You are on page 1of 176

THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH

https://www.facebook.com/trinhquynhltv

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
HACK NÃO KIẾN THỨC VĂN 10

1. Tổng quan văn học Việt Nam:

- Nền Văn học dân gian ra đời từ thời viễn cổ và tiếp tục phát triển về sau này. Tính nhân
dân, tính dân tộc của nó từ nội dung tới hình thức có tác dụng sâu sắc đến sự hình thành
và phát triển của nền văn học viết.

- Văn học viết ra đời vào khoảng thế kỷ thứ 10 gồm có 3 bộ phận: Văn học viết bằng chữ
Hán, Văn học viết bằng chữ Nôm và Văn học viết bằng chữ quốc ngữ. Ba bộ phận văn
học ấy nối tiếp, kế thừa và phát triển cho thấy tinh thần sáng tạo, ý trí tự lập tự cường và
sức mạnh Việt Nam vô cùng to lớn.

- Văn học dân gian là cội nguồn của nền văn học dân tộc. Hai thành phần Văn học viết
và Văn học dân gian luôn luôn tác động qua lại, hội tụ và kết tinh ở những thiên tài văn
chương như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, v.v...

- Có thể chia làm 3 thời kỳ lớn:

+ Thời kỳ từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ XIX: Thơ văn Hán - Nôm.

+ Thời kỳ từ thế kỷ thứ XX đến năm 1945: Thơ văn Hán Nôm - thơ văn quốc ngữ.

+ Thời kỳ từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay: thơ văn quốc ngữ mang nội
dung cách mạng, kháng chiến, yêu nước và tiến bộ.

2. Khái quát văn học dân gian Việt Nam:

- Những đặc trưng cơ bản của văn học dân gian Việt Nam:

+ Văn học dân gian là một thành tố của văn hoá dân gian, tức là phôncơlo (trí tuệ nhân
dân).

+ Văn học dân gian còn gọi là văn học truyền miệng hoặc văn học bình dân.

+ Văn học dân gian là những sáng tác tập thể truyền miệng của nhân dân, ra đời từ
thời viễn cổ, phát triển qua các thời kì lịch sử, đến cả hiện nay và mai sau. Văn học dân
gian có những đặc trưng riêng so với văn học viết; nó cùng với văn học viết hợp thành
nền văn học dân tộc.

- Hệ thống thể loại của văn học dân gian Việt Nam:

+Thơ ca dân gian: tục ngữ, câu đố, ca dao, hò, vè, truyện thơ.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
+Truyện dân gian: thần thoại, sử thi, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, truyện ngụ
ngôn.

+ Sân khấu dân gian: chèo, tuồng đồ.

- Những giá trị cơ bản của văn học dân gian Việt Nam:

+ Văn học dân gian là kho tri thức vô cùng phong phú về đời sống các dân tộc.

+ Văn học dân gian có giá trị giáo dục sâu sắc về đạo lí làm người.

+Văn học dân gian có giá trị thẩm mĩ to lớn, góp phần quan trọng tạo nên bản sắc riêng
cho nền văn học dân tộc.

3. Khái quát văn học Việt Nam từ TK X-hết TK XIX:

- Các thành phần và các giai đoạn phát triển:

* Giai đoạn từ thế kỷ X đến thế kỷ XV.

+ 3 cuộc kháng chiến vĩ đại: thời Lý đánh bại giặc Tống; thời Trần ba lần đánh thắng
giặc Nguyên - Mông; thời Lê đánh đuổi quân "cuồng Minh" tàn bạo.

+ Chịu ảnh hưởng tư tưởng của đạo Phật, đạo Nho và đạo Lão; sâu sắc nhất và bao trùm
nhất là đạo Nho.

+ Văn học Hán Nôm thấm nhuần tư tưởng yêu nước và tinh thần dân tộc, ý chí chống
xâm lăng. Tác giả tiêu biểu nhất: Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Lê
Thánh Tông.

* Giai đoạn từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVIII.

+ Chế độ phong kiến khủng hoảng. Nội chiến Nam - Bắc triều; Trịnh - Nguyễn phân
tranh. Khởi nghĩa nông dân nổi lên như vũ bão.

+ Văn thơ chữ Nôm phát triển mạnh. Cảm hứng nhân đạo dào dạt nói lên nỗi đau
thương của con người, biểu lộ tấm lòng thương dân lo đời.

Tác giả tiêu biểu nhất là Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đào Duy Từ....

* Giai đoạn từ nửa sau thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX.

+ Chế độ phong kiến Việt Nam (cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài) khủng hoảng trầm
trọng và sụp đổ. Khởi nghĩa nông dân Tây Sơn quét sạch thù trong giặc ngoài. Gia Long
thiết lập triều Nguyễn. Nước ta rơi vào hiểm hoạ xâm lăng của thực dân Pháp.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
+ Văn học viết Hán, Nôm phát triển rực rỡ. Chủ nghĩa nhân đạo thấm đẫm văn chương.
"Chinh phụ ngâm", "Cung oán ngâm khúc","Truyện kiều"... là những áng thơ kiệt tác.
Tên tuổi những nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan sáng
chói cùng với Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát.....

* Giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX.

+ Thực dân Pháp xâm lăng, rồi thống trị nước ta. Phong trào yêu nước chống Pháp.

+ Bắt đầu có văn thơ viết bằng chữ quốc ngữ. Giai đoạn cuối cùng của văn học chữ
Nôm.

+ Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương... là những nhà thơ tiểu biểu
nhất giai đoạn này.

- Những đặc điểm lớn về nội dung: chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân đạo và cảm
hứng thế sự.

- Những đặc điểm lớn về nghệ thuật: Tính quy phạm và sự phá vỡ tính quy
phạm.Khuynh hướng trang nhã và xu hướng bình dị. Tiếp thu và dân tộc hoá tinh hoa
văn học nước ngoài.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
CHIẾN THẮNG MTAO MXÂY

I. Tìm hiểu chung

1. Về khái niệm sử thi

Sử thi là những tác phẩm tự sự dân gian có quy mô lớn, sử dụng ngôn ngữ có vần, nhịp,
xây dựng những hình tượng nghệ thuật hoành tráng, hào hùng để kể về một hay nhiều
biến cố lớn diễn ra trong đời sống cộng đồng của cư dân thời cổ đại.

Có hai tiểu loại sử thi dân gian:

- Sử thi thần thoại là loại sử thi kể về sự hình thành thế giới, sự ra đời của muôn loài, sự
hình thành các dân tộc, các vùng cư trú thời cổ đại của họ hoặc cũng có khi kể về sự xuất
hiện nền văn minh buổi đầu. Ở nước ta có một số bộ sử thi tiêu biểu cho tiểu loại này
như: Đẻ đất đẻ nước (Mường), Ẳm ệt luông (Thái), Cây nêu thần (Mơ-nông),….

- Sử thi anh hùng là những câu chuyện kể về cuộc đời và những chiến công hiển hách
của người anh hùng – người đại diện cao nhất cho sự giàu có, quyền lực, sức mạnh và
ước mơ của cộng đồng người thời cổ đại. Các tác phẩm tiêu biểu trong tiểu loại này là:
Đam Săn, Đăm Di, Xing Nhã, Khinh Dú (Ê- đê); Đam Noi (Ba- na),…. Trong số những
tác phẩm này thì tác phẩm được biết đến rộng rãi và nổi tiếng hơn cả là sử thi Đam Săn.

2. Về đoạn trích Chiến thắng Mtao Mxây

Đoạn trích Chiến thắng Mtao Mxây thuộc phần giữa của tác phẩm: Sau khi về làm chồng
hai chị em tù trưởng Hơ Nhị và Hơ Bhị, Đam Săn trở nên một tù trưởng giàu có và uy
danh lừng lẫy. Các tù trưởng Kên Kên(Mtao Grứ) và tù trưởng Sắt (Mtao Mxây) lừa lúc
Đam Săn cùng các nô lệ lên rẫy, ra sông lao động sản xuất đã kéo người tới cướp phá
buôn làng của chàng và bắt Hơ Nhị về làm vợ. Cả hai lần ấy Đam Săn đều tổ chức đánh
trả và chiến thắng, vừa cứu được vợ lại vừa sáp nhập được đất đai, của cải của kẻ địch
khiến cho oai danh của chàng càng lừng lẫy, bộ tộc càng giàu có và đông đúc hơn.

Đoạn trích ngợi ca cuộc chiến đấu của Đam Săn. Đó là cuộc chiến đấu vì danh dự, vì
hạnh phúc gia đình và hơn nữa vì cuộc sống bình yên và sự phồn vinh của thị tộc. Đoạn
trích này tiêu biểu cho những đặc trưng của thể loại sử thi anh hùng.

II. Đọc hiểu

1. Tóm tắt diễn biến trận đánh theo đúng trật tự của các tình tiết và sự kiện

a) Đam Săn đến nhà Mtao Mxây khiêu chiến nhưng Mtao Mxây còn bỡn cợt chàng mà
chưa chịu giao chiến ngay.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
b) Bước vào cuộc chiến:

Hiệp đấu thứ nhất

-Hai bên lần lượt múa khiên.

+Mtao Mxây múa trước: tỏ ra yếu ớt và kém cỏi

+ Đam Săn múa khiên: tỏ ra mạnh mẽ, tài giỏi hơn

-Kết quả hiệp đấu: Mtao Mxây chạy khắp nơi để tránh đường khiến Đam Săn múa.

Hiệp đấu thứ hai

-Đam Săn múa khiên: sức mạnh như gió bão. Cây giáo đâm liên tiếp Mtao Mxây nhưng
không thủng.

-Kết quả

+ Đam Săn nhờ sự giúp đỡ của Ông Trời đã cắt được đầu của Mtao Mxây.

+ Dân làng Mtao Mxây nhất loạt theo Đam Săn về ngôi làng mới.

2. Cuộc chiến giữa Đam Săn và Mtao Mxây là cuộc chiến tranh mang tính chất thống
nhất cộng đồng. Nó không phải là một cuộc chiến tranh xâm lược nhằm mục đích tàn sát,
cướp bóc và chiếm giữ. Chính vì thế mà thái độ của nô lệ ở cả hai phía đối với việc
thắng thua của hai tù trưởng cũng có những nét riêng:

- Ở phía Mtao Mxây: Sau khi tù trưởng của mình thất bại, đông đảo nô lệ đều tâm
phục và nghe theo lời vị tù trưởng mạnh hơn (“không đi sao được!… người nhà giàu
cầm đầu chúng tôi nay đã không còn nữa”).Thái độ và hành động của đoàn người này
chứng tỏ họ luôn mơ ước được trở thành một tập thể giàu có và hùng mạnh.Họ luôn mơ
ước có được một người lãnh đạo dũng cảm, tài ba.

- Ở phía Đam Săn: Dân làng tưng bừng náo nhiệt chào đón vị anh hùng của mình
mới chiến thắng trở về. Họ đi lại sửa soạn vui mừng tấp nập không chỉ để mừng buôn
sóc được mở mang, được hùng mạnh và giàu có mà còn để tiếp đón những người nô lệ
mới bằng sự chân thành và hoà hợp (“... Các chàng trai đi lại ngực đụng ngực. Các cô gái
đi lại vú đụng vú. Cảnh làng một tù trưởng nhà giàu trông sao mà vui thế!”).

3. Đoạn trích tuy miêu tả cuộc chiến tranh giữa các thị tộc trong thời nguyên thuỷ,
thế nhưng lại không chú trọng miêu tả cảnh chết chóc đau thương. Trái lại, tác giả dân
gian chủ yếu miêu tả cảnh chiến thắng tưng bừng của phía Đam Săn. Cuộc chiến dừng
lại khi Mtao Mxây thất bại. Thế nhưng sự thất bại của Mtao Mxây không làm cho dân
làng lo sợ, hoang mang. Họ ngay lập tức theo về phía Đam Săn, hoà nhập với cuộc đồng
CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
mới một cách rất tự nhiên. Dân làng của Đam Săn cũng vậy, họ đón tiếp những người
bạn mới rất chân tình. Không khí của buổi tiệc sau chiến thắng tưng bừng náo nhiệt vui
say không hề có một chút gợn nào. Lựa chọn cách thể hiện nghệ thuật này, tác giả dân
gian đã nhận ra tính tất yếu của cuộc chiến tranh thị tộc - đó là cuộc chiến tranh không
kìm hãm sự phát triển của xã hội Ê-đê, mà trái lại, nó giúp những tập thể lẽ tẻ, rời rạc tập
hợp thành những tập thể lớn hơn, mạnh hơn. Và cũng chỉ như vậy, họ mới trở thành một
dân tộc trưởng thành thực sự. Cách lựa chọn để hiện nghệ thuật ấy cũng là cách để dân
gian ngợi ca tầm vóc và sứ mệnh lịch sử của người anh hùng. Chỉ có những con người -
ưu tú của thời đại như vậy mới đủ sức đứng lên thống nhất các thị tộc nhỏ lẻ lại với
nhau, gom những thị tộc ấy lại thành một cộng đồng lớn mạnh và giàu có.

4. Trong đoạn trích này, kiểu câu được dùng nhiều nhất là kiểu câu có sử dụng
biện pháp so sánh, ví von.Những câu ấy, hoặc chứa biện pháp so sánh kiểu tương đồng
(chàng múa trên cao, gió như bão; chàng múa dưới thấp, gió như lốc; đoàn người đông
như bầy cà tong, đặc như bầy thiêu thân, ùn ùn như kiến như mối...), hoặc so sánh kiểu
tăng cấp (Đam Săn múa khiên), cũng có trường hợp so sánh kiểu tương phản (đối lập
giữa cảnh múa khiên của Đam Săn và Mtao Mxây). Những câu văn theo kiểu đòn bẩy
này có giá trị rất lớn trong việc miêu tả nhân vật người anh hùng. Nó khẳng định và nâng
bổng lên tài năng, sức mạnh của Đam Săn - người anh hùng uy danh lừng lẫy làm mờ đi
cả sự giàu có và sức mạnh của kẻ thù.

Cần lưu ý thêm, nếu chúng ta tiến hành phân loại thì có thể thấy rất rõ ràng: các hình
ảnh, sự vật được đem ra để so sánh ở đây đều lấy ra từ thế giới tự nhiên, từ vũ trụ. Như
thế hàm ý của tác giả là muốn lấy vũ trụ để "đo" kích cỡ, tầm vóc của nhân vật anh hùng.
Thủ pháp nghệ thuật này là một thủ pháp quen thuộc của sử thi. Nó giúp mang lại những
giá trị thẩm mỹ rất đặc trưng cho thể loại này: đặc trưng về sự trang trọng, hoành tráng
và dữ dội.

5. Sự xuất hiện của Ông Trời (thần linh) và việc can thiệp của Ông Trời vào chiến
thắng của Đam Săn chứng tỏ ở thời kì ấy, con người và thần linh gắn bó mật thiết với
nhau. Hay nói cách khác, nó là dấu vết của tư duy thần thoại trong sử thi, dấu vết của
một xã hội chưa có sự phân hóa giai cấp rạch ròi. Tuy nhiên cũng từ câu chuyện này có
thể nhận thấy, dù có can thiệp vào công việc của con người nhưng thần linh chỉ đóng vai
trò là người "cố vấn", "gợi ý" hành động chứ không phải là người quyết định tối cao kết
quả của cuộc chiến. Như vậy trong mối quan hệ với các thần, người anh hùng vẫn giữ
được vai trò quyết định và có tính độc lập riêng. Sắp đặt câu chuyện theo kiểu như vậy
cũng là một hình thức đề cao vai trò của nhân vật anh hùng, đề cao tinh thần dân chủ của
thời thị tộc cổ xưa.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
AN DƢƠNG VƢƠNG, MỲ CHÂU TRỌNG THỦY

I. Tìm hiểu chung

1. Đặc trƣng cơ bản của truyền thuyết

- Phản ánh lịch sử một cách độc đáo: được hư cấu, khúc xạ theo quan niệm, cảm xúc
của nhân dân, có xen lẫn yếu tố thần kỳ.

- Để hiểu đúng truyền thuyết, cần đặt nó trong mối quan hệ với môi trường lịch sử,
văn hóa mà nó sinh ra.

2. Xuất xứ tác phẩm

- Đây là văn bản “Rùa vàng” được trích trong Lĩnh Nam chích quái.

- Trình bày sự tích thành Cổ Loa, sự tích An Dương Vương lập nước Âu Lạc, sự tích
Mị Châu với ngọc trai – giếng nước.

- Giải thích nguyên nhân mất nước Âu Lạc.

II. Đọc hiểu

1. An Dƣơng Vƣơng xây thành, chế nỏ và bảo vệ đất nƣớc

Chế nỏ:

Câu hỏi: nếu có giặc ngoài lấy gì mà chống?

=> ý thức trách nhiệm, tinh thần cảnh giác của An Dương Vương.

=> Tác giả dân gian muốn ca ngợi công lao dựng nước và giữ nước của An Dương
Vương, lý tưởng hóa việc xây thành, chế tạo vũ khí.

2. Bi kịch mất nƣớc và bi kịch tình yêu

a. Bi kịch mất nước

Trách nhiệm của An Dương Vương

- Triệu Đà cầu hôn => hôn nhân nhằm mục đích xâm lược.

- Vua vô tình gả con gái là Mỵ Châu cho con trai Đà là Trọng Thủy => An Dương
Vương không phân biệt được đâu là bạn, đâu là thù.

- An Dương Vương cho Trọng Thủy ở rể: vua mất cảnh giác trầm trọng, tạo điều
kiện cho giặc tự do tiến sâu vào lãnh thổ

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
- Trọng Thủy mang nỏ thần về, Triệu Đà cất binh sang xâm lược, An Dương Vương
vẫn thản nhiên đánh cờ => An Dương Vương không lo phòng bị nghiêm túc, quá ỷ lại
vào vũ khí.

=> An Dương Vương chủ quan, quá lơ là cảnh giác. Ông là người đầu tiên phải gánh
trách nhiệm về việc mất nước.

Trách nhiệm của Mỵ Châu

- Lén cho Trọng Thủy xem nỏ thần => tiết lộ bí mật quan trọng của quốc gia.

- Rắc lông ngỗng => dẫn đường cho giặc đuổi theo, dồn vua cha đến bước đường
cùng.

=> Mỵ Châu là một kẻ ngây thơ nhẹ dạ, không biết suy nghĩ nặng nhẹ, đem tình vợ
chồng đặt lên trên nghĩa vụ đối với đất nước.

Nhân vật Mỵ Châu

- Lấy Trọng Thủy: vâng theo lời cha.

- Cho Trọng Thủy xem nỏ thần: phục tùng chồng, yêu chồng mù quáng, cả tin nhẹ
dạ.

- Rắc lông ngỗng: không chịu được nỗi đau ly biệt, muốn gặp lại chồng.

Mỵ Châu ngây thơ, hết lòng yêu thương Trọng Thủy bằng một tình cảm chân thành,
mãnh liệt và thiếu lý trí, không biết tình cảm đó có thể xung đột, đe dọa lợi ích quốc gia
và gây ra bi kịch cho bản thân mình

Nhân vật Trọng Thủy

- Lấy cắp lẫy nỏ

- Nếu chẳng may giặc giã…

- Dẫn quân đuổi theo

=> Trọng Thủy là một tên gián điệp đích thực và đắc lực của Triệu Đà. Từ đầu đến cuối,
hắn lừa dối Mỵ Châu và gây ra cái chết của cha con An Dương Vương.

- Cái chết của Trọng Thủy:

Nguyên nhân: nảy sinh tình cảm vợ chồng, không giải quyết được mâu thuẫn trong con
người mình

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
=> Trọng Thủy là nhân vật phức tạp, vừa là thủ phạm, vừa là nạn nhân của chiến tranh
xâm lược

=> tố cáo chiến tranh.

=> bi kịch của kẻ bị kẹt ở giữa tham vọng và tình yêu.

3. Thái độ của tác giả dân gian

* Đối với An Dương Vương

- An Dương Vương chém đầu Mỵ Châu

=> Người lãnh tụ phải vì cộng đồng mà thẳng tay trừng trị kẻ có tội dù đó là con ruột của
mình cái chung phải đặt lên trên cái riêng.

- An Dương Vương cầm theo sừng tê bảy tấc theo Rùa vàng xuống biển

=> Trong lòng nhân dân, người anh hùng dựng nước là bất tử.

* Đối với Mỵ Châu

- Rùa vàng nói: “Giặc ở sau lưng nhà vua đó!”

=> Đại diện cho trí tuệ và sự phán quyết mạnh mẽ của cha ông, nghiêm khắc phê phán
kẻ có tội.

- Máu thành ngọc trai, xác thành ngọc thạch

=> Nhân dân bao dung, an ủi cho tấm lòng trong trắng ngây thơ của Mỵ Châu (bị lừa
dối, vô tình phạm tội).

=> Cái chung bao giờ cũng phải được đặt ở trên cái riêng, đôi khi phải hi sinh tình riêng
cho cái chung.

* Đối với Trọng Thủy

- Cái chết của Trọng Thủy: hắn là giặc ngoại xâm, là kẻ phụ tình => phải bị đền tội.

- Chi tiết ngọc trai giếng nước:

Hóa giải oan tình của Mỵ Châu.

Nhân dân ta cũng tha thứ cho Trọng Thủy. Hắn cũng bị vua cha lợi dụng.

=> vẻ đẹp hòan mỹ, thể hiện sự bao dung, nhân hậu của nhân dân ta.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
III. Tổng kết

Nội dung: bài học lịch sử:

- Cảnh giác với kẻ thù.

- Xử lý đúng mối quan hệ giữa chung và riêng, nhà và nước, cá nhân và cộng đồng.

Nghệ thuật

- Kết cấu chặt chẽ.

- Xây dựng nhân vật vừa phản ánh được mâu thuẫn cá nhân, vừa phản ánh mâu thuẫn
giữa dân tộc với kẻ thù xâm lược.

- Xây dựng tình tiết nghệ thuật đẹp, cô đọng, hàm súc.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
TẤM CÁM

I. Tìm hiểu chung

1. Truyện cổ tích

- Truyện cổ tích là những tác phẩm tự sự dân gian mà cốt truyện và hình tượng được
hư cấu có chủ định, kể về số phận những con người bình thường trong xã hội có giai cấp,
thể hiện tinh thần nhân đạo và lạc quan của nhân dân lao động.

- Truyện cổ tích được chia thành ba loại: cổ tích về loài vật, cổ tích sinh hoạt và cổ
tích thần kì. Truyện cổ tích thần kì phong phú nhất và chiếm số lượng nhiều nhất.

2. Đặc trƣng của truyện cổ tích thần kì

- Sự tham gia của yếu tố thần kì là khá phổ biến (tiên, bụt, sự biến hoá thần kì, những
vật có phép màu…).

- Kết cấu tương đối thống nhất: Dạng kết cấu phổ biến là nhân vật chính trải qua
những phiêu lưu, hoạn nạn, thử thách, cuối cùng đạt được ý nguyện của mình.

- Nhân vật chính phần lớn là những con người bình thường

- Mâu thuẫn, xung đột gia đình và xã hội được thể hiện dưới dạng khái quát: đấu
tranh giữa cái tốt và cái xấu, giữa cái thiện và cái ác.

3. Tấm Cám là truyện cổ tích tiêu biểu cho loại cổ tích thần kì

Câu chuyện là cuộc đấu tranh vô cùng quyết liệt giữa cái thiện và cái ác. Mẹ con Cám
tàn nhẫn và độc ác đã chiếm đoạt tất cả những gì thuộc về Tấm và hơn nữa còn muốn
tiêu diệt Tấm đến cùng. Thế nhưng bằng sức sống, sức trỗi dậy mãnh liệt, bằng ước mơ
và niềm lạc quan của người lao động, Tấm đã đứng lên chiến đấu quyết liệt với cái ác và
giành chiến thắng.

II. Đọc hiểu

1. Diễn biến của truyện có thể chia thành hai giai đoạn

- Từ đoạn truyện về chiếc yếm đỏ đến đoạn truyện Tấm đi xem hội phản ánh mâu
thuẫn xoay quanh những quyền lợi về vật chất và tinh thần trong cuộc sống hàng ngày.

- Đoạn còn lại liên quan đến cái chết của Tấm và sự hóa thân trở đi trở lại của cô,
xuất hiện những mâu thuẫn về địa vị và quyền lợi đẳng cấp (mâu thuẫn xã hội) nên tính
quyết liệt của mâu thuẫn hiện rõ hơn. Diễn biến của cốt truyện cho ta hình dung về xu
hướng phát triển của hai tuyến nhân vật:

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
- Tuyến mẹ con Cám: càng ngày càng tỏ ra độc ác hơn, tàn nhẫn hơn.

- Tuyến nhân vật Tấm, từ những hành động và phản ứng yếu ớt, cô đã trở nên quyết
liệt và chủ động hơn để đòi lại hạnh phúc đích thực của mình.

2. Nhân vật Tấm

Tấm sau khi chết đã hóa thân trở đi trở lại thành: chim vàng anh - hai cây xoan đào -
khung cửi - quả thị, nghĩa là đều hóa thành vật. Sự hóa thân thần kì này phản ánh một
quan niệm của dân gian xưa: quan niệm đồng nhất giữa người và vật. Cả bốn hình thức
biến hóa này đều cho thấy vẻ đẹp về phẩm chất của nhân vật vẫn không thay đổi: bình dị
và sáng trong. Bốn lần biến hóa còn cho thấy sự biến chuyển trong ý thức đấu tranh của
nhân vật.

Ví dụ: Khi là chim vàng anh, nhìn thấy Cám đang giặt áo, chim nói: "Phơi áo chồng tao,
phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao". Nhưng khi chiếc khung cửi lên
lời, nó quyết liệt hơn: Cót ca, cót két - Lấy tranh chồng chị - Chị khoét mắt ra

Có thể nói ý nghĩa chung nhất của quá trình biến hóa ấy là thể hiện sức sống mãnh liệt
của Tấm. Sức sống ấy không thể bị tiêu diệt bởi bất cứ một thế lực nào. Và nó chính là
nguyên nhân quan trọng nhất tạo nên chiến thắng cuối cùng của nhân vật.

4. Bản chất của mâu thuẫn và xung đột trong truyện Tấm Cám

Mâu thuẫn và xung đột trong truyện cổ tích này trước hết là mâu thuẫn và xung đột trong
gia đình phụ quyền thời cổ đại (mâu thuẫn dì ghẻ mâu thuẫn con chồng). Nguyên nhân
bắt nguồn từ việc kế thừa tài sản và hưởng những quyền lợi vật chất của các thành viên
(con cái) trong gia đình.

Truyện cũng thấp thoáng xuất hiện những mâu thuẫn xã hội (về quyền lợi và địa vị)
nhưng không phải là chủ đạo. ý nghĩa chung nhất của tác phẩm toát lên từ mâu thuẫn
giữa cái thiện và cái ác. Đó là cuộc đấu tranh giữa người lương thiện và những kẻ bất
lương.

5. Hành động Tấm ở kết thúc truyện

Giội nước sôi giết Cám, lấy xác làm mắm, gửi cho dì ghẻ ăn gây nhiều tranh cãi và
không ít người phản đối cho rằng hành động ấy làm mất đi vẻ đẹp vẹn toàn của nhân vật
Tấm. Thực ra phải hiểu rằng: trong truyền thống cảm nhận của dân gian, người ta không
quan tâm đến tính chất dã man của sự việc. Theo quan niệm "ác giả ác báo" người ta chỉ
chú ý đến việc cái ác bị trừng phạt như thế nào và với mức độ ra sao. Với tác giả dân
gian, kết cục của mẹ con Cám như vậy là thích đáng, là phù hợp với những gì mà mẹ con
mụ đã gây ra.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
6. Những đặc trƣng của thể loại truyện cổ tích thần kì đƣợc biểu hiện trong Tấm
Cám

- Cốt truyện có sự tham gia của nhiều yếu tố thần kì: nhân vật Bụt, xương cá bống và
những lần biến hóa của nhân dân chính.

- Về kết cấu, truyện có dạng: nhân vật chính phải trải qua nhiều hoạn nạn cuối cùng
mới được hưởng hạnh phúc. Đây là một trong những kiểu kết cấu khá phổ biến của loại
truyện cổ tích thần kì.

- Truyện phản ánh những xung đột trong xã hội thời kì đã có sự phân chia giai cấp.

- Kết thúc truyện có hậu mang tính nhân đạo và lạc quan.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
TAM ĐẠI CON GÀ – NHƢNG NÓ PHẢI BẰNG HAI MÀY

I. Khái quát chung

1. Về khái niệm truyện cƣời

- Truyện cười là những truyện dân gian ngắn, có kết cấu chặt chẽ, kết thúc bất ngờ, kể về
những sự việc, hành vi trái tự nhiên của con người, có tác dụng gây cười, nhằm mục đích
giải trí và phê phán xã hội.

- Truyện cười thường khai thác những mâu thuẫn trái tự nhiên những hành động kệch
cỡm, rởm đời hay dốt nát trong cuộc sống. Truyện thường ngắn nhưng chặt chẽ, ít các
chi tiết rườm rà, mâu thuẫn phát triển nhanh và kết thúc bất ngờ. Truyện cười mang ý
nghĩa giải trí và giáo dục. Ngoài tiếng cười, nó tập trung phê phán những thói hư tật xấu
trong nội bộ nhân dân, vì thế mới có ý kiến cho rằng, truyện cười không chỉ là sản phẩm
của óc khôi hài mà còn là một thứ vũ khí đấu tranh đắc dụng của nhân dân ta.

- Truyện cười có hai loại: Truyện khôi hài và truyện trào phúng. Truyện khôi hài chủ yếu
nhằm mục đích giải trí (tuy nhiên vẫn bao hàm giá trị giáo dục). Truyện trào phúng được
sáng tác với mục đích phê phán. Đối tượng phê phán phần lớn là các nhân vật thuộc tầng
lớp trên trong xã hội nông thôn Việt Nam xưa (như: bọn quan lại bất tài, tham nhũng…).
Cũng có khá nhiều truyện cười phê phán thói hư tật xấu trong nội bộ nhân dân.

2. Về hai văn bản Tam đại con gà và Nhƣng nó phải bằng hai mày

Hai truyện cười này đều thuộc loại truyện trào phúng. Đối tượng của sự phê phán là thầy
đồ dốt nói chữ và bọn quan lại tham nhũng ở địa phương.

Truyện Tam đại con gà hướng sự châm biếm, đả kích vào những kẻ "xấu hay làm tốt, dốt
hay nói chữ". Cái xấu, cái dốt càng che đậy càng dễ lộ ra, kệch cỡm và đáng cười hơn rất
nhiều lần.

Truyện Nhưng nó phải bằng hai mày lại giống như một màn kịch ngắn. Khai thác triệt để
sự kết hợp giữa lời nói với cử chỉ và với lối chơi chữ độc đáo, truyện đã vạch trần hành
động tham nhũng trắng trợn của thầy lí. Đồng thời, truyện cũng nói lên tình cảnh vừa bi
hài, vừa đáng thương, đáng giận của những người lao động.

II. Đọc hiểu

1. Trong truyện Tam đại con gà, "ông thầy" liên tiếp bị đưa vào hai tình huống:

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
- Thầy đồ đi dạy học trò nhưng "thấy mặt chữ nhiều nét rắc rối, không biết chữ gì,
học trò lại hơi gấp, thầy cuống, nói liều...".

- Khi bị người nhà phát hiện dạy sai, thầy ra sức bao biện để chối tội và giấu dốt.

Trong lần thứ nhất, để "giải quyết tình huống", "ông thầy" đã nhắm mắt chọn cách nói
liều. Hài ước hơn khi ngay sau đó, "ông thầy" còn viện đến thổ công để "chứng giám"
một cách hú họa cho sự dốt nát của mình

Trong tình huống thứ hai, "ông thầy" đã giải quyết để bào chữa cho mình bằng một cái
"lí sự cùn".

Qua chỉ hai tình huống, cái bản chất "dốt" của thầy đồ đã được bộc lộ rõ ra. Cái mâu
thuẫn trái tự nhiên ở nhân vật này là dốt >< khoe giỏi. Thầy đồ đi dạy học mà dốt đến
mức cái chữ tối thiểu trong sách cũng không biết, không đọc được. Dốt như vậy mà thầy
đồ vẫn ham khoe giỏi (sau khi khấn thổ công, "thầy lấy làm đắc chí lắm, hôm sau bệ vệ
ngồi trên giường, bảo trẻ đọc cho to"). Sự hài hước của câu chuyện lên đến đỉnh điểm
khi thầy đồ, dù đã biết mình dạy dốt vẫn cứ nhất quyết bao biện cho mình bằng một cái
"lí sự cùn" hoàn toàn không thể tin tưởng được. Tất cả những hành động cố gắng "lấp
liếm" cái dốt này, quả thực chỉ làm cho thầy đồ càng thảm hại hơn thôi.

2. Qua hình ảnh thầy đồ trong truyện Tam đại con gà, truyện phê phán một tật xấu trong
nội bộ nhân dân, phê phán những người dốt mà không chịu học hỏi, dốt mà cứ cố tình
che đậy sự dốt nát của mình. Tuy nhiên cái cười trong truyện ngắn này chủ yếu vẫn
mang tính chất giải trí - cười sự ngây ngô và liều lĩnh của thầy đồ, chứ chưa tới mức cười
nhằm đả kích và triệt tiêu đối tượng.

3. Về truyện Nhưng nó phải bằng hai mày

a) Mối quan hệ giữa Cải và thầy lí trước khi xử kiện là mối quan hệ đã được xếp đặt rồi
(Cải đã lót tiền trước cho thầy lí năm đồng). Cải cứ nghĩ là quan sẽ cho mình được kiện
nên rất ung dung. Tuy nhiên không ngờ khi xử kiện, Cải lại bị thầy lí tuyên bố đánh
mười roi. Cải từ thế chủ động chuyển hoàn toàn sang bị động và không thể nói tiếp được
lời nào.

b) Sự độc đáo của câu chuyện chính là sự kết hợp giữa hai thứ "ngôn ngữ". Ngôn ngữ
bằng lời nói là ngôn ngữ công khai, nói cho tất cả những người có mặt ở đó nghe. Nhưng
thứ "ngôn ngữ" bằng động tác thì chỉ có thầy lí và Cải mới hiểu được. Nếu Cải xòe ra
năm ngón tay và "ngầm" ra hiệu với thầy lí đó là "lẽ phải" thì thầy lí đã đáp lời nhanh
chóng bằng việc xòe năm ngón tay trái úp lên năm ngón tay mặt, ý nói "lẽ phải" kia đã
được nhân đôi. Sự thú vị được người đọc nhận ra khi tìm thấy sợi dây liên hệ thông suốt
giữa: lẽ phải - những ngón tay và những đồng tiền.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
Ý nghĩa tố cáo của truyện chính là ở chỗ: lẽ phải đối với người xử kiện được tính bằng
tiền. Đồng tiền đo lẽ phải, tiền nhiều lẽ phải nhiều, tiền ít lẽ phải ít.

4. Lời nói của thầy lí ở cuối truyện

Nhưng nó phải bằng hai mày là một sự vận dụng độc đáo và sáng tạo nghệ thuật chơi
ngữ gây cười. "Phải" là một từ chỉ tính chất, đem ghép nó với một từ chỉ số lượng (phải
bằng hai) tưởng như vô lí. Thế nhưng khi ta liên tưởng đến năm đồng và mười đồng tiền
đút lót của Ngô và Cải, ta lại thấy nó hoàn toàn hợp lí. Lời phán quyết của thầy lí "vô lí"
trong xử kiện nhưng lại có lí trong mối quan hệ (tiền bạc) với các nhân vật. Chính việc
"đánh lộn sòng" này đã tạo ra tiếng cười hài hước và sự thích thú trong quá trình "giải
mã" tác phẩm của mỗi chúng ta.

5. Ở truyện Nhưng nó phải bằng hai mày, nhân vật bị thất bại trong vụ kiện là nhân vật
Cải. Cải bị bất ngờ nên không kịp trở tay vì thế mà bị rơi vào tình trạng thảm hại (vừa
mất tiền lại vừa bị đánh). Thế nhưng câu chuyện chính là lời phê phán cả hai nhân vật.
Sự tham lam của bọn quan lại sẽ càng ngày càng tráo trở hơn nếu còn có những người
như Ngô và Cải. Hành vi tiêu cực của chính họ là nguyên nhân làm cho họ trở nên thảm
hại. Trong sự việc này, họ là những kẻ đáng thương nhưng cũng là những người đáng
giận.

6. Có thể thấy rõ đặc trưng thể loại của truyện cười qua việc phân tích lời nói và hành
động của nhân vật trong hai truyện Tam đại con gà và Nhưng nó phải bằng hai mày.

a) Đối với truyện Tam đại con gà

Câu chuyện có nhiều hành động và lời nói của thầy đồ có tác dụng gây cười:

- Các hành động của "Ông thầy":

+Bảo học trò đọc khe khẽ (vì chưa biết mình dạy đúng hay sai nên phải "thận trọng" để
giấu dốt).

+ Xin đài âm dương 3 lần (hành động ngược đời - đúng ra phải hỏi lại người có hiểu biết
hơn mình để giảng giải cho học trò rõ). Hành động này hàm ý "Ông thầy" coi cái chuyện
dạy học hệ trọng này chẳng khác gì chuyện đánh bạc cầu may.

+ Ngồi bệ vệ trên giường, bảo học trò đọc to (đắc chí với sự ngốc nghếch của mình mà
không biết).

- Lời nói của thầy:

+ Dủ dỉ là con dù dì

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
+ Dạy cho cháu biết đến tận tam đại con gà

+ Dủ dỉ là chị con công, con công là ông con gà.

Tất cả các lời nói này đều cho thấy sự ngốc nghếch và phi lí trong những 'bài học" và lời
nói của "Ông thầy". Xét về mức độ, ta thấy hành động và lời nói của nhân vật được nhà
văn sắp xếp theo trật tự tăng tiến. Mức độ phi lí và sự nực cười của lời nói và hành động
ngày càng được đẩy lên cao.

b) Đối với truyện Nhưng nó phải bằng hai mày

- Hành động của nhân vật Cải và Ngô: hai người đều tìm cách đưa đút lót trước cho
thày lí mà không rõ hành động của người kia.

- Thầy lí thì tham lam nên nhận tiền của cả hai người. Khi xử kiện lại lấy bàn tay để
ra hiệu.

- Lời nói hài hước của các nhân vật: “ Xin xét lại, lẽ phải về con mà!”(Cải nói). “Tao
biết mày phải…nhưng nó lại phải…bằng hai mày!” (lời đáp của thầy lí)

c) Từ hai truyện trên, có thể khái quát mấy đặc trưng chung của thể loại truyện cười:

- Khai thác những sự việc, hành vi, thói xấu của một bộ phận đối tượng trong dân
gian.

- Chứa đựng những mâu thuẫn trái quy luật tự nhiên và tiềm ẩn những yếu tố gây
cười.

- Dung lượng ngắn, kết cấu lôgíc chặt chẽ và kết thúc bằng những sự việc hoặc liên
tưởng bất ngờ.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
CA DAO THAN THÂN, YÊU THƢƠNG TÌNH NGHĨA

I. Khái quát chung

1. Khái niệm ca dao

Ca dao là những bài hát dân gian. Khái niệm này đặt ca dao vào đúng môi trường diễn
xướng, nghĩa là khi ấy, lời thơ và làn điệu của ca dao gắn bó chặt chẽ với nhau. Nhưng
nếu ta tách khỏi điệu hát thì ca dao là thơ và vì vậy ca dao còn có nghĩa là một thể thơ
dân gian.

Khi sưu tầm, các nhà nghiên cứu thường chỉ ghi chép phần lời thơ. Cũng vậy, khi học
chúng ta cũng chỉ chú ý nhiều đến phần văn tự.

2. Đặc điểm của ca dao

Về nội dung, ca dao phản ánh tâm tư, tình cảm, thế giới tâm hồn của người lao động. Nó
thường được biểu hiện thành: những câu hát than thân, những câu hát yêu thương tình
nghĩa, những tiếng cười trào lộng, châm biếm...

Về nghệ thuật, ca dao là sáng tác tập thể, vì vậy nó kết tinh nghệ thuật ngôn từ của nhân
dân. Nó có những đặc trưng riêng về thể thơ, kết cấu... (ví dụ lối so sánh ví von, sự lặp đi
lặp lại các hình ảnh giàu tính nghệ thuật, lối diễn đạt theo kiểu công thức...).

II. Đọc hiểu

1. Chùm ca dao trữ tình

gồm hai nội dung lớn được chia ra cụ thể thành các nhóm bài sau:

- Nội dung than thân: bài 1, 2, 3 đều nói về thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa.

- Nội dung yêu thương tình nghĩa:

+ Bài 4,5: Thể hiện nỗi nhớ và niềm ước ao mãnh liệt trong tình yêu đôi lứa.

+ Bài 6: Là câu hát về tình nghĩa thủy chung của con người (nhất là trong tình yêu và
tình chồng vợ).

2. Về các bài 1, 2

a) Hai lời than thân này đều có hình thức mở đầu là cụm từ “thân em như….” kèm theo
một âm điệu ngậm ngùi, xa xót. Có thể xác định đây là lời than của những cô gái đang
đến độ xuân thì. Tuy có phẩm chất đẹp thế nhưng vẻ đẹp ấy lại không được nâng niu và

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
trân trọng. Họ không thể tự quyết định được tương lai và hạnh phúc của mình. Họ khát
khao và chờ mong nhưng vẫn phải gửi cuộc sống của mình cho số phận.

b) Cả hai bài ca dao tuy đều nói đến thân phận nổi nênh, thiệt thòi của người phụ nữ
trong xã hội xưa. Thế nhưng mỗi bài lại có một sắc thái tình cảm riêng:

Bài 1: Người phụ nữ ý thức được tuổi xuân và vẻ đẹp của mình (như tấm lụa đào).
Nhưng thân phận lại thật xót xa khi không thể tự quyết định được tương lai của chính
mình (phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?).

Bài 2: Đây là lời khẳng định phẩm chất và vẻ đẹp đích thực của con người (ruột trong thì
trắng vỏ ngoài thì đen). Bài ca còn là lời mời mọc da diết của cô gái. Lời mời mọc ấy là
khát khao của con người mong muốn được khẳng định cái chân giá trị, cái vẻ đẹp của
mình. Tư tưởng của bài ca dao vẫn là nỗi ngậm ngùi chua xót cho thân phận của người
con gái trong xã hội xưa.

3. Về bài 3

a) Trong ca dao, mô típ dùng từ “ai” để chỉ các thế lực ép gả hay cản ngăn tình yêu nam
nữ xuất hiện nhiều lần, ví như:

- Ai làm cho bướm lìa hoa

Cho chim xanh nỡ bay qua vườn hồng.

- Ai làm bầu bí đứt dây

Chàng nam thiếp bắc gió tây lạnh lùng.

Ở trong bài ca dao này từ “ai” cũng mang nghĩa như vậy. “Ai” ở đây có thể là cha mẹ, là
những hủ tục cưới cheo phong kiến hay có khi là chính người tình…

b) Mặc dầu lỡ duyên, tình nghĩa vẫn thuỷ chung bền vững. Cái tình ấy được nói lên
bằng những hình ảnh so sánh ẩn dụ (mặt trăng, mặt trời, sao Hôm, sao Mai).Điểm đặc
biệt của những hình ảnh nghệ thuật này là tính bền vững, không thay đổi trong quy luật
hoạt động của nó. Lấy cái bất biến của vũ trụ, của thiên nhiên để khẳng định cái
tình thủy chung son sắt của lòng người chính là chủ ý của tác giả dân gian.

c) Sao Vượt là tên cổ của sao Hôm. Nó thường mọc sớm vào buổi chiều, lên đến đỉnh
của bầu trời thì trăng mới mọc. Vì thế câu thơ cuối “Ta như sao Vượt chờ trăng giữa
trời” như là một lời khẳng định về tình nghĩa thuỷ chung son sắt và ý chí quyết tâm vượt
qua những rào cản của tình yêu. Câu thơ là một lời nhắn nhủ với bạn tình, đồng thời
cũng là một khát khao mong tình yêu có thể cập đến bến bờ hạnh phúc.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
4. Về bài 4

Thương nhớ vốn là một tình cảm khó hình dung, nhất là thương nhớ trong tình yêu. Vậy
mà ở bài ca dao này, nó lại được diễn tả một cách thật cụ thể, tinh tế và gợi cảm bằng các
hình tượng nghệ thuật: khăn, đèn, mắt.

Hai hình tượng khăn, đèn được xây dựng bằng thủ pháp nghệ thuật nhân hóa (khăn,
đèn chính là cô gái), còn hình ảnh mắt được xây dựng bằng phép hoán dụ (dùng bộ phận
để chỉ toàn thể - nhân vật trữ tình). Hình ảnh khăn, đèn, mắt đã trở thành biểu tượng cho
niềm thương nỗi nhớ của cô gái đang yêu.

Cái khăn được nhắc đến đầu tiên và được điệp đi điệp lại nhiều lần bởi nó thường là vật
kỉ niệm, vật trao duyên. Nó lại luôn luôn ở bên mình người con gái. Chính vì thế mà nó
có thể cất lên lời tâm sự thay cho nhân vật trữ tình. Hình ảnh chiếc khăn gắn với các
động từ như: thương nhớ, rơi xuống, vắt lên, chùi nước mắt... nói lên tâm trạng ngổn
ngang trăm mối của người con gái.

Nỗi nhớ thương của cô gái còn thể hiện qua hình ảnh ngọn đèn - đó là nỗi nhớ được trải
dài ra theo nhịp thời gian. Đèn chẳng tắt hay chính là ngọn lửa tình trong lòng cô gái
đang thắp sáng suốt đêm thâu.

Từ hình ảnh khăn, đèn đến hình ảnh ánh mắt là cả một sự đổi thay rất lớn. Đến đây,
không còn cầm lòng được nữa, cô gái đã hỏi chính lòng mình: mắt thương nhớ ai. Các
hình tượng vẫn là một mạch thống nhất về ý nghĩa. Các câu hỏi vẫn cứ được cất lên. Và
câu trả lời chính là ở trong niềm thương nỗi nhớ của người con gái đang yêu.

5. Trong ca dao tình yêu, chiếc cầu là một mô típ rất quen thuộc. Nó là biểu tượng để chỉ
nơi gặp gỡ, trao duyên của những đôi lứa đang yêu. Chiếc cầu thường mang tính ước lệ
độc đáo - là cành hồng, là ngọn mồng tơi,... và ở đây là dải yếm. Con sông đã không có
thực (rộng một gang) nên chiếc cầu kia cũng không có thực. Nó thực ra là một "cái cầu
tình yêu". Bài ca dao còn độc đáo hơn ở chỗ nó là chiếc cầu do người con gái bắc cho
người yêu mình. Nó chủ động, táo bạo, mãnh liệt nhưng cũng trữ tình và ý nhị biết bao.
Chiếc cầu ở đây được làm bằng vật thuộc về chủ thể trữ tình (khác với cành hồng, cành
trầm, ngọn mồng tơi... những vật ở bên ngoài chủ thể). Vì thế mà chiếc cầu - dải
yếm như là một thông điệp tượng trưng cho trái tim rạo rực yêu thương mà người con
gái muốn mời gọi, dâng hiến cho người yêu của mình.

Xem thêm một số câu ca dao về chiếc cầu dưới đây:

- Hai ta cách một con sông

Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
- Cách nhau có một con đầm

Muốn sang anh bẻ cành trầm cho sang

Cành trầu lá dọc lá ngang

Đố người bên ấy bước sang cành trầm

- Gần đây mà chẳng sang chơi

Để em ngắt ngọn mồng tơi bắc cầu

Sợ rằng chàng chả đi cầu

Cho tốn công thợ, cho sầu lòng em...

Gợi ý phân tích ý nghĩa sắc thái của các câu ca dao:

Hai bài ca dao trên đều là lời mời gọi của nhân vật trữ tình. Nó có hình thức giống như
những câu hát giao duyên. Hai câu ca dao tuy khác nhau ở hình ảnh "chiếc cầu" (cành
hồng, cành trầm) nhưng đều có giá trị thẩm mĩ cao.

Ở bài ca dao dưới, hình ảnh chiếc cầu vẫn rất gần gũi và giản dị (ngọn mùng tơi) nhưng
nội dung cả bài lại mang hàm ý là lời trách móc, hờn dỗi nhẹ nhàng của cô gái hướng
đến chàng trai (người ở phía bên kia).

6. Bài 6 là câu hát về tình nghĩa thủy chung của người bình dân trong ca dao. Ở đây, để
biểu đạt nội dung ý nghĩa, tác giả dân gian đã sử dụng những hình ảnh ẩn dụ quen thuộc
mang tính truyền thống của ca dao (gừng cay - muối mặn).

- Muối và gừng là hai hình ảnh nghệ thuật cũng được xây dựng từ những hình ảnh có
thực trong đời sống (những gia vị trong bữa ăn). Gừng có vị cay nồng nhưng thơm, muối
có vị mặn đậm đà. Từ hai ý nghĩa ấy, gừng và muối đã được chọn để biểu trưng cho
hương vị của tình người trong cuộc sống - tình nghĩa thủy chung gắn bó sắt son.

Bài ca dao là câu hát về tình nghĩa thủy chung nhưng nó hướng nhiều hơn đến tình nghĩa
vợ chồng - những người đã từng chung sống với nhau, từng cùng nhau trải qua những
ngày tháng gừng cay - muối mặn. Bài ca dao được viết bằng thể thơ song thất lục bát
nhưng câu bát phá cách (Có cách xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa) kéo
dài tới mười ba tiếng như là một sự luyến láy vừa tạo ra tính nhạc cho câu, vừa khẳng
định cái giá trị bền vững không phai của tình nghĩa vợ chồng.

7. Những biện pháp nghệ thuật mà ca dao thường sử dụng là:

- Sự lặp đi lặp lại của mô thức mở đầu: Thân em như...

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
- Những hình ảnh (mô típ) đã trở thành biểu tượng: cái cầu, khăn, đèn, gừng cay - muối
mặn...

- Những hình ảnh so sánh, ẩn dụ: lụa đào, ủ ấu gai…

- Các mô típ thời gian li biệt, không gian xa xôi cách trở.

- Thể thơ: lục bát - lục bát biến thể, vãn bối (4 chữ), song thất lục bát (có cả biến thể).

Những biện pháp nghệ thuật này có nét riêng so với nghệ thuật thơ của văn học viết: nó
mang nhiều dấu ấn của cộng đồng. Những dấu hiệu nghệ thuật này đều quen thuộc, dễ
nhận ra. Trong khi đó nghệ thuật thơ của văn học viết thường mang dấu ấn riêng của
người nghệ sĩ - dấu ấn đặc trưng của từng tác giả.

8. Có thể kể ra các bài ca dao mở đầu bằng "thân em như...":

- Thân em như hạt mưa sa

Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày

- Thân em như hạt mưa rào

Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa

- Thân em như trái bần trôi

Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu

- Thân em như miếng cau khô

Kẻ thanh tham mỏng, người thô tham dày

- Thân em như giếng giữa đàng

Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân.

Gợi ý phân tích sắc thái ý nghĩa của các bài ca dao:

- Hai bài đầu sử dụng cùng một hình ảnh so sánh: thân em - hạt mưa, để nói lên nỗi khổ
của cô gái khi số phận của mình (buồn - vui, sướng - khổ) chỉ có thể trông nhờ vào sự
may mắn mà thôi.

- Bài thứ ba nói lên thân phận nhỏ bé tội nghiệp của người phụ nữ trước những phong
ba, bão táp của cuộc đời.

- Hai câu cuối là lời than của người phụ nữ khi giá trị và vẻ đẹp của họ không được
người đời quan tâm và trân trọng.
CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
9. Một số bài ca dao về nỗi nhớ người yêu và về cái khăn:

- Nhớ ai như nhớ thuốc lào

Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên

- Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ

Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai?

- Đêm qua ra đứng bờ ao

Trông cá cá lặn trông sao sao mờ

Buồn trông con nhện giăng tơ

Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai

Buồn trông chênh chếch sao mai

Sao ơi sao hỡi nhớ ai sao mờ.

- Gửi khăn, gửi áo, gửi lời

Gửi đôi chàng mạng cho người đàng xa

- Nhớ khi khăn mở trầu trao

Miệng chỉ cười nụ biết bao nhiêu tình.

Bài ca dao khăn thương nhớ ai tuy vẫn nằm trong hệ thống các bài ca dao thương nhớ
trên đây nhưng nó vẫn có điểm riêng: Nỗi nhớ trong bài ca dao này vừa cụ thể, sinh động
hơn lại vừa tổng hợp khái quát nhiều cung bậc hơn. Chính vì vậy nó cuốn hút và hấp dẫn
hơn. Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm "Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi
nhớ thầm" vừa lấy ý tứ từ sự thương nhớ của ca dao vừa lại khái quát lên một cấp độ cao
hơn - câu thơ chính là một nét đẹp giản dị mà tinh tế sâu sắc của tâm hồn người Việt.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
TỎ LÕNG

(Phạm Ngũ Lão

I. Khái quát chung

1. Hoàn cảnh

Hào khí Đông A là hào khí đời Trần (chữ Đông và chữ A trong tiếng Hán ghép lại thành
chữ Trần). Cụm thuật ngữ này từ lâu đã được dùng để chỉ cái không khí oai hùng, hào
sảng của thời Trần (thời kì mà chúng ta có những chiến công lừng lẫy khi cả ba lần đều
đánh tan sự xâm lược của giặc Nguyên- Mông).

Hào khí Đông A là chỉ cái khí thế hừng hực của niềm vui chiến thắng, chỉ cái khát khao
mang tính thời đại mà ở đó ai ai cũng muốn góp sức dựng xây hay dang tay bảo vệ cho
sự vững bền mãi mãi của non sông đất nước mình.

Hào khí Đông A từ xã hội đi vào thơ văn trở thành sự kết tinh cho những biểu hiện cao
đẹp của lòng yêu nước. Có không ít tác phẩm nổi tiếng mang hơi thở của Hào khí Đông
A: Thuật hoài (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lao,Tụng giá hoàn kinh sư (Phò giá về kinh) của
Trần Quang Khải, Hịch tướng sĩ văn của Trần Quốc Tuấn,…

2. Bài thơ

Tỏ lòng là một bài thơ ngắn nhưng lại mang đậm dấu ấn của cả một thời (dấu ấn về âm
hưởng của hào khí Đông A).

Bài thơ là một bức tranh kì vĩ, hoành tráng bởi vẻ đẹp của hình tượng người anh hùng vệ
quốc hiên ngang, lẫm liệt với lí tưởng và nhân cách lớn lao. Bài thơ cũng là vẻ đẹp của
thời đại với khí thế hào hùng mang tinh thần quyết chiến và quyết thắng.

II. Đọc hiểu

1. So sánh câu thơ đầu trong nguyên tác chữ Hán với câu thơ dịch, ta thấy hai từ "múa
giáo" chưa thể hiện được hết ý nghĩa của hai từ "hoành sóc"

"Hoành sóc" là cầm ngang ngọn giáo mà trấn giữ non sông. Từ ý nghĩa lẫn âm hưởng, từ
"hoành sóc" đều tạo ra cảm giác kì vĩ và lớn lao hơn.

Trong câu thơ đầu này, con người xuất hiện trong bối cảnh không gian và thời gian đều
rộng lớn. Không gian mở theo chiều rộng của núi sông và mở lên theo chiều cao của sao
Ngưu thăm thẳm. Thời gian không phải đo bằng ngày bằng tháng mà đo bằng năm,
không phải mới một năm mà đã mấy năm rồi (cáp kỉ thu). Con người cầm cây trường
giáo (cũng đo bằng chiều ngang của non sông), lại được đặt trong một không gian, thời

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
gian như thế thì thật là kì vĩ. Con người hiên ngang ấy mang tầm vóc của con người vũ
trụ, non sông.

2. Câu thơ “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” có hai cách hiểu:

Thứ nhất, ta có thể hiểu là “ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”. Nhưng cũng có thể giải
thích theo cách khác, với cách hiểu là: Ba quân hùng mạnh khí thế át sao Ngưu. Có thể
nói quân đội nhà Trần mạnh cả về trí và lực, không những nó có được đầy đủ binh hùng
tướng mạnh mà còn có những vị đại tướng quân trí dũng song toàn (như: Trần Quốc
Tuấn, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật…). Vì thế thật không quá khoa
trương khi nói: cái khí thế ấy đúng là đủ sức làm đổi thay trời đất.

3. Tỏ lòng là bài thơ nói chí

Đó là cái chí của những bậc nam nhi trong thiên hạ. Chính vì thế, món "nợ công danh"
mà nhà thơ nói đến ở đây vừa là khát vọng lập công, lập danh (mong để lại tiếng thơm,
sự nghiệp cho đời) vừa có ý "chưa hoàn thành nghĩa vụ đối với dân, với nước". Theo
quan niệm lí tưởng của trang nam nhi thời phong kiến thì công danh được coi là một
món nợ đời phải trả. Trả xong nợ công danh mới hoàn thành nghĩa vụ với đời, với dân,
với nước. Ở phần cuối của bài thơ, tác giả vẫn "thẹn" vì mình chưa được như Vũ Hầu
Gia Cát Lượng, nghĩa là vẫn muốn lập công lập danh để giúp nước giúp đời.

4. Trong câu thơ cuối, nỗi "thẹn" đã thể hiện vẻ đẹp nhân cách của người anh hùng

Phạm Ngũ Lão "thẹn" vì chưa có được tài năng mưu lược như Vũ Hầu Gia Cát Lượng
(Khổng Minh - đời Hán) để giúp dân cứu nước, thẹn vì trí và lực của mình thì có hạn mà
nhiệm vụ khôi phục giang sơn, đất nước còn quá bộn bề. Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão
cũng là những day dứt của Nguyễn Trãi hay của Nguyễn Khuyến sau này. Đó là những
nỗi thẹn có giá trị nhân cách - nỗi thẹn của những con người có trách nhiệm với đất n-
ước, non sông.

5. Người xưa nói "Quốc gia lâm nguy, thất phu hữu trách"

Câu nói ấy quả rất đúng với tinh thần của bài thơ "Tỏ lòng". Đọc những dòng thơ hào
hùng khí thế, ta có thể cảm nhận rât rõ vẻ đẹp sức vóc và ý chí của những trang nam nhi
thời đại nhà Trần. Âm hưởng anh hùng ca của thời đại do những con người ấy tạo nên và
cũng chính âm hưởng ấy tôn lên vẻ đẹp anh hùng của họ. Họ đã từ bỏ lối sống tầm th-
ường, ích kỉ, để sẵn sàng chiến đấu và hy sinh cho sự nghiệp cứu nước, cứu dân. Tinh
thần và ý chí ngoan cường của những con người ấy sẽ vẫn mãi là lí tưởng cho nghị lực
và sự phấn đấu của tuổi trẻ hôm nay và mai sau.

6. Cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ thơ đanh thép hùng hồn. Trong đạo quân mạnh như hổ
báo, chí khí lẫm liệt làm át, làm mờ cả sao Ngưu trên bầu trời, thì người chiến sĩ thời

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
Trần đã cầm ngang ngọn giáo để bảo vệ giang sơn. Ngọn giáo ấy mang tầm vóc kì vĩ đo
bằng kích thước non sông. Hình tượng người anh hùng "Sát Thát" được thể hiện bằng
ngôn ngữ tráng lệ, kì vĩ khác nào người anh hùng thần thoại, người dũng sĩ trong sử thi
xa xưa?

Người anh hùng thuở "Bình Nguyên" nung nấu trong lòng, cháy bỏng tâm hồn niềm
khao khát: đánh giặc lập công để đền ơn vua báo nợ nước. Mang nặng nợ công danh
cũng là khát vọng anh hùng cao đẹp. Tự tin và tự hào khi nhà thơ khẳng định.

"Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu"

Bài thơ là khúc tráng ca của người anh hùng Phạm Ngũ Lão trăm trận trăm thắng.
Cùng với "Hịch tướng sĩ " (Trần Quốc Tuấn), "Tụng giá hoàn kinh sư" (Trần Quang
Khải)... bài thơ "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão sáng ngời Hào khí Đông - Á.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
CẢNH NGÀY HÈ

I. Khái quát chung

1. Tác giả Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi (1380 – 1442) hiệu là Ức Trai, quê gốc tại làng Ngái (Chi Ngại), huyện
Phượng Sơn, lộ Lạng Giang (nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Ông mất ngày
19 - 9 - 1442, tức 16 tháng Tám năm Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba, trong vụ án
Lệ Chi Viên (tức vụ án Trại Vải, huyện Gia Lương, nay thuộc Bắc Ninh), vụ án tru di
tam tộc oan khốc nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Ông là nhà văn hoá, nhà thơ lớn của
dân tộc, người mở đầu cho sáng tác thơ Nôm ở Việt Nam. Cảnh ngày hè là một trong
những bài thơ đặc sắc trong tập Quốc âm thi tập, một tập thơ Nôm được xem là cổ nhất.

2. Về Quốc âm thi tập

- Là tập thơ Nôm sớm nhất còn lại đến hôm nay. Nó là một “bông hoa nghệ thuật đầu
mùa” của thơ ca Tiếng Việt.

- Về nội dung, Quốc âm thi tập phản ánh vẻ đẹp con người Nguyễn Trãi (lí tưởng
nhân nghĩa; lòng yêu nước, thương dân; tình yêu thiên nhiên, quê hương, con người,
cuộc sống,…).

- Về nghệ thuật, tác giả Quốc âm thi tập vận dụng một cách thành thục thể thơ thất
ngôn đường luật của Trung Quốc. Tuy nhiên, có chỗ Nguyễn Trãi lại chen vào một số
câu thơ lục ngôn thích hợp (một sự phá cách trong sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ).

Bài thơ Cảnh ngày hè thể hiện vẻ đẹp độc đáo của bức tranh ngày hè và vẻ đẹp tâm hồn
yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân, đất nước của Nguyễn Trãi. Bài thơ mang vẻ đẹp
bình dị, tự nhiên, có sự đan xen câu lục ngôn (sáu chữ) và bài thơ thất ngôn (bảy chữ).

II. Đọc hiểu

1. Mạch cảm xúc của bài thơ

Từ thư thái, thanh thản pha sắc thái bất đắc dĩ, có phần chán ngán đến hứng khởi, phấn
chấn đó là mạch cảm xúc của Cảnh ngày hè.

2. Bức tranh mùa hè

Cảnh ngày hè hiện ra thật đẹp, đầy sức sống với những chi tiết cụ thể, sinh động: tán hoè
xanh thẫm che rợp, thạch hựu bên hiên nhà còn phun màu đỏ, sen hồng trong ao ngát

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
mùi hương, tiếng lao xao vọng lại từ làng chài, tiếng ve như tiếng đàn vang dội lên. Bức
tranh cho thấy sức sống sinh sôi, rạo rực khắp nơi nơi.

3. Nghệ thuật sử dụng từ ngữ

Miêu tả cảnh ngày hè, tác giả đã sử dụng các động từ, tính từ, từ láy giàu sức gợi hình
tượng và cảm giác. Ở câu 2, 3, 4, 5, 6 là các từ: đùn đùn, giương, phun, đỏ, tiễn, lao xao,
dắng dỏi. Từ đùn đùn gợi tả sắc xanh thẫm của tán hoè lớp lớp, liên tiếp tuôn ra, giương
rộng ra; từ phun gợi sự nổi bật, bắt mắt của màu đỏ hoa lựu; tiễn (ngát, nức) gợi tả sức
lan toả của hương sen; từ lao xao, dắng dỏi đảo lên trước chợ cá, cầm ve làm nổi bật âm
sắc rộn ràng, râm ran rất riêng của mùa hè. Dưới cái nhìn của tác giả, những sự vật
vốn tĩnh trở nên động.

Chuyển tĩnh thành động, sự cảm nhận cảnh ngày hè của nhà thơ bộc lộ rõ tình yêu sự
sống sinh sôi, cái động của thiên nhiên, cảnh vật phản ánh cái động trong lòng người.

4. Nhịp điệu và tiết tấu giàu sức gợi tả

Bức tranh ngày hè sinh động không những được gợi tả bằng hình ảnh màu sắc, âm thanh,
sự chuyển động tinh tế của sự vật mà còn thể hiện ở nhịp điệu, tiết tấu. Với đặc điểm về
số câu (8 câu), cách gieo vần (cuối các câu 1, 2, 4, 6, 8), lối đối ngẫu ở hai liên giữa (cặp
câu 3 – 4, 5 – 6) thì vẫn thấy đây là bài thơ thất ngôn bát cú. Nhưng bài thơ có một số
điểm khác so với thất ngôn bát cú Đường luật:

- Câu 1 và câu 8 chỉ có sáu chữ nên chúng thành những câu độc lập, không gắn với
câu 2 và câu 7 thành liên như thể thơ Đường luật.

- Đa dạng hơn về nhịp điệu:

5. Tâm sự của nhà thơ

Sắc thái của cảnh vật trong bức tranh về sự sống mùa hè đã cho thấy tâm trạng phấn
chấn trước vẻ đẹp của cuộc sống đã “phá vỡ” cái tĩnh tại của cuộc sống nhàn dật thuần
tuý, qua đó bộc lộ niềm quyến luyến, thiết tha lớn với cuộc đời. Nỗi lòng của nhà thơ đối
với đời, với cuộc sống nhân dân hiện ra rõ nét ở hai câu cuối bài. Ông nói đến cây đàn
của Ngu Thuấn với mong ước thanh bình, no đủ cho muôn dân. Niềm tha thiết, gắn bó
với đời được cụ thể bằng niềm mong mỏi giàu đủ cho nhân dân. Ngay cả trong không
gian nhàn dật, ý thức nhập thế, giúp đời luôn thường trực trong tâm hồn Nguyễn Trãi.

6. Cảnh và tình trong bài thơ được kết hợp hài hoà.

Tả cảnh ngày hè, bài thơ là một bức tranh tràn đầy sức sống. Sức sống của sự vật trong
trong bức tranh tả cảnh mùa hè cũng thể hiện cảm xúc, niềm yêu đời trong tâm hồn nhà
thơ. Cảnh gợi cảm xúc, cảm xúc chi phối cái nhìn và tái hiện cảnh vật.
CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
NHÀN

(Nguyễn Bỉnh Khiêm)

I. Khái quát chung

1. Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, Hải
Dương (nay thuộc Vĩnh Bảo, Hải Phòng), từng thi đỗ trạng nguyên. Làm quan được tám
năm, ông dâng sớ xin chém mười tám kẻ lộng thần nhưng không được chấp nhận. Sau đó
ông xin về trí sĩ ở quê nhà, tự đặt tên hiệu là Bạch Vân cư sĩ, dựng am Bạch Vân, lập
quán Trung Tân, mở trường dạy học. Tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm gồm có tập thơ
chữ Hán Bạch Vân am thi tập, tập thơ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi, tập sấm kí Trình
Quốc công sấm kí,…

2. Bao trùm trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm từ khi về trí sĩ ở quê nhà là cảm hứng thanh
nhàn, tự tại, gắn bó với tự nhiên, không tơ tưởng bon chen phú quý. Cảm hứng ấy được
thể hiện bằng ngôn từ giản dị, tự nhiên mà cô đọng, giàu ý vị. Bài thơ Nhàn trích ở tập
thơ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi tập là một trường hợp tiêu biểu.

3. Với lời thơ tự nhiên, giản dị mà giàu ý vị, bài thơ Nhàn thể hiện được một cách sâu
sắc cái thú và ý nghĩa triết lí trong lối sống nhàn dật mà tác giả đã lựa chọn. Đó là quan
niệm sống nhàn là hoà hợp với tự nhiên, giữ cốt cách thanh cao, vượt lên trên danh lợi.

II. Đọc hiểu

1. Nổi bật trong bài thơ là hình ảnh người trí sĩ ẩn cư nhàn dật

Nhân vật trữ tình này xuất hiện trong lời thơ với những chi tiết về cách sống, cách sinh
hoạt và quan niệm sống: tự cuốc đất trồng cây, đào củ, câu cá; chọn nơi vắng vẻ, không
thích nơi ồn ã; ăn uống, tắm táp thoải mái, tự nhiên; coi phú quý tựa giấc mộng.

2. Âm hưởng hai câu thơ đầu đã gợi ra ngay cái vẻ thung dung

Nhịp thơ 2/2/3 cộng với việc dùng các số từ tính đếm (một…, một…, một…) trước các
danh từ mai, cuốc, cần câu cho thấy cái chủ động, sẵn sàng của cụ Trạng đối với cuộc
sống điền dã, và còn như là chút ngông ngạo trước thói đời.

3. Có thể thấy vẻ đẹp giản dị, tự nhiên của bài thơ ở việc lựa chọn từ ngữ, giọng điệu

Các từ ngữ nôm na, dân dã được sử dụng kết hợp với cách cấu tạo câu thơ như lời khẩu
ngữ tự nhiên đã tạo ra nét nghệ thuật độc đáo cho bài thơ. Đúng như nhận xét của Phan
Huy Chú: “Văn chương ông tự nhiên nói ra là thành, không cần gọt giũa, giản dị mà linh
hoạt, không màu mè mà có ý vị, đều có quan hệ đến việc dạy đời”.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
4. Sự đối lập giữa “Ta dại” và “Người khôn” trong câu 3 - 4 mang nhiều hàm ý: vừa để
khẳng định sự lựa chọn phương châm sống, cách ứng xử của tác giả, vừa thể hiện sắc
thái trào lộng, thái độ mỉa mai đối với cách sống ham hố danh vọng, phú quý. Theo đó,
cái dại của “ta” là cái “ngu dại” của bậc đại trí, với trí tuệ lớn, thấu triệt lẽ thịnh suy,
vong tồn của cuộc đời, sống thanh thản, nhàn dật, thuận lẽ tự nhiên. Cho nên, nơi “ta”
chọn là “nơi vắng vẻ”, nghĩa là nơi có thể tĩnh tại, sống an nhàn, không có tranh giành
“tư lợi” theo sở thích của “ta”. Còn “người khôn” mà chọn “Đến chốn lao xao”, nghĩa là
nơi ồn ã, ở đó con người chen chúc, xô đẩy nhau để giành giật lợi danh, thì lại hoá ra
“dại” vậy. “khôn” - “dại”, “nơi vắng vẻ” - “chốn lao xao” là những quan niệm sống, cách
lựa chọn rất khác nhau.

5. Ở hai câu 5, 6, tác giả nói đến chuyện “ăn” và “tắm” một cách đầy thích thú

Theo vòng quay bốn mùa quanh năm, việc “ăn”, “tắm” của “ta” thuận theo tự nhiên, hoà
hợp với tự nhiên; đạm bạc, thanh bần nhưng thú vị, thanh thản.

6. Triết lí nhân sinh

Hai câu thơ cuối bài thể hiện tập trung, sâu sắc quan niệm triết lí nhân sinh của tác giả.
Hai câu này lấy tích trong truyện đời Đường. Chuyện kể về Thuần Vu Phần là một viên
tướng tài, tính tình phóng khoáng, do xúc phạm thống soái, bị quở mắng nên từ chức về
nhà, lấy uống rượu làm vui. Một hôm, Vu Phần say rượu ngủ bên gốc cây hoè, mơ thấy
mình được làm phò mã cho vua nước Hoè, được hưởng giàu sang phú quý, tỉnh dậy mới
biết đó chỉ là giấc mơ. Tác giả mượn điển tích này để bộc lộ thái độ xem thường phú
quý, coi chốn quyền danh phú quý chỉ là giấc chiêm bao, không có thực, qua đó khẳng
định thêm một lần nữa sự lựa chọn phương châm sống, cách ứng xử của riêng mình.

Lánh đời ẩn dật, cách ứng xử đó của tác giả có vẻ tiêu cực. Nhưng trong hoàn cảnh nào
đó, khi muốn giữ gìn nhân cách, sự thanh thản, tĩnh tại cho mình, đó lại là cách ứng xử
tích cực.

7. Có thể tham khảo nhận định dưới đây để mở rộng tìm hiểu vẻ đẹp thanh cao của triết
lí nhàn dật trong lí tưởng sống của người xưa:

“Ông nhàn là người sống với tư cách là một cá nhân, chứ không phải với tư cách thành
viên của một cộng đồng nào đó, là một con người có lạc thú, chứ không phải chỉ có chức
năng, nghĩa vụ. Sống dưới chế độ chuyên chế theo Nho giáo, con người bị trói buộc bởi
hai sợi dây: nghĩa và phận. Phận vạch ranh giới cho từng người, quy định mức cho mỗi
người được ngồi, đứng, nói năng, xưng hô, ăn, ở. Nghĩa nhắc nhở mọi người có trách
nhiệm đối với người trên kẻ dưới,… Trong xã hội tổ chức như vậy, con người không
được coi mình là cá nhân - độc lập, có cái riêng của mình, không được nghĩ đến lạc thú.
Do đó tìm nhàn dật là tìm cái vui cho thân tâm, tránh cái lụy hình dịch, là tìm thoát khỏi

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
sự ràng buộc chặt chẽ mà vô hình của thể chế chuyên chế theo Nho giáo,… Ông nhàn tự
coi mình là cá nhân không bị ràng buộc. Nhưng một mặt không thể coi cá nhân là cô
độc, coi cái “tôi” là trung tâm. Cho nên cố tránh ràng buộc bằng cách từ bỏ danh lợi,
không đi con đường công danh, giành phận vị, coi thường giàu nghèo, sang hèn, đứng
ngoài sự ràng buộc của phận. Để có chút thoải mái đó, ông nhàn phải chủ động tự hạn
chế: không cậy tài, yên phận, không tranh giành và không động lòng về lời khen, tiếng
chê.”

(Trần Đình Hượu, trong Nguyễn Bỉnh Khiêm danh nhân văn hoá,

Bộ Văn hoá thông tin và thể thao xuất bản, H, 1991)

8. Vẻ đẹp cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ "Nhàn"

"Nhàn" là một chủ đề lớn trong thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhàn theo quan niệm của
nhà thơ là sống thuận lợi theo lẽ tự nhiên, không màng danh lợi. Bài thơ này là lời tâm
sự về cuộc sống và sở thích cá nhân. Nó cũng đồng thời thể hiện một quan niệm nhân
sinh độc đáo của nhà thơ.

Bài thơ mở đầu bằng những ngôn từ thật vô cùng giản dị:

Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

Đó là cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm, của cụ Trạng. Nó thuần hậu và thanh khiết
biết bao. Câu thơ đưa ta trở về với cuộc sống chất phác nguyên sơ của cái thời "nước
giếng đào, cơm cày ruộng". Cuộc sống tự cung tự cấp mà vẫn ung dung ngông ngạo tr-
ước thói đời. Hai câu đầu còn là cái tâm thế nhàn tản, thong dong. Nhịp cầu thơ nghe nh-
ư nhân vật trữ tình đang nhẹ nhàng đếm bước: một... một... một...

Đến hai câu luận nhà thơ lại tiếp tục nhấn thêm một chút tình điệu thôn quê nữa để người
đọc cảm nhận thực sự được cái vui của "cuộc sống nhàn":

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Vẫn là những ngôn từ giản dị, vẫn là những hình ảnh nghệ thuật dân dã, đời thường, vậy
mà hai câu thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm "sang trọng" biết bao. Nó chăng những không
gợi ra vẻ gì khắc khổ mà còn toát lên toàn bộ vẻ thanh cao. Thanh cao trong cách ăn
uống sinh hoạt và cả trong cái niềm thích thú khi được hòa mình vào cuộc sống thiên
nhiên.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm là thế, rất giản dị, rất tự nhiên mà vẫn thanh cao và
thú vị vô cùng. Nếu chỉ đọc bốn câu thơ miêu tả về cuộc sống, chúng ta có thể nghĩ ngay
đến hình ảnh một bậc danh nho đang muốn lánh đời. Thế nhưng trở về với hai câu thực,
chúng ta sẽ hiểu hơn cái quan niệm "lánh đời" của nhà thơ:

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn, người đến chốn lao xao.

Vậy ra, Tuyết Giang phu tử về với thiên nhiên là để thoát ra khỏi vòng danh lợi, thoát ra
khỏi chốn nhiễu nhương đầy những ganh tị, bon chen. Hai câu thơ diễn ý bằng nói ngư-
ợc. Vì thế nó tạo cho người đọc một liên tưởng thật hóm hỉnh, sâu cay. Câu thơ đúng là
trí tuệ sắc sảo của một bậc đại quan - trí tuệ để nhận ra cái khôn và cái dại thật sự ở
đời. Hai câu thơ kết khép lại bằng một phong thái ung dung tự tại:

Rượu đến cội cây, ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

Hai câu thơ chẳng biết đang vẽ cảnh đời hay tiên cảnh. Ở đó nhân vật trữ tình cũng
không biết đang tình hay mơ. Tất cả cứ hòa cùng làm một dưới cái nhãn quan tỏ tường
và thông tuệ của nhà thơ.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
ĐỘC TIỂU THANH KÍ

(Nguyễn Du)

I. Khái quát chung

1. Độc “Tiểu Thanh kí” nằm ở cuối Thanh Hiên thi tập, tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du.
Bài thơ có liên hệ với Tiểu Thanh kí trong Tiểu Thanh truyện với nhân vật Tiểu Thanh,
một người tài hoa bạc mệnh.

2. Với nghệ thuật sáng tạo ngôn từ, hình ảnh hàm súc cao độ, bài thơ thể hiện nổi bật tâm
trạng xót thương, day dứt của Nguyễn Du đối với nỗi oan của những người tài hoa bạc
mệnh.

II. Đọc hiểu

1. Tiểu Thanh có sắc, lại có tài (thơ phú văn chương) thế nhưng cuộc đời của nàng lại
gặp quá nhiều bi kịch (phải làm lẽ, bị dập vùi, trước tác bị đốt dở dang). Số phận hẩm
hiu, đau khổ của nàng chính là lí do khiến Nguyễn Du cảm thương chia sẻ. Đồng thời
cũng từ bi kịch của Tiểu Thanh, nhà thơ suy nghĩ về định mệnh nghiệt ngã của những
người có tài văn chương, nghệ thuật.

2. Trong câu thơ dịch, chữ "nỗi hờn" (nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi) cha diễn đạt được
hết ý nghĩa của hai từ "hận sự". Vậy mối hận "cổ kim" ở đây nghĩa là gì? Đó là mối hận
của người xa (như Tiểu Thanh) và người thời nay (những người phụ nữ "hồng nhan bạc
mệnh" đang sống cùng thời với Nguyễn Du, thậm chí cả những con người có tài năng
thơ phú như nhà thơ Nguyễn Du nữa). Họ đều là những người đã gặp bao điều không
may trong cuộc sống. Từ đó, nhà thơ của chúng ta cho rằng: Có một thông lệ vô cùng
nghiệt ngã đó là ông trời luôn bất công với những con người tài sắc. Sự bất công ấy đâu
chỉ đến với riêng người phụ nữ tài hoa bạc mệnh Tiểu Thanh mà còn là nỗi hận của bao
người (những Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du...). Nỗi hận ấy từ hàng
trăm năm nay đâu có gì thay đổi. Bởi vậy nó như một câu hỏi lớn không lời đáp cứ treo
lơ lửng giữa không trung đến "ông trời" cũng "không hỏi được".

3. Giá trị nhân bản đặc sắc của bài thơ là ở chỗ Nguyễn Du đã đặt ra vấn đề về quyền
sống của người nghệ sĩ. Từ sự thương xót và đồng cảm với Tiểu Thanh, nhà thơ muốn
gửi gắm sự trân trọng của mình đến những người nghệ sĩ nói chung - những chủ nhân
của những giá trị tinh thần. Bày tỏ sự cảm thông chia sẻ với họ là một dấu hiệu tiến bộ
trong chủ nghĩa nhân bản của Nguyễn Du. Tình thương yêu và sự quan tâm của nhà thơ
lúc ấy đã vượt qua những giới hạn về không gian và thời gian. Nó không chỉ là sự quan
tâm chia sẻ với những con người bất hạnh (những cảnh đói cơm, rách áo) mà hơn thế
nữa còn là sự thương yêu và trân trọng con người nói chung.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
4. Có thể chia bài thơ thành bốn phần, mỗi phần lại có vai trò riêng trong việc thể hiện
chủ đề của bài thơ.

- Đề

Cảnh vật tang thương. Vườn hoa ở Tây Hồ đã thành gò hoang hết cả. Thương một đời
dâu bể, nhà thơ thương người đàn bà bạc mệnh. Nhà thơ đọc "mảnh giấy tàn" (nhất chỉ
thư) đứng lặng trước cửa sổ điếu nàng Tiểu Thanh.

"Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang

Thổn thức bến song mảnh giấy tàn"

- Thực

Nhan sắc (son phấn) và tài năng (văn chương) đều bị vùi dập. Son phấn có thần, sau
khi chết người ta còn xót thương tiếc nuối. Văn chương còn có số mệnh gì mà người ta
còn bận lòng về những bài thơ sót lại sau khi bị đốt? Nhà thơ thương xót cho nhan sắc và
tài năng của Tiểu Thanh bị hãm hại, chôn vùi:

"Chi phấn hữu thần liên tử hậu,

Văn chương vô mệnh lụy phần dư".

Hai câu thơ đối nhau làm nổi bật nhan sắc và tài năng bị vùi dập, thể hiện tình thương
của nhà thơ. Đúng là "Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình" (Tố Hữu).

- Luận

Nhà thơ suy ngẫm về "hận sự" và "kì oan" trong xã hội. Mối hận xưa nay hỏi trời mà
vẫn khó. Cái oan lạ vì nết phong nhã, tự mình ta lại buộc lấy mình. Ta như kẻ cùng hội
cùng thuyền với kẻ mắc nỗi oan lạ vì nết phong nhã ấy. Nỗi đau thương và bế tắc dày vò
nhà thơ và đó cũng là nỗi đau và bế tắc của đời người:

"Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,

Cái án phong lưu khách tự mang"

Phải hỏi trời vì hỏi người mãi mà chẳng được. Hỏi trời lại càng rất khó, thế thì "hận
sự" không thể nào kể xiết. Bế tắc là vô hạn! Phong lưu, phong nhã là vẻ đẹp, là cốt cách
sang trọng sao lại là kì oan? Nguyễn Du đã từng trải qua "10 năm gió bụi" trong cảnh tha
phương, ốm đau không có thuốc, trôi giạt lênh đênh, tóc sớm bạc có lúc ông tự nhận
mình thời trai trẻ cũng là kẻ có tài (tráng niên ngã diệc vi tài giả). Vì thế ông mới tự xếp
mình vào "cùng hội cùng thuyền", là khách phong lưu như Tiểu Thanh nên mới mang cái
oan lạ như nàng. Thật là chua chát!
CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
- Kết

Hai câu kết ẩn chứa bao tâm sự. Tố Như hỏi hậu thế:

"Bất tri tam bách dư niên hậu,

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?"

Sau 300 năm nàng Tiểu Thanh chết, đến điếu và khóc nàng. Liệu sau khi ta mất
hơn300 năm, người đời ai khóc tố Như? Đó là lời tự thương đầy lệ. Nhà thơ tự thấy mình
cô đơn bơ vơ, sầu tủi...

"Độc Tiểu Thanh kí" bài thơ mang cảm hứng nhân đạo sâu sắc. Nguyễn Du đã khóc
một Đạm Tiên, một Thuý Kiều.... Ông đã dành cho nàng Tiểu Thanh bao niềm thương
xót. Đến Tây Hồ trên đường đi sứ, cái tâm của ông lại hướng về nỗi đau khổ oan trái của
một giai nhân bị dập vùi với bao "những điều trông thấy mà đau đớn lòng". Hai câu kết
bài thơ phản ánh "nỗi đoạn trường" của nhà thơ để dân tộc ta "Nghìn năm sau nhớ
Nguyễn Du”... như Tố Hữu đã nói.

5. Đoạn thơ. Rằng:

Hồng nhan tự thủa xưa,

Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu.

Nỗi niềm tưởng đến mà đau,

Thấy người nằm đó biết sau thế nào?

(Nguyễn Du, Truyện Kiều)

Là lời của Thúy Kiều nói về nhân vật Đạm Tiên. Khi thấy chị sụt sùi trước mộ của Đạm
Tiên, Thúy Vân đã nói:

Vân rằng: "Chị cũng nực cười"

Khéo dư nước mắt khóc người đời xa.

Nghe xong câu này, Thúy Kiều đã nói những câu trên để đáp lời Thúy Vân. Tuy nhiên
trong Truyện Kiều có rất nhiều đoạn đối thoại bắt đầu bằng từ "rằng" như ở đoạn thơ
này. Trong trường hợp ấy, người ta cũng có thể hiểu đó là lời của tác giả (Nguyễn Du).
Căn cứ vào nội dung của đoạn thơ, có thể thấy đề tài mà Nguyễn Du quan tâm trong các
sáng tác của ông là hình ảnh những con người tài hoa mà bạc mệnh.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
PHÖ SÔNG BẠCH ĐẰNG

Trƣơng Hán Siêu

I. Khái quát chung

1. Trương Hán Siêu (? – 1354), tự là Thăng Phủ, quê ở thôn Phúc Am, xã Ninh Thành,
nay thuộc thị xã Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Các vua Trần rất kính trọng Trương Hán
Siêu, thường gọi ông là “thầy”. Là người tài đức vẹn toàn nên khi qua đời, ông được thờ
ở Văn Miếu. Tác phẩm của Trương Hán Siêu có: Bạch Đằng giang phú, Dục Thuý sơn
Linh Tế tháp kí (Bài kí ở tháp Linh Tế trên núi Dục Thuý), Khai Nghiêm tự bi kí (Bài kí
trên bia chùa Khai Nghiêm) và Cúc hoa bách vịnh,… Thơ văn Trương Hán Siêu thể hiện
tình cảm yêu nước, ý thức dân tộc, tinh thần trách nhiệm đối với xã tắc của một người đề
cao Nho học.

2. Phú sông Bạch Đằng là loại phú cổ thể: mượn hình thức đối đáp chủ – khách để thể
hiện nội dung, vận văn và tản văn xen nhau, kết thúc bằng một bài thơ. Loại phú cổ
thể (có trước đời Đường) được làm theo lối văn biền ngẫu hoặc lối văn xuôi có vần, khác
với phú Đường luật (có từ đời Đường) có vần, có đối, có luật bằng trắc chặt chẽ.

3. Bài Phú sông Bạch Đằng thể hiện niềm hoài niệm về chiến công của các anh hùng dân
tộc, nêu cao vai trò của yếu tố con người với tinh thần ngoan cường, bất khuất trong sự
nghiệp dựng nƣớc và giữ nƣớc.

II. Đọc hiểu

Phú sông Bạch Đằng có lẽ được Trương Hán Siêu sáng tác vào đời Trần Hiến Tông,
Trần Dụ Tông, khi nhà Trần suy thoái, có nguy cơ sụp đổ. Khi có dịp du ngoạn trên sông
Bạch Đằng, một nhánh sông Kinh Thầy đổ ra biển nằm giữa Quảng Ninh và Hải Phòng,
nơi lưu dấu chiến tích lịch sử Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán và nhà Trần tiêu
diệt quân Nguyên Mông, ông đã cảm khái mà làm thành bài phú này.

1. Hình tượng nhân vật “khách”

- Nhân vật “khách” là sự phân thân của chính tác giả. Sự xuất hiện của nhân vật này có ý
nghĩa quan trọng.

- Mở đầu bài phú, hình tượng nhân vật “khách” xuất hiện với tư thế của con người có
tâm hồn khoáng đạt, có hoài bão lớn lao. “Khách” dạo chơi phong cảnh để thưởng ngoạn
vẻ đẹp của thiên nhiên, để nghiên cứu cảnh trí đất nước, bồi bổ tri thức. Tư thế của
“khách” là tư thế của con người có tâm hồn khoáng đạt, hoài bão lớn lao: Nơi có người
đi đâu mà chẳng biết. Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều, Mà tráng chí
bốn phương vẫn còn tha thiết

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
+ Tráng chí của “khách” - thực ra cũng chính là tráng chí của tác giả - được gợi lên từ
các địa danh mà “khách” đã đi qua. Có những địa danh “khách” đi qua bằng sách vở,
bằng trí tưởng tượng: Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương, Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt

+ Không gian “khách” đi qua thường là không gian rộng lớn như biển lớn (lướt bể chơi
trăng), sông hồ (Cửu Giang, Ngũ Hồ), là những vùng đất nổi tiếng như Tam Ngô, Bách
Việt, Vân Mộng... Những chuyến phiêu lưu trong tưởng tượng như thế thể hiện tráng chí
bốn phương của “khách”.

+ Điều đáng quí là không vì mải miết chơi xa mà “khách” quên yêu những thắng cảnh
của đất nước mình. Và đó là lí do “khách” dừng chân ở những cửa Đại Than, bến Đông
Triều, sông Bạch Đằng: Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều, Đến sông Bạch
Đằng, thuyền bơi một chiều.

- Thuyền trôi đến nơi đâu trên dòng sông ấy, trong lòng “khách” cũng sống lên những
cảm xúc tự nhiên, chân thành:

+ Có khi tráng chí cất cánh cùng thiên nhiên để vui trước cảnh sông nước hùng vĩ, thơ
mộng (Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu), để tự hào trước dòng sông đã từng ghi
danh bao chiến tích (Bát ngát sóng kình muôn dặm, Thướt tha đuôi trĩ một màu.).

+ Cũng có khi lòng “khách” lắng vào cảnh vật ảm đạm, hắt hiu, để buồn đau, nuối tiếc
trước chiến trường một thời oanh liệt nay trơ trọi, hoang vu (Bờ lau san sát, bến lách đìu
hiu, Sông chìm giáo gẫy, gò đầy xương khô).

 Sự xuất hiện của “khách” gắn với hình ảnh thiên nhiên thể hiện vừa tâm hồn lãng mạn
và lòng yêu quê hương đất nước vừa thể hiện cảm xúc chân thành của nhân vật hay cũng
chính là của Trương Hán Siêu.

2. Hình tượng các bô lão (có thể là nhân dân địa phương, có thể là hư cấu)

- Nhân vật tập thể các bô lão địa phương có thể là thật, là những người dân địa phương
ven sông Bạch Đằng mà tác giả gặp trên đường vãn cảnh. Cũng có thể nhân vật bô lão là
nhân vật có tính chất hư cấu, là tâm tư tình cảm của chính tác giả hiện thành nhân vật trữ
tình. Họ chính là những người kể lại và bình luận chiến tích trên sông Bạch Đằng.

- Các bô lão đến với “khách” bằng thái độ nhiệt tình, hiếu khách, tôn kính “khách”.

+ Sau một câu hồi tưởng về việc Ngô chúa phá Hoằng Thao, các bô lão kể cho “khách”
nghe về chiến tích Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã. Lời kể theo trình tự diễn biến tình
hình. Ngay từ đầu, hai bên ta và địch đã tập trung binh lực hùng hậu cho một trận đánh
quyết định. Tiếp đến, trận đánh diễn ra gay go, quyết liệt được thua chửa phân, bắc nam
chống đối. Đó là sự đối đầu không chỉ về lực lượng mà còn là đối đầu về ý chí: ta với

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
lòng yêu nước, với sức mạnh chính nghĩa, địch thế cường với bao mưu ma chước quỉ.
Chính vì vậy, trận chiến diễn ra ác liệt: Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ, Bầu trời đất chừ
sắp đổi. Những hình tượng kì vĩ, mang tầm vóc của đất trời, những hình tượng đặt trong
thế đối lập: nhật nguyệt / mờ, trời đất / đổi báo hiệu một cuộc thuỷ chiến kinh thiên động
địa. Nhưng rồi cuối cùng người chính nghĩa chiến thắng, giặc hung đồ hết lối, chuốc
nhục muôn đời: Đến nay nước sông tuy chảy hoài, Mà nhục quân thù khôn rửa nổi!

+ Thái độ, giọng điệu của các bô lão trong khi kể về chiến công Bạch Đằng là đầy nhiệt
huyết, tự hào, là cảm hứng của người trong cuộc. Lời kể không dài dòng mà rất súc tích,
cô đọng, khái quát nhưng gợi lại được diễn biến, không khí của trận đánh hết sức sinh
động. Lời kể sử dụng những câu dài ngắn khác nhau, phù hợp với tâm trạng và diễn biến
trận đánh. Những câu dài, dõng dạc, gợi không khí trang nghiêm: Đây là nơi chiến địa
buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã, Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá
Hoằng Thao. Những câu ngắn gọn, sắc bén, dựng lên khung cảnh chiến trận căng thẳng,
gấp gáp: Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới, Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng
chói.

+ Sau lời kể về trận chiến là suy ngẫm, bình luận của các bô lão về chiến thắng trên sông
Bạch Đằng. Lời suy ngẫm chỉ ra nguyên nhân ta thắng, địch thua: Trời cho ta thế hiểm,
nhưng điều quyết định là ta có nhân tài giữ cuộc điện an: Kìa trận Bạch Đằng mà đại
thắng, Bởi đại vương coi thế giặc nhàn. Khẳng định vị trí, vai trò của con người, Trương
Hán Siêu đã gợi lại hình ảnh Trần Hưng Đạo với câu nói đã lưu cùng sử sách. Sử chép
rằng: Ngày 14 tháng 11 năm Đinh Hợi (1287), có người tâu về triều việc quân Nguyên
đã tràn vào cửa ải sông Hồng ở mạn Phú Lương, vua Trần Nhân Tông lo lắng hỏi Trần
Hưng Đạo rằng: “Giặc đến thì làm thế nào?”. Hưng Đạo ung dung trả lời: “Năm nay,
giặc đến dễ đánh” (Kim niên, tặc nhàn). Câu nói của Hưng Đạo Vương là câu nói của
người nắm chắc thời thế, binh pháp, thấy rõ vai trò quyết định của con người. Theo binh
pháp cổ, muốn thắng trong chiến tranh cần ba yếu tố: thiên thời, địa lợi, nhân hoà. Bài
phú cũng nói tới ba yếu tố: thiên thời (trời cũng chiều lòng người), địa lợi (đất hiểm),
nhân hoà (nhân tài). Tuy nhiên, thắng giặc không cốt ở đất hiểm mà chủ yếu là đức lớn,
là sức mạnh của con người. Khẳng định sức mạnh, vị trí của con người đó là cảm hứng
mang giá trị nhân văn và có tầm triết lí sâu sắc.

+ Cuối cùng là lời ca của các bô lão mang ý nghĩa tổng kết, có giá trị như một tuyên
ngôn về chân lí: Bất nghĩa (như Lưu Cung) thì tiêu vong, có nhân nghĩa (như Ngô
Quyền, Trần Hưng Đạo) thì lưu danh thiên cổ: Những người bất nghĩa tiêu vong, Nghìn
thu chỉ có anh hùng lưu danh. Tác giả khẳng định sự vĩnh hằng của chân lí đó giống như
sông Bạch Đằng kia đêm ngày luồng to sóng lớn dồn về biển Đông theo qui luật tự nhiên
muôn đời.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
3. Lời ca và cũng là lời bình luận của “khách” - Lời ca của “khách” tiếp nối lời các vị bô
lão ca ngợi sự anh minh của “hai vị thánh quân” (Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông)
đồng thời ca ngợi chiến tích của quân và dân ta trên sông Bạch Đằng.

- Hai câu cuối lời ca (Giặc tan muôn thuở thăng bình, Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức
cao.) vừa biện luận vừa khẳng định chân lí: Trong mối quan hệ giữa địa linh và nhân
kiệt, nhân kiệt là yếu tố quyết định. Ta thắng giặc không chỉ ở “đất hiểm” mà quan trọng
hơn là bởi nhân tài có “đức cao”, “đức lành”. Khẳng định địa linh bởi nhân kiệt, nêu cao
vai trò và vị trí của con người, lời ca kết thúc bài phú vừa mang niềm tự hào dân tộc vừa
thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
ĐẠI CÁO BÌNH NGÔ

Nguyễn Trãi

I. Khái quát chung

1. Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi (1380-1442) hiệu là Ức Trai, người ở làng Nhị Khê, Thường Tín, Hà Tây.
Là con của Nguyễn Phi Khanh, cháu ngoại tướng công Trần Nguyên Đán. Đỗ Thái học
sinh năm 1400. Năm 1407 giặc Minh xâm chiếm nước ta, cha bị giặc bắt đưa về Trung
Quốc, Nguyễn Trãi bị giặc giam lỏng tại thành Đông Quang.

- Nguyễn Trãi biệt Đông Quan, trốn vào Lam Sơn dâng "Bình Ngô sách" lên Lê Lợi,
trở thành vị quân sư "viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết một thời".

- Năm 1428, ông thay lời Lê Lợi thảo "Bình Ngô Đại Cáo" sau đó được cử làm Chánh
chủ khảo khoa thi tiến sĩ đầu tiên của triều Lê và viết chiếu cầu hiền. Chẳng bao lâu sau,
ông bị bọn nịnh thần chèn ép, gièm pha. Nguyễn Trãi xin về Côn Sơn. Năm 1440, ông
lại được vua vời ra giúp nước.

- Năm 1442 xẩy ra vụ án Lệ Chi Viên, ông bị kết án "tru di tam tộc". Mãi đến năm
1464, vua Lê Thánh Tông mới minh oan cho ông và truy tặng ông tước Tán trù bá.

Nguyễn Trãi là người anh hùng thủa"Bình Ngô", văn võ toàn tài.

2. Thể loại Cáo

Là thể văn có nguồn gốc từ Trung Quốc xa. Cáo được chuyên dùng để vua công bố việc
lớn với muôn dân. Nguyễn Trãi dùng hai chữ đại cáo vốn là tên gọi một bài cáo cổ xưa
nhất của Trung Quốc để thay lời Lê Lợi công bố với thiên hạ. Cáo thường hay dùng văn
biền ngẫu. Văn biền ngẫu hay còn gọi là “biền văn”, “biền lệ văn” hoặc “văn tứ lục”
(biền là ngựa đi sóng đôi; ngẫu là đôi, cặp). Văn biền ngẫu có năm đặc điểm:

- Ngôn ngữ đối ngẫu: các vế đối nhau theo bằng trắc, từ loại;

- Kiểu câu chỉnh tề, câu 4 chữ đối với câu 4 chữ, câu 6 chữ đối với câu 6 chữ hoặc
câu 4/4 và câu 6/6 đối nhau;

- Có vần điệu, bằng trắc hài hoà;

- Sử dụng điển cố;

- Sử dụng từ ngữ bóng bẩy có tính phô trương.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
Trong bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi còn có loại câu 5 chữ, 7 chữ, 10 chữ, 14
chữ rất đa dạng.

3. Đại cáo bình Ngô

Năm 1407, giặc Minh xâm lăng nước ta. Năm 1417, tại núi rừng Lam Sơn, Thanh Hoá,
Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa xưng là Bình Định Vương. Trải qua mười năm kháng chiến
vô cùng gian lao và anh dũng, nhân dân ta quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi. Mùa
xuân năm 1428 thay lời Lê Lợi, Nguyễn Trãi thảo "Bình Ngô Đại cáo". Nó là một luận
văn chính trị, quân sự, đồng thời là áng "thiên cổ hùng văn"

"Bình Ngô đại cáo" khẳng định sức mạnh nhân nghĩa Đại Việt căm thù lên án tội ác ghê
tởm của quân "cuồng Minh", ca ngợi những chiến công oanh liệt thuở "Bình Ngô", tuyên
bố đất nươc Đại Việt bước vào kỷ nguyên mới độc lập, thái bình bền vững muôn thuở.

II. Đọc hiểu

1. Đại Việt là một đất nước có truyền thống nhân nghĩa cao đẹp.

a) Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn nêu cao ngọn cờ nhân nghĩa, đem "quân điếu phạt" để tiêu
diệt quân cường bạo, vì độc lập của nước, vì sự yên vui hạnh phúc của nhân dân:

"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"

b) Nguồn gốc của nhân nghĩa Đại Việt là nền văn hiến lâu đời. Đâu phải "Nam man"
là "man di mọi rợ". Như bọn hoàng đế phương Bắc thường láo xược phán truyền. Trái
lại, Đại Việt là một quốc gia "vốn xưng nền văn hiễn đã lâu". Nền văn hiến ấp hợp thành
bởi các nhân tố:

- Có núi sông bờ cõi "đã chia", đã " định phận tại Thiên thư".

- Có thuần phong mĩ tục.

- Có nền độc lập vững bền: "Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập", "hùng cứ một
phương".

- Lắm nhân tài hào kiệt.

- Có truyền thống anh hùng chống ngoại xâm, có những trang sử vàng chói lọi từng
làm cho "Lưu Cung thất bại", "Triệu Tiết tiêu vong", "bắt sống Toa Đô", "giết tươi Ô
mã".

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
2. "Bình Ngô đại cáo" là bản cáo trạng đanh thép, đầy căm thù tội ác quân "cuồng
Minh". Tác giả đứng trên quan điểm nhân nghĩa mà lên án quân xâm lược.

- Giặc Minh tàn sát dã man nhân dân ta:

"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ"

- Tàn phá môi trường môi sinh, bóc lột vơ vét thậm tệ:

"Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,

Nặng thuế khoá sạch không đầm núi"

- Bắt dân ta xuống bể mò ngọc trai, lên rừng bẫy hươu đen... gây ra bao thảm cảnh.
Bọn thái thú, bọn tướng tá Thiên triều như một lũ quỷ khát máu vô cùng ghê tởm:
"Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán!".

Tội ác của giặc Minh chồng chất như núi, đầy mưu mô xảo quyệt "dối trời, lừa dân... gây
binh, kết oán". Một cách nói thâm xưng đầy căm thù, ám ảnh:

"Dơ bẩn thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Độc ác thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!

Lẽ nào trời đất dung tha

Ai bảo thần dân chịu được?"

Từ xưa tới nay, chưa có nhà văn nào viết cụ thể mà khái quát tội ác xâm lược đối với
nhân dân ta như Nguyễn Trãi.

3. Nguồn sức mạnh nhân nghĩa Đại Việt:

a. Lãnh tụ nghĩa quân là một anh hung xuất chúng:

"Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,

Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.

(...) Thế trận xuất kì, lấy yếu chống mạnh,

Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều".

b. Sức mạnh của lòng căm thù giặc và tinh thần đại đoàn kết dân tộc để chiến thắng
quân xâm lược:

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
- “Ngẫm thù lớn há đội trời chung,

Căm giặc nước thề không cùng sống"

- "Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới,

Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào".

4. Quá trình phản công và toàn thắng:

a. Nguồn gốc của chiến thắng là sức mạnh nhân nghĩa:

"Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

Lấy trí nhân để thay cường bạo"

b.Trận đầu thắng lớn, giáng sấm sét vào đầu lũ xâm lăng:

"Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,

Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay"

c. Giải phóng miền rộng lớn đất nước:

"Thừa thắng ruổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,

Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về".

d. Quân ta càng đánh càng thắng to. Giặc Minh bị giáng những đòn chí mạng! Máu
giặc chảy thành sông thây chết đầy nội.

"Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm

Tụy Động thây chết đầy nội, nhơ để ngàn năm".

e. Viện binh giặc bị tiêu diệt: Liễu Thăng "cụt đầu", bá tước Lương Minh "đại bại từ
vong", thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn, Đô đốc "Thôi Tụ" lê gối dâng tờ tạ tội,
thượng thư Hoàng Phúc "trói tay để tự xin hàng". Cánh quân Vân Nam bị đánh "vỡ mật",
quân Mộc Thạnh "xéo lên nhau để chạy thoát thân". Cảnh tượng chiến trường vô cùng
rùng rợn, thảm đạm:

"Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường,

Xương Giáng, Bình Than máu hôi đỏ

Suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc,

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
Thành Đan Xá thây chất đầy núi cỏ nội đầm đìa máu đen"

f. Giặc Minh bị hoàn toàn thất bại thảm hại. Viện binh "hai đạo tan tành"; Quân giặc
các thành "cởi giáp ra hàng”. Lũ tướng tá Thiên triều và hàng chục vạn giặc bị bắt làm tù
binh, hoặc đầu hàng đã bị tha tội chết, được đối xử nhân đạo:

"Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách
lạc.

Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa về đến nước mà vẫn tim đập chân
run.”

- Quá trình phản công là một quá trình vươn dậy của cả dân tộc với sức mạnh vỡ bờ,
bất khả chiến thắng. Ngôn ngữ tráng lệ, giọng văn mang âm điệu anh hùng ca:

" Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,

Voi uống nước, nước sông cũng cạn,

Đánh một trận, sạch không kình ngạc,

Đánh hai trận, tan tác chim muông ..."

5. Lời tuyên bố :

- Ngàn năm, vết nhục nhã sạch làu.

- Trời đất, tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ... là nguyên nhân chiến thắng.

- Sự nghiệp "Bình Ngô" là chiến công "oanh liệt ngàn năm"

- Đại Việt bước vào một kỷ nguyên mới: độc lập và thái bình vững chắc:

" Xã tắc từ đây vững bền,

Giang sơn từ đây đổi mới,

... Muôn thưở nền thái bình vững chắc"

6. Về hình tượng người thủ lĩnh

Làm nên sức mạnh chiến thắng, còn phải kể đến vai trò của người thủ lĩnh hết lòng vì sự
nghiệp chung, có tài trí, mưu lược: ý thức trách nhiệm cao đối với vận mệnh quốc gia,
căm thù giặc sâu sắc, đặt nhiệm vụ cứu nước trở thành hoài bão, điều nung nấu của
mình, trọng người hiền tài, thu phục được lòng người tạo thành sức mạnh đoàn kết, tinh
thông binh pháp, chiến lược,…

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
7. Tìm hiểu tư tưởng đại nghĩa trong bài cáo

Đối với nhân dân, đại nghĩa là vì nhân dân, đem lại cuộc sống yên ổn, hạnh phúc cho
nhân dân, cũng tức là phải đánh đuổi kẻ thù ra khỏi bờ cõi (“Việc nhân nghĩa cốt ở yên
dân – Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”, khi chiến thắng rồi thì “lấy toàn quân là hơn, để
nhân dân nghỉ sức”); đại nghĩa trở thành phương châm, sức mạnh chiến đấu: “Đem đại
nghĩa để thắng hung tàn – Lấy chí nhân để thay cường bạo”.

Đối với kẻ thù, đại nghĩa thể hiện ở chiến lược đánh bằng mưu lược, đánh vào lòng
người: “Chẳng đánh mà người chịu khuất – Ta đây mưu phạt tâm công”. Hơn nữa, khi
chiến thắng, chẳng những không giết mà còn cấp cho phương tiện để rút về nước: “Thần
vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh – Mã Kì, Phương Chính, cấp cho
năm trăm chiếc thuyền…Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa…”

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
CHUYỆN CHỨC PHÁN SỰ ĐỀN TẢN VIÊN

(Trích Truyền kì mạn lục -Nguyễn Dữ)

I. Khái quát chung

1. Nguyễn Dữ người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh
Hải Dương, hiện chưa rõ ông sinh và mất năm nào. Ông là con trai cả của Nguyễn Tư-
ờng Phiêu, người đỗ tiến sĩ năm 1496. Thi đỗ hương tiến và ra làm quan ở huyện Thanh
Tuyền chưa được một năm thì ông từ quan về phụng dưỡng mẹ già. Với Truyền kì mạn
lục, Nguyễn Dữ được xem như một tác gia tiêu biểu của văn học Việt Nam trung đại nói
chung, văn xuôi tự sự chữ Hán Việt Nam nói riêng.

2. Chuyện chức hán sự đền Tản Viên, cũng như các truyện khác của Truyền kì mạn lục,
thuộc thể loại truyền kì. Truyền kì là thể văn xuôi tự sự có nguồn gốc từ Trung Hoa,
dùng yếu tố kì ảo làm phương thức nghệ thuật để phản ánh cuộc sống. Ở Việt Nam thời
trung đại, thể loại này rất được ưa chuộng. Truyện truyền kì Việt Nam thường sử dụng
truyện dân gian hoặc các mô-típ truyện dân gian để xây dựng thành truyện mới. Truyện
truyền kì Việt Nam mang đậm chất yếu tố hiện thực và chất nhân văn.

3. Ngô Tử Văn vốn là người khảng khái, cương trực. Tức giận vì tiếng là đền làng linh
ứng, nhưng tên giặc tử trận ở gần đền lại biến thành yêu quái trong dân gian, Tử Văn đã
đốt đền. Đốt đền xong, về nhà, Tử Văn thấy người khó chịu, rồi lên cơn sốt. Trong cơn
sốt, Tử Văn thấy một người cao lớn khôi ngô, đầu đội mũ trụ tự xưng là cư sĩ đến đòi
làm trả lại ngôi đền như cũ. Tử Văn vẫn thản nhiên. Người kia tức giận doạ sẽ kiện Tử
Văn ở toà cõi âm. Chiều tối, lại có một ông già phong độ nhàn nhã đến tỏ lời mừng, hỏi
ra mới biết đó là Thổ công bị viên tướng bại trận giả làm cư sĩ kia tranh chiếm mất đền.
Ông già dặn rằng nếu âm phủ có tra hỏi thì cứ khai ra những lời ông nói, nếu tên kia chối
thì cứ đến mà xác minh. Đến đêm, Tử Văn bị hai tên quỷ sứ đến bắt đi. Đến âm phủ,
người canh cổng truyền rằng Tử Văn tội sâu ác nặng không được khoan giảm. Tử Văn
kêu oan và được dẫn vào gặp Diêm Vương. Tử Văn tâu trình đầu đuôi như lời Thổ công
đã nói và tranh cãi mãi với người đội mũ trụ, không phân phải trái. Diêm Vương sinh
nghi, người đội mũ trụ định lảng chuyện, sợ bị lộ ra sự thực. Diêm Vương sai người đến
đền Tản Viên để lấy chứng thực thì thấy đúng như lời Tử Văn nói. Kẻ kia bị đẩy vào địa
ngục tầng thứ chín. Tử Văn về đến nhà thì mới biết mình đã chết được hai ngày. Ngôi
mộ của tên tướng giặc bị bật tung lên, hài cốt tan tành. Sau đó một tháng, Thổ công tiến
cử Tử Văn giữ chức phán sự ở đền Tản Viên. Tử Văn nhận lời, rồi không bệnh mà mất.
Sau đó, có người thấy Tử Văn trên xe ngựa cưỡi gió. Người ta truyền rằng đó là “nhà
quan phán sự !”.

4. Nguyễn Dữ quan tâm phản ánh, phê phán, tố cáo hiện thực xã hội, thể hiện khát vọng
chân chính của con người với tinh thần nhân văn cao đẹp. Bằng một nghệ thuật kể

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
chuyện hấp dẫn, với những yếu tố kì ảo mang nội dung hiện thực sâu sắc, Chuyện chức
phán sự đền Tản Viên thể hiện nổi bật gương người cương trực, can đảm, mạnh mẽ đấu
tranh chống lại gian tà, loại trừ cái ác, đòi công lí, công bằng.

II. Đọc hiểu

1. Tìm hiểu xuất xứ

Gợi ý: Truyền kì mạn lục được sáng tác vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVI, gồm 20 truyện.

2. Tìm hiểu bố cục đoạn trích

+ Đoạn 1 (từ đầu đến... vung tay không cần gì cả.): Tử Văn đốt đền.

+ Đoạn 2 (từ Đốt đền xong… đến... thầy cũng khó lòng thoát nạn.): Tử Văn với
viên Bách hộ họ Thôi và Thổ công.

+ Đoạn 3 (từ Tử Văn vâng lời cho đến... sai lính đưa Tử Văn về): Tử Văn thắng
kiện.

+ Đoạn 4 (từ Chàng về đến nhà… đến hết): Tử Văn trở thành phán sự đền Tản
Viên.

3. Tìm hiểu hệ thống nhân vật trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên

Gợi ý: Ngô Tử Văn, Thổ công, hồn ma của viên Bách hộ họ Thôi và Diêm Vương; trong
đó, nhân vật chính là Ngô Tử Văn.

4. Những sự kiện nào xảy ra gắn với nhân vật Tử Văn?

+ Tử Văn đốt đền.

+ Hồn ma Bách hộ họ Thôi giả làm cư sĩ đến đòi Tử Văn dựng trả ngôi đền và doạ
sẽ kiện đến Diêm Vương.

+ Thổ công nói cho Tử Văn biết sự thật về viên Bách hộ họ Thôi và dặn chàng nói
sự thực trước Diêm Vương.

+ Tử Văn đấu tranh giành sự công bằng.

+ Tử Văn được làm phán sự đền Tản Viên.

Các sự việc xảy ra đều chủ yếu nhằm thể hiện tính cách nhân vật Ngô Tử Văn, đối lập
với tính cách viên Bách hộ họ Thôi.

5. Phân tích tính cách nhân vật Ngô Tử Văn

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
Tử Văn là người cương trực, mạnh mẽ, không khoan nhượng với gian tà. Trước hết, tính
cách ấy được thể hiện qua hành động đốt đền. Tuy nhiên, ở hành động đốt đền, cần thấy
rằng Tử Văn là kẻ sĩ, không thể không biết đến quan niệm của người xa là tôn trọng
thánh thần, xem việc đốt phá đền chùa, miếu mạo là động chạm đến thánh thần. Tử Văn
đốt đền xuất phát từ sự bất bình trước việc đền thờ tiếng là linh thiêng mà không giúp
dân diệt được gian tà. Người xưa cũng quan niệm chỉ thờ những thần có công lao giúp
dân, giúp nước. Hơn nữa, trước khi đốt đền, Tử Văn tắm gội sạch sẽ và khấn trời. Điều
đó cho thấy Tử Văn ý thức rất rõ về hành động của mình và mong muốn lòng thành của
mình được chứng giám.

Tính cương trực, can đảm của Tử Văn được thể hiện nổi bật ở những sự việc đối với viên
Bách hộ họ Thôi, với Diêm Vương,… Trước “một người khôi ngô, cao lớn, đầu đội mũ
trụ,… tự xưng là cư sĩ” đến đòi dựng trả ngôi đền, Tử Văn “mặc kệ, vẫn cứ ngồi ngất ng-
ưởng tự nhiên”. Đến âm phủ, trong không khí rùng rợn, hãi hùng, Tử Văn vẫn một mực
muốn chứng tỏ sự thật, đòi công bằng, công lí.

Tử Văn còn là người lễ độ: khi đã trở thành phán sự đền Tản Viên, gặp người quen vẫn
“chắp tay thi lễ.

6. Nhận xét về tính cách nhân vật Bách hộ họ Thôi

Tính cách xảo trá, gian ác của nhân vật này thể hiện rõ ở những diễn biến tâm lí và hành
động của y. Thoạt đầu, trước Tử Văn, hắn tự xưng là cư sĩ, dùng nguyên lí của đạo Nho
để buộc tội Tử Văn, lấy oai linh của quỷ thần để hăm doạ. Hắn lừa gạt cả thánh thần,
ngoan cố vu tội cho Tử Văn; khi thấy tình thế bất lợi, hắn lập lờ cho qua,… Trước sau,
nhân vật này nhất quán: khi sống là kẻ giặc đi cướp nước, khi chết là kẻ cướp đền.

7. Bình luận về vai trò của yếu tố kì ảo và nội dung hiện thực của truyện

Tác giả đã xây dựng được một cốt truyện với những xung đột giàu kịch tính, tính cách
nhân vật được chú ý khắc hoạ nhờ nghệ thuật tương phản (giữa Tử Văn và hồn ma viên
Bách hộ), yếu tố kì ảo kết hợp tự nhiên với yếu tố hiện thực trong diễn biến linh hoạt của
câu chuyện. Những đặc điểm ấy tạo cho truyện sức hấp dẫn.

- Truyện dày đặc yếu tố kì ảo: kể chuyện thần linh (Thổ công, đức Thánh Tản Viên), ma
quỷ (Diêm Vương, hồn ma tướng giặc,…); đốt đền xong, Tử Văn phát bệnh; quỷ sứ đến
bắt Tử Văn đi; viên Bách hộ họ Thôi bị đày xuống Cửu u; Tử Văn về đến nhà mới biết
mình đã chết được hai ngày; Tử Văn sống lại, rồi không bệnh mà mất, thành phán sự đền
Tản Viên; Tử Văn cưỡi gió biến mất,…

- Truyện vẫn mang nội dung hiện thực:

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
+ Lai lịch nhân vật: Tử Văn (tên Soạn, người huyện Yên Dũng, đất Lạng Giang),
viên Bách hộ họ Thôi (bộ tướng của Mộc Thạnh).

+ Câu chuyện xảy ra trong không gian, thời gian cụ thể: Cuối đời nhà Hồ, quân Ngô
sang xâm chiếm, vùng Yên Dũng, Lạng Giang thành chiến trường (thời gian giặc Minh
sang xâm chiếm nước ta: 1407 – 1427).

+ Tử Văn đi nhậm chức phán sự đền Tản Viên vào một buổi sáng năm Giáp Ngọ
(1414).

Tác giả sống và viết truyện này vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVI. Cho nên, câu chuyện
được kể dù có ở thời trước đó thì cũng không có nghĩa là không liên hệ với bối cảnh xã
hội đương thời: nhà Lê suy thoái, chính quyền chuyển sang tay nhà Mạc. Mặt khác, bản
thân các nội dung khẳng định tính chính nghĩa, cái thiện, ca ngợi người cương trực, ngay
thẳng, lên án gian tà,… cũng là những nội dung giàu ý nghĩa hiện thực.

8. Ý nghĩa giáo dục của truyện cũng đã được thể hiện ở đoạn bình cuối truyện

Lời bình đã nói lên lời răn về nhân cách của kẻ sĩ, con người chân chính không nên uốn
mình, phải sống cương trực, ngay thẳng. Sự cứng cỏi, lòng can đảm trước những cái xấu,
cái ác là thái độ ứng xử tích cực cần được coi trọng. Ý nghĩa về sự ca ngợi, tôn vinh
người cương trực, quyết đoán, dám đương đầu với cái ác, cái xấu cũng đã được thể hiện
ở phần kết câu chuyện, khi Tử Văn chết lại được sống lại và trở thành đức Thánh ở đền
Tản Viên.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
TÌNH CẢNH LẺ LOI CỦA NGƢỜI CHINH PHỤ

(Tg: Đặng Trần Côn; Dg: Đoàn Thị Điểm)

I. Khái quát chung

1. Tác giả Đặng Trần Côn - hiện không rõ năm sinh, năm mất, chỉ biết sống vào khoảng
thế kỉ XVIII.Quê tại làng Nhân Mục thường gọi là làng Mọc, huyện Thanh Trì, nay là
quận Thanh Xuân, Hà Nội. Đặng Trần Côn còn có nhiều tác phẩm, nổi tiếng hơn cả
là Chinh phụ ngâm. Ngoài Chinh phụ ngâm, Đặng Trần Côn còn có mấy bài thơ vịnh
tám cảnh đẹp ở Tiêu Tương (Tiêu Tương bát cảnh), và một số bài phú như Trương Hàn
tư thuần lô (Trương Hàn nhớ rau thuần, cá vược), Trương Lương bố y (Trương Lương
áo vải), Khấu môn thanh (Tiếng gõ cửa).

Bản diễn Nôm (giới thiệu trong sách giáo khoa) tương truyền là của Đoàn Thị Điểm.
Dịch giả Đoàn Thị Điểm (1705 - 1748), hiệu là Hồng Hà, người làng Giai Phạm xứ Kinh
Bắc nay thuộc huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Cha là Đoàn Doãn Nghi, anh là Đoàn
Doãn Luân, đều đậu hương cống, không ra làm quan, chỉ ở nhà dạy học. Đoàn Thị Điểm
là một phụ nữ nhan sắc, tài hoa. Sáng tác tập thơ chữ Hán Truyền kì tân phả và bản
dịch Chinh phụ ngâm bằng chữ Nôm. Đã từng làm nghề dạy học và trở thành nhà giáo
phụ nữ đầu tiên thành đạt, học trò của bà rất đông, sau này có người đỗ đến đại khoa.

2. Ngâm khúc là thể loại thơ trữ tình trường thiên thuần tuý Việt Nam viết bằng thể thơ
song thất lục bát với phương thức trữ tình dài hơi, sử dụng nhiều tiểu đối. Thể loại này
phù hợp với việc bày tỏ tâm trạng, cảm xúc hồi tưởng, nhớ nhung, suy tư, sầu muộn, ai
oán, xót thương của nhân vật trữ tình.

Thể thơ song thất lục bát là thể thơ mỗi khổ gồm hai câu 7 chữ, một câu 6 chữ, một câu 8
chữ. Bốn câu dài ngắn khác nhau kết lại thành một khổ và luân phiên kéo dài bao nhiêu
khổ cũng được trong một bài thơ. Hai câu thất ngắt nhịp cố định 3 / 4 (khác với câu thất
ngôn Đường luật ngắt nhịp 4 / 3); câu 6 và câu 8 ngắt nhịp tự do. Có thể gieo vần bằng
hoặc trắc, ở cuối câu hoặc lưng chừng câu.

Chinh phụ ngâm là tác phẩm mở đầu, cũng là tác phẩm đặc sắc nhất của thể loại ngâm
khúc, một thể loại trữ tình rất phát triển ở thế kỉ XVIII.

3. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ tập trung khắc hoạ tình cảnh lẻ loi và
nỗi nhớ thương da diết của người chinh phụ đối với chinh phu trong những ngày dài biền
biệt xa cách; qua đó bộc lộ tinh thần nhân đạo sâu sắc của tác giả.

II. Đọc hiểu

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
1. Tám câu đầu: Nỗi cô đơn, lẻ bóng của người chinh phụ Hai câu thơ đầu: Dạo hiên
vắng thầm gieo từng bước, Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen. Không bất tri sầu như khuê
phụ trong Khuê oán của Vương Xương Linh, rõ ràng, chinh phụ trong khúc ngâm của
Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm đang mang trong mình tâm sự. - Các hành động dạo,
thầm gieo, ngồi, buông - cuốn rèm:

+ Lặp đi lặp lại không mục đích, vô nghĩa. + Biểu lộ tâm tư trĩu nặng và nỗi bồn chồn,
khắc khoải không biết chia sẻ cùng ai trong lòng chinh phụ.

 Bên ngoài, tưởng như chinh phụ là người an nhàn, thảnh thơi nhưng thực chất nàng
đang phải sống trong một tình cảnh hết sức tội nghiệp, đáng thương: chồng nàng đi biền
biệt, tuổi xuân của nàng đang dần phai tàn theo năm tháng.

- Phép điệp liên hoàn kết hợp với câu hỏi tu từ: Ngoài rèm thước chẳng mách tin, ... ...
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.

+ Thể hiện nỗi khắc khoải đợi chờ, trông ngóng chồng trở về từ chiến trận. Hình ảnh
chinh phụ trông chim thước mang tin vui về giống hình ảnh nàng Kiều mong ngóng Từ
Hải: Cánh hồng bay bổng tuyệt vời, Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm. Lời thơ như
lời độc thoại nội tâm da diết, dằn vặt, rất thương, rất ngậm ngùi của nhân vật bởi Ngoài
rèm thước chẳng mách tin, nàng hi vọng rồi lại vô vọng.

+ Biết là vô vọng nhưng nàng vẫn cố hoài nghi, kiếm tìm chút đồng cảm: Trong rèm,
dường đã có đèn biết chăng? Trước chinh phụ, đã có biết bao người con gái “hỏi đèn”:
Đèn thương nhớ ai Mà đèn không tắt. nhưng có lẽ chẳng ai phải đối diện với nỗi vô vọng
như chinh phụ.

 Ngọn đèn xuất hiện trước hết báo hiệu sự thay đổi về thời gian, nỗi nhớ mong chuyển
từ ngày sang đêm.

 Là đốm sáng nhỏ nhoi giữa đêm tối mênh mông để khắc sâu hơn nỗi cô đơn, lẻ bóng
của chinh phụ. Chỉ có một mình nàng cô đơn, đau khổ, một mình nàng thấm thía, xót
thương cho tình cảnh của mình, Một mình mình biết, một mình mình hay.

 Các hình ảnh hoa đèn, bóng người ở câu thơ sau thể hiện sự lụi tàn, héo úa, mòn mỏi
theo canh dài. Như Vũ Nương (Chuyện người con gái Nam Xương - Nguyễn Dữ), chinh
phụ cũng chỉ biết chuyện trò với ngọn đèn, với cái bóng của chính mình đến tàn canh.

 Lời thơ chan chứa niềm xót thương, đồng cảm đối với người phụ nữ. Vì đâu người
phụ nữ trong xã hội phong kiến phải cô đơn, mòn mỏi? Vì đâu những người chinh phụ
phải một mình chôn vùi tuổi xuân ở chốn khuê phòng? Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm
không trực tiếp trả lời nhưng những hình ảnh thơ các tác giả đã sáng tạo chính là bản cáo
trạng đanh thép đối với chiến tranh phi nghĩa. 2. Tám câu tiếp: Nỗi sầu muộn triền miên
CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
- Được thể hiện qua cảm nhận về thời gian tâm lí: Gà eo óc gáy sương năm trống, ... ...
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.

+ Đêm, tiếng gà nhức nhối suốt năm canh, cho thấy người vợ trẻ xa chồng đã thao thức
suốt cả đêm. (Hồ Xuân Hương: Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom, /Oán hận trông ra
khắp mọi chòm.).

+ Ngày, bóng hoè lơ đãng hết dời sang bên này lại chuyển đến bên nọ, chinh phụ như
đếm từng bước thời gian nặng nề trôi mà cảm nhận một khắc giờ đằng đẵng như niên.

+ Biện pháp so sánh: như niên, tựa miền biển xa để cụ thể hóa mối sầu dằng dặc.

+ Các từ láy đôi đằng đẵng, dằng dặc kết hợp với phép so sánh như niên, tựa miền biển
xa đã cụ thể hoá nỗi sầu muộn trong lòng nàng.  Nỗi sầu của người chinh phụ trở nên
bất tận, nỗi lòng chinh phụ mênh mang, dằng dặc.

- Để giải toả nỗi sầu, nàng cố tìm đến những thú vui như: soi gương, đốt hương, gảy đàn
nhưng tất cả đều gượng - miễn cưỡng: Hương gượng đốt hồn đà mê mải, ... ... Dây uyên
kinh đứt phím loan ngại chùng. nhưng đốt hương, soi gương hay đánh đàn cũng chỉ là
hành động gượng, sầu chẳng những không được giải toả mà còn nặng nề hơn.

+ Đốt hương để tìm sự thanh thản, song tâm hồn nàng lại như thêm mê man, bấn loại.

+ Soi gương để trang điểm song gương mặt lại chan chứa nước mắt, bởi vắng chàng
điểm phấn trang hồng với ai.

+ Nàng chỉ gượng gảy đàn sắt đàn cầm vì không thấy phù hợp, đặc biệt sợ dây đàn
chùng hay đứt vì người xưa xem đó là điềm gở, báo hiệu sự không may trong tình vợ
chồng.  Chinh phụ càng cố gắng tìm cách vượt ra khỏi vòng vây của cảm giác cô đơn,
nhưng rốt cuộc vẫn không thoát nổi. Nàng đành ngẩn ngơ trở về với lòng mình.

 Tuy vẫn không vượt ra ngoài các biện pháp nghệ thuật các hình ảnh ẩn dụ tượng
trưng mang tính ước lệ của thi pháp trữ tình trung đại nhưng ở những câu thơ này người
đọc vẫn cảm nhận được sự chân thật trong tâm trạng của nhân vật trữ tình.

3. Tám câu cuối: Nỗi nhớ thƣơng đau đáu

- Khi nỗi cô đơn, buồn khổ trong lòng không thể chia sẻ cùng ai được, nàng đã phải gửi
nó vào gió nỗi nhớ chồng khôn xiết: Lòng này gửi gió đông có tiện?... ... Cành cây sương
đượm tiếng trùng mưa phun.

+ Khi trước, nỗi sầu của nàng được so sánh với độ dài của không gian xa rộng: Mối sầu
dằng dặc tựa miền biển xa. Đến đoạn thơ này, nỗi nhớ được thể hiện qua một khao khát
cháy bỏng - gửi lòng mình đến non Yên - mong được chồng thấu hiểu, sẻ chia.
CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
+ Nỗi nhớ thương đau đáu của chinh phụ được so với không gian vô tận, không có điểm
dừng, mông lung, vời vợi Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời. Mức độ của nỗi
nhớ được gợi lên qua những từ láy toàn phần thăm thẳm (điệp 2 lần), đau đáu. Thăm
thẳm vừa là nói nỗi nhớ người yêu, vừa là con đường đến chỗ người yêu, cũng là con
đường lên trời. Câu thơ phong phú, đúc một khối tình phổ vào một hình thức đơn giản,
trọn vẹn. Chưa khi nào trong văn học Việt Nam, nỗi nhớ chồng được thể hiện một cách
da diết, sâu thẳm, mênh mang, cao vợi như thế. Có lẽ đây là nỗi nhớ dài nhất trong văn
học xưa nay. Nhưng cũng đáng thương thay, khao khát của nàng không được đền đáp vì
sự xa cách về không gian quá lớn (đường lên bằng trời).

 Nỗi lòng người chinh phụ đã vuột ra khỏi phạm vi tâm trạng của một con người, mà
cất lên tiếng nói thay cho bao người phụ nữ cùng chung số phận như nàng. Những dòng
thơ Chinh phụ ngâm đâu chỉ được viết bằng sự đồng cảm, nó còn được viết bằng nỗi xót
thương đến tột cùng của người nghệ sĩ.

 Đoạn trích đã ghi lại một cách chân thực, xúc động nỗi cô đơn buồn khổ của người
chinh phụ trong tình cảnh chia lìa, từ đó đề cao hạnh phúc lứa đôi đồng thời lên tiếng tố
cáo chiến tranh phi nghĩa.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
TRAO DUYÊN

(Trích “Truyện Kiều” – Nguyễn Du)

I. Khái quát chung

1. Tác giả, tác phẩm

- Nguyễn Du (1765-1820) tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiện, quê ở Tiên Điền, huyện
Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông xuất thân trong một gia đình đại quý tộc thời Lê, có
truyền thống văn học. Cha là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ làm tể tướng. Anh là Nguyễn
Khản, đỗ tiến sĩ, làm đại quan trong phủ chúa.

Triều Lê - Trịnh sụp đổ, Nguyễn Du trôi giạt về quê vợ ở Thái Bình suốt "mười năm
gió bụi" rồi về sống ở Hà Tĩnh quê nhà, sống ẩn giật, tự xưng là "Nam Hải điếu đổ",
"Hồng Sơn liệp hộ".

Tây Sơn đổ, Gia Long thiết lập triều đại mới. Năm 1802, Gia Long triệu ông ra àm
quan cho nhà Nguyễn. Năm 1813, Nguyễn Du được cử làm Chánh sứ sang Trung Quốc,
có lúc giữ chức Tham tri bộ Lễ, Cần chánh điện đại học sĩ.

- Nguyễn Du dựa vào cốt truyện "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân, đời
Thanh Trung Quốc để sáng tạo ra truyện Kiều, dài 3254 câu thơ lục bát, kiệt tác số một,
"tập đại thành" của nền thơ ca cổ điển Việt Nam.

- Giá trị nội dung

+Giá trị tố cáo hiện thức: lên án xã hội phong kiến thối nát, những thế lực hắc ám tàn
bạo, dã man đã chà đạp lên quyền sống và hạnh phúc con người như bọn quan lại tham ô
thối nát, bọn buôn thịt bán người, bọn ma cô lưu manh tàn ác; lên án mặt trái của đồng
tiền hôi tanh...

+ Giá trị nhân đạo: xót thương cho nỗi đau khổ của con người, tài sắc bị dập vùi, nói
lên ước mơ về hạnh phúc, tự do và công bằng, đề cao quyền sống của con người, v.v...

+ Giá trị nghệ thuật

Nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, tạo ra những mẫu người với những tính cách tiêu
biểu cho cái đẹp, cái xấu, cái thiện, cái ác... trong xã hội phong kiến suy tàn, thối nát.

Nghệ thuật tự sự, hấp dẫn, cảm động, tạo ra những tình huống, những bi kịch. Lúc miêu
tả, lúc tả cảnh ngụ tình, lúc đối thoại, câu truyện về nàng Kiều diễn biến qua trên ba
nghìn câu thơ liền mạch.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
Ngôn ngữ thi ca: Nguyễn Du đã kết hợp tài tình giữa ngôn ngữ bác học, sử dụng điển
tích, thi liệu văn học cổ Trung Hoa với ca dao, tục ngữ, thành ngữ... nâng lên thành một
ngôn ngữ văn chương trong sáng, trau chuốt, mượt mà, mẫu mực. Cho đến nay chưa có
nhà thơ Việt Nam nào viết thơ lục bát trên ba nghìn câu hay bằng Nguyễn Du. "Truyện
Kiều" xứng đáng là "tiếng thương như tiếng mẹ du những ngày" (Tố Hữu).

2. Đoạn trích

Đoạn thơ dài 34 câu, từ câu 732 đến câu 756 trong Truyện Kiều, khởi đầu bi kịch cho
quãng đời 15 năm trời lưu lạc của Thuý Kiều.

Với tài nghệ miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật của Nguyễn Du, đoạn trích Trao duyên ca
ngợi tình yêu sâu sắc của Thuý Kiều đối với Kim Trọng qua việc thể hiện nỗi đau đớn
tột cùng mà nàng phải chịu đựng khi phải trao duyên; qua đó thể hiện lòng cảm thông,
thương yêu sâu sắc của Nguyễn Du đối với con người “bạc mệnh”.

II. Đọc hiểu

Đây là một trong những đoạn ở vị trí mở đầu cho cuộc đời lưu lạc đầy đau khổ của Thuý
Kiều. Khi Vương Ông và Vương Quan bị bắt giam do có kẻ vu oan, Thuý Kiều phải bán
mình làm vợ Mã Giám Sinh để lấy tiền đút lót quan lại cứu cha và em. Việc nhà đã tạm
yên, Kiều mới nghĩ đến tình duyên lỡ dở của mình. Trước hết, nàng nghĩ cho người mình
yêu, phận mình dù thế cũng đành, nhưng cảm thấy có lỗi với Kim Trọng. Phải làm thế
nào cho người yêu đỡ khổ, suy nghĩ mãi, trong đêm cuối cùng, nàng quyết định nhờ em
thay mình trả nghĩa cho KimTrọng.

Trao duyên trích từ câu 723 đến câu 756 trong Truyện Kiều.

1. Thuý Kiều nhờ Thuý Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng

- Xưa nay người ta chỉ trao nhau vật chất chứ có ai trao duyên bao giờ. Thế nhưng Thuý
Kiều lại phải làm cái điều chưa ai từng làm ấy.

- Lời ướm hỏi: Trong quan niệm của người xưa, “tình” thường gắn liền với “nghĩa”.
Giữa Thuý Kiều và Kim Trọng đã có lời thề trăm năm tạc một chữ đồng đến xương
nhưng sự đâu sóng gió bất kì, vì chữ “hiếu” nàng không thể giữ lời thề với chàng Kim
nên đành nhờ Thuý Vân trả nghĩa hộ mình. Ngôn từ:

+ Nguyễn Du đã rất tinh tế khi để Kiều dùng từ cậy mà không dùng từ nhờ vì cậy có ý
tin chắc là người khác nhất định sẽ nghe mình.

+ Chịu lời và nhận lời có vẻ như nhau nhưng chịu lời là nhận lời làm việc không do
mình tự nguyện hoặc một việc khó chối từ.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
+ Hai chữ mặc em chốt lại màn dạo đầu nhưng lại mang hàm ý giao phó trách nhiệm.

+ Lạy, thưa: hành động của Thúy Kiều trái hẳn với vị thế làm chị nhưng chứng tỏ việc
Kiều đang nhờ Vân là việc trọng đại.

 Thúy Kiều không chắc Thuý Vân đã nhận lời nên mỗi từ Thuý Kiều nói ra đều được
cân nhắc kĩ càng. Không thấu hiểu, đồng cảm với nhân vật của mình, không phải là bậc
thầy của ngôn từ, Nguyễn Du không thể viết những câu thơ với những từ ngữ đắt như
thế.

+ Kiều thuật lại một cách vắn tắt nhưng khá đầy đủ về cảnh ngộ của mình: Kể từ khi
gặp... vẹn hai. Lí lẽ nàng đưa ra rất đầy đủ, toàn diện hợp lí, thuyết phục: Hiếu tình khôn
lẽ hai bề vẹn hai và Ngày xuân em hãy còn dài, Xót tình máu mủ thay lời nước non.

 Thúy Vân không thể từ chối được. Các điển tích keo loan, tơ duyên cùng các thành
ngữ tình máu mủ, lời nước non, thịt nát, xương mòn, ngậm cười chín suối... thể hiện sự
chân thành, tha thiết mà đau đớn của Thúy Kiều khi quyết định cho em.

+ Trao kỉ vật: trao cho Thuý Vân những kỉ vật của tình yêu, trong Kiều nỗi đau đã cuộn
lên thành những mâu thuẫn: Chiếc vành với bức tờ mây, Duyên này thì giữ, vật này của
chung.

 Tờ hoa ghi lời thề nguyền của Kim Kiều, chiếc vành mây trước đây chàng Kim trao
cho Kiều làm của tin giờ nàng đều trao cả cho Thuý Vân.

 Đành phải (trao nhiệm vụ trả nghĩa chàng Kim) cho em để em thay mình đền nghĩa
người yêu nên Kiều mới nói duyên này thì giữ. Duyên phải trao đi vì nàng không thể
cùng chàng Kim trọn lời thề ước. Nhưng trao đi không có nghĩa là trao hẳn mà chỉ là để
cho em giữ. Còn tình yêu Kiều dành cho Kim làm sao mà trao được? Nó vẫn ở mãi trong
lòng nàng. Và những kỉ vật kia chính là dấu tích của mối tình đầu, chính là vật lưu giấu
tình yêu Kim Kiều. Phải trực tiếp trao nó vào tay Thuý Vân, có lẽ nào Kiều không tiếc
nuối? Hai chữ của chung đủ để diễn tả tất cả: nỗi tiếc xót, không đành lòng trao lại cho
em, nỗi đau và sự cố gắng níu kéo (chị vẫn có phần trong đó).

 Tình yêu sâu đậm Thuý Kiều dành cho Kim Trọng. Với Kiều, hạnh phúc của người
mình yêu là điều hơn hết. + Kiều đau đớn, xót xa tự nhận mình là người mệnh bạc. Hai
chữ mệnh bạc cho thấy ý thức sâu sắc về cuộc đời, số phận bạc bẽo của Kiều. Với nàng,
đó là một định mệnh bất di bất dịch.

 Thúy Kiều đã rất đau đớn khi phải cho em, dứt tình với chàng Kim. Nguyễn Du đã rất
am hiểu và tinh tế khi diễn tả tâm trạng nhân vật.

2. Tâm trạng của Kiều sau khi trao duyên

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
- Kiều đang dần quên sự có mặt của Thúy Vân. Trong khi nói với em, Kiều cảm tưởng
như sống lại với các kỉ niệm của tình yêu với Kim Trọng.

+ Nàng như sống trong hồi ức qua những kỉ vật và nhất là tưởng nhớ lại sự kiện đêm thề
nguyền thiêng liêng: Mai sau dù có bao giờ, Đốt lò hương ấy so tơ phím này. Rõ ràng
trong tâm hồn Kiều, những kỉ niệm đẹp đẽ của tình yêu có sức sống thật mãnh liệt.

+ Nguyễn Du thật tinh tế khi gợi lại các hình ảnh quá khứ: Cảnh chàng Kim cho thêm
hương vào lò hương (đài sen nối sáp lò đào thêm hương) và cảnh Kiều đàn cho Kim
Trọng nghe (So dần dây vũ dây văn) trong đêm thề nguyền. Mỗi kỉ niệm đã qua đều
khắc sâu trong lòng nàng. Điều đó chứng tỏ tình yêu nàng dành cho chàng Kim cực kì
sâu sắc.

- Càng yêu sâu sắc, Kiều càng cảm thấy cuộc đời trống trải, vô nghĩa khi không còn tình
yêu. Đó là lí do khiến nàng liên tưởng đến cái chết - cái chết đầy oan nghiệt. (Kiều
Nguyệt Nga trong Lục Vân Tiên (NĐC) cũng nói: Hiu hiu gió thổi ngọn cây Ấy là hồn
trẻ về rày thăm cha.) Nhiều từ ngữ phản ánh ý nghĩ này trong nàng: mai sau Trông ra
ngọn cỏ lá cây, Thấy hiu hiu gió thì hay chị về. (Kiều nhớ lại cảnh Đạm Tiên đã từng
hiện về qua làn gió ào ào đổ lộc rung cây khi Kiều thắp hương và làm thơ bên mộ Đạm
Tiên), hồn, dạ đài, người thác oan.

- Tình yêu không là vật chất, không thể trao đi rồi thì không còn nữa. Kiều cho em để rồi
phải nhận lại nỗi đau đớn khôn xiết.

+ Nỗi đau đó vốn dĩ không thể được bộc lộ trong lời Thuý Kiều nói với em. Hơn thế, nếu
chỉ đơn thuần nói với Thuý Vân thì cảm xúc nhân vật sẽ không đạt tới cao trào, bi kịch
của thân phận và tình yêu sẽ không đạt tới đỉnh điểm, nhân cách cao đẹp của Kiều cũng
không có điều kiện lộ hiện. Vậy nên Nguyễn Du đã xây dựng những lời độc thoại nội
tâm của Kiều: Bây giờ trâm gãy gương tan, Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!

 Kiều đã quên hết xung quanh. Nàng chỉ còn khóc cho mình, khóc cho mối tình đầu
ngắn ngủi. Đó là tiếng khóc cho một số phận, tiếng kêu đứt ruột cho một mối tình: Trăm
ngàn gửi lạy tình quân, ... ... Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!

 Các thành ngữ liên tiếp trâm gẫy gương tan, bạc như vôi, nước chảy hoa trôi cực tả nỗi
đau mất mát, sự tan vỡ không thể hàn gắn trong Kiều.

 Trong đoạn thơ ngắn, ba lần Nguyễn Du để Kiều gọi Kim Trọng bằng các từ khác
nhau: tình quân, Kim lang, chàng. Đáng chú ý nhất là từ Kim lang. Nó được láy lại, gắn
với những thán từ hô gọi ôi, hỡi đầy thê thiết. Trong tâm tưởng, Thuý Kiều đã coi Kim
Trọng là chồng cho nên tiếng gọi đó vừa thể hiện sự tiếc nuối vì tình lứa đôi lỡ dở, vừa

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
hàm chứa nỗi đau đớn khôn xiết của nàng. Nàng gọi chàng Kim để nhận lỗi về mình, để
oán trách chính mình, oán trách mình là kẻ phụ bạc

 tấm lòng vị tha, rất mực yêu Kim Trọng . Hơn khi nào hết, đây là giây phút đáng
thương nhất cuộc đời Thuý Kiều. Bởi lẽ, mới đó thôi, người con gái ấy còn đang trong
cảnh êm đềm trướng rủ màn che, vậy mà giờ đây...

 Lời thơ cất lên cũng chính là tiếng nói thương thân xót phận của một người con gái
tha thiết với tình yêu. Mọi cung bậc cảm xúc diễn ra trong Kiều đều hết sức lô-gíc.
Nguyễn Du đã miêu tả dòng diễn biến nội tâm của nàng một cách chân thực. Mỗi từ ngữ,
mỗi hình ảnh đều được lựa chọn kĩ lưỡng nhằm khắc hoạ tâm trạng nhân vật.

6. Bình luận nhan đề Trao duyên

- Chữ duyên theo giáo lí của nhà Phật là nguyên do tạo ra số phận, sau này được hiểu
rộng hơn là sự định sẵn từ kiếp trước cho tình cảm của hai người (thường là tình cảm vợ
chồng).

- Duyên là một khái niệm có tính chất vô hình, do đó trao duyên là một điều khó
khăn, nhất là với những người có đời sống nội tâm sâu sắc như Thuý Kiều. Trao
duyên là một sự hi sinh rất lớn. Trước đó Kiều đã hi sinh tình yêu để làm bổn phận người
con hiếu thảo: “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Nay, trao duyên cho Vân là hi
sinh tình yêu của mình vì hạnh phúc của người mà mình yêu. Do vậy, hành động của
Kiều làm cho hình tượng nhân vật trở nên cao cả hơn, đẹp đẽ và đáng khâm phục hơn.

7. Phân tích tâm trạng Thuý Kiều thể hiện qua hai câu thơ:

Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ, vật này của chung.

Trong màn kịch trao duyên, Thuý Kiều đã trao kỉ vật của tình yêu cho Thuý Vân, đó là
tờ hoa tiên ghi lời thề nguyền của Kiều và Kim Trọng, chiếc vành trước đây Kim Trọng
trao cho Kiều làm của tin, bây giờ đều được trao lại cho Vân. Nhưng mâu thuẫn nảy sinh
ở chi tiết, vật thì trao cho em “giữ” nhưng duyên thì muốn để lại làm “của chung”. Cũng
có thể xem là mâu thuẫn giữa cảm xúc và lí trí. Về lí trí, Kiều muốn Kim Trọng được
hạnh phúc nên gá nghĩa Thuý Vân cho chàng. Nhưng về tình, vì tình yêu của Kiều với
chàng Kim sâu sắc quá nên không muốn trao gửi. Đây hoàn toàn là tâm lí của tình yêu
sâu nặng và đích thực. Tình yêu sâu nặng mà vẫn phải trao duyên chứng tỏ sự hi sinh của
Kiều rất lớn lao.

8. Tác giả đã khắc hoạ tâm trạng Kiều như thế nào sau khi “trao duyên”?

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
Nếu như phần trên của đoạn trích còn là sự đấu tranh giữa lí và tình, là sự hi sinh vì
người mình yêu, thì đến đoạn cuối, sau khi trao duyên, Kiều đã nghĩ đến mình. Giọng
điệu của đoạn thơ trở thành giọng điệu thương thân của chính nhân vật.

Kiều quan niệm trao duyên tức là đã mất Kim Trọng, như thế thì đời mình coi như cũng
hết. Nghĩ đến tương lai, Kiều thấy cái chết hiện diện và khi đó oan hồn của bản thân sẽ
theo gió tìm về chốn cũ:

Trông ra ngọn cỏ lá cây

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về

Và Kiều đã tưởng tượng oan hồn của mình sẽ cất lời cầu xin chân thành và tội nghiệp:

Rảy xin chén nước cho người thác oan

Nàng vô cùng đau khổ khi nghĩ đó là tương lai sắp tới mà mình không tránh được. Do
đó, Kiều đã khóc, khóc một cách tuyệt vọng cho tình yêu ngắn ngủi của mình:

Bây giờ trâm gãy bình tan

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân

Tiếng khóc cho mối tình tan vỡ, tiếng khóc cho thân phận khổ đau cất lên từ nhân vật
chính của tác phẩm đã đánh động tâm can bao người đương thời và hậu thế. Như thế, ở
đây tiếp tục xuất hiện mâu thuẫn không thể giải quyết giữa tình yêu mãnh liệt và sự chia
biệt vĩnh viễn, tức là giữa lí và tình.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
CHÍ KHÍ ANH HÙNG

(Trích Truyện Kiều - Nguyễn Du)

I. Khái quát chung

1. Đoạn trích từ câu 2213 đến câu 2230 của Truyện Kiều: Từ Hải từ biệt Thuý Kiều ra đi
lập sự nghiệp lớn

2. Với nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ đặc sắc, đoạn trích ngợi ca chí khí anh hùng của
nhân vật Từ Hải và khẳng định lại một lần nữa tình cảm của Thuý Kiều và Từ Hải là tình
tri kỉ, tri âm chứ không chỉ đơn thuần là tình nghĩa vợ chồng.

3. Tìm hiểu xuất xứ: Kiều bị lừa vào lầu xanh lần thứ hai, tâm trạng nàng vô cùng đau
khổ và tuyệt vọng. May sao Từ Hải đột ngột xuất hiện, đã coi Kiều như một tri kỉ và cứu
nàng ra khỏi lầu xanh. Hai người đều thuộc hạng người bị xã hội đương thời coi thường
(một gái giang hồ và một là giặc) đã đến với nhau tâm đầu ý hợp trong một tình cảm gắn
bó của đôi tri kỉ. Từ Hải đánh giá cao sự thông minh, khéo léo và nhạy cảm của Kiều.
Kiều nhận ra Từ là đường anh hùng hiếm có trong thiên hạ, là người duy nhất có thể giải
oan cho nàng. Nhưng dù yêu quý, trân trọng Từ Hải, Kiều cũng không thể giữ chân bậc
anh hùng cái thế. Đã đến lúc Kiều để Từ Hải ra đi lập sự nghiệp anh hùng.

II. Đọc hiểu

1. Khát vọng lên đường

- Từ Hải đa tình, nhưng trước hết Từ Hải là một tráng sĩ, một con người có chí khí
mạnh mẽ. Chí là mục đích cao hướng tới, khí là nghị lực để đạt tới mục đích. - Ở con
người này, khát khao được vẫy vùng giữa trời cao đất rộng, như đã trở thành một sức
mạnh của thiên nhiên, không gì có thể kiềm chế nổi: Nửa năm hương lửa đương nồng, ...
... Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.

+ Đang sống trong cảnh nồng nàn hương lửa, chợt động lòng bốn phương, thế là
toàn bộ tâm trí hướng về trời bể mênh mang và lập tức ở vào tư thế một mình với thanh
gươm yên ngựa sẵn sàng lên đường đi thẳng.

+ Từ trượng phu vốn có nghĩa là người đàn ông hoặc người chồng. Trong văn bản,
từ này chỉ Từ Hải, với nghĩa người đàn ông có chí lớn. Từ này chỉ xuất hiện một lần duy
nhất trong Truyện Kiều và Nguyễn Du trân trọng dành riêng cho Từ Hải như một cách
để tôn xưng nhân vật lí tưởng.

+ Thoắt: thể hiện sự thay đổi đột ngột, dứt khoát, mau lẹ, kiên quyết, không luyến
tiếc. - Lòng bốn phương là khái niệm có nội hàm diễn tả con người vũ trụ. Bốn phương ở
đây chỉ nam, bắc, đông, tây, có nghĩa là thiên hạ, thế giới. Nhưng theo Kinh Lễ, xưa sinh
CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
con trai, người ta làm cái cung bằng cây dâu, tên bằng cỏ bồng, bắn tên ra bốn phương,
tượng trưng cho mong muốn sau này người con trai làm nên sự nghiệp lớn. Như vậy,
lòng bốn phương không chỉ có nội hàm diễn tả con người vũ trụ mà còn là hình ảnh ước
lệ, tượng trưng cho chí nguyện lập công danh, sự nghiệp.

+ Không gian trời bể mênh mang, bốn bể, chim bằng, gió mây vừa là ước lệ, lại
vừa tạo nên ấn tượng về tầm vóc vũ trụ của Từ Hải. Sự đan kết hai nội hàm ý nghĩa
trước hết khắc hoạ hình tượng nhân vật lớn lao, kì vĩ, phi thường. Chính sự kết hợp đó
khiến hình tượng người anh hùng trong sáng tác của Nguyễn Du trở thành lí tưởng. Và vì
lí tưởng nên không thể sử dụng bút pháp tả thực để miêu tả được. Cũng vì lí tưởng nên
hình tượng nhân vật người anh hùng Từ Hải mãi mãi chỉ là mơ ước của nhà thơ. Nguyễn
Du mơ ước có được một người anh hùng như thế, để thực thi khát vọng công lí cho
những thân phận bất hạnh như Thúy Kiều.  Từ Hải không phải là con người của những
đam mê thông thường mà là con người của khát vọng anh hùng, của sự nghiệp anh hùng.

2. Lí tưởng anh hùng của Từ Hải - Với khát vọng lên đường mãnh liệt, Từ Hải đã
quyết chí ra đi để thực hiện lí tưởng anh hùng của mình. Trong buổi chia tay Thuý Kiều,
Từ Hải không hề quyến luyến, bịn rịn như cảnh Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều (Người lên
ngựa, kẻ chia bào, Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.).

+ Khi Kiều có suy nghĩ: “Phận gái chữ tòng, Chàng đi thiếp cũng một lòng xin
đi.” thì Từ đã có ý trách Kiều là người tri kỉ mà không hiểu mình, khuyên Kiều vượt lên
trên tình cảm thông thường để sánh với anh hùng: Từ rằng: “Tâm phúc tương tri, Sao
chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình? Từ Hải là con người của sự nghiệp phi thường,
không thể chìm đắm trong trốn phòng khuê! Đang ở trong cảnh hạnh phúc ngọt ngào, Từ
Hải thoắt đã động lòng bốn phương, tiếng gọi của sự nghiệp thức tỉnh chàng từ bên
trong. Giờ đây sự nghiệp đối với chàng là trên hết. Đối với Từ Hải, nó chẳng những là ý
nghĩa của sự sống mà còn là điều kiện để thực hiện những ước ao mà người tri kỉ đã gửi
gắm, trông cậy ở chàng. Do vậy mà không chút bịn rịn, không có những lời than vãn lúc
chia biệt. Lời trách người tri kỉ chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình còn bao hàm cái ý
khuyên Kiều hãy vượt lên tình cảm thông thường để làm vợ của một anh hùng. Cho nên
sau này trong nỗi nhớ thương của Kiều: Cánh hồng bay bổng tuyệt vời - Đã mòn con mắt
phương trời đăm đăm không chỉ có sự mong chờ người yêu xa cách mà còn mong chờ cả
sự nghiệp của Từ Hải.

+ Không chỉ khuyên nhủ Kiều, trong lời nói của mình, Từ Hải còn hứa hẹn với
Kiều về một tương lai thành công:

“Bao giờ mười vạn tinh binh,

Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
Làm cho rõ mặt phi thường,

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia. (...)

Đành lòng chờ đó ít lâu,

Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

Đoạn trích sử dụng rất nhiều từ Hán Việt: tâm phúc tương tri, nữ nhi, tinh binh, bóng
tinh, phi thường, nghi gia mang lại cho văn bản không khí trang trọng cùng những sắc
thái ý nghĩa riêng biệt:

 Những từ ngữ đẹp (tâm phúc tương tri, nữ nhi, nghi gia) trong lời nói của bậc anh hùng
trượng nghĩa thể hiện rất sâu sắc lòng trân trọng, yêu mến dành cho người đẹp. Rõ ràng,
trong mắt Từ, Kiều không phải là một món hàng, càng không phải là một gái lầu xanh
mà là hồng nhan tri kỉ, xứng đáng với đấng chọc trời khuấy nước - là Từ.

 Sự xuất hiện của các từ chỉ việc quân binh, có sức gợi lên không khí thắng lợi hoành
tráng như tinh binh, bóng tinh, phi thường đã mở ra một tương lai tươi sáng, thể hiện
niềm tin chiến thắng của người anh hùng Từ Hải. Trước đây, ngay trong cảnh trần ai, Từ
Hải ngang nhiên xem mình là người anh hùng, tất cả sự nghiệp sau này như đã nắm chắc
trong tay. Giờ đây xuất phát chỉ với thanh gươm yên ngựa, Từ đã khẳng định quyết tâm,
tự tin vào thành công, muộn thì cũng không quá một năm, sẽ nhất định trở về với cả một
cơ đồ to lớn. Những hình ảnh tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường là hình tưởng
tượng của Từ về tương lai, vì nó mà Từ dứt áo ra đi. Nhưng cũng từ những hình ảnh này,
người đọc được chứng kiến một niềm tin sắt đá vào thành công, vào lí tưởng cao cả của
người anh hùng. - Hành động dứt áo ra đi được đặt trong bối cảnh lớn lao, kì vĩ (gió mây
bằng, dặm khơi - những hình ảnh ước lệ mang tầm vóc vũ trụ) thể hiện tư thế lên đường
dứt khoát của người anh hùng.

3. Từ các đoạn trích Trao duyên, Nỗi thương mình, Chí khí anh hùng, hãy phát biểu nhận
xét khái quát những đặc điểm trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của Nguyễn Du.

Nghệ thuật miêu tả tâm lí là một trong những phương diện nghệ thuật đặc sắc bậc nhất
của Truyện Kiều. Chính những thành công về nghệ thuật miêu tả tâm lí đã chứng tỏ sự
sáng tạo độc đáo, tấm lòng thấu hiểu con người của Nguyễn Du. Có thể nhận định:

- Tâm lí nhân vật được thể hiện sinh động, trực tiếp trong tình huống cụ thể.

- Diễn biến tâm lí nhân vật được miêu tả chân thực, theo đúng quy luật và quá trình
diễn biến trong thời gian của đời sống bên trong con người.

- Trạng thái tâm lí mang tính cá thể rất rõ; đó là tâm lí của những con người cụ thể,
với đặc điểm riêng về tính cách, hoàn cảnh,…
CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
- Các hình thức đối thoại, độc thoại và lời trần thuật nửa trực tiếp được sử dụng rất
có hiệu quả để miêu tả tâm lí nhân vật.

4. Phân tích hình tượng nhân vật Từ Hải thể hiện trong bốn câu đầu của đoạn trích

Từ Hải xuất hiện trong tác phẩm, trước hết là một anh hùng cái thế, đầu đội trời chân đạp
đất. Khi cứu Kiều ra khỏi lầu xanh, là vì việc nghĩa, là vì trọng Kiều như một tri kỉ.
Nhưng khi kết duyên cùng Kiều, Từ thực sự là một người đa tình. Song dẫu đa tình, Từ
không quên mình là một tráng sĩ, một người có chí khí mạnh mẽ. Trong xã hội phong
kiến, đã làm thân nam nhi phải có chí vẫy vùng giữa đất trời cao rộng. Từ Hải quả là một
bậc anh hùng có chí lớn và có nghị lực để đạt được mục đích cao đẹp của bản thân.
Chính vì thế, trong khi đang sống với Kiều những ngày tháng thực sự êm đềm, hạnh
phúc nhưng Từ không quên chí hướng của bản thân. Đương nồng nàn hạnh phúc, chợt
"động lòng bốn phương", thế là toàn bộ tâm trí hướng về "trời bể mênh mang", với
"thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.

Không gian trong hai câu 3, 4 (trời bể mênh mang, con đường thẳng) đã thể hiện rõ chí
khí anh hùng của Từ Hải.

5. Chỉ ra tính chất riêng biệt của cuộc tiễn biệt giữa Từ Hải và Thuý Kiều so với hai cuộc
chia tay trước đó với Kim Trọng và với Thúc Sinh

Tác giả dựng lên hình ảnh Từ Hải "thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong" rồi mới
để cho Từ Hải và Thuý Kiều nói lời tiễn biệt. Liệu có gì phi lôgíc không? Không, vì hai
chữ "thẳng rong" có người giải thích là "vội lời", chứ lên đường đi thẳng rồi mới nói thì
vô lí. Vậy có thể hình dung, Từ Hải trên yên ngựa rồi nói những lời chia biệt với Thuý
Kiều. Và, có thể khẳng định cuộc chia biệt này khác hẳn hai lần trước khi Kiều từ biệt
Kim Trọng và Thúc Sinh. Kiều tiễn biệt Kim Trọng là tiễn biệt người yêu về quê hộ tang
chú, có sự nhớ nhung của một người đang yêu mối tình đầu say đắm mà phải xa cách.
Khi chia tay Thúc Sinh là để chàng về quê xin phép Hoạn thư cho Kiều được làm vợ lẽ,
hi vọng gặp lại rất mong manh vì cả hai đều biết Hoạn Thư chẳng phải tay vừa, do đó
gặp lại được như hiện tại là rất khó khăn. Chia tay Từ Hải là chia tay người anh hùng để
chàng thoả chí vẫy vùng bốn biển. Do vậy, tính chất ba cuộc chia biệt là khác hẳn nhau.

6. Tính cách nhân vật Từ Hải được bộc lộ qua lời nói với Kiều như thế nào?

Từ Hải là người có chí khí phi thường:

Khi chia tay, thấy Kiều nói:

Nàng rằng: "Phận gái chữ tòng

Chàng đi, thiếp cũng một lòng xin đi"

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
Từ Hải đã đáp lại rằng:

Từ rằng: “Tâm phúc tương tri

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”

Trong lời đáp ấy bao hàm lời dặn dò và niềm tin mà Từ Hải gửi gắm nơi Thuý Kiều.
Chàng vừa mong Kiều hiểu mình, đã là tri kỉ thì chia sẻ mọi điều trong cuộc sống, vừa
động viên, tin tưởng Kiều sẽ vượt qua sự bịn rịn của một nữ nhi thường tình để làm vợ
một người anh hùng. Chàng muốn lập công, có được sự nghiệp vẻ vang rồi đón Kiều về
nhà chồng trong vinh dự, vẻ vang:

Bao giờ mười vạn tinh binh,

Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường.

Làm cho rõ mặt phi thường

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia

Quả là lời chia biệt của một người anh hùng có chí lớn, không bịn rịn một cách yếu đuối
như khi Kiều chia tay Thúc Sinh. Sự nghiệp anh hùng đối với Từ Hải là ý nghĩa của sự
sống. Thêm nữa, chàng nghĩ có làm được như vậy mới xứng đáng với sự gửi gắm niềm
tin, với sự trông cậy của người đẹp.

Từ Hải là người rất tự tin trong cuộc sống:

Từ ý nghĩ, đến dáng vẻ, hành động và lời nói của Từ Hải trong lúc chia biệt đều thể hiện
Từ là người rất tự tin trong cuộc sống. Chàng tin rằng chỉ trong khoảng một năm chàng
sẽ lập công trở về với cả một cơ đồ lớn.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
HACK NÃO KIẾN THỨC VĂN 11

I – Khái quát chung

1. Hồ Xuân Hương là nữ sĩ tài năng, là hiện tượng văn học trung đại Việt Nam, song
cũng là nhà thơ mà cuộc đời còn rất nhiều bí ẩn. Có rất nhiều giai thoại về hoàn cảnh
xuất thân, cuộc sống và cá tính của bà. Hiện nay phần đông các nhà nghiên cứu thống
nhất ý kiến : Bà là con ông Hồ Phi Diễn, một nhà nho nghèo quê ở Nghệ An. Ông Hồ
Phi Diễn ra Bắc dạy học và lấy vợ lẽ, rồi sinh ra Hồ Xuân Hương. Gia đình bà từng sống
ở Thăng Long và bà từng dựng ngôi Cổ Nguyệt đường để đón tiếp, giao du với khách
văn chương. Bà giao du rộng rãi, đường tình duyên của bà gặp nhiều trắc trở.

2. Bài thơ thuộc chùm ba bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương. Chùm thơ bộc lộ tâm sự
của một người phụ nữ đa đoan luôn khát khao hạnh phúc nhưng luôn gặp những điều bất
hạnh. Hiện lên trong chùm thơ là người phụ nữ đằm thắm, cá tính mãnh liệt nhưng
không thiếu sự dịu dàng, yếu đuối của nữ tính.

II – Đọc hiểu

Như đã nói, bài Tự tình này khai thác thế đối nghịch giữa thời gian với tuổi trẻ và tình
yêu. Bài thơ là mạch cảm xúc của nhiều niềm tâm sự. Niềm tâm sự ấy đến vào lúc cũng
thật là tinh tế.

Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,

Trơ cái hồng nhan với nước non.

Câu thơ nói đến thời gian nhưng cũng lại gợi được cái không gian rợn ngợp. Thời gian,
không gian đối lập với con người nhỏ bé, cô đơn.

Đêm khuya, vắng lặng và tĩnh mịch. Đó là thời điểm con người cảm giác rõ nhất sự cô
đơn. Một mình đối diện với đêm khuya, khi tất cả mọi âm thanh của cuộc sống đã lắng
lại, đã lùi lại cả phía sau, người phụ nữ đa đoan ấy càng thấm thía nỗi buồn. Cái âm
thanh “văng vẳng” của tiếng trống canh không làm cho đêm bớt tĩnh lặng, mà ngược lại
nó làm cho đêm sâu hơn, vắng hơn và lòng người buồn hơn. Tiếng trống canh dồn là
nhắc nhở thời gian đang bước từng bước lạnh lùng. Nhà thơ đã lấy động để mà tả tĩnh –
một thủ pháp nghệ thuật quen thuộc của thơ ca trung đại. Văng vẳng vừa gợi âm thanh
của tiếng trống điểm canh, vừa gợi sự quạnh quẽ của đêm khuya. Một mình đối diện với
đêm khuya vắng lặng đến cô tịch vốn đã dễ gợi niềm tâm sự. ở đây, còn thêm sự cô đơn
thì nỗi buồn hẳn càng dễ đến hơn. Câu thơ đầu có chỗ hiện còn nhiều cách hiểu. Đó là
cụm từ trống canh dồn. Thiết nghĩ, trống canh dồn không thể hiểu là sự gấp gáp, dồn
dập, liên hồi của tiếng trống. Hiểu như vậy có phần gượng ép. Đêm khuya không ai đánh
trống dồn dập, liên hồi. Vả lại trống điểm canh lại càng không đánh dồn dập được. Câu

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
thơ chưa nhắc đến chủ thể nhưng thực tế đã là một câu để gợi tình. Một mình đối diện
với đêm khuya, nhân vật trữ tình ngán ngẩm bởi thời gian trôi nhanh mà tình duyên thì
vẫn còn dang dở. Thời gian không chỉ nhanh từng ngày, từng tháng, từng năm mà còn
nhanh ngay cả mỗi canh giờ. Bởi thế mà ngay cả lúc, thời gian tưởng như có bước đi
chậm nhất thì nó vẫn cứ trôi vội vã. Vậy là cụm từ trống canh dồn có thể hiểu : thời gian
trôi nhanh nên cảm giác các canh ngắn lại. Cũng vì thế mà tiếng trống điểm canh cũng
dồn lại gần nhau hơn.

Giữa cái nền không gian rợn ngợp cô đơn ấy hiện lên một hình ảnh thật bẽ bàng :

Trơ cái hồng nhan với nước non

Động từ trơ được đẩy lên đầu câu đứng ngay trước chủ thể “hồng nhan”. Từ hồng nhan
(sắc mặt hồng) chỉ dung nhan người phụ nữ, cũng là khái niệm chỉ phụ nữ nói chung
thiên về ngợi khen vẻ đẹp. Thế mà lại “trơ cái hồng nhan”. Chủ thể đã mất hoàn toàn
cảm giác, trơ ra, chai lì đi trước cuộc đời. Đã vậy từ hồng nhan lại nằm ngay sau từ cái
vốn không đi liền với danh từ chỉ người. Câu thơ mỉa mai, rẻ rúng đến xót xa. Nhịp thơ
chắc khoẻ như gân lên ở đầu câu nhưng lại chùng xuống ở cuối câu như muốn ngân thêm
mãi cảm giác bẽ bàng.

Câu thơ buồn. Tình buồn, cảnh cũng buồn. Vì thế cũng là hợp lôgíc khi ở hai câu thực,
nhân vật trữ tình tìm đến rượu :

Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.

Chủ thể trữ tình mượn rượu để tìm quên nhưng say rồi lại tỉnh. Tỉnh là tỉnh rượu nhưng
cũng lại là tỉnh trước hiện thực bẽ bàng. Cụm từ say lại tỉnh gợi cái vòng lẩn quẩn : buồn
– mượn rượu để tìm quên – nhưng tỉnh rượu, nỗi buồn lại nhân lên gấp bội phần. Hương
tình sao cũng giống như hương rượu, khiến ta say. Và nếu như sau cơn say rượu, ta mệt
mỏi rã rời thì sau một thoáng hương tình rất có thể ta phải đau đớn, xót xa.

Câu thơ thứ tư mới thực là một câu tả thực. Câu thơ gợi ra nguyên nhân của sự bẽ bàng :

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn

Xưa nay, vầng trăng tròn đầy vốn tượng trưng cho sự viên mãn của hạnh phúc lứa đôi.
Nhưng ở câu thơ này, nó là một sự khao khát. Niềm khát khao của bất kì một người phụ
nữ nào trên thế gian này, khát khao hạnh phúc, khát khao thoát khỏi nỗi cô độc, lẻ loi.
Nhiều người vẫn dựa vào những câu chuyện về tình duyên của Xuân Hương để lí giải
nghĩa của câu thơ này. Thế nhưng, đó chỉ là sự suy luận với mong mỏi tìm hiểu cặn kẽ
cụ thể một hình ảnh thơ. Không thể nói rằng cả hai lần làm lẽ, Hồ Xuân Hương đều

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
không hạnh phúc. Mặc dù có thể là gắng gượng nhưng phải làm lẽ ở thời phong kiến
cũng không có gì là ghê gớm. Xuân Hương có buồn nhưng không kêu ca. Nàng chỉ tiếc
hạnh phúc lứa đôi đã có những lúc tròn đầy sao giờ “xế bóng” mà lại không viên mãn.
Hạnh phúc sao không trọn vẹn. Câu thơ không đơn giản thế, không chỉ là nỗi buồn của
riêng Xuân Hương vì chuyện hạnh phúc lứa đôi dang dở. Ai dám khẳng định rằng tất cả
mọi người phụ nữ trong mọi thời đại đều chắc chắn hạnh phúc, không cảm thấy cô đơn
khi có đủ cặp, đủ đôi. Nỗi buồn của nhân vật trữ tình trong bài thơ là nỗi buồn chung. Đó
là nỗi khát khao một hạnh phúc vẹn tròn. Nhất là những người phụ nữ không may mắn
trong chuyện tình duyên, tuổi xuân cứ lạnh lùng trôi đi mà hạnh phúc tìm hoài không
thấy.

Sự khác biệt lớn nhất thể hiện bản lĩnh của Hồ Xuân Hương là ở nữ sĩ, phẫn uất bao giờ
cũng đi liền với phản kháng. Hai câu thơ luận chính là hai câu nói lên cái bản lĩnh ấy của
Hồ Xuân Hương :

Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,

Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.

Hai câu thơ đăng đối và chắc khoẻ được tạo nên từ nghệ thuật đảo ngữ và luật đối quy
định trong câu luận. Một nhỏ bé và yếu ớt (đám rêu). Một là vật vô tri (đá). Nhưng thiên
nhiên lại chở cái phẫn uất của lòng người nên dù yếu ớt mà vẫn tràn đầy sức sống (từng
đám rêu xiên ngang mặt đất). Dù vô tri, đá vẫn cựa động, quẫy đạp, phá phách (mấy hòn
đá đâm toạc chân mây). Bản lĩnh của Hồ Xuân Hương không chỉ tìm thấy trong ý nghĩa
của sự miêu tả. Nó nằm ngay ở cách dùng từ. Ngôn ngữ của Hồ Xuân Hương mạnh mẽ,
bướng bỉnh và phải là độc đáo : xiên ngang, đâm toạc. Chúng ta gặp nhiều cách dùng từ
này trong thơ của Xuân Hương : xoạc cẳng, phường lòi tói, chín mõm mòm… Đó là
phong cách ngôn ngữ riêng của Bà chúa thơ Nôm Xuân Hương.

Hai câu thơ tả cảnh nhưng cũng là để thể hiện cá tính Hồ Xuân Hương – con người
không dễ dàng bằng lòng hoàn cảnh. Nhưng nếu chỉ có vậy, thơ Xuân Hương sẽ khô
khan và gượng ép. Bởi thế hai câu thơ cuối là hai câu nói thực lòng người phụ nữ :

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,

Mảnh tình san sẻ tí con con !

Dù gắng gượng, bài thơ vẫn kết thúc trong tâm trạng chán chường. Từ ngán nỗi nói lên
điều đó. Xuân Hương ngán ngẩm nỗi đời éo le, cũng là ngán ngẩm số phận mình bạc
bẽo. Tạo hoá cho bốn mùa xoay vần trở lại nhưng tuổi xuân mãi mãi qua đi. Mùa xuân
của đất trời mỗi năm một mới. Nhưng mùa xuân của cuộc đời chỉ có một chiều tàn úa.
Hai từ lại trong câu này có nghĩa khác nhau. Một từ là “thêm lần nữa”, một từ là “trở
lại”. Nhịp câu thơ kéo dài như nỗi chán chường, sự cô đơn bất tận của nhân vật trữ tình.
CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
Câu thơ cuối là sự sáng tạo tuyệt vời của nghệ thuật tăng tiến :

Mảnh tình san sẻ tí con con

Mảnh tình đã ít đã nhỏ, lại còn san sẻ nên thành ra chỉ còn lại tí con con, đã tí lại con
con, hầu như chẳng còn gì. Câu thơ là tâm sự của người đi làm lẽ :

Tối tối chị giữ mất chồng

Chị cho manh chiếu nằm suông chuồng bò

(Ca dao)

Cảnh chồng chung vợ chạ thực sự là một dấu ấn khắc sâu vào cuộc đời bất hạnh, chán
chường của người phụ nữ mà trong hoàn cảnh nào cũng không nguôi khát vọng yêu
thương.

Trong thơ ca trung đại, cái Tôi cá nhân giữ một vị trí rất khiêm tốn, nó nhỏ bé và yếu ớt
nấp sau một cái ta đầy kiêu ngạo. Nhưng những người nghệ sĩ như Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ đều không chấp nhận thực tế ấy. Với tài năng, tình đời và
bản lĩnh sáng tạo của mình, họ đã dũng cảm đưa cái Tôi cá nhân với những tâm trạng rất
riêng, rất người, rất đời thường vào những trang thơ, trang văn. Và đó đều là cái tình đời,
tình người của những người nghệ sĩ có tấm lòng nhân đạo và tư tưởng nhân văn sâu sắc.

Chùm 3 bài Tự tình của Hồ Xuân Hương, mỗi bài có một vẻ riêng. Dù sao cũng phải nói
rằng ở bài này thấy ít sự ngao ngán hơn. Thơ vẫn có những lúc phá phách nhưng không
phải theo kiểu bất cần. Bài thơ nghiêng hơn về âm hưởng trữ tình. Nỗi buồn đong đầy
nhưng vẫn lắng sâu, không hời hợt. Nhìn thẳng để viết thật về lòng mình, bài thơ không
chỉ là tâm sự của Hồ Xuân Hương. Bài thơ còn mang ý nghĩa nhân văn cao cả.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
CÂU CÁ MÙA THU

Nguyễn Khuyến

1. Khái quát

“Thu điếu” nằm trong chùm thơ thu ba bài “nức danh nhất” về thơ nôm của Nguyễn
Khuyến. Bài thơ nói lên một nét thu đẹp tĩnh lặng nơi làng quê xưa, biểu lộ mối tình thu
đẹp mà cô đơn, buồn của một nhà nho nặng tình với quê hương đất nước. “Thu
điếu” cũng như “Thu ẩm”, “Thu vịnh” chỉ có thể được Nguyễn Khuyến viết vào thời
gian sau khi ông đã từ quan về sống ở quê nhà (1884).

II. Đọc hiểu

1. Đề

Mở ra một không gian nghệ thuật, một cảnh sắc mùa thu đồng quê. Chiếc ao thu “nước
trong veo” có thể nhìn được rong rêu tận đáy, tỏa ra khí thu “lạnh lẽo” như bao trùm
không gian. Không còn cái se lạnh đầu thu nữa mà là đã thu phân, thu mạt rồi nên
mới “lạnh lẽo” như vậy. Trên mặt ao thu đã có “một chiếc thuyền câu bé tẻo teo” tự bao
giờ. “Một chiếc” gợi tả sự cô đơn của thuyền câu. “Bé tẻo teo” nghĩa là rất bé nhỏ; âm
điệu của vần thơ cũng gợi ra sự tun hút của cảnh vật (trong veo – bé tẻo teo) – Đó là một
nét thu đẹp và êm đềm.

2. Thực

Tả không gian 2 chiều. Màu sắc hòa hợp. có “sóng biếc” với “lá vàng”. Gió thổi nhẹ
cũng đủ làm cho chiếc lá thu màu vàng “sẽ đưa vèo”, làm cho sóng biếc lăn tăn từng làn
từng làn “hơi gợn tí”. Phép đối tài tình làm nổi bật một nét thu, tô đậm cái nhìn thấy và
cái nghe thấy. Ngòi bút của Nguyễn Khuyến rất tinh tế trong dùng từ và cảm nhận, lấy
cái lăn tăn của sóng “hơi gợn tí” phối cảnh với độ bay xoay xoay “sẽ đưa vèo” của chiếc
lá thu. Chữ “vèo” là một nhãn tự mà sau này thi sĩ Tản Đà vừa khâm phục, vừa tâm đắc.
Ông thổ lộ một đời thơ mới có được một câu vừa ý: “Vèo trông lá rụng đầy sân” (cảm
thu, tiễn thu).

3. Luận

Bức tranh thu được mở rộng dần ra. Bầu trời thu “xanh ngắt” thăm thẳm, bao la. Áng
mây, tầng mây (trắng hay hồng?) lơ lửng nhè nhẹ trôi. Thoáng đãng, êm đềm, tĩnh lặng
và nhẹ nhàng. Không một bóng người lại qua trên con đường làng đi về các ngõ xóm:
“Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”. “Vắng teo” nghĩa là vô cùng vắng lặng không một
tiếng động nhỏ nào, cũng gợi tả sự cô đơn, trống vắng. “Ngõ trúc” trong thơ Tam nguyên
Yên Đổ lúc nào cũng gợi tả một tình quê nhiều bâng khuâng, man mác:

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
“Dặm thế, ngõ đâu từng trúc ấy

Thuyền ai khách đợi bến dâu đây?”

(Nhớ núi Đọi)

“Ngõ trúc” và “tầng mây” cũng là một nét thu đẹp và thân thuộc của làng quê. Thi sĩ như
đang lặng ngắm và mơ màng đắm chìm vào cảnh vật.

4. Kết

“Thu điếu” nghĩa là mùa thu, câu cá. 6 câu đầu mới chỉ có cảnh vật: ao thu, chiếc
thuyền câu, sóng biếc, lá vàng, tầng mây, ngõ trúc… mãi đến phần kết mới xuất hiện
người câu cá. Một tư thế nhàn: “tựa gối ôm cần”. Một sự đợi chờ: “lâu chẳng được”. Một
cái chợt tỉnh khi mơ hồ nghe “Cá đậu đớp động dưới chân bèo”. Người câu cá như đang
ru hồn mình trong giấc mộng mùa thu. Người đọc nghĩ về một Lã Vọng câu cá chờ thời
bên bờ sông Vị hơn mấy nghìn năm về trước. Chỉ có một tiếng cá “đớp động” sau tiếng
lá thu “đưa vèo”, đó là tiếng thu của làng quê xưa. Âm thanh ấy hòa quyện với “Một
tiếng trên không ngỗng nước nào”, như đưa hồn ta về với mùa thu quê hương. Người câu
cá đang sống trong một tâm trạng cô đơn và lặng lẽ buồn. Một cuộc đời thanh bạch, một
tâm hồn thanh cao đáng trọng.

III. Kết luận

Xuân Diệu đã hết lời ca ngợi cái điệu xanh trong Thu điếu. Có xanh ao, xanh sóng, xanh
trời, xanh tre, xanh bèo… và chỉ có một màu vàng của chiếc lá thu “đưa vèo”. Cảnh đẹp
êm đềm, tĩnh lặng mà man mác buồn. Một tâm thế nhàn và thanh cao gắn bó với mùa thu
quê hương, với tình yêu tha thiết. Mỗi nét thu là một sắc thu tiếng thu gợi tả cái hồn thu
đồng quê thân thiết. Vần thơ: “veo – teo – vèo – teo – bèo”, phép đối tạo nên sự hài hoà
cân xứng, điệu thơ nhẹ nhàng bâng khuâng… cho thấy một bút pháp nghệ thuật vô cùng
điêu luyện, hồn nhiên – đúng là xuất khẩu thành chương. Thu điếu là một bài thơ thu, tả
cảnh ngụ tình tuyệt bút.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
BÀI CA NGẤT NGƢỞNG

Nguyễn Công Trứ

I. Khái quát chung

-Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) Hiệu là Hi Văn quê ở Uy Viễn, Nghi Xuân, Hà Tĩnh.
học giỏi, giàu chí khí, tài hoa, đỗ thủ khoa. Văn võ toàn tài, nhiều thăng trầm trên đường
công danh, hoan lộ. Giàu lòng yêu nước thương dân. Lấn biển, khai hoang, di dân lập ra
2 huyện Tiền Hải và Kim Sơn. Năm 80 tuổi vẫn xin vua cần quân ra trận đánh Pháp
(1858).

Thơ văn để lại: Trên 50 bài thơ, trên 60 bài hát nói và một bài phú nôm nổi tiếng “Hàn
nho phong vị phú”, một số câu đối nôm rất thâm thúy. Đi thi tự vinh, Nợ tang bồng, Nợ
công danh, Chí nam nhi, Trên vì nước, dưới vì nhà, Bài ca ngất ngưởng… là những bài
thơ rất nổi tiếng của Nguyễn Công Trứ.

-“Bài ca ngất ngưởng” viết sau năm 1848 – là năm Nguyễn Công Trứ về trí sĩ ở Hà Tĩnh
quê nhà.

– Như một lời tự thuật cuộc đời, qua đó Nguyễn Công Trứ tự hào về tài năng và công
danh bày tỏ một quan niệm sống tài tử, phóng khoáng… ngoài vòng kiềm tỏa.

Bố cục bài hát nói

– Khổ đầu (4 câu): Có tài danh nên ngất ngưởng.

– Khổ giữa (4 câu): Có danh vọng, về trí sĩ càng ngất ngưởng.

– Hai khổ dôi (8 câu tiếp): Một cuộc sống tài tử, phóng túng ngất ngưởng.

– Khổ xếp (3 câu cuối): Một danh thần nên ngất ngưởng.

II. Đọc hiểu

* Ngất ngưởng: Không vững ở chỗ cheo leo dễ đổ, dễ rơi (từ điển tiếng Việt). Ở bài thơ
này, nên hiểu là một con người khác đời, một cách sống khác đời và bất chấp mọi người.

1. Khổ đầu, câu 1, 2 đối lập giữa phận sự mang tầm vóc cũ trụ lớn lao với cảnh ngộ đã
vào lồng” rất chật hẹp tù túng. Thế mà ông Hi Văn đây – tự xưng rất đỗi kiêu hãnh tự
hào – vẫn thi thố được tài năng, học giỏi, thi hương đỗ giải nguyên (thủ khoa) làm quan
võ là tham tán, làm quan văn là Tổng đốc Đông. Là một con người có tài thao lược nên
ta (ông Hi Văn) đã nên tay ngất ngưởng, một con người khác đời, khác thiên hạ, và bất
chấp mọi người. Câu 3, 4 với cách ngắt nhịp (3 – 3 – 4 – 3 – 3 – 2) đã tạo nên một giọng
nói điệu hào hứng:
CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
“Khi thủ khoa/ khi tham tán/ khi tổng đốc Đông/

Gồm thao lược/ đã nên tay/ ngất ngưởng”

2. Khổ giữa: Tác giả khẳng định mình là một con người có tài hình bang tế thế, lúc loạn
thì giúp nước “bình Tây cờ đại tướng”, lúc bình thì giúp vua làm “phủ doãn Thừa
Thiên”. Đó là việc đã qua, còn nay ta đã về trí sĩ, nên ta sống ngất ngưởng bất chấp mọi
người:

“Đô môn giải tố chi niên

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng”

Nay đã trả áo mũ cho triều đình, ta về quê không cưỡi ngựa mà là cưỡi bò vàng; con bò
vàng của ta cũng đeo đạc ngựa, đó là một sự ngất ngưởng, rất khác người.

3. Khổ dôi (hai khổ 3, 4) nói lên một cách sống ngất ngưởng. Xưa là một danh tướng (tay
kiếm cung) thế mà nay rất từ bi hiền lành, bình dị. Đi vãn cảnh chùa chiền, đi thăm cảnh
đẹp (Rú Nài): “Kìa núi nọ phau phau mây trắng”, ông đã mang theo “một đôi dì” (một
hai nàng hầu). Và do đó “Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”. Bụt cười hay thiên hạ
cười, hay ông Hi Văn tự cười mình? Chuyện “được, mất” là lẽ đời như tích “thất mã tái
ông” mà thôi, chẳng bận tâm làm gì! Chuyện “khen, chê” của thiên hạ, xin bỏ ngoài tai
như ngọn gió đông (xuân) thổi phơi phới qua.

Không quan tâm đến chuyện được, mất, bỏ ngoài tai mọi lời khen, chê thị phi, ông đã
sống những tháng ngày thảnh thơi, vui thú. Tuy ngất ngưởng mà vẫn trong sạch, thanh
cao. Cách ngắt nhịp 2, nghệ thuật hòa thanh (bằng trắc) lối nhấn, lối diễn tả trùng điệp đã
tạo nên câu thơ giàu tính nhạc, biểu lộ một phong thái ung dung, yêu đời, ham sống,
chẳng vướng chút bụi trần:

“Khi ca/ khi tửu/ khi cắc/ khi tùng

Không Phật/ không tiên/ không vướng tục”

4. Khổ xếp, Nguyễn Công Trứ tự hào khẳng định mình là một danh thần thủy chung
trong đạo “vua tôi” chẳng kém gì những Trái Tuân, Nhạc Phi, Hàn Kỳ, Phú Bật –
những anh tài đời Hán, đời Tống bên Trung Quốc. Rồi ông đĩnh đạc tự xếp vị thế của
minh trong lịch sử:

“Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú

Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung

Trong triều ai ngất ngưởng như ông”

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
Hai so sánh xa gần, ngoại, nội, Bắc sử và trong triều (Nguyễn) tác giả đã kết thúc bài hát
nói bằng một tiếng “ông” vang lên đĩnh đạc hào hùng.

III. Kết luận

Tóm lại, với Nguyễn Công Trứ, phải có thực tài, phải có thực danh phải “vẹn đạo vua
tôi” thì mới trở thành “tay ngất ngưởng”, “ông ngất ngưởng” được và cách sống ngất
ngưởng của ông thể hiện chất tài hoa, tài tử, không ô trọc, “không vướng tục” cũng
không thoát li.

Nhan đề, thi đề rất độc đáo. Cách bộc lộ bản ngã của ông Hi Văn cũng rất độc đáo.
Chất thơ, chất nhạc hài hòa, phối hợp tài tình. Các câu 3, 4, 15, 16 là tuyệt cú. Nguyễn
Công Trứ, Cao Bá Quát, Dương Khuê, Nguyễn Khuyến, Tản Đà… là những nhà thơ cự
phách để lại một số bài hát nói tuyệt tác. Nguyễn Công Trứ đã tạo nên một giọng điệu
mạnh mẽ hào hùng, chất tài tử hòa nhịp với chí anh hùng, đó là cốt cách, là bản sắc
những bài thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
THƢƠNG VỢ

Trần Tế Xƣơng

I. Khái quát chung

Tú Xương là bút danh của Trần Tế Xương. Học vị tú tài, lận đận mãi trong con đường
khoa cử: “Tám khoa chưa khỏi phạm trường quy”, chỉ sống 37 năm, nhưng sự nghiệp
thơ ca của ông thì bất tử. Quê ở làng Vị Xuyên, thành phố Nam Định. “Ăn chuối ngự,
đọc thơ Xương” là câu nói tự hào của đồng bào quê ông.

Tú Xương để lại khoảng 150 bài thơ nôm, vài bài phú và văn tế. Có bài trào phúng. Có
bài trữ tình. Có bài vừa trào phúng vừa trữ tình. Giọng thơ trào phúng của Tú Xương vô
cùng cay độc, dữ dội mà xót xa. Ông là nhà thơ trào phúng bậc thầy trong nền văn học
cận đại của dân tộc.

Bài thơ ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người vợ, của người phụ nữ đảm đang chịu
thương chịu khó vì chồng con.

II. Đọc hiểu

Hình ảnh bà Tú, ngƣời vợ hiền thảo

– Câu 1, 2 giới thiệu bà Tú là một người đàn bà giỏi buôn bán, tần tảo “quanh năm”,
buôn bán kiếm sống ở “mom sông”, cảnh đầu chợ, bến đò, buôn thúng bán mẹt. Chẳng
có cửa hàng cửa hiệu. Vốn liếng chẳng có là bao. Thế mà vẫn “Nuôi đủ năm con với một
chồng?”. Chồng đậu tú tài, chẳng là quan cũng chẳng là cùng đinh nên phải “ăn lương
vợ”. Một gia cảnh “Vợ quen dạ để cách năm đôi”. Các số từ: “năm” (con), “một”
(chồng) quả là đông đúc. Bà Tú vẫn cứ “nuôi đủ”, nghĩa là ông Tú vẫn có “giày giôn anh
dận, ô Tây anh cầm”,… Câu thứ 2 rất hóm hỉnh.

– Câu 3-4 mượn hình ảnh con cò trong ca dao, tạo thành “thân cò” – thân phận lam lũ vất
vả, “lặn lội”. Cò thì kiếm ăn nơi đầu ghềnh, cuối bãi, bà Tú thì lặn lội… khi quãng vắng,
nơi mom sông. Cảnh lên đò xuống bến, cảnh cãi vã, giành giật bán mua “eo sèo mặt
nước buổi đò đông” để kiếm bát cơm manh áo cho chồng, con. Hình ảnh “thân cò” rất
sáng tạo, vần thơ trở nên dân dã, bình dị. Hai cặp từ láy: “lặn lội” và “eo sèo” hô ứng,
gợi tả một cuộc đời nhiều mồ hôi và nước mắt.

– Câu 5, 6, tác giả vận dụng rất hay thành ngữ: “Một duyên hai nợ” và “năm nắng mười
mưa”. Ba tiếng đối ứng thượng, hạ: “âu đành phận”, “dám quản công” như một tiếng thở
dài. Có đức hy sinh. Có sự cam chịu số phận. Có cả tấm lòng chịu đựng, lo toan vì nghĩa
vụ người vợ, người mẹ trong gia đình. Tú Xương có tài dùng số từ tăng cấp (1-2-5-10)
để nói lên đức hy sinh thầm lặng cao quý của bà Tú:

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
“Một duyên hai nợ/âu đành phận,

Năm nắng mười mưa/dám quản công”.

Tóm lại, bà Tú là hiện thân của cuộc đời vất vả lận đận, là hội tụ của bao đức tính tốt
đẹp: tần tảo, gánh vác, đảm đang, nhẫn nại,… tất cả lo toan cho hạnh phúc chồng con.
Nhà thơ bộc lộ lòng cảm ơn, nể trọng.

Nỗi niềm nhà thơ

– Câu 7 là một tiếng chửi, đúng là cách nói của Tú Xương vừa cay đắng vừa phẫn nộ:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc”. “Cái thói đời” đó là xã hội dở Tây dở ta, nửa phong kiến
nửa thực dân: đạo lý suy đồi, lòng người đảo điên. Tú Xương tự trách mình là kẻ “ăn ở
bạc” vì thi mãi chẳng đỗ, chẳng giúp được ích gì cho vợ con. Suốt đời vợ con phải khổ,
như có bài thơ ông tự mỉa: “Vợ lăm le ở vú – Con tập tểnh đi bộ – Khách hỏi nhà ông
đến – Nhà ông đã bán rồi”.

– Câu 8 thấm thía một nỗi đau chua xót. Chỉ có Tú Xương mới nói được rung động và
xót xa thế: “Có chồng hờ hững cũng như không”. “Như không” gì? Một cách nói buông
thõng, ngao ngán. Nỗi buồn tâm sự gắn liền với nỗi thế sự. Một nhà nho bất đắc chí!

III. Kết luận

Bài thơ có cái hay riêng. Hay từ nhan đề. Hay ở cách vận dụng ca dao, thành ngữ và
tiếng chửi. Chất thơ mộc mạc, bình dị mà trữ tình đằm thắm. Trong khuôn phép một bài
thơ thất ngôn bát cú Đường luật, từ thanh điệu, niêm đến phép đôi được thể hiện một
cách chuẩn mực, tự nhiên, thanh thoát. Tác giả vừa tự trách mình vừa biểu lộ tình thương
vợ, biết ơn vợ. Bà Tú là hình ảnh đẹp đẽ của người phụ nữ Việt Nam trong một gia đình
đông con, nhiều khó khăn về kinh tế. Vì thế nhiều người cho rằng câu thơ “Nuôi đủ năm
con với một chồng” là câu thơ hay nhất trong bài “Thương vợ”.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC

Nguyễn Đình Chiểu

I. Khái quát chung

Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888) là ngôi sao sáng của nền văn nghệ đất nước ta
trong nửa sau thế kỷ 18. Bị mù, vừa dạy học, làm thuốc và viết văn thơ. Sống vào thời kỳ
đen tối của đất nước: giặc Pháp xâm lăng, đất Nam Kỳ lần lượt rơi vào tay giặc. Tinh
thần nhân nghĩa, lòng yêu nước thương dân và căm thù giặc Pháp xâm lược là những tư
tưởng, tình cảm sâu sắc, mãnh liệt trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.

Tác phẩm:

– Truyện thơ: Lục Vân Tiên, Dương Từ Hà Mậu, Ngư Tiều y thuật vấn đáp.

– Văn tế: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế Trương Định, Văn tế Nghĩa sĩ trận vong Lục
tỉnh.

– Thơ: Nhiều bài thơ Đường luật – cảm hứng yêu nước.

– Cần Giuộc thuộc Long An. Trận Cần Giuộc là một trận đánh lớn của quân ta, diễn ra
đêm 14/12 âm lịch (1861). Hơn 20 nghĩa quân đã anh dũng hy sinh. Tuần phủ Gia Định
là Đỗ Quang đã yêu cầu Đồ Chiểu viết bài văn tế này. Ngay sau đó, vua Tự Đức ra lệnh
phổ biến bài văn tế trong các địa phương khác.

– Bài văn tế ca ngợi những nghĩa sĩ – nông dân sống anh dũng, chết vẻ vang trong sự
nghiệp đánh Pháp để cứu dân, cứu nước.

II. Đọc hiểu: Hình ảnh ngƣời nghĩa sĩ

1. Nguồn gốc: Nông dân nghèo khổ “cui cút làm ăn”, cần cù lao động “chỉ biết ruộng
trâu ở trong làng bộ”. Chất phác hiền lành:

“Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;

Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó:

2. Tâm hồn: Yêu, ghét dứt khoát, rõ ràng: “ghét thói mọi như nhà ông ghét cỏ” “đâu
dung lũ treo dê bán chó”. Căm thù quyết không đội trời chung với giặc Pháp:

“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan,

Ngày xem ống khói chạy đen sĩ, muốn ra cắt cổ”

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
Yêu nước, yêu xóm làng quê hương, tự nguyện đứng lên đánh giặc: “Mến nghĩa làm
quân chiêu mộ”, “phen này xin ra sức đoạn kình”, “chuyến này dốc ra tay bộ hổ”

3. Trang bị

– Không phải là lính chính quy của Triều đình, “chẳng phải quân cơ, quân vệ”, chẳng có
“bao tấu, bầu ngòi”. Họ chỉ là “dân ấp dân lân”, vì “bát cơm manh áo” mà đánh giặc.
Trang bị thô sơ, áo mặt chỉ là “một manh áo vải”, vũ khí là một ngọn tầm vông, một lưỡi
gao phay, hoặc “hỏa mai đánh bằng rơm con cúi” …

Kẻ thù của họ là mã tà, ma ní, là thằng Tây “bắn đạn nhỏ đạn to”, có “tàu thiếc, tàu đồng
súng nổ”.

4. Chiến đấu dũng cảm và anh dũng hy sinh:

– Dũng mãnh tiến công như vũ bão, “đạp rào lướt tới”, “kẻ đâm ngang, người chém
ngược”, “bọn hè trước lũ ó sau”.

– Coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, lẫm liệt hiên ngang: “nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ
đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có”, “trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ”.

– Chiến công oanh liệt: “đốt xong nhà dạy đạo kia”, cũng chém rớt đầu quan hai nọ”,
“làm cho mã tà, ma ní hồng kinh”

– Hy sinh đột ngột trên chiến địa: “Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm
vội bỏ”.

Tóm lại, Nguyễn Đình Chiểu đã ngợi ca, khâm phục và biết ơn các nghĩa sĩ. Ông
đã dựng lên một tượng đài bi tráng về người nông dân đánh giặc cứu nước trong buổi
đầu giặc Pháp xâm lăng đất nước ta.

Tình cảm đẹp, tƣ tƣởng rất tiến bộ

“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” hàm chứa những tình cảm đẹp, tư tưởng rất tiến bộ của nhà
thơ Nguyễn Đình Chiểu.

– Ca ngợi lòng yêu nước, căm thù giặc và tinh thần tự nguyện đánh giặc để cứu nước của
các nghĩa sĩ. Khẳng định vị trí và vai trò của người nông dân trong lịch sử chống xâm
lăng vì độc lập, tự do của Tổ quốc.

– Tiếc thương những nghĩa sĩ đã anh dũng hy sinh (câu 18, 25)

– Khẳng định một quan niệm về sống và chết: chết vinh còn hơn sống nhục. Không thể
“theo quân tà đạo”, “ở lính mã tà” đánh thuê, làm bia đỡ đạn, sống cuộc đời bán nước
cầu vinh “chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ”. Trái lại, phải sống anh dũng,
CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
chết vẻ vang: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn
kiếp nguyện được trả thù kia…”.

– Tự hào về các nghĩa sĩ đã bỏ mình vì Tổ quốc. Tên tuổi họ, tinh thần họ bất tử: “danh
thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen…”, “tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ”, “cây
hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm”… Tóm lại, lần đầu tiên trong nền văn học dân tộc,
Nguyễn Đình Chiểu đã khắc hoạ và ca ngợi người nông dân Nam Bộ và những anh hùng
thời đại đã sống, chiến đấu và hy sinh vì đại nghĩa.

3. Nghệ thuật

1. Ngôn ngữ bình dị như cách nói, cách nghĩ và cách cảm của nhân dân miền nam. Các
kiểu câu tứ tự, song quang, cách cú, gối hạc, câu nào cũng đặc sắc, khô ứng, đối chọi
cân xứng đẹp.

2. Chất chữ tình kết hợp với chất anh hùng ca tạo nên màu sắc bi tráng.

3. Hình tượng người chiến sĩ nghĩa quân được khắc họa tuyệt đẹp trong tư thế lẫm liệt
hiên ngang.

Có thể nói, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một bài ca yêu nước chống xâm lăng, là kiệt
tác trong kho tàng văn tế cổ kim của dân tộc.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
HAI ĐỨA TRẺ

Thạch Lam

I. Khái quát chung

Thạch Lam (1910-1942) tên thật là Nguyễn Tường Vinh (sau đổi là Nguyễn Tường
Lân). Nhà văn, nổi tiếng về truyện ngắn. Viết xúc động về người nghèo, những em bé
nhà nghèo. Văn nhẹ nhàng, tinh tế với tấm lòng xót thương, nhân hậu. Chất thơ man mác
trong văn xuôi.

Tác phẩm – Các tập truyện ngắn: Gió đầu mùa (1977), Nắng trong vườn (1938), Sợi tóc
(1942), Tập tuỳ bút Hà Nội 36 phố phường…

- Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” rút trong tập “Nắng trong vườn” (1938)

- Tác phẩm nói lên lòng xót thương đối với những kỷ niệm và ước mơ bình dị, cảm động
của những em bé nơi phố huyện nghèo ngày xưa.

II. Đọc hiểu

1. Phố huyện nghèo và những người nghèo

– Phố huyện là một thị trấn nhỏ và nghèo. Xung quanh là cánh đồng và xóm làng. Gần
bờ sông. Có đường sắt chạy qua, có một ga tàu. Chiều hè tiếng ếch nhái râm ran. Đên
xuống, phố vắng, tối im lìm. Rất ít đèn.

– Chợ chiều vãn. Chỉ có vài đứa bé lang thang đi lại nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre…
bóng chập chờn.

– Chị Tí mò cua bắt tép, tối đến dọn hàng nước dưới gốc bàng; dọn hàng từ chập tối cho
đến đêm “chả kiếm được bao nhiêu?”. Thằng cu bé con chị Tí – xách điếu đóm và
khiêng 2 cái ghế trên lưng ở trong ngõ đi ra trông thật tội nghiệp.

– Bà cụ Thi hơi điên, cười khanh khách, ngửa cổ ra đàng sau, uống một hơi cạn sạch cút
rượu, lảo đảo lần vào bóng tối.

– Vợ chồng bác xẩm “tiếng đàn bầu bần bật”, thằng con bò ra đất…

– Bác phở Siêu gánh hành đi trong đêm, tiếng đòn gánh kĩu kịt, bóng bác mênh mang,…
Phở của bác là món quà xa xỉ mà chị em Liên không bao giờ mua được.

– Phố tối, đường ra sông tối, cái ngõ vào làng lại sẫm đen hơn. Một vài ngọn đèn leo
lét… Ngọn đèn con của chị Tí, bếp lửa của bác Siêu chiếu sáng một vùng đất cát, ngọn
đèn của Liên từng hột sáng lọt qua phên nứa…

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
Tóm lại, phố nghèo, yên tĩnh và đầy bóng tối. Con người phố huyện âm thầm, lạnh lẽo.
“Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ
hàng ngày của họ? Cách viết nhẹ nhàng, đầy xót thương, thấm một nỗi buồn thấm thía.
Đó là tình cảm nhân đạo của Thạch Lam.

2. Chị em Liên:

– Gia cảnh sa sút nghèo. Cha mất việc. Cả nhà bỏ Hà Nội về quê. Mẹ làng hàng sáo. Chị
em Liên được mẹ cho trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, phên nứa dán giấy nhật
trình.

– An ngây thơ. Liên cảm thấy cô đã lớn, đảm đang, kiêu hãnh vì cái dây xà tích bạc ở
thắt lưng “vì nó tỏ ra chỉ là người con gái lớn và đảm đang”.

– Gian hàng tối âm thầm, đầy muỗi. Đêm nào hai chị em Liên và An cũng ngồi dưới gốc
bàng, trên cái chõng tre để đợi chuyến tàu đêm. Để bán hàng theo lời mẹ dặn. Còn là một
niềm vui nhỏ nhoi.

– An trước lúc ngủ còn dặn chị đánh thức khi tàu đến. Đợi tàu là đợi ánh sáng. Con tàu
từ Hà Nội về mang theo. Con tàu gợi nhớ kỷ niệm tuổi thơ: ngày bố còn đi làm, mẹ
nhiều tiền được hưởng những thức quà ngon lạ, được đi chơi bờ hồ, uống những cốc
nước lạnh xanh đỏ.

– Đợi tàu là đợi những mơ tưởng. Với Liên, trong ký ức và hiện tại “Hà Nội xa xăm. Hà
Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua”.
Thế giới ấy khác hẳn đối với cuộc đời của Liên, của dân nghèo phố huyện, khắc hẳn
vầng sáng ngọn đèn chị Tí và ánh lửa của bác Siêu.

– Giấc ngủ của Liên, lúc đầu mờ dần đi “giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết…” về sau
“mặt chị nặng dần”, chìm dần vào “ngập vào giấc ngủ yên tĩnh,… tĩnh mịch và đầy bóng
tối”.

Tóm lại, ngòi bút của Thạch Lam tả ít mà gợi nhiều, nhỏ nhẹ, làm xúc động người đọc
trước những số phận, những cảnh đời vui ít buồn nhiều, âm thầm, lặng lẽ và đầy bóng
tối. Có mơ ước nhỏ nhoi, bình dị trước một cái gì vừa thuộc về quá vãng, vừa hướng tới
tương lai.

III. Kết luận

Truyện “Hai đứa trẻ” vừa hiện thực vừa mang màu sắc lãng mạn. Cảnh đợi tàu thật xúc
động. Một ngồi bút tinh tế tạo ra những trang văn xuôi nhẹ nhàng đầy chất thơ. Một trái
tim đầy tình người. Văn Thạch Lam cho ta nhiều nhã thú, đúng như nhà văn Nguyễn
Tuân đã nói.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
CHỮ NGƢỜI TỬ TÙ

Nguyễn Tuân

I. Khái quát chung

Nguyễn Tuân (1910-1987) người Hà Nội. Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: tài
hoa, tài tử, uyên bác, độc đáo. Tác phẩm của Nguyễn Tuân là những tờ hoa, trang văn
đích thực thể hiện tấm lòng gắn bó thiết tha với những giá trị văn hóa cổ truyền, với nếp
sống thanh cao, đầy nghệ thuật của ông cha… Nguyễn Tuân sở trường về tuỳ bút.

Tác phẩm tiêu biểu: Vang bóng một thời (1940), Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ
giỏi (1972),…

– “Vang bóng một thời” có 12 truyện xuất bản năm 1940. “Chữ người tử tù” rút trong
“Vang bóng một thời”.

– Tác giả ca ngợi Huấn Cao – một nhà nho chân chính – giàu khí phách chọc trời khuấy
nước, có tài viết chữ, qua đó khẳng định một quan niệm sống: phải biết yêu quý cái đẹp,
đồng thời phải biết coi trọng thiên lương.

II. Đọc hiểu

1. Truyện “Vang bóng một thời” chưa đầy 2500 chữ nhưng hàm chứa một dung lượng
lớn. Chỉ có ba nhân vật và ba cảnh: Quản ngục và viên thơ lại đọc công văn và nói về tử
tù Huấn Cao; Huấn Cao bị giải đến và sự biệt đãi của ngục quan đối với tử tù; cảnh Huấn
Cao cho chữ trong nhà ngục. Cảnh nào cũng hội tụ cả ba nhân vật này.

2. Thơ lại: kẻ giúp việc giấy tờ cho ngục quan. Một con người sắc sảo và có tâm điền tốt.
Mới đọc công văn và nghe ngục quan nói về Huấn Cao, y đã biểu lộ lòng khâm phục:
“thế ra y văn võ đều có tài cả, chà chà!”. Sau đó lại bày tỏ lòng thương tiếc: “… phải
chém những người như vậy, tôi nghĩ mà thấy thương tiếc”. Sau nhiều lần thăm dò, thử
thách, ngục quan đánh giá viên thơ lại: “Có lẽ lão bát này cũng là một người khá đây. Có
lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi. Một kẻ biết yêu mến khí phách, một kẻ
biết tiếc, biết trọng người có tài, hẳn không phải là kẻ xấu hay là vô tình”, Suốt nửa
tháng, tử tù ở trong buồng tối vẫn được viên thư lại gầy gò “dâng rượu và đồ nhắm”. Y
đã trở thành kẻ tâm phúc của ngục quan. Sau khi nghe tâm sự của ngục quan “muốn xin
chữ tử tù”, viên thư lại sốt sắng nói: “Dạ bẩm, ngài cứ yên tâm, đã có tôi” rồi y chạy
ngay xuống trại giam đấm cửa thùm thùm gặp Huấn Cao. Nhờ y mà ngục quan xin được
chữ tử tù. Trong cảnh cho chữ, viên thơ lại run run bưng chậu mực. Đúng y là một người
biết yêu mến khí phách, biết tiếc biết trọng người có tài. Nhân vật thơ lại chỉ là một nét
vẽ phụ nhưng rất thần tình, góp phần làm rõ chủ đề.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
3. Ngục quan

– Chọn nhầm nghề. Giữa bọn người tàn nhẫn, lừa lọc thì ngục quan lại có “tính cách dịu
dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay” chẳng khác nào “một thanh âm trong
trẻo chen vào giữa một bàn đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.

– Lần đầu gặp Huấn Cao trong cảnh nhận tù, ngục quan có “lòng kiêng nể”, lại còn có
“biệt nhỡn” đối riêng với Huấn Cao. Suốt nửa tháng trời, ngục quan bí mật sai viên thơ
lại dâng rượu và đồ nhắm cho tử tù – Huấn Cao và các đồng chí của ông.

– Lần thứ hai, y gặp mặt Huấn Cao, nhẹ nhàng và khiêm tốn bày tỏ “muốn châm chước
ít nhiều” đối với tử tù, nhưng đã bị ông Huấn miệt thị nặng lời, gần như xua đuổi, nhưng
ngục quan vẫn ôn tồn, nhã nhặn “xin lĩnh ý” rồi lui ra.

– Ngục quan là một nhà nho “biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền” suốt đời chỉ ao ước một
điều là “có một ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu đối do tay ông Huấn Cao viết”.
Ngục quan đang sống trong bi kịch: y tâm phục Huấn Cao là một người chọc trời khuấy
nước nhưng lại tự ti “cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”. Viên quản ngục khổ tâm
nhất là “có một ông Huấn Cao trong tay mình, không biết làm thế nào mà xin được chữ”.
Là quản ngục nhưng lại không can đảm giáp mặt tử tù vì y cảm thấy Huấn Cao “cách xa
y nhiều quá?”. Tử tù thì ung dung, trái lại, ngục quan lại lo “mai mốt đây, ông Huấn bị
hành hình mà chưa xin được mấy chữ thì ân hận suốt đời”. Bi kịch ấy cho thấy tính cách
quản ngục là một con người biết phục khí tiết, biết quý trọng người tài và rất yêu cái đẹp.
Y yêu chữ Huấn Cao, chứng tỏ y có một sở thích cao quý. Vì thế khi nghe viên thơ lại
nói lên ước nguyện của ngục quan, Huấn Cao cảm động nói: “Ta cảm cái tấm lòng biệt
nhỡn liên tài của các người. Nào ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có
những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta phụ mất một tấm lòng trong thiên
hạ”. Như vậy, trong vị thế xã hội, ngục quan và tử tù là đối địch, còn trên lĩnh vực nghệ
thuật, họ là tri âm. Huấn Cao đã tri ngộ một kẻ biệt nhỡn liên tài là ngục quan.

– Trong cảnh cho chữ có một hình ảnh kỳ diệu: “ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm
dầu rọi lên ba đầu người đang chăm chú trên một tấm lục bạch còn nguyên vẹn lần hồ”.
Ánh sáng bó đuốc ấy chính là ánh sáng của thiên lương mà tử tù đang chiếu lên và lay
tỉnh ngục quan. Chi tiết ngục quan “khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu cô
chữ đặt trên phiến lục óng”, chi tiết ngục quan vái tử tù một vái, nước mắt rỉ vào kẽ
miệng nghẹn ngào nói: “kẻ mê muội này xin bái lĩnh” là những chi tiết thú vị. Lúc sở
thích nghệ thuật đã mãn nguyện cũng là lúc ánh sáng thiên lương soi tỏ, chiếu rọi tâm
hồn. Một cái vái lạy đầy nhân cách, hiếm có.

– Có thể, sau khi Huấn Cao bị giải vào Kinh thụ hình thì cũng là lúc ngục quan trả áo
mũ, “tìm về nhà quê mà ở” để giữ lấy thiên lương cho lành vững và thực hiện cái sở
thích chơi chữ bấy nay? Nguyễn Tuân đã xây dựng ngục quan bằng nhiều nét vẽ có thần.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
Ngoại hình thì “đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu”. Một con người ưa sống bằng nội
tâm; cái đêm hôm trước đón nhận tử tù, ông sống trong trạng thái thanh thản, gương mặt
ông ta “là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ”. Trong một xã hội phong
kiến suy tàn, chốn quan trường đầy rẫy kẻ bất lương vô đạo, nhân vật ngục quan đúng là
một con người vang bóng. Nhân vật này đã thể hiện sâu sắc chủ đề tác phẩm.

4. Huấn Cao: là nhân vật bi tráng, cao đẹp mang màu sắc lãng mạn.

a – Lúc đầu được giới thiệu gián tiếp qua một tiếng đồn: “cái người mà vùng tỉnh ta vẫn
khen…”, “nhiều người nhấc nhỏm đến cái danh đó luôn…”, “một tên tù có tiếng là…”,
và “thầy có nghe người ta đồn…” – Đó là một con người không phải tầm thường!

– Ngục quan và viên thơ lại mới “kiến kì thanh” mà đã tâm phục Huấn Cao, họ trầm trồ:
“Người đứng đầu…”, “người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và
rất đẹp…”, một tử tù lừng lẫy tiếng tăm “văn võ đều có tài cả”…

– Lấy xa để nói gần, lấy bóng làm lộ hình, sử dụng lối tả gián tiếp… đó là bút pháp
Nguyễn Tuân vận dụng sáng tạo để giới thiệu nhân vật, tạo ra sự cuốn hút nghệ thuật kì
diệu.

b – Là một nhà nho kiệt hiệt dám chọc trời khuấy nước. Chí lớn không thành mà vẫn
hiên ngang. Chết chém cũng chẳng sợ. Một tinh thần gang thép “vô úy” bất khuất. Một
cái “rỗ gông” trước của ngục. Một câu miệt thị ngục quan: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta
chỉ muốn có một điều: Là nhà ngươi đừng tới quấy rầy ta”. Không phải ai cũng có cái
gan dám thách thức cường quyền bạo lực thế đâu?

c – Coi khinh vàng ngọc. Không vì vàng ngọc, vì quyền uy mà “ép mình viết bao giờ?”.
Chữ thì quý thật? Nhất sinh ông mới viết hai bộ tứ bình và một bức trung đường tặng ba
người bạn thân. Không chỉ đẹp ở nét chữ, mà mỗi chữ, mỗi bức thư họa của Huấn Cao là
một bức châm, thể hiện một lý tưởng tung hoành, một hoài bão, một đạo lý cao đẹp. Chữ
của Huấn Cao cho thấy cái tài, cái tầm nhìn của kẻ sĩ chân chính mà ta ngưỡng mộ và
kính phục.

d – Với Huấn Cao thì thiên lương là ngọn lửa, là “ánh sáng đỏ rực” như ngọn đuốc kia.
Nếu ngục quan tâm phục con người nghĩa khí, tài hoa thì Huấn Cao lại nể trọng con
người biệt nhỡn liên tài. Suốt đời ông chỉ “cúi đầu vái lạy hoa mai” thế mà khi nghe viên
thơ lại nói lên tâm sự của chủ mình muốn “xin chữ”, Huấn Cao đã ân hận nói: “Thiếu
chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Cảnh “cho chữ” được miêu tả bằng
bút pháp lãng mạn gợi lên một không khí thiêng liêng bi tráng. Phóng giam ẩm ướt bẩn
thỉu, hôi hám. Lửa đuốc sáng rực. Tấm lụa trắng. Chậu mực thơm lắm. Ba cái đầu cúi
xuống tấm lụa trắng. Huấn Cao hiện ra với vẻ uy nghi, hào hùng. Cổ đeo gông, chân
vướng xiềng, Huấn Cao vung bút viết. “Những nét chữ vuông vắn rõ ràng” hiện lên rực

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
rỡ trên phiến lụa óng. Tư thế đĩnh đạc ung dung. Mai kia ông đã bước lên đoạn đầu đài,
nhưng đêm nay ông vẫn ung dung. Một cử chỉ “đỡ viên quản ngục đứng thẳng người
dậy”. Một lời khuyên: “Ta khuyên thầy quản nên thay chỗ ở đi… thầy quản nên tìm về
nhà quê mà ở đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành
vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Với Huấn Cao thì thiên
lương là cái gốc của đạo lý, có giữ được thiên lương mới biết quý trọng tài năng và cái
đẹp ở đời.

Ở con người Huấn Cao, từ cử chỉ, hành động đến ngông ngữ, từ nét chữ đến phong thái –
đều toát ra một vẻ đẹp vừa phi thường, vừa bình dị, vừa anh hùng, vừa nghệ sĩ, bên cạnh
cái hùng có cái bi, tính vốn khoảnh mà lại trân trọng kẻ biệt nhỡn liên tài, coi thường
vàng bạc quyền uy mà lại đề cao tình bằng hữu, đến chết vẫn nghĩa khí và giữ trọn thiên
lương. Nguyễn Tuân đã dàn cảnh, tả người và kể chuyện, sử dụng những ẩn dụ so sánh,
những tình tiết đan chéo, ràng buộc vào nhau, tạo nên một không gian nghệ thuật cổ
kính, bi tráng nâng nhân vật Huấn Cao lên một tầm vóc lịch sử. Văn học lãng mạn thời
tiền chiến chỉ có một Huấn Cao đẹp hào hùng như vậy.

III. Kết luận

Đọc “Chữ người tử tù” ta càng thấm thía điều mà Vũ Ngọc Phan đã nói: “… văn Nguyễn
Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức”. Nghệ thuật kể chuyện, cấu
trúc tình tiết, lời độc thoại và đối thoại, khắc họa tính cách nhân vật… hầu như không có
một chi tiết nào thừa. Ba nhân vật cùng đồng thời xuất hiện. Cảnh cho chữ là cao trào,
một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Tất cả đều hướng về cái tài, cái đẹp, cái thiên
lương. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt từ Hán Việt rất đắt (pháp trường, tử tù, tử hình,
nhất sinh, bộ tứ bình, bức trung đường, lạc khoản, thiên hạ, thiên lương, lương thiện,
v.v…) tạo nên màu sắc lịch sử, cổ kính và bi tráng. Đúng Nguyễn Tuân là bậc thầy về
ngôn ngữ, rất lịch lãm uyên bác về lịch sử, về xã hội.

Hai câu văn: “Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”, và: “Kẻ mê muội
này xin bái lĩnh” – đẹp như những bức châm trong các thư họa nghìn xưa lưu lại trong
các viện bảo tàng mĩ thuật. Cũng là bài học làm người sáng giá!

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
HẠNH PHÖC CỦA MỘT TANG GIA

Vũ Trọng Phụng

I. Khái quát chung

Vũ Trọng Phụng (1912-1939) quê nội ở Hưng Yên. Ông sống và viết văn tại Hà Nội. Sở
trường về phóng sự, được các báo chí thời bấy giờ gọi là “Ông vua phóng sự đất Bắc”.

Tác phẩm:

– Phóng sự: Cạm bẫy người (1933), Cơm thầy cơm cô (1936), Lục xì (1937), v.v…

– Tiểu thuyết: Giông tố (1936), Số đỏ (1936), Vỡ đê (1936), Trúng số độc đắc (1938),
v.v…

– Kịch: Không một tiếng vang (1931).

Vũ Trọng Phụng có tài châm biếm đả kích cái xã hội thực dân phong kiến tư sản hết sức
bất công, tàn bạo, thối nát… Ông đã sáng tạo ra những nhân vật điển hình bất hủ như
Xuân Tóc Đỏ để chế giễu cái xã hội mà ông gọi là “khốn nạn”, “chó đẻ”.

“Hạnh phúc của một tang gia”, trích toàn bộ chương 15 tiểu thuyết “Số đỏ”, một kiệt tác
của Vũ Trọng Phụng, xuất bản năm 1936.

II. Đọc hiểu

1. Giá trị châm biếm và đả kích cái xã hội thực dân phong kiến tư sản xấu xa, đồi bại và
thối nát.

– Trong gia đình, ông chết, cha chết – một cái chết làm cho nhiều người sung sướng lắm.
Cụ cố Hồng “nhắm nghiền mắt lại mơ màng”… vì cụ chắc thiên hạ “ai cũng phải khen
một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế!”. Ông phán mọc sừng sung sướng vì ông
ta không ngờ rằng “đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến thế” nên đã
được cụ cố Hồng – bố vợ – hứa sẽ chia thêm cho con gái và con rể thêm vài nghìn
đồng… Văn Minh chồng rất hạnh phúc vì từ nay cái chúc thư chia gia tài “sẽ đi vào thời
kỳ thực hành”. Cậu tú Tân được dịp dùng đến mấy cái máy ảnh. Bà Văn Minh sung
sướng vì cái mốt về những bộ đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng viền đen… sẽ đem
đến cho những ai có tang “được hưởng chút hạnh phúc ở đời”. Ông Typn chờ mong các
báo chí phê bình “những chế tạo của mình” trong cuộc cải cách y phục của Âu hóa…
Tuyết thì diện bộ đồ NGÂY THƠ để cho thiên hạ biết rằng “mình chưa đánh mất cả chữ
trinh”, v.v…

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
– Ở ngoài xã hội, hai viên cảnh sát MIN ĐƠ, MIN TOA., giữa lúc không có ai đáng phạt
mà phạt, đương buồn như nhà buôn vỡ nợ thì được có đám thuê nên “sung sướng cực
điểm”. Các quan khách đến đưa mà, bạn của Tuyết, Văn Minh, cô Hoàng Hôn, bà Phó
Đoan, những giai thanh gái lịch được dịp “chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm
nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau…”. Banh thân của cụ cố Hồng đến
đưa đám ma với cái ngực “đầy những huy chương…”, với bộ râu “hoặc dài hoặc ngắn,
hoặc đen, hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loăn quăn”… đến để khoe tài,
khoe đức, khoe của… Sư cụ Tăng Phú thì sung sướng vênh váo, ngồi trên một chiếc xe
vì đã “đánh đổ đượng Hội Phật giáo, và như thế là cuộc đắc thắng đầu tiên của báo Gõ
Mõ vậy”. Còn Xuân tóc Đỏ đến đưa đám với sự cố ý đến chậm, bằng 2 vòng hoa đồ sộ,
6 chiếc xe có cắm lọng,… hắn đã làm cho Tuyết “liếc mắt đưa tình cho nó để tỏ ý cám
ơn”, làm cho cụ bà sung sướng thốt lên: “Ông Đốc Xuân đã không giận mà lại giúp đáp
phúng viếng đến thế, và đám ma như kể đã là danh giá nhất tất cả”. Và Xuân sao không
sung sướng, chỉ một câu nói: “Thưa ngài, ngài là một người chồng mọc sừng!” mà được
ông phán-mọc-sừng trả công đến một tờ giấy bạc 5 đồng gấp tư “dúi vào tay”…

Đúng là “hạnh phúc của một tang gia”, mặc dù lúc hạ huyệt có cụ cố Hồng mếu, ông
phán-mọc-sừng khóc to “Hứt! Hứt! Hứt!”.

2. Nghệ thuật trào phúng bậc thầy:

– Một đám ma được kể và tả như một đám rước xách với nhiều vai hề già có, trả có, đàn
ông, đàn bà… của tầng lớp tư sản “Âu hóa” rởm. Tác giả biểu lộ sự khinh bỉ, châm biếm
sâu cay.

– Các thủ pháp nghệ thuật trào phúng vận dụng sắc sảo tài tình:

+ Phóng đại: cụ cố Hồng sung sướng quá vì chuyện bố chết mà hút liền một chặp 60
điếu thuốc phiện, gắt 1872 lần câu: “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!”.

+ Đặc tả những bộ râu của các ông bạn của cụ cố Hồng rất hài hước!

+ Phục bút: Xuân đến đưa đám muộn, lúc đầu làm cho Tuyết đau khổ “có thể muốn tự tử
được”, lúc hắn đến, Tuyết liếc mắt đưa tình cho hắn để tỏ ý cảm ơn. Và cụ bà thì thốt lên
sung sướng “đám ma kể đã là danh giá nhất tất cả!”.

+ Những vai hề: cậu tú Tân luộm thuộm trong chiếc áo thụng trắng bắt bẻ từng người
“hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc cong lưng…” để chụp ảnh. Ông phán-mọc-sừng
khóc to “Hứt! Hứt! Hứt!” nhưng lại bí mật giúi vào tay Xuân tờ giấy bạc 5 đồng gấp
tư… – Rất sòng phẳng trong việc mua bán “danh lợi”!

+ Sử dụng tương phản làm nổi bật cái hài, cái rởm, cái đồi bại, thối nát vô luân hãnh
diện. Ví dụ, sư cụ Tăng Phú, v.v…

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
III. Kết luận chỉ qua một chương ngắn mà ta thấy được nghệ thuật trào phúng bậc thầy
của Vũ Trọng Phụng. “Số đỏ” quả là một kiệt tác trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
CHÍ PHÈO

Nam Cao

I. Khái quát chung

Lúc đầu, Nam Cao đặt tên truyện là Cái lò gạch cũ. Nhà xuất bản Đời mời năm 1941, đổi
thành Đôi lứa xứng đôi. Năm 1946 trong tập Luống cày do Hộ Văn hóa cứu quốc xuất
bản, tác giả đổi tên truyện thành Chí Phèo.

Truyện Chí Phèo nói lên số phận bi thảm của người nông dân nghèo, lương thiện bị xã
hội thực dân phong kiến xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi không có lối thoát.

II. Đọc hiểu

1. Làng Vũ Đại là hình ảnh cái xã hội thực dân phong kiến thối nát, cái ác ngự trị.

– Là nơi “quần ngư tranh thực” với các phe nghịch, đu lại với nhau để bóc lột con em.
ngấm ngầm chia rẽ, nhè từng chỗ hở để mà trị nhau: cánh Bá Kiến, cánh ông đội Tảo,
cánh ông Tư Đạm, cánh ông Bát Tùng… Đội Tảo ngang ngược, là cựu binh “cũng có thể
đâm chém được, chưa bao giờ chịu hàng trước cuộc giao tranh”. Còn Bá Kiến vô cùng
xảo quyệt, biết “mềm nắn rắn buông”, biết ngầm đẩy người ta xuống sông, nhưng rồi lại
dắt nó lên để nó đền ơn! Hãy đập bàn, đập ghế đòi cho được 5 đồng nhưng rồi thì lại vứt
trả lại năm hào “vì thương anh túng quá!”. Cụ không cần than thở: trị không lợi thì cụ
dùng! Cụ biết thu dụng những thằng bạt mạng để cắm thuế, cắm ruộng, đốt nhà, đâm
chém… gây ra bao cảnh đổ máu, làm tan nát bao cơ nghiệp dân lành.

– Là nơi đầy rẫy bọn đầu bò đâm thuê chém mướn. Năm Thọ đi thì Binh chức lần về.
Binh Chức chết thì lại nở ra một Chí Phèo – cùng với Bá Kiến là 2 con quỷ dữ làng Vũ
Đại. Chí Phèo chết lại có một Chí Phèo con nhất định sẽ ra đời!

– Một thị Nở “dòng giống của một nhà có mả hủi…”, một bà cô thị suốt đời cô đơn, một
Tự Lãng làm nghề hoạn lợn kiêm thầy cúng, vợ chết, con gái chửa hoang bỏ nhà trốn
đi… Bao nhiêu thảm kịch, bi kịch?

Nam Cao đã tố cáo cái hiện thực xấu xa, tàn ác của xã hội thực dân phong kiến. Những
cảnh đời dữ dội, những con người đáng sợ, nguồn gốc của tội ác và đau thương đã và
đang xô đẩy bao người lương thiện vào con đường đau khổ, tội lỗi.

2. Nhân vật Chí Phèo:

– Đau khổ từ khi còn nằm trong bụng mẹ: hoang thai. Đẻ ra thì bị mẹ hắn vứt ra lò gạch
cũ. Một vật cho không. Một món hàng từ tay người đàn bà goá mù qua tay ông phó cối.
Bơ vơ, làm thuê, bị vợ ba Bá Kiến lợi dụng, bị bỏ tù oan uông 7, 8 năm trời.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
– Không người thân thích. Không một mái ấm nương thân. Một nông dân lương thiện bị
nhà tù thực dân biến thành một tên đầu bò. Bá Kiến đã biến Chí thành kẻ đâm thuê chém
mướn. Đến nhà Bá Kiến lần đầu sau 8 năm đi tù về, Chí bỗng nhiên “có họ” với Lý
Cường! Cụ Bá sai Chí đi đòi nợ đội Tảo, đòi được nợ, Chí Phèo kiêu hãnh nghĩ: “Anh
hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”. Khi đã ngoài 40 tuổi, cái mặt Chí Phèo như mặt
một con vật lạ” vàng vàng mà lại muốn xạm màu gio”, vằn dọc vằn ngang biết bao nhiêu
là sẹo! Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại… Hắn ăn và ngủ trong lúc say, đập
đầu, rạch mặt, chửi bới trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận,… Hắn đã bị cướp mất
cả hình người lẫn linh hồn. Hắn đã thành quỷ dữ.

– “Cuộc tình” của Chí với Thị Nở, bát cháo hành và sự săn sóc của thị đã đánh thức bản
tính người bị tước đoạt, bị che lấp hơn mười năm nay, làm cho Chí “thèm lương thiện”,
“muốn làm hòa” với mọi người! Hắn sống lại mơ ước bình dị thời trai trẻ. Hắn biết đón
nghe mọi âm thanh đời thường. Hắn muốn cùng thị Nở làm thành một cặp rất xứng đôi.
Bà cô thị Nở và thị đã chối từ quyền làm người của Chí. Cái dúi của thị Nở làm ngã lăn
khoèo Chí Phèo, đã đẩy Chí Phèo chìm vào đáy bi kịch, Chí càng uống càng tỉnh. Chỉ
còn một con đường một cách đâm chết Bá Kiến và tự sát vì “ai cho tao lương thiện!…
Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người
lương thiện nữa. Biết không!”.

Sau tiếng kêu và những nhát dao của Chí Phèo, cánh cửa trần gian đã đóng chặt, cửa
ngục âm ti mở toang đẩy hai con quỷ dữ làng Vũ Đại vào hỏa ngục! Cái chết của Chí
Phèo là cái chết đáng thương!

Nam Cao miêu tả bi kịch cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo hết sức tinh tế và sâu
sắc như là một quá trình tự vận động của tính cách. Từ lương thiện bị biến thành lưu
manh, từ kẻ đâm thuê chém mướn bỗng thèm lương thiện, bị cự tuyệt quyền làm người
thì trả thù kẻ làm hại đời mình rồi tự sát.

Nam Cao vừa vạch trần cái xã hội thối nát, độc ác, ông như vừa cất tiếng kêu thương:
Hãy chặn đứng tội ác! Hãy xoá bỏ cái xã hội thực dân phong kiến! Hãy cứu lấy dân
nghèo lương thiện! Nhân vật Chí Phèo là một nhân vật điển hình về người nông dân bị
lưu manh hóa.

III. Kết luận

Truyện “Chí Phèo” là một truyện ngắn độc đáo, thấm nhuần tinh thần nhân đạo sâu sắc.
Khắc họa tính cách nhân vật, phân tích chiều sâu tâm lý và bi kịch nhân vật, cách kể
chuyện hấp dẫn, lôi cuốn là những thành công đặc sắc của Nam Cao. Truyện “Chí Phèo”
là một trong những truyện ngắn hay nhất viết về đề tài nông dân trong nền văn học Việt
Nam hiện đại.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
VỘI VÀNG

Xuân Diệu

I. Khái quát chung

- Rút trong tập “Thơ thơ”, tập thơ đầu của Xuân Diệu, xuất bản năm 1938.

- và sống hết mình với tuổi trẻ và thời gian.

II. Đọc hiểu

1. Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân

– Thiên nhiên rất đẹp đầy hương sắc của hoa “đồng nội xanh rì”, của lá “cành tơ phơ
phất”; “Tuần tháng mật” của ong bướm. “Khúc tình si” của yến anh. “Và này đây ánh
sáng chớp hàng mi”. Chữ “này đây” được 5 lần nhắc lại diễn tả sự sống ngồn ngộn phơi
bày, thiên nhiên hữu tình xinh đẹp thật đáng yêu. Vì lẽ đó nên phải vội vàng “tắt nắng
đi” và “buộc gió lại”. Trong cái phi lí có sự đáng yêu của một tâm hồn lãng mạn.

– Tuổi trẻ rất đẹp rất đáng yêu. Bình minh là khoảnh khắc tươi đẹp nhất của một ngày,
đó là lúc “Thần Vui hằng gõ cửa”. Tháng giêng là tháng khởi đầu của mùa xuân, “ngon
như một cặp môi gần”. Một chữ “ngon” chuyển đổi cảm giác thần tình, một cách so sánh
vừa lạ vừa táo bạo. Chiếc môi ấy chắc là của giai nhân, của trinh nữ. Đây là câu thơ hay
nhất mới nhất cho thấy màu sắc cảm giác và tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống đến cuồng
nhiệt của thi sĩ Xuân Diệu.

Chắc là Xuân Diệu viết bài thơ này trước năm 1938, lúc ông trên dưới 20 tuổi – cái tuổi
thanh xuân bừng sáng, nhưng thi sĩ đã “vội vàng một nửa” – cách nói rất thơ – chẳng cần
đến tuổi trung niên (nắng hạ) mới luyến tiếc tuổi hoa niên. Dấu chấm giữa dòng thơ, rất
mới, thơ cổ không hề có. Như một tuyên ngôn về “vội vàng”:

“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần,

Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.

Vội vàng vì thiên nhiên quá đẹp, vì cuộc sống quá yêu, vì tuổi trẻ quá thơ mộng. Đang
tuổi hoa niên mà đã “vội vàng một nửa”… Cảm thức của thi sĩ về thời gian, về mùa
xuân, về tuổi trẻ rất hồn nhiên, mới mẻ.

2. Mua đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
– Quan niệm về thời gian có nhiều cách nói. Thời gian là vàng ngọc. Bóng ngả lưng ta.
Thời gian vun vút thoi đưa, như bóng câu (tuấn mã) vút qua cửa sổ, như nước chảy qua
cầu. Thời gian một đi không trở lại. Xuân Diệu cũng có một cách nói rất riêng của nhà
thơ: tương phản đối lập để chỉ ra một đời người chỉ có một tuổi xuân; tuổi trẻ một đi
không trở lại.

“Xuân đang tới, nghĩa là xuân đương qua,

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.

Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất

Lòng tôi rộng, nhưng lượng đời cứ chật

Không cho dài thời trẻ của nhân gian

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại…”

Giọng thơ sôi nổi như nước tự mạch nguồn tuôn ra. Một hệ thống tương phản đối lập:
tới-qua, non-già, hết-mất, rộng-chật, tuần hoàn-bất phục hoàn, vô hạn-hữu hạn – để
khẳng định một chân lý – triết lý: tuổi xuân một đi không trở lại. Phải quý tuổi xuân.

– Cách nhìn nhận về thời gian cũng rất tinh tế, độc đáo, nhạy cảm. Trong hiện tại đã bắt
đầu có quá khứ và tương lai; cái đang có lại đang mất dần đi…

Và mối tương giao mầu nhiệm của cảnh vật, của tạo vật hình như mang theo nỗi buồn
“chia phôi” hoặc “tiễn biệt”, “hờn” vì xa cách, “sợ” vì phai tàn sắp sửa. Cảm xúc lãng
mạn dào dạt trong cái vị đời. Nói cảnh vật thiên nhiên mà là để nói về con người, nói về
nhịp sống khẩn trương, “vội vàng” của tạo vật. Với Xuân Diệu, hầu như cuộc sống nơi
“vườn trần” đều ít nhiều mang “bi kịch” về thời gian.

“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi

Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”

Cũng là “gió”, là “chim”… nhưng gió “thì thào” vì “hớn”, “chim” bỗng ngừng hót,
ngừng rao vì “sợ”! Câu hỏi tu từ xuất hiện cũng là để làm nổi bật nghịch lí giữa mùa
xuân – tuổi trẻ và thời gian:

“Con gió xinh thì thào trong lá biếc

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?”

Thi sĩ bỗng thốt lên lời than. Tiếc nuối. Lo lắng. Chợt tỉnh “mùa chưa ngả chiều hôm”,
nghĩa là vẫn còn trẻ trung, chưa già. Lên đường! Phải vội vàng, phải hối hả. Câu cảm
thán với cách ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn, vừa luống
cuống tiếc rẻ, bâng khuâng:

“Chẳng bao giờ/ôi/chẳng bao giờ nữa…

Mau đi thôi/mùa chưa ngả chiều hôm”.

Xưa kia, Nguyễn Trãi viết trong chùm “thơ tiếc cảnh”:

– “Xuân xanh chưa dễ hai phen lại

Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên”

(Bài số 3)

– “Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm”

(Bài số 7)

Những vần thơ của Nguyễn Trãi giúp ta cảm nhận sắc điệu trữ tình trong “Vội vàng” về
màu thời gian, về sắc thời gian và tuổi trẻ. Thật yêu đời. Thật ham sống.

3. Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

– Mở đầu bài thơ là cái Tôi hăm hở: “Tôi muốn tắt nắng đi”. Kết thúc bài thơ là “TA”, là
mọi tuổi trẻ. Một sự hòa nhập và đồng điệu trong dòng chảy thời gian: Sống mãnh liệt,
sống hết mình. Sống nồng nàn say mê. Nghệ thuật trùng điệp trong diễn tả. Ngôn từ đậm
màu sắc cảm giác, xúc giác, rạo rực: “Ta muốn ôm”, “Ta muốn riết… Ta muốn say… Ta
muốn thâu…”.

“Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn

Ta muốn say cách bướm với tình yêu

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây và cỏ rạng”


CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
Sống cũng là để yêu, yêu hết mình. Thơ hay vì màu sắc lãng mạn. Vì giọng thơ sôi nổi.
Nghệ thuật “vắt dòng” với ba từ “và” xuất hiện trong một dòng thơ làm nổi bật cảm xúc:
say mê vồ vập cảnh đẹp, tình đẹp nơi vườn trần. Tất cả mùi thơ, ánh sáng, thanh sắc,
xuân hồng… đều là khao khát của thi nhân:

“Cho chếnh choáng mùi thơ, cho đã đầy ánh sáng

Cho no nê thanh sắc của thời tươi

Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”

III. Kết luận

Sống vội vàng không có nghĩa là sống gấp, ích kỷ trong hưởng thụ. “Vội vàng” thể hiện
một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Biết quý trọng thời gian, biết quý trọng
tuổi trẻ, biết sống cũng là để yêu; tình yêu lứa đôi, tình yêu tạo vật. Tình cảm ấy đã thể
hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ, cấp tiến. Bảy thập kỷ sau còn làm cho không ít
người ngỡ ngàng! Xuân Diệu đã sống “vội vàng” như vậy. 50 tác phẩm, hơn 400 bài thơ
tình, ông đã làm giàu đẹp cho nền thi ca Việt Nam hiện đại.

Bài thơ “Vội vàng” cho thấy một cảm quan nghệ thuật “rất đẹp, rất nhân văn, một giọng
thơ sôi nổi, dâng trào và lôi cuốn, hấp dẫn. Có chất xúc giác trong thơ. Cách dùng từ rất
bạo, cách cấu trúc câu thơ, đoạn thơ rất tài hoa. “Vội vàng” tiêu biểu nhất cho Thơ mới,
thơ lãng mạn 1932-1941.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
TRÀNG GIANG

Huy Cận

I. Khái quát chung

Huy Cận (tên là Cù Huy Cận), quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Cũng là một trong những nhà
thơ nổi tiếng trong “Thơ mới” tiền chiến với tập “Lửa thiêng” xuất bản năm 1940. Thơ
của Huy Cận hàm xúc cổ điển và có màu sắc suy tưởng, triết lí. Trước Cách mạng, thơ
Huy Cận thấm một nỗi buồn mênh mông. Sau năm 1945, cảm hứng thơ Huy Cận ấm áp,
tươi vui. Tiêu biểu là các tập thơ: Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960), Bài
thơ cuộc đời (1963),… Hạt lại gieo (1984)…

- “Tràng giang” rút trong tập thơ “Lửa thiêng”.

- Bài thơ thể hiện một nỗi buồn cô đơn, một nỗi buồn nhớ nhà, nhớ quê hương trong
cảnh hoàng hôn trước tràng giang.

II. Đọc hiểu

1. Cảm hứng chủ đạo được thi nhân nói rõ ở câu đề từ: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông
dài”. Một thiên nhiên bao la mênh mông, một dòng sông dài, không rõ đâu là nguồn, đâu
là cửa sông. Một nỗi niềm “bâng khuâng”, một tấm lòng tha thiết “nhớ” khi đứng trước
vũ trụ, nhìn “trời rộng” và ngắm “sông dài”.

2. Bài thơ có 4 khổ, mỗi khổ như một bài thất ngôn tứ tuyệt hoàn chỉnh. Cảnh và tình
giao hòa. Cảnh đẹp mà buồn man mác.

– Khổ một, sóng gợn buồn, từng lớp từng lớp như lan tỏa “điệp điệp”, lòng người. Con
thuyền và vệt nước song song: “thuyền về nước lại” gợi lên một nỗi buồn chia phôi “sâu
trăm ngả”. Một cành củi khô trôi nổi trên tràng giang tượng trung cho sự chết chóc, chia
lìa. Vần thơ đầy ám ảnh.

– Khổ 2, gợi tả một không gian mênh mông, vắng lặng. Cồn nhỏ thì “lơ thơ”. Gió nhẹ và
buồn đìu hiu: “Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu. Khác nào câu thơ Chinh phụ ngâm: “Non kỳ
quạnh quẽ trăng treo – Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”? Các từ láy: lơ thơ, đìu hiu; vần
lưng: “nhỏ – gió” gợi cả cái hắt hiu, buồn thê thiết. Không một âm thanh một tiếng động,
một tiếng vọng nào từ làng xa. Bầu trời thăm thẳm như soi xuống đáy tràng giang, không
gian 2 chiều: sâu chót vót”. Con người càng nhỏ bé, cô đơn trước một không gian: “Sông
dài, trời rộng, bến cô liêu”. Câu thơ 7 từ với 3 nét vẽ. Thật hàm súc cổ điển.

– Khổ 3, lại nói về tràng giang. Không cầu. Cũng không đò. Sông đã dài lại thêm mênh
mông. Cảnh đôi bờ rất đẹp nhưng vẫn thấm sâu một nỗi buồn xa vắng: “lặng lẽ bờ xanh
tiếp bãi vàng”. Trung tâm của bức tranh là “bèo dạt”. Chẳng có mây trôi, chỉ có “Bèo dạt
CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
về đâu hàng nối hàng”. Một nét vẽ tượng trưng thứ hai đem đến liên tưởng những kiếp
người lưu lạc, trên dòng đời. Đúng là sầu nhân thế, vạn cổ sầu như một số nhà thơ lãng
mạn, thường nói:

… “Có phải sầu vạn cổ

Chất trong hồn chiều nay?”…

(“Chiều” – Hồ ZDếnh). Hai tiếng “về đâu” gợi tả một nỗi buồn mơ hồ, ngơ ngác. Chỉ
biết hỏi mình, chẳng biết hỏi ai. Cô đơn và buồn đến thế là cùng!

– Khổ 4, nói về hoàng hôn:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa,

Lòng quê dợn dợn vời non nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

Một cái nhìn xa vời đến mọi phía chân trời. Cánh chim như chở nặng bóng chiều đang
“nghiêng cánh nhỏ”. Mây lớp lớp đùn lên như những “núi bạc”. Cảnh tượng tráng lệ.
Cánh chim nhỏ nhoi tương phản với bầu trời bao la, với lớp lớp núi mây bạc nhằm đặc tả
nỗi buồn cô đơn. Chữ “đùn” gợi nhớ một tứ thơ Đường: “Tái thượng phong vân tiếp địa
âm” (Thu hứng) – Nguyễn Công Trứ dịch: “Mặt đất mây đùn cửa ải xa”.

Hoàng hôn phủ mờ tràng giang. Con nước làm xúc động lòng quê. Thôi Hiệu 13 thế kỷ
trước, đứng trên lầu Hoàng Hạc, nhìn sông Hán Dương, lòng thổn thức: “Trên sông khói
sóng cho buồn lòng ai”. Với Huy Cận, chiều nay trên tràng giang, nỗi buồn nhớ quê nhà
nhiều lần nhân lên thấm thía: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Nỗi nhớ quê, nhớ
nhà mênh mang như gửi về mọi phía chân trời và đang trôi theo tràng giang.

III. Kết luận

“Tràng giang” là bài thơ tuyệt bút tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận thời tiền chiến. Các chi
tiết nghệ thuật được chọn lọc tinh tế. Ngôn ngữ hàm súc cổ điển. Cảnh đẹp mà buồn.
Cành củi khô, bèo dạt… đầy ám ảnh, mở ra một trường liên tưởng đầy màu sắc suy
tưởng. Nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương của khách ly hương tạo nên chất thơ, hồn thơ đẹp,
để “Tràng giang” thấm sâu vào lòng người, trở thành “một bài thơ ca hát non sông, đất
nước” như Xuân Diệu nhận xét.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
ĐÂY THÔN VĨ DẠ

Hàn Mặc Tử

I. Khái quát chung

Hàn Mặc Tử (1912-1940) là bút danh của Nguyễn Trọng Trí. Các bút danh khác: Phong
Trần, Lệ Thanh. Thuộc nhóm thơ Bình Định. Một cuộc đời hết sức lãng mạn và đầy bi
kịch. Một nhà thơ tài năng, cảm hứng sáng tạo thi ca dào dạt với những tập thơ: Gái quê,
Thơ điên, Thượng Thanh Khí Cẩm Châu Duyên, và 2 kịch thơ: Duyên kì ngộ, Quần tiên
hội.

Phong cách nghệ thuật của Hàn Mặc Tử rất khác lạ: bên cạnh những vần thơ điên loạn
lại xuất hiện những vần thơ hồn nhiên, trong trẻo lạ thường như “Mùa xuân chín”, “Đây
thôn Vĩ Giạ”.

- Bài thơ “Đây thôn Vĩ Giạ” rút trong tập thơ Điên.

- Bài thơ nói về cảnh đẹp Vĩ Giạ với một tình yêu thiên nhiên thiết tha, một hoài niệm
bâng khuâng vương vấn.

II. Đọc hiểu

1. Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Vĩ Giạ một làng cổ đẹp nổi tiếng bên bờ Hương giang, ngoại ô cố đô Huế. Phong cảnh
êm đềm thơ mộng. Với Hàn Mặc Tử chắc là có nhiều kỷ niệm đẹp? Câu mở bài như một
lời chào mời, như một tiếng nhẹ nhàng trách móc: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”.
Cảnh Vĩ Giạ được nói đến là hàng cau với nắng mới lên, một bình minh rạng ngời. Là
màu xanh của cây trái của “vườn ai”, ngỡ ngàng bâng khuâng, rồi thốt lên “mướt quá
xanh như ngọc”. Sắc xanh mượt mà, láng bóng ngời lên. Một so sánh rất đắt gợi tả sức
xuân, sắc xuân của “vườn ai”? Câu thứ 4 có bóng người xuất hiện thấp thoáng sau hàng
trúc: “gương mặt chữ điền”. Nét vẽ “lá trúc che ngang” là một nét vẽ thần tình gợi tả vẻ
kín đáo, duyên dáng của người con gái thôn Vĩ. Và cho biết “vườn ai”, ấy là vừn xuân
thiếu nữ. Cau, nắng, màu xanh như ngọc của vườn ai, lá trúc và gương mặt chữ điền – 5
nét vẽ, nét nào cũng tinh tế, tao nhã, gợi nhiều thương mến bâng khuâng.

2. Thuyền ai đậu bến sông trăng đó…

Một miền quê thoáng đãng, thơ mộng. Có gió, mây, cỏ hoa, có dòng nước. Cảnh đẹp đầy
thi vị, cổ điển. Gió mây đôi ngả phân li. Dòng nước buồn thiu, buồn xa vắng mơ hồ. Hoa
bắp nhè nhẹ “lay” cũng gợi buồn.

“Gió theo lối gió, mây đường mây,

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”

Khổ một nói đến “nắng mới lên”, nắng bình minh. Khổ 2, nói đến “bến sông trăng”, bến
đò trong hoài niệm. Vầng trăng của thương nhớ đợi chờ. “Thuyền ai” có lẽ là con thuyền
thiếu nữ? Vần thơ trăng đẹp nhất trong thơ Hàn Mặc Tử. Có bến sông trăng, có con
thuyền trăng. Thật thơ mộng, tình tứ:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?”

Câu thơ của Hàn Mặc Tử về bến sông trăng và thuyền ai gợi nhớ đến vần ca dao thuyền
nhớ bến… bến đợi thuyền. Và vì thế nó gợi lên một mối tình thương nhớ, đợi chờ man
mác, mơ hồ, bâng khuâng.

3. Ai biết tình ai có đậm đà?

Một chữ “mơ” đầy tình tứ trong câu thơ có nhạc điệu chơi vơi: “Mơ khách đường xa,
khách đường xa”. Du khách hay thôn nữ Vĩ Giạ? Chắc lại là giai nhân mà thi nhân từng
mơ ước: “Áo em trắng quá nhìn không ra”. Vừa thực vừa mông. Con người của thực tại
hay con người trong hoài niệm? Sương khói của bến sông trăng hay miệt vườn Vĩ Giạ đã
làm mờ nhân ảnh của giai nhân? Trong cảnh có tình. Trong tình có màn sương khói, một
thứ tình yêu kín đáo, e dè, thiết tha:

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

Toàn bài thơ có 4 từ “ai” đại từ phiếm chỉ cùng xuất hiện trong các câu hỏi tu từ, không
chỉ góp phần tạo nên âm điệu lâng lâng, ngỡ ngàng mà còn dẫn hồn người đọc nhớ về
một miền dân ca Huế man mác sâu lắng, bồi hồi, thiết tha:

“Núi Truối ai đắp mà cao,

Sông Hương ai bới, ai đào mà sâu?

Nong tằm ao cá nương dâu

Đò xưa bến cũ nhớ câu hẹn hò…”

III. Kết luận

“Đây thôn Vĩ Giạ” ngỡ là một bài thơ tả cảnh, nhưng đích thực là một bài thơ tình – tình
trong mộng tưởng. Cảnh rất đẹp, rất hữu tình, âm điệu thiết tha, tình tứ. Tình cũng rất
đẹp nhưng chỉ là mộng ảo. Bến sông trăng còn đó, nhưng con thuyền tình có kịp chở

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
trăng về tối nay? Xa với, mênh mông. Áo trắng giai nhân, màu trắng trong trinh nữ ấy đã
trở thành hoài niệm trong miền thương nhớ của thi sĩ đa tình mà nhiều bất hạnh. “Đây
thôn Vĩ Giạ” là bài thơ để ta nhớ và ta thương.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
TỪ ẤY

Tố Hữu

I. Khái quát chung

Tố Hữu (1920 - 2002) tên thật là Nguyễn Kim Thành. Là “lá cờ đầu của thơ ca cách
mạng” Việt Nam hiện đại. Thơ trữ tình – chính trị: thể hiện lẽ sống, lí tưởng, tình cảm
cách mạng của con người Việt Nam hiện đại nhưng mang đậm chất dân tộc, truyền
thống.

- Tháng 7/1938 khi nhà thơ được kết nạp vào đảng cộng sản, bài thơ nằm trong phần
Máu lửa của tập thơ “Từ ấy”

- có ý nghĩa mở đầu cho con đường cách mạng, con đường thi ca của Tố Hữu là tuyên
ngôn về lẽ sống của một người chiến sĩ cách mạng, cũng là tuyên ngôn nghệ thuật của
một nhà thơ.

II. Đọc hiểu

1. Niềm vui lớn: (khổ 1)

- Hình ảnh ẩn dụ: “Nắng hạ, mặt trời chân lí”

- Sự liên kết giữa hình ảnh và ngữ nghĩa: mặt trời đời thường tỏa hơi ấm thì Đảng
cũng là ánh sáng diệu kì toả ra những tư tưởng đúng đắn,mới mẻ.

- Từ “bừng” có ý nghĩa nhấn mạnh ánh sáng của lí tưởng xua tan màn sương mù
của ý thức tiểu tư sản và mở ra cho nhà thơ chân trời mới.

=> Hai câu thơ kể lại một kỉ niệm không quên là được giác ngộ lí tưởng cm và bộc lộ
tâm trạng vui sướng tự hào.

- Hình ảnh so sánh, bút pháp lãng mạn diễn tả niềm vui sướng vô hạn của nhà thơ
trong buổi đầu đến với lí tưởng cách mạng.

=> Cách mạng đã khơi dậy một sức sống mới, đem lại một cảm hứng sáng tạo mới cho
nhà thơ

2. Lẽ sống lớn: (khổ 2)

- Suy nghĩ: Tôi buộc......biểu hiện cho sự tự nguyện gắn “cái tôi” cá nhân vào “cái
ta” chung của mọi người

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
- Để tình .....biểu hiện cho một tâm hồn trải rộng với c/đ, tạo khả năng đồng cảm
sâu xa với hoàn cảnh của từng c/n cụ thể.

- Hồn tôi gắn với bao hồn khổ: tình hữu ái giai cấp, ông đặc biệt quan tâm đến quần
chúng lao khổ

- Hình ảnh: “Gần gũi - mạnh khối đời” mang tính ẩn dụ để chỉ đông đảo người
cùng chung cảnh ngộ đoàn kết với nhau vì mục tiêu chung

=> Tố Hữu đã tìm thấy niềm vui và sức mạnh mới không chỉ bằng nhận thức mà còn
bằng tình cảm mến yêu, bằng sự giao cảm của những trái tim. Quan niệm về lẽ sống của
ông là sự gắn bó hài hoà giữa “cái tôi” cá nhân và “cái ta” chung của mọi người

3. Tình cảm lớn (khổ 3)

- Điệp ngữ mang tính khẳng định: “là”, các từ “con, em, anh” và số từ ước lệ “vạn”
nhấn mạnh khẳng định một tình cảm gia đình đầm ấm, thân thiết, nhà thơ cảm nhận
được mình là thành viên trong đại gia đình quần chúng đau khổ

- Từ ngữ: “kiếp phôi pha, cù bất cù bơ” biểu hiện cho tấm lòng đau xót của nhà thơ
trước những kiếp đời bất hạnh và bày tỏ lòng căm giận trước những oan trái mà kẻ
thù gây nên.

=> Lí tưởng cộng sản không chỉ giúp cho ông có được lẽ sống mới mà còn giúp cho nhà
thơ vượt qua t/c ích kỉ hẹp hòi của giai cấp tư sản để có được tình cảm giai cấp quý báu

III. Kết luận

Hình ảnh tươi sáng, giàu ý nghĩa tượng trưng; ngôn ngữ gợi cảm, giàu nhạc điệu; giọng
thơ sảng khoái; nhịp thơ hăm hở…

Niềm vui khi bắt gặp lí tưởng cách mạng. Tình cảm giai cấp và sự căm giận với những
bất công ngang trái của cuộc đời.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
CHIỀU TỐI

Hồ Chí Minh

1. Tác giả

- Hồ Chí Minh (1890 - 1969) Quê: Nam Đàn - Nghệ An.Gia đình: Nhà nho yêu
nước. Bản thân: Thông minh, yêu nước và thương dân sâu sắc. Sự nghiệp văn học:
Phong phú, đặc sắc.

- Hoàn cảnh ra đời tập thơ “Nhật kí trong tù”:

+ Là tập nhật kí viết bằng thơ, được Bác sáng tác trong thời gian bị chính quyền
Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ từ mùa thu năm 1942 – 1943 tại tỉnh Quảng
Tây.

+ Tập thơ gồm 134 bài thơ bằng chữ Hán ghi trong một cuốn sổ tay lấy tên là “Ngục
trung nhật kí”. Năm 1960, tập thơ được dịch ra tiếng Việt và có tên là “Nhật kí
trong tù”.

- Bài thơ “Chiều tối”: Vị trí: Bài thứ 31 của tập thơ “Nhật kí trong tù”. Hoàn cảnh sáng
tác: Trên đường chuyển lao của Hồ Chí Minh từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo vào cuối thu
năm 1942.

II. Đọc hiểu

a. Hai câu thơ đầu: Bức tranh thiên nhiên lúc chiều tối qua cảm nhận của nhà thơ

* Bức tranh thiên nhiên:


- Không gian: Rộng lớn, thinh vắng → làm nổi bật sự lẻ loi, cô đơn của con người,
cảnh vật
- Thời gian: Chiều tối – thời khắc cuối cùng của một ngày→ mỏi mệt, cần được nghỉ
ngơi
- Điểm nhìn: Từ dưới lên cao → phong thái ung dung, lạc quan của tác giả.
- Cảnh vật: Sự xuất hiện của hai hình ảnh:
+ Chim mỏi: Biểu tượng cho buổi chiều tà → cảm nhận từ trạng thái bên trong của
sự vật.
+ Chòm mây: Cô đơn, đang trôi chầm chậm giữa bầu trời bao la.
- So với bản phiên âm:
+ “Cô vân” dịch thành “chòm mây” → dịch chưa sát, bản dịch làm mất đi tính chất
cô độc, lẻ loi của áng mây trên bầu trời.
+ “mạn mạn” dịch thành “trôi nhẹ” → chưa thấy được tư thế chậm chạp gợi vẻ uể oải,
lững lờ không muốn trôi của áng mây.
* Nhân vật trữ tình
+ Ung dung tự tại
+ Hòa nhập với thiên nhiên
CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
+ Tinh thần lạc quan vượt lên trên hoàn cảnh
+ Yêu tự do.
=> Tiểu kết
- Đề tài, hình ảnh quen thuộc, bút pháp chấm phá, tả cảnh ngụ tình.
- Bức tranh thiên nhiên lúc chiều tối thật đẹp và khoáng đãng mang đậm màu sắc cổ
điển.
b. Hai câu thơ cuối: Bức tranh đời sống con người.
* Bức tranh đời sống
- Hai câu thơ cuối có sự chuyển đổi của tứ thơ:
+ Điểm nhìn: trên trời → mặt đất.
+ Thời gian: chiều muộn → tối.
+ Không gian: rộng (núi rừng) → hẹp (xóm núi).
+ Hình ảnh: thiên nhiên → con người lao động.
→ Hình ảnh con người lao động trở thành trung tâm của bức tranh.
=> Lao động vất vả nhưng tự do, khoẻ khoắn.
- Điệp vòng: “ma bao túc” – “bao túc ma”:
+ Diễn tả vòng quay của chiếc cối xay ngô;
+ Nhịp điệu lao động hăng say;
+ Vòng quay của thời gian, không gian;
+ Đem lại cho người đi đường lúc chiều hôm chút hơi ấm của sự sống.
- So với bản phiên âm:
+ Chữ “thiếu nữ” dịch thành “cô em” chưa thật phù hợp.
+ Dịch thừa chữ “tối” → làm mất sự kín đáo, hàm súc của ý thơ “ý tại ngôn ngoại”.
- Chữ “hồng” được xem là nhãn tự của bài thơ, nơi hội tụ ánh sáng, sự ấm áp và cả ý
nghĩa toàn bài thơ:
+ “hồng” - của ánh lửa lò than hiện thực nơi cô gái đang xay ngô
+ “hồng” - màu hồng của ngọn lửa cách mạng luôn thôi thúc Bác không bỏ cuộc;
+ “hồng” – màu hồng của niềm tin tưởng, sự lạc quan luôn cháy trong tim Bác.
→ Chữ “hồng” rực sáng cả bài thơ vừa làm cho bức tranh chiều tối trở nên sáng hơn vừa
sưởi ấm người tù thi sĩ trên con đường giải lao lạnh lẽo, cô đơn.
* Vẻ đẹp tâm hồn tác giả
+ Lạc quan, yêu đời
+ Yêu lao động
+ Ý chí, nghị lực phi thường;
+ Tình yêu thương nhân dân, nâng niu tất cả chỉ quên mình

III. Kết luận


Bài thơ “Chiều tối” cho thấy tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, ý chí vượt lên hoàn
cảnh khắc nghiệt của nhà thơ chiến sĩ Hồ Chí Minh.

Bài thơ thất ngôn tứ tuyệt mang vẻ đẹp cổ điển mà hiện đại.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
HACK NÃO KIẾN THỨC VĂN LỚP 12

TUYÊN NGÔN ĐỌC LẬP (HỒ CHÍ MINH)

1. Hoàn cảnh ra đời

- Ngày 19/08/1945, chính quyền Hà Nội về tay nhân dân. Ngày 26/08/1945, Hồ
Chí Minh từ chiến khu cách mạng Việt Bắc về tới Hà Nội và tại căn nhà số 48 phố Hàng
Ngang, Người đã soạn “Tuyên ngôn Độc lập”.

- Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Người đã đọc bản “Tuyên ngôn Độc
lập” khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

- “Tuyên ngôn Độc lập” ra đời trong một tình thế vô cùng cấp bách : nền độc lập vừa
mời giành được bị đe dọa bởi các thế lực phản động, bọn đế quốc thực dân đang chuẩn bị
chiếm lại nước ta: tiến vào từ phía Bắc là quân đội Quốc dân đảng Trung Quốc, đằng sau là
đế quốc Mĩ; tiến vào từ phía Nam là quân đội Anh, đằng sau là lính viễn chinh Pháp. Lúc
này thực dân Pháp tuyên bố Đông Dương là đất “bảo hộ” của người Pháp bị nhật xâm
chiếm, nay Nhật đầu hàng, vậy Đông Dương đương nhiên phải trở lại với người Pháp.

2. Giá trị lịch sử và văn học, mục đích, đối tƣợng của bản “Tuyên ngôn Độc lập”

- Giá trị lịch sử: Là văn kiện lịch sử vô giá, là lời tuyên bố của một dân tộc đã
đứng lên xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, thực dân, thoát khỏi thân phận thuộc địa để
hòa nhập vào cộng đồng nhân loại với tư cách là một nước độc lập, dân chủ, tự do.

- Giá trị văn học:

+ Giá trị tƣ tƣởng: “Tuyên ngôn Độc lập” là tác phẩm kết tinh lí tưởng đấu tranh giải
phóng dân tộc và tinh thần yêu chuộng tự do.

+ Giá trị nghệ thuật: Là áng văn chính luận mẫu mực với lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh
thép, những bằng chứng xác thực, giàu sức thuyết phục, ngôn ngữ gợi cảm, hùng hồn.

- Đối tượng: Nhân dân Việt Nam; Các nước trên thế giới; Bọn đế quốc, thực dân
đang lăm le xâm lược nước ta : Mỹ, Pháp.

- Mục đích: Tuyên bố nền độc lập của nước Việt Nam và sự ra đời của nước Việt
Nam mới; Ngăn chặn âm mưu xâm lược của bọn đế quốc, thực dân.

3. Nội dung

3.1. Phần 1 (từ đầu đến “Không ai chối cãi đƣợc”) : Nêu nguyên lí chung

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
- Người đã trích dẫn bản hai bản “Tuyên ngôn độc lập” (1776) của Mỹ và “Tuyên
ngôn Nhân quyền và Dân quyền” (1791) của Pháp. Hai bản Tuyên ngôn này khẳng định
quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của mọi con
người ở mọi dân tộc.

- Tác giả dùng chính lí lẽ của đối phương đáp trả lại đối phương, nhắc nhở đối
phương đang đi ngược lại những gì mà tổ tiên họ để lại.

- Đặt ba cuộc cách mạng của nhân loại ngang bằng nhau, trong đó cách mạng Việt
Nam cùng một lúc thực hiện nhiệm vụ của hai cuộc cách mạng Mĩ, Pháp. Sánh vai các
nước bé nhỏ với các cường quốc năm châu.

- Từ quyền con người Bác mở rộng thành quyền của dân tộc. Đây là một suy luận
hết sức quan trọng vì đối với những nước thuộc địa như nước ta lúc bấy giờ thì trước khi
nói đến quyền của con người phải đòi lấy quyền của dân tộc. Dân tộc có độc lập, nhân
dân mới có tự do, hạnh phúc. Đó là đóng góp riêng của tác giả và cũng là của dân tộc ta
vào một trong những trào lưu tư tưởng cao đẹp vừa mang tầm vóc quốc tế vừa mang ý
nghĩa nhân đạo của nhân loại trong thế kỉ XX.

- Lập luận vừa kiên quyết, vừa khôn khéo, tạo cơ sở pháp lí vững chắc cho bản
TN.

3.2. Phần 2 (từ “Thế mà… phải đƣợc độc lập”) : Tố cáo tội ác của thực dân Pháp và
khảng định thực tế lịch sử là nhân dân ta đã nổi dậy giành chính quyền và lập nên
nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hoà

a. Bản tuyên ngôn đã đưa ra những lí lẽ xác đáng, những bằng chứng không ai có
thể chối cãi để bác bỏ những luận điệu của thực dân Pháp muốn "hợp pháp hóa" việc
chiếm lại nước ta :

+ Pháp kể công "khai hóa", bản Tuyên ngôn kể tội áp bức bóc lột tàn bạo và tội
diệt chủng của chúng. Tội nặng nhất là gây ra nạn đói năm giết chết hơn hai triệu đồng
bào ta từ Bắc Kì đến Quảng Trị (dẫn chứng)

+ Pháp kể công "bảo hộ", bản tuyên ngôn kể tội hai lần chúng dâng Đông Dương
cho Nhật (dẫn chứng)

+ Pháp nhân danh Đồng minh đã chiến thắng phát xít, giành lại Đông Dương, bản
tuyên ngôn kể tội chúng phản bội đồng minh: đầu hàng Nhật, khủng bố Cách mạng Việt
Nam đánh Nhật cứu nước. Bản tuyên ngôn nói rõ: Dân tộc Việt Nam giành lại độc lập từ
tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
Bằng giọng văn hùng hồn mạnh mẽ, đầy sức thuyết phục, đoạn văn đã tố cáo hùng
hồn và đanh thép tội ác của thùc dân Pháp. Bằng phương pháp liệt kê, tác giả đã nêu lên
hàng loạt tội ác của thực dân Pháp trên các mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục và
ngoại giao.

b. Từ những cứ liệu lịch sử hiển nhiên đó, bản Tuyên ngôn nhấn mạnh đến những
thông điệp quan trọng:

+ Tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với thực dân Pháp xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp
đã kí về nước VN.

+ Kêu gọi toàn dân Việt Nam đoàn kết chống lại âm mưu của thực dân Pháp

+ Kêu gọi cộng đồng quốc tế công nhận quyền độc lập, tự do của dân tộc VN.

3.3. Phần 3 (còn lại): Lời tuyên ngôn và tuyên bố về ý chí bảo vệ nền độc lập của
toàn dân tộc

- Tuyên bố về quyền độc lập của dân tộc

- Tuyên bố về sự thật là nước Việt Nam đã giành được độc lập.

- Tuyên bố về ý chí, quyết tâm bảo vệ nền độc lập của dân tộc bằng mọi giá.

Những lời tuyên ngôn này được trình bày lôgic, chặt chẽ, cái trước là tiền đề của cái
sau.

4. Nghệ thuật

- Kết cấu chặt chẽ, lí lẽ sắc sảo, lập luận giàu sức thuyết phục

- Ngôn ngữ chính xác, trong sáng, gợi cảm.

- Giọng điệu linh hoạt.

5. Chủ đề

Tuyên ngôn độc lập tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới quyền được tự
do, độc lập của dân tộc Việt Nam, nền độc lập, tự do mà nhân dân ta vừa giành được và
quyết tâm bảo vệ nền độc lập của toàn dân tộc.

TÂY TIẾN (Quang Dũng)

I. Tác giả

- Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
- Một hồn thơ lãng mạn, tài hoa: nhà thơ của xứ Đoài mây trắng, thơ giàu chất
nhạc, họa...

- Các tác phẩm chính: Rừng về xuôi; Mây đầu ô....

II. Tác phẩm

1. Hoàn cảnh ra đời bài thơ

- Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với
bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở
Thượng Lào và miền Tây Bắc của Tổ quốc. Địa bàn hoạt động của đơn vị Tây Tiến chủ
yếu là vùng rừng núi hiểm trở. Đó cũng là nơi sinh sống của đồng bào các dân tộc
Mường, Thái với những nét văn hoá đặc sắc. Lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà
Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên. Họ sinh hoạt và chiến đấu trong điều kiện
thiếu thốn, gian khổ nhưng vẫn rất lạc quan và dũng cảm.

- Quang Dũng là một người lính trong đoàn quân Tây Tiến. Cuối năm 1948, ông
chuyển sang đơn vị khác. Một năm sau ngày chia tay đoàn quân Tây Tiến, nhớ về đơn vị
cũ ông viết bài thơ Tây Tiến tại làng Phù Lưu Chanh (một làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ,
nay là Hà Nội). Bài thơ được in trong tập “Mây đầu ô”(1986)

2. Cảm xúc chủ đạo của bài thơ

Bài thơ được viết trong nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về những kỉ
niệm của đoàn quân Tây Tiến gắn liền với khung cảnh thiên nhiên miền Tây Bắc hùng
vĩ, hoang sơ nhưng cũng rất trữ tình, thơ mộng.

3. Nội dung

3.1. Đoạn 1: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

.....

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh
thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội.

*Đoạn mở đầu bằng những dòng thơ chan chưa nối nhớ, lời thơ như chợt thốt lên đầy
nhớ nhung và tiếc nuối:

“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
- Từ láy “chơi vơi”, hiệp vần “ơi” mở ra một không gian vời vợi của nối nhớ đồng thời
diễn tả tinh tế một cảm xúc mơ hồ, khó định hình nhưng rất thực.

- Điệp từ “nhớ” tô đậm cảm xúc toàn bài, không phải ngẫu nhiên mà nhan đề ban đầu
của bài thơ tác giả đặt là Nhớ Tây Tiến. Nỗi nhớ trở đi trở lại trong toàn bài thơ tạo nên
giọng thơ hoài niệm sâu lắng, bồi hồi. Nỗi nhớ tha thiết, niềm thương da diết mà nhà thơ
dành cho miền Tây, cho đồng đội cũ của mình khi xa cách chan chứa biết bao.

* Nỗi nhớ về thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng thật êm đềm thơ mộng.

- Nhớ những địa danh mà đoàn quân Tây Tiến đã đi qua, Sài Khao, Mường Lát, Pha
Luông, Mường Hịch, Mai Châu những địa danh khi đi vào thơ Quang Dũng nó không
còn mang màu sắc trung tính, vô hồn trên bản đồ nữa mà gợi lên không khí núi rừng xa
xôi, lạ lẫm, hoang sơ và bí ẩn.

- Nhớ con đường hành quân gập ghềnh, hiểm trở, đầy sự hiểm nguy giữa một bên là núi
cao với một bên là vực sâu thăm thẳm: Dốc khúc khuỷu, dốc thăm thẳm, Heo hút, sương
lấp. Không gian được mở ra ở nhiều chiều: chiều cao đến chiều sâu hút của những dốc
núi, chiều sâu của vực thẳm, bề rộng của những thung lũng trải ra sau màn sương. Các từ
láy giàu sức tạo hình khiến người đọc hình dung những con đường quanh co, dốc rồi lại
dốc, những đỉnh đèo hoang vắng khuất vào mây trời; Cách ngắt nhịp 4/3 của câu thơ thứ
ba tạo thành một đường gấp khúc của dáng núi; ba dòng thơ liên tiếp sử dụng nhiều
thanh trắc gợi sự vất vả nhọc nhằn.

- Nhớ những những ngôi nhà nơi xóm núi như cánh buồm thấp thoáng trên mặt biển
trong không gian bình yên và êm ả của mưa giăng đầy biến thung lũng thành „xa khơi”.

- Nhớ âm thanh “gầm thét” của thác dữ, tiếng gầm gào của loài hổ dữ rình rập vồ người
mỗi khi chiều đến, đêm về. Thời gian buổi chiều, về đêm lại càng nhấn mạnh thêm cảm
giác hoang sơ của chốn “sơn lâm bóng cả cây già”. Những từ ngữ và hình ảnh nhân hóa
được nhà thơ sử dụng để tô đậm ấn tượng về một vùng núi hoang vu dữ dội. Nơi đây
thiên nhiên hoang dã đang ngự trị và chiếm vai trò chúa tể.

-> Bức tranh của núi rừng miền Tây giàu được vẽ bằng bút pháp vừa hiện thực, vừa lãng
mạn, vừa giàu chất họa lại giàu chất nhạc. Nét vẽ vừa gân guốc, mạnh mẽ, dữ dội nhưng
lại cũng rất mềm mại tạo nên vẻ đẹp hài hòa cho bức tranh thiên nhiên.

* Nỗi nhớ về đồng đội và những kỉ niệm trên đường hành quân:

- Nhớ cái tếu táo, lạc quan trong gian khổ với vẻ đẹp hồn nhiên qua cách nói hóm hỉnh
“súng ngửi trời”. Nếu viết “súng chạm trời”, nhà thơ sẽ chỉ tả được độ cao của đỉnh dốc
mà khi đứng trên đó, mũi súng của người lính Tây Tiến như chạm cả vào nền trời. Còn ở

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
đây, Quang Dũng đã gợi được “chất lính” trẻ trung, vẻ tươi mới, sức sống dạt dào trong
tâm hồn của người lính Tây Tiến vốn xuất thân từ những thanh niên trí thức trẻ Hà Nội.

- Nhớ những người đồng đội đã ngã xuống nhưng không bi luỵ. Nỗi mất mát, niềm cảm
thương được nói bằng giọng thơ ngang tàng, kiêu hãnh gục bên súng mũ bỏ quên đời”.

- Nhớ tình cảm quân dân giữa những người lính Tây Tiến và đồng bào Tây Bắc “Nhớ
ôi… thơm nếp xôi”. Họ dừng chân nơi xóm núi sau chặng đường dài vất vả, họ quây
quần trong niềm vui ấm áp, niềm hạnh phúc bên những nồi cơm còn thơm làn gạo mới.
Nhớ ôi!- nỗi nhớ da diết, đằm thắm, sự gắn kết tình nghĩa thủy chung, giữa những con
người miền Tây Bắc của tổ quốc với bộ đội kháng chiến.

Nhận xét: Đoạn thơ chỉ là khúc dạo đầu của một bản nhạc về nối nhớ, song cũng
đã kịp ghi lại những vẻ đẹp rất riêng của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc trên nền của bức
tranh thiên nhiên dữ dội ấy, những người lính Tây Tiến hiện lên thật đẹp. Sự gắn bó của
nhà thơ với thiên nhiên và con người nơi ấy là biểu hiện của tấm lòng gắn bó với quê
hương, đất nước. Đồng thời là tấm lòng trĩu nặng yêu thương với những người đồng đội,
đồng chí của mình.

3.2. Đoạn 2: :

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

.....

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh sông nƣớc miền
Tây thơ mộng.

a. Những kỉ niệm về tình quân dân thắm thiết qua những đêm liên hoan văn nghệ đậm
màu sắc lãng mạn, trữ tình

- Đêm liên hoan được miêu tả bằng những chi tiết lãng mạn:

+ Đêm liên hoan như đêm hội giao duyên, đêm tân hôn của những cặp tình nhân
(hội đuốc hoa)

+ Nhân vật trung tâm của đêm hội là những thiếu nữ Tây Bắc trong những bộ
trang phục và vũ điệu vừa lộng lẫy, vừa e thẹn, tình tứ.

+ Cái nhìn trẻ trung, ngỡ ngàng, ngạc nhiên, say mê sung sướng của những người
lính Tây Tiến trước vẻ đẹp phương xa.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
Bằng bút pháp tài hoa, lãng mạn, thi trung hữu nhạc,tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp
giàu bản sắc văn hoá, phong tục của đồng bào vùng biên giới cùng tình cảm quân dân
thắm thiết và tâm hồn lạc quan yêu đời, yêu cuộc sống của người lính Tây Tiến

b. Vẻ đẹp của con người và cảnh vật miền Tây Bắc trong chiều sương trên sông nước
Châu Mộc

- Không gian trên dòng sông, cảnh vật Châu Mộc hiện lên thật mờ ảo, thơ mộng
nhuốm màu sắc cổ tích, huyền thoại.

- Nổi bật lên trên bức tranh sông nước là cái dáng mềm mại, uyển chuyển của các
cô gái Thái trên con thuyền độc mộc.

- Những bông hoa rừng cũng như đang đong đưa làm duyên trên dòng nước lũ.

- Những bông lau ven rừng như có hồn và gợi nhớ da diết.

3. 3. Đoạn 3: Bức tƣợng ngƣời lính Tây Tiến bất tử với thời gian

Đoạn thơ tập trung vào khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến bằng bút pháp lãng
mạn nhưng không thoát ly hiện thực với cảm xúc bi tráng.

- Vẻ đẹp lẫm liệt, kiêu hùng, hào hoa, lãng mạn:

+ Sẵn sàng đối mặt với những khó khăn, thiếu thốn, bệnh tật: Thân hình tiều tuỵ vì
sốt rét rừng của người lính Tây Tiến : không mọc tóc, xanh màu lá

+ Trong gian khổ, hình tượng người lính Tây Tiến vẫn hiện ra với dáng vẻ oai
phong, lẫm liệt, vẫn toát lên cốt cách, khí phách hào hùng, mạnh mẽ: xanh màu lá, dữ oai
hùm

+ Trong gian khổ nhưng:

~ vẫn hướng về nhiệm vụ chiến đấu, vẫn “mộng qua biên giới” - mộng chiến
công, khao khát lập công;

~ “mơ Hà Nội dáng kiều thơm” - mơ về, nhớ về dáng hình kiều diễm của người
thiếu nữ đất Hà thành thanh lịch.

Những hình ảnh thơ thể hiện tâm hồn mộng mơ, lãng mạn của người lính - những
chàng trai ra đi từ đất Hà Nội thanh lịch. Những giấc “mộng” và “mơ” ấy như tiếp thêm
sức mạnh để các anh vượt gian khổ để lập nên nhiều chiến công.

- Vẻ đẹp bi tráng:

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
+ Những người lính trẻ trung, hào hoa đó gửi thân mình nơi biên cương xa xôi,
sẵn sàng tự nguyện hiến dâng “Đời xanh” cho Tổ Quốc mà không hề tiếc nuối.

+ Hình ảnh “áo bào thay chiếu” là cách nói sang trọng hóa sự hy sinh của người
lính Tây Tiến.

+ Họ coi cái chết tựa lông hồng. Sự hy sinh ấy nhẹ nhàng, thanh thản như trở về
với đất mẹ: “anh về đất”.

+ “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” : Linh hồn người tử sĩ đó hoà cùng sông
núi. Con sông Mã đã tấu lên khúc nhạc độc tấu đau thương, hùng tráng để tiễn người lính
vào cõi bất tử: Âm hưởng dữ dội tô đậm cái chết bi hùng của người lính Tây Tiến.

+ Hàng loạt từ Hán Việt: Biên cương, viễn xứ, chiến trường, độc hành… gợi
không khí tôn nghiêm, trang trọng khi nói về sự hi sinh của người lính Tây Tiến.

=> Hình ảnh người lính Tây Tiến phảng phất vẻ đẹp lãng mạn mà bi tráng của người
tráng sĩ anh hùng xưa.

3.4. Đoạn 4: đoạn thơ còn lại

- Khẳng định vẻ đẹp tinh thần của người lính Tây Tiến đối với thời đại và đối với lịch sử:

+ Vẻ đẹp tinh thần của người vệ quốc quân thời kì đầu kháng chiến: một đi không
trở lại, ra đi không hẹn ngày về.

+ Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến sẽ còn mãi với thời gian, với lịch sử dân tộc, là
chứng nhân đẹp đẽ của thời đại chống thực dân Pháp.

- Cụm từ người đi không hẹn ước thể hiện tinh thần quyết ra đi không hẹn ngày về. Hình
ảnh đường lên thăm thẳm gợi lên cả một chặng đường gian lao của đoàn quân Tây Tiến.

 Vẻ đẹp bất tử của người lính Tây Tiến được thể hiện ở âm hưởng, giọng điệu
của cả 4 dòng thơ. Chất giọng thoáng buồn pha lẫn chút bâng khuâng, song chủ đạo vẫn
là giọng hào hùng đầy khí phách.

4. Nghệ thuật

+ Cảm hứng lãng mạn, bi tráng

+ Sử dụng ngôn từ đặc sắc: từ địa danh, từ tượng hình, từ Hán Việt

+ Kết hợp chất nhạc và họa.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
5. Chủ đề: Qua bài thơ, Quang Dũng đó ngợi ca vẻ đẹp hùng vĩ và trữ tình, dữ dội mà
mĩ lệ của thiên nhiên núi rừng miền Tây Bắc của Tổ quốc, đặc biệt khắc vào thời gian
một bức tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến anh dũng, hào hoa.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
VIỆT BẮC (TỐ HỮU)

I.Hoàn cảnh sáng tác

- Việt Bắc là khu căn cứ đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp

- Tháng 7 năm 1954 hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, hòa bình lập lại ở miền
Bắc. Tháng 10 năm 1954, ngay sau cuộc kháng chiến chống TDP kết thúc thắng lợi, các
cơ quan trung ương của Đảng và chính phủ từ Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội. Tố Hữu
cũng là một trong số những cán bộ kháng chiến từng sống và gắn bó nhiều năm với Việt
Bắc, nay từ biệt chiến khu Việt Bắc để về xuôi. Bài thơ được viết trong buổi chia tay lưu
luyến đó.

II.Nội dung văn bản.

1.Kết cấu của bài thơ

+ Đối đáp giữa Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến từ giã Việt Bắc. Đây là cuộc
chia tay mang ý nghĩa lịch sử, cuộc chia tay giữa những người đã từng gắn bó dài lâu,
đầy tình nghĩa sâu nặng, mặn nồng, từng chia sẻ mọi đắng cay, ngọt bùi, nay trong giờ
phút chia tay, cùng nhau gợi lại bao kỉ niệm đẹp đẽ, cùng cất lên nỗi hoài niệm tha thiết
về những ngày đã qua, khẳng định nghĩa tình bền chặt và hẹn ước trong tương lai.

+ Lời đối đáp gần gũi, thân thuộc như trong ca dao, dân ca.

+ Bài thơ vì thế mà như lời tâm tình chan chứa yêu thương của những người yêu
nhau.

+ Trong đối đáp Tố Hữu sử dụng đại từ mình – ta với ý nghĩa vừa là ngôi thứ nhất,
vừa là ngôi thứ hai. Tình cảm chan chứa yêu thương vì thế mà như được nhân lên.
Chuyện nghĩa tình cách mạng, kháng chiến đến với lòng người bằng con đường của tình
yêu.

+ Nhìn sâu hơn vào kết cấu bài thơ thì đối thoại chỉ là lớp kết cấu bên ngoài, còn ở
chiều sâu bên trong chính là lời độc thoại của chính nhân vật trữ tình đang đắm mình
trong hoài niệm về quá khứ gian khổ mà tươi đẹp ấm áp nghĩa tình, nghĩa tình nhân dân,
nghĩa tình kháng chiến và cách mạng, khát vọng về tương lai tươi sáng. Kẻ ở- người đi;
lời hỏi- lời đáp có thể xem là sự phân thân để tâm trạng được bộc lộ đầy đủ hơn trong sự
hô ứng, đồng vọng, vang ngân.

2.Phân tích văn bản.

2.1. Tám câu đầu: những phút giây đầu tiên của buổi chia tay đầy bâng khuâng,
lƣu luyến giữa kẻ ở ngƣời đi.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
- Bốn câu đầu: lời ƣớm hỏi của ngƣời ở lại.

+ Câu hỏi ngọt ngào, khéo léo “mười lăm năm” cách mạng gian khổ hào hùng, cảnh và
người VB gắn bó nghĩa tình với những người kháng chiến; đồng thời khẳng định tấm
lòng thủy chung của mình.

+ Nghĩa tình của kẻ ở- người về được biểu hiện qua các đại từ mình- ta quen thuộc trong
thơ ca dân gian gắn liền với tình yêu đôi lứa, cách xưng hô: mình- ta tạo nên sự thân mật,
gần gũi. Điệp từ nhớ, láy đi, láy lại cùng với lời nhắn nhủ “mình có nhớ ta”, “mình có
nhớ không” vang lên day dứt khôn nguôi.

+ Các từ thiết tha, mặn nồng thể hiện bao ân tình gắn bó.

- Bốn câu sau: tiếng lòng của ngƣời cán bộ về xuôi

+ Tuy không trả lời trực tiếp câu hỏi của người ở lại nhưng tâm trạng bâng khuâng, bồn
chồn, cùng với cử chỉ „cầm tay nhau” xúc động bồi hồi đã nói lên tình cảm : chưa xa đã
nhớ, sự bịn rịn luyến lưu của người cán bộ với cảnh và người Việt Bắc.

+ Lời hỏi của người ở lại đã khéo nhưng câu trả lời còn khéo léo hơn thế. Không phải là
câu trả lời có hay không mà là những cử chỉ. Câu thơ bỏ lửng “cầm tay…” diễn tả thái
độ nghẹn ngào không nói lên lời của người cán bộ giã từ Việt Bắc về xuôi.

+ Hình ảnh “áo chàm”- nghệ thuật hoán dụ, trang phục quen thuộc của người dân Việt
Bắc. Rất có thể đó là hình ảnh thực, nhưng cũng có thể là hình ảnh trong tưởng tượng
của người cán bộ kháng chiến để rồi mỗi lần hình ảnh áo chàm bay về trong tâm trí của
người cán bộ là mỗi lần bao nỗi nhớ thân thương lại dội về.

 khúc dạo đầu của bản tình ca về nỗi nhớ.

2.2. Mƣời hai câu tiếp: gợi lại những kỉ niệm chiến khu gian khổ mà nghĩa tình:

- Nhớ về thiên nhiên, cuộc sống, tình ngƣời VB:

+ Nhớ một thiên nhiên khắc nghiệt: “mưa nguồn, suối lũ, mây cùng mù”

+ Nhớ một chiến khu đầy gian khổ, nhưng sẵn lòng căm thù giặc sâu sắc: cơm chấm
muối, mối thù nặng vai.

+ Nhớ những sản vật miền rừng: trám bùi, măng mai.

+ Nhớ những mái nhà nghèo nàn nhưng ấm áp tình người, tình cách mạng.

+ Nhớ những năm đầu kháng Nhật với những địa danh lịch sử: Tân Trào Hồng Thái mái
đình cây đa.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
- Nỗi nhớ ấy được thể hiện bằng những dòng thơ lục bất đâm chất dân gian, những cặp
câu thơ lục bát có sự phối hợp thanh điệu hài hòa. Sáu dòng lục tào thành một điệp khúc
âm thanh: nó đan dày thành những cấu trúc thanh bằng- trắc- bằng tạo ra nhạc điệu ngân
nga trầm bổng nhẹ nhàng, khoan thai.

- Hầu hết các câu thơ ngắt theo nhịp 4/4 làm nên những tiểu đối cân xứng, hô ứng về câu
trúc, nhạc điệu: Mưa nguồn suối lũ/những mây cùng mù; Miếng cơm chấm muối mối thù
nặng vai… Có những cặp tiểu đối khắc ghi những sự kiện, có những cặp tiểu đối vế đầu
nói về hiện thực gian khổ, vế còn lại khắc sâu vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Bắc
gắn bó son sắt cùng với lối sống ân nghĩa thủy chung. Người đọc như gặp lại hồn xưa
dân tộc nương náu trong những trang thơ lục bát của Tố Hữu.

- Câu thơ “Mình đi mình lại nhớ mình”: nhớ mình- tức nhớ người ở lại nhưng cũng như
là nhắc nhở chính mình hãy nhớ về quá khứ gian khổ nhưng thấm đẫm nghĩa tình.

2.3.Từ câu 25 đến câu 42: Nỗi nhớ những kỉ niệm sinh hoạt nghèo khổ mà ấm áp
nghĩa tình.

Nhớ gì như nhớ người yêu

……

Chày đêm nện cối đều đều suối xa

- Nỗi nhớ được so sánh với nhớ người yêu: Nỗi nhớ mãnh liệt và da diết.

- Từ nỗi nhớ như nhớ người yêu, Việt Bắc hiện lên với những nét đẹp rất riêng: Trăng
đầu núi, nắng lưng nương cùng những tên gọi, địa danh cụ thể.

- Điệp từ “nhớ từng” lặp đi lặp lại làm cho nỗi nhớ thêm da diết. Trong kí ức của người
đi còn in dấu khoảnh khắc thời gian (trăng đấu núi, nắng chiều lưng nương), từng
khoảng không gian của cây, sông, suối (Nhớ từng rừng nứa… vơi đầy). Vẻ đẹp thiên
nhiên nên thơ sẽ còn đọng mãi trong nỗi nhớ nhung của người ra đi.

- Tuy nhiên, da diết và đậm sâu hơn cả vẫn là nỗi nhớ về con người, về ân tình Việt Bắc:
bình thường, giản dị mà ân nghĩa thủy chung:

+ Nhớ Việt Bắc là nhớ đến tấm lòng biết sẻ chia: bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.

+ Nhớ đến nghĩa tình:người mẹ địu con, bẻ từng bắp ngô.

+ Nhưng cũng là nhớ đến đồng chí, đồng đội với bao gian nan vất vả: Nhớ sao … núi
đèo

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
- Việt Bắc vì thế tuy gian khổ, vất vả nhưng trong kí ức vẫn thanh bình, đẹp đẽ: Nhớ sao
tiếng mõ … suối xa

=>Đoạn thơ đủ sức gợi ra thật rõ nét và thấm thía khung cảnh bản làng, tình người, tình
quân dân của chiến khu những năm kháng Pháp với tất cả những dáng nét, âm thanh,
không khí, tâm tình. Những câu thơ cất lên nghe sao trìu mến, nói về mẹ, về trẻ thơ, về
người thương yêu dấu.

2.4. Từ câu 43 đến câu 52: bức tranh tứ bình về thiên nhiên, con ngƣời Việt Bắc.

Ta về mình có nhớ ta

.....

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

- Hai dòng thơ đầu là lời khẳng định vể nỗi nhớ thương da diết và tình cảm thủy chung
của người ra đi dành cho quê hương Việt Bắc. Nỗi nhớ đã làm sống dậy trong tâm tưởng
hình ảnh thiên nhiên, con người nơi chiến khu cách mạng.

- Thiên nhiên Việt Bắc đẹp trong sự đan cài với vẻ đẹp của con người “hoa” cùng
“người”: Đoạn thơ có bốn cặp câu lục bát: câu 6 miêu tả thiên nhiên, câu 8 miêu tả con
người.

- Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên trong vẻ đẹp bốn mùa:

+ Mùa đông trên nền xanh bạt ngàn cây lá bỗng bất ngờ hiện lên sắc màu đỏ tươi của
hoa chuối. Màu đỏ ấy làm ấm cả không gian

+ Mùa xuân với sắc trắng của hoa mơ- loài hoa đặc trưng của Việt Bắc, 1 màu trắng
miên man, tinh khiết, đẹp đến nao lòng.

+ Mùa hè, với tiếng ve kêu vang ngân và sắc vàng của rừng phách.

+ Mùa thu với ánh trăng chan hòa trên mặt đất, đem lại không khí bình yên.

- Hình ảnh con người đã trở thành tâm điểm của bức tranh tứ bình, tạo nên sức sống của
thiên nhiên cảnh vật. Những con người Việt Bắc hiện về trong nỗi nhớ thật thân quen,
bình dị, thầm lặng trong những công việc của đời thường:

+ Mùa đông trở nên ấm áp với “ánh nắng dao giài thắt lưng”.

+ Bức tranh mùa xuân hòa cùng với dáng vẻ cần mẫn chút chăm của “người đan nón” +
Bức tranh màu hè hoá dịu dàng với hình ảnh cô em gái hái măng một mình

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
+ Mùa thu là tiếng hát nghĩa tình thủy chung của con người cất lên giữa đêm trăng.

- Đoạn thơ mang nét đẹp cổ điển mà hiện đại

+ Vẻ đẹp cổ điển: Bức tranh tứ bình hiện lên qua những nét gợi tả

+ Vẻ đẹp hiện đại: Hình ảnh con người đã trở thành tâm điểm, tạo nên vẻ đẹp, sức
sống của bức tranh.

2.5. Từ câu 53 đến câu 83: khung cảnh Việt Bắc kháng chiến, lập nhiều chiến công,
vai trò của Việt Bắc trong cách mạng và kháng chiến.

a. Từ câu 53-> 74

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng

………………..Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”

Trong hoài niệm bao trùm có ba mảng thống nhất hòa nhập đó là: nỗi nhớ thiên nhiên-
nỗi nhớ con người cuộc sống ở Việt Bắc- nỗi nhớ về cuộc chiến đấu anh hùng chống
TDP xâm lược. Theo dòng hồi tưởng, người đọc được sống lại những giây phút của
cuộc kháng chiến với không gian rộng lớn, những hoạt động tấp nập, sôi động được vẽ
bằng bút pháp của những tráng ca. Cảnh Việt Bắc đánh giặc được miêu tả bằng những
bức tranh rộng lớn, kì vĩ.

+ Rừng núi mênh mông hùng vĩ trở thành bạn của ta, chở che cho bộ đội ta, cùng quân
và dân ta đánh giặc.

+ Chiến khu là căn cứ vững chắc, đầy nguy hiểm với quân thù.

+ Nghệ thuật so sánh, nhân hoá: núi giăng…luỹ sắt, rừng che, rừng vây…

+ Những cái tên, những địa danh ở chiến khu Việt Bắc: phủ Thông, đèo Giàng, sông
Lô, Cao- Lạng…vang lên đầy mến yêu, tự hào, cũng trở thành nỗi nhớ của người cán
bộ kháng chiến về xuôi.

+ Không khí chiến đấu sôi nổi hào hùng, khí thế hừng hực trào sôi:

~ Sức mạnh của quân ta với các lực lượng bộ đội, dân công… sự hợp lực của nhiều
thành phần tạo thành khối đoàn kết vững chắc.

~ Các từ: Rầm rập, điệp diệp, trùng trùng…thể hiện khí thế dồn dập.

~ Hình ảnh người chiến sĩ được gợi lên qua chi tiết giàu chất tạo hình: “ánh sao đầu mũ
bạn cùng mũ nan”-> ánh sáng của sao dẫn đường, ánh sáng của niềm tin, của lí tưởng.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
~ Thành ngữ “Chân cứng đá mềm” đã được nâng lên thành một bước cao hơn “bước
chân nát đá muôn tàn lửa bay”.

+ Chiến công tưng bừng vang dội khắp nơi: Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên, đèo De,
núi Hồng… Niềm vui chiến thắng chan hoà bốn phương: Vui từ…vui về…vui lên…

+ Đoạn thơ ngập tràn ánh sáng: ánh sao, ánh đuốc, ánh đèn pha… như ánh sáng của
niềm tin tưởng, niềm vui tràn ngập.

+ Nhịp thơ dồn dập gấp gáp, ấm hưởng hào hùng náo nức tạo thành khúc ca chiến thắng.

b.Từ câu 75- câu 83.

Đoạn thơ phác họa hình ảnh giản dị mà trang trọng của một cuộc họp Chính phủ
trong hang núi mà vẫn rực rỡ dưới ánh cờ đỏ sao vàng trong nắng trưa và kết thúc bằng
sự thâu tóm hình ảnh Việt Bắc quê hương cách mạng, đầu não của cuộc kháng chiến, nơi
đặt niềm tin tưởng và hy vọng của con người Việt Nam từ mọi miền đất nước, đặc biệt là
những nơi còn “u ám quân thù”.

3. Đặc sắc nghệ thuật

Việt Bắc là một trong những đỉnh cao của thơ ca cách mạng Việt Nam. Tiếng thơ
trữ tình- chính trị của Tố Hữu đậm đà tính dân tộc.

- Những bức tranh chân thực, đậm đà bản sắc dân tộc về thiên nhiên và con người Việt
Bắc được tái hiện trong tình cảm tha thiết , gắn bó sâu sắc của tác giả.

- Tình nghĩa của người cán bộ và đồng bào Việt Bắc với cách mạng, kháng chiến, với
Bác Hồ là những tình cảm cách mạng sâu sắc của thời đại mới. Những tình cảm ấy hòa
nhập và tiếp nối mạch nguồn tình cảm yêu nước, đạo lí ân tình thủy chung vốn là truyền
thống sâu bền của dân tộc.

+ Thể thơ: thể thơ lục bát truyền thống đã được vận dụng tài tình trong một bài thơ dài,
vừa tạo âm hưởng thống nhất mà lại biến hóa đa dạng.

+ Kết cấu: lối kết cấu đối đáp trong ca dao dân ca được vận dụng một cách thích hợp, tài
tình

+ Những lối nói giàu hình ảnh, các cách chuyển nghĩa truyền thống (so sánh, ẩn dụ,
tượng trưng, ước lệ)

+ Giọng thơ ngọt ngào, tâm tình, cách xưng hô mình- ta quen thuộc trong ca dao khiến
bài thơ như một bản tình ca về lòng thủy chung son sắt của người cách mạng với người
dân Việt Bắc

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
4. Chủ đề

Việt Bắc là một câu chuyện lớn, một vấn đề tư tưởng được diễn đạt bằng một cảm
nhận mang tính chất riêng tư. Bài thơ gợi về những ân nghĩa, nhắc nhở sự thủy chung
của con người đỗi với con người và đối với quá khứ cách mạng nói chung

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
ĐẤT NƢỚC

(trích Trường ca Mặt đường khát vọng- Nguyễn Khoa Điềm)

I. Tác giả

- Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong khói lửa kháng
chiến chống Mỹ

- Thơ ông giàu chất suy tư, cảm xúc dồn nén, thể hiện tâm tư người trí thức tham gia
chiến đấu.

II. Đoạn trích “Đất Nƣớc”

1.Hoàn cảnh ra đời, xuất xứ

“Đất Nước” thuộc phần đầu của chương V trong trường ca Mặt đường khát vọng
– tác phẩm được hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971, viết về sự thức tỉnh của
tuổi trẻ vùng đô thị tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ
mình, xuống đường đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược.

2. Nội dung

2.1.Phần 1: Cảm nhận về Đất Nƣớc

- Đất nước thật dung dị, đời thường: Đất Nước hiện lên qua câu chuyện cổ tích mẹ kể,
miếng trầu bà ăn, những dãy tre làng, “bới” tóc của mẹ, gừng cay, muối mặn, cái kèo, cái
cột, hạt gạo...

- Đất nước “đã có” từ thủa rất xa xưa và rất gần gũi thân thương đối với mỗi con người.

- Nét độc đáo trong nghệ thuật thể hiện: Đoạn thơ là sự kết tinh đặc sắc giữa chất liệu
văn hoá dân gian với hình thức thơ trữ tình- chính luận.

- Về không gian địa lý :

+ Đất nước là nơi rất gần gũi với cuộc sống mỗi người ( nơi anh đến trường... nơi
em tắm).

+ Đất Nước tồn tại ngay cả trong những không gian riêng tư của tình yêu đôi lứa :
“Đất Nước là nơi ta hò hẹn. Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ
thầm”.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
+ Đất Nước còn là không gian sinh tồn hết sức đời thường của nhân dân qua bao
thế hệ “Những ai đã khuất. Những ai bây giờ. Yêu nhau và sinh con đẻ cái. Gánh vác
phần người đi trước để lại…”).

- Về thời gian lịch sử : Đất Nước được cảm nhận suốt chiều dài thời gian lịch sử từ quá
khứ đến hiện tại và tương lai.

+ Đó là một Đất Nước thiêng liêng, hào hùng trong quá khứ (gắn liền với huyền
thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết về các vua Hùng dựng nước).

+ Đó là một Đất nước giản dị, gần gũi trong hiện tại (“Trong anh và em hôm nay.
Đều có một phần Đất Nước”)

+ Và một Đất Nước triển vọng sáng tươi trong tương lai (“Mai này con ta lớn lên.
Con sẽ mang Đất Nước đi xa. Đến những tháng ngày mơ mộng”).

- Từ cách cảm nhận và lí giải Đất Nước như thế nhà thơ suy nghĩ về trách nhiệm của mọi
người :

+ Đất nước kết tinh, hoá thân trong cuộc sống của mỗi con người, vì thế mọi
người phải có tinh thần cống hiến, có trách nhiệm đối với sự trường tồn của quê hương,
xứ sở.

+ Cần biết gắn bó biết san sẻ : sự sống của mỗi con người không chỉ là của riêng
cá nhân mà còn thuộc về Đất nước.

+ Lời nhắn nhủ với thế hệ trẻ, lời tự nhủ với chính bản thân đầy chân thành tha
thiết.

2.2.Tƣ tƣởng “Đất nƣớc của nhân dân” trong phần 2 của đoạn trích

- Về địa lý : nhà thơ đã nhìn ngắm Đất Nước mình qua các danh thắng trải dài từ Bắc
chí Nam. Tất cả các địa danh được nhắc đến đều gắn liền với một huyền thoại, huyền
tích và sự thật về nhân dân trong lịch sử. Nói cách khác, chính những huyền thoại, huyền
tích và sự thật lịch sử về nhân dân đã làm nên tên tuổi của các địa danh ấy, biến chúng
thành danh thắng, thành di tích lịch sử văn hóa được mọi người thừa nhận và biết đến :

+ những người vợ nhớ chồng – núi Vọng Phu;

+ cặp vợ chồng yêu nhau – hòn Trống Mái;

+ người học trò nghèo – núi Bút, non Nghiên;

+ Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm…

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
Trong con mắt của nhà thơ, mỗi danh thắng không chỉ là một nét vẽ tô điểm vào
bức “tranh họa đồ” Đất Nước mà còn ẩn chứa những nét đẹp tâm hồn của nhân dân trong
mấy nghìn năm lịch sử : sự thủy chung; tình nghĩa vợ chồng; tinh thần yêu nước; ý thức
hướng về tổ tông, nguồn cội; tinh thần hiếu học, ý chí vượt khó vươn lên; tinh thần xả
thân vì cộng đồng, dân tộc… Tựu chung lại, đúng như nhà thơ đã khái quát : “Và ở đâu
trên khắp ruộng đồng gò bãi. Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông
cha. Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy. Những cuộc đời đã hóa núi
sông ta”.

- Về lịch sử : khi nhìn vào “bốn nghìn năm Đất Nước”, Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh
đến “lớp lớp” những con người “giản dị và bình tâm. Không ai nhớ mặt đặt tên. Nhưng
họ đã làm ra Đất Nước”. Không ai khác mà chính họ đã gìn giữ và truyền lại cho các thế
hệ mai sau mọi giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của Đất Nước: hạt lúa, ngọn lửa,
tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, bản sắc văn hóa các vùng miền… Cũng chính họ “Có ngoại
xâm thì chống ngoại xâm. Có nội thù thì vùng lên đánh bại” tạo dựng chủ quyền, đắp
nền xây móng cho ngôi nhà Đất Nước để các thế hệ mai sau kế thừa và tiếp tục dựng
xây, phát triển.

- Về văn hóa : khi khẳng định “Đất Nước của Nhân dân”, tác giả đã trở về với ngọn
nguồn phong phú, đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao. Ca dao
chính là diện mạo tinh thần, là nơi lưu giữ đời sống tâm hồn tình cảm của nhân dân qua
bao thế hệ. Nguyễn Khoa Điềm đã chọn ra từ kho tàng thơ ca dân gian ba nét đẹp tiêu
biểu nhất của tâm hồn Việt, của bản sắc văn hóa Đất Nước: thật say đắm trong tình yêu,
quý trọng tình nghĩa và kiên trì, bền bỉ trong đấu tranh cho đến ngày toàn thắng.

3. Nghệ thuật

- Thể thơ tự do.

- Sử dụng chất liệu văn hóa dân gian: ngôn từ, hình ảnh bình dị, dân dã, giàu sức
gợi

- Giọng thơ thủ thỉ, tâm tình, biến đổi linh hoạt

- Sức truyền cảm lớn từ sự hòa quyện của chất chính luận và chất trữ tình.

4. Chủ đề

Bằng sự vận dụng đầy sáng tạo hình thức thơ trữ tình- chính trị, đoạn trích Đất
Nước đã quy tụ mọi cảm nhận, mọi cái nhìn và vốn liếng sách vở cũng như những trải
nghiệm cá nhân của người nghệ sĩ để làm nên một tuyên ngôn về tư tưởng, về nhận thức
của cả một thế hệ nghệ sĩ, ấy là tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
HƢỚNG DẪN LUYỆN TẬP

Câu 1. (2 điểm): Nêu hoàn cảnh sáng tác và vị trí đoạn trích “Đất nước”.

Xem mục II.1

Câu 2. (2 điểm): Ở phần đầu, đất nước được cảm nhận với sự thống nhất của ba phương
diện: chiều sâu văn hoá, chiều rộng của không gian, chiều dài về thời gian. Anh (chị)
hiểu điều đó như thế nào?

Xem mục II.2.1

Câu 3. (2 điểm): Nhận xét về cách sử dụng chất liệu văn hoá dân gian của tác giả (ca
dao, tục ngữ, truyền thuyết, phong tục…), từ đó tìm hiểu những đóng góp riêng của nhà
thơ về nghệ thuật biểu đạt.

- Chất liệu văn hóa dân gian đƣợc sử dụng rất đa dạng và sáng tạo. Có phong tục,
lối sống, tập quán sinh hoạt, (miếng trầu, tóc bới sau đầu, cái kèo, cái cột. hạt gạo xay,
giã, dần sàng, hòn than, con cúi…); Có ca dao, dân ca, tục ngữ, có truyền thuyết Hùng
Vương, các truyện cổ tích từ xa xưa. Cách vận dụng của tác giả là thường là chỉ gợi ra
bằng một vài chữ của câu ca dao hay một hình ảnh, một chi tiết trong truyền thuyết. cổ
tích, trừ trường hợp câu dân ca Bình- Trị- Thiên được lấy lại nguyên vẹn “Con chim
phượng hoàng … biển khơi”.

- Chất liệu văn hóa, văn học dân gian đƣợc sử dụng đậm đặc đã tạo nên một không
gian nghệ thuật riêng cho đoạn trích: vừa bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa giàu tưởng
tượng, vừa bay bổng, mơ mộng.

Câu 4. (5 điểm): Cảm nhận của anh(chị) về đoạn thơ sau:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

……

Đất nước có từ ngày đó”

Hƣớng dẫn:

- Đây là 9 câu thơ đầu tiên của đoạn trích, là sự lí giải và cảm nhận Đất Nƣớc ở
phƣơng diện lịch sử, văn hoá.

- Đất nước có từ rất xa xưa, thật dung dị, đời thường:

+ Đất Nước hiện lên qua câu chuyện cổ tích mẹ kể- có từ rất xưa rồi

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
+ Đất Nước gắn liền với miếng trầu bà ăn- gắn với thuần phong mĩ tục.

+ Đất nước gắn với những dãy tre làng- gắn với truyền thống yêu nước

+ Đất Nước gắn với “bới” tóc của mẹ- thói quen hàng ngày của những người phụ nữ VN
ngày xưa.

+ Đất Nước gắn với gừng cay, muối mặn- những gia vị hàng ngày rất quen thuộc nhưng
cũng là lối sống tình nghĩa thủy chung của con người.

+ Đất Nước hiện hình trong những sự vật gần gũi: cái kèo, cái cột

+ Đất nước gắn với truyền thống lao động cần cù: hạt gạo một nắng hai sương.

- So sánh để làm nổi bật sự khác biệt trong cách cảm nhận về Đất Nước:

- Như vậy, trong những cảm nhận ban đầu của Nguyễn Khoa Điềm, khởi nguyên của
đất nước chưa phải là những trang sử hào hùng với những chiến tích của thủa hồng
hoang vĩ đại (dù sau này nhà thơ có nhắc đến Lạc Long Quân, Âu Cơ, đến thời đại các
vua Hùng dựng nước) mà là những huyền thoại, những truyền thuyết, những phong tục,
tập quán riêng biệt đã có từ ngàn đời. Lịch sử lâu đời của đất nước không được cắt nghĩa
bằng sự nối tiếp của các triều đại hay các mốc son lịch sử chói lọi mà được nhìn từ trong
chiều sâu văn hóa và văn học dân gian. Đây cũng chính là điểm mới trong cách tìm về
nguồn cội của đất nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.

- Sự độc đáo trong nghệ thuật thể hiện: Một đoạn thơ ngắn nhưng gợi dậy biết bao
nét văn hóa và văn học dân gian quen thuộc.

Tóm lại, đoạn thơ là một định nghĩa theo cách riêng của Nguyễn Khoa Điềm về
Đất Nước : không siêu hình trừu tượng mà gắn bó thân thuộc với mỗi người, Đất Nước
của nhân dân. Lời thơ giàu chất lạêu văn hoá dân gian, tạo một không gian nghệ thuật
vừa gần gũi thân quen, vừa bay bổng, sâu xa.

Câu 5. (5 điểm): Cảm nhận của anh(chị) về đoạn thơ sau:

Những người vợ nhớ chồng góp cho Đất Nước những núi Vọng phu

………

Những cuộc đời đã hoá núi sông ta

Hướng dẫn:

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
- Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” là tư tưởng bao trùm của chương “Đất Nước” cũng
như của cả trường ca: ca ngợi vai trò và sự hi sinh to lớn của nhân dân trong công cuộc
dựng nước và giữ nước.

Đoạn thơ từ câu:

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng
Phu…

… Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”

là một trong những đoạn thơ tiêu biểu thể hiện tư tưởng này.

- Đoạn thơ gọi tên các danh lam thắng cảnh trên khắp các miền đất nước, trải dài từ Bắc
vào Nam. Từ Bình Định, Lạng Sơn, Thanh Hoá với núi Vọng Phu, hòn Trống Mái đến
con cóc, con gà ở Hạ Long, chín mươi chín con voi về dựng đất Tổ Hùng Vương đến Đà
Nẵng với núi Bút, non Nghiên, miền Nam với những cánh đồng Ông Đốc, Ông Trang,
Bà Đen, Bà Điểm.

- Những thắng cảnh thiên nhiên hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân.
Những thắng cảnh này là sự hoá thân xả thân từ những gì có thật.

+ Từ tình yêu giữa vợ và chồng: nàng Tô Thị bồng con ngóng chồng ngày đêm
mỏi mòn hoá đá.

+ Từ sự son sắt thuỷ chung tha thiết của tình yêu lứa đôi. Trong cái riêng nhất của
đời sống vẫn canh cánh trong lòng tình yêu đất nước.

+ Từ những hiện tượng, thiên nhiên, địa lý lặng lẽ âm thầm như dòng sông, ao
đầm đến những mảnh đất thiêng liêng như đất Tổ Hùng Vương đều có tiếng nói riêng
kêu gọi hướng về cội nguồn nòi giống.

+ Cảm động nhất là những con người, con vật quê hương đều có chung ý nghĩ làm
giàu đẹp sang trọng cho đất nước.

Cả đoạn thơ như sự huy động lực lượng tối đa để kiến tạo nên một đất nước riêng của
mình. Nguyễn Khoa Điềm hiểu đến tận cùng những ký thác mà lịch sử cha ông để lại.

Những địa danh trên không chỉ là tên gọi của những cảnh trí thiên nhiên thuần tuý mà
được cảm nhận thông qua cảnh ngộ số phận của người dân. Dáng hình Đất Nước được
tạc nên từ bao mất mát, đau thương vui buồn hạnh phúc… của nhân dân. Chính họ đã đặt

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
tên, ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất… chứ không phải
chỉ từ bàn tay tạo hoá.

- Từ những hình ảnh, cảnh vật, hiện tượng cụ thể nhà thơ đúc kết thành một khái quát
sâu sắc:

“ Và đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình… núi sông ta”

Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch
sử 4000 năm của đất nước: không nói tới các triều đại hay những người anh hùng được
lưu danh mà ca ngợi người dân- những con người vô danh giản dị mà phi thường:

“Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Chính họ đã làm ra Đất Nước”

 Mạch cảm xúc dồn tụ dần và kết thúc bật lên tư tưởng chủ đạo của cả chương thơ
và bản trường ca:

“Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân

Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại

- Tư tưởng chủ đạo của chương được thể hiện bằng hình thức trữ tình chính luận.
Nguyễn Khoa Điềm đưa ra để thuyết phục người đọc thật giản dị: chính người dân-
những con người vô danh đã kiến tạo và bảo vệ Đất Nước, xây dựng truyền thống văn
hóa lịch sử ngàn đời. Lý lẽ ấy không phát biểu một cách khô khan mà bằng hình ảnh gợi
cảm, giọng thơ sôi nổi tha thiết.

- Qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và nghĩ suy, trữ tình và chính luận, Nguyễn
Khoa Điềm muốn thức tỉnh ý thức tinh thần dân tộc, tình cảm gắn bó với người dân, đất
nước của thế hệ trẻ thời kỳ chống Mỹ.

- Đoạn thơ trên đã thể hiện rõ quan niệm “Đất Nước của nhân dân”- tư tưởng chủ đạo,
tạo nên cảm hứng bao trùm, mở ra những khám phá sâu và mới của nhà thơ về Đất Nước
ngay cả ở những chỗ đã rất quen thuộc.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
- Quan niệm ấy thực ra đã có ngọn nguồn từ trong dòng tư tưởng và văn chương truyền
thống của dân tộc ta. Nhưng đến thời hiện đại, tư tưởng ấy lại càng trở nên sâu sắc và
được thể hiện phong phú trong thơ ca.

Câu 6(5 điểm): Cảm nhận của anh/ chị về đoạn thơ sau:

Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

…..

Đi trả thù mà không sợ dài lâu

Hướngdẫn:
* Qua đoạn thơ tác giả đã biểu dƣơng, ngợi ca vai trò của lịch sử, sức mạnh lớn lao
kì diệu của nhân dân trong sự nghiệp dựng nƣớc và giữ nƣớc

- Trong sự nghiệp dựng nước, nhân dân là người kiến tạo và bảo tồn những giá trị văn
hoá tinh thần, truyền thống của dân tộc:

~ Cách dung từ họ: đại từ xưng hô số nhiều chỉ nhân dân- những con người bé nhỏ, bình
thường thuộc đám đông trong xã hội, chứ không phải là các cá nhân anh hùng

~ Hệ thống các từ: giữ, truyền, gánh, đắp, be, dạy… được sử dụng đan dày trong đoạn
thơ ghi nhận sự đóng góp lớn lao của nhân dân đối với sự nghiệp kiến quốc. Nhân dân,
bằng những việc làm cụ thể, bé nhỏ,rất đỗi bình dị mà thiết thực, ý nghĩa đã làm nên Đất
Nước.

~ Các hình ảnh gắn với chuỗi động từ này: hạt lúa, lửa, giọng nói, tên xã, tên làng, đập,
bờ… một mặt tiếp tục thể hiện sự khám phá mới mẻ, độc đáo của nhà thơ về Đất Nước
trong bề rộng không gian địa lí và tầng sâu của những truyền thống văn hoá, tạo nên sự
thống nhất trong cách thể hiện Đất Nước ở toàn bộ chương V; mặt khác còn khẳng định
nhân dân chính là lực lượng đông đảo vừa kiến tạo bảo tồn. lưu giữ truyền thống giàu
tình nghĩa, giàu tình yêu thương, cần cù lao động- đó là những giá trị văn hoá tinh thần
cao quý của Đất Nước. Nhân dân cũng chính là người góp phần mở mang bờ cõi Đất
Nước, khai sông, lấn biển qua mỗi chuyến di dân đầy gian khổ.

- Trong cuộc đấu tranh giữ nước cũng chính là nhân dân chứ không ai khác viết lên trang
sử bi tráng.Nhân dân, những con người “có ngoại xâm thì chống ngoại xâm/ có nội thù
thì vùng lên đánh bại” khẳng định đầy tự hào và sức mạnh lớn lao của nhân dân chống
thù trong, giặc ngoài. Chính nhân dân đã hun đúc nên truyền thống kiên cường, bất
khuất. Đó là truyền thống chứa đựng bản lĩnh của một dân tộc.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
* Cũng ở đoạn thơ này, để chuyền tải tƣ tƣởng Đất Nƣớc của Nhân dân, Đất Nƣớc
của ca dao thần thoại, ngƣời viết đã tìm đến nguồn chất liệu dồi dào và vô cùng
thích hợp: nguồn chất liệu văn hóa, văn học dân gian.

- Đoạn thơ có sự đan dệt của những ca dao, tục ngữ, hang loạt truyện cổ và vô vàn những
tập quán, phong tục một cách sang tạo. Người viết có khi chỉ trích nguyên văn một câu
ca dao: yêu em từ thủơ trong nôi, song phần lớn chỉ sử dụng ý, hình ảnh ca dao: Biết quý
công cầm vàng những ngày lặn lội; biết trồng tre đợi ngày thành gậy/ Đi trả thù mà
không sợ dài lâu.

- Với thể thơ tự do, vận dụng linh hoạt, nhuần nhuyễn, sang tạo chất liệu văn hoá, văn
học dân gian; giọng điệu thơ có sự kết hợp giữa chính luận và trữ tình, suy tưởng và cảm
xúc, đoạn thơ đã thể hiện được những nét riêng, độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm khi
biểu dương tôn vinh vai trò lịch sử, sức mạnh kì diệu của nhân dân trong suốt trường kì
lịch sử.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
SÓNG (XUÂN QUỲNH)

I. Tác giả

- Xuân Quỳnh có cuộc đời bất hạnh, luôn khát khao tình yêu, mái ấm gia đìnhvà tình
mẫu tử

- Đặc điểm hồn thơ: tiếng nói của người phụ nữ giàu yêu thương, khát khao hạnh phúc
đời thường, bình dị, nhiều âu lo, day dứt, trăn trở trong tình yêu.

II. Bài thơ “Sóng”

1. Hoàn cảnh sáng tác

Sóng được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi công tác vùng biển Diêm Điền.
Trước khi Sóng ra đời, Xuân Quỳnh đã phải nếm trải những đổ vỡ trong tình yêu. Đây là
bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách thơ Xuân Quỳnh. Tác phẩm được in trong
tập Hoa dọc chiến hào (1968).

2. Âm điệu, nhịp điệu của bài thơ

- ¢m ®iÖu cña bµi th¬ Sãng lµ ©m ®iÖu, cña nh÷ng con sãng ngoµi biÓn kh¬i, lóc µo
¹t, d÷ déi lóc nhÑ nhµng, khoan thai. ¢m ®iÖu ®ã ®-îc t¹o nªn bëi: ThÓ ngò ng«n víi
nh÷ng c©u th¬ ®-îc ng¾t nhÞp linh ho¹t.

- Bµi th¬ cã hai h×nh t-îng lµ “sãng” vµ “em” - lóc ph©n t¸ch, soi chiÕu vµo nhau,
lóc nhËp hßa lµm mét trong mét c¸i t«i tr÷ t×nh duy nhÊt lµ Xu©n Quúnh.

3. Nội dung

- Khổ 1 :

+ Sóng hiện ra với những đối cực Dữ dội >< Dịu êm; ồn ào>< lặng lẽ như những
cung bậc tâm trạng của người phụ nữ khi yêu.

+ Sóng khát khao thoát khỏi giới hạn chật hẹp (sông) để tìm ra “bể” như người
phụ nữ khát khao tìm đến những chân trời đích thực của tình yêu.

- Khổ 2 :

+ Từ ngàn, triệu năm qua, con sóng vẫn thế như từ ngàn, triệu năm qua, tình yêu
vẫn là một khát vọng cháy bỏng trong trái tim con người, nhất là tuổi trẻ.

+ Đó cũng là khát vọng cháy bỏng trong trái tim không bao giờ thôi khát khao yêu
đương của nhân vật trữ tình trong bài thơ.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
- Khổ 3, 4 :

+ Không thể truy nguyên nguồn gốc của sóng cũng như tình yêu của con người.
Đó mãi mãi là bí ẩn diệu kì, là sức hấp dẫn mời gọi của tình yêu. Không thể cắt nghĩa
tình yêu và cũng chẳng nên cắt nghĩa tình yêu bởi rất có thể khi ta biết yêu vì lẽ gì thì
cũng là lúc tình yêu ra đi.

+ Người phụ nữ, nhân vật em trong bài thơ cũng không thể cắt nghĩa được tình
yêu. Một sự bất lực đáng yêu của một trái tim yêu không chỉ đòi hỏi cảm xúc mà còn đòi
hỏi nhận thức mãnh liệt.

- Khổ 5 :

+ Con sóng, dù ở trạng thái nào (trong lòng sâu, trên mặt nước, ngày hay đêm),
đều thao thức một nỗi niềm “nhớ bờ”. Nỗi nhớ choán cả không gian, thời gian.

+ Tình yêu của người phụ nữ trong bài thơ cũng vậy. Hạt nhân của nó là nỗi nhớ,
một nỗi nhớ cồn cào, da diết, nỗi nhớ chiếm cả tầng sâu, chiều rộng và trải dài theo thời
gian, lúc hiện hữu, khi lắng sâu, lúc ý thức, khi nằm ngoài sự kiểm soát của ý thức.

- Khổ 6, 7

+ Cũng như sóng chỉ có một hướng đích duy nhất là bờ, em chỉ có phương anh
làm điểm đến, bất chấp cuộc đời có nhiều trái ngang.

+ Sự thuỷ chung của sóng với bờ hay cũng chính là sự chung thuỷ của em với anh.
Nếu nỗi nhớ làm thành biểu hiện nồng nàn, sôi nổi của tình yêu thì sự thuỷ chung lại là
phần đằm sâu trong trái tim người phụ nữ.

- Hai khổ cuối :

+ Sự sống, tình yêu ở thời đại nào cũng luôn hữu hạn trong tương quan với cái vô
thuỷ, vô chung, vô cùng, vô tận của thiên nhiên, vũ trụ. Trước cái vĩnh hằng của tạo hoá,
trước dòng chảy vô hồi, vô hạn của cuộc đời, tình yêu của con người mãi mãi chỉ là
“bóng câu qua cửa sổ”. Đó là cảm thức về thời gian. Dường như càng yêu mãnh liệt,
càng khát khao gắn bó, con người càng hay nghĩ về thời gian ! Người phụ nữ đang cháy
bóng khát khao yêu và được yêu trong Sóng cũng không phải là ngoại lệ.

+ Vậy, chỉ có một cách duy nhất để tình yêu trường tồn với thời gian, để trái tim
yêu được đập mãi. Đó là “Làm sao được tan ra - Thành trăm con sóng nhỏ - Giữa biển
lớn tình yêu - Để ngàn năm còn vỗ”. Đó là khát vọng được vĩnh cửu hoá tình yêu, được
hoà tình yêu của mình vào khối tình chung của nhân loại, như con sóng hoà vào đại
dương mênh mông, bất tận.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
4. Nghệ thuật

- Nhịp điệu độc đáo, giàu sức liên tưởng: thể thơ năm chữ, cách ngắt nhịp, gieo vần, nối
khổ linh hoạt

- Giọng điệu tha thiết chân thành, ít nhiều có sự phấp phỏng lo âu.

- Xây dựng hình tượng sóng như một ẩn dụ nghệ thụât về tình yêu của người phụ nữ.

-Kết cấu song hành: sóng và em

5. Chủ đề

Sóng là bài thơ tình đặc sắc. Bài thơ là sự khám phá những khát vọng tình yêu của
trái tim người phụ nữ chân thành, giàu khao khát nhưng cũng rất tự nhiên.

NGƢỜI LÁI ĐÕ SÔNG ĐÀ (NGUYỄN TUÂN)

1. Hoàn cảnh sáng tác

+ Người lái đò sông Đà là một áng văn trong tập tùy bút Sông Đà (1960) – thành
quả nghệ thuật đẹp đẽ của Nguyễn Tuân trong chuyến đi gian khổ và hào hùng tới miền
Tây Bắc rộng lớn của Tổ quốc. Sông Đà gồm 15 thiên tùy bút và một bài thơ ở dạng
phác thảo.

+ Mục đích chính của chuyến đi tới Tây Bắc của nhà văn đồng thời cũng là cảm
hứng chủ đạo của cả tập bút ký là tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc và nhất là
chất vàng mười – “thứ vàng đã được thử lửa” ở tâm hồn những con người lao động,
chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng.

2. Vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của hình tƣợng con sông Đà

* Vẻ hung bạo, dữ dằn :

- Cảnh đá bờ sông “dựng vách thành”, có quãng lòng sông bị thắt hẹp lại như cái yết hầu.

- Những quãng dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng
gió gùn ghè suốt năm…

- Những “hút nước” chết người luôn sẵn sàng nhấn chìm và đập tan chiếc thuyền nào lọt
vào.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
- Tiếng nước thác sông Đà với nhiều cung bậc dữ dội khác nhau

- Quãng sông Đà với bao đá nổi, đá chìm, phối hợp cùng sóng thác như dàn thạch trận,
lập nhiều phòng tuyến… sẵn sàng “ăn chết” con thuyền và người lái đò.

* Vẻ trữ tình, thơ mộng :

- Từ trên cao nhìn xuống, dòng chảy uốn lượn của con sông như mái tóc của người thiếu
nữ diễm kiều.

- Nhìn ngắm con sông từ nhiều thời gian, không gian khác nhau, Nguyễn Tuân đó phát
hiện những sắc màu tươi đẹp và đa dạng của màu nước sông Đà. Nó biến đổi theo mùa,
mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng.

- “Nhìn sông Đà như một cố nhân”, nhà văn cảm nhận rõ nét cái chất “đằm đằm ấm
ấm” thân quen của con sông và nhất là cái chất thơ như ngấm vào trong từng cảnh sắc
thiên nhiên sông Đà.

- Từ điểm nhìn của một khách hải hồ trên dòng sông, nhà văn đó quan sát và khắc họa
những vẻ đẹp hết sức đa dạng và nên thơ của cảnh vật ven sông.

3.Hình tƣợng ngƣời lái đò

- Là người tinh thạo trong nghề nghiệp

+ Ông lão nắm vững qui luật khắc nghiệt của dòng thác sông Đà “Nắm chắc quy
luật của thần sông thần đá”.

+ Ông thuộc lòng những đặc điểm địa hình của Sông Đà “ nhớ tỉ mỉ như đóng
đanh vào tất cả các luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”, Sông Đà “như một
thiên anh hùng ca mà ông đò thuộc đến cả những cái chấm than, chấm câu và những
đoạn xuống dòng”.

- Là ngƣời trí dũng tuyệt vời:Ông sẵn sàng đối mặt với thác dữ, chinh phục “cửa tử”,
“cửa sinh”, vượt qua trận thuỷ chiến với đá chìm, đá nổi, với những trùng vi thạch trận
và phòng tuyến đầy nguy hiểm. Ông lái đò vượt qua bằng những hành động táo bạo và
chuẩn xác. Ông hiện lên như một vị chủ huy dày dạn kinh nghiệm:

+ Ở trùng vây thứ nhất:thần sông dàn ra năm cửa đá thì có đến bốn cửa tử, cửa
sinh duy nhất nằm sát bờ trái và huy độg hết sức mạnh của sóng thác đánh vỗ mặt con
thuyền. Luồng song hung tợn “liều mạng vào sát nách mà đá trái, mà thúc gối vào bụng
và hông thuyền”. Thậm chí còn đánh đòn tỉa, đánh đòn âm… nhưng người lái đò bình
tĩnh giữ chắc mái chèo giúp con thuyền “khỏi bị hất khỏi bờm song trận địa phóng thẳng

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
vào mình”. Ngay cả lúc bị trúng đòn hiểm, mặt méo bệch đi nhưng ông vẫn tỉnh táo chỉ
huy con thuyền lướt đúng vào luồng sinh.

+ Ở trùng vây thứ 2, dòng sông đã thay đổi sơ đồ phục kích và cả chiến thuật.
Vòng vây thứ 2 này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào. Cửa sinh lại bố
trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Nhưng ông đò đã “nắm chắc quy luật của thần sông thần
đá” nên lập tức cũng thay đổi chiến thuật theo, nhận ra cạm bẫy của bọn thuỷ quân nơi
cửa ải nước này. Ông không né tránh mà đưa con thuyền cưỡi lên sóng thác”“cưỡi lên
thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. “Nắm chắc được cái bờm sóng đúng
luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa
sinh, mà lái miết một đường chéo vào cửa đá ấy”. Người lái đò tả xung, hữu đột như một
chiến tướng dày dạn kinh nghiệm trận mạc có thừa lòng quả cảm đã đưa được con
thuyền vượt qua tập đoàn cửa tử khiến cho những bộ mặt đá hung hăng dữ tợn phải xanh
lè, thất vọng.

+ Ở trùng vây thứ 3, thạch trận ít cửa tử hơn những bên phải bên trái đều là luồng
chết cả, cửa sinh lại nằm giữa lòng sông và bọn đá hậu vệ canh giữ. Nhưng ông đò
không hề bất ngờ trước mưu mô hiểm độc của bọn chúng, tiếp tục chỉ huy con thuyền
vượt qua trùng vây thứ 3.

- Là ngƣời tài hoa nghệ sĩ:

+ Ông đối đầu với ghềnh thác cuồng bạo bằng sự tự tin, ung dung nghệ sĩ. Tay lái
linh hoạt, khéo léo, tài hoa như một nghệ sĩ trên sông nước : “ông đò vẫn nhớ mặt bọn
này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở
đường tiến”, “Vút, vút…thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”. Dưới
bàn tay chèo lái điêu luyện của ông con thuyền đã hoá thành con tuấn mã hiểu ý chủ- khi
thì khéo léo né tránh luồng sóng dữ, khi thì phóng thẳng vào cửa đá có 3 tầng cổng “cánh
mở, cánh khép”. Con thuyền như bay trong không gian, ông đò luôn nhìn thử thách bằng
cái nhìn giản dị mà lãng mạn.

+ Sau cuộc vượt thác gian nan, ông đò lại có phong thái ung dung của một nghệ sĩ
“Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nước ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ,
cá dầm xanh…”.

 Đây là hình ảnh về một người lao động mới mang vẻ đẹp khác thường. Người
lái đò hiện lên như là vị chỉ huy dày dạn kinh nghiệm, tài trí và luôn có phong thái ung
dung pha chút nghệ sĩ. Ông chỉ huy cuộc vượt thác một cách tài tình, khôn ngoan và biết
nhìn thử thách đó qua bằng cái nhìn giản dị mà không thiếu vẻ lãng mạn. Hình ảnh ông
lái đò cho thấy Nguyễn Tuân đó tìm được nhân vật mới cho mình, những con người
đáng trân trọng, đáng ngợi ca, không thuộc tầng lớp thượng lưu đài các một thời vang
bóng mà ngay trong quần chúng lao động bình thường xung quanh ta. Qua hình tượng

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
người lái đò sông Đà, nhà văn muốn phát biểu quan niệm : người anh hùng không phải
chỉ có trong chiến đấu mà còn có trong cuộc sống lao động thường ngày.

- Đoạn văn tả trận thủy chiến, tập trung khắc họa hình tượng ông lái đò một lần nữa cho
thấy sự uyên bác, lịch lãm của Nguyễn Tuân. ở đây có tri thức, có ngôn ngữ sống động
của quân sự, thể thao, võ thuật, điện ảnh…

4. Nghệ thuật

- Những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị của tác
giả.

- Ngôn ngữ đa dạng, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao.

- Câu văn có nhịp điệu, lúc thì hối hả, mau lẹ, khi thì chậm rãi, như tãi ra để diễn tả vẻ
đẹp trữ tình rất nên thơ của con sông.

5. Chủ đề:

Qua hình tượng sông Đà và người lái đò, Nguyễn Tuân muốn thể hiện niềm yêu
mến thiết tha với thiên nhiên đất nước và ngợi ca những con người lao động - chất vàng
mười của cuộc sống.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÕNG SÔNG (Hoàng Phủ Ngọc Tường)

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng

- Sinh năm 1937 tại t.p Huế

- Là một người con của xứ Huế.

- Là một trong những nhà văn chuyên về bút ký.

- Văn phong: “Nét đặc sắc … tài hoa” (tr197)

- Tác phẩm tiêu biểu: (Sgk)

2. Tác phẩm:

- Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác: Là bài bút kí đặc sắc, viết tại Huế (1981), in trong tập
sách cùng tên

- Kết cấu: Tác phẩm gồm ba phần

+ Phần 1: Sông Hương ở thượng nguồn

+ Phần 2: Sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế

+ Phần 3: Sông Hương giữa lòng thành phố Huế.

- Vị trí văn bản: chỉ là một đoạn trích trong bài bút kí dài về dòng sông Hương thơ mộng
của xứ Huế.

II. Phân tích:

1: Ý nghĩa nhan đề “ Ai đã đặt tên cho dòng sông”

- “Ai đã đặt tên cho dòng sông” Câu hỏi tu từ đặt ra “Với trời, với đất” đưa nhà văn và
độc giả về với hành trình lịch sử tìm về cuội nguồn văn hoá dân tộc. Từ đó dòng sông
Hương hiện ra trên nhiều phương diện địa lí, lịch sử, văn hoá, thơ ca… Kết thúc tuỳ bút
là một huyền thoại rất đẹp, bộc lộ cái tôi trữ tình suy tư: “ Con người ở hai bờ đã nấu
nước trăm loài hoa đổ xuống sông, đẻ làn nước thơm tho mãi”. Tác giả gửi gắm vào đấy
tất cả ước vọng muốn đem cái đẹp và tiếng thơm để xây đắp văn hoá lịch sử.

- Nhan đề và kết thúc tác phẩm thể hiện rõ chủ đề và phong cách bút kí của tác giả giàu
sức gợi cảm thấm đẫm chất thơ.Qua đó tác giả ca ngợi tính chất sông Hương – con sông
CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
gắn bó với lịch sử, văn hoá Huế của dân tộc ta. Tác phẩm thể hiện long yêu mến say mê
cảnh vật, văn hoá đất nước. Hình ảnh dòng sông đất nước được thể hiện bằng tài năng
của một cây bút giàu chất chí tuệ, chất văn hoá và ngôn ngữ trong sáng, chọn lọc, tinh tế.

2. Chứng minh vẻ đẹp của sông Hƣơng qua các góc nhìn khác nhau :

Mở bài: - Ai đã đặt tên cho dòng sông là tác phẩm bút kí kiệt xuất của Hoàng Phủ Ngọc
Tường

-Đoạn trích thể hiện vẻ đẹp, chất thơ từ cảnh sác thiên nhiên của song Hương

Thân bài:
* Từ thượng nguồn:
- Khi qua dãy Trường Sơn hùng vĩ:
+ Sông Hương là bản tình ca của rừng già; Rầm rộ và mãnh liệt…Dịu dàng và say
đắm….
+ Sông Hương như một cô gái Di-gan phóng khoáng man dại.
+ Rừng già đã hun đúc cho nó 1 bản tính gan dạ, 1 tâm hồn tự do, phóng khoáng.
=> Vẻ đẹp của một sức sống trẻ trung, mãnh liệt và hoang dại.
- Khi ra khỏi rừng già:
+ Đóng kín phần tâm hồn sâu thẳm của mình ở cửa rừng…
+ Mang sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ
sở.
=> Vẻ đẹp đầy bí ẩn, sâu thẳm của dòng sông.
Tiểu kết:
Bằng óc quan sát tinh tế và trí tưởng tượng phong phú, bằng việc sử dụng nghệ thuật so
sánh, nhân hoá tài hoa, táo bạo, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện và khắc hoạ vẻ
đẹp mạnh mẽ, trẻ trung đầy cá tính của dòng sông, gợi lên ở người đọc những liên tưởng
kì thú, gợi cảm, đầy sức hấp dẫn.
* Về châu thổ:
- Sông Hương trên đường tìm đến Huế:
+ Chuyển dòng một cách liên tục, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một
cuộc tìm kiếm có ý thức.
+ Vẻ đẹp của dòng sông trở nên biến ảo, đa dạng trong nhiều thời gian và không gian
khác nhau (dẫn chứng...). Vẻ đẹp của Huế như trở thành vẻ đẹp của sông Hương.
=> Sông Hương qua cái nhìn đầy lãng mạn của Hoàng Phủ Ngọc Tường như 1 cô gái
dịu dàng mơ mộng đang khao khát đi tìm thành phố tình yêu của nó.
- Sông Hương gặp gỡ Huế:
+ Uốn 1 cánh cung rất nhẹ... > Vẻ e lệ, ngượng ngùng khi gặp người trong mong đợi, sự
thuận tình mà không nói ra.
+ Các nhánh sông toả đi khắp thành phố như muốn ôm trọn Huế vào lòng. Sông Hương

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
và Huế hoà lẫn vào nhau.
+ Sông Hương giảm hẳn lưu tốc, xuôi đi thực chậm (điệu slow)… thực yên tĩnh như
niềm say mê, như khát vọng được gắn bó, lưu lại mãi với mảnh đất nơi đây.
+ Liên tưởng với những dòng sông khác > Niềm tự hào của Hoàng Phủ Ngọc Tường về
dòng sông quê hương.
=> Được nhìn từ góc độ tâm trạng, nên cuộc gặp gỡ của Huế và Sông Hương như cuộc
hội ngộ của tình yêu với nhiều cung bậc cảm xúc.
- Sông Hương tạm biệt Huế để ra đi:
+ Rời khỏi kinh thành, sông Hương ôm lấy đảo Cồn Huế, lưu luyến ra đi…
+ Đột ngột rẽ ngoặt lại để gặp thành phố yêu dấu một lần cuối.
=> Quyến luyến, ngập ngừng, bịn rịn không nỡ rời xa.
Tiểu kết:
- Cách tiếp cận đối tượng bằng nhiều ngành nghệ thuật như hội họa, âm nhạc; nghệ
thuật nhân hóa, so sánh đầy mới lạ, bất ngờ làm cho sông Hương, xứ Huế trở nên có linh
hồn, có sự sống. Đó là cuộc trở về, gặp gỡ của cô gái si tình - sông Hương - đang say
đắm trong tình yêu.
- Nhà văn: Tâm hồn đa cảm, lãng mạn; cách viết tài hoa.
Vẻ đẹp văn hoá của dòng sông:
- Dòng sông âm nhạc:
+ Là người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya.
+ Là nơi sinh thành ra toàn bộ nền âm nhạc có điểm của Huế.
+ Là cảm hứng để Nguyễn Du viết lên khúc đàn của nàng Kiều.
- Dòng sông thi ca:
+ Là vẻ đẹp mơ màng Dòng sông trắng lá cây xanh trong thơ Tản Đà.
+ Vẻ đẹp hùng tráng như kiếm dựng trời xanh của Cao Bá Quát.
+ Là nỗi quan hoài vạn cổ trong thơ bà Huyện Thanh Quan.
+ Là sức mạnh phục sinh tâm hồn trong thơ Tố Hữu
=> Sông Hương luôn đem đến nguồn cảm hứng mới mẻ, bất tận cho các nghệ sĩ.
- Dòng sông gắn với những phong tục, với vẻ đẹp tâm hồn của người dân xứ Huế.
+ Màn sương khói trên sông Hương là màu áo điền lục, 1 sắc áo cưới của các cô dâu trẻ
trong tiết sương giáng.
+ Vẻ trầm mặc sâu lắng của sông Hương cũng như 1 nét riêng trong vẻ đẹp tâm hồn của
người xứ Huế: rất dịu dàng và rất trầm tư…
Tiểu kết:
Với kiến thức uyên bác, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã lí giải vẻ đẹp văn hóa phong phú
của sông Hương, vẻ đẹp gắn liền với xứ Huế, với con người Huế.
* Sông Hương với lịch sử hào hùng:
- Là 1 dòng sông anh hùng:
•Từ xa xưa: là một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước
•Thời trung đại:bảo vệ biên giới phiá nam của tổ quốc
CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
•Thời chống Pháp: sống hết lịch sử bi tráng với các cuộc khởi nghĩa
•Đi vào thời đại cách mạng tháng 8 với những chiến công rung chuyển.
•Thời chống Mĩ:
- Sông Hương cùng với thành phố Huế cũng chịu nhiều đau thương mất mát.
Tiểu kết:
- Vừa là bản tình ca dịu dàng, Sông Hương cũng là một bản hùng ca gắn liền với lịch sử
oanh liệt của dân tộc.

Kết bài:

- Bài kí lột tả được vẻ đẹp đa dạng, phong phú của sông Hương, cũng là của xứ Huế,
con người Huế.

-Tình yêu thiết tha, say đắm của tác giả đối với cảnh và người nơi đây.
- Phong cách viết kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường: Phóng túng, tài hoa, giàu thông tin
văn hoá, địa lí, lịch sử ; giàu chất trữ tình lãng mạn.

3. Chất trí tuệ và chất thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng.

* Chất trí tuệ:

- Hoàng Phủ Ngọc Tường vận dụng những am hiểu trong ca dao Huế vào bút kí của
mình.

“ Bốn bề núi phủ mây phong

Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn niên”

cho đến câu thơ của Tản Đà “ Dòng sông trắng- lá cây xanh”, thơ của Tố Hữu, Cao
Bá Quát, Bà Huyện Thanh Quan, Truyện Kiều.

- Những hiểu biết về phương diện địa lí để miêu tả vẻ đẹp của sông Hương từ
thượng nguồn, đến đồng bằng, cho đến cố đô Huế.

- Những hiểu biết về lịch sử văn hoá.

- Sự liên tưởng so sánh với các công trình kiến trúc của Hi Lạp, La Mã, nền văn
minh Châu Âu.

- Những tác phẩm văn học Châu Âu, những lời nhận xét của các nhà khoa học nước
ngoài.

* Chất thơ:

- Cách ví von, so sánh đầy chất thơ, mượt mà, ý vị.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
“ Chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành
trăng non”. Và “ giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cách cung rất
nhẹ sang đến Cồn Hiến, đường cong ấy làm cho dòng sông mền hẳn đi như một tiếng
vâng không nói ra của tình yêu. Hay “ Sông Hương là vậy, là dòng sông của sử thi viết
giữa màu cỏ lá xanh biếc”.

- Những câu văn có sự mài dũa, đẽo gọt kĩ càng, nhẹ nhàng như một câu thơ

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
VỢ CHỒNG A PHỦ (TÔ HOÀI)

1. Xuất xứ - Hoàn cảnh ra đời

- Vợ chồng A Phủ (1952) là một trong ba tác phẩm (Vợ chồng A Phủ, Mường Giơn
và Cứu đất cứu mường) in trong tập Truyện Tây Bắc.

- Tác phẩm là kết quả của chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc năm
1952. Đây là chuyến đi thực tế dài tám tháng sống với đồng bào các dân tộc thiểu số từ
khu du kích trên núi cao đến những bản làng mới giải phóng của nhà văn.

- Vợ chồng A Phủ gồm có hai phần, phần đầu viết về cuộc đời của Mị và A Phủ ở
Hồng Ngài, phần sau viết về cuộc sống nên vợ nên chồng, tham gia cách mạng của Mị
và A Phủ ở Phiềng Sa. Đoạn trích là phần đầu của truyện ngắn.

2. Tóm tắt truyện

Tác phẩm kể về cuộc đời của đôi trai gái người Mèo là Mị và A Phủ. Mị là một
cô gái trẻ, đẹp. Cô bị bắt làm vợ A Sử - con trai thống lý Pá Tra để trừ một món nợ
truyền kiếp của gia đình. Lúc đầu, suốt mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc, Mị định
ăn lá ngón tự tử nhưng vì thương cha nên Mị không thể chết. Mị đành sống tiếp những
ngày tủi cực trong nhà thống lí. Mị làm việc quần quật khổ hơn trâu ngựa và lúc nào
cũng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Mùa xuân đến, khi nghe tiếng sáo gọi bạn
tình thiết tha Mị nhớ lại mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi nhưng A Sử bắt gặp và trói đứng
Mị trong buồng tối.

A Phủ là một chàng trai nghèo mồ côi, khoẻ mạnh, lao động giỏi. Vì đánh lại A Sử
nên bị bắt, bị đánh đập, phạt vạ rồi trở thành đầy tớ không công cho nhà thống lí. Một
lần, do để hổ vồ mất một con bò khi đi chăn bò ngoài bìa rừng nên A Phủ đã bị thống lí
trói đứng ở góc nhà. Lúc đầu, nhìn cảnh tượng ấy, Mị thản nhiên nhưng rồi lòng thương
người cùng sự đồng cảm trỗi dậy, Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ rồi theo A Phủ trốn khỏi
Hồng Ngài…

3. Nhân vật Mị

3.1.Hình ảnh Mị trong đoạn văn mở đầu truyện

+ Một cô gái âm thầm, lẻ loi, sống như gắn vào những vật vô tri, vô giác : “Ai ở
xa về, có việc vào nhà thống lý Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay
sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”.

+ Một cô con dâu nhà thống lý quyền thế, giàu sang “nhiều nương, nhiều bạc,
nhiều thuốc phiện” nhất làng nhưng lúc nào cũng “cúi mặt”, “buồn rười rượi”.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
 Hình ảnh của Mị hoàn toàn tương phản với cái gia đình mà Mị đang ở. Sự
tương phản ấy báo hiệu một cuộc đời không bằng phẳng, một số phận nhiều ẩn ức và
một bi kịch của cõi nhân thế nơi miền núi cao Tây Bắc.

3.2. Cuộc đời, số phận, tính cách của nhân vật Mị

a. Trước hết, Mị là cô gái có ngoại hình đẹp và nhiều phẩm chất tốt, đáng lẽ có thể
sống một cuộc sống hạnh phúc:

+ Một cô gái trẻ đẹp và có tài thổi sáo.

+ Một cô gái chăm làm, sẵn sàng lao động, không quản ngại khó khăn.

+ Một cô gái yêu đời, yêu cuộc sống tự do, không ham giàu sang phú quý.

+ Một người con hiếu thảo.

 Có thể khẳng định, Mị là một hình tượng đẹp về người thiếu nữ Tây Bắc. Ở
Mị, toát lên cái đẹp vừa tự nhiên, giản dị vừa phóng khoáng, thẳm sâu như thiên nhiên
núi rừng miền Tây Tổ quốc. Tuy nhiên, trái với những gì Mị đáng được hưởng, bi kịch
đã đến với Mị một cách phũ phàng bởi cường quyền bạo lực và thần quyền hủ tục.

b. Cô Mị với kiếp “con dâu gạt nợ” ở nhà thống lý Pá Tra :

- “Con dâu gạt nợ” :

Bề ngoài là con dâu vì Mị là vợ A Sử, nhưng bên trong Mị chỉ là một thứ gán nợ,
bắt nợ để bù đắp cho khoản tiền mà bố mẹ Mị đã vay của nhà thống lý Pá Tra nhưng
chưa trả được. Điều đau đớn trong thân phận của Mị là ở chỗ : nếu chỉ là con nợ thay cho
bố mẹ thì Mị hoàn toàn có thể hi vọng vào một ngày nào đó sẽ được giải thoát sau khi
món nợ đã được thanh toán (bằng tiền, bằng vật chất hoặc công lao động). Nhưng Mị lại
là con dâu, bị cướp về và “cúng trình ma” ở nhà thống lý. Linh hồn Mị đã bị con “ma”
ấy “cai quản”. Đến hết đời, dù món nợ đã được trả, Mị cũng sẽ không bao giờ được giải
thoát, được trở về với cuộc sống tự do. Đây chính là bi kịch trong cuộc đời Mị.

- Đời “con dâu gạt nợ” của Mị ở nhà thống lý là một quãng đời thê thảm, tủi cực, sống
mà như đã chết. Ở đó :

+ Mị dường như đã bị tê liệt cả lòng yêu đời, yêu sống lẫn tinh thần phản kháng.

+ Mị chỉ là một công cụ lao động.

+ Thân phận của Mị không bằng con trâu, con ngựa trong nhà.

+ Mị âm thầm như một cái bóng.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
+ Mị như một tù nhân của chốn địa ngục trần gian, đã mất tri giác về cuộc sống.

 Nhà văn không chỉ gián tiếp tố cáo sự áp bức bóc lột của bọn địa chủ phong
kiến miền núi mà còn nói lên một sự thật thật đau xót : dưới ách thống trị của cường
quyền bạo lực và thần quyền hủ tục, người dân lao động miền núi Tây Bắc bị chà đạp
một cách tàn nhẫn về tinh thần đến mức tê liệt cảm giác về sự sống, mất dần ý niệm về
cuộc đời, từ những con người có lòng ham sống mãnh liệt trở thành những người sống
mà như đã chết, tẻ nhạt và vô thức như những đồ vật trong nhà. Một sự hủy diệt ý thức
sống của con người thật đáng sợ !

c. Sức sống tiềm tàng mãnh liệt (đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài)

- Những tác động của ngoại cảnh :

+ Trước hết là khung cảnh mùa xuân.

+ Tiếp đó là “tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi” – tiếng sáo gọi bạn tình “vọng” vào
tâm hồn Mị “thiết tha bổi hổi”.

+ Bữa cơm Tết cúng ma đón năm mới rộn rã “chiêng đánh ầm ĩ” và bữa rượu tiếp
ngay bữa cơm bên bếp lửa.

 Những biểu hiện của ngoại cảnh ấy không thể không tác động đến Mị, nhất là
tiếng sáo. Bởi vì ngày trước Mị thổi sáo giỏi, bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo
đi theo Mị. Tiếng sáo gọi bạn tình, “tiếng sáo rủ bạn đi chơi” chính là tiếng ca của hạnh
phúc, là biểu tượng của tình yêu đôi lứa. Nó đã xuyên qua hàng rào lạnh giá bên ngoài để
“vọng” vào miền sâu thẳm trong tâm hồn Mị, đánh thức cái sức sống vẫn được bảo lưu
đâu đó trong cõi lòng người thiếu nữ Tây Bắc này.

- Diễn biến tâm lý, hành động

+ Đầu tiên, Mị “ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”.

+ Trong không khí của một đêm tình mùa xuân, trong cái nồng nàn của bữa rượu
ngày Tết, “Mị cũng uống rượu”.

+ Mị “thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết
ngày trước”. Mị cảm thấy mình “trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi.

+ Mị cảm thấy rõ hơn bao giờ hết cái vô nghĩa lý của cuộc sống thực tại : “Nếu có
nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”.

+ “Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo”. Tiếng sáo như hối thúc Mị “quấn lại
tóc”, “với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách” để “đi chơi”. Những biến động

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
mạnh mẽ trong tâm hồn Mị đã chuyển hóa thành hành động thực tế và hành động này
dẫn đến những hành động tiếp theo không thể ngăn được.

 Rõ ràng, cái khát vọng sống, niềm khát khao hạnh phúc vẫn được bảo lưu ở
đâu đó trong sâu thẳm tâm hồn nhân vật Mị. Nó giống như hòn than vẫn đang âm ỉ cháy
dưới lớp tro tàn nguội lạnh và chỉ cần một trận gió thổi tới là nó có thể bùng cháy một
cách mãnh liệt. Những tác động của ngoại cảnh là không nhỏ nhưng cái sức mạnh tiềm
ẩn, không thể nào dập tắt của con người mới là điều mấu chốt quyết định sức sống của
Mị, của mỗi cá nhân.

d. Sức phản kháng táo bạo (hành động cởi dây trói cho A Phủ)

Dù bị dập vùi một cách tàn nhẫn nhưng không vì thế mà lòng ham sống và khát
khao hạnh phúc trong Mị bị triệt tiêu. Trái lại, trong những hoàn cảnh đặc biệt nó còn
bừng dậy một cách mạnh mẽ và chuyển hóa thành sức phản kháng táo bạo. Có thể thấy
rõ điều đó qua diễn biến tâm lí và hành động của Mị trong đêm cô cứu A Phủ rồi cùng
anh bỏ trốn khỏi Hồng Ngài :

+ Ban đầu, trước cảnh tượng A Phủ bị trói, Mị hoàn toàn dửng dưng.

+ Nhưng sau đó, khi chứng kiến dòng nước mắt chảy xuống gò má đã xạm đen lại
của A Phủ, Mị đã đồng cảm, thương mình và thương người.

+ Thương mình, thương người, Mị càng nhận rõ tội ác của cha con thống lí.

+ Dù trong lòng vẫn có những sợ hãi nhưng Mị đã cứu A Phủ rồi cùng A Phủ bỏ
trốn khỏi Hồng Ngài.

 Đây là hệ quả tất yếu sau những gì đã diễn ra ở Mị. Từ đêm tình mùa xuân ở
Hồng Ngài đến đêm cứu A Phủ là một hành trình tìm lại chính mình và tự giải thoát khỏi
những “gông xiềng” của cả cường quyền bạo lực và thần quyền lạc hậu. Đó cũng là sự
khẳng định ý nghĩa của cuộc sống và khát vọng tự do cháy bỏng của người dân lao động
Tây Bắc.

4. Nhân vật A Phủ

4.1. Một số phận éo le

- Sớm mồ côi cha mẹ (cha mẹ chết trong một trận dịch đậu mùa).

- Nghèo, không lấy nổi vợ vì phép làng và tục lệ cưới xin ngặt nghèo.

4.2. Một cá tính mạnh mẽ, một hình ảnh đẹp về người lao động miền núi Tây Bắc

- Có ý chí và nghị lực sống, A Phủ đã vượt qua mọi cơ cực để trở thành chàng trai
CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
Mông khỏe mạnh, tháo vát, trở thành niềm mơ ước của nhiều cô gái trong bản.

- Gan góc từ bé, ham lao động, A Phủ không quản ngại những công việc nặng
nhọc, khó khăn, nguy hiểm.

- Không sợ cường quyền, sẵn sàng trừng trị kẻ xấu.

- Ham sống, yêu tự do, có sức sống tiềm tàng mãnh liệt.

4.3. Một nạn nhân của giai cấp thống trị phong kiến miền núi tàn bạo

- Chỉ vì đánh con quan mà bị phạt rất nặng, bị làng “bắt vạ”, trở thành một kiểu
“nô lệ” trong nhà thống lí Pá Tra.

- Chỉ vì lỡ để hổ bắt mất một con bò mà bị cha con thống lí bắt trói, hành hạ dã
man, có thể phải trả giá bằng cả tính mạng.

 Nhân vật A Phủ vừa là bằng chứng sống về tội ác của giai cấp thống trị miền
núi Tây Bắc vừa là một hình ảnh đẹp, tiêu biểu của người dân lao động ở một vùng núi
cao nước ta.

5. Giá trị hiện thực, nhân đạo của tác phẩm

5.1. Giá trị hiện thực

+ Truyện miêu tả chân thực số phận nô lệ cực khổ của người dân lao động nghèo
Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn cường quyền phong kiến miền núi (dẫn chứng Mị, A
Phủ).

+ Truyện phơi bày bản chất tàn bạo của giai cấp phong kiến thống trị ở miền núi (
dẫn chứng cha con thống lí Pá Tra)

+ Truyện đã tái hiện một cách sống động vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên và
phong tục, tập quán của người dân miền núi Tây Bắc (cảnh mùa xuân, cảnh xử kiện A
Phủ)

5.1. Giá trị nhân đạo.

+ Truyện thể hiện lòng yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với thân phận đau khổ
của người lao động nghèo miền núi ( dẫn chứng nhân vật Mị, A Phủ)

+ Phê phán quyết liệt những thế lực chà đạp con người (cường quyền và thần
quyền).

+ Truyện khẳng định niềm tin vào vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khát

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
vọng hạnh phúc cháy bỏng của con người. Dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt đến mức nào,
con người cũng không mất đi khát vọng sống tự do và hạnh phúc (Dẫn chứng nhân vật
Mị- trong đêm tình mùa xuân, cởi trói A Phủ)

+ Thông qua câu chuyện, nhà văn đã chỉ ra cho người dân miền núi Tây Bắc nói
riêng, những số phận khổ đau nói chung con đường tự giải thoát khỏi những bất công,
con đường làm chủ vận mệnh của mình ( dẫn chứng hành động cởi trói cho A Phủ, cùng
A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài).

6. Đặc sắc nghệ thuật

a. Nghệ thuật kể chuyện

- Cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên mà ấn tượng. Cách dẫn dắt tình
tiết khéo làm cho mạch truyện phát triển và vận động liên tục, biến đổi hấp dẫn mà
không rối, không trùng lặp.

- Ngôn ngữ kể chuyện sinh động, chọn lọc và sáng tạo, lối văn giàu tính tạo hình
thấm đẫm chất thơ.

b) Nghệ thuật miêu tả tâm lý và phát triển tính cách nhân vật

Nhà văn ít tả hành động mà chủ yếu khắc họa tâm tư, nhiều khi mới chỉ là các ý
nghĩ chập chờn trong tiềm thức nhân vật.

c) Nghệ thuật tả cảnh đặc sắc

+ Cảnh thiên nhiên thơ mộng được miêu tả bằng ngôn ngữ giàu chất thơ và chất
tạo hình (cảnh mùa xuân về trên núi Hồng Ngài).

+ Cảnh miền núi với những nét sinh hoạt phong tục riêng, sinh động (Cảnh đêm
tình mùa xuân, cảnh cúng trình ma, cảnh xử kiện).

7. Chủ đề

Tác phẩm đặt ra vấn đề số phận con người- những con người dưới đáy xã hội-
những con người bị tước đoạt hết tài sản, bị bóc lột sức lao động và bị xúc phạm nặng nề
về nhân phẩm. Giải quyết vấn đề số phận con người, Tô Hoài đã thức tỉnh họ, đưa họ
đến với cách mạng và cho họ một cuộc sống mới.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
VỢ NHẶT (KIM LÂN)

1. Xuất xứ

Truyện Vợ nhặt có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư – tác phẩm được viết ngay
sau Cách mạng tháng Tám nhưng còn dở dang và bị mất bản thảo. Hoà bình lập lại
(1954), dựa trên một phần cốt truyện cũ, Kim Lân đã viết truyện Vợ nhặt. Tác phẩm
được in trong tập Con chó xấu xí (1962).

2.Tóm tắt

Truyện lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945. Tràng - một thanh niên nghèo, lại là dân
ngụ cư, trong một lần đẩy hàng đã tình cờ có được vợ. Cô vợ nhặt đã tình nguyện theo
Tràng chỉ sau một câu nói đùa và bốn bát bánh đúc. Tràng đưa “thị” về giữa cảnh đói
khát đang tràn đến xóm ngụ cư. Bà cụ Tứ thấy con có vợ thì vừa mừng vừa tủi cho thân
phận nghèo khó của mình và thương con, thương nàng dâu đói khổ. Họ sống với nhau
trong cảnh đói nghèo nhưng hạnh phúc và tin rằng: Việt Minh về làng, họ sẽ đi phá kho
thóc Nhật, lấy lại thóc gạo để cứu sống mình.

3. Ý nghĩa nhan đề

- Nhan đề gợi tình huống éo le, kích thích trí tò mò người đọc. Thông thường,
người ta có thể nhặt thứ này, thứ khác, chứ không ai “nhặt” “vợ”. Bởi dựng vợ gả chồng
là việc lớn, thiêng liêng, có ăn hỏi, có cưới xin theo phong tục truyền thống của người
Việt, không thể qua quýt, coi như trò đùa.

- “Vợ nhặt” là điều trái khoáy, oái ăm, bất thường, vô lí. Song thực ra nó lại rất có
lí. Vì đúng là anh Tràng đã nhặt được vợ thật. Chỉ một vài câu bông đùa của Tràng mà
có người đã theo về làm vợ. Điều này đã thực sự khiến một việc nghiêm túc, thiêng liêng
trở thành trò đùa và ngược lại, điều tưởng như đùa ấy lại chính là sự thực. Từ đây, bản
thân nhan đề tự nó đã gợi ra cảnh ngộ éo le, sự rẻ rúng của giá trị con người. Chuyện
Tràng nhặt được vợ đã nói lên tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông
dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.

4.Tình huống truyện

- Tình huống truyện : Anh Tràng vừa nghèo, vừa xấu lại là dân ngụ cư thế mà lấy
được vợ ngay giữa lúc đói khát, ranh giới giữa sự sống và cái chết hết sức mong manh.

- Tình huống lạ, độc đáo : người như Tràng mà lấy được vợ, thậm chí có vợ theo !
Thời buổi đói khát này, người như Tràng nuôi thân chẳng xong mà dám lấy vợ ! Chẳng
phải thế mà việc Tràng có vợ đã tạo ra sự lạ lùng, ngạc nhiên với tất cả mọi người trong
xóm ngụ cư, với bà cụ Tứ, thậm chí đã có những thời điểm chính Tràng cũng chẳng thể

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
nào tin được vào điều đó.

- Tình huống truyện không chỉ tạo ra một hoàn cảnh “có vấn đề” cho câu chuyện
mà còn nén trong đó ý đồ nghệ thuật của nhà văn đồng thời gợi mở các khía cạnh giá trị
hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.

5. Nhân vật

5.1 Tràng

- Tràng là ngƣời dân lao động nghèo, “nhặt” đƣợc vợ trong thời buổi đói khát:

+ Bản thân anh là dân ngụ cư, dân ăn nhờ, ở đậu.

+ Tràng sống với mẹ già trong một căn nhà rẹo rọ trên bãi đất hoang mọc lổn nhổn
những búi cỏ dại.

 Hoàn cảnh xuất thân : khó lấy được vợ.

+ Tuy nhiên, giữa cái khung cảnh tối sầm lại vì đói khát, Tràng bỗng nhiên “nhặt” được
vợ.Cuộc gặp gỡ giữa Tràng và người đàn bà không tên diễn ra thât chóng vánh chỉ qua
hai lần gặp mà chỉ gặp ở đường và chợ để rồi “nên vợ, nên chồng”:

~ Lần gặp thứ nhất: Trên đường kéo xe thóc lên tỉnh, Tràng hò chơi cho đỡ mệt
“Muốn….”. Không ngờ, thị ra đẩy xe cho anh và còn liếc mắt cười tít nữa. Tràng thích
lắm vì từ khi cha sinh mẹ đẻ đến giờ mới có một người con gái cười với hắn tình tứ đến
như thế.

~ Lần gặp thứ 2, ở quán nước ngoài chợ. Ban đầu, Tràng không nhận ra vì thị
khác quá, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt. Khi nhận ra rồi, trong lời
đáp “ăn gì thì ăn, chả ăn giầu” Tràng sẵn sàng đãi thị bốn bát bánh đúc. Trong bối cảnh
mà người ta lo thân không xong, ai cũng đứng trên miệng vực thẳm của cái chết hành
động mà Tràng đãi thị bốn bát bánh đúc chứng tỏ rằng Tràng là một người khá tốt bụng
và cởi mở. Chính sự tốt bụng và cởi mở của Tràng đã đem đến cho Tràng hạnh phúc,
Tràng nói đùa với thị “Này … rồi cùng về”, nhưng thị đã theo Tràng về thật. Khi quyết
định “đèo bòng” Tràng cảm thấy “chợn” nhưng “chậc kệ”

- Niềm hạnh phúc khi có vợ :

+ Tràng khi đƣa vợ về qua xóm ngụ cƣ: tâm trạng của anh hôm nay phớn phở,
cười tủm tỉm, hai con mắt thì sáng lên lấp lánh, trước ánh mắt nhìn đầy tò mò và ngạc
nhiên của người dân trong xóm, trước những lời xì xào bàn tán của người dân trong xóm,
Tràng rất hãnh diện, rất đắc ý, mặt cứ vênh lên như thể chứng tỏ với mọi người- Tràng
đã có vợ.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
+ Tràng khi đƣa vợ về đến nhà: Hành động: xăm xăm nhấc tấm phên rách ra và
câu nói “Không có người đàn bà nhà cửa ra thế đấy” ta hiểu rằng có vợ rồi người đàn
ông ăn nói cục cằn kia bỗng văn hóa hẳn lên. Ánh mắt của anh đã để ý đến cô vợ nhặt
và thắc mắc với lòng mình “Quái, sao nó lại buồn thế nhỉ?” Tràng sốt ruột mong ngóng
mẹ về để còn ra mắt cô vợ nhặt.Khi mẹ về, sau lời giới thiệu, Tràng cũng hồi hộp, lo
lắng đợi chờ câu trả lời của mẹ, và chỉ khi người mẹ nói “Các con phải duyên phải kiếp
với nhau u cũng mừng lòng” Tràng mới thở đánh phào một cái.

Có thể nói, Kim Lân đã rất chú ý miêu tả diễn biến tâm trạng của Tràng từ khi có
vợ. Có rất nhiều lần Kim Lân nhắc đến nụ cười của Tràng để nhấn mạnh đến niềm khát
khao hạnh phúc, khát khao mái ấm gia đình để thách thức với cái đói đang tung lưới bủa
vây.

+ Tràng trong buổi sáng ngày hôm sau:

~ Tràng thấy mình như bước ra từ một giấc mơ, trong người “êm ái lửng lơ”.

~ Trước mặt anh mọi thứ đều thay đổi: nhà cửa sân vườn hôm nay đều được quét
tước sạch sẽ; mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt ở góc nhà đã thấy đem ra sân
hong; hai cái ang nước vẫn để khô cong duới gốc cây ổi giờ đã kín nước đầy ăm ắp. Rõ
ràng những cảnh tượng rất đỗi bình thường ấy cũng đã làm cho anh cảm động, hạnh
phúc với anh thật giản dị.

~ Từ buổi sáng đó, anh mới thấy mình nên người. Anh nghĩ đến tương lai, đến sự
sinh sôi nảy nở của hạnh phúc để rồi vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng.

~ Và người vợ nhặt của Tràng hôm nay cũng khác lắm- đó là một người đàn bà
hiền hậu, đúng mực, không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn nữa.

~ Tràng thấy “thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia
đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng.
Một nguồn vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên
người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Nguồn vui ấy như tia
nắng, như ánh bình minh đem sinh khí đến cho cuộc sống vốn đang ngập tràn sự chết
chóc của cái đói tung lưới bủa vây.

~ Và trong bữa cơm đầu tiên, bữa cơm của 3 con người đang khốn khổ vì cái đói,
tràn ngập sự đầm ấm, hoà hợp.

- Hình ảnh khép lại tác phẩm trong óc Tràng là hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người đói đi
trên đê Sộp, gợi cho người đọc nghĩ về Việt Minh, về Cách mạng tháng Tám vĩ đại, về
sự vùng dậy của những người dân khốn khổ, đập tan xiềng xích, giành lại cơm áo, giành
lại sự sống cho bản thân, giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Vì thế, kết thúc của tác

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
phẩm đã gieo vào lòng người đọc một niềm tin mãnh liệt, gieo một hạt giống hi vọng
mãnh liệt vào tâm hồn Tràng, gia đình anh và tất cả bạn đọc chúng ta.

5.2 Thị (ngƣời “vợ nhặt”)

- Cũng giống như Tràng, khung cảnh Kim Lân để cho nhân vật này xuất hiện là
một không gian tối sầm vì đói khát. Cũng giống như bao người khác, thị ngồi vêu cùng
với mấy chị em gái nơi cửa nhà kho. Chị không có tên, không tuổi tác, không cha mẹ,
không gia đình… môt con số không tròn trĩnh đang bao trùm lên lá số tử vi của chị. Cái
đói đã cướp đi của thị tất cả.

- Khi chưa theo Tràng về làm vợ cái đói đã để lại “dấu tích” ghê gớm trên dáng
hình và tính cách của chị:

+ Lần gặp thứ nhất: có vẻ táo tợn, ăn nói mạnh mẽ “Có khối cơm trắng mấy giò
mà ăn đấy! “Này nhà tôi ơi! Nói thật hay nói khoác đấy”

+ Lần gặp thứ 2: chân dung của thị khiến Tràng không nhận ra, gầy (dẫn
chứng)…Thị cong cớn trong lời nói, vô duyên trong hành động “sà xuống đánh... cắm
đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc... ăn xong cầm đôi đũa quệt ngang miệng, thở: Hà
ngon! Về chị thấy hụt tiền thì bỏ bố”. Tuy nhiên, ẩn đằng những lời nói và hành động ấy
là khát vọng về hạnh phúc và sự sống.

- Kim Lân không có ý chê bai người vợ nhặt kia, dù thực tế cung có những người
phụ nữ không đẹp. Điều mà nhà văn muốn nhấn mạnh ở đây là: sức hủy hoại khủng
khiếp của cái đói đối với hình hài và tính cách của con người. Vì đói mà thị cố tạo ra cái
vẻ cong cớn, chao chát, chỏng lỏn như là để thách thức với số phận. Vì đói mà thị quên
đi cả sĩ diện của mình, quên đi cả lòng tự trọng theo không một người đàn ông về làm vợ
trong khi chẳng biết tí gì về anh ta. Vì đói mà thị đánh liều nhắm mắt đưa chân, đánh liều
với hạnh phúc cả đời mình. Thị thật đáng thương. Nhưng đằng sau sự liều lĩnh ấy của
thị, người đọc hiểu rằng, thị là người có ý thức bám lấy sự sống mãnh liệt.

- Miêu tả nhân vật thị, Kim Lân không chú trọng nhiều đến diễn biến tâm trạng
bên trong mà Kim Lân chú ý nhiều đến hành động:

+ Thị bước sau Tràng chừng 3-4 bước, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che đi
nửa mặt, mặt cúi xuống, chân nọ bước díu cả vào chân kia. Thị đã ý thức được về bản
thân, cái dáng cúi mặt kia phải chăng đó là sự tủi phận

+ Về đến nhà, trông nếp nhà rẹo rọ của Tràng, thị nén tiếng thở dài, tiếng thở dài
chấp nhận bước vào cuộc đời của Tràng.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
+ Hành động khép nép, tay vân vê tà áo khi đứng trước mặt bà cụ Tứ, thị thật đáng
thương

- Tuy nhiên, ở sâu thẳm bên trong con người này vẫn có một niềm khát khao mái ấm gia
đình thực sự. Thị đã trở thành một con người hoàn toàn khác khi là một người vợ trong
gia đình. Hạnh phúc đã làm cho thị thay đổi từ một người phụ nữ cong cớn, đánh đá
bỗng trở thành một người đàn bà hiền hậu đúng mực, mái ấm gia đình đã đủ sức mạnh
làm thay đổi một con người.

- Hình tượng chị vợ nhặt thể hiện rất rõ tư tưởng nhân đạo của Kim Lân

+ Một mặt nhà văn đã lên án tội ác dã man của phát xít Nhật và TDP. Nạn đói do
chính gây ra đã cướp đi mọi giá trị của con người, và biến người con gái như một thứ đồ
rẻ rúng có thể nhặt được

+ Mặt khác vợ Tràng đã nói lên một sự thật ở đời đó là trong đói khổ, hoạn nạn,
kề bên cái chết nhưng con người vẫn khát khao được sống, vẫn sống ngay khi cả cuộc
đời không thể chịu được nữa. Những con người nghèo khổ vẫn thương yêu đùm bọc, và
cùng nhau vun đắp hạnh phúc để vượt qua những thử thách khắc nghiệt.

5.3 Bà cụ Tứ :

- Nhà văn Kim Lân tâm sự: “ Phần gây xúc động lớn nhất cho tôi khi đọc lại
truyện ngắn Vợ nhặt đó là đoạn bà cụ Tứ- mẹ Tràng trở về”. Thông điệp nghệ thuật về
bản chất nhân đạo trong tâm hồn người Việt ở hình tượng nhân vật bà cụ Tứ đã được
Kim Lân thể hiện thành công qua diến biến tâm trạng của người mẹ nghèo ấy khi nhìn
thấy chị vợ nhặt xuất hiện trong nhà mình cho đến buổi sáng ngày hôm sau.

- Ngạc nhiên và bất ngờ là tâm trạng đầu tiên ở ngƣời mẹ nghèo khi lật đật
theo con từ ngõ vào nhà. Từ trước đến giờ có bao giờ Tràng mong ngóng mẹ về đến thế
đâu, nhất định là phải chuyện gì quan trọng, khác thường. Chân bước theo con nhưng
lòng bà đang phấp phỏng. Rồi “đứng sững lại” khi bà nhìn thấy một người phụ nữ đứng
ở đầu giường con trai bà , mà lại chào bà bằng u. Ngạc nhiên đã làm cho bà lão không
còn tin vào cảm giác của bà nữa, tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn đi thì phải. Nhưng
thực sự mắt bà không nhoèn, và tai bà cũng không đến mức điếc lác như chị vợ nhặt nghĩ
ban đầu. Bà chưa thể tin, không thể tin rằn con mình lại có người theo và lại chưa bao
giờ hình dung nhận dâu trong một tình cảnh trớ trêu, tội nghiệp đến thế.

- Bà lão cúi đầu nín lặng, đằng sau cái cúi đầu nín lặng ấy là dòng cảm xúc
tuôn trào, là cơn bão lòng đang cuộn xoáy với tình thƣơng con vô bờ bến. Bây giờ
thì bà không chỉ biết sự việc “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ” như lời Tràng

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
thưa gửi mà bà còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp
của con trai mình. Bà tủi thân, tủi phận, bà so sánh người ta với mình “người ta dựng vợ
gả chồng cho con những lúc nhà ăn lên làm nổi, còn mình thì…”. Bà lão chua chát, tự
trách bản thân mình, càng thương con bao nhiêu bà lại càng tủi phận bấy nhiêu. Bà lão
đã khóc, những giọt nước mắt hiếm hoi của người già dưới ngòi bút nhạy cảm của Kim
Lân đã gieo vào lòng người đọc biết bao thương xót, tủi buồn.

Bà đã chấp nhận nàng dâu không phải chỉ bằng tình mẫu tử mà lớn hơn đó là tình
người, là sự cảm thông với chị vợ nhặt từ cái nhìn của người cùng giới, cùng là phụ nữ.
Câu nói đầu tiên mà bà cụ Tứ dành cho chị vợ nhặt “Ừ thôi các con phải duyên phải kiếp
với nhau, u cũng mừng lòng”, lời nói của bà như trút đi biết bao gánh nặng tâm trạng
đang đè nặng trong Tràng, lời nói ấy như một sự chiêu tuyết cho giá trị của cô vợ nhặt.
Câu nói ấy của bà làm cuộc hôn nhân của Tràng và thị không còn là chuyện nhặt nhau ở
đường và chợ nữa mà là duyên phận. Cách nói giản dị mà chan chứa tình người quả thực
đã làm ấm lòng những số phận tội nghiệp. Thị và Tràng dường như cũng sẽ ấm lòng hơn
khi kinh nghiệm của một người mẹ từng trải nói “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Bà động
viên an ủi con trai và con dâu cùng nhau bước qua khó khăn đói khổ trước mắt mà lòng
đầy thương xót.

- Nhưng sau những lời động viên ấy ta lại thấy Kim Lân để nhân vật bà cụ Tứ quay về
với chính cuộc đời mình để mà lo lắng cho hạnh phúc thực tại của hai con. Điều mà
bà lo không phải là “sự hợp nhau hay không hợp nhau” giữa hai người mà điều mà người
mẹ ấy lo lắng đó là, cái đói đang đe dọa hạnh phúc của con bà. Trong bóng tối, bà nghĩ
về cuộc đời dài dằng dặc của đời mình, cuộc đời của những người thân để mà thấu hiểu,
thương xót rồi “nghẹn lời” chỉ có dòng nước mắt chảy xuống ròng ròng.

- Hạnh phúc mới của con làm bà cụ Tứ đƣợc vui lây, bà động viên an ủi các con,
nghĩ về một tƣơng lai tƣơi sang phía trƣớc:

+ Khuôn mặt của bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, bà xăm xắn quét dọn,
giẫy những búi cỏ dại nham nhở trong vườn, thu dọn nhà cửa cho quang quẻ với hy vọng
đời sẽ có cơ khấm khá.

+ Trong bữa ăn đầu tiên, mâm cơm ngày đói sao thảm hại: chỉ có một lùm rau
chuối thái rối, một đãi muối, một niêu cháo lõng bõng toàn nước và món chính là chè
khoán- cháo cám nhưng không khí gia đình thật ấm áp, tình chồng vợ, tình mẹ con-
những nguồn động lực lớn lao ấy giúp họ tăng thêm sức mạnh để vượt qua thực tại.

+ Bà cụ Tứ toàn nói chuyện của tương lai, toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về
sau. Bà lão bàn với con tính chuyện nuôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại sẽ có đàn gà cho mà
xem. Câu chuyện của bà lão bất giác làm cho ta nhớ lại bài ca dao miền Trung- mười cái
trứng. Cũng giống như tất cả những người bình dân xưa, bà lão đang gieo vào lòng các

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
con bà niềm lạc quan, niềm tin và hi vọng. Từ đàn gà mà có tất cả. Khát vọng sống bật
lên ngay cả trong hoàn cảnh khốn cùng nhất “chớ than phận khó ai ơi- Còn da lông mọc,
còn chồi nảy cây”.

- Song niềm vui của bà cụ Tứ cũng thật tội nghiệp. Miếng cháo cám đắng chát và
tiếng trống thúc thuế dồn dập vội vã đƣa bà cụ Tứ trở về với thực tại với tiếng nói
xen lẫn cả hơi thở dài trong lo lắng: “Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng
thuế. Giời đất này không chắc đã sống được qua được đâu các con ạ”! Và bà lại khóc,
tình thương con lại hiện hình qua những giọt nước mắt lặng lẽ tuôn rơi.

Với sự thấu hiểu, với sự đồng cảm, Kim Lân đã dựng lên hình ảnh bà cụ Tứ-
người mẹ thương con, nhân hậu, bao dung. Trong hoàn cảnh đói nghèo, bà vẫn dang
rộng cánh tay đón nhận người con dâu mặc dù trong lòng còn nhiều xót xa, tủi cực, vẫn
gieo vào lòng các con ngọn lửa sống trong hoàn cảnh tối tăm của xã hội lúc bấy giờ.

6. Giá trị hiện thực, nhân đạo

6.1. Giá trị hiện thực:

- Truyện đã dựng lại một cách chân thực những ngày tháng bi thảm trong lịch sử dân
tộc, đó là khoảng thời gian diễn ra nạn đói năm 1945 :

+ Cái chết đeo bám, bủa vây khắp mọi nơi.

+ Dòng thác người đói vật vờ như những bóng ma.

+ Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư từ lúc nào.

+ Âm thanh của tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết.

+ Xóm ngụ cư, với những khuôn mặt hốc hác, u tối.

+ Cái đói hiện lên trong từng nếp nhà rúm ró, xẹo xệch, rách nát.

+ Cái đói hiện hình trên khuôn mặt của chị vợ nhặt.

+ Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại.

- Truyện phơi bày bản chất tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhận đã gây ra nạn
đói năm 1945.

- Tuy nhiễn, còn có một hiện thực được phán ánh trong tác phẩm: hiện thực mang tính
xu thế, đó là tấm lòng của người dân khi đến với cách mạng.

6.2. Giá trị nhân đạo

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
+ Thái độ đồng cảm xót thương với số phận của người lao động nghèo khổ.

+ Lên án tội ác dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói
khủng khiếp.

+ Trân trọng tấm lòng nhân hậu, niềm khao khát hạnh phúc bình dị những người
lao động nghèo.

+ Dự báo cho những người nghèo khổ con đường đấu tranh để đổi đời, vươn tới
tương lai tươi sáng.

7. Nghệ thuật

- Xây dựng tình huống truyện độc đáo.

- Lối trần thuật tự nhiên, hấp dẫn làm nổi bật sự đối lập giữa hoàn cảnh và tính
cách nhân vật.

- Tạo không khí và dựng thoại rất hấp dẫn, ấn tượng.

- Nhân vật được khắc hoạ sinh động đặc biệt là ngòi bút miêu tả tâm lý nhân vật
tinh tế.

- Ngôn ngữ : Bình dị, đời thường nhưng có chắt lọc kỹ lưỡng, có sức gợi và đậm
chất Bắc Bộ.

8. Chủ đề

Qua truyện “Vợ nhặt”, Kim Lân muốn khẳng định : trong những hoàn cảnh khó
khăn nhất, ngay cả khi cái chết liền kề, những người dân lao động nghèo khổ, lương
thiện vẫn yêu thương, đùm bọc lấy nhau, vẫn khát khao mái ấm hạnh phúc gia đình và
hy vọng vào một cuộc sống mới tốt đẹp hơn

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
RỪNG XÀ NU (NGUYỄN TRUNG THÀNH)

1. Hoàn cảnh sáng tác

- Tác phẩm được viết năm 1965 khi giặc Mĩ đổ quân ào ạt vào bãi biển Chu Lai - Quảng
Ngãi. Đó là lúc nhà văn muốn viết một bài “Hịch tướng sĩ” thời đánh Mĩ để động viên,
cổ động nhân dân bước vào cuộc kháng chiến chống Mĩ.

- Truyện được đăng trên tạp chí Văn nghệ quân giải phóng miền Trung Trung Bộ, sau đó
được in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc.

2.Tóm tắt

Mở đầu truyện là cảnh rừng xà nu bạt ngàn đứng trong “tầm đại bác ”của giặc
đang ưỡn tấm ngực lớn ra che chở cho làng Xôman. Sau 3 năm đi lực lượng, Tnú được
cấp trên cho phép về thăm làng một đêm. Bé Heng nay đã trở thành một giao liên chững
chạc, nhanh nhẹn. Dít nay đã trở thành bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã đội vững
vàng. Đêm hôm đó, cụ Mết đã kể cho cả dân làng nghe về cuộc đời Tnú. Hồi đó Mĩ
Diệm khủng bố gắt gao, được anh Quyết dìu dắt Tnú cùng Mai tham gia nuôi giấu cán
bộ cách mạng từ nhỏ. Giặc bắt anh, sau 3 năm anh lại vượt ngục Kontum trở về. Lúc này
anh Quyết đã hi sinh, Tnú lấy Mai. Anh tiếp tục cùng dân làng mài giáo mác chuẩn bị
chiến đấu. Giặc nghe tin, chúng về làng càn quét, khủng bố. Kẻ thù bắt vợ con anh, tra
tấn tàn bạo ngay trước mắt anh. Căm hờn cháy bỏng, anh đã nhảy xổ ra giữa bọn lính
nhưng cũng không cứu được mẹ con Mai. Giặc bắt anh, quấn giẻ tẩm nhựa xà nu đốt
mười đầu ngón tay anh. Cụ Mết cùng thanh niên trong làng đã nổi dậy giết sạch bọn lính
cứu Tnú. Sau đó anh gia nhập lực lượng quân giải phóng. Cau chuyện kết thúc bằng
cảnh cụ Mết và Dít tiễn Tnú trở lại đơn vị, trước mắt họ là những cánh rừng xà nu nối
tiếp đến tận chân trời.

3. Nhan đề

-Nhan đề là một sang tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Hình ảnh rừng xà nu là linh
hồn của tác phẩm. Cảm hứng chủ đạo và dụng ý nghệ thuật của nhà văn được khơi
nguồn từ hình ảnh này.

- Rừng xà nu là hình ảnh trung tâm có vẻ đẹp riêng, gắn bó mật thiết với cuộc sống vật
chất và tinh thần của người dân Tây Nguyên, biểu tượng cho những phẩm chất cao đẹp
của con người Tây Nguyên: sức sống mãnh liệt, kiên cường, bất khuất, khao khát tự do.

- Nhan đề còn gợi chủ đề, cảm hứng sử thi cho truyện ngắn.

4.Hình tƣợng cây xà nu

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
* Vị trí xuất hiện: nhan đề, đầu và cuối tác phẩm, xuất hiện trong sự đối chiếu so sánh
với các nhân vật ở trong truyện.

* Nghĩa thực: Đây là một loài cây có thật ở vùng đất Tây Nguyên.

* Nghĩa biểu tƣợng:

- Cây xà nu gắn bó với cuộc sống con người Tây Nguyên:

+ Cây xà nu có mặt trong đời sống hằng ngày của người dân làng Xôman.

+ Cây xà nu tham dự vào những sự kiện trọng đại của dân làng Xôman.

+ Cây xà nu gắn với cuộc sống của người dân làng Xôman đến mức nó đã thấm sâu vào
nếp suy nghĩ và cảm xúc của họ, cụ Mết nói về cây xà nu với tất cả tình cảm yêu
thương, gần gũi xen lẫn tự hào “không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”. Cây xà nu đã
trở thành một phần máu thịt trong đời sống vật chất và tinh thần của mảnh đất này.

- Cây xà nu tượng trưng cho số phận và phẩm chất của con người Tây Nguyên trong
chiến tranh cách mạng.

+ Thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu do đại bác của kẻ thù tượng trưng
cho những mất mát, đau thương vô bờ mà dân làng Xôman nói riêng (anh Xút, bà Nhan,
mẹ con Mai…) và đồng bào Tây Nguyên nói chung đã phải trải qua trong cuộc chiến
đấu.

+ Đặc tính ham ánh sáng của cây xà nu tượng trưng cho niềm khát khao tự do,
lòng tin vào lý tưởng cách mạng của người dân Tây Nguyên, của đồng bào miền Nam
trong cuộc kháng chiến.

+ Khả năng sinh sôi mãnh liệt của cây xà nu gợi nghĩ đến sự tiếp nối của nhiều
thế hệ người dân Tây Nguyên (cụ Mết, Tnú, Mai, Dít, Heng) đoàn kết bên nhau trong
cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ.

+ Sự tồn tại kỳ diệu của rừng xà nu qua những hành động hủy diệt của kẻ thù
tượng trưng cho sức sống bất diệt, sự bất khuất, kiên cường và sự vươn lên mạnh mẽ của
con người Tây Nguyên trong cuộc chiến mất còn với kẻ thù.

- Nghệ thuật miêu tả:

+ Kết hợp miêu tả cụ thể lẫn khái quát, khi dựng lên hình ảnh cả rừng xà nu, khi đặc tả
cận cảnh một số cây

+ Phối hợp cảm nhận nhiều giác quan trong việc miêu tả những cây xà nu với vóc dáng
tràn đầy sức lực, tràn trề mùi nhựa thơm, ngời xanh giữa ánh nắng
CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
+ Hình tượng cây xà nu vừa hiện thực lại vừa mang đậm ý nghĩa biểu tượng. Miêu tả cây
xà nu trong sự so sánh đối chiếu thường xuyên với con người. Các hình thức ẩn dụ, nhân
hóa, tượng trưng đều được vận dụng nhằm thể hiện sống động, hùng vĩ, khoáng đạt của
thiên nhiên đồng thời gợi ra nhiều suy tưởng sâu xa về con người, về đời sống.

+ Hình ảnh cây xà nu xuất hiện ở đầu tác phẩm rồi kết thúc tác phẩm lại hiện ra cánh
rừng xà nu bạt ngàn. Đây là một kết cấu vòng tròn. Kết cấu ấy cho phép ta nghĩ : cây xà
nu không chỉ là tượng trưng cho một làng Xô Man nhỏ bé hay cho một vùng núi rừng
Tây Nguyên. Có thể đó còn là biểu tượng của cả miền Nam, của cả dân tộc Việt Nam
trong những tháng năm chống đế quốc Mĩ.

5. Hình tƣợng nhân vật Tnú

- Tnú là người có tính cách trung thực, gan góc, dũng cảm, mưu trí:

+ Giặc giết bà Nhan, anh Xút nhưng Tnú (lúc bấy giờ còn nhỏ) không sợ. Tnú vẫn
cùng Mai xung phong vào rừng nuôi giấu cán bộ.

+ Học chữ thua Mai, Tnú đập vỡ bảng, lấy đá đập vào đầu đến chảy máu.

+ Khi đi liên lạc không đi đường mòn mà “xé rừng mà đi”, không lội chỗ nước êm
mà “lựa chỗ thác mạnh vượt băng băng như con cá kình”. Bởi theo Tnú những chỗ nguy
hiểm giặc “không ngờ” đến.

+ Bị giặc phục kích bắt, bị tra tấn dã man nhưng Tnú quyết không khai. Khi bọn
giặc kéo về làng, bắt Tnú khai cộng sản ở đâu anh đặt tay lên bụng dõng dạc nói “cộng
sản ở đây này”.

- Tnú là người có tính kỷ luật cao, tuyệt đối trung thành với cách mạng

+ Tham gia lực lượng vũ trang, nhớ nhà, nhớ quê hương nhưng khi được phép của
cấp trên mới về thăm.

+ Tính kỉ luật cao trong mối quan hệ với cách mạng biểu hiện thành lòng trung
thành tuyệt đối: khi bị kẻ thù đốt mười đầu ngón tay, ngọn lửa như thiêu đốt gan ruột
nhưng Tnú không kêu nửa lời, anh luôn tâm niệm lời dạy của anh Quyết : “người cộng
sản không thèm kêu van”.

- Một trái tim yêu thương và sục sôi căm giận

+ Tnú là một người sống rất nghĩa tình : Tnú đã tay không xông ra cứu vợ con.
Động lực ghê gớm ấy chỉ có thể được khơi nguồn từ trái tim cháy bỏng ngọn lửa yêu
thương và ngọn lửa căm thù. Tnú là con người tình nghĩa với buôn làng: anh lớn lên
trong sự đùm bọc yêu thương của người dân làng Xôman.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
+ Lòng căm thù ở Tnú mang đậm chất Tây Nguyên: Tnú mang trong tim ba mối
thù : Thù của bản thân; Thù của gia đình; Thù của buôn làng

- Ở Tnú, hình tượng đôi bàn tay mang tính cách, dấu ấn cuộc đời

+ Khi lành lặn : đó là đôi bàn tay trung thực, nghĩa tình (bàn tay cầm phấn viết
chữ anh Quyết dạy cho ; bàn tay cầm đá đập vào đầu mình để tự trừng phạt vì học hay
quên chữ ...

+ Khi bị thương : đó là chứng tích của một giai đoạn đau thương, của thời điểm
lòng căm hận sôi trào “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa
cháy trong lồng ngực, cháy trong bụng”. Đó cũng là bàn tay trừng phạt, bàn tay quả báo
khi chính đôi bàn tay tàn tật ấy đã bóp chết tên chỉ huy đồn giặc trong một trận chiến đấu
của quân giải phóng.

- Hình tượng Tnú điển hình cho con đường đấu tranh đến với cách mạng của người
dân Tây Nguyên làm sáng tỏ chân lí của thời đại đánh Mĩ : “chúng nó đã cầm súng
mình phải cầm giáo”.

+ Bi kịch của Tnú khi chưa cầm vũ khí là bi kịch của người dân STrá khi chưa
giác ngộ chân lý (bà Nhan, anh Xút). Tnú là người có thừa sức mạnh cá nhân nhưng anh
vẫn thất bại đau đớn khi không có vũ khí. Với bàn tay không có vũ khí trước kẻ thù hung
bạo anh đã không bảo vệ được vợ con và bản thân.

+ Tnú chỉ được cứu khi dân làng Xôman đã cầm vũ khí đứng lên. Cuộc đời bi
tráng của Tnú là sự chứng minh cho chân lí : phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt
bạo lực phản cách mạng.

+ Con đường đấu tranh của Tnú từ tự phát đến tự giác cũng là con đường đấu
tranh đến với cách mạng của làng Xôman nói riêng và người dân Tây Nguyên nói chung.

Tóm lại, câu chuyện về cuộc đời và con đường đi lên của Tnú mang ý nghĩa tiêu
biểu cho số phận và con đường của các dân tộc Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến
chống đế quốc Mĩ. Vẻ đẹp và sức mạnh của Tnú là sự kết tinh vẻ đẹp và sức mạnh của
con người Tây Nguyên nói riêng và người Việt Nam nói chung trong thời đại đấu tranh
cách mạng.

6. Cụ Mết, Dít, bé Heng

- Cụ Mết : “Pho sử sống” của làng Xô man; Người giữ lửa truyền thống của cả bộ tộc,
người kết nối quá khứ và hiện tại, hôm qua và hôm nay; “thủ lĩnh” tinh thần, người định
hướng con đường đi theo cách mạng cho cả bộ tộc; nhân vật tiêu biểu cho tính cách quật
cường, bất khuất của dân làng Xô Man nói riêng, người Tây Nguyên nói chung, thâm chí

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
rộng ra là cả dân tộc.

Nếu ví làng Xôman như một khu rừng Xà nu đại ngàn, thì cụ Mết chính là cây đại
thụ.

- Dít : một cô bé gan dạ, dũng cảm, sớm tiếp bước các thế hệ đi trước khi đến với cách
mạng; tiêu biểu thế hệ trẻ của làng Xô man trưởng thành trong cuộc kháng chiến; Cùng
với Tnú, Dít là lực lượng chủ chốt của cuộc đấu tranh ngày hôm nay, đó là sự tiếp nối tự
giác và quyết liệt.Cũng như Tnú, Mai và nhiều thanh niên khác trong làng, Dít là một
trong “những cây xà nu đã trưởng thành” của “đại ngàn Xô man” hùng vĩ.

- Bé Heng: Một cậu bé hồn nhiên, ngộ nghĩnh đáng yêu; Sớm tham gia vào cuộc kháng
chiến chung của cả làng; Là hình ảnh tiêu biểu về một thế hệ đánh Mĩ mới, sẽ tiếp bước
một cách mạnh mẽ những Tnú, Mai, Dít; Trong “Rừng xà nu”, bé Heng chính là một
trong những “cây xà nu con” “mới mọc lên”.

7. Biểu hiện của khuynh hƣớng sử thi và cảm hứng lãng mạn

+ Đề tài: Viết về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam
trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ; số phận và con đường giải phóng của dân
làng Xôman) không chỉ là vấn đề sinh tử của một ngôi làng ở Tây Nguyên mà còn là của
cả dân tộc Việt Nam.

+ Hệ thống nhân vật mà điển hình là Cụ Mết, Tnú, Dít: đều là những cá nhân anh
hùng kết tinh cao độ vẻ đẹp và phẩm chất của cả cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên,
thậm chí của con người Việt Nam trong chiến đấu (yêu nước, căm thủ giặc sâu sắc, gan
dạ, dũng cảm, kiên cường, trung thành với cách mạng…

+ Không gian nghệ thuật: rộng lớn.

+ Cách kể chuyện: Chuyện được kể bên bếp lửa qua lời kể của một già làng, đông
đảo dân làng từ già đến trẻ đều đang quây quần bên bếp lửa để lắng nghe, không khí rất
trang nghiêm

+ Xây dựng thành công những hình tượng nghệ thuật độc đáo – hình tượng cây xà
nu, rừng xà nu không chỉ thể hiện tư tưởng chủ đề, đem lại chất sử thi mà còn tạo nên giá
trị lãng mạn bay bổng cho thiên truyện.

+ Giọng điệu: ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng; ngôn ngữ trang trọng, hào
hùng.

8. Đặc sắc nghệ thuật

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
+ Tô đậm không khí, màu sắc đậm chất Tây Nguyên (bức tranh thiên nhiên; ngôn
ngữ, tâm lí, hành động của nhân vật)

+ Xây dựng thành công hai tuyến nhân vật đối lập gay gắt: giữa kẻ thù (thằng
Dục) với lực lượng cách mạng, đại diện là các thế hệ nối tiếp nhau vừa có những nét cá
tính sống động vừa mang những phẩm chất có tính khái quát, tiêu biểu (cụ Mết, Tnú,
Dít,…)

+ Khắc họa thành công hình tượng cây xà nu vừa hiện thực vừa mang đậm ý nghĩa
biểu tượng, đem lại chất sử thi và lãng mạn, bay bổng cho thiên truyện.

+ Nghệ thuật trần thuật sinh động (đan cài câu chuyện về cuộc đời Tnú và cuộc
nổi dậy của dân làng Xô Man; xen kẽ thời gian kể chuyện và thời gian của các sự kiện;
phối hợp các điểm nhìn,…) tạo nên giọng điệu, âm hưởng phù hợp với không gian Tây
Nguyên.

9. Chủ đề

Rừng xà nu là câu chuyện về quá trình trưởng thành trong nhận thức cách mạng
của một con người, cũng như của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Chân lí tất yếu mà
họ nhận ra là: chỉ có dùng bạo lực cách mạng mới có thể đè bẹp được bạo lực phản cách
mạng

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA (Nguyễn Minh Châu)

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Tác giả

- Nguyễn Minh Châu (1930- 1989), quê ở làng Thơi, xã Quỳnh Hải (nay là xã Sơn
Hải), huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

- Đầu năm 1950, ông gia nhập quân đội- Từ năm 1952 đến 1958 ông công tác và
chiến đấu tại sư đoàn 320.- Năm 1962 ông về phòng văn nghệ quân đốị sau chuyển sang
tạp chí văn nghệ quân đội.

- Sau 1975, khi văn chương chuyển hướng khám phá trở về với đời thường, Nguyễn
Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám
phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Tâm điểm những khám phá nghệ thụât
của ông là con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tiền hạnh
phúc và hoàn thiện nhân cách

- Ông “thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn
học ta hiện nay. Năm 2000, ông được tặng giải thưởng HCM về văn học nghệ thuật

* Tác phẩm chính : Dấu chân người lính, miền cháy, chiếc thuyền ngoài xa.

2. Xuất xứ văn bản

Chiếc thuyền ngoài xa được viết năm 1983 – khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước đã đi qua được 6 năm, đất nước trở lại với cuộc sống đời thường. Nhiều vấn đề của
đời sống văn hóa nhân sinh mà trước đây do hoàn cảnh chiến tranh chưa được chú ý, nay
được đặt ra.

Tác phẩm nằm trong xu hướng nghệ thuật chung của văn học thời kỳ đổi mới:
hướng nội, khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người đời thường.

3.Tóm tắt văn bản

Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đến một vùng ven biển
miền Trung (cũng là nơi anh đã từng chiến đấu) để chụp một tấm ảnh cho cuốn lịch năm
sau. Sau nhiều ngày “phục kích”, người nghệ sĩ đã phát hiện và chụp được “một cảnh đắt
trời cho” – đó là cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương.
Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, anh đã kinh ngạc hết mức khi chứng kiến từ chính chiếc
thuyền đó cảnh một gã chồng vũ phu đánh đập người vợ hết sức dã man, đứa con vì
muốn bảo vệ mẹ đã đánh trả lại cha mình. Những ngày sau, cảnh tượng đó lại tiếp diễn
và lần này người nghệ sĩ đã ra tay can thiệp... Theo lời mời của chánh án Đẩu (một người

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
đồng đội cũ của Phùng), người đàn bà hàng chài đã đến toà án huyện. Tại đây, người phụ
nữ ấy đã từ chối sự giúp đỡ của Đẩu và Phùng, nhất quyết không bỏ lão chồng vũ phu.
Chị đã kể câu chuyện về cuộc đời mình và đó cũng là lí do giải thích cho sự từ chối trên.
Rời vùng biển với khá nhiều ảnh, người nghệ sĩ đã có một tấm được chọn vào bộ lịch
“tĩnh vật hoàn toàn” về “thuyền và biển” năm ấy. Tuy nhiên, mỗi lần đứng trước tấm
ảnh, người nghệ sĩ đều thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai và nếu nhìn
lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy hình ảnh người đàn bà nghèo khổ, lam lũ ấy bước ra từ
bức tranh.

4. Nhan đề văn bản

- Chiếc thuyền ngoài xa trước hết là biểu tượng của nghệ thụât, đó là thứ nghệ
thụât đạt tới sự toàn mĩ và thánh thiện đến mức mà chiêm ngưỡng nó, người nghệ sĩ thấy
tâm hồn mình được thanh lọc.

- Chiếc thuyền khi về gần đó lại là hiện thân của cuộc đời lam lũ, khó nhọc, thậm
chí của những éo le, trái ngang và nghịch lí trong cuộc sống.

- Như vậy, chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa nhưng cuộc đời thì lại rất gần.
Người nghệ sĩ cần có một khoảng cách nhất định để khám phá và thưởng thức vẻ đẹp
đích thực của nghệ thụât nhưng lại cũng cần bám sát cuộc đời để phát hiện ra những sự
thật của cuộc sống.

- Nhan đề là một ẩn dụ về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật !

5. Tình huống truyện

- Tình huống: một nghệ sĩ nhiếp ảnh đến một vùng ven biển miền Trung để chụp
một tấm ảnh về cảnh biển buổi sớm có sương. Tại đây, anh đã phát hiện và chụp được
một cảnh tượng “trời cho” - đó là cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong
biển sớm mờ sương. Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, người nghệ sĩ đã chứng kiến cảnh
một gã chồng vũ phu đánh đập người vợ hết sức dã man. Ba hôm sau, cảnh tượng ấy lại
diễn ra, người đàn bà được mời đến tòa án huyện, tại đây, người nghệ sĩ lắng nghe câu
chuyện về cuộc đời của người đàn bà hàng chài kể lại và đó như một lời giải thích vì sao
chị ta không bỏ chồng dù người chồng tàn bạo.

- Đây là một “tình huống nhận thức”, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về chân lí
đời sống, chân lí nghệ thuật. Phùng đã phát hiện sau cảnh đẹp như mơ kia là những
ngang trái, nghịch lí của đời thường.

- Tình huống truyện, thể hiện cái nhìn đa chiều về cuộc sống. Chánh án Đẩu và
nghệ sĩ Phùng đã hiểu ra nhiều điều về con người, cuộc sống khi chứng kiến câu chuyện

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
và tiếp xúc với người đàn bà hàng chài.Từ tình huống truyện, tác giả đã đặt ra vấn đề
“đôi mắt”, cách nhìn đời, nhìn người trong cuộc sống.

II. PHÂN TÍCH

1. Hai phát hiện của Phùng.

a) Phát hiện thứ nhất: phát hiện vẻ đẹp nghệ thuật

- Vị thế của Phùng: nghệ sĩ nhiếp ảnh.

- Mục đích của chuyến đi: chụp bổ sung một bức ảnh buổi sáng có sương mù theo yêu
cầu của trưởng phòng (để xuất bản bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển).

- Điểm nhìn: từ xa, trong làn sương mờ ảo.

- Sự hình thành tác phẩm nghệ thuật:

+ Bắt đầu từ cảnh “trời cho”.

+ Tuy nhiên để có được tác phẩm, cần một tâm hồn nghệ sĩ tinh tế nhanh nhạy nắm bắt
khoảnh khắc xuất thần của nghệ thuật:

o Mô tả khung cảnh lãng mạn, thơ mộng.

o Trạng thái, hành động:

o Bối rối, trong tim tưởng như có cái gì bóp thắt lại => cơn “đau đẻ”, khoảnh khắc xung
động cực điểm để tác phẩm hoài thai.

+ Không phải lựa chọn gì nữa, bấm một hồi “liên thanh” => dường như thiên nhiên đã
bày sẵn tuyệt tác, người nghệ sĩ chỉ việc ghi lại một cách dễ dàng.

- Cảm hứng triết lí về nghệ thuật:

+ Vẻ đẹp của “cái đẹp tuyệt đỉnh”: “bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ; một vẻ
đẹp thực đơn giản và toàn bích”. => nghệ thuật là sự giản dị, tự nhiên.

+ “Cái đẹp là đạo đức” => khoảnh khắc phát hiện ra một tác phẩm độc đáo là sự “khám
phá chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”
=> cái đẹp “thanh lọc” tâm hồn, để tâm hồn con người cao khiết, không gợn đục, thánh
thiện.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
Nhận xét:

Sự phát hiện ra cái đẹp trong nghệ thuật đôi khi là kết hợp của rung động và duyên may.
Nhìn ở góc độ này, nó là thứ dẫu sao còn tương đối dễ phát hiện, dễ thấy.

b) Phát hiện thứ hai: Phát hiện về hiện thực cuộc sống.

- Điểm nhìn: chiếc thuyền đâm thẳng vào chỗ trước tôi đứng => gần, trực diện, rõ nét.

- Hình ảnh:

+ Người đàn bà: cao lớn, với những đường nét thô kệch, rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi(…)
tái ngắt và dường như đang buồn ngủ, tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới.

+ Người đàn ông: tấm lưng rộng và cong, mái tóc tổ quạ, đi chân chữ bát, hàng lông mày
cháy nắng, hai con mắt đầy vẻ độc dữ.

=> Hình ảnh xấu xí, sù sì, trần trụi, thô mộc, gai góc của đời sống, đối lập với vẻ lãng
mạn của khung cảnh thiên nhiên trong bức ảnh nghệ thuật.

- Hành động:

+ Người chồng: hùng hổ, rút chiếc thắt lưng, “chẳng nói chẳng rằng” quật tới tấp vào
lưng người đàn bà => hành động hung bạo, dã man, lạnh lùng, như một con thú dữ.

+ Người vợ: cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu lên một tiếng, không chống trả,
cũng không tìm cách chạy trốn.

+ Đứa con: giằng thắt lưng, quật lại bố để bảo vệ mẹ.

=> Giống như một vở kịch câm, không lời chú giải, đầy nghịch lí khiến câu hỏi về hiện
thực trong Phùng muốn vỡ ra.

Nhận xét:

Phát hiện về một hiện thực gồ ghề, gai góc, ngang trái, phức tạp, không dễ lí giải, khác
xa, thậm chí đối lập với vẻ đẹp bình yên của tác phẩm nhiếp ảnh.

* Mối quan hệ giữa hai phát hiện (mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, nhà văn
và cuộc đời)

- Phát hiện nghệ thuật, ở một chừng mực nhất định dễ thấy hơn phát hiện về hiện thực.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
- Đời sống con người vốn bề bộn, phức tạp. Hiện thực không đơn chiều, giản đơn, toàn
màu hồn mà đa chiều, phân tranh nhiều mảng sáng tối chưa dễ lí giải. Nhà văn nếu đứng
ở ngoài xa để quan sát sẽ chỉ thấy một hiện thực mờ ảo - chiếc thuyền thấp thoáng biển
khơi. Từ đó đòi hỏi nhà văn phải có cái nhìn sâu sắc, suy tư hơn nữa.

2. Ngƣời đàn bà làng chài và câu chuyện đời tự kể.

- Hình dáng: thô mộc, xấu xí, như nét vẽ vội của tạo hoá, mang những đặc trưng của một
người đàn bà miền biển lam lũ.

- Thái độ, hành động khi được mời tới toà án:

+ Sợ sệt, lúng túng, tìm đến một góc tường để ngồi .

+ Rón rén ngồi ghé vào chiếc ghế mà Đẩu mời.

+ Van xin chính quyền đừng bắt chị bỏ người chồng vũ phu: “Quí toà bắt tội con cũng
được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó” => kiên quyết không bỏ chồng bằng
mọi giá.=> hành động ẩn chứa nhiều nghịch lí, gây bất ngờ đối với cả Đẩu và Phùng =>
một sự thật không dễ lí giải trong hoàn cảnh người đàn bà phải chịu đựng những trận
đánh thừa sống thiếu chết.(ba ngày một trận nhỏ, năm ngày một trận lớn) => Câu hỏi đặt
ra: điều gì khiến người đàn bà khốn khổ ấy tha thiết bám víu cuộc sống địa ngục kinh
hoàng với người chồng hung bạo kia?

- Câu chuyện cuộc đời:

+ Cách xưng hô: con, quý toà - chị, các chú => thay đổi tương quan: bị động, yếu thế,
thiếu tự tin, bề dưới nói với bề trên - chủ động, bình đẳng, con ngưòi có hiểu biết nói với
người đang lắng nghe.

- Nội dung câu chuyện:

+ Xấu, buộc phải lấy anh hàng chài

+ Đám đàn bà đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật => chồng hung hăng.

+ Bất kể lúc nào khổ quá, chồng lại lôi ra đánh, ngay trên tàu, sau này xin mãi mới được
lên bờ chịu đòn.

+ Lí lẽ để “đừng bắt tôi bỏ nó”:

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
+ Giá đẻ ít đi => biện minh cho hành động hung hăng của chồng bằng cách chỉ ra lỗi
thuộc vê sự nghèo đói, lạc hậu, “đẻ lắm”.

+ Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết nỗi vất vả của một
người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông(. ..) những khi biển động => vì
cần một trụ cột.

+ Đàn bà trên thuyền phải sống cho con chứ không thể sống cho mình => vì trách
nhiệm, tấm lòng vị tha, bản năng hi sinh của một người mẹ.

+ Cũng có lúc vợ chồng con cái sống hòa thuận, vui vẻ => cuộc sống với ngưòi đàn ông
“dã man” kia không phải không có những khoảnh khắc đầm ấm hạnh phúc.

=> Nhận xét:

Qua nội dung câu chuyện, cách kể và ngôn ngữ kể chuyện, thấy được:

- Số phận người đàn bà: đau khổ, bất hạnh, buộc phải bảo vệ, duy trì một cuộc sống bị
đày đoạ, đánh đập.

- Tính cách: yêu thương con, vị tha, nhân hậu, am hiểu lẽ sống giản đơn của một người
đàn bà hàng chài.

- Sự lí giải, làm sáng tỏ hiện thực đời sống đầy nghịch lí mà Phùng và Đẩu “không thể
hiểu được”.

3.Một số nhân vật khác

- Chánh án Đẩu :

+ Là người đại diện cho công lý, luật pháp; có lòng tốt, sẵn sàng bảo vệ công lý.

+ Nhưng Đẩu mới nhìn cuộc đời của người đàn bà vùng biển ở một phía, anh chưa
thực sự đi sâu vào đời sống nhân dân.

- Nhân vật người chồng của người đàn bà hàng chài

+ Vốn là một “anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm”

+ Một gã đàn ông vũ phu, tàn nhẫn, ích kỉ.

+ Một nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt.

- Thằng bé Phác

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
+ Một cậu bé giàu tình cảm yêu thương đối với mẹ.

+ Nhưng cũng giống như Đẩu, Phùng, nó mới chỉ nhìn thấy ở cha nó ở khía cạnh
độc ác, tàn nhẫn mà chưa hiểu được “lẽ đời” bên trong.

+ Hình ảnh tiêu biểu của những đứa trẻ trong những gia đình có nạn bạo hành.

4. Tấm ảnh trong “bộ lịch năm ấy”.

- Mỗi lần nhìn kĩ vào bức ảnh đen trắng, người nghệ sĩ thấy “hiện lên cái màu hồng
hồng của ánh sương mai” (đó là chất thơ, vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời, cũng là biểu tượng
của nghệ thuật). Và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy “người đàn bà ấy đang bước
ra khỏi tấm ảnh” (đó là hiện thân của những lam lũ, khốn khó, là sự thật cuộc đời).

-Ý nghĩa: Nghệ thuật chân chính không thể tách rời, thoát li cuộc sống. Nghệ thuật
chính là cuộc đời và phải vì cuộc đời.

5. Một số đặc sắc về nghệ thuật.

- Xây dựng hình ảnh giàu giá trị biểu tượng: chiếc thuyền ngoài xa.

+ Con thuyền có thật.

+ Con thuyền biểu tượng cho: nghệ thuật, ẩn dụ cho kiếp người đơn độc trên đại dương
cuộc đời.

- Điểm nhìn trần thuật: người kể chuyện Phùng - một người lính dày dặn kinh nghiệm
chiến trường, một nghệ sĩ nhiếp ảnh tài hoa, một con người tha thiết đấu tranh cho sự
công bằng => điểm nhìn trần thuật sắc sảo, giàu suy tư.

- Ngôn ngữ:

• Ngôn ngữ người kể chuyện: khách quan, chân thực, giàu sức thuyết phục (do sự lựa
chọn điểm nhìn trần thuật).

• Ngôn ngữ nhân vật: cá thể hoá (Ngôn ngữ của người đàn bà: lóng ngóng, van lơn khi
mới đối diện với “quí toà”; chững chạc, thấu trải khi tự kể câu chuyện đời mình, dịu
dàng, xa xót khi nói với con; lời lẽ của người đàn ông: tàn nhẫn, tục tằn,…)

6. Chủ đề
CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện sự cảm
thông sâu sắc đối với những cảnh đời, những thân phận trớ trêu, gặp nhiều bất hạnh
trong cuộc sống đồng thời gửi gắm những chiêm nghiệm sâu sắc của mình về nghệ thuật
: nghệ thuật chân chính phải luôn luôn gắn bó với cuộc đời và vì cuộc đời; người nghệ sĩ
không thể nhìn đời một cách giản đơn, cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người một
cách đa diện, nhiều chiều.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
HỒN TRƢƠNG BA, DA HÀNG THỊT

(LƯU QUANG VŨ)

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Tác giả:

Lưu Quang Vũ (1948- 1988) quê gốc ở Đà Nẵng, sinh tại Phú Thọ trong một gia đìng
trí thức.

+ Từ 1965 đến 1970: Lưu Quang Vũ vào bộ đội và được biết đến với tư cách một nhà
thơ tài năng đầy hứa hẹn.

+ Từ 1970 đến 1978: ônng xuất ngũ, làm nhiều nghề để mưu sinh.

+ Từ 1978 đến 1988: biên tập viên Tạp chí Sân khấu, bắt đầu sáng tác kịch và trở thành
một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm 80 với những vở đặc sắc
như: Sống mãI tuổi 17, Hẹn ngày trở lại, Lời thề thứ 9, khoảnh khắc và vô tận, Bệnh sĩ,
TôI và chúng ta, Hai ngàn ngày oan tráI, Hồn Trương Ba, da hàng thịt,

+ Lưu Quang Vũ là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, vẽ tranh, viết truyện, viết tiểu luận,
nhưng thành công nhất là kịch. Ông là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của
nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại

Lưu Quang Vũ được tặng giảI thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000.

2. Hoàn cảnh sáng tác

Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những vở kịch gây được nhiều tiếng
vang nhất của Lưu Quang Vũ. Vở kịch được viết năm 1981, nhưng đến năm 1984 mới
lần đầu ra mắt công chúng.

3. Tóm tắt đoạn trích

+ Cảm thấy không thể sống như thế này mãi, hồn Trương Ba muốn thoát ra khỏi thân
xác anh hàng thịt thô lỗ, phàm tục.

+ Cuộc đối thoại giữa hồn và xác. Hồn Trương Ba đành bần thần nhập lại thân xác
anh hàng thịt.

+ Những người thân trong gia đình (vợ, cháu gái, con dâu) đều thấy Trương Ba đã
khác xưa, đã lệch lạc nhiều lắm. Đau đớn cực độ, Trương Ba lập cập đến bên cột nhà,
đốt hương để gặp Đế Thích.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
+ Đế Thích thuyết phục Trương Ba chấp nhận cuộc sống hiện tại hoặc nhập vào thân
xác cu Tị để bảo toàn sự sống. Trương Ba suy nghĩ, cân nhắc và đưa ra quyết định dứt
khoát : chấm dứt sự hiện diện của một tồn tại trớ trêu có tên gọi là "hồn Trương Ba, da
hàng thịt".

+ Hồn Trương Ba vẫn còn mãi giữa màu xanh cây vườn, trong những điều tốt lành
của cuộc đời và trong kí ức yêu thương của những người thân.

II. PHÂN TÍCH

1. Nhân vật Trƣơng Ba

a. Cuộc đối thoại giữa hồn và xác

Hồn Trƣơng Ba: Cho rằng : “Ta vẫn có một đời sống riêng : nguyên vẹn, trong
sạch, thẳng thắn”. Xác "không có tiếng nói", "không có tư tưởng, không có cảm xúc",
"chỉ là xác thịt âm u đui mù", "chỉ là cái vỏ bên ngoài".

Xác hàng thịt: khẳng định "ông không tách khỏi tôi được đâu, dù tôi chỉ là thân
xác". “Lí lẽ” mà xác đưa ra là : “Hai ta đã hoà với nhau làm một rồi”…

“Hồn Trƣơng Ba: Hồn phủ nhận những “dẫn chứng” xác nêu ra không phải là
hành động xuất phát từ ý thức của mình : “Đấy là mày chứ, chân tay mày, hơi thở của
mày…”.

Xác hàng thịt: Xác “chứng minh” ảnh hưởng “sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả cái
linh hồn cao khiết” Hồn Trƣơng Ba: Hồn cho rằng đó là những lí lẽ “ti tiện”
không thể chấp nhận được.

Xác hàng thịt: Xác “tìm kiếm giải pháp” cho sự tồn tại “hoà bình” mang tên "hồn
Trương Ba, da hàng thịt" bằng “trò chơi tâm hồn”. “Luật chơi” là hồn cứ việc nghĩ mình
cao khiết thánh thiện, làm điều gì xấu thì cứ đổ tội cho xác để được thanh thản. Bù lại
hồn sẽ làm đủ mọi việc để thoả mãn những khát thèm của xác.

Nhận xét chung:

- Hồn Trương Ba trở thành người “đuối lí” trong cuộc đối thoại này:

+ Từ chỗ cao giọng phủ nhận : “Vô lí, mày không thể biết nói !”, "Mày không có
tiếng nói" đến chỗ chấp nhận xác có tiếng nói, nhưng đó là “tiếng gọi nơi hoang dã” của
bản năng thấp kém, tầm thường.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
+ Từ chỗ phủ định quyết liệt, lớn giọng khi xác đưa ra những bằng chứng “hai
năm rõ mười” về sức mạnh sai khiến của nó, đến chỗ “không dám trả lời”, lúng túng
trong câu nói đứt quãng “Ta… ta… đã bảo mày im đi”, “Nhưng… nhưng…”.

+ Từ chỗ hăng hái đấu lí, đáp lại tất cả những lí lẽ xác đưa ra, đến chỗ “bịt tai lại”
“Ta không muốn nghe mày nữa”.

+ Từ cách xưng hô “mày” – “ta” vào đầu cuộc đối thoại, xác đã tinh ý nhận ra khi
cuộc đối thoại ở vào hồi kết : “Ấy đấy, ông bắt đầu gọi tôi là anh rồi đấy !”.

+ Từ mạnh mẽ, đầy khí thế đấu tranh, đến tiếng kêu “trời” tuyệt vọng và dáng dấp bần
thần tội nghiệp nhập lại thân xác anh hàng thịt cho người đọc cảm giác dường như hồn
đã bị dồn vào con đường cụt không lối thoát, đành phải chấp nhận sự an bài, “hoà thuận”
“hồn Trương Ba, da hàng thịt”.

- Trong cuộc đối thoại, xác hàng thịt mỗi lúc một lấn lướt, dồn đuổi hồn Trương Ba:

+ Xác chủ động “tuyên chiến” khi hồn khao khát được tồn tại độc lập riêng mình.

+ Xác thách thức, giễu cợt mỉa mai hồn : “có đấy”, “có tiếng nói đấy”, “có thật thế
không”.

+ Xác cao giọng khoái chí đòi hồn phải “thành thật trả lời”.

+ Xác biết rõ người ta nghĩ gì về mình, đồng thời cũng tỏ ra hiểu thấu từ điệu bộ lúng
túng bên ngoài đến những biện luận bên trong tìm kiếm sự thanh thản và vô tội của hồn.

+ Xác “lợi khẩu” khi đưa ra lí lẽ. Xác “mềm dẻo” trong thuyết phục, tranh luận. Khi thì
sử dụng lí lẽ, lúc đưa ra bằng chứng. Khi thì cao giọng thách thức, lúc buồn rầu thanh
minh. Khi thì đắc ý, tinh quái, lúc lại vuốt ve xoa dịu, an ủi mà mỉa mai. Vừa dụ dỗ, mua
chuộc vừa trắng trợn phỉ báng. Xác đã chứng tỏ được ưu thế của nó, uy quyền của nó, sự
chi phối khủng khiếp của nó bằng kết cục màn đối thoại là “cái hồn ương bướng” lại tìm
về với chỗ trú thân là xác anh hàng thịt.

 Cuộc đối thoại cũng cho thấy sự ngộ nhận của hồn về chính mình. Sau bấy nhiêu
chuyện đã xảy ra với gia đình và bản thân, hồn vẫn cho rằng mình nguyên vẹn, trong
sạch, thẳng thắn, mọi tội lỗi đều là do xác gây nên. Cho nên không phải ngẫu nhiên xác
khẳng định “tác giả” của “trò chơi tâm hồn” không ai khác ngoài “những điều ông vẫn tự
nói với mình và với người khác đấy chứ”, xác chỉ làm nhiệm vụ “tổng kết” và phát biểu
“luật chơi” cho rõ ràng, cụ thể mà thôi. Mâu thuẫn kịch tạm thời chùng xuống để chờ đợi
một cao trào bùng nổ mới, chỉ xảy ra khi nào điều ngộ nhận trên được “vỡ lẽ” hoàn toàn.

Hàm ý của cuộc đối thoại : Linh hồn và thể xác là hai phương diện tồn tại
trong mỗi con người. Cuộc đấu tranh giữa linh hồn và xác thịt chính là cuộc đấu
CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
tranh giữa đạo đức và tội lỗi, giữa khát vọng và dục vọng, giữa phần “người” và phần
“con” trong mỗi con người.

b. Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và những người thân

- Trong thân thể anh hàng thịt, Trương Ba đã không còn là mình. Tất cả những
người thân đều đã nhận thấy và đau đớn, lo lắng, bàng hoàng.

- Người vợ yêu thương rưng rưng trong dòng nước mắt tủi thân tủi phận, chua chát,
dằn dỗi.

- Đứa cháu gái vỡ oà tiếng khóc tức tưởi không hiểu sao ông nội thân yêu gần gũi lại
trở thành một người “xấu lắm, ác lắm”.

- Chị con dâu bàng hoàng dòng nước mắt sẻ chia và bế tắc, muốn thương, muốn níu
giữ hình ảnh của thầy mà không biết phải làm thế nào.

- Trương Ba “thẫn thờ”, ông ôm đầu bế tắc, để rồi nhận thấy “Mày đã thắng thế rồi
đấy, cái thân xác không phải của ta ạ, mày đã tìm được đủ mọi cách để lấn át ta”. Một sự
vỡ lẽ vừa bàng hoàng vừa chua chát đã dẫn đến quyết định dứt khoát: thắp hương, châm
lửa để gọi Đế Thích.

- Ý nghĩa:

→ Cả nhà đau khổ chán ngán tình cảnh hồn Trương Ba sống trong xác anh hang thịt.
Đấy là động lực để đi đến quyết định cuối cùng của hồn Trương Ba: Thắp hương mời Đế
Thích xuống.

c. Đối thoại giữa Trương Ba - Đế Thích

* Trương Ba

+ Sự khập khiễng của “hồn Trương Ba, da hàng thịt” và giá mà nó phải trả khi cố
gắng duy trì để tồn tại trong một cái vỏ giả tạo như vậy đã giúp Trương Ba thấm thía hơn
bao giờ hết cái khát vọng : “Tôi muốn được là tôi trọn vẹn”. “Là tôi trọn vẹn”, cái điều
tưởng chừng đơn giản nhưng lại chẳng dễ chút nào. Thói quen “sống nhờ, sống gửi” đã
khiến con người ta có lúc quên đi cái tôi của bản thân mình. Thói quen “áp đặt” của Đế
Thích cho người đời đôi khi cũng làm cho mong muốn giản dị “là tôi trọn vẹn” nghịch lí
thay, lại trở thành khát vọng.

+ “Là tôi trọn vẹn”- dám là mình, dám chịu trách nhiệm về mình. Sống thực cho ra
con người thật chẳng dễ chút nào. Sống gửi, sống nhờ, sống chắp vá, không được là
mình trọn vẹn, đó là sống với bất cứ giá nào - kiểu sống vô nghĩa. Cuộc sống là đáng
yêu, đáng quý, đáng trân trọng vô cùng. Ham sống, muốn được sống là ước muốn tự

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv
nhiên của mỗi con người. Nhưng… Nếu cái giá phải trả đắt quá. Thì nhất định không thể
sống như vậy được !

+ Hồn Trương Ba trước khi bước vào thế giới vình hằng còn qua một phép thử nữa,
phép thử có tên “cu Tị”. Trương Ba hình dung trước cảnh một ông già 60 ngụ trong thân
xác của một cậu bé 10 tuổi thì cũng đầy bi kịch. Trương Ba không chấp nhận.

+ Lựa chọn của Trương Ba là tất yếu. Đó là sự lựa chọn dũng cảm. Chấp nhận cái
chết, chấp nhận sự hư vô để được "là tôi trọn vẹn". Đó là lẽ tất yếu bởi Trương Ba đã
thấm thía cái bi kịch đau đớn của cảnh không được là mình. Tất yếu bởi Trương Ba đã
“ngộ” ra nhận thức về lẽ sống. Tất yếu bởi đó là kết quả của sự đấu tranh ở một tâm hồn
thanh cao, trong sáng, vượt lên nghịch cảnh.

* Đế Thích

- Quan niệm về sự sống rất đơn giản, sống chỉ là sự tồn tại

- Ích kỉ, muốn Trương Ba sống chỉ là để thoả mãn thú hơi cờ của mình.

- Ý nghĩa:

→Vẻ đẹp tâm hồn của con người sẽ thắng trong cuộc đấu tranh chống lại sự dung tục,
giả tạo để bảo vệ quyền được sống toàn vẹn hợp với lẽ tự nhiên cùng sự toàn thiện nhân
cách. Đây là chất thơ trong kịch của Lưu Quang Vũ.

2. Đặc sắc nghệ thuật

- Sáng tạo cốt truyện dân gian.

- Nghệ thuật dựng cảnh, dựng đối thoại.

- Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách góp phần phát triển tình
huống truyện.

- Những đoạn độc thoại nội tâm của nhân vật hồn Trương Ba góp phần thể hiện rõ tính
cách nhân vật và quan niệm về lẽ sống đúng đắn.

3. Chủ đề

Qua đoạn trích và cả vở kịch, tác giả muốn khẳng định: được sống làm người quý
giá thật, nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn, hài hoà giữa thể xác và tâm hồn
còn quý giá hơn. Con người phải luôn đấu tranh với nghịch cảnh, chống lại sự tầm
thường, dung tục để hoàn thiện nhân cách.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA
THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
https://www.facebook.com/trinhquynhltv

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA

You might also like