. Lời của người ở lại:
Người ở lại nhạy cảm hơn về sự chia xa, cách biệt  đã cất lên lời nhắn nhủ tha thiết:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
1. Đoạn 1(4 dòng đầu):
- Lối xưng hô “ta – mình” thể hiện tính cảm gắn bó giữa người ở lại và người ra
đi. Trong tiếng Việt, cặp đại từ nhân xưng này chỉ được dùng cho mối quan hệ gần gũi,
thân thiết. Cách xưng hồ ấy  những câu hỏi thêm da diết, khắc khoải:
+ Những câu hỏi dồn dập  nỗi nhớ thương, lưu luyến; nỗi băn khoăn, trăn
trở của người ở lại: Không biết sau cuộc chia li người ra đi còn nhớ quá khứ nghĩa tình.
+ Mỗi câu hỏi như một lời nhắc nhở, nhắn gửi thiết tha: “Mười lăm năm ấy thiết
tha mặn nồng…Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
- Lời của người ở lại làm sống dậy cả một qk gian khổ nhưng ấm áp nghĩa tình:
+ “Mười lăm năm ấy”: dòng tgian vô hình, trừu tượng  hữu hình, xác định.
Câu thơ gợi những tháng ngày chiến đấu, kề vai sát cánh. Họ đã vượt qua mọi gian nan
bằng sức mạnh của tình đoàn kết, sự đồng cảm, sẻ chia.
+ Qk nghĩa tình là cơ sở vững chắc để người ở lại gửi gắm niềm mong đợi, tin
tưởng: “Nhìn cây…”. Cây và núi, sông và nguồn là biểu tượng của hai khoảng kgian
miền ngược và miền xuôi, VB và HN. Người ở lại mong mỏi người ra đi sẽ…
2. Đoạn 2 (12 dòng):
- 4 dòng đầu: Người ở lại nhắc nhở người ra đi về quá khứ đầy gian nan:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?”
+ Câu hỏi từ thứ nhất gợi lại những ngày người ra đi đến với VB. Mưa nguồn, suối
lũ, mây, mù là những hiện tượng thiên nhiên quen thuộc, là khí hậu khắc nghiệt của
miền rừng núi, là hình ảnh ẩn dụ cho hiện thực đầy gian nan. Đối với cán bộ, hiện thực
đó là thử thách đầu tiên phải vượt qua.
+ Câu hỏi tu từ thứ hai làm sống dậy cả kgian của chiến khu với cuộc sống thiếu
thốn về vật chất của thời kháng chiến. “Miếng cơm chấm muối”: lương thực thiếu thốn,
quặn lòng vì đói. “Mối thù nặng vai”: mối thù giặc Pháp đang đè nặng lên đôi vai của
cán bộ chiến sĩ.  Họ sẵn sàng quên đi cái khổ riêng để hòa vào cái chung, cộng đồng.
- 4 dòng tiếp: Người ở lại bày tỏ tình cảm nhớ thương tha thiết:
“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son?”
+ “Rừng núi nhớ ai” (hoán dụ, nhân hóa): Nỗi nhớ thương không chỉ đầy ắp
hồn người mà còn bao trùm cả núi rừng. Núi rừng như thẫn thờ, ngơ ngẩn trong nỗi nhớ
nhung.
+ “Trám bùi để rụng măng mai để già”: Trám và măng là lương thực chủ yếu của
bộ đội VB. Nay người đi rồi, trám và măng không có người thu hái  mang nỗi buồn
thiếu vắng.  Thiên nhiên cũng nặng tình, nặng nghĩa với con người.
+ Cặp hình ảnh tương phản “hắt hiu lau xám”><”đậm đà lòng son”: Người ở
lại nhắn gửi người ra đi về nghĩa tình thủy chung, son sắt của quê hương VB. Miền đất
này tuy không giàu có, trù phú, thậm chí còn nghèo khổ, quạnh hiu nhưng luôn ấm áp
tình người. Hiện thực thiếu thốn chỉ càng làm ngời lên ánh sáng của ngọn lửa yêu
thương nồng ấm trong tâm hồn họ.
- 4 dòng cuối: Người ở lại nhắn người ra đi đừng quên một qk gian khổ mà vinh
quang:
“Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”
+ Khi kháng Nhật, thuở Việt Minh, Tân Trào, Hồng Thái: những điểm mốc trên
hành trình chiến đấu đầy gian khổ, hi sinh. Dòng tgian cũng in dấu bao chiến công.
+ Nhà thơ sử dụng đại từ xưng hô “mình” ở câu thứ ba một cách linh hoạt để
nhấn mạnh niềm tin và mong mỏi của người ở lại dành cho người ra đi: rằng người ra đi
sẽ không bao giờ quên một quá khứ đáng tự hào của chính mình để mãi xứng đáng với
những năm tháng vinh quang ấy.
 Miêu tả tâm trạng người ở lại, tg đã thể hiện được nghĩa tình sâu nặng của đồng bào
chiến khu VB dành cho chiến sĩ CM.

II. Lời của người ra đi:


Người ra đi thấu hiểu tâm tư của người ở lại nên đã khẳng định nghĩa tình thủy chung,
son sắt dành cho quê hương VB. Lời của người ra đi luôn vang lên điệp khúc “Ta đi ta
nhớ…”, “Ta về ta nhớ…” và điệp từ “nhớ” cũng trở đi trở lại hàng chục lần. Nỗi nhớ da
diết ấy đã làm sống dậy bức tranh toàn cảnh của thiên nhiên, con người, cs nơi chiến khu.
Qua đó, nhà thơ cũng thể hiện lòng biết ơn, tình cảm gắn bó sâu nặng dành cho VB.
1. Đoạn 1 (8 dòng):
a. 4 dòng đầu: Nỗi niềm thương nhớ:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
- “Tiếng ai” – lời của người ở lại - khơi dậy trong lòng người ra đi bao cảm xúc:
có nỗi ngậm ngùi, lưu luyến, bâng khuâng trong khoảnh khắc chia li; có tâm trạng
mong đợi, bồn chồn trong thời khắc giao thừa của lịch sử. Những năm tháng chiến
đấu đã kết thúc thắng lợi. Một tương lai hòa bình, tươi sáng đang mở ra phía trước 
Tâm trạng có sự đan xen của nỗi buồn và niềm vui, bâng khuâng và bồi hồi.
- Sâu đậm nhất vẫn là lòng yêu thương, gắn bò dành cho người ở lại:
+ “Áo chàm” (hoán dụ): gợi ấn tượng đông đảo người dân VB tham gia vào
cuộc tiễn biệt, diễn tả tình cảm của người ra đi. Dường như bất kì ai mang sắc màu,
trang phục ấy đều đã hòa thành gần gũi, thân thương (quy luật tình yêu và nỗi nhớ: “Tôi
nhớ cả những người không quen biết” – Tế Hanh).
+ “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”: Cử chỉ đơn sơ, bình dị  tình cảm lưu
luyến. “Biết nói gì”: lời lẽ không đủ để giãi bày những tâm tình của “15 năm ấy thiết
tha mặn nồng”; người ở lại và người ra đi có sự đồng cảm, thấu hiểu nên không cần
bảy tỏ bằng lời nói. Dấu ba chấm ở cuối câu: nốt lặng trong một khuông nhạc mà ở
đó tình cảm cứ ngân dài sâu lắng.
b. 4 dòng tiếp: Nghĩa tình không bao giờ vơi cạn dành cho VB:
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…”
- Cặp đại từ nhân xưng “ta – mình” (điệp lại, đan chéo): gợi liên tưởng về sự
hài hóa, gắn bó, quấn quít. Người đi, kẻ ở dường như đã chung một tâm tư, một nỗi
niềm duy nhất.
- Vận dụng một cách nhuẩn nhuyễn vốn từ ngữ phong phú và những hình ảnh
quen thuộc của ca dao, dân ca  mức độ sâu sắc, mãnh liệt của tình cảm ấy:
+ 3 đại từ “mình” mở ra nhiều ý nghĩa, liên tưởng: lời khẳng định về nỗi nhớ
dành cho đồng bào VB, lời đáp cho câu hỏi “Mình đi, mình có nhớ mình” – khẳng
định nỗi nhớ quá khứ gian khổ mà vinh quang.
+ Hình ảnh ss quen thuộc của ca dao cũng diễn ta nỗi nhớ thương, nghĩa tình của
người ra đi không bao giờ vơi cạn.
2. Đoạn 2 (18 dòng):
a. 6 dòng đầu: Nỗi nhớ gắng liền với những khoảng kgian của núi rừng VB:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.”
- Lối ss độc đáo: Không cần miêu tả cụ thể, người đọc vẫn cảm nhận được nỗi nhớ
ấy da diết, khắc khoải luôn thường trực trong tâm hồn “như nhớ người yêu”. Nỗi nhớ ấy
càng mãnh liệt hơn trong khoảnh khắc êm đềm mà buồn vắng, quạnh hiu: “Trăng lên đầu
núi, nắng chiều lưng nương”.
- Nỗi nhớ làm sống dậy từng kỉ niệm, từng khoảng kgian của núi rừng VB:
+ Bản làng thấp thoáng ẩn hiện sau màn sương khói, những ngồi nhà, bếp lửa ấm
hồng và hình dáng người thương sớm tối đi về  Câu thơ lưu giữ cả một nhịp sống bình
yên, thân thuộc.
+ Điệp ngữ “Nhớ từng” và hình ảnh liệt kê  diễn tả tình cảm gắn bó: Người ra
đi như thuộc từng bản làng, từng cánh rừng, dòng sông, con suối…
b. 6 dòng tiếp: Con người Việt Bắc với nghĩa tình ấm áp, sâu nặng:
“Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nữa, chăn sui đắp cùng.
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.”
- Nỗi nhớ không chỉ bao trùm không gian mà còn trải dài theo thời gian:
+ “Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi”: những năm tháng chiến đấu gian khổ
nhưng luôn ấm áp tình người. Người ở lại và người ra đi luôn kề vai sát cánh…
+ Nhà thơ đã sáng tạo những hình ảnh thơ vừa cụ thể, chân thực vừa có sức
khái quát lớn. “Chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng” là những chi tiết
quen thuộc được lấy từ đời sống thực tế. Nó không chỉ phản ánh hiện thực gian khổ mà
còn làm ngời lên vẻ đẹp của tinh thần đoàn kết. Đồng bào VB và cán bộ CM đã tiếp nối
những truyền thống quý báu của dân tộc – đoàn kết, bao bọc…  Gợi liên tưởng đến ca
dao xưa: “Bầu ơi…”
- Lòng biết ơn dành cho VB còn được gửi vào hình ảnh người mẹ miền núi:
+ Trong thơ TH, hình ảnh người mẹ thường mang ý nghĩa biểu tượng cho vẻ đẹp
của đất nước, dân tộc: “Bà má Hậu Giang”, “Bầm ơi”, “Mẹ Tơm”, “Mẹ Suốt”…
+ Ở đây, hình ảnh bà mệ VB đã trở thành hiện thân cho phẩm chất của những
con người nơi đây: vất vả, lam lũ, nhẫn nại, tảo tần mà tấm lòng chan chứa yêu thương.
c. 6 dòng cuối: Nhịp sống nơi chiến khu – vất vả nhưng luôn tràn đầy tinh thần lạc
quan:
“Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”
- Tái hiện không khí cs thời chiến:
+ Lớp bình dân học vụ và niềm vui của bao con người được giải phóng khỏi cs
tăm tối, đừng lên làm chủ quê hương.
+ Những nẻo đường chiến đấu gian khổ, hiểm nguy mà phơi phới niềm tin.
- Kgian núi rừng VB êm đềm, thơ mộng với tiếng mõ vang lên mỗi chiều khi đàn
trâu bò quay về bản, tiếng chày giã gạo vọng về từ những con suối xa trong đêm vắng.
Đó là những âm thanh gợi nét đẹp đặc trưng của núi rừng VB.
3. Đoạn 3 (10 dòng): Vẻ đẹp của thiên nhiên và con người VB:
a. 2 dòng đầu:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.”
- Mở đầu bằng câu hỏi tu từ bâng khuâng, mênh mang, sâu lắng. Cặp đại từ “ta –
mình” gợi mqh gần gũi thân thiết giữa người ra đi và người ở lại. Đại từ “ta” điệp 4 lần
 nhấn mạnh nhu cầu giãi bày, thổ lộ tình cảm của người ra đi. Câu hỏi tu từ chỉ là cái
cớ để người ra đi bộc bạch nỗi niềm.
- “Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”: “Hoa”: vẻ đẹp thiên nhiên, “người”: vẻ
đẹp con người lao động. “Hoa” và “người” đều hài hoa trong những câu thơ đầy lãng
mạn, trẻ trung của hồn thơ TH. Cấu trúc tầng lớp “những…cùng” gợi nỗi nhớ chồng
chât, da diết, cứ tuồn chảy khắp thiên nhiên, núi rừng chiến khu.
b. 4 câu 6 chữ: Bức tranh toàn cảnh núi rừng VB:
Bằng ngòi bút giàu khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, TH đã nắm bắt và
tái hiện những nét đẹp đặc trưng của núi rừng VB chỉ trong bài dòng thơ nắng. 4 câu thơ
nhưng một bộ tứ bình phong cảnh. Mỗi bức trang đều toát lên vẻ đẹp riêng:
> “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”
> “Ngày xuân mơ nở trắng rừng:
> “Ve kêu rừng phách đổ vàng”
> “Rừng thu trăng rọi hòa bình”
- Mùa đông:
+ “Rừng xanh”: Nền xanh trầm tĩnh của ngàn cây lá.
+ “Hoa chuối đỏ tươi”: Hoa chuối đang nở rộ, rực rỡ giữa núi rừng như những bó
đuốc. Sắc đỏ không chỉ làm bừng sáng núi rừng mà còn đem lại cảm giác gấn gũi, ấm
áp, thân quen, xua đi cái hoang sơ, giá lạnh.  Gợi điểm nhìn từ trên cao, giúp con
người bao quát được cả một vùng thiên nhiên rộng lớn.
- Mùa xuân:
+ Núi rừng ngập trong sắc trắng tinh khiết của hoa mơ.
+ Cấu trúc đảo ngữ “trắng rừng”  tô đậm ấn tượng về sức sống của cây lá
và không khí trong trẻo của rừng xuân. Tưởng như hàng ngàn vòm cây đã đợi chờ nhau
để cùng bừng nở vào một ngày xuân tươi sáng.
- Mùa hạ:
+ Màu vàng là màu đặc tả cây lá mùa thu, nhưng ở dây tác giả sử dụng để tái
hiện một nét đẹp đặc trưng của núi rừng Việt Bắc. Hạ đến, những rừng phách nơi đây
trổ hoa vàng rực rỡ.
+ Cảm giác chỉ sau khi tiếng ve ngân lên, những nụ hoa đồng loạt trổ bông,
kgian đột ngột thay đổi sắc màu. “Đổ vàng”: gợi sự lung linh, biến ảo của màu hoa, màu
nắng.
- Mùa thu:
+ Là cảnh rừng đêm nhưng không hề có ấn tượng về bóng tối. Trái lại, câu thơ
mở ra khung cảnh êm đềm, thơ mộng.
+ “Rọi”: Ánh trăng lan tỏa khắp kgian, không khí thanh bình bao trùm cả núi
rừng. Thiên nhiên trở nên thân thương, gần gũi tựa quê nhà.  Cảnh sắc thiên nhiên
được nhìn qua đôi mắt của con người đã gắn bó với miền đất ấy suốt 15 năm trời.
+ Cảnh sắc TN  nhịp sống yên bình trong những năm tháng gian khổ.
c. 4 câu 8 chữ: Hình ảnh con người và cuộc sống:
Hầu hết các câu thơ đều bắt đầu bằng điệp từ “nhớ”  nỗi nhớ nghiêng hẳn về
con người. Chính con người đã làm nên sức sống, vẻ đẹp cho núi rừng:
> “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
> “Nhờ người đan nón chuốt từng sợi giang”
> “Nhớ cô em gái hái măng một mình”
- Trong nỗi nhớ,> hiện
“Nhớvềai hình
tiếngảnh
hát những
ân tình con
thủyngười mà nhà thơ bắt gặp trên các
chung”
nèo đường VB: người đan nón, cô em gái hái măng, thậm chí có lúc không thấy dáng
hình mà chỉ mường tượng qua ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ở ngang lưng hay
qua tiếng hát ngọt ngào, tha thiết giữa đêm trăng. Phải chăng đây là cách mà tg lựa chọn
để bày tỏ nghĩa tình? Yêu thương, gắn bó với miền đấy này tới mức đến lúc chia li, tg
nhớ thương cả “những người không quen biết”.
- Tg khám phá, ngợi ca những vẻ đẹp của con người VB:
+ Mạnh mẽ, phóng khoáng (“Đèo cao nắng ánh…”): Con người xuất hiện ở
một vị trí, một tư thế đẹp nhất (“đèo cao”), như một điểm tụ của ánh sáng. Con người
đang chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng, làm chủ lao động  Con người trở thành
linh hồn của bức tranh mùa đông VB.
+ Nhẫn nại, tài hoa, khéo léo (“người đan nón chuốt từng sợi giang”): từ “chuốt”.
+ Cần cù, chăm chỉ (“cô em gái hái măng một mình”): “một mình” không gợi
cái cô đơn hiu hắt bởi cô gái đang làm chủ lao động, làm bạn với TN.
+ Ân tình thủy chung, son sắt của người dân VB dành cho CM, kháng chiến
suốt một thời gian khó “mười lăm năm ấy…”.
4. Đoạn 4 (22 dòng): Nhớ về cuộc sống nơi chiến khu:
a. 6 dòng đầu:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.”
- Nhà thơ đưa người đọc trở về những ngày tháng khởi đầu của cuộc kháng chiến
gian nan giữ nước. Khi ấy, kẻ thù ngang nhiên lùng sục, tiêu diệu lực lượng CM non trẻ.
Cả dân tộc tựa vào núi rừng nơi chiến khu để chiến đấu, vượt qua những thử thách khốc
liệt ấy. TN VB luôn sát cánh cùng con người trong chiến đấu: “Rừng cây núi đá ta
cùng đánh Tây”.
- Hệ thống từ ngữ, hình ảnh nhân hóa  khám phá, ngợi ca vẻ đẹp hùng vĩ hiểm
trở của núi rừng VB. TN nơi đây như cũng có linh hồn, khí phách anh hùng – biết
bao bọc, chờ che quân dân ta, biết ngăn giữ, tiêu diệt quân thù.  Điều làm nên sức
mạnh kì diệu của dân tộc là tinh thần đoàn kết: “Đất trời ta cả chiến khu một lòng”.
b. 4 dòng tiếp: Nỗi nhớ bao trùm cả kgian:
“Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà…”
- Câu hỏi tu từ: đánh thức, khơi gợi nỗi nhớ thương trong tâm hồn.
- Câu hỏi cũng là cái cớ để người ra đi bày tỏ nỗi nhớ thương da diết
c. 12 dòng cuối: Nhịp sống sôi động, hào hùng của chiến khu:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung”
- Trong thơ TH, hình ảnh con đường thường mang ý nghĩa biểu tượng – con
đường CM, con đường kháng chiến. Ở đây cũng vậy, “những đường Việt Bắc” đã trở
thành biểu tượng cho con đường ra trận, con đường mở ra chiến thắng của quân dân ta,
cũng là con đường khái quát cả một quá trình đi lên của CM và kháng chiến. Ở đó diễn
ra một nhịp sống sôi động, hào hùng. Đêm đêm trên những nẻo đường vang tiếng bước
chân với sức mạnh long trời lở đất:
“Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.”
- Bằng ngòi bút giàu khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, TH đã nắm bắt,
tái hiện được tầm vóc lớn lao, phi thường của quân dân ta trong cuộc đấu tranh giữ nước:
+ Âm hưởng, hình ảnh thơ có sự thay đổi.
+ “Điệp điệp trùng trùng” sự hùng tráng, mạnh mẽ, sức mạnh khổng lồ của
những đoàn quân đông đảo, hùng hậu.
+ “Ánh sao đầu súng”: Ngòi bút lãng mạn  đoàn quân ra trận có tầm vóc vũ
trụ. Đó là hình ảnh những người lính trong đêm hành quân. Đi dưới trời sao, ánh sao trời
soi vào đầu súng ánh lên lấp lánh; cũng có thể hiểu là những ngôi sao trên mũ người
chiến sĩ ánh lên dưới sao trời  Đất trời như hành quân cùng người lính. Họ cầm súng
chiến đấu là để bảo vệ cái đẹp và cuộc sống thanh bình cho quê hương, đất nước.
+ “Dân công” và “từng đoàn”  sự điệp trùng vô tận của đoàn dân công.
“Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay”: hình tượng bàn chân là biểu trưng cho sức
mạnh của con người. Thủ pháp phóng đại, cười điệu  khí thế oai hùng lẫm liệt.
- Hiện thực sôi động, hào hùng mang đến cho con người niềm tin vững chắc vào
tương lai chiến thắng:
“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”
+ Tgian đẳng đẵng (“nghìn đêm”) và kgian mù mịt  những gian nan, mất mát
suốt một thời kháng chiến.
+ “Thăm thẳm sương dày”><”ngày mai lên”: nguồn sáng biểu tượng cho niềm
tin, mơ ước về một ngày mai chiến thắng.
- Theo nỗi nhớ dồn dập là tin vui:
“Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
+ Điệp từ “vui”  điệp khúc của niềm vui chiến thắng
+ Các địa danh trải rộng  niềm vui lan tỏa trăm miền, mỗi miền là một khúc
nhạc vui  khúc ca chiến thắng.
+ Đại từ chỉ phương hường (“về”, “từ”, “lên”): VB thành trung tâm đầu não,
trung tâm của chiến thắng, linh hồn của CM.

You might also like