Nên vành hoa đỏ, nên thiên sứ vàng” Cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ, hào hùng, thắng lợi vẻ vang của dân tộc đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều nhà thơ. Tố Hữu đã ghi lại những bước thăng trầm của đát nước bằng những vần thơ mang đậm khuynh hướng sử thi mang cảm hứng lãng mạn. VB là 1 trong những thi phẩm tiêu biểu. Bài thơ là đỉnh cao của thơ TH và cx là của văn học VN thời kì kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm đã thể hiện tình cảm sâu nặng giữa cán bộ kháng chiến và người dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp ( trích đề) TH là nhà thơ chính trị, là lá cờ đầu của thiw ca CM VN. Thơ TH thể hiện lẽ sống lớn, tình cảm lớn của con người CM. Thơ ông đậm đà tính dân tộc trong nội dung và hình thức thể hiện. Xuân Diệu đã từng khẳng định: “ TH đã đưa thơ chính trị lên trình độ là thơ rất đỗi trữ tình” VB là 1 đỉnh cao của thơ TH, là 1 trong những thi phẩm xuất sắc của thơ ca CM VN, đc sáng tác vào t10/1950, khi miền Bắc giải phóng, trung ương Đảng và Chính phủ chuyển về HN. VB là bản trường ca đầy ân tình quê hương đất nc tình nghĩa giữ cán bộ CM và con người kháng chiến. Có thể nói, VB k chỉ là khúc tình ca mà còn là húc hùng ca, thể hiện ân tình nghĩa sâu nặng, thùy chung, son sắt của nhà thơ đới với khu căn cứ địa CM cả nước. Điều này càng đc khắc họa rõ nét qua lời tâm tình của người dân việt bắc về những ngày kháng chiến, đã đồng cam cộng khổ cùng cán bộ trong suốt mười lăm năm. Bao trùm đoạn thơ là 1 niềm hoài niệm, nhớ thương về những năm tháng ở chiến khu việt bắc, là nỗi nhớ da diết, là tâm trạng bâng khuâng, lưu luyến giữa kẻ ở người đi- người miền ngược và người miền xuôi. Mở đầu đoạn thơ là hoàng loạt câu hỏi của người VB hỏi người về xuôi: “ Mình đi có nhớ những ngày ......nặng vai” Người CM và người VB từng đồng cam cộng khổ cùng nhau trong suốt 15 năm kháng chiến, chia tay người CM người VB bịn rịn, lưu luyến. Người VB hỏi người CM “mình đi có nhớ... mình về có nhớ”.. điệp ngữ “có nhớ” đc láy lại 5 lần ở các câu sáu tạo cảm giác bâng khuâng, bồn chồn, tha thiết. Mỗi 1 lời hỏi của người VB lại là lời gợi nhớ đến những kỷ niệm trong kháng chiến Pháp vậy nên đoạn thơ đầy ắp những kỷ niệm về VB. “Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai” Câu thơ đặc tả đc cảnh thiên nhiên hoang sơ, thời tiết khắc nghiệt nơi núi rừng VB, tuy khung cảnh có chút ảm đạm nhưng vẫn mang đậm chất trữ tình, thơ mộng, phóng khoáng và hùng vĩ. Đó cũng là những hình ảnh ẩn dụ về thời khó khăn gian nan, những thử thách nơi núi rừng VB “mưa nguồn, suối lũ, mây cùng mù”. “miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”, câu thơ đã nói lên cuộc sống kháng chiến thiếu thốn, khổ cực nhưng quân dân VB đã cùng chung mối thù với giặc Pháp vậy nên họ đồng cam cộng khổ trong kháng chiến. Dẫu có là những miếng cơm chấm muối đạm bạc nhưng họ vẫn cùng nhau gánh “mối thù nặng vai”. Không những 1 bờ vai gánh mối thù mà rất nhiều bờ vai cùng nhau, cùng gánh nỗi thù đó. Vẫn mạch cảm xúc là những lời hỏi như khác vào lòng người đi của VB, nhưng ẩn chứa trong những vần thơ đó là lời bộc bạch tâm sự của người ở lại, bày tỏ tình cảm lưu luyến với cán bộ về xuôi, khơi gợi những kỉ niệm gắn bó với thiên nhiên, núi rừng, kháng chiến và con người nặng tình, nặng nghĩa. “ Mình về, rừng núi nhớ ai .....đậm đà lòng son” Người VB hỏi người ra đi như chưa thoả mãn, họ còn hỏi chính lòng mình. Để từ đó, những kỉ niệm cứ đua nhau hiện lên. Trước tiên là gợi nhắc kỉ niệm với thiên nhiên: “Mình về, rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng, măng mai để già” NHà thơ TH đã sd bp hoán dụ “rừng núi nhớ ai”, “rừng núi” ở đây chính là hình ảnh người ở lại, còn đại từ “ai” là chỉ người cán bộ về xuôi nhằm nhấn mạnh tình cảm thắm thiết và nỗi nhớ da diết của nhân dân VB đới với những người kháng chiến, với Đảng với Chính phủ... “Trám bùi để rụng, măng mai để già”, “trám bùi”, “măng mai” là nguồn thức ăn vô tận của VB để nuôi bộ đội đánh giặc trong những ngày gian khổ. Hương vị của núi rừng ấy tượng trưng cho VB sâu nặng ân tình. Người CM về xuôi rồi thì trám k ai hái, măng k ai bẻ. Mình về xuôi để lại bao thương nhớ cho ta, cho núi rừng VB. “rừng, núi, trám, măng” được nhân hóa, nó mang biết bao nhiêu nỗi nhớ, bao nhiêu cảm xúc, những nỗi buồn thương. Cảnh vật như hòa lệ, lệ của cảnh vật hòa chung vào lệ của con người. Những chữ “rụng, già” gợi nhiều man mác, bơ vơ. Con người VB sâu nặng ân tình ấy làm sao có thể quên đc: “Mình đi có nhớ những nhà Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son” Nhà thơ TH đã sử dụng từ chỉ mức độ, số lương “ những nhà” – đại diện cho tất cả những đồng bào dân tộc VB. “hắt hiu lau xám” là cảnh hoang vu, vắng lặng của núi rừng gợi cuộc sống đói nghèo, thiếu thốn về vật chát. Tương phản vs “hắt hiu lau xám” là “đậm đà lòng son” . “đậm đà lòng son” là 1 hình ảnh rất đẹp ca ngợi tấm lòng thùy chng son sắt của người VB đối với CM đối với kháng chiến. TH đã sáng tạo ra những hình ảnh tượng trưng, tương phản “lau xám” “lòng son” nhằm ngợi ca đồng bào VB tuy nghèo khổ, thiếu thốn nhưng tình yêu đất nc, tình yêu CM vẫn thùy chung son sắt vẫn đậm đà ở trong lòng, vẫn càng ngày càng sục sôi vẫn luôn luôn nung nấu. Đó cũng chính là những vẫn thơ đẹp nhất, cảm động nhất nói về nỗi nhớ, lòng biết ơn và lòng tự hào đối với VB. VB là đầu nguồn là cái nôi của CM, của kháng chiến là căn cứ địa của Việt minh thời chống Nhật, Tân Trào là nơi Đội VN tuyên truyền giải phóng quân làm lễ xuất kích còn mái đình Hồng Thái là nơi họp Quốc dân Đại hội. VB là chiến khu bất khả xâm phạm, là “thủ đô gió ngàn” nên k dễ ai quên đc những địa danh lịch sử núi non mái đình cây đa đó. Tất cả đã trở thành kỉ niệm sâu sắc trong lòng kẻ ở người về, 15 năm ấy ai quên quê hương CM dựng nên Cộng hòa. Bằng tất cả giá trị về nội dung, chúng ta thấy rằng đoạn thơ là thành công của tác giả ở NT thể hiện cũng giống như đoạn thơ trc, đoạn thơ này cũng là thể thể lục bát, cũng là lời thơ lời hỏi gợi nhớ cũng là cách xưng hô “ mình- ta” cũng là điệp ngữ “có nhớ”. Tuy nhiên lại có thêm 2 từ “đi- về” sử dụng từ trái nghĩa nhưng lại dùng để chỉ 1 hướng. Người cán bộ về xuôi, VB là quê hương thứ 2 chia tay mong có ngày gặp lại. Từ đây người dọc có thể thấy NT ở đây thể hiện đậm tính dân tộc. Trước những câu hỏi tha thiết của người VB người về xuôi đã đáp lại những câu trí tình: “Ta với mình, mình với ta ..... nghĩa tình” Cách xưng hô “ta-mình” “mình-mình”, xưng hô càng lúc càng gần gũi thân mật và vẫn mang đậm phong vị của ca dao dân ca. Lời thơ là lời khẳng định “lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”, khẳng định tình cảm của người CM đối với VB không thay đổi, trc sau như 1 ân tình sâu nặng giữa người CM và người VB trong 15 năm qua như thế nào thì sau này vẫn cứ như thế. Tấm lòng thủy chung son sắt của người CM đối với VB, người CM bộc lộ trực tiếp tình cảm của mình khi chia xa “Mình đi mình lại nhớ mình/ Nguồn bao nhiêu nc bấy nhiêu nghĩa tình bấy nhiêu”. Làm sao không nhớ cho đc khi mà ân tình giữa họ như nước trong nguồn k bao giờ cạn. Tác giả đã so sánh rất khéo léo nhằm diễn tả ân tình k bao giờ phai nhạt giữa những người CM và người VB. Để xua tan những hoài nghi của người ở lại thì người về xuôi phải nói những lời nồng thắm thể hiện qua nỗi nhớ. Nhớ thiên nhiên VB “ nhớ gì như nhớ người yêu/... lưng nương”. Cách so sánh rất táo bạo, nhớ hình ảnh “trăng lên.. lưng nương” tha thiết, da diết và nồng cháy như là nhớ người yêu. Tấc giả thể hiện nỗi nhớ thiên nhiên nên thơ trữ tình của VB như nhớ 1 con người và đó là người yêu, nỗi nhớ của tình yêu. Tài hoa của tgia là diễn tả nỗi nhớ thiên nhiên VB của người ra đi như nỗi nhớ trong tình cảm cao quý nhất của con người. Nhớ thiên nhiên VB còn là nhớ rừng núi, nhớ sông, “Nhớ từng rừng nứa bờ tre/ Ngòi Thia sông Đáy suối Lê vơi đầy”. “ nhớ từng” là gợi những nỗi nhớ cụ thể về từng cảnh vật 1 ở VB. Phải có tình cảm gắn bó với thiên nhiên VB thì tác giả mới có những ký ức về thiên nhiên sâu sắc đến như vậy. Những địa danh cụ thể nơi núi rừng VB, nhớ sông suối nhớ lúc vơi lúc đầu, nhớ thiên nhiên VB tươi đẹp nên thơ trữ tình. Sau nỗi nhớ thiên nhiên ấy là nỗi nhớ về con người VB, con ngươi VB đậm đà lòng son, nhớ người thương, sớm khuya bếp lửa người thương đi về. Hình ảnh người thương trong nỗi nhớ của người ra đi gắn liền với hình ảnh bếp lửa trong thời gian sớm khuya đã gợi cho ta liên tưởng đến những người làm công tác nuôi quân trong những năm kháng chiến, sự tảo tần chịu thương chịu khó của người thương làm cho những người CM dẫu có chia xa cũng k thể nào quên đc. Nhớ người mẹ dân tộc thiểu số địu con lên rẫy bẻ ngô vào những ngày nắng cháy lưng “nhớ người mẹ... bẻ từng bắp ngô”. Hình ảnh người mẹ chịu thương chịu khó thật khiến cho người ta xúc động dù là trời gắt mẹ vẫn địu con lên rẫy bẻ ngô về nuôi bộ đội phục vụ CM. Kháng chiến nhớ những con người VB giản dị, tình nghĩa thủy chung với CM với kháng chiến. Nhớ cảnh sinh hoạt “nhớ từng bản khói cùng xương”, bản là bản làng gợi cuộc sống của nhân dân VB, khói là khói bếp, là khói của bom đạn của cuộc sống nhân dân VB trong những năm kháng chiến chống Pháp, xương là hình ảnh thiên nhiên làm cho núi rừng VB thêm thơ mộng, thêm trữ tình. Nhớ da diết những bản làng chìm trong sương khói chiến tranh “ Ta đi ta nhớ những ngày....đắp cùng” cách xưng hô “ta-mình” thân mật gần gũi, người ra đi KD nỗi nhớ của mk “Ta đi ta nhớ những ngày” nhớ những ngày tháng cùng nhân dân VB kháng chiến chống Pháo đó là những ngày k ít gian khổ nhưng sâu nặng ân tình k dễ j quên đc “Thương nhau...chăn sui đắp cùng” nhưng cx chính sự gian khổ đó mà tình nghĩa quân dân ngày càng trở nên sâu đậm thắm thiết. Điều đó đại diện cho sức mạnh của kháng chiến là cái yếu tố quan trọng để có thể chiến thắng. Người ra đi nhớ da diết những ân tình sâu nặng với VB trong những năm kháng chiến “Nhớ sao lớp học i tờ...liên hoan” nhớ kỉ niệm về lớp học xóa mù chữ cho người dân VB. “Nhớ sao...núi đèo” nhớ những ngày tháng làm việc ở chiến khu VB, tuy có nhiều gian nan vất vả nhưng các chiến sĩ CM vẫn lạc quan, vẫn tin tương. “ Nhớ sao tiếng mõ...suối xa” nhớ những âm thanh quen thuộc của cuộc sống người dân VB nó ngân vang mãi trong lòng người ra đi. Điệp ngữ “ nhớ sao” có nghĩa là rất nhớ, nỗi nhớ da diết k thể nòa diễn tả hết đc. Tác giả gắn bó sâu nặng với VB đến thế cơ mà.