Professional Documents
Culture Documents
Tuan 9 Viet Bac Trich Tiep Theo
Tuan 9 Viet Bac Trich Tiep Theo
-Tố Hữu
Cấu trúc
• Tổng kết
III
I. Vài nét về tác giả tác phẩm
1. Tác giả
- Nhà thơ Tố Hữu là chiến sĩ trên mặt trận
văn nghệ.
- Thơ ca là vũ khí, là phương tiện để thể
hiện lí tưởng cách mạng
- Đối tượng của thơ ca là đồng bào, đồng
chí, những người trực tiếp hoạt động cách
mạng
- Thơ Tố Hữu mang tính chất dân tộc rất
đậm đà
- Tố Hữu viết về những vấn đề chính trị như
lời tâm sự chứa chan niềm tin yêu với
đồng bào, đồng chí, tác động mạnh mẽ tới
cảm nghĩ người đọc và người nghe
2. Tác phẩm
- Việt Bắc là bản hùng ca của cuộc kháng chiến
chống Thực dân Pháp, phản ánh những chặng
đường gian lao, anh dũng và thắng lợi của dân
tộc
Hoàn cảnh sáng tác
- Sau chiến thắng Điện Biên Phủ «lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu» và tháng
7/1954, hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, hòa bình được lập lại ở miền Bắc. Tháng
10 năm 1954, ngay sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi,
các cơ quan trung ương của Đảng và chính phủ từ Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội
Thể loại và kết cấu
- Bài thơ viết theo thể thơ lục bát với lối đối đáp mình
– ta.
- Trong lối đối đáp Tố Hữu sử dụng đại từ “mình – ta”
với ý nghĩa vừa là ngôi thứ nhất, vừa là ngôi thứ hai.
Đó là sự phân thân tâm trạng
- Chiều sâu bên trong chính là lời độc thoại của chính
nhân vật trữ tình đang đắm mình trong hoài niệm về
quá khứ gian khổ mà tươi đẹp, ấm áp nghĩa tình
nhân dân, nghĩa tình kháng chiến và cách mạng, khát
vọng về tương lai tươi sáng
Ý nghĩa nhan đề
Nhan đề bài thơ chỉ vẻn vẹn hai chữ «Việt Bắc»
đã tạo sự tò mò trong lòng người đọc. Tuy
không có từ «nhớ» nhưng nhan đề cho ta thấy
như đây là một «bức nhật kí» về núi rừng Việt
Bắc
Giới thiệu về Việt Bắc
- Việt Bắc là căn cứ địa cách mạng ra đời sớm nhất và
lớn nhất trong thời kỳ chuẩn bị Cách mạng tháng Tám
1945, trong kháng chiến chống thực dân Pháp và can
thiệp Mỹ (1946-1954).
- Việt Bắc là một vùng núi hiểm trở gồm các tỉnh Cao
Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang,
Hà Giang, trong đó các huyện Sơn Dương, Chiêm Hóa,
Na Hang, Định Hóa, Đại Từ, Phú Lương, Chợ Đồn, Chợ
Rã đã được chọn làm ATK
- Ta dựa vào núi rừng Việt Bắc càng đánh càng mạnh,
càng thắng lớn và từng bước giành quyền chủ động;
còn địch ngày càng bị động đối phó và càng thất bại.
Nhờ vậy, cuộc kháng chiến đã kết thúc bằng trận quyết
chiến chiến lược Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu,
chấn động địa cầu”, “nên vành hoa đỏ, nên thiên sử
vàng”.
Giới thiệu về Việt Bắc
- Người dân tộc chủ yếu
sống ở Việt Bắc là người Tày
và người Nùng
Bố cục
• 8 câu đầu: Lời hỏi thứ nhất của người ở lại và
lời đáp thứ nhất của người ra đi
• 12 câu tiếp: Lời hỏi thứ hai của người ở lại
• 68 câu còn lại: Lời đáp thứ hai của người ra đi
II. Đọc – hiểu văn bản
1. Ý nghĩa của lối đối đáp mình - ta
- Đại từ xưng hô ta – mình phổ biến trong ca dao:
«Mình về có nhớ ta chăng
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười»
«Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm vạt áo, ta đề bài thơ»
«Mình về mình có nhớ chăng
Ta về như lạt buộc khăn nhớ mình.
Ta về ta cũng nhớ mình
Nhớ yếm mình mặc, nhớ tình mình trao.»
1. Ý nghĩa của lối đối đáp mình - ta
- Tố Hữu dùng hai đại từ ấy để gợi không khí ca dao làm
cho tình cảm giữa người đi - kẻ ở, giữa người cán bộ
về xuôi và nhân dân Việt Bắc thêm gần gũi, thân mật,
tự nhiên và chân tình
- Thực chất đây là sự phân thân của cái tôi trữ tình
thống nhất.
- Lời đáp là sự tán đồng, mở rộng, làm cụ thể và phong
phú thêm những ý tình trong lời hỏi , có khi trở thành
lời đồng vọng, không phân biệt người hỏi, người đáp
và cùng ngân vang trong tình cảm chung
2. 8 câu thơ đầu - Lời hỏi thứ nhất của người
ở lại và lời đáp thứ nhất của người ra đi
a. Lời ướm hỏi của người ở lại
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
- Lời hỏi của cô gái Việt Bắc (người ở lại) hướng tới chàng trai cán bộ
(người ra đi) trong buổi chia tay được xưng hô theo lối đối đáp của ca
dao: «mình – ta»
- «có nhớ ta»: «ta» là cô gái dân tộc Tày hoặc Nùng, suy rộng ra là đồng
bào Việt Bắc
- «mười lăm năm ấy»: tính từ khởi nghĩa Bắc Sơn (1940) đến thời điểm
hiện tại (10/1954)
-> Khoảng thời gian dài, bằng thời gian «Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu
tình» của Kim – Kiều
=> Đây không phải là cuộc chia tay của những cá nhân hay kỉ niệm bình
thường mà là cuộc chia tay giữa những người đồng chí và đồng bào trong
suốt mười lăm năm trời gắn bó chống thực dân Pháp
a. Lời ướm hỏi của người ở lại
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
- Điệp cấu trúc «mình về mình có nhớ» tuy là câu hỏi nhưng
đó là lời tự nhắc của tác giả đối với bản thân mình rằng có
quên cảnh vật và thời gian hoạt động ở Việt Bắc hay không?
- Câu hỏi thứ hai như nhắc rằng người ra đi hãy nhớ về nơi
«mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng».
=> Lời hỏi đã khơi dậy cả một kí ức đầy kỉ niệm, khơi nguồn
cho mạch nhớ thương tuôn chảy
b. Tiếng lòng của người về xuôi bâng khuâng
lưu luyến
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
- “tiếng ai” đầy tha thiết ấy chính là những lời nhắn dạt dào tình cảm của người dân Việt
Bắc. “Bên cồn” gợi ra không gian đơn sơ của buổi chia tay.
- “Bâng khuâng” nghĩa là cảm xúc nhớ nhung luyến tiếc, buồn vui lẫn lộn; “Bồn chồn” từ
láy chỉ cảm xúc day dứt, hồi hộp nôn nao trong lòng bước đi cũng theo dòng cảm xúc mà
ngập ngừng, bịn rịn.
- “Áo chàm” hình ảnh hoán dụ cho con người núi rừng Việt Bắc lam lũ khó nghèo nhưng
đậm đà tình nghĩa.
- Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay: cách ngắt nhịp 3/3/2 có sự thay đổi so với nhịp thơ
đều đặn của thể thơ lục bát diễn tả trọn vẹn giây phút chia tay xao xuyến, ngập ngừng
sâu lắng.
- Dấu “…” ở cuối đoạn thơ nhưng một nốt lặng trên khuông nhạc, niềm thương nỗi nhớ
vang ra mãi, hoà vào không gian mênh mông của sóng lòng, sóng tình.
=> Cuộc chia tay không hề khiên cưỡng mà thầm kín, tình tứ thật tự nhiên
Nghệ thuật khổ thơ
Thể thơ lục bát cùng những biện pháp nghệ
thuật như hoán dụ, câu hỏi tu từ cùng với ngôn
ngữ thơ trong sáng, giọng điệu thiết tha trìu
mến làm cho người đọc dù chưa một lần đặt
chân lên Việt Bắc như được sống lại trong giây
phút chia li bịn rịn mà nghĩa tình ấy
3. Mười hai câu tiếp theo – Lời hỏi của «người ở
lại» gợi nhắc nhớ ân tình cách mạng và kháng chiến
- Mình đi mình lại nhớ mình: “nhớ mình” – tức là nhớ người ở lại
nhưng cũng như là nhắc nhở chính mình hãy nhớ về quá khứ
gian khổ nhưng thấm đẫm nghĩa tình.
- Hình ảnh liệt kê
+ Cây đa Tân Trào (22/12/1944) là nơi đại tướng Võ Nguyên Giáp
làm lễ xuất quân cho đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
+ Mái đình Hồng Thái là nơi Bác Hồ chủ trì cuộc họp quyết định
Tổng khởi nghĩa trong cả nước, làm nên cách mạng tháng 8/1945
=> Hai địa điểm này là «chứng nhân lịch sử» in dấu chân trưởng
thành của lực lượng kháng chiến. Những nơi ấy đánh dấu cho
Nghệ thuật khổ thơ
– Nỗi nhớ ấy được thể hiện bằng những dòng thơ lục bát đậm chất dân
gian, những cặp câu thơ lục bát có sự phối hợp thanh điệu hài hòa. Sáu
dòng lục bát tạo thành một điệp khúc âm thanh: nó đan dày thành
những cấu trúc thanh bằng – trắc – bằng tạo ra nhạc điệu ngân nga trầm
bổng nhẹ nhàng, khoan thai.
– Hầu hết các câu thơ ngắt theo nhịp 4/4 làm nên những tiểu đối cân
xứng, hô ứng về câu trúc, nhạc điệu: Mưa nguồn suối lũ/ những mây
cùng mù; Miếng cơm chấm muối/ mối thù nặng vai; Trám bùi để rụng/
măng mai để già… Có những cặp tiểu đối khắc ghi những sự kiện, có
những cặp tiểu đối vế đầu nói về hiện thực gian khổ, vế còn lại khắc
sâu vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Bắc son sắt thủy chung. Người
đọc như gặp lại hồn xưa dân tộc trong những trang thơ lục bát của Tố
Hữu.
3. 68 câu còn lại: Lời đáp thứ hai của người ra đi – Lời thề
thủy chung, son sắt và nỗi nhớ cảnh vật nơi núi rừng Việt Bắc
a. Nỗi nhớ những kỉ niệm sinh hoạt nghèo
khổ
- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
* Lời thề đinh ninh thủy chung, son sắt
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu
- Bốn câu thơ đáp ứng ngay thắc mắc dồn dập của người ở lại
- «Ta với mình», «mình với ta» thể hiện sự quấn quýt, hòa quyện giữa kẻ ở
và người đi
- «Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh» trước sau như một, không thay
đổi theo thời gian. Đó là nét đẹp «Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn – Tào khê
nước chảy hãy còn trơ trơ»
- «Mình đi, mình lại nhớ mình» đáp lại câu «mình đi, mình có nhớ mình»;
«nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu» để đáp lại câu «Nguồn bao
nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu» và «mưa nguồn, suối lũ những mây cùng
mù» -> Nước trong nguồn bao la, vô tận và không bao giờ vơi cạn
=> Tình cảm của cán bộ về xuôi với nhân dân Việt Bắc không bao giờ vơi cạn
* Nỗi nhớ về thiên nhiên bình dị, thơ mộng
với nhịp sống êm đềm, đầm ấm
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
- So sánh: «nhớ gì như nhớ người yêu» gần với ca dao «nhớ ai bổi
hổi bồi hồi – Như đứng đống lửa, như ngồi đống than». «gì» có thể
là bản, là mế, là ngày tháng cơ quan... -> Nỗi nhớ được ví như nỗi
nhớ người yêu cho thấy sự cồn cào và da diết
- Điệp ngữ «nhớ», «nhớ từng» và liệt kê «nắng chiều lưng nương»,
«bản khói cùng sương», «sớm khuya bếp lửa», «rừng nứa bờ tre»,
«Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy» => Hình ảnh Việt Bắc thân
thương, gần gũi, bình dị mà thơ mộng với nhịp sống êm đềm, đầm
ấm.
* Nỗi nhớ về thiên nhiên bình dị, thơ mộng
với nhịp sống êm đềm, đầm ấm
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
+ Câu thơ «Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.» -> Hình ảnh lao
động vất vả sớm khuya
+ «Trăng lên – nắng chiều - sớm khuya» gợi lên nỗi nhớ sâu nặng bao
trùm cả không gian, thời gian
=> Dù dòng thời gian có thể trôi mãi, cảnh vật có thể đổi thay, cuộc
kháng chiến có lúc thăng trầm như «ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi
đầy»nhưng lòng người sẽ không bao giờ thay đổi
b. Những ngày chiến đấu gian khổ, chia ngọt sẻ bùi
nhưng con người Việt Bắc vẫn lạc quan, yêu đời
- Hai dòng đầu là câu hỏi tu từ và lời khẳng định gợi
nỗi nhớ thương da diết và tình cảm thủy chung của
người ra đi dành cho quê hương Việt Bắc
- Một cặp câu lục bát mà có đến bốn từ «ta» -> dòng
cảm xúc của người đi mênh mang, sâu lắng hơn
- «Ta về» đặt ra nỗi niềm từ giã
- Nỗi nhớ ở đây mượn nguyên màu sắc ca dao, là sự
nối tiếp, là khía cạnh tinh vi trong quan hệ khăng
khít: “hoa” – “người» -> Biện pháp hoán dụ
=> Nỗi nhớ mở đầu cho thấy thiên nhiên và con người
đã trở thành tâm điểm của bức tranh tứ bình
Bức tranh mùa đông
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
- Nét son của bức tranh núi rừng ở đây là màu “đỏ tươi” của “hoa chuối”.
Chấm phá của tranh thủy mặc điểm một sắc đỏ trong không gian xanh
bao la, không gian mang sức sống mãnh liệt.
- Mùa đông trong câu thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè, không
hề có cảm giác lạnh lẽo, bởi sắc đỏ hoa chuối cũng như phun trào từ
giữa màu xanh của rừng.
- Xuất hiện hình ảnh con người lao động đang làm nương, phát rẫy lấy
lương thực nuôi cách mạng.
- Con người như là điểm hội tụ của ánh sáng, xuất hiện ở tư thế, vị trí đẹp
nhất -> tư thế của người làm chủ
=> Con người đã trở thành linh hồn của bức tranh thiên nhiên mùa đông
Việt Bắc
Bức tranh mùa xuân
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
- Không gian mùa xuân bừng sáng trong sắc hoa mơ. Sức sống
mùa xuân lan tỏa khắp núi rừng Việt Bắc. Động từ “nở” cho
thấy sức sống sinh sôi, tràn trề của núi rừng mùa xuân. Màu
trắng của hoa mơ lan khắp cả không gian và thời gian
- Dưới bóng mơ dịu mát là hình ảnh con người «đan nón chuốt
từng sợi giang». Người Việt Bắc hiện lên ở nét đẹp cần mẫn,
chịu thương chịu khó qua động từ «chuốt». Trong cách tả
không có một âm vang nào của núi rừng, nhưng vẻ đẹp của
mùa xuân vẫn sinh động nhờ hoạt động của con người.
=> Phẩm chất tốt đẹp, hào hùng nhưng cũng rất tài hoa, khéo
léo của người dân Việt Bắc
«Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam
Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng.»
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên - Tố Hữu
«Ôi sáng xuân nay, Xuân 41
«Chợt mưa phùn gió lạnh Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Càng lạnh cành hoa mơ Bác về... Im lặng. Con chim hót
Ðất trắng ngàn cánh rụng Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ..»
Tiếng quân hò thôn xa» Theo chân Bác – Tố Hữu
Mưa – Quang Dũng
Nón lá của đồng bào dân tộc Tày có nhiều loại:
Nón chóp bẻ ở tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, nón cọ
vùng Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, nón
lá trắng, nón ba tầm quai thao. Người Tày, Nùng
cũng có nghề đan nón như dân tộc Kinh. Nói là
nghề đan nón nhưng thực ra nó chỉ mới trở
thành “nghề” và là “nghề” của một số người đã
qua tuổi ngũ, lục tuần. Công việc này đòi hỏi sự
tỷ mẩn và chau chuốt của người làm ra nón. Để
làm được một chiếc nón, người làm nón phải
vào rừng chọn những cây giang bánh tẻ mọc
được 1 năm, có đốt dài khoảng 60cm trở lên,
không bị sâu bệnh, không bị cụt ngọn và tốt
nhất lấy giang vào mùa sương giáng (sau ngày
Đông chí) để đan nón.
Bức tranh mùa hè
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
– Không gian nỗi nhớ hình như rõ nét nhất, đậm đà nhất trong
bức tranh mùa hạ.
– Không gian lung linh hơn khi sắc vàng của lá phách đổ xuống.
Ấn tượng màu vàng đẹp như bức vẽ tả thực vừa làm xao xuyến
lòng người trong tiếng ve gọi hè, như gọi cả màu vàng đất trời về
phủ kín cánh rừng. Động từ “đổ” miêu tả sự chuyển màu đột ngột,
nhanh chóng của bức tranh thiên nhiên, đưa đến cảm giác ngỡ
ngàng, choáng ngợp trong lòng người.
– Nổi bật giữa khung cảnh là hình ảnh “cô em gái”. Cách gọi biểu
lộ niềm thân thương trìu mến của con người. «Một mình» nhưng
không tạo cảm giác cô đơn hiu quạnh, vì cả không gian nhuộm
rực ánh vàng, làm lưu luyến bước chân người ra đi.
Phách là loại cây gỗ cao, cuối hè đầu thu thì lá vàng rực lên”– (Nhớ lại một thời,
Tố Hữu)
Bởi vui quá không sợ buồn, sợ khổ
Chia cho nhau manh áo cuối cùng
Thiếu gạo ăn măng rừng trừ bữa
Cả cuộc đời tính mệnh cũng là chung
Xuân Sách
Muốn ăn măng trúc, măng giang,
Măng tre, măng nứa, cơm lam thì chèo.
Ngược xuôi lên thác, xuống đèo,
Chim kêu bên nọ, vượn trèo bên kia. (ca dao)
Bức tranh mùa thu
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
– Mùa thu kết thúc đoạn tứ bình, cũng là thời điểm kết thúc cuộc kháng
chiến gian nan, oanh liệt, thời điểm chia li giữa Việt Bắc và những người
kháng chiến. Đêm thu và ánh trăng như lan tỏa vào màu xanh của núi
rừng.
– “Rọi” là động từ miêu tả nguồn sáng tập trung soi chiếu xuống một
điểm hẹp trong không gian.
– Nỗi nhớ cũng mênh mang như ánh trăng, thành tiếng hát ân tình thủy
chung. Nhớ không cụ thể một đối tượng nào.
– Đọng lại trong nỗi nhớ là “ân tình thủy chung” dào dạt. Ánh trăng đã là
hình ảnh của cuộc sống hòa bình, tiếng hát vang lên giữa rừng sâu, dưới
ánh trăng thanh càng làm đậm hơn cảm giác tươi vui, thanh bình và sự
hồi sinh sau chiến tranh. Cụm từ “nhớ ai” khiến hình ảnh con người như
nhòa di, nỗi nhớ trở nên sâu đậm, ám ảnh hơn…
"Trăng gió đêm Thu gợn vẻ sầu
Chẳng được tự do mà thưởng nguyệt
Lòng theo vời vợi mảnh trăng Thu"
(Trăng thu – Hồ Chí Minh)
Nghệ thuật
• Đoạn thơ diễn tả nỗi nhớ gắn với hình ảnh của núi rừng
Việt Bắc. Mỗi mùa mang một sắc màu riêng và bốn mùa
hòa chung màu sắc đa dạng, làm nên vẻ hấp dẫn cho bức
tranh phong cảnh trữ tình. Thời gian diễn tả không tuần
tự, nhưng không làm phai nỗi nhớ. Mỗi mùa đi qua có
một khoảnh khắc đáng nhớ – đó là khi trái tim nhà thơ
bắt nhịp cùng không gian – cảnh vật. Đoạn thơ mang nét
đẹp cổ điển mà hiện đại: cổ điển – ức tranh tứ bình hiện
lên qua những nét gợi tả; hiện đại – hình ảnh con người
đã trở thành tâm điểm, tạo nên vẻ đẹp, sức sống của
bức tranh.
d. Khung cảnh Việt Bắc kháng chiến, lập nhiều chiến công, vai trò
của Việt Bắc trong cách mạng và kháng chiến
* Nỗi nhớ thiên nhiên – nỗi nhớ cuộc sống con người ở Việt Bắc – nỗi
nhớ về cuộc chiến đấu anh hùng chống thực dân Pháp xâm lược
. Cảnh Việt Bắc đánh giặc được miêu tả bằng những bức tranh rộng lớn, kì vĩ.
– Rừng núi mênh mông, hùng vĩ trở thành bạn của ta, chở che cho bộ đội ta, cùng quân và dân ta
đánh giặc.
– Chiến khu là căn cứ vững chắc, đầy nguy hiểm với quân thù.
– Nghệ thuật so sánh, nhân hoá: “núi giăng thành luỹ sắt”, “rừng che”, “rừng vây”…
– Những cái tên, những địa danh ở chiến khu Việt Bắc: “Phủ Thông”, “đèo Giàng”, “sông Lô”, “phố
Ràng”, “Cao – Lạng”… vang lên đầy mến yêu, tự hào, cũng trở thành nỗi nhớ của người cán bộ kháng
chiến về xuôi.
– Không khí chiến đấu hào hùng, khí thế hừng hực trào sôi:
+ Sức mạnh của quân ta với các lực lượng bộ đội, dân công… sự hợp lực của nhiều thành phần tạo
thành khối đoàn kết vững chắc.
+ Các từ: “rầm rập”, “điệp điệp”, “trùng trùng”… thể hiện khí thế dồn dập.
+ Hình ảnh người chiến sĩ được gợi lên qua chi tiết giàu chất tạo hình: Ánh sao đầu mũ bạn cùng mũ
nan ánh sáng của sao dẫn đường, ánh sáng của niềm tin, của lí tưởng.
+ Thành ngữ chân cứng đá mềm đã được nâng lên thành một bước cao hơn bước chân nát đá, muôn
tàn lửa bay.
– Chiến công tưng bừng vang dội khắp nơi: Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên, đèo De, núi Hồng… Niềm
vui chiến thắng chan hòa bốn phương: “Vui từ… vui về… vui lên”…
Đoạn thơ ngập tràn ánh sáng: ánh sao, ánh đuốc, ánh đèn pha… như ánh sáng của niềm tin tưởng,
niềm vui tràn ngập. Nhịp thơ dồn dập gấp gáp, âm hưởng hào hùng, náo nức tạo thành khúc ca chiến
thắng.
*Người ra đi nhớ về những ngày tháng cùng
đồng đội ở căn cứ địa chiến đấu
- Những ngày nắng vàng rực rỡ tung bay lá cờ đỏ sao vàng.
- Những giờ đi họp, bàn bạc, đưa ra sách lược chiến đấu, điều quân cho
những chiến dịch.
→ Khí thế chiến đấu hừng hực của tiền tuyến và hậu phương, thể hiện
tinh thần đồng lòng, quyết tâm đánh giặc không chỉ của những người ở
chiến khu mà là của cả dân tộc, đất nước, con người Việt Nam.
=> Đoạn thơ phác họa hình ảnh giản dị mà trang trọng của một cuộc
họp Chính phủ trong hang núi mà vẫn rực rỡ dưới ánh cờ đỏ sao vàng
trong nắng trưa và kết thúc bằng sự thâu tóm hình ảnh Việt Bắc quê
hương cách mạng, đầu não của cuộc kháng chiến, nơi đặt niềm tin
tưởng và hi vọng của con người Việt Nam từ mọi miền đất nước, đặc
biệt là những nơi còn “u ám quân thù
III. Tổng kết
1. Nội dung
– Những bức tranh chân thực, đậm đà bản sắc dân tộc về thiên nhiên và con
người Việt Bắc được tái hiện trong tình cảm tha thiết, gắn bó sâu sắc của tác giả.
– Tình nghĩa của người cán bộ và đồng bào Việt Bắc với cách mạng, kháng chiến,
với Bác Hồ là những tình cảm cách mạng sâu sắc của thời đại mới. Những tình cảm
ấy hòa nhập và tiếp nối mạch nguồn tình cảm yêu nước, đạo lí ân tình thủy chung
vốn là truyền thống sâu bền của dân tộc.
2. Hình thức
– Thể thơ lục bát truyền thống đã được vận dụng tài tình trong một bài thơ dài,
vừa tạo âm hưởng thống nhất mà lại biến hóa đa dạng.
– Lối kết cấu đối đáp trong ca dao dân ca được vận dụng một cách hợp lí, tài tình.
– Những lối nói giàu hình ảnh, các cách chuyển nghĩa truyền thống (so sánh, ẩn
dụ, tượng trưng, ước lệ) được vận dụng khéo néo tinh tế.
– Giọng thơ ngọt ngào, tâm tình, cách xưng hô “mình – ta” quen thuộc trong ca
dao khiến bài thơ như một bản tình ca về lòng thủy chung son sắt của người cách
mạng với người dân Việt Bắc.