You are on page 1of 6

II.

Phần còn lại: Hồi tưởng lại kỉ niệm gắn bó sâu nặng

1.12 câu đầu: là lời người ở lại gợi nhắc kỉ niệm gắn bó giữa người đi kẻ ở trong những năm tháng kháng chiến

a. 2 câu đầu: Gợi nhắc lại bức tranh thiên nhiên dữ dội và khắc nghiệt của núi rừng VB, qua đó tái hiện lại những ngày
tháng kháng chiến đầy gian khổ.

Mình đi có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù

- Thủ pháp liệt kê liên tiếp: mưa nguồn, suối lũ, mây,mù kết hợp với thủ pháp đan xen từ “những mây cùng mù” đã làm
nổi bật được bức tranh thiên nhiên đầy dữ dội, hết sức khắc nghiệt ở núi rừng VB.

- Hình ảnh đó còn có nghĩa ẩn dụ gợi nhắc đến những ngày tháng kháng chiến gian khổ, khó khăn của cả dân tộc.
Chính vì vậy mà câu hỏi của người ở lại là “ có nhớ những ngày”. Người ở lại đã nhắc người đi về những ngày tháng chia
ngọt sẻ bùi, cùng nhau nếm trải sự khắc nghiệt của thiên nhiên VB

b. 2 câu tiếp: Tái hiện lại cuộc sống đầy thiếu thốn gian khó của những ngày kháng chiến ở chiến khu VB và ý chí quyết
tâm của con người kháng chiến.

Mình về có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối /mối thù nặng vai

- Câu thơ được ngắt thành hai vế, thủ pháp tiểu đối đã thể hiện sự đối lập hoàn cảnh và ý chí con người .

+ “Miếng cơm chấm muối” là hình ảnh vừa có ý nghĩa tả thực vừa là những biểu tượng của những ngày tháng kháng chiến
chồng chất khó khăn và đầy thiếu thốn. (Liên hệ Vợ nhặt)

+“ Mối thù nặng vai” là mối thù dường như có hình có khối, đè trĩu lên đôi vai của người dân VN.

Dường như những thử thách ấy càng tôi luyện trong trái tim những người kháng chiến lòng căm thù giặc sâu sắc, ý chí
sắt đá quyết tâm chiến đấu vì độc lập tự do của TQ. Người đi, kẻ ở, cán bộ kháng chiến và đồng bào VB không chỉ sẻ chia
với nhau gian khổ thiếu thốn mà còn đồng lòng chung sức gánh vác trách nhiệm sứ mệnh lịch sử, trách nhiệm với non
sông, TQ.

c. 2 câu tiếp: Diễn đạt trực tiếp nỗi trống vắng của người ở lại

Mình về rừng núi nhớ ai (Hỏi chính nỗi niềm mình)

Trám bùi để rụng măng mai để già

- Nếu những câu trước người ở lại cất tiếng hỏi người ra đi thì đến hai câu này câu hỏi hướng vào sự trống vắng trong tâm
hồn mình, khẳng định nỗi niềm nhung nhớ đến ngẩn ngơ trong trái tim con người Việt Bắc. Rừng núi ở đây không còn là
biểu tượng của thiên nhiên mà còn là biểu tượng của con người (hoán dụ), của quê hương VB.

- Trám bùi, măng mai là những sản vật quen thuộc của quê hương VB, những sản vật mang nặng tấm lòng ấm áp thảo
thơm của VB giành cho con người kháng chiến. Giờ phút chia tay đã điểm, tất cả núi rừng cũng như con người thương nhớ
đến ngẩn ngơ, thẩn thờ.

- Phép điệp cấu trúc + để rụng....để già: cuộc sống như ngưng trệ, núi rừng như hoang phế cùng với cảm giác buồn bã,
hụt hẫng, trống trải trong lòng người ở lại khi thiếu vắng người ra đi

- Hai câu thơ làm ta liên tưởng đến những câu thơ rất xúc động TH viết khi BH ra đi:

Trái bưởi kia vàng ngọt với ai

Thơm cho ai nữa hỡi hoa nhài

Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm

Quanh mặt hồ in mây trắng bay


(Bác ơi)

Cuộc chia tay với những người thân yêu gắn bó sâu nặng khiến lòng người ở lại cảm thấy đất trời trở nên trống vắng đến vô
nghĩa.

- Như vậy, hai câu thơ đã diễn tả đầy xúc động nỗi nhớ thiết tha sâu nặng của con người VB

d. 2 câu tiếp: Gợi nhắc đến nghĩa tình thủy chung son sắt của đồng bào VB với kháng chiến, với cách mạng

Mình đi có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám/ đậm đà lòng son (Đảo)

- Tác giả tiếp tục sử dụng biện pháp tiểu đối thể hiện sự tương phản giữa thiên nhiên, giữa không gian cảnh vật “hắt hiu
lau xám”(Hoang vắng đìu hiu) với trái tim ấm áp yêu thương, nghĩa tình của con người “đậm đà lòng son” Vế 1 của
câu thơ gợi tả được bức tranh thiên nhiên núi rừng VB hoang vắng hắt hiu, buồn thương ảm đạm. Vế 2 là sự khẳng định
niềm tự hào của con người VB về tình nghĩa thủy chung: đậm đà lòng son. Các từ láy kết hợp với đảo ngữ vừa tạo nhạc tính
cho câu thơ vừa làm nổi bật sự tương phản.

* 4 câu còn lại: Gợi nhắc người đi hãy nhớ về quê hương cách mạng, cội nguồn cách mạng.

Mình về còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh (Những năm trước CMT8)

Mình đi mình có nhớ mình

Tân Trào Hồng Thái mái đình cây đa

- Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh. Câu thơ gợi dậy thời gian gắn bó dài lâu nặng sâu tình nghĩa.(15 năm
ân nghĩa) VB không chỉ là căn cứ địa của những năm tháng kháng chiến chống P mà là cái nôi của căn cứ cách mạng ngay từ
những ngày đầu.

- Tố Hữu là người có biệt tài đưa địa danh vào thơ. Những tên đất, tên làng, tên núi, tên sông đi vào thơ TH một cách
tự nhiên, đầy ý nghĩa. Tân Trào, Hồng Thái là những địa danh gắn liền với những sự kiện lịch sử trọng đại của cách mạng
Việt Nam, là nơi họp quốc dân đại hội để phát động tổng khowirr nghĩa tháng Tám, là nơi diễn ra lễ xuất phát của của đội
Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Mang trong mình ý nghĩa thiêng liêng, những địa danh ấy thực sự là những địa
chỉ có tác động sâu sắc đối với trái tim con người Việt Nam.

- Đại từ “mình” được sử dụng linh hoạt, uyển chuyển, xuất hiện ba lần trong một câu thơ “mình đi mình có nhớ
mình”. Hai chữ “mình” đầu tiên là để chỉ người ra đi, chữ “mình” thứ ba mang nhiều hàm nghĩa, vừa chỉ người ra đi
vừa chỉ người ở lại. Nhớ về VB là nhớ về mảnh đất và những con người từng gắn bó sâu nặng, là nhớ về mảnh đất
thiêng liêng của dân tộc, nhớ về một phần đời mãi mãi mãi ở lại với miền đất ấy.

-Nghệ thuật:

+ Điệp từ “có nhớ” kết hợp với câu hỏi tu từ được lặp đi lặp lại nhiều lần tạo nên một giọng điệu khắc khoải, da diết.

+ Sử dụng đan xen, luân phiên cụm từ “mình đi, mình về” tạo âm điệu lưu luyến, ngọt ngào. Đi và về thường chỉ
những hướng vận động khác nhau nhưng lại cùng chỉ hoạt động của con người kháng chiến chia tay với quê hương VB về với
thủ đô Hà Nội. Đó là một cuộc chia tay từ quê hương này về với quê hương khác bởi VB đã thực sự trở thành tổ ấm, thành
quê hương thứ hai của mỗi con người kháng chiến.

+ Nghệ thuật tiểu đối được sử dụng nhiều lần tạo nên sự cân xứng, hài hòa, đậm màu sắc cổ điển góp phần tạo nên
giọng thơ vừa bình dị thân thương, vừa thiêng liêng trang trọng.

+ Đoạn thơ gồm 6 câu hỏi với người ở lại và người ra đi, nhũng câu hỏi dồn dập, gấp gáp bởi nỗi nhớ trào dâng khi
giờ phút chia ta đang đến gần. Sự đắp đổi nhịp nhàng trong điệp ngữ ở câu 6 mình đi có nhớ... mình về có nhớ...; sự đăng đói
trong hai vế của các câu 8 với nhịp 4/4, đó là những yếu tố tạo nên nhạc điệu ngân nga, dìu dắt ngọt ngào cho đoạn thơ. Nhịp
điệu trữ tình ấy đã góp phần tinh tế nỗi vấn vương xao xuyến giăng mắc trong lòng kể ở lẫn người đi để từ đó, quá khứ đầy ắp
kỉ niệm ào ạt trở về.
- Nội dung

+ Trong những lời nhắc nhở da diết của người ở lại với người ra đi, Việt Bắc hiện lên thật sống động từ những khắc nghiệt
của thiên nhiên với mưa nguồn suối lũ, lau xám, mây mù... tới cuộc sống kháng chiến gian khổ, thiếu thốn với miếng cơm
chấm muối, từ những trang sử hào hùng khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh tới những sự kiện trọng đại của cách mạng và
kháng chiến nơi Tân Trào, Hồng Thái...

+ Thể hiện nỗi nhớ nhung và lòng biết ơn của tác giả đối với VB

+ Phong cách

2.Phần còn lại: Lời đáp của người ra đi

a. 4 câu đầu: là lời khẳng định tình cảm thủy chung son sắt với người ở lại

Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu

- Cặp đại từ nhân xưng “mình-ta” lặp lại nhiều lần trong một câu thơ, được liên kết với nhau bằng điệp từ “với” thể hiện sự
gắn bó thắm thiết giữa người đi và kẻ ở. Đặc biệt, hai đại từ nhân xưng này có sự hoán đổi vị trí với nhau… thể hiện mối
giao hòa gắn kết không thể tách rời: tuy 2 mà một.

- Các từ láy “mặn mà”, “đinh ninh” đã tạo cho câu thơ âm hưởng của một lời thề nguyền “lòng ta sau trước mặn mà đinh
ninh”. Đó là lời thề về tình nghĩa thủy chung son sắt không bao giờ phai nhạt. ( Liên hệ : Đinh ninh hai mặt một lời song
song)

- Câu thơ thứ 3 như là câu trả lời cho câu hỏi của người ở lại “ Mình đi mình có nhớ mình”, cũng là một lời khẳng định
mạnh mẽ “mình lại nhớ mình”. Tất cả ngưng đọng trong từ “lại”- thanh trắc, ở gữa dòng thơ.

- Câu thơ cuối cùng gợi nhiều suy ngẫm trong lòng người đọc. Trước hết đó là lời khẳng định nghĩa tình của con người kháng
chiến đối với quê hương VB dạt dào như suối nguồn chảy mãi không bao giờ vơi cạn. Nguồn ở đây cũng có thể nghĩ là cội
nguồn. Nhớ về VB cũng chính là nhớ về cội nguồn CM. Vì thế, câu thơ còn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của những người
con kháng chiến về những tình cảm dạt dào của quê hương VB. Tình yêu khơi dậy tình yêu. Ý tình khơi dậy ý tình. Nó
được biểu đạt một cách cụ thể hơn qua cặp từ “bao nhiêu- bấy nhiêu”.

b. Từ câu 25-42(18 câu tiếp): Nỗi nhớ về những kỉ niệm gắn bó với thiên nhiên, con người, cuộc sống ở chiến khu
VB.

Nhớ gì như nhớ người yêu (so sánh)

Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia sông Đáy suối Lê vơi đầy

- Lối ví von so sánh đầy gợi cảm: “Nhớ gì như nhớ người yêu ”. Nỗi nhớ quê hương cách mạng, con người VB được ví với
nỗi nhớ người yêu – một tình cảm đầy riêng tư, cá nhân, đầy khắc khoải, đằm thắm. Câu thơ phảng phất một lối phô diễn
trong ca dao dân ca, gợi đến một câu ca dao quen thuộc:
Nhớ ai bối hổi bồi hồi

Như đứng đống lửa như ngồi đống rơm.

Lối ví von vưa diễn tả được cảm xúc đầy trìu mến, những tình cảm thân thương TH dành cho con người VB đồng thời thể
hiện một nỗi nhớ thiết tha khắc khoải.

- Điệp từ “nhớ” xuất hiện dày đặc, hầu hết trong các câu thơ và còn có tính tăng cấp “nhớ - nhớ từng”diễn tả nỗi nhớ đang
trào dâng mãnh liệt như những đợt sóng, kỉ niệm liên tiếp ùa về trong tâm tưởng người đi.

- Nỗi nhớ hướng về hình ảnh thiên nhiên bình dị, thơ mộng

+Thiên nhiên được gợi về trong nhiều khoảnh khắc thời gian: lúc trăng lên lấp ló đầu núi, lúc bóng chiều tỏa xuống lưng
nương. Đây cũng chính là những hình ảnh rất đỗi thân quen, tiêu biểu đặc trưng của núi rừng VB. Nhà thơ đã cảm nhận
được vẻ đẹp thơ mộng mĩ lệ từ nhiều hình ảnh thân quen đó. Nó luôn lấp lánh ánh sáng trong kí ức người đi.

+ Không gian: “đầu núi”, “lưng nương” “rừng nứa”, “bờ tre”, “ngòi Thia”, “sông Đáy”, “suối Lê”. Đây là những không gian
quen thuộc đặc trưng của núi rừng VB. Đó là không gian rộng mở trải dài, diễn tả nỗi nhớ ngập cả một không gian
rộng lớn khắp các địa danh VB.

→Như vậy, trong kí ức của người ra đi hình ảnh thiên nhiên VB vừa nên thơ mĩ lệ với “trăng lên đầu núi nắng chiều lưng
nương” vừa bình dị ấm áp với hình ảnh bản làng ẩn hiện khói bếp với bếp lửa người thương ấm áp nồng hậu. Mảnh đất Việt
Bắc hiện lên trong nỗi nhớ của người ra đi cụ thể, thân thương. Điều này chứng tỏ sự gắn bó máu thịt của nhà thơ, của
những người CM đối với mảnh đất VB.

* Bên cạnh nỗi nhớ về thiên nhiên VB, người đi còn nói đến nỗi nhớ sâu đậm trong lòng là những tháng ngày gian lao
vất vả gắn với ân tình ân nghĩa của cuộc kháng chiến (6 câu tiếp)

Ta đi ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi...

Đoạn thơ là dòng hồi ức về những ngày đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi giữa đồng bào Việt bắc với cán bộ kháng chiến

+ Điệp từ “ta” lặp lại hai lần trong câu thơ kết hợp với nhịp thơ 2/2/2 càng khơi sâu nỗi nhớ da diết trong lòng nhà thơ.

+ Đến câu thơ thứ 2 cặp đại từ nhân xưng “mình-ta” kết hợp đan xen nhau (Mình đây ta đó), thể hiện sự hòa quyện thắm
thiết , sự gắn bó sâu nặng giữa mình và ta.

+ Cụm từ “ ta đi ta nhớ” là câu trả lời hô ứng trước lời băn khoăn của người ở lại “ mình đi có nhớ”. Câu thơ chính là lời
khái quát toàn bộ phần tiếp theo. Dấu (...) cuối dòng thơ như một khoảng lặng để thể hiện tâm trạng xúc động của người
ra đi đồng thời như một chỗ ngừng của kí ức để rồi biết bao nhiêu kỉ niệm ùa về trào dâng trong khoảng lặng này:

Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

+ Các từ ngữ cùng trường xuất hiện liên tưởng: “chia, sẻ, thương nhau, cùng” tái hiện được sự đùm bọc yêu thương đồng
cam cộng khổ của con người VB với cán bộ kháng chiến. Những câu thơ gợi nhắc đến những kỉ niệm vừa có tính chất cụ
thể vừa mang sức nặng khái quát. Trong những năm đầu kháng chiến đầy gian khổ và thiếu thốn họ cùng nhau sẻ chia từng
bát cơm, củ sắn, tấm chăn. Sự chia sẻ đó góp phần khỏa lấp được sự thiếu thốn về vật chất.. Những bát cơm, củ sắn bình dị,
quen thuộc ấm áp nghĩa tình sống mãi trong kí ức người đi: “Khoai bùi trong dạ, sắn thơm trong lòng” (Tố Hữu)
- Hình ảnh con người hiện lên cụ thể hơn. Đó là hình ảnh người mẹ VB chịu thương chịu khó tảo tần vất vả.Trong tâm
tưởng và kí ức của người đi vẫn hiện lên rất rõ ánh nắng chói chang,gay gắt chiếu xuống tấm lưng của người mẹ. Đằng
sau câu thơ là ánh mắt,là tấm lòng thấu hiểu, đồng cảm, sẻ chia và xót thương xen lẫn với những cảm phục trước
những gian khó vất vả của người phụ nữ trong kháng chiến.

+ Trong nét tảo tần vất vả của người phụ nữ kháng chiến TH đã nhìn thấy tinh thần kháng chiến của họ. Câu thơ làm ta liên
tưởng đến những vần thơ rất sinh động của Nguyễn Khoa Điềm về người mẹ Tà Ôi: ….Như vậy,những người kháng chiến
với những công việc quen thuộc bình dị của mình đang từng ngày góp sức vào công cuộc đấu tranh chung của toàn dân
tộc.

+ Hai câu thơ gợi dậy được bức tranh sinh hoạt, lao động rất đặc trưng của con người miền núi với tất cả tình cảm trìu mến.
Tình cảm ấy còn được thể hiện qua cách xưng hô thân thương “ người mẹ” . Đây là cách xưng hô quen thuộc trong thơ TH
nói riêng và thơ kháng chiến nói chung. Cách xưng hô gợi tình cảm gia đình ấm áp. VB,con người VB thực sự đã trở thành tổ
ấm của con người kháng chiến.

- 4 câu tiếp thể hiện nỗi nhớ thiết tha về kháng chiến gian nan mà sôi nổi yêu đời:

Nhớ sao lớp học i tờ

Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo

Núi rừng vang lên những tiếng học bài, những tiếng đánh vần của những lớp bình dân học vụ. Núi rừng ngân vang những
tiếng hát tiếng ca (Âm thanh) và sáng lên náo nức trong những đêm liên hoan (Ánh sáng). Chỉ qua một số hình nhr tiêu biểu
TH đã gợi tả được cuộc sống kháng chiến đầy sôi nổi lạc quan, diễn tả được niềm vui của những người đang làm chủ đất
trời,làm chủ cuộc sống

+ Đoạn thơ cũng thể hiện được sự tương phản trong hoàn cảnh,trong kháng chiến đầy gian khổ và tâm hồn lạc quan yêu đời
của con người kháng chiến: gian nan- ca vang núi đèo. Sự tương phản đó thể hiện rõ nét tâm hồn sôi nổi, yêu đời của con
người kháng chiến mà cội nguồn chính là sức sống , niềm tin mãnh liệt vào tương lai tất thắng của dân tộc.

Niềm tin ấy tiếp thêm sức mạnh tinh thần cho họ vượt lên gian khổ

- 2 câu cuối là niềm xúc động sâu sắc của tác giả khi nhớ lại những bức tranh sinh hoạt đậm đà bản sắc văn hóa của
núi rừng.

Nhớ sao tiếng mỏ rừng chiều

Ngày đêm nện cối đều đều suối xa

+ “Tiếng mỏ rừng chiều”,tiếng “chày đêm nện cối đều đều suối xa”là những âm thanh rất tiêu biểu đặc trưng văn hóa bản
làng miền sơn cước.

+ Hai câu thơ tả được vẻ đẹp êm đềm nên thơ của cuộc sống sinh hoạt ở chiến khu VB. Trong những năm tháng ác liệt ấy,
nhà thơ đã lưu giữ những khoảnh khắc yên bình thơ mộng. Đó là những giây phút đắm mình trong tiếng mỏ, tiếng chày để
lắng nghe âm vang, hơi thở của núi rừng VB.

+ Có thể nói TH đã cảm nhận cuộc sống bằng trái tim của một con người VB, bằng cách cảm cách nghĩ của con người VB.
Chính vì vậy, trái tim nhà thơ mới khắc khoải một nổi nhớ tha thiết với những hình ảnh thân quen đã trở thành hồn quê, hồn
xứ sở.

-> Tiểu kết (Của phần trên)

- ND

+ Đoạn thơ tái hiện được kỉ niệm gắn bó với thiên nhiên, con người VB trong kháng chiến; Bộc lộ nỗi nhớ thiết tha, tình yêu
và sự gắn bó sâu nặng đối với quê hương VB->Qua đó tái hiện được nững năm tháng đầy gian khổ thiếu thốn, tinh thần lạc
quan, yêu đời, đậm đà tình nghĩa thủy chung son sắt của người đi, kẻ ở.
- NT

+ Thể thơ

+ Kết cấu đối đáp và cách xưng hô

+ Điệp từ “nhớ” rồi đến “nhớ từng” và cuối cùng là “nhớ sao” là sự phát triển cảm xúc ngày càng khắc khoải da diết hơn.

+ Hình ảnh bình dị và giàu sức gợi cảm được chắt lọc từ đời sống đặc biệt TH đã lựa chọn những hình ảnh tiêu biểu của thiên
nhiên và đời sống của con người VB.

You might also like