You are on page 1of 15

VIỆT BẮC

I. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp nhà thơ Tố Hữu


1. Cuộc đời
- Nguyễn Kim Thành (1920-2002), Phù Lai, Quảng Thọ, Quảng Điền, Thừa
Thiên Huế.
- Cha là 1 nhà Nho nhưng ko đỗ đạt, yêu thích thơ văn, Mẹ là con 1 cụ Tú, là
người phụ nữ giàu tình thương và thuộc nhiều ca dao, dân ca
- Tuổi thơ được nuôi dưỡng bằng những câu hò câu ca qua lời của mẹ, được cha
dạy làm thơ cổ từ lúc 7, 8 tuổi.
- Quê hương: phong cảnh núi sông nên thơ, sản sinh nhiều điệu hò điệu lí, nam ai
nam bằng, là kinh đô triều Nguyễn có nền văn hóa bác học phát triển.
- Tuổi thơ chịu nhiều thiệt thòi, thiếu thốn về tình cảm: cha đi làm ăn xa, 12 tuổi
mẹ mất, sống xa gia đình để đi học, nên ông dễ rung động với những thân phận
mồ côi, những em bé đi ở, những thân phận nghèo khổ cùng cực quanh mình.
- Tuổi thanh niên của ông may mắn vì dc gặp gỡ CM sớm
- Từ khi dc giác ngộ CM, thì cả cuộc đời và con đường thơ TH để phụng sự CM.
2. Sự nghiệp
a. Con đường thơ

Con đường thơ TH song hành với con đường CM của ông và gắn bó mật thiết
với các chặng đường của dân tộc. Con đường ấy phản ánh quá trình vận động
của một hồn thơ đồng thời cũng phản ánh sự vận động của lịch sử với những
biến cố lớn, những vấn đề trọng yếu của thời đại và âm vang của nó trong đời
sống tinh thần của con người thời đại ấy.

- Từ ấy (1937-1946): chặng đường sôi nổi say mê, từ giác ngộ qua thử thách đến
trưởng thành của người thanh niên CM trong 1 giai đoạn lịch sử sôi động với
nhiều biến cố sâu sắc đã làm rung chuyển và thay đổi XH VN.
- Việt Bắc (1947-1954)

+ Được sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Pháp

+ Thể hiện sự chuyển biến mạnh mẽ trong thơ TH theo hướng dân tộc và đại
chúng, phù hợp với phương châm của nền văn nghệ thời kì kc chống Pháp. Nếu
Từ ấy nổi bật cái tôi trữ tình của tác giả, thì Việt Bắc nổi bật hình tượng quần
chúng nhân dân kháng chiến

+ Trực tiếp bày tỏ niềm mến yêu, niềm cảm phục, sự gần gũi, thân thiết của tình
đồng bào đồng chí. (hậu phương tiền tuyến, miền ngược miền xuôi, nhân dân
lãnh tụ...)

+ Bản anh hùng ca của cuộc kháng chiến, ghi lại những sự kiền, từng bước
trưởng thành của cuộc cuộc kháng chiến, những âm vang của thời đại.

+ Cái tôi đã thực sự hòa nhập vào đời sống nhân dân, thơ TH đã bắt được vào
mạch nguồn sâu xa của truyền thống văn hóa, tinh thần dân tộc.

- Gió lộng (1955 – 1961): niềm vui, niềm tự hào tin tưởng vào công cuộc xâu
dựng CNXH ở miền bắc, tình cảm với miền Nam ruột thịt, tình cảm với đất
nước và cả với anh em bạn bè quốc tế cao cả.
- Thời kì kháng chiến chống Mĩ: Ra trận (1962-1971). Máu và hoa (1972-1977):
khuynh hướng sử thi và tính chính luận thời sự, bám sát cuộc chiến đấu.
b. Đặc điểm phong cách thơ Tố Hữu
- Tố Hữu là nhà thơ Cách mạng, nhà thơ của lí tương cộng sản

“Tả tình hay tả cảnh, kể chuyện mình hay kể chuyện người, viết về các vấn đề
lớn hay một sự việc nhỏ, đối với anh chỉ là để nói cho được cái lí tưởng cộng
sản ấy thôi” (Chế Lan Viên)
- Thơ TH là thơ trữ tình chính trị. Nội dụng trữ tình chính trị trong thơ TH
thường tìm đến và gắn liền với khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn.

Thơ TH là thành tựu xuất sắc nhất của khuynh hướng trữ tình chính trị trong
nền thơ hiện đại VN. Đó là sự kế tục dòng thơ CM đầu TK20 của Phan Bội
Châu, Phan Châu Trinh…nhưng đã được hiện đại hóa, mang đến cho VH CM
một tiếng thơ sôi nổi, trẻ trung và tràn đầy cảm hứng lãng mạn. TH được coi là
người đại diện đầy đủ và tiêu biểu nhất, với tất cả giới hạn và sức mạnh của
khuynh hướng trữ tình chính trị ấy.

Sự vận động trong thơ TH là sự vận động từ hiện tại đến tương lai, trong gian
khổ vẫn tin vào thắng lới, nói đến khó khăn để ca ngợi phẩm chất cao đẹp và
nghĩa tình thắm thiết, nói hi sinh để khẳng định sự trường tồn bất diệt.

- Giọng điệu riêng dễ nhận ra trong thơ TH: giọng tâm tình ngọt ngào tha thiết,
giọng của tình thương mến

Được thừa hướng từ điệu tâm hồn con người xứ Huế. Đồng thời xuất phát từ
quan niệm của TH: “Thơ là chuyện đồng điệu”. Trong thơ Th mọi phương diện
của đời sống CM đều trở thành tình thương mến, thành tình nghĩa sâu nặng.

- Thơ TH đậm đà bản sắc dân tộc

Kế tục truyền thống thơ ca dân gian và cổ điển, thơ TH đã nhập được vào
nguồn mạch tâm hồn, điệu cảm xúc dân tộc. Thơ TH đậm đà tính dân tộc ở cả
nội dung và nghệ thuật.

II. Bài thơ “Việt Bắc”


1. “Việt Bắc” là minh chứng cho phong cách thơ trữ tình chính trị Tố Hữu

Thơ trữ tình – chính trị không phải đến Tố Hữu mới xuất hiện. Trên thế giới, trước
Tố Hữu đã có những nhà thơ trữ tình – chính trị nổi tiếng. Ở Việt Nam đầu thế kỉ
XX, thơ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Trần
Tuấn Khải… và phong trào thơ ca Xô viết – Nghệ Tĩnh là những sáng tác mang
cảm hứng chính trị, tuy vẫn nằm trong thi pháp cổ điển nhưng đã có những đổi mới
nhất định. Tố Hữu vừa kế thừa truyền thống vừa nâng thơ trữ tình – chính trị lên
một trình độ nghệ thuật cao hơn. Tố Hữu đã mang đến cho thơ ca cách mạng một
tiếng nói trữ tình với những cảm xúc của một cái tôi hoàn toàn mới mẻ.

Trữ tình và chính trị là hai khái niệm khác biệt hoàn toàn nếu không muốn nói là
trái ngược. Trữ tình là bộc lộ trực tiếp ý thức, tình cảm, cảm xúc, nghĩa là con
người cảm thấy qua những ấn tượng, ý nghĩ, cảm xúc chủ quan đối với thế giới và
nhân sinh. Miêu tả ngoại cảnh chỉ để phục vụ tình cảm trữ tình. Mặt khác, cái tôi
trữ tình luôn cảm xúc trước thực tại trên tư cách phổ quát, động chạm tới những
vấn đề chung của tồn tại con người (cái chết, tình yêu, nỗi buồn, lẽ sống…). Cho
nên, trữ tình trở thành tiếng lòng thầm kín của mọi người.

Chính trị là những khái niệm khô khan được thể hiện dưới hình thức những câu
khẩu hiệu mang tính chất cổ vũ, kêu gọi như: “Không có gì quý hơn độc lập, tự
do…”, “Tất cả cho tiền tuyến”, “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”… Vấn đề của
chính trị là vấn đề của lí tưởng, là gắn với những nhiệm vụ của sản xuất, chiến
đấu… Các khái niệm đó tưởng không có gì là thơ cả.

Nhưng với Tố Hữu, trước những vấn đề chính trị của đất nước, trái tim nhà thơ xúc
cảm thật sự, tâm hồn nhà thơ chan chứa tình cảm và vô cùng nồng nhiệt. Chính vì
thế, lí tưởng cách mạng, đời sống cách mạng, những sự kiện chính trị đã trở thành
nguồn cảm xúc lớn, được biểu hiện bằng giọng tâm tình ngọt ngào tha thiết hay rắn
rỏi, dõng dạc mang âm hưởng sử thi hùng tráng. “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị đạt
đến trình độ rất đỗi trữ tình” (Xuân Diệu).
- Thơ chính trị đạt đến độ trữ tình trước hết xuất phát từ quan niệm về thơ của Tố
Hữu. Tố Hữu quan niệm: “Thơ là tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí.
Nói đến thơ là nói đến sự đồng điệu của tâm hồn”. Chính xuất phát từ quan niệm
đó mà nhân vật trữ tình trong thơ Tố Hữu có mối quan hệ gần như máu thịt với đất
nước, nhân dân, cộng đồng. Tố Hữu thường cất lên những tiếng gọi đầy tình
thương mến: “Bạn đời ơi”, “anh chị em ơi!”, “Ôi Tổ quốc!”, “Ơi Bác Hồ ơi!”,
“Miền Nam ơi!”. Trong VB, TH dùng lời xưng hô mình – ta gần gũi tha thiết. 2 đối
tượng mình – ta ấy không phải là 2 con người cá nhân, mà là nhân dân CM và cán
bộ CM, đại diện cho Đảng và quần chúng, hậu phương và tiền tuyến. Tình cảm của
họ là sự chia ngọt sẻ bùi

miếng cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng,

là hắt hiu lau xám đậm đà lòng son,

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu.

Như vậy mối quan hệ mang đậm màu sắc chính trị lại được TH nhìn nhận và thể
hiện hết sức trữ tình.

- Tính trữ tình chính trị trong VB còn được thể hiện ở cảm hứng chủ đạo. Cảm
hứng chủ đạo của VB là cảm hứng ngợi ca nghĩa tình cách mạng thuỷ chung, son
sắt giữa đồng bào chiến khu với cán bộ kháng chiến, quân với dân, miền ngược với
miền xuôi…qua đó nhà thơ khám phá vẻ đẹp của nhân dân, đất nước anh dũng,
kiên cường mà ân nghĩa thuỷ chung. Chủ đề: “Việt Bắc” là một câu chuyện lớn, là
một vấn đề tư tưởng được diễn đạt bằng một hình thức nghệ thuật mang tính riêng
tư. Bài thơ gợi về những ân nghĩa, nhắc nhở sự thuỷ chung của con người đối với
con người và đối với quá khứ cách mạng nói chung . Một sự kiện lịch sử lại được
nhìn nhận như một vấn đề về tình cảm con người, tình nghĩa, đạo lí muôn đời của
dân tộc.

Cảm hứng chủ đạo của thơ Tố Hữu là cảm hứng lịch sử, dân tộc chứ không phải
cảm hứng thế sự, đời tư. Nổi bật trong thơ Tố Hữu là vấn đề vận mệnh dân tộc chứ
không phải vận mệnh cá nhân hay nói đúng hơn là cá nhân hòa vào dân tộc. Chính
vì thế, cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu trước hết là cái tôi – chiến sĩ (bắt đầu từ Từ
ấy). Càng về sau, cái tôi – chiến sĩ trong thơ Tố Hữu càng rõ nét hơn: cái tôi nhân
danh Đảng, nhân danh cộng đồng, dân tộc. Cái tôi ấy đã hóa thân vào những nhân
vật trữ tình mang những phẩm chất tiêu biểu của dân tộc qua những thời kì lịch
sử khác nhau: Bà má Hậu Giang, Lượm, Tiếng hát trên đê… (Từ ấy), Chị Trần Thị
Lý, Bà bủ, Phá đường… (Việt Bắc), Mẹ Suốt, anh Nguyễn Văn Trỗi, Anh giải
phóng quân… (Ra trận, Gió lộng). Ở thời đại cách mạng vô sản, đặc biệt là trong
hai cuộc kháng chiến khốc liệt của dân tộc, tiếng thơ ấy đầy sức thuyết phục. Nó
tác động tới số phận cộng đồng, số phận dân tộc. Quan tâm đến phương diện chính
trị của đời sống, ngòi bút của Tố Hữu thật sung sức, thật khoáng đạt khi bắt vào
những chủ đề lớn: Đảng, Bác, dân tộc, lịch sử, thời đại…

Từ tập thơ Việt Bắc trở đi, thơ Tố Hữu nêu lên những vấn đề lớn như: lẽ sống dân
tộc, quan hệ giữa dân tộc và thời đại… Song song với lẽ sống cách mạng là tình
cảm cách mạng. Đó là tình đồng chí, đồng đội, tình cảm đối với nhân dân, với
Đảng, với lãnh tụ, tinh thần quốc tế vô sản… Những bài thơ hay nhất của Tố Hữu
là những bài thơ kết hợp hài hòa giữa lẽ sống cách mạng và tình cảm cách mạng
(Việt Bắc, Mẹ Suốt, Bác ơi!, Quê mẹ, Miền Nam…).

- Tính trữ tình chính trị của VB còn được thể hiện ở giọng điệu. Xưa nay, có nhiều
người làm thơ chính trị nhưng hiếm có ai đạt được thành công vang dội như Tố
Hữu. Sức cuốn hút của thơ Tố Hữu là sự hòa quyện giữa tình cảm, lẽ sống và tư
tưởng. Điều đó đã tạo nên sự cộng hưởng lớn lao, rộng khắp. Chất thơ trữ tình –
chính trị của Tố Hữu lại được thể hiện ở giọng điệu riêng rất dễ nhận ra. Đó là
giọng tâm tình ngọt ngào, là giọng của tình thương mến. Giọng thơ tâm tình ngọt
ngào của Tố Hữu xuất phát từ chiếc nôi quê hương và gia đình cùng nguồn mạch
thơ ca dân gian. Bài thơ đưa người đọc vào một thế giới tâm tình đằm thắm đầy ân
nghĩa. Đó là phong cách trữ tình – chính trị đặc biệt của thơ Tố Hữu.

Trữ tình – chính trị không có nghĩa là không nói đến đời tư, cá nhân. Tố Hữu đã
đưa không ít những chi tiết đời tư, cá nhân vào thơ. Có điều chúng luôn luôn được
gắn với nội dung chính trị.

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương

Tóm lại, mọi xúc cảm trong thơ Tố Hữu đều xuất phát từ tình cảm cách mạng.
Các khái niệm chính trị đi vào thơ Tố Hữu không hề khô khan mà được xúc cảm
trở thành cảm hứng. Tố Hữu đã đem vào thơ cách mạng một tiếng nói trữ tình với
những xúc cảm chân thành, mãnh liệt tạo được một năng lượng lan truyền rộng
khắp và rung cảm đối với người đọc. Càng về sau, lời thơ trữ tình – chính trị Tố
Hữu càng thiên về khuynh hướng sử thi.

Nhân vật trữ tình được nâng lên tầm vóc thời đại, nhiều khi được thể hiện bằng
biện pháp thần thoại hóa. Thơ Tố Hữu là một bằng chứng hùng cho khuynh hướng
sử thi, cả hứng lãng mạn của văn học Việt Nam 30 năm chiến tranh. Tố Hữu đã kế
thừa xuất sắc truyền thống thơ ca yêu nước của dân tộc và phát triển trong thời đại
mới. “Nếu Chế Lan Viên làm sang cho thơ Việt Nam thì Tố Hữu làm giàu cho thơ
Việt Nam” (Nguyễn Đăng Mạnh). Tố Hữu xứng đáng là “lá cờ đầu” của thơ ca
cách mạng Việt Nam.

2. “Việt Bắc” tiêu biển cho phong cách thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc

Tính dân tộc được hiểu là một đặc tính nhưng đồng thời cũng là thước đo giá trị
của một tác phẩm văn học. Những tác phẩm văn chương lớn từ trước cho đến nay.
Mà những tác phẩm vừa mang tính nhân loại, vừa mang tính dân tộc sâu sắc.
Trong văn học, tính dân tộc được thể hiện ở cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật.
Về nội dung, một tác phẩm mang tính dân tộc phải thể hiện được những vấn đề
nóng bỏng liên quan đến vận mệnh dân tộc, thể hiện được khát vọng, tình cảm và ý
chí của một dân tộc. Về hình thức, tác phẩm đó tiếp thu một cách sáng tạo tinh hoa
văn hóa của dân tộc. Nếu hiểu như thế thì thơ Tố Hữu mang phong cách nghệ thuật
“đậm đà bản sắc dân tộc”.

a. Tính dân tộc trong nội dung


- Tác phẩm đề cập đến một sự kiện lịch sử có tính chất trọng đại của dân tộc

Việt Bắc là tên gọi của khu căn cứ địa cách mạng ở phía Bắc nước ta, trung tâm là
an toàn khu ATK Định Hóa Thái Nguyên. Từ năm 1940 - 1954, Đảng và chính phủ
rời thủ đô Hà Nội lên Việt Bắc chỉ đạo kháng chiến. Việt Bắc là thủ đô kháng
chiến, thủ đô gió ngàn. Tháng 7/1954, hiệp định Giơ ne vơ được kí kết, miền Bắc
nước ta hoàn toàn giải phóng. Tháng 10/1954, các cơ quan Trung ương của Đảng
và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về HN tiếp tục lãnh đạo phong trào cách
mạng. Trước sự kiện đó Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc. Đây là bài thơ ân tình
cách mạng, gọi lại những kỉ niệm thân thiết và vẻ đẹp của Việt Bắc từ ngày đầu
gian khổ chắt chiu xây dựng căn cứ địa cách mạng cho đến khi kháng chiến thắng
lợi. Bài thơ kết cấu theo lối hát giao duyên đối đáp nam nữ nhưng lại thể hiện
những ân tình cách mạng, và vì thế bài thơ như một chất men say ngấm sâu vào
lòng người, trở nên gần gũi, đằm thắm hơn với những cung bậc lan toả của nó.

- Bài thơ thể hiện những vẻ đẹp của tâm hồn, cốt cách dân tộc

+ Sự sắt son tình nghĩa:

Mình về mình có nhớ ta

15 năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ ko

Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn

Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu

+ Truyền thống uống nước nhớ nguồn

Ta đi ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi

Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người


+ Lòng yêu nước, ý chí căm thù giặc

Nhớ ai khi giặc đến làng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây

Núi giăng thành lũy sắt dày

Rùng che bộ đội rừng vây quân thù

Những đường VB của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước đi nát đá muôn tàn lửa bay

- Tác phẩm đề cập đến những phương diện đặc trưng nhất trong đời sống người
Việt: đời sống sinh hoạt, lao động, học tập, công tác…

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Nhớ sao lớp học I tờ

Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan


Gian nan đời vẫn hát vang núi đèo

Giữ đê phòng hạn thu lương

Gửi dao miền ngược thêm trường các khu

- Miêu tả thành công những bức tranh đặc trưng thiên nhiên đất nước

Dẫn dắt người đọc cùng tham quan cảnh tiên nơi Việt Bắc, Tố Hữu đã vẽ lên một
bức tranh mùa đông ấm áp, tràn đầy tin yêu:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi


Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Người đọc ngẩn ngơ trước mùa đông nơi vùng cao Tây Bắc với vẻ đẹp đặc trưng
của nó. Phải nói rằng tuy là mùa đông nhưng qua thơ Tố Hữu, cảnh sắc không
buồn, không trầm lắng, mà người lại rất sáng, rất ấm áp qua hình ảnh “hoa chuối
đỏ tươi”. Màu đỏ của hoa chuối chính là nét điểm xuyết, là ánh sáng làm bừng lên
khung cảnh rừng núi mùa đông Việt Bắc. Đây được xem là nghệ thuật chấm phá
rất đắc điệu của Tố Hữu giúp người đọc thấy ấm lòng khi nhớ về Việt Bắc. Ánh
nắng hiếm hoi của mùa đông hắt vào con dao mang theo bên người của người dân
nơi đây bất chợt giúp người đọc thấu được đời sống sinh hoạt và lao động của họ.
Màu đỏ của hoa chuối quyện với màu vàng của nắng trên đèo cảo đã tạo thành một
bức trang mùa đông rạng rớ, đầy hi vọng.

Bức tranh mùa xuân ở núi rừng Việt Bắc hiện lên thật trữ tinh, thơ mộng như tiên
cảnh:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Đọc hai câu thơ này, người đọc dường như mường tượng ra khung cảnh mùa xuân
nơi núi rừng thật hiền hòa, dịu êm, ấm áp. Màu trắng của mơ gợi lên một bức tranh
nên thơ trên cái nền dịu nhẹ của màu sắc. Hoa mơ được xem là loài hoa báo hiệu
mùa xuân ở Tây bắc, cứ vào độ xuân thì, chúng ta sẽ bắt gặp treenn những con
đường màu sắc ấy. Mùa xuân Tây Bắc, Tố Hữu nhớ đến hình ảnh “người đan nón”
với động tác “chuốt từng sợi giang” thật gần gũi. Động từ “chuốt” được dùng rất
khéo và tinh tế khi diễn tả về hành động chuốt giang mềm mại, tỉ mỉ của người đan
nón. Phải thật sâu sắc và am hiểu thì Tố Hữu mới nhận ra được điều này. Chữ
“chuốt” như thổi hồn vào bức tranh mùa xuân ở Việt Bắc, tạo nên sự hòa hợp thiên
nhiên và con người.
Bức tranh mùa hè sôi động dưới ngòi bút của Tố Hữu:

Ve kêu rừng phách đổ vàng


Nhớ cô em gái hái măng một mình
Tiếng ve kêu vàng giữa “rừng phách” đã làm nên cái động giữa muôn vàn cái tĩnh.
Màu vàng của rừng phách là đặc trưng báo hiệu mùa hè về trên xử sở vùng cao.
Tiếng ve như xé tan sự yên tĩnh của núi rừng, đánh thức sự bình yên nơi đây. Từ
“đổ” dùng rất đắc điệu, là động từ mạnh, diễn tả sự chuyển biến quyết liệt, lôi cuốn
của màu sắc. Bức trang mùa hè chợt bừng sáng, đầy sức sống với màu vàng rực
của rừng phách. Ở mỗi bức trang thiên nhiên, người đọc đều thấy thấp thoáng bóng
dáng con người. Có thể nói đây chính là sự tài tình của Tố Hữu khi gắn kết mối
tâm giao giữa thiên nhiên và con người. Giữa rúi bao la, thấp thoáng bóng dáng
“cô gái hái măng” tuyệt đẹp đã khiến cho thiên nhiên có sức sống hơn.

Và cuối cùng chính là bức tranh mùa thu nhẹ nhàng:


Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Mùa thu về trên Tây Bắc với hình ảnh ánh trăng dịu, mát lành. Thiên nhiên dường
như rất ưu ái cho mùa thu xứ bắc với sự tròn đầy, viên mãn của ánh trăng. Không
phải là ánh trăng bình thường, mà trăng nơi đây là trăng của hòa bình, ánh trăng tri
kỉ rọi chiếu những năm tháng chiến tranh gian khổ. Chính ánh trăng ấy đã mang
đến vẻ đẹp riêng của mùa thu Việt bắc. Tố Hữu nhìn trăng, nhớ người, nhớ tiếng
hát gợi nhắc ân tình và thủy chung.

- Khắc họa thành công hình ảnh Bác Hồ: hiện thân đầy đủ nhất cho tính cách
Việt Nam, con người Việt Nam.

Ở đâu u ám quân thù

Nhìn lên Việt Bắc cụ hồ sáng soi

b. Tính dân tộc trong hình thức thể hiện

-Kế thừa truyền thống thơ ca dân tộc đặc biệt là thơ ca dân gian khi thể hiện nhuần
nhuyễn thể thơ dân tộc: lục bát thuần túy dân tộc.

Dù sử dụng đa dạng các thể thơ, song Tố Hữu đặc biệt thành công với thể thơ lục
bát (Việt Bắc, Kính gửi cụ Nguyễn Du…). Lối ngắt nhịp, gieo vần trong thơ Tố
Hữu rất tự nhiên, êm nhẹ khiến cho giọng thơ du dương trầm bổng, dễ đọc, dễ
thuộc.

-Sử dụng hình thức đối đáp dân gian, 1 hình thức tiêu biểu cho đời sống văn hóa
người Việt

Lối đối đáp dân gian là hình thức giao tiếp quen thuộc được người Việt sử dụng
trong đời sống, trong lao động. Trai gái đối đáp nhau để giao duyên, giảm mệt
nhọc khi làm việc, nơi đối đáp là đồng ruộng, giếng nước sân đình. Bài thơ Việt
Bắc triển khai một tình cảm lớn, tình cảm của nhân dân cách mạng và cán bộ cách
mạng, nhưng lại được cấu tứ theo lối hát đối đáp quen thuộc của ca dao.

- Lối xưng hô: mình – ta


Mình nói với ta mình hãy còn son
Ta đi qua ngõ thấy con mình bò

Mình về có nhớ ta chăng


Ta về ta nhớ hàm răng mình cười

Mình về ta chẳng cho về


Ta nắm vạt áo, ta đề bài thơ

Mình về mình có nhớ chăng


Ta về như lạt buộc khăn nhớ mình.

Ta về ta cũng nhớ mình


Nhớ yếm mình mặc, nhớ tình mình trao.
Tố Hữu chọn cách nói của người yêu với người yêu, đặc biệt là hai từ “mình – ta”
ngọt ngào, êm ái. Vì thế, toàn bài thơ trở thành khúc hát ân tình nồng thắm với tình
thơ tha thiết, điệu thơ ngọt ngào, êm ái. Vì thế, toàn bài thơ trở thành khúc hát ân
tình nồng thắm với tình thơ tha thiết, điệu thơ ngọt ngào, nhị nhàng như lời ru.

- Lối so sánh, diễn đạt trong ca dao, dân ca:


Nhớ gì như nhớ người yêu
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
- Chiều sâu tính dân tộc của bài thơ nói riêng và thơ TH nói chung là: nhạc điệu.
“Thơ là đi giữa nhạc và ý. Rơi vào cái vực ý, thì thơ sẽ sâu, nhưng rất dễ
khô khan. Rơi vào cái vực nhạc, thì thơ dễ làm đắm say người, nhưng cũng
dễ nông cạn. Tố Hữu đã giữ được thế quân bình giữa hai vực thu hút ấy.
Thơ của anh vừa ru người trong nhạc, vừa thức người bằng ý”
Chế Lan Viên-“Lời nói đầu tuyển tập thơ Tố Hữu”.

Nhịp thơ có sự thay đổi phù hợp với cảm xúc: chậm rãi, tha thiết, lắng sâu trong
hoài niệm về thiên nhiên, con người; nhanh, mạnh, hối hả gấp gáp khi tái hiện
những tháng ngày kháng chiến hào hùng và niềm vui chiến thắng -> Việt Bắc là
một bản nhạc đa dạng về tiết tấu, có nhẹ nhàng sâu lắng, có cao trào hào sảng, hân
hoan.

Lời thơ phong phú về vần, trầm bổng, dễ ngâm dễ thuộc như lời ru hay ca dao.
Nhạc điệu còn được tạo nên qua các cấu trúc trùng điệp, các phép điệp, sự láy đi
láy lại của các điệp khúc: mình đi - mình về.

Đề 1: “Tôi khuyên các bạn nên đọc truyện cổ tích… thơ ngụ ngôn, các tuyển tập ca
dao… Hãy đi sâu vào vẻ đẹp quyến rũ của ngôn ngữ bình dân, hãy đi sâu vào
những câu hài hoà cân đối trong các bài ca, trong truyện cổ tích… Bạn sẽ thấy ở đó
sự phong phú lạ thường của các hình tượng, sự giản dị của sức mạnh làm say đắm
lòng người, vẻ đẹp tuyệt vời của những định nghĩa… Hãy đi sâu vào sáng tác của
nhân dân, nó trong lành như nước nguồn ngọt ngào, tươi mát, róc rách từ khe núi
chảy ra…” (M. Go-rơ-ki)

Đề 2: “Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học.” (Tố Hữu)

Đề 3: “Ngôn ngữ nhân dân là “tiếng nói nguyên liệu” còn ngôn ngữ văn học là
“tiếng nói đã được bàn tay thợ nhào luyện”…” (M. Go-rơ-ki)

You might also like