Professional Documents
Culture Documents
VIỆT BẮC
Tố Hữu
Đề 4
Cảm nhận của anh (chị) về hai đoạn thơ sau:
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.
(Tố Hữu – Việt Bắc – Ngữ Văn 12)
Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc
Năm con đau, mế thức một mùa dài.
Con với mế không phải hòn máu cắt
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi.
(Chế Lan Viên – Tiếng hát con tàu – Ngữ Văn 12)
Đề 5
Cảm nhận của anh/ chị về hai đoạn thơ sau:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
( Trích " Tây Tiến"- Quang Dũng)
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói chùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
( Trích " Việt Bắc"- Tố Hữu)
Đề 6
Cảm nhận của anh (chị) về hai đoạn thơ sau:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
(Tây Tiến - Quang Dũng)
Đề 1: Trong bài thơ Việt Bắc, nhà thơ Tố Hữu đã tái hiện những tháng ngày kháng chiến gian khổ:
- Đề 2: NhậnxétvềđoạnthơdướiđâytrongbàiViệtBắccủanhàthơTốHữu,cóýkiến chorằng,
“Đólàmộtbức tứbìnhtuyệtđẹpvềthiênnhiênvàconngười Việt Bắc”.
“Tavề,mìnhcónhớta
Tavề,tanhớnhữnghoacùngngười,
Rừngxanhhoachuốiđỏtươi
Đèocaonắngánhdaogàithắt lưng.
Ngàyxuânmơnởtrắngrừng
Nhớngườiđannónchuốt từngsợigiang.
Vekêurừngpháchđỏvàng
Nhớcôemgáiháimăngmộtmình
Rừngthutrăngrọi hòabình
Nhớai tiếnghátântìnhthủychung.”
(Việt Bắc–TốHữu,NgữVăn12,Tập1,NXBGD,2008)
Anh/Chị hãyphântíchđoạnthơđể bình luậnnhậnxéttrên
- Đề 3: Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu:
Những đường Việt Bắc của ta,
………
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
- Đề 4: Tính dân tộc trong bài thơ “Việt Bắc”
- Đề 5: Cùng viết về nỗi nhớ nhưng mỗi nhà thơ lại có một cách khám phá, thể hiện của
riêng mình.
Trong bài thơ “Tây Tiến”, Quang Dũng viết:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
(Tây Tiến - Quang Dũng, Ngữ văn 12,
Tập một, NXB Giáo dục, 2007, tr. 89)
Trong bài thơ “Việt Bắc”, Tố Hữu viết:
“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”.
(Việt Bắc - Tố Hữu, Ngữ văn 12,
Tập một, NXB Giáo dục, 2007, tr. 110)
Cảm nhận về nỗi nhớ của mỗi nhà thơ.
ĐỀ 02:
Có ý kiến cho rằng bài thơ "Việt Bắc" của Tố Hữu là "bản anh hùng ca, bản tình ca về cuộc
kháng chiến và con người kháng chiến". Ý kiến khác lại khẳng định: "Ở Việt Bắc, tính dân tộc
trong nghệ thuật thơ Tố Hữu rõ nét nhất". Ý kiến của anh/chị?
ĐỀ 03:
Nhận định về bài thơ “Việt Bắc”, tác giả Nguyễn Đăng Mạnh viết: “Sức hấp dẫn mạnh nhất của
thơ Tố Hữu đối với công chúng đông đảo là tính dân tộc, tính truyền thống đậm đà và nhuần
nhuyễn”. Anh/Chị hãy làm rõ nhận định đó qua đoạn thơ sau:
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”
Đề 1: Trong bài thơ Việt Bắc, nhà thơ Tố Hữu đã tái hiện những tháng ngày kháng chiến gian khổ:
Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai
và tái hiện những chiến thắng lịch sử hào hùng của quân dân Việt Bắc:
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp An Khê
Vui lên Việt Bắc đèo De núi Hồng.
Anh (chị) hãy phân tích bức tranh Việt Bắc trong hai đoạn thơ trên, từ đó làm nổi bật sự vận động của cảm xúc thơ Tố
Hữu.
Đề 2: Nhận xét về đoạn thơ dưới đây trong bài Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu,có ý kiến cho rằng, “Đó là một bức tứ
bình tuyệt đẹp về thiên nhiên và con người Việt Bắc”.
“Tavề,mìnhcónhớta
..Nhớai tiếnghátântìnhthủychung.”
Đề 3: Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu:
Những đường Việt Bắc của ta,
………
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Đề 4: Tính dân tộc trong bài thơ “Việt Bắc”
Đề 5: Cùng viết về nỗi nhớ nhưng mỗi nhà thơ lại có một cách khám phá, thể hiện của riêng mình.
Trong bài thơ “Tây Tiến”, Quang Dũng viết:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Đề 1:
1.Vài nét về tác giả, tác phẩm
– Tố Hữu là nhà thơ lớn của nền thơ ca Việt Nam hiện đại, là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ Tố Hữu
được coi là thi sử của cách mạng dân tộc.
– Tập thơ Việt Bắc là đỉnh cao trong sự nghiệp thơ Tố Hữu. Trong đó “Việt Bắc” là thành công xuất sắc. Tác phẩm là
bản hùng ca về cuộc kháng chiến 9 năm gian lao mà anh dũng, là bản tình ca ân nghĩa thủy chung giữa cán bộ miền xuôi
và đồng bào Việt Bắc.
– Hai đoạn thơ trích dẫn dưới đây là đoạn đặc sắc, thể hiện rõ nét cảm xúc thơ, phong cách thơ Tố Hữu
2. Cảm nhận về hai đoạn thơ
* Đoạn thơ thứ nhất:
– Tái hiện những tháng ngày kháng chiến thiếu thốn gian khổ nhưng vẫn ngời sáng ý chí và tinh thần quyết tâm của quân
dân Việt Bắc
+ Cặp đại từ “mình – ta” thể hiện tình cảm thương mến, ngọt ngào, tha thiết
+ Điệp từ “có nhớ” gợi sự hồi tưởng, gợi nhớ những tháng ngày kháng chiến gian khổ đồng bào Việt Bắc và cán bộ miền
xuôi cùng nhau chia sẻ
+ Hệ thống hình ảnh đa dạng, giàu ý nghĩa biểu tượng khái quát: Hình ảnh gợi nhớ thiên nhiên Việt Bắc khắc nghiệt, gợi
sinh hoạt kháng chiến gian khổ, gợi ý chí sắt đá, quyết tâm cao độ của quân dân Việt Bắc…
=> Nhà thơ bộc lộ tâm trạng bồi hồi xúc động, từ đó tri công tri ân đồng bào Việt Bắc đã đồng cam cộng khổ, hết lòng vì
cách mạng vì kháng chiến
* Đoạn thơ thứ hai:
– Tái hiện những tháng ngày quân dân Việt Bắc quật khởi hào hùng, những chiến thắng dồn dập dội về. Việt Bắc trở
thành điểm hội tụ niềm vui muôn phương
+ Một loạt địa danh được gọi tên gợi nhớ những chiến công lừng lẫy của quân và dân Việt Bắc dội về từ muôn nẻo đường
+ Giọng điệu thơ nhanh, dồn dập thể hiện niềm vui sướng tự hào
+ Nghệ thuật điệp linh hoạt biến hóa: Điệp từ “vui” được lặp đi lặp lại nhiều lần gợi lên những đợt sóng tình cảm trào
dâng cho thấy niềm vui bao trùm không gian Việt Bắc và ngân nga trong lòng quân và dân cả nước.
=> Bộc lộ cảm xúc hân hoan phấn chấn tự hào. Tinh thần đoàn kết, đồng cam cộng khổ, ý chí quyết tâm sắt đá đã tạo nên
sức mạnh để quân dân Việt Bắc chiến đấu và chiến thắng.
3. Nhận xét về sự vận động cảm xúc thơ Tố Hữu qua hai đoạn thơ
+ Qua hai đoạn thơ cảm xúc thơ có sự vận động rõ nét: từ trữ tình sâu lắng đến hân hoan hào hùng, tự xúc động ngậm
ngùi đến tươi vui rạng rỡ, từ cảm nhận sự gian khổ đến niềm vui chiến thắng ngập tràn.
+ Từ đó độc giả hình dung được về sự vận động phát triển của cách mạng Việt Nam, về các giai đoạn của cuộc kháng
chiến, trân trọng sự đóng góp hi sinh của đồng bào Việt Bắc cho kháng chiến
+ Từ sự vận động cảm xúc thơ Tố Hữu, độc giả nhận ra đặc điểm thơ Tố Hữu: Lối thơ trữ tình – chính trị. Mọi cung bậc
cảm xúc tâm trạng đề xuất phát từ những vấn đề chính trị, cách mạng của dân tộc của thời đại
+ Nghệ thuật thể hiện: Bút pháp từ trữ tình sâu lắng đến sử thi hào hùng, giọng điệu từ bồi hồi xúc động đến lạc quan tin
tưởng, ngôn từ hình hảnh từ đặc tả biểu tượng đến những địa danh được lịch sử hóa.
3. Đánh giá:
– Hai đoạn thơ đặc sắc góp phần tạo nên thành công của Việt Bắc, góp phần sáng tỏ ý nghĩa hùng ca – tình ca của Việt
Bắc
– Tố Hữu xứng đáng được vinh danh là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam.
Đề 2:
1. Giới thiệu ngắn gọn nhà thơ Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc: Tố Hữu là một trong những nhà thơ hàng đầu của nền thơ
ca hiện đại Việt Nam. Việt Bắc là bài thơ được lấy làm đầu đề cho cả một tập thơ. Tố Hữu viết bài thơ này vào tháng 10
năm 1954, khi nước ta đã hoàn thành cuộc kháng chiến chống Pháp, chính phủ đã rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Đây
là một bài thơ dài . Đoạn trích trong sách giảng văn chỉ gồm 90 câu. Đoạn thơ đề thi là phần 5, nói về nỗi nhớ cảnh và
người Việt Bắc. Nó giống như một bức tứ bình về thiên nhiên và con người Việt Bắc rất đẹp và nên thơ
2. Giải thích:
Giải thích ngắn gọn khái niệm “tứ bình”trong lời nhận xét:là loại tranh về thiên nhiên gồm 4 bức xuân, hạ, thu, đông.
Bên cạnh tứ bình còncó“tứ quý”, hay“tứ linh”: long, ly, quy, phượng, hay tùng, cúc, trúc, mai.. Lời nhận xé ttrong đề thi
căn cứ vào đoạn thơ của Tố Hữu cho rằng đây là một bức tứ bình. Chính xác hơn, nó gồm hai bức tứ bình, một về thiên
nhiên với 4 mùa“xuân hạ thu đông”và hai, đó là bức tứ bình về “con người Việt Bắc”.
3. Phân tích đoạn thơ: Để làm rõ bức tứ bình về thiên nhiên và conngười VB, cần xác định rõ vị trí của đoạn thơ.
Trong đoạn trích bài VB, đây là đoạn thứ 5, nói về nỗi nhớ của người cán bộ về xuôi.Đoạn thơ có cấu trúc khá độc đáo.10
câu thơ như một bài thơ độc lập, có hai câu mở đầu và 8 câu còn lại chia làm 4 cặp, trong đó, tác giả dành câu lục (câu 6)
nói về nỗi nhớ cảnh, và câu bát (câu 8) nói về nỗi nhớ người.
Đoạn thơ gồm mười câu ghi lại nỗi nhớ của nhà thơ và cũng là của cán bộ đối với cảnh và người Việt Bắc.
- Mười câu thơ nhịp nhàng ấy vừa là một bộ phận hữu cơ của bài thơ vừa biểu hiện một ý thơ hoàn chỉnh. Mở đầu là câu
giới thiệu chung về nội dung xúc cảm của đoạn thơ:
"Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người"
Câu hỏi tu từ "mình có nhớ ta" vừa là lời thoại, nhưng đồng thời vừa là cái cầu nối sang câu dưới, là cái cớ để bày tỏ tấm
lòng của mình. Ra về, lòng vẫn nhớ. Nhớ nhất, lưu luyến nhất hoa cùng người. Hoa ở đây là thiên nhiên; thiên nhiên đẹp,
tươi sáng như hoa vậy. Hoà vào thiên nhiên ấy là con người. Hoa cùng người là hai bộ phận khăng khít không thể tách rời
trong bức tranh Việt Bắc.
- Tám câu thơ còn lại tràn ngập ánh sáng, đường nét và màu sắc tươi tắn. Cảnh và người hoà quyện vào nhau. Trong bốn
cặp lục bát, câu sáu dùng cho nhớ cảnh, câu tám nhớ người. Cảnh và người trong mỗi cặp câu lại có những điểm, sắc thái
riêng. Cứ thế đoạn thơ lần lượt gợi nhớ những vẻ đẹp nên thơ, mở ra trước mắt người đọc những phong cách đa dạng về
đường nét, màu sắc, ánh sáng, âm thanh, gợi ở chúng ta những rung động trước khung cảnh vừa hùng vĩ, vừa mênh mông,
man mác.
- Phong cảnh mà tác giả gợi tả ở đây là phong cảnh núi rừng diễn biến qua vẻ đẹp riêng của bốn mùa trong năm: mùa
đông, rừng biếc xanh đột ngột, đây đó bùng lên màu đỏ tươi rói của hoa chuối rừng như những bó đuốc thắp lên sáng rực.
Xuân sang, rừng lại ngập trắng hoa mơ "nở trắng rừng". Cái màu trắng dìu dịu, tinh khiết phủ lên cả cánh rừng, gợi lên
một cảm giác thơ mộng, bâng khuâng. Rồi hè đến, "Ve kêu rừng phách đổ vàng". Chỉ trong một câu thơ mà ta thấy được
cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo mùa hè - hè đến - cây phách chuyển màu vàng. Sự đổi thay sinh
động ấy làm sống dậy thời gian. Và cảnh rừng đêm thu dưới ánh trăng hoà bình âm vang tiếng hát. Như vậy có buổi trưa
tràn đầy ánh nắng, có ban đêm êm dịu. Mùa nào cũng đẹp, cũng đáng yêu, mỗi mùa là một bức tranh.
- Một vẻ đẹp nữa trong bộ tranh tứ bình ấy là vẻ đẹp con người. Con người và những hoạt động của con người là một bộ
phận không thể tách rời trong khung cảnh Việt Bắc. Dường như khó có thể hình dung "đèo cao nắng ánh" lại thiếu hình
ảnh người lên núi, mùa xuân lại thiếu cảnh "người đan nón", hè sang lại thiếu cảnh "cô em gái" đi hái măng. Thiên nhiên
và con người đã hoà quyện và tô điểm cho nhau. Và trong nỗi nhớ nhà của người ra đi, kỷ niệm về những con người Việt
Bắc là kỷ niệm đậm đà nhất, sâu sắc nhất. Trong nỗi nhớ, con người lại càng thêm gần gũi, gần với thiên nhiên và gần bên
nhau.
- Bao trùm cả đoạn thơ là tình cảm nhớ thương tha thiết, tiếp tục âm hưởng chung của nghệ thuật ca dao. Những câu thơ
lục bát nhịp nhàng, uyển chuyển, câu nọ gợi câu kia, ý nọ gợi tiếp ý kia cứ trào lên dạt dào cảm xúc qua cách xưng hô
"mình - ta" thắm thiết. Nhạc điệu dịu dàng, trầm bổng khiến cả đoạn thơ mang một âm hưởng bâng khuâng, êm êm như
một khúc hát ru - khúc hát ru kỷ niệm. Đặc biệt từ nhớ được lặp lại nhiều lần, mỗi lần một sắc thái khác nhau và cấp độ
tăng lên làm cụ thể hơn tấm lòng lưu luyến của tác giả với chiến khu, với cảnh và người Việt Bắc. Đoạn thơ được mở đầu
bằng câu thơ kiểu dân gian "Ta về, mình có nhớ ta" thì cuối đoạn dường như đã được trả lời. Cả ta và mình đều cùng
chung nỗi nhớ, cùng chung "tiếng hát ân tình" và ân tình sâu nặng ấy mãi còn lưu luyến, vấn vương trong những tâm hồn
chung thuỷ.
- Nghệ thuật “dựng tứ bình” củaTố Hữu:
- Sử dụng điêu luyện thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc
-Sử dụng điêu luyện cặp đại từ “mình ta”trong đoạn thơ
- Nghệ thuật đối xứng, đan cài hai câu thơ lục và bát, hai bức tranh thiên nhiên và con người trong bức tứ bình rất điêu
luyện. Cứ sau câu thơ lục về nỗi nhớ cảnh, lại đến một câu thơ bát về nỗi nhớ người.Nỗi nhớ này kéo theo nỗi nhớ kia,
nỗi nhớ cảnh khơi gợi nỗi nhớ người, cũng giống như một câu thơ lục chỉ tồn tại được khi có một câu thơ bát.
4. Bình luận:
- Nhận xét hoàn toàn đúng đắn. Đoạn thơ tuy chỉ ngắn gọn 10 câu, nhưng bằng tài nghệ của mình, Tố Hữu đã
vẽ được một bức tranh đẹp về thiên nhiên và con người VB trong kháng chiến.
Bức tranh tứ bình bằng thơ thể hiện phong cách thơ giàu tính dân tộc của Tố Hữu
Nghệ thuật tứ bình của Tố Hữu vừa cổ điển vừa có nét mới mẻ hiện đại.
Đề 3: Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu:
Những đường Việt Bắc của ta,
………
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng
Mở bài:
-Việt Bắc là cơ quan đầu não trong kháng chiến chống Pháp, đây còn là căn cứ địa vững chắc của Trung Ương Đảng và
Chính phủ trong suốt 15 năm kháng chiến.
-Tháng 10 năm 1954, những người kháng chiến từ VB trở về xuôi. Tố Hữu đã viết bài thơ để bày tỏ nỗi niềm, tình cảm
của những người cán bộ, người chiến sĩ cách mạng dành cho mảnh đất, con người đã từng cưu mang, gắn bó suốt 15 năm
kháng chiến.
-VB là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là thi phẩm xuất sắc của thơ ca kháng Pháp.
a) Thân bài:
-Nếu những đoạn thơ trước mang nặng nỗi niềm về một VB cảnh và người ân tình, ân nghĩa; một VB nghèo mà chân
tình, rộng mở thì ở đoạn thơ này, nhà thơ dẫn người đọc vào khung cảnh VB chiến đấu và chiến thắng với những hình ảnh
hào hùng, những âm thanh sôi nổi, dồn dập, náo nức.
-Cách mạng và kháng chiến đã xua tan đi vẻ hiu hắt của núi rừng; đồng thời khơi dậy sức sống mạnh mẽ của thiên nhiên,
con người VB cùng sức mạnh vô song của khối đoàn kết dân tộc trong kháng chiến.
Cảm hứng sử thi:
-Không gian rộng lớn nơi núi rừng Tây Bắc giờ đây đều là của ta, đều thuộc về ta. Đêm đêm những bước chân hành quân
rầm rập, làm rung chuyển cả đất trời, bước chân của những ngươi khổng lồ đội trời đạp đất, làm nên những kì tích muôn
đời.
-Nổi bật lên là hình ảnh quân đội nhân dân VN. Ý thơ ngợi ca sức mạnh hùng hậu của quân đội ta: Quân đi điệp điệp
trùng trùng/Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan. Càng đẹp, càng sống động hơn hình ảnh ánh sao đầu súng lấp lánh dưới
trời đêm, khiến người đọc nhớ đến hình ảnh Đầu súng trăng treo của Chính Hữu. Những câu thơ giàu chất tạo hình, vừa
hiện thực, vừa lãng mạn gợi nhiều liên tưởng về vẻ đẹp của người lính.
-Kháng chiến của chúng ta là cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện. Người người đánh giặc, nhà nhà đánh giặc, nông dân
miền xuôi tấp nập lên đường góp sức người sức của cho tiền tuyến. Hình ảnh của họ thật hào hùng, hoành tráng – Bước
chân nát đá buôn trùng lửa bay.
Sự kếp hợp kì diệu giữa hình ảnh thực dân công đỏ đuốc cả đoàn và những liên tưởng lãng mạn, bay bổng bước
chân nát đá vừa làm sống dậy nguồn sức mạnh to lớn của dân tộc, vừa thần thoại hóa sức mạnh của con người trong
kháng chiến. Bước chân của họ là những bước chân của con người đội đá vá trời, rung chuyển càn khôn, đạp bằng gian
nguy làm nên chiến thắng, khiến cả thế giới phải khâm phục.
Cảm hứng lãng mạn:
-Hình ảnh đối lập Nghìn đêm thăm thẳm sương dày/Đèn pha bật sáng như ngày mai lên diễn tả cảm hứng tự hào, tinh thần
lạc quan tin tưởng về một tương lai tươi sáng của kháng chiến, của dân tộc.
-Đoạn thơ đã có sự phá vỡ tính cân xứng của nhịp thơ trong phần đầu đoạn để tạo ra tiết tấu phi đối xứng (Quân đi / điệp
điệp trùng trùng..Dân công / đỏ đuốc từng đoàn…Nghìn đêm / thăm thẳm sương dày…) làm cho giọng thơ trở nên mạnh
mẽ, dồn dập như bước chân hành quân của người lính xông pha nơi trận địa.
Những tên tuổi VB làm nên lịch sử oai hùng.
-Những tên tuổi – tên đất, tên làng, tên sông, tên núi của trăm miền hòa với những chiến công lừng lẫy cùng VB đã đi vào
trang sử vàng của dân tộc.
-Niềm vui chiến thắng của dân tộc tràn ngập những câu thơ, tràn vào tâm tư người đọc niềm vui chiến thắng bất tận của
chiến dịch Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
b) Kết bài:
-VB không chỉ còn là một cái tên, một vùng đất mà trở thành biểu tượng cho sức mạnh, cho linh hồn kháng chiến.
Với những đóng góp về nội dung cũng như nghệ thuật, VB xứng danh là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là thi phẩm
xuất sắc của thơ ca kháng Pháp
ĐỀ 01:
* Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn thơ và ý kiến của Xuân Diệu về bài thơ Việt Bắc.
– Tố Hữu là lá cờ đầu của nền thi ca cách mạng Việt Nam. Thơ ông gắn liền với từng chặng đường lịch sử của đất nước.
Việt Bắc là một trong những bài thơ hay của ông viết sau chiến thắng Điện Biên Phủ, là khúc ca hào hùng của cuộc kháng
chiến chống Pháp, là khúc hát ân nghĩa thủy chung của tình quân dân thắm thiết.
– Mỗi thời kỳ lịch sử đi qua, Tố Hữu đều để lại dấu ấn riêng mang đậm hồn thơ trữ tình chính trị. Chính vì vậy khi nhận
xét về bài thơ Việt Bắc, Xuân Diệu cho rằng: “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”. Điều
đó được thể hiện qua đoạn thơ sau:– Mình về mình có nhớ ta…..nói gì hôm nay…
* Thân bài:
Ý 1 : Giải thích ý kiến, nhận định
– Thơ chính trị: Là thơ trực tiếp đề cập đến những vấn đề chính trị, những sự kiện chính trị nhằm mục đích tuyên tuyền,
cổ động. Chính vì thế, thơ chính trị thường có nguy cơ rơi vào khô khan, áp đặt.
– Ý kiến của Xuân Diệu: Tố Hữu đã “trữ tình hóa” thơ chính trị, để thơ chính trị thực sự là thơ, có sức rung cảm sâu xa.
Đây là ý kiến đánh giá rất cao về thơ Tố Hữu.
Ý 2 : Phân tích đoạn thơ để chứng minh nhận định
Trước khi phân tích đoạn thơ, học sinh cần nêu khái quát về tác phẩm : Hoàn cảnh sáng tác, nội dung, bố cục, thể thơ,
nguồn cảm hứng,…(nếu những thông tin này đã viết ở phần mở bài rồi thì không nhắc lại trong phần thân bài nữa)
– Đoạn thơ mở ra với cảnh chia tay lưu luyến đầy xúc động của những người đã từng gắn bó suốt mười lăm năm ấy, có
biết bao kỉ niệm ân tình. Bao trùm trong tâm trạng kẻ ở người đi là nỗi nhớ da diết mênh mang với nhiều sắc thái khác
nhau. Bốn câu thơ đầu là lời của người Việt Bắc:
Mình về mình có nhớ ta
….Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn ?
+ Nhà thơ để cho người ở lại lên tiếng trước. Hai đại từ “mình” – “ta” được lặp lại nhiều lần. Đó là cách xưng hô thân mật
lấy trong ca dao, dân ca, là lời xưng hô trong tình yêu lứa đôi, nghe thiết tha bâng khuâng được Tố Hữu sử dụng rất linh
hoạt. “Mình” là người cán bộ về xuôi, “ta” là người Việt Bắc.
+ Cụm từ “mười lăm năm ấy” gợi nhắc câu Kiều của Nguyễn Du:
Mười lăm ấy biết bao nhiêu tình.
đó là sự kế thừa thơ ca truyền thống của dân tộc của Tố Hữu. Câu hỏi tu từ “có nhớ ta”, “có nhớ không” nghe da diết,
nhắn nhủ, tâm tình.
– Ở bốn câu đầu này, người Việt Bắc hỏi người cán bộ có nhớ Việt Bắc không. Nghĩa là có nhớ quê hương cách mạng, cội
nguồn cách mạng không? Hỏi mà là nhắc nhở, nhắn gửi người về đừng quên Việt Bắc, đừng quên chính mình. Lời hỏi
cũng là lời nhắc nhở, nhắn gửi người về đừng quên Việt Bắc.
– Bốn câu thơ tiếp là lời người cán bộ về xuôi. Đáp lại lời của người Việt Bắc,người cán bộ cất tiếng thiết tha:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
…Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.
+ “Ai” là đại từ phiếm chỉ, chỉ người Việt Bắc.
+ Các từ láy: “tha thiết”, “bâng khuâng”, “bồn chồn” đặc tả chính xác tâm trạng vấn vương, lưu luyến, bịn rịn.
+ “Áo chàm”: Nghệ thuật hoán dụ để chỉ đồng bào Việt Bắc, vì người Việ Bắc thường mặc áo chàm. Màu chàm là màu
đơn sơ, chân thực, không lòe loẹt mà giản dị, chân thành, chung thủy. Câu thơ “Áo chàm…phân li” ngắt nhịp 3/3 tạo
khoảng lặng lắng đọng cảm xúc. Đó có thể là khoảnh khắc người dân Việt Bắc không thốt nên lời hay đang buông tiếng
nấc nghẹn ngào tha thiết.
+ Câu hỏi tu từ và dấu “chấm lửng” ở cuối câu: “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…” thể hiện tình cảm tha thiết. Ngôn
ngữ bàn tay nóng ấm gắn với trái tim đầy xúc động. Biết nói gì, không phải là không biết nói gì, không có gì để nói mà là
biết nói sao cho thỏa nỗi nhớ thương.
– “Việt Bắc” chỉ với tám dòng thơ mở đầu, người đọc cảm nhận một cách khá đầy đủ âm hưởng chung của cả bài thơ, âm
hưởng khúc hát đối đáp, khúc hát ru nhẹ nhàng sâu lắng. Cùng với ngôn ngữ đậm màu sắc trữ tình của ca dao chúng ta có
thể cảm nhận một cách sâu sắc đặc trưng trữ tình chính trị của thơ Tố Hữu.
– Ý kiến của Xuân Diệu rất xác đáng và tinh tế, đánh giá, ghi nhận đúng vị trí đặc biệt và thành tựu lớn lao của đời thơ Tố
Hữu.
– Thơ Tố Hữu đúng là thơ chính trị, bởi đề tài trong thơ Tố Hữu là những vấn đề chính trị, hồn thơ Tố Hữu luôn hướng tới
cái ta chung với lẽ sống lớn, tình cảm lớn và niềm vui lớn của Đảng, dân tộc, cách mạng.
– Nhưng thơ Tố Hữu cũng rất đỗi trữ tình. Tố Hữu đã đưa thơ trữ tình chính trị lên đến đỉnh cao. Có được điều ấy là nhờ
những vấn đề chính trị trong thơ Tố Hữu đã được thực sự chuyển hóa thành những vấn đề của tình cảm, cảm xúc rất mực
tự nhiên, chân thành, đằm thắm với một giọng thơ ngọt ngào, tâm tình, giọng của tình thương mến.
* Kết bài:
– Đoạn thơ trên sử dụng thể thơ lục bát đậm đà bản sắc dân tộc. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu trữ tình phong phú cho bài
thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo (Hoán dụ, câu hỏi tu từ, điệp từ,…). Ngôn ngữ trong sáng,
nhuần nhị, và có nhiều nét cách tân.
– Tám câu thơ đầu khái quát cảm xúc bao trùm bài thơ: Tình cảm gắn bó, ân tình, thủy chung sâu nặng giữa người dân
Việt Bắc và chiến sĩ cách mạng được diễn tả chân thật, tha thiết, trìu mến. Chính tình quân dân cao quý này đã góp phần
làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng.
ĐỀ 02:
Có ý kiến cho rằng bài thơ "Việt Bắc" của Tố Hữu là "bản anh hùng ca, bản tình ca về cuộc kháng chiến và con
người kháng chiến" Ý kiến khác lại khẳng định: "Ở Việt Bắc, tính dân tộc trong nghệ thuật thơ Tố Hữu rõ nét
nhất". Ý kiến của anh/chị?
I. Mở bài:
Bài thơ "Việt Bắc" là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một thành tựu quan trọng của thơ ca kháng chiến chống Pháp.
Bài thơ được Tố Hữu sáng tác vào tháng 12 năm 1954 nhân một sự kiện lịch sử, đó là Trung ương Đảng và Chính phủ rời
chiến khu về Thủ đô Hà Nội. Từ điểm xuất phát ấy, bài thơ thể hiện sự gắn bó thắm thiết giữa người ra đi và người ở lại,
giữa miền xuôi và miền ngược, giữa người cán bộ với Việt Bắc - quê hương của cách mạng, với đất nước và nhân dân, với
Đảng và Bác Hồ, với cuộc kháng chiến đã thành kỷ niệm sâu nặng trong tâm hồn.
Nhận xét về bài thơ "Việt Bắc" có ý kiến cho rằng: bài thơ "Việt Bắc" của Tố Hữu là "bản anh hùng ca, bản tình ca về
cuộc kháng chiến và con người kháng chiến". Ý kiến khác lại khẳng định: "Ở Việt Bắc, tính dân tộc trong nghệ thuật thơ
Tố Hữu rõ nét nhất".
II. Thân bài:
1. Giải thích ý kiến:
♦ Ý kiến 1: Ca ngợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta và những con người kháng chiến (nhân dân và
cán bộ cách mạng): anh hùng trong chiến đấu, căm thù giặc cao độ, có tinh thần đoàn kết. Đồng thời cũng thể hiện tình
cảm lưu luyến; vấn vương giữa đổng bào Việt Bắc và cán bộ cách mạng, ca ngợi lối sống ân nghĩa ân tình giữa nhân dân
và cách mạng.
♦ Ý kiến 2: Khẳng định vẻ đẹp về nghệ thuật thơ Tố Hữu - tính dân tộc - thể hiện ở kết câu đậm chất ca dao, thể thơ lục
bát điêu luyện, ngọt ngào, ở việc sử dụng cặp đại từ "mình" - "ta".
2. Chứng mình qua đoạn thơ:
a. Ý kiến 1:
+ "Việt Bắc" là bản tình ca:
- Tình cảm lưu luyến, vấn vương giữa đổng bào Việt Bắc và cán bộ cách mạng, ca ngợi lối sống ân tình thủy chung của
đổng bào Việt Bắc. với kiểu kết cấu đối đáp rất đậm đà, tình nghĩa của bài thơ "Việt Bắc", tình yêu với thiên nhiên đất
nước được biểu hiện cụ thể qua sự gắn bó với núi rừng Việt Bắc trong nỗi nhớ của người cán bộ sắp về xuôi. Cảnh Việt
Bắc hiện ra với những vẻ đẹp hiện thực và thơ mộng: "trăng lên đỉnh núi", "nắng chiều lưng nương", những bếp lửa hổng
trong đêm khuya, rừng nứa bờ tre, ngòi Thia, sống Đáy, tiếng mõ chiều, tiếng chày đêm... Nhung có lẽ nổi bật nhất trong
nỗi nhớ của Tố Hữu về Việt Bắc là sự hòa quyện giữa con người với thiên nhiên, là ấn tượng không thể phai mờ về những
người dân Việt Bắc cần cù trong lao động, thủy chung trong tình nghĩa.
• Thể hiện qua những kỷ niệm của tác giả qua những năm tháng chia ngọt sẻ bùi, đổng cam cộng khổ của đổng bào Việt
Bắc. Hình ảnh "củ sắn lùi", "bát cơm sẻ nửa", "chăn sui đắp cùng" là những hình ảnh thực của đời sống kháng chiến, gian
khổ nhưng thấm đẫm chân tình của đồng bào, của anh em đổng chí. Hay hình ảnh người mẹ Việt Bắc tần tảo chắt chiu,
cần cù lao động, vất vả, nhọc nhằn nhưng âm áp, cảm động: địu con trên lưng dưới cái nắng cháy da để bẻ bắp nuôi con,
nuôi bộ đội. Hình ảnh thơ mộc mạc, giản dị như chính từ đời sống nguyện vẹn chảy vào thơ.
• Ca ngợi vẻ đẹp của cảnh và người Việt Bắc: cảnh đẹp, hài hòa từ đường nét, màu sắc, âm thanh; con người đẹp trong lối
sống tình nghĩa:
"Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt
từng sợi giang Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiêng
hát ân tình thủy chung."
Có thể thấy thiên nhiên hiện ra với những vẻ đẹp phong phú đa dạng với bốn mùa. Gắn với cảnh tượng ấy là con người
giản dị: người làm nương rẫy, người hái măng, người đan nón... Bằng những việc làm tưởng chừng nhỏ bé của mình họ đã
góp phần tạo ra sức mạnh vĩ đại của cuộc kháng chiến. Chính tình nghĩa gắn bó và san sẻ cùng nhau chịu đựng gian khổ
thiếu thôn, cùng nhau gánh vác nhiệm vụ nặng nề, khó khăn giữa nhân dân với bộ đội và cán bộ càng làm cho hình ảnh
Việt Bắc sáng ngời trong hổi tưởng của nhà thơ.
4 "Việt Bắc" là bản anh hùng ca:
- Anh hùng trong chiến đấu: Khung cảnh hùng tráng đậm chất sử thi, cảm hứng lãng mạn thể hiện qua giọng điệu dồn dập,
âm hưởng hào hùng, những hoạt động sôi nổi... góp phần diễn tả sức mạnh và khí thế chiến đấu của cuộc kháng chiến. Ở
đây bài thơ tràn đầy âm hưởng, anh hùng ca mang dáng vẻ sử thi hiện đại bởi vì chỉ cần miêu tả khung cảnh hùng tráng
của Việt Bắc, Tố Hữu đã nêu bật khí thế chiến đấu vô cùng mạnh mẽ của dân tộc.
- Sức mạnh bắt nguồn từ lòng căm thù tội ác của giặc:
+"Nhớ khi giặc đến giặc lùng"
+"Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai"
Từ tinh thần đoàn kết:
+"Rừng cây núi đá, ta cùng đánh Tây"
+"Đất trời ta cả chiến khu một lòng."
Nhưng Tố Hữu không chỉ miêu tả diễn biên của cuộc kháng chiến mà còn đi sâu vào lí giải những cội nguồn sức mạnh đã
dẫn tới chiến thắng. Đó không chỉ là sức mạnh của lòng căm thù mà còn là sức mạnh của tình nghĩa thủy chung: "Mình
đây ta đó, đắng cay ngọt bùi", nhất là sức mạnh của khôi đoàn kết toàn dân, của sự hòa quyện gắn bó giữa con người với
thiên nhiên - tất cả tạo thành hình ảnh "đất nước đứng lên".
- Sức mạnh của đau thương biến thành hành động và lập được những chiến công vang dội "Tin vui chiên thắng trăm
miền." Dân tộc ta đã vượt qua bao gian khổ hi sinh đê lập nên những kì tích, những chiến công: Phủ Thông, đèo Giàng,
sống Lô, phố Ràng, Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên...
- Sức mạnh của niềm tin, lạc quan tin tưởng vào Đảng, Bác Hồ; khẳng định Việt Bắc là căn cứ địa vững chắc của cuộc
kháng chiến. Trong những năm tháng kháng chiến gian lao, Việt Bắc là nơi có "Cụ Hổ sáng soi", có "Trung ương",
"Chính phủ luận bàn việc công". Đặc biệt bằng những lời thơ trang trọng mà tha thiết, Tố Hữu đã đi sâu nhấn mạnh hình
ảnh và vai trò của Việt Bắc như là quê hương của cách mạng, căn cứ vững chắc của cuộc kháng chiến. Trong những năm
đen tôi trước cách mạng, hình ảnh Việt Bắc hiện dần từ mờ xa "mưa nguồn suốilũ", "những mây cùng mù" cho đến xác
định như chiến khu kiến cường, nơi nuôi dưỡng bao sức mạnh đấu tranh, nơi sản sinh nhiều địa danh đã đi vào lịch sử dân
tộc.
b. Ý kiến 2:
- Tâm trạng bao trùm là nôi nhớ, nương theo những câu hỏi, theo lối đối đáp của ca dao ta - mình để khơi gợi kỉ niệm về
cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Cả bài thơ dài như một cuộc hát đối đáp nam nữ. Người ở lại rừng núi chiến
khu là cô gái Việt Bắc, người về xuôi là anh cán bộ cách mạng. Cuộc chia tay lớn của cán bộ Đảng và Chính phủ kháng
chiến với Việt Bắc được thu vào cuộc chia tay của một đôi trai gái. Nói khác hơn, tác giả đã chọn tình yêu của đôi trai gái
làm một góc nhìn để bao quát toàn cảnh Việt Bắc, với "Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng". Chuyện chung đã hóa
thành chuyện riêng, chuyện cách mạng của dân nước trở thành chuyện tình yêu của lứa đôi.
- Kết câu đối đáp hài hòa với lôi thơ lục bát giàu chất dân gian như thếđã làm cho bài thơ "Việt Bắc" của Tố Hữu có cái
dáng dâp của một bài giao duyên bác học được viết theo lối dân gian. Nó làm cho bài thơ gần gũi với tâm hổn quần chúng
và dễ dàng gia nhập vào mạch văn hóa dân gian. Đổng thời sử dụng ngôn ngữ xưng hô "ta - mình" khá linh hoạt, hình
thành một cuộc đối đáp thực sự, cũng là sự phân thân, tự vấn của người đi (cán bộ cách mạng) để đáp lại tâm chân tình
sâu nặng của người ở lại (đổng bào Việt Bắc), tạo nên cảnh tiễn biệt dùng dằng thương nhớ, tạo độ sâu về tư tưởng cho
bài thơ.
- Thành công của bài thơ "Việt Bắc" còn ở nhiều phương diện khác như: ngôn ngữ, nội dung, hình tượng nhân vật trữ
tình... Nhưng có thể khẳng định chất dân tộc truyền thống đậm đà đã tạo nên sức sống, sức lay động lòng người cho thơ.
Và "Việt Bắc" cùng với những bài thơ khác của Tố Hữu đã khẳng định phong cách độc đáo của ông trong suốt chặng
đường cầm bút của người nghệ sĩ cách mạng: từ hiện đại trở về với cổ điển, trở về với nét dân tộc và truyền thông.
2. Đánh giá:
- Hai ý kiến trên là nhũng đánh giá về giá trị nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật độc đáo của bài thơ "Việt Bắc"-
một đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một tác phẩm xuất sắc của thơ ca Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Nó
nói lên được những vấn đề có ý nghĩa lớn lao của thời đại, khơi được đúng chô sâu thắm nhất trong truyền thống ân tình
thủy chung ngàn đời của dân tộc ta.
- Đây là những ý kiến đánh giá đúng về giá trị của bài thơ "Việt Bắc", giúp người đọc cảm nhận sâu sắc hơn về thi phẩm.
Đây là câu chuyện lớn, là một vân đề tư tưởng được diễn đạt bằng một hình thức nghệ thuật dân tộc. Bài thơ vừa làm sống
dậy những kỉ niệm ân nghĩa, ân tình của đời sống cách mạng và kháng chiến vừa là lời nhắc nhở về sự thủy chung của con
người với con người và với quá khứ cách mạng của dân tộc Việt Nam.
III. Kết bài:
- Đoạn thơ "Việt Bắc" đã tái hiện một thời kháng chiến chống Pháp gian khổ mà anh hùng, nghĩa tình gắn bó thắm thiết
của những người kháng chiến với Việt Bắc, với nhân dân, đất nước. Qua đó, tình cảm thủy chung, truyền thống của dân
tộc được nâng lên thành tình cảm thời đại, đó là ân tình cách mạng - một cội nguồn sức mạnh quan trọng tạo nên thắng lợi
của cách mạng và kháng chiến.
- Khẳng định tài năng cũng như tấm lòng của nhà thơ Tố Hữu, khẳng định sức sống trường tồn của tác phẩm trong lòng
độc giả.
ĐỀ 03:
Nhận định về bài thơ “Việt Bắc”, tác giả Nguyễn Đăng Mạnh viết: “Sức hấp dẫn mạnh nhất của thơ Tố Hữu đối với
công chúng đông đảo là tính dân tộc, tính truyền thống đậm đà và nhuần nhuyễn”. Anh/Chị hãy làm rõ nhận định đó
qua đoạn thơ sau:
“Ta về mình có nhớ ta
…Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”
* Mở bài:
– Giới thiệu vài nét về tác giả Tố Hữu, hoàn cảnh sáng tác bài thơ Việt Bắc
– Nhận định về bài thơ “Việt Bắc”, tác giả Nguyễn Đăng Mạnh viết: “Sức hấp dẫn mạnh nhất của thơ Tố Hữu đối với
công chúng đông đảo là tính dân tộc, tính truyền thống đậm đà và nhuần nhuyễn”. Điều đó được thể hiện qua đoạn thơ
sau:
* Thân bài:
– “Việt Bắc” là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca mà cội nguồn sâu xa của nó là tình cảm quê hương đất nước, là
truyền thống ân nghĩa, đạo lý thuỷ chung của dân tộc.
– Tính dân tộc thể hiện ở mọi yếu tố từ nội dung đến hình thức của sáng tác văn học. Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu trước
hết được xem xét toàn diện từ sự mô tả cuộc sống và đấu tranh độc đáo của dân tộc ta, sự phác họa con người Việt Nam
với truyền thống đạo đức, đặc điểm tâm lý và tái hiện phong cảnh đất nước. Bằng ngôn ngữ nghệ thuật, thể thơ và nhạc
điệu mang đậm màu sắc dân tộc.
+ Về nội dung, dễ dàng nhận thấy trước hết là tính dân tộc biểu hiện trong sự phản ánh màu sắc dân tộc của thiên nhiên,
của đời sống vật chất và tinh thần của xã hội. Nội dung căn bản của tính dân tộc là ở tinh thần dân tộc, tính cách dân tộc
và cái nhìn dân tộc đối với cuộc đời.
+ Về hình thức, tính dân tộc biểu hiện ở chỗ: mỗi nền văn học dân tộc có hệ thống thể loại truyền thống, có các phương
tiện miêu tả, biểu hiện riêng, nhất là có ngôn ngữ dân tộc thể hiện bản sắc riêng trong tư duy và tâm hồn của dân tộc mình.
– Cảm hứng chủ đạo của đoạn thơ là nỗi nhớ về Việt Bắc:
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.”
+ Tác giả sử dụng điệp ngữ hai lần “ta về”. Cùng một thời điểm chia tay nhưng ở trên là hỏi người, ở dưới là giãi bày lòng
mình. Cặp từ “ta”, “mình” được xưng hô như cách đối đáp giao duyên của trai gái trong ca dao, dân ca khiến cho cuộc
chia tay của người cán bộ và Việt Bắc thành cuộc “giã bạn” của lứa đôi. “Ta” là người cán bộ kháng chiến, “mình” là
nhân dân Việt Bắc đang lưu luyến chia tay. Câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta” thể hiện sự lưu luyến của người đi, kẻ ở.
+ “Nhớ hoa” là nhớ thiên nhiên Việt Bắc thơ mộng làm đắm say lòng người. “Nhớ người” là nhớ người dân Việt Bắc từng
cưu mang, gắn bó, đồng cam cộng khổ với cán bộ cách mạng.
Bức tranh mùa đông:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
– Hoa chuối rừng đỏ như son nổi bật trên nền xanh bạt ngàn của lá. Sự “tương phản” của hai màu xanh, đỏ làm cho núi
rừng bớt hoang vu, lạnh lẽo mà trở nên ấm áp hơn. Hoa chuối là bông hoa có thật chứ không mông mênh chóng tàn như
những loài hoa khác.
– Vượt qua mùa đông lạnh giá, con người lên nương, lên rừng. Nghệ thuật đảo ngữ “nắng ánh” (động từ) là các luồng
sáng của nắng chói lên bởi sự phản quang của lưỡi dao rừng thắt trên lưng người dân khi họ đi khai thác lâm, thổ sản. Đó
là cái đẹp rất đời thường, rất giản dị của người lao động.
“Bức tranh mùa xuân:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.”
– Hoa mơ tinh khôi, thanh khiết phủ trắng cả cánh rừng, gợi cảm giác choáng ngợp trước cảnh thơ mộng. Âm điệu mạnh
mẽ của hai chữ trắng rừng bộc lộ cảm giác ngỡ ngàng, hạnh phúc của con người. Một bài thơ khác, Tố Hữu cũng viết rất
hay về mùa xuân của núi rừng Việt Bắc:
“Ôi sáng xuân nay xuân, xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ.
Bác về nín lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ”
(Xuân 41)
– Hình ảnh người lao động chuốt từng sợi giang rất nhịp nhàng, khoan thai. Động từ “chuốt” là làm cho thật nhẵn sợi
giang để đan nón. Hai từ “chuốt” và “từng” gợi tả đức tính cẩn thận, tỉ mỉ, chịu thương chịu khó của người đan nón. Họ
làm ra sản phẩm để phục vụ cho lao động và còn để tặng cán bộ kháng chiến.
Bức tranh mùa hạ:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.”
– Câu thơ sáu chữ xôn xao cả màu sắc lẫn âm thanh. Khi tiếng ve râm ran, cả một rừng phách như hối hả, nhanh chóng
thay màu, cùng đồng loạt “đổ vàng”. Hai động từ “kêu” và “đổ” thể hiện không khí rạo rực rất đặc trưng của mùa hạ. Đổ
vàng là ngả vàng hàng loạt hoặc là cây trút lá vàng. Hai câu thơ gợi nhắc ý thơ của Xuân Diệu:
“Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền.”
(Trích Thơ duyên)
– Hình ảnh người lao động: Cô gái đi hái măng, khơi dậy trong ta những rung động ngọt ngào, sâu lắng. Đọc câu thơ, ta
nghe như có tiếng nhạc ngân nga bởi nghệ thuật gieo vần lưng (gái, hái) và điệp phụ âm đầu “m”(măng, một, mình). Cô
gái say sưa lao động trong một không gian vui tươi, trong trẻo. Sự hiện diện của cô gái càng tăng thêm nét duyên dáng, trẻ
trung cho bức tranh mùa hạ.
Bức tranh mùa thu:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”
– Ánh trăng vàng êm dịu trải dài lên cảnh vật, gợi không khí thanh bình, yên ả. Từ “hòa bình” vừa khẳng định cuộc sống
êm đềm, vừa nói đến sự thanh tĩnh của rừng khuya. Đêm trăng thu huyền ảo nơi núi rừng Việt Bắc thấp thoáng ước mơ
thầm kính về cuộc sống thanh bình êm ả.
– Trên cái nền gợi cảm ấy văng vẳng “tiếng hát ân tình thủy chung” của ai đó nghe thật bâng khuâng, xao xuyến. Tiếng
hát ấy chính là tấm lòng của người Việt Bắc, dù nghèo khó nhưng suốt đời thủy chung với cách mạng.
– Mỗi câu lục bát làm thành một bức tranh trong bộ tứ bình. Mỗi bức tranh có vẻ đẹp riêng hòa kết bên nhau tạo vẻ đẹp
chung. Đó là sự hài hòa giữa âm thanh, màu sắc… Tiếng ve của mùa hè, tiếng hát của đêm thu, màu xanh của rừng già,
sắc đỏ của hoa chuối, trắng tinh khôi của rừng mơ, vàng ửng của hoa phách… Trên cái nền thiên nhiên ấy, hình ảnh con
người hiện lên thật bình dị, thơ mộng trong công việc lao động hàng ngày.
– Nhận xét của tác giả Nguyễn Đăng Mạnh hoàn toàn xác đáng. Trước hết qua đoạn thơ, trên phương diện nội dung ta
thấy, phong cảnh thiên nhiên đất nước mang bản sắc Việt Nam.
+ Thiên nhiên không chỉ có vẻ đẹp tự tại, không chỉ hé mở cho những tâm hồn riêng lẻ mà gắn liền với quê hương đất
nước với đời sống lao động và chiến đấu, với sinh hoạt với những vui buồn của mỗi người Việt Nam. Bức tranh tứ bình
trong bài thơ “Việt Bắc” được xem là một trong những bức họa đẹp nhất của núi rừng con người Việt Bắc.
– Trên phương diện hình thức nghệ thuật, tính dân tộc trong nghệ thuật của thơ Tố Hữu được thể hiện ở những nét chính
sau đây: ngôn ngữ, nhạc điệu, hình ảnh, thể thơ đậm đà tính dân tộc.Lối cấu tứ, kết cấu giàu sắc thái ca dao,thể thơ dân tộc
được vận dụng nhuần nhuyễn và sáng tạo.
+ Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học. Tính dân tộc trong ngôn ngữ được thể hiện một cách đặc sắc trong đoạn thơ
bức tranh tứ bình. Nhà thơ đã vận dụng một cách nhuần nhuyễn và sáng tạo cặp đại từ nhân xưng “mình”, “ta” của ca dao
xưa. Ở đầu đoạn thơ, cặp đại từ “mình”, “ta” được sử dụng một cách sinh động, linh hoạt mang nhiều sắc thái ngữ nghĩa.
Cách xưng hô “mình”, “ta” trong lời đối đáp vốn là cách xưng hô của những đôi bạn tình trong ca dao tình yêu.
+ Việt Bắc được viết theo thể thơ lục bát với lối kết cấu như lời đối đáp của một đôi trai gái lúc xa nhau. Lục bát là thể thơ
dân tộc, nó ăn sâu bắt rễ trong nhân dân mang cốt cách thuần túy Việt Nam. Tố Hữu đã vận dụng điêu luyện sáng tạo thể
thơ lục bát, mang âm điệu dịu dàng duyên dáng của ca dao dân ca. Tiếng hát, tiếng ngâm, lời ru đã chắp cánh cho thơ Tố
Hữu bay đến mọi miền của đất nước. Thể thơ lục bát với những ưu thế của nó đã giúp tác giả chuyển tải được những tình
cảm thiết tha của cả người đi và kẻ ở trong buổi tiễn biệt.
+ Tính dân tộc trong đoạn thơ còn thể hiện ở nhạc điệu, cách gieo vần. Âm điệu thơ của Tố Hữu có đặc trưng riêng đó là
sự ngọt ngào, tha thiết. Nó mượt mà, uyển chuyển, đằm thắm như lời ru của mẹ bằng lối đối đáp ân tình. Tố Hữu rất tài
tình trong việc phối hợp các âm thanh, từ ngữ, tiết tấu, vần điệu của ngôn ngữ tiếng Việt để tạo nên một ngôn ngữ thơ giàu
nhạc điệu, chứa đựng cảm xúc dân tộc.
+ Cũng trong đoạn thơ, ta bắt gặp những hình ảnh quen thuộc, gần gũi với cuộc sống lao động và chiến đấu của nhân dân.
Đó là hình ảnh “hoa mơ”, “hoa chuối”, “rừng xanh”, “đèo”, “trăng rọi hòa bình”,…hết sức nồng ấm và luôn ăn sâu trong
tâm khảm của người Việt.
* Kết bài:
– Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị, vừa cổ điển vừa hiện đại, đoạn thơ trên của Tố Hữu đã làm nổi bật được bức
tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người hòa hợp với nhau tô điểm cho nhau, làm cho
bức tranh trở nên gần gũi thân quen, sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung quyến luyến thiết
tha trong tâm hồn người cán bộ về xuôi.
– Có thể nói, đây là một trong những đoạn thơ đặc sắc nhất, tài hoa nhất thấm đẫm tinh thần dân tộc trong bài “Việt Bắc”.
Nó góp phần làm cho bài thơ xứng đáng là viên ngọc sáng long lanh trong kho tàng văn học hiện đại Việt Nam.