Professional Documents
Culture Documents
HCM
Trường THCS và THPT Lạc Hồng
--- ---
- NGUYỄN THI (1928 – 1968). Trước khi trở thành nhà văn, tôi đã là người lính,
nếu gặp lúc gay go tôi có thể cho cây bút vào túi áo, tay cầm lấy súng và bóp
cò. Trước khi trở thành nhà văn, tôi đã là người lính, nếu gặp lúc gay go tôi có thể
cho cây bút vào túi áo, tay cầm lấy súng và bóp cò. Tôi cần cái không khí của
chiến dịch, những cái mà mắt tôi nhìn được, tai tôi nghe được.Trước sự kiện lịch
sử trọng đại như thế này, nhà văn không thể đứng ngoài mà ngó…
- Nguyễn Hoàng Ca theo một người bà con vào Nam từ trước Cách mạng tháng
Tám. Bắt đầu tham gia Cách mạng năm 17 tuổi; làm thơ, viết văn với bút danh
Nguyễn Ngọc Tấn; là đội viên đội Cảm tử quân trong những ngày tổng khởi nghĩa
ở Sài Gòn; được kết nạp Ðảng năm 1947 (19 tuổi).
- Năm 1953, Nguyễn Ngọc Tấn cưới vợ. Sau đó, tập kết ra Bắc, công tác tại Tạp
chí Văn nghệ Quân đội, (để lại miền Nam người vợ trẻ đang mang thai).
- Tháng 5-1962, Nguyễn Ngọc Tấn xung phong vào Nam, đổi bút danh thành
Nguyễn Thi (tên của đứa con trai, với người vợ sau, ở miền Bắc). Là thành viên
tích cực của lực lượng Văn nghệ Quân Giải phóng. Tháng 5-1968, theo một đơn vị
pháo binh tham dự đợt tổng tiến công Mậu Thân đợt 2 và đã anh dũng hy sinh trên
chiến trường vào ngày 09-5-1968 (tại đường Minh Phụng, quận 11 – Sài Gòn).
- Trong 06 năm ở miền Nam, Nguyễn Thi có mặt tại hầu hết những điểm nóng
của chiến sự: Ấp Bắc, Củ Chi, Bến Tre,…
Con người
- Nguyễn Thi tính tình nóng nảy, sinh ra mang sẵn trong mình nhiều lạnh lùng kín
đáo hơn cởi mở hân hoan; thường khi tỏ ra cực đoan (Bản thân nhà văn cũng nhận
ra và rất buồn vì sự khó tính của mình). Ðây chính là dấu vết khó lòng gột rửa, do
trong những năm tháng lang thang kiếm sống cậu bé Ca đã phải gai góc, ngang
ngạnh để tự vệ, để tồn tại.
- Nguyễn Thi có một năng khiếu nghệ thuật thật đa dạng. Ở Tạp chí Văn nghệ
Quân Giải phóng, ông viết diễn ca, vẽ bìa, vẽ minh họa rồi dạy múa, dạy hát; tự
mình có thể diễn kịch, múa lân,…
- Nguyễn Thi là một nhà văn có ý thức trách nhiệm rất cao đối với ngòi bút. Chỉ
mới học hết bậc tiểu học, do đó, ông phải tập viết rất công phu, khổ luyện. Cuộc
đời riêng tuy gặp nhiều éo le, trắc trở nhưng không bao giờ khuất phục trước hoàn
cảnh, ông như con trai, biết nén nước mắt vào bên trong phong kín nỗi đau, làm
nên hạt ngọc cho đời !
+ Tác phẩm chính
- Nguyễn Thi sáng tác trên nhiều thể loại như thơ, truyện, kí, tiểu thuyết,... Và
ông để lại các tác phẩm tiêu biểu như: Hương đồng nội (1950), Truyện và
ký (1978),...
+ Phong cách nghệ thuật
- Phong cách nghệ thuật: năng lực phân tích tâm lý nhân vật sắc sảo, văn phong
vừa đằm thắm chất trữ tình vừa giàu chất hiện thực; có khả năng tạo nên những
nhân vật có cá tính mạnh mẽ, mang đậm tính cách Nam Bộ.
- Ông là nhà văn – chiến sĩ gắn bó hết mình với văn chương và cuộc chiến tranh vệ
quốc vĩ đại của nhân dân ta.
- Ông là nhà văn miền Bắc nhưng được mệnh danh là nhà văn của người nông dân
Nam Bộ trong kháng chiến chống Mỹ.
II/Hoàn Cảnh Sáng Tác,Bối Cảnh Xã Hội
Hoàn cảnh chung
- “Những đứa con trong gia đình” của nhà văn Nguyễn Thi ra đời vào những năm
mà cuộc chiến tranh chống đế quốc Mĩ và tay sai bước vào giai đoạn gay go, ác
liệt. Phần lý tưởng lớn nhất của thanh niên Việt Nam lúc bấy giờ là dâng hiến cuộc
đời và tuổi thanh xuân cho sự nghiệp cứu nước vĩ đại của dân tộc. Trong những
năm tháng tàn khốc, đau thương ấy càng mất mát thì con người Nam Bộ lại càng
vùng lên chiến đấu dũng cảm. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, là tinh thần căm thù
giặc sâu sắc, là phẩm chất kiên cường của miền Nam đã khơi nguồn cảm hứng để
Nguyễn Thi viết lên thiên truyện ngắn này.
Hoàn cảnh riêng
- Nguyễn Thi là nhà văn của người nông dân Nam Bộ, những con người hồn
nhiên bộc trực, yêu đời, căm thù ngùn ngụt đối với quân cướp nước. “Những đứa
con trong gia đình” là một trong những truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Thi. Tác
phẩm “Những đứa con trong gia đình” được hoàn thành vào tháng 2 năm 1966
trong những ngày chiến đấu chống Mĩ ác liệt. Khi nhà văn công tác ở tạp chí “Văn
nghệ quân giải phóng”.
- Truyện kể về gia đình anh giải phóng quân tên Việt. Việt sinh ra trong một gia
đình có truyền thống cách mạng, ba mẹ đều bị giết dưới bàn tay của kẻ thù. Chính
mối thù sâu sắc với Mĩ-Ngụy đã thôi thúc những đứa con trong gia đình càng khát
khao chiến đấu để trả thù nhà, đền nợ nước. Trong một trận đánh, Việt bị thương,
bị lạc đồng đội. Việt ngất đi tỉnh lại nhiều lần. Cũng giống như những lần tỉnh dậy
trước hồi ức quá khứ, hiện tại luôn đan xen nhau. Lần thức tỉnh thứ bốn của Việt,
kí ức về má hiện về. Việt sợ bóng tối, sợ ma hơn sợ giặc. Dù bị thương nhưng phân
biệt rất rõ đâu là tiếng súng nổ của ta, đâu là tiếng pháo giặc.
- Việt nhớ lại cảnh hai chị em tranh nhau đi tòng quân Việt đòi đi nhưng chị
Chiến không nghe, sau đó nhờ chú Năm phân giải, chú Năm nhất trí cho cả hai đi.
Trước khi lên đường, chị Chiến lo thu xếp gia đình gửi em út sang nhà chú Năm,
nhà cửa gửi cho các anh chị trong chi bộ làm nơi dạy học, bàn thờ gửi nhà chú
Năm. Đoạn trích kết thúc bằng hình ảnh hai chị em Chiến, Việt khiêng bàn thờ má
sang gửi nhà chú Năm.
III/Tóm Tắt Vợ Chồng A Phủ
Chuyện kể về hai chị em Chiến – Việt là những đứa con trong một gia đình có
nhiều những mất mát, đau thương do chiến tranh gây ra: cha bị Pháp chặt đầu hồi
chín năm, mẹ thì vừa bị đại bác Mĩ bắn chết. Khi hai chị em Chiến – Việt trưởng
thành, họ giành nhau đăng ký đi tòng quân. Nhờ sự đồng tình của chú Năm –
người lớn duy nhất trong nhà mà cả hai đều được nhập ngũ và ra trận.
Trong trận đánh ác liệt ở một khu rừng cao su, Việt đã tiêu diệt được một chiếc
xe bọc thép của Mĩ và anh cũng bị thương nặng, lạc đồng đội, phải nằm một mình
tại chiến trường khi còn ngổn ngang dấu vết của bom đạn và chết chóc. Vì bị
thương nặng nên Việt ngất đi, tỉnh lại nhiều lần. Mỗi lần tỉnh lại, Việt hồi tưởng về
quá khứ, về gia đình, về những người thân yêu của mình như mẹ, chú Năm, chị
Chiến… .
Đoạn trích trong sách giáo khoa là lần tỉnh dậy thứ tư của Việt trong đêm thứ
hai. Tuy mắt không nhìn thấy gì, tay chân thì đau buốt, tê cứng nhưng Việt vẫn
luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu và cố gắng lê từng tí một về phía có tiếng
súng của quân ta vì phía đó chính là “sự sống”.
Trong lần tỉnh lại này Việt hồi tưởng lại những sự việc xảy ra từ ngày sau khi
má mất. Cả hai chị em đều háo hức đăng ký tòng quân, nhưng chị Chiến lại nhất
định không cho Việt đăng ký vì cho rằng Việt chưa đủ 18 tuổi. Đến đêm mít tin,
Việt đã nhanh nhảu ghi tên mình trước. Chị Chiến đến chậm hơn và nói chuyện
Việt chưa đầy 18 tuổi. Nhờ chú Năm đứng ra xin giúp nên Việt mới được tòng
quân. Đêm hôm trước khi đi, chị Chiến bàn bạc với Việt về việc sắp xếp mọi thứ
trong nhà. Việt răm rắp nghe theo và chấp nhận mọi sự sắp đặt của chị Chiến, vì
Việt thấy chị Chiến nói rất giống má.
Sáng hôm sau, hai chị em Việt khiêng bàn thờ của ba má sang gửi nhà chú Năm.
Lúc này Việt cảm thấy trưởng thành hơn và thấy “thương chị lạ.”
Sau ba ngày đêm, đồng đội đã tìm thấy Việt. Anh được đưa về điều trị và dưỡng
sức tại một bệnh viện dã chiến; sức khoẻ anh cũng hồi phục dần. Anh Tánh giục
Việt viết thư cho chị Chiến kể lại chiến công của mình. Việt rất nhớ chị, cũng
muốn viết thư nhưng lại không biết viết như thế nào vì Việt cảm thấy chiến công
của mình chưa là gì so với những thành tích của đơn vị và mong ước của má.
để lại ấn tượng khó quên về những đứa con trong gia đình cách mạng. Đồng thời
còn phát hiện sâu sắc về sự trưởng thành của thế hệ trẻ Việt Nam trong chiến đấu.
Vẻ đẹp ấy kết tinh chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, sức mạnh làm nên
chiến thắng của nhân dân Việt Nam, một phẩm chất cao quí còn để lại những tấm
gương cho thế hệ sau noi theo.
V/ Thông Điệp
+ Trước hôm lên đường, trong cuộc đối thoại với hai chị em, chị Chiến nói: Chú
Năm nói, mầy với tao đi kỳ này là ra chân trời mặt biển, xa nhà thì ráng học chúng
học bạn, thù cha mẹ chưa trả mà bỏ về là chú chặt đầu. Việt trả lời chị với lòng đầy
quyết tâm: Chị có bị chặt đầu thì chặt chớ chừng nào tôi mới bị.
+ Chiến đấu, bị thương, nhưng bằng sự nhạy cảm của người chiến sĩ, Việt vẫn
phân bịêt rất rõ đâu là tiếng súng của ta, đâu là tiếng pháo nổ lễnh lãng của giặc.
+ Bị thương, nhưng quên đi nỗi đau của bản thân vẫn cố gắng lết đi tìm đồng đội
và luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.
- Hình ảnh Việt cùng chị Chiến khiêng bàn thờ má sang gửi chú Năm đã khẳng
định Việt cũng như chị gái của mình đã ý thức rất rõ về trách nhiệm đối với gia
đình, quê hương, tấm lòng yêu nước, sự căm thù quân giặc, quyết tâm trả thù cho
gia đình, quê hương. Có yêu thương, có căm thù, có mất mát nhưng có cái vĩnh
hằng, có sự quyết liệt nhưng cũng có sự thanh thản, có yếu tố hành động nhưng
cũng có yếu tố tâm linh... và mùi thơm thoang thoảng của hoa cam, mùi vị của quê
hương sẽ theo Việt trên suốt chặng đường chiến đấu.
Bằng nghệ thuật dựng chân dung nhân vật độc đáo, kết hợp thành công ngôn
ngữ Nam Bộ và ngôn ngữ trần thuật hiện đại, Nguyễn Thi đã tạo nên một phong
cách mới lạ. Việt là hiện thân của thế hệ trẻ miền Nam trong chiến tranh : gan góc,
dũng cảm, khát khao chiến đấu để trả thù nhà nợ nước. Từ hình ảnh Việt, một mặt,
Nguyễn Thi muốn khẳng định vẻ đẹp của thế hệ trẻ miền Nam những năm đánh
Mĩ; mặt khác, thông qua nhân vật này nhà văn muốn gửi đến một thông điệp : sức
mạnh của dân tộc được làm nên bởi sức mạnh của mỗi cá nhân; một dân tộc anh
hùng là một dân tộc của những con người anh hùng. Một khi lòng yêu nhà và yêu
nước hài hòa trong một khối thống nhất, khi tình riêng và lý tưởng chung hòa
quyện làm một thì không sức mạnh nào có thể chuyển dời.
- Tình huống truyện hấp dẫn, nghệ thuật trần thuật: trần thuật chủ yếu qua dòng hồi
tưởng của nhân vật Việt khi bị thương, ngất đi tỉnh lại nhiều lần. Lối kết cấu dựa
vào dòng hồi tưởng nhân vật như thế làm cho truyện giàu cảm xúc, diễn biến linh
hoạt, không tuân theo trật tự thời gian.
- Chi tiết được chọn lọc vừa cụ thể, giàu ý nghĩa, gây ấn tượng mạnh. Ngôn ngữ
bình dị, phong phú, giàu giá trị tạo hình và đậm sắc thái Nam Bộ.
- Khắc họa tính cách nhân vật đậm chất Nam Bộ: thẳng thắn, bộc trực, lạc quan,
yêu quê hương, gia đình, thủy chung đến với cách mạng, ngùn ngụt ngọn lửa căm
thù giặc...
- Dựng đối thoại và độc thoại nội tâm hấp dẫn, cảm động.