You are on page 1of 24

8 câu đầu vb

Tố Hữu là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại. Thơ Tố Hữu
thể hiện lẽ sống, tình cảm cách mạng của con người Việt Nam hiện đại
nhưng mang đậm chất dân tộc, truyền thống. Tố Hữu có nhiều tập thơ với
nhiều bài thơ có giá trị, trong đó có bài thơ “Việt Bắc”. Đoạn thơ sau là
đoạn thơ tiêu biểu thể hiện tâm tình bịn rịn quyến luyến của người ở lại đối
với người ra đi:

“Mình về mình có nhớ ta


……………
Cầm tay nhau, biết nói gì hôm nay”
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Miền Bắc được giải phóng. Tháng 10 năm
1954, các cơ quan Trung ương Đảng và Nhà nước chuyển từ Việt Bắc
(Thủ đô kháng chiến) về thủ đô Hà Nội. Sự lưu luyến giữa kẻ ở và người
ra đi đã khơi nguồn cảm xúc lớn cho nhà thơ sáng tác “Việt Bắc”.

“Việt Bắc” được viết bằng thể thơ lục bát, dài 150 câu thơ, gồm hai phần.
Phần đầu bài thơ tái hiện một thời gian khổ mà oanh liệt của cách mạng và
kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc nay đã trở thành những kỉ niệm sâu
nặng trong lòng người. Phần sau nói lên sự gắn bó giữa miền ngược và
miền xuôi trong một viễn cảnh hòa bình tươi sáng của đất nước và kết thúc
bằng lời ngợi ca công ơn Bác Hồ và Đảng đối với dân tộc. Bài thơ có kết
cấu đối đáp. Hai nhân vật trữ tình “mình-ta” kẻ ở, người đi bộc lộ tâm trạng
trong buổi chia tay đầy lưu luyến, xúc động. Chuyện ân tình cách mạng
được tác giả khéo léo thể hiện như câu chuyện tình yêu đôi lứa. Nhà thơ
hoá thân vào hai nhân vật trữ tình để bộc lộ tâm tư, tình cảm của mình,
cũng là của những người tham gia kháng chiến. Đoạn thơ gồm 8 câu đầu
thuộc phần một của bài thơ.

Đoạn mở đầu bài thơ là lời đối đáp giữa kẻ ở và người về, lời giã biệt giữa
Việt Bắc với người cán bộ kháng chiến về xuôi. Đoạn thơ thể hiện rõ nét
phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu.

Bốn câu đầu là lời Việt Bắc tỏ bày với người cán bộ chiến sĩ khi chia tay:
“Mình về mình có nhớ ta
…………………………………………..
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Bốn câu thơ gồm hai câu hỏi. Câu hỏi thứ nhất, người Việt Bắc hỏi người
cán bộ : khi

về xuôi thì còn nhớ người Việt Bắc không. Có nhớ thời gian gắn bó đã
“mười lăm năm” và tình cảm là “thiết tha mặn nồng ”hay không. Trong câu
hỏi, cụm từ “mười lăm năm” là chỉ thời gian từ sau khởi nghĩa Bắc Sơn
( 1940) đến khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi (1954). Đó
là khoảng thời gian Việt Bắc là căn cứ cách mạng. Các từ “thiết tha mặn
nồng” là để chỉ mức độ tình cảm, đó là tình cảm tha thiết, sâu nặng. Từ đó
thấy được: ở câu hỏi này, người ở lại đã nhắn nhủ với người về xuôi hãy
nhớ Việt Bắc và cách mạng có thời gian gắn bó lâu dài, có tình cảm tha
thiết, sâu nặng.

Câu hỏi thứ hai, người Việt Bắc hỏi người cán bộ : khi về xuôi, nhìn “cây”
thì có nhớ đến “núi” ở Việt Bắc không, nhìn “sông ”thì có nhớ nguồn nước
ở Việt Bắc không. Trong câu hỏi, cụm từ “nhìn sông nhớ nguồn” gợi nhớ
đến câu tục ngữ “uống nước nhớ nguồn” quen thuộc. Như vậy, trong câu
hỏi này, một cách khéo léo, người ở lại như muốn nói với người về, cũng
là lời khẳng định của nhà thơ: Việt Bắc là cội nguồn cách mạng.

Điều đó thật đúng. Sau khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940, Việt Bắc trở thành
căn cứ địa cách mạng, là nơi Bác Hồ, Trung ương Đảng và mặt trận Việt
Minh lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, dẫn tới thành công của
Cách mạng tháng Tám năm 1945, dẫn tới sự ra đời của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà. Năm 1946, thực dân Pháp trở lại đánh chiếm nước ta.
Hà Nội rơi vào tay giặc. Việt Bắc tiếp tục trở thành căn cứ kháng chiến.
Việt Bắc là “An toàn khu”, đã che chở, bảo vệ các cơ quan Trung ương
Đảng và Chính phủ trong suốt thời kì kháng chiến chống Pháp. Việt Bắc đã
góp phần quan trọng làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ, đưa dân tộc Việt
Nam lên tầm cao của thời đại .Việt Bắc đúng là cội nguồn, là cái nôi của
cách mạng. Vì vậy , kết thúc phần đầu bài thơ “Việt Bắc”, Tố Hữu đã viết
“Mười lăm năm ấy ai quên – Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hoà”.
Cả bốn câu thơ, qua lời ướm hỏi, đã khơi gợi kỉ niệm về một giai đoạn đã
qua, về không gian nguồn cội, nghĩa tình; qua đó thể hiện tâm trạng người
ở lại: lưu luyến , bâng khuâng trong buổi chia tay, nhắn nhủ, tâm tình cùng
người về xuôi về nghĩa tình cách mạng.

Bốn câu tiếp theo là nỗi lòng của người về:

“Tiếng ai tha thiết bên cồn


…………………………………………..
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Ở hai câu trên, người về không trả lời câu hỏi của người ở lại mà đưa ra
câu hỏi nhưng là để bộc lộ tâm trạng. Từ “ai” phiếm chỉ, nhưng ở đây là chỉ
người Việt Bắc. Có thể hiểu hai câu thơ này là: nghe lời hỏi “tha thiết” của
người Việt Bắc, người về xuôi thấy “bâng khuâng” trong dạ, “bồn chồn”
bước đi. Từ láy “bâng khuâng” diễn tả tâm trạng của người cán bộ: nhớ,
buồn vì phải chia tay với Việt Bắc, nơi đã gắn bó suốt “mười lăm năm” với
bao “đắng cay ngọt bùi”. Nhưng người cán bộ cũng hồi hộp, không yên
trong lòng vì sắp được trở về quê hương sau thời gian dài xa cách.

Ở hai câu thơ dưới, “áo chàm” là hình ảnh hoán dụ chỉ người Việt Bắc. Hai
câu thơ đã gợi ra hình ảnh người Việt Bắc và cán bộ cách mạng trong buổi
“phân li”, cầm tay nhau mà không biết nói gì. Đó là hình ảnh kẻ ở người đi
lưu luyến không muốn rời xa. Đó là tâm trạng xúc động không nói nên lời.
Xúc động vì phải chia tay sau “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”.
Người về còn xúc động vì phải rời xa nơi có “Rừng cây núi đá ta cùng
đánh Tây”. Nơi đã từng “chia củ sắn lùi- Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp
cùng”.

Nhìn chung, tám dòng thơ đầu là cảnh chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn
nhưng là cuộc chia tay lớn mang tính chất chính trị trọng đại trong hình
thức cuộc chia tay tình tứ của lứa đôi. Đoạn thơ đậm đà tính dân tộc với
thể thơ lục bát truyền thống được sử dụng nhuần nhuyễn, kết cấu đối đáp
thường thấy trong ca dao được sử dụng sáng tạo, cặp đại từ nhân xưng
mình – ta với sự biến hoá linh hoạt, tác giả tạo dựng được hình tượng kẻ
ở, người đi đại diện cho tình cảm của cả cộng đồng.
Tóm lại, “Việt Bắc” đã tái hiện một thời kháng chiến chống Pháp gian khổ
mà anh hùng, nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những người kháng chiến
với Việt Bắc, với nhân dân, đất nước. Qua đó, tình cảm thuỷ chung truyền
thống của dân tộc được nâng lên thành tình cảm thời đại, đó là ân tình
cách mạng – một cội nguồn sức mạnh quan trọng tạo nên thắng lợi của
cách mạng và kháng chiến. Đoạn thơ nói riêng, bài thơ “Việt Bắc” nói
chung, đúng là một bản tình ca ca ngợi đất nước và tình cảm cách mạng
cao đẹp của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược.

Ptich : mình đi có nhớ những ngày


…tân trào hồng thái mái đình cây đa

Kháng chiến đã đi qua, hòa bình đã lập lại. Tuy nhiên những kí ức về
kháng chiến vẫn còn đó. Đối với thế hệ học sinh chúng ta, hình ảnh cuộc
kháng chiến chống Pháp, Mĩ trường kì của dân tộc chỉ được thể hiện qua
trang sách, bài văn, bài thơ. Dẫu vậy, chúng ta cũng cảm thấy vô cùng xúc
động, biết ơn những dòng văn, dòng thơ ấy, nhờ đó mà chúng ta mới biết
đến cội nguồn của dân tộc, biết đến những năm tháng trường kì kháng
chiến. Và ấn tượng hơn cả chính là tác phẩm Việt Bắc của nhà thơ Tố
Hữu, một tác phẩm xuất sắc đã tái hiện lại những hình ảnh gian khó của
cuộc kháng chiến chống Pháp, ẩn trong đó là tình đồng đội, đồng bào sâu
sắc. Đặc biệt trong khổ 3 của tác phẩm, đây là khổ thơ vô cùng ấn tượng ,
mang nhiều giá trị nội dung, tư tưởng, nghệ thuật đặc sắc, lưu nhiều dấu
ấn xúc động trong trái tim người đọc.

Tố Hữu là nhà thơ Cách mạng, trưởng thành theo cách mạng. Ông cũng là
nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam với rất nhiều tác phẩm viết về
cách mạng, kháng chiến đồ sộ. Trong lời giới thiệu tập thơ của Tố Hữu
xuất bản năm 1946 đã viết: “Lịch trình tiến triển về thơ của Tố Hữu đi song
song với lịch trình tiến triển về tư tưởng và trình độ giác ngộ, về sức hoạt
động của Tố Hữu. Thơ Tố Hữu không phải là một trò tiêu khiển mà là một
khí cụ đấu tranh, một công tác vận động của người Cách mạng. Người Tố
Hữu là một thi sĩ, một chiến sĩ nhưng chúng ta đừng quên cốt cách của nó
là thi sĩ”. Thơ cách mạng chính là tiếng nói không chỉ của nhà thơ mà còn
của đồng bào, của dân tộc, của các chiến sĩ. Nó chính là vũ khí để cổ vũ
tinh thần đấu tranh mạnh mẽ dân tộc.

Trong tuyển tập thơ ca năm 1938 – 1963 còn có đoạn ghi: “Thơ Tố Hữu là
thơ một con người biết trân trọng lấy đời mình, muốn làm cho đời mình trở
nên hữu ích…Thơ anh là lối thơ lấy cái đường đi toàn đời, lấy cái hơi toàn
tập, lấy cái tứ toàn bài là chính…Anh là một con chim vụ ở đường bay hơn
là bộ lông, bộ cánh, tuy vẫn là lông cánh đẹp”. Qua đây cho thấy, những
tác phẩm thơ ca mà Tố Hữu đã viết để lại ấn tượng rất lớn trong diễn đàn
văn học nói riêng và trong trái tim người đọc nói chung. Ấn tượng hơn cả
chính là bài thơ Việt Bắc được viết trong bối cảnh vô cùng đặc biệt. Đó là
khi các cán bộ đầu não trung ương phải rời Việt Bắc để trở về xuôi tiếp tục
nhiệm vụ. Bài thơ viết trong hoàn cảnh chia ly nên thấm đẫm tình cảm sự
thương nhớ và không nỡ rời xa. Điều đó được thể hiện rất mạnh trong khổ
thơ thứ 3 của tác phẩm.

Nếu khổ đầu và khổ 2 bài thơ nói lên tâm trạng lưu luyến bịn rịn chia tay
của kẻ ở và người đi, thì sang khổ thứ 3, tâm trạng ấy càng được thể hiện
rõ ràng hơn, ẩn sau đó là câu hỏi tu từ:

Mình đi, có nhớ những ngày


Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Thiên nhiên và con người được tác giả khéo léo sử dụng trong từng câu
thơ. Có lẽ, chỉ khi con người được gắn liền với thiên nhiên thì hình tượng
mới trở nên đẹp và ấn tượng hơn. Một thực tế cho thấy con người không
thể tách rời thiên nhiên. Chính thiên nhiên xung quanh ta mỗi ngày lại là
những kỉ niệm không thể quên, luôn tồn tại trong tâm trí ta. Nỗi nhớ mà ta
nhắc đến luôn có những cảnh sắc thiên nhiên mà chúng ta đã trải qua. Có
con người, có thiên nhiên nên kỉ niệm càng nhớ, càng da diết. Trong hai
câu thơ trên, tác giả hỏi: “Mình đi có nhớ những ngày/ Mưa nguồn suối lũ,
những mây cùng mù?”

Đây chính là câu hỏi tu từ, hỏi nhưng đã trả lời. Mình ở đây chính là các
chiến sĩ, bộ đội cụ hồ đang được đồng bào Việt Bắc hỏi. Đồng bào hỏi các
đồng chí khi rời xa Việt Bắc có nhớ những người bên nhau gian khó, vượt
núi băng rừng, dầm mưa lội suối, sớm hôm bên nhau? Đây là những kỉ
niệm gắn bó bên nhau những tháng ngày gian khó không thể nào quên.
Đồng bào vẫn luôn nhớ những tháng ngày đó, cảm thấy lưu luyến khi phải
rời xa cán bộ, vậy hỏi cán bộ có nhớ hay không?

Qua câu thơ không chỉ cảm nhận được tình cảm của người đi và người ở
lại thắm thiết nghĩa tình thế nào, họ đã trải qua bao gian khó thế nào. Chỉ
có khi cùng nhau vượt qua gian khó mới có thể trân trọng, thương yêu
nhau da diết thật lòng như thế. Ngoài ra, câu thơ cũng tái hiện hình ảnh
thiên nhiên khắc nghiệt sông núi hiểm trở, mây mù. Cho thấy cuộc sống
của cán bộ cũng như đồng bào nơi đây rất vất vả.

Mình về, có nhớ chiến khu


Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Câu thơ rất thực và đời. Nó thực vì cuộc sống của đồng bào cùng cán bộ ở
đây rất gian khó, ăn cơm chấm muối nhưng vẫn luôn một lòng vì tổ quốc
quyết sinh, sẵn sàng chiến đấu, chung thủy sắt son với đảng, với cách
mạng. Tố Hữu không cần phải ví von những hình ảnh cao siêu gì cả, tất cả
vô cùng dung dị, gần gũi thực tế. Đó là cuộc sống mà ông cũng như đồng
đội, đồng bào Việt Bắc đã trải qua và nó đã ghi dấu ấn vô cùng ấn tượng
trong trái tim. Cuộc sống gian khó đến như thế, chỉ có cơm và muối nhưng
không bao giờ chùn bước trước kẻ thù, mối thù dân tộc luôn đè lên vai, trái
tim luôn căng tràn ý chí chiến đấu, lúc nào cũng kề vai sát cánh bên nhau
một lòng căm thù giặc sâu sắc.

Cách dùng từ của Tố Hữu thật hay, mang tính trừu tượng “mối thù nặng
vai” nhưng lại thể hiện được sức nặng của sự căm thù, sức nặng của tội
ác của giặc, đây chính là mối thù không đội trời chung.

Mình về, rừng núi nhớ ai


Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Trám và măng là hai “đặc sản” của núi rừng Việt bắc chiêu đãi các chiến
sĩ, các cán bộ. Hai món ăn thường xuất hiện trong bữa cơm của họ, vậy
mà giờ đây khi cán bộ đã về xuôi, trám đành để rụng, măng đành để già.
Câu thơ nghe mới buồn da diết không nỡ rời xa biết bao. Đồng bào nhìn
cảnh vật thiên nhiên lại nhớ đến cán bộ, nhớ những tháng ngày gian khổ
cùng nhau. Bởi mới có câu: “Khi ta đến chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất đã
hóa tâm hồn”. Có lẽ đây không chỉ là tâm trạng lưu luyến của người dân
Việt Bắc mà cũng là sự lưu luyến của những người chiến sĩ sắp rời xa quê
hương thứ 2. Hình ảnh trám bùi, măng mai có lẽ là hình ảnh họ cũng
không bao giờ quên được. Hình ảnh núi rừng Việt Bắc đã gắn bó 10 năm
sẽ mãi lưu trong trái tim họ.

Mình đi, có nhớ những nhà


Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Câu thơ thể hiện cuộc sống người dân Việt bắc rất vất vả, đơn sơ, hắt hiu.
Cuộc sống của họ là thế nhưng tấm lòng của họ thì “đậm đà lòng son”. Họ
yêu quý cán bộ như yêu quý người thân trong gia đình, các mẹ yêu quý
cán bộ như chính con đẻ của mình: “Bao bà cụ từ tâm như mẹ/ Yêu quý
con như đẻ con ra”. Được sống và bao bọc trong tình yêu thương như thế,
thì khi rời xa những chiến sĩ của chúng ta sao không khỏi day dứt nhớ
thương. Có lẽ, những người “mẹ Việt Bắc” cũng đang lưu luyến, nhớ
thương những đứa con mình đã yêu thương, cưu mang suốt 10 năm qua.

Mình về, còn nhớ núi non


Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
Bốn câu thơ cho thấy vai trò to lớn của Việt Bắc trong kháng chiến chống
Pháp. Và trong cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng tháng 8 trước đó. Việt
Bắc là nơi đã diễn ra những sự kiện chính trị quan trọng, tuy lực lượng
cách mạng khi đó còn non trẻ nhưng với tinh thần quyết tử cho tổ quốc
quyết sinh, một lòng chống giặc đã tạo nên những kì tích, thắng lợi vẻ vang
và góp phần to lớn và cuộc kháng chiến cả nước. Những địa danh mà Tố
Hữu liệt kê trong bài như: Tân Trào, Hồng Thái chính là những trận chiến
lịch sử oanh liệt, hào hùng và rất đáng tự hào.

Khi mà thời đó, các chiến sĩ, đồng bào ta còn rất gian khổ trong cuộc sống
vậy mà tinh thần chiến đấu chưa bao giờ nguôi. Kẻ thù thua chúng ta chính
là thua về cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Chúng thua chúng ta trên mọi mặt
trận. Cuộc kháng chiến của chúng là là chính nghĩa còn chúng là phi nghĩa.
Chúng ta chiến thắng về tinh thần, đoàn kết, nhất trí một lòng. Dù gian khó,
vất vả thế nào nhưng cũng không thể nào dập tắt ý chí chống giặc của
nhân dân ta.
Khổ 3 chỉ với 12 câu thơ lục bát nhưng đã tái hiện được những gian khó
vất vả mà cán bộ, chiến sĩ cũng như đồng bào Việt Bắc đã trải qua. Đồng
thời cũng thể hiện tinh thần đoàn kết, gắn bó, yêu thương một nhà, ý chí
quyết tâm chống giặc cao độ. Và thành quả vẻ vang chính là những chiến
thắng trên mọi mặt trận. Rời xa Việt Bắc chính là rời xa quê hương thứ 2
mà 10 năm gắn bó, có lẽ cả đồng bào, đồng chí không thể quên những
tháng ngày gian khó bên nhau. Nhưng chắc chắn họ sẽ luôn tự hào vì
được sống và cống hiến, chiến đấu hi sinh vì sự nghiệp vẻ vang của dân
tộc. Thật tự hào thay và cảm ơn nhà thơ Tố Hữu đã ghi lại những bằng
chính lịch sử hào hùng, để thế hệ sau có thể hiểu và luôn cố gắng học tập,
góp phần nhỏ công sức vào công cuộc thay đổi, phát triển đất nước.

Ptich khổ 4 vb

Chế Lan Viên đã từng khẳng định Thơ cần có hình cho người ta thấy có ý
cho người ta nghĩ và cần có tình để rung động trái tim. bắt rễ sâu xa từ
hiện thực đời sống chính trị tưởng như không hề lãng mạn, chất thơ bay
bổng trong tác phẩm của Tố Hữu đã làm rung động lòng người bởi những
hình ảnh thân thương gần gũi và triết lý về con người và cuộc đời bởi tình
người thắm thiết đậm đà không phôi pha theo thời gian. đoạn trích Việt
Bắc là một trong những minh chứng tiêu biểu cho khả năng lay động trái
tim con người tiêu biểu cho tài năng thơ phong cách thơ Tố Hữu một thi sĩ
được mệnh danh là lá cờ đầu thơ ca cách mạng Việt Nam. Và đoạn thơ
thứ tư là một trong những khúc ca của nỗi nhớ đã để lại dấu ấn trong lòng
bao thế hệ bạn đọc.

Đoạn thơ tiếp nối những lời nhắn nhủ, tâm tình của người ở lại trao cho
người ra đi.

"Ta với mình mình với ta


Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu..."
Dường như thấu tỏ nỗi băn khoăn do dự đoán có nhớ không của người ở
lại mình ra đi đã khẳng định chắc chắn sắt son câu trả lời vang lên như một
lời thề. Cặp đại từ ta mình hòa quyện quấn quýt với lời thề thủy chung gắn
bó. "Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh", không bao giờ thay đổi, không
bao giờ vơi cạn như nước nơi thượng nguồn. Câu thơ "nguồn bao nhiêu
nước nghĩa tình bấy nhiêu" vừa là hình ảnh so sánh đậm màu sắc của văn
học dân gian, giản dị mà sâu sắc, lại vừa như lời đồng vọng, nguyện thề
trước lời nhắn nhủ thiết tha của người ở "...nhìn sông nhớ nguồn". Cuộc
chia tay của người dân Việt Bắc và con người kháng chiến cũng đầy bịn
rịn, chất chứa nhiều nhớ thương nhưng không muốn đã đâm lễ khi những
cuộc chia tay trong văn học cổ:

"Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy


Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai"
Có lẽ đây là cuộc chia tay của những con người vừa làm nên chiến thắng,
đó là cuộc chia tay trong yêu thương và cả trong niềm vui niềm tin tưởng
của ngày mai gặp lại.

Theo sau lời khẳng định thủy chung sắt son, nỗi nhớ cảnh là người Việt
Bắc của về trong tâm trí người ra đi.

“Nhớ gì như nhớ người yêu


Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây, ta đó đắng cay ngọt bùi…”
Theo Chế Lan Viên, thơ Tố Hữu nói các vấn đề bằng trái tim của một
người đầy say đắm. Ở đây nỗi nhớ Việt Bắc được so sánh như nỗi "nhớ
người yêu" một nỗi nhớ cháy bỏng, nồng nàn, thiết tha, mãnh liệt. Tình yêu
là nỗi nhớ, nhất là khi về cách xa thì nỗi nhớ càng cồn cào da diết khôn
nguôi. Dường như nỗi nhớ của người cách mạng từ thiên nhiên và con
người Việt Bắc có lẽ cũng không kém phần tha thiết như thế. Tố Hữu đã
lấy thước đo giá trị của nỗi nhớ trong tình yêu để cắt nghĩa, lý giải cho tình
cảm của cán bộ đối với nhân dân. Không phải là nỗi nhớ của ý thức , của
nghĩa vụ mà nhớ bằng cả trái tim yêu thương chân thành và da diết. Câu
thơ “Trăng lên đầu núi…” như được phân ra làm 2 nửa thời gian: vế đầu là
hình ảnh gợi tả đêm trăng hò hẹn của tình yêu; vế sau là hình ảnh gợi
không gian của buổi chiều lao động trên nương rẫy. Thời gian như chảy
ngược - nỗi nhớ như đi từ gần tới xa, thăm thẳm trong quá khứ. Tình yêu
gắn liền với lao động; lao động nảy sinh ra tình yêu . Câu thơ cùng lúc thể
hiện hai không gian của tình yêu và lao động, tạo nên sự hài hoà giữa
nghĩa vụ và tình cảm. Vì vậy cảnh và người phút chốc trở lại đầy vơi trong
tâm trí của người ra đi.

Theo mỗi điệp khúc "nhớ" là một nét đẹp của thiên nhiên Việt Bắc, vừa
hiện thực, vừa thơ mộng, thi vị trong những không gian và thời gian khác
nhau. Một vầng trăng thấp thoáng nơi đầu núi, một ánh nắng chiếu lấp ló
lương, những bản làng bồng bềnh trong khói, trong sương, những rừng
nứa bụi tre những núi đèo, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê để vơi trong nỗi
nhớ. Bằng phép liệt kê làm cho những kỷ niệm khơi ra tầng tầng lớp lớp,
hết hình ảnh này, đến hình ảnh khác. Những hình ảnh “rừng nứa bờ tre”
chính là nơi hẹn hò, gặp gỡ cái thở ban đầu ,lúc mới quen nhau. Đây cũng
là những danh từ chung mô tả đặc điểm của không gian Việt Bắc với bao
nét đẹp mơ mộng. Còn “Ngòi Thia , sông Đáy , suối Lê … là những địa
danh lịch sử, đã từng khắc ghi trong lịch sử Cách mạng - nơi đã diễn ra
nhiều chiến công oanh liệt. Sương khói hư vô mờ mịt mơ hồ. Nhưng đó là
động thái chuẩn bị trong một thứ ánh sáng đặc biệt hiện ra "sớm khuya
bếp lửa người thương đi về". sự đối lập giữa cái lạnh và cấm cái trừu
tượng là cụ thể đã làm nổi bật tình người ấm áp. Tấm lòng của đồng bào
với cách mạng đáng quý đến nhường nào, vì thế mà thương, mà nhớ,
thương nhớ đến xót xa. Nhịp thơ mượt mà êm ái như người đọc vào
những kỉ niệm bâng khuâng. đó là những hình ảnh thân thuộc gần gũi của
thiên nhiên và con người mang đậm chất Việt Bắc. Ở đây thiên nhiên Việt
Bắc không còn ảm đạm "những mây cùng mù" nữa mà ấm áp, tươi vui.
Thiên nhiên, cuộc sống hiện lên vừa thực, vừa mộng, vừa đơn sơ của thị
vị, gợi rõ nét riêng biệt độc đáo khác hẳn với bao miền quê đất Việt. Chỉ có
những con người sống gắn bó máu thịt với Việt Bắc để có cái nhìn toàn
diện của nỗi nhớ da diết da và cảm nhận sâu sắc đến thế. Như Chế Lan
Viên, một người con cũng từng gắn bó với Việt Bắc đã viết:
"Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn".
Trên phông nền thiên nhiên Việt Bắc bảo làn khói sương hình ảnh con
người thoáng qua nhưng đem lại hơi ấm và màu sắc rực rỡ cho cảnh thiên
nhiên. Trong dòng ký ức đứt, nối, mở tỏ, những dòng thơ sau hình ảnh con
người Việt Bắc hiện lên thật thân thương mộc mạc gắn liền với kỷ niệm
của một thời không thể nào quên. Việt Bắc để trở thành người yêu vì
thương của tác giả và của những con người kháng chiến.

"Ta đi ta nhớ những ngày


Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi".
Cuộc sống của đồng bào Việt Bắc đi nhiều khó nhưng đầy ắp nghĩa tình.
Trong ký ức của người kháng chiến những tháng ngày khó khăn thiếu thốn
trở nên thật ấm áp biết bao. Dù gian nan, dù khổ cực, mình với ta vẫn gắn
bó đồng hành bên nhau.

Việt Bắc ru hồn người đọc bằng giai điệu ngọt ngào, tha thiết của nỗi nhớ,
sự cân đối nhịp nhàng trong từng lời thơ, bên cạnh những hình ảnh gần
gũi mà gợi cảm. Sự kết hợp hài hòa ấy đã đánh thức dậy trong lòng người
ý thức trách nhiệm với dân tộc, tình quân dân keo sơn gắn bó, đạo lý uống
nước nhớ nguồn, tự hào về truyền thống anh hùng bất khuất, ân nghĩa,
thủy chung của con người cách mạng. Việt Bắc với tiếng thơ tha thiết, điệu
thơ êm ái là khúc ca trữ tình nồng nàn sôi nổi bậc nhất trong thơ ca cách
mạng Việt Nam hiện đại.

Ptich nhớ gì như nhớ người yêu… suối xa

Khi ta ở chỉ là nơi đất ở


Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn"

Phải chăng mỗi một vùng đất ta đặt chân đến đều là những kỉ niệm đáng nhớ bởi
thiên nhiên, cảnh vật và con người nơi đây. Với nhà thơ Tố Hữu khi đặt chân đến với
núi rừng Việt Bắc cũng vậy, ông bị ấn tượng bởi thiên nhiên và con người nơi đây
cho nên đã gửi gắm một tình yêu sâu sắc đối với Tây Bắc. Nỗi nhớ về thiên nhiên, về
con người Việt Bắc Bắc của cán bộ về xuôi được nhà thơ Tố Hữu phác họa lại qua
khổ thơ thứ 5 trong bài thơ "Việt Bắc" một cách đầy tinh tế:
Tố Hữu là nhà văn tiêu biểu của thơ ca cách mạng, ông có những đóng góp và cống
hiến lớn cho văn học và cách mạng Việt Nam. Thơ của ông luôn song hành mật thiết
với từng chặng đường của cách mạng. Bài thơ Việt Bắc được sáng tác vào tháng 7
năm 1954 và được đánh giá là một trong những bài thơ xuất sắc nhất của thơ ca thời
kì kháng chiến chống Pháp. Khổ thơ thứ 5 của bài thơ "Việt Bắc" là tâm tình của
người về xuôi nhớ tới những ân tình cách mạng.

Nỗi nhớ núi rừng Việt Bắc của người về xuôi được thể hiện ở 6 câu thơ đầu khổ thơ:

"Nhớ gì như nhớ người yêu


Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy".

Nhà thơ sử dụng cách nói quen thuộc trong ca dao để diễn tả về nỗi nhớ Việt Bắc.
Cách diễn tả nỗi nhớ đặt trong sự so sánh với nỗi nhớ người yêu thật độc đáo xuất
phát từ tình cảm cách mạng để nói tới những ân tình cách mạng. Nỗi nhớ ấy thật
khó tả bởi vì "Nhớ ai bổi hồi bồi hồi/ Như đứng đống lửa, như ngồi đống than". Từ
đó có thể thấy, nỗi nhớ của người về xuôi với Việt Bắc vô cùng da diết và cháy bỏng.
Nhà thơ đã "phải lòng đất nước của mình" cho nên tình yêu đất nước được ông ví
như tình yêu đôi lứa đầy cháy bỏng và nhiệt huyết của tuổi trẻ. Nỗi nhớ ấy còn bao
trùm lên toàn bộ cảnh vật, lên cả thời gian và không gian qua hình ảnh trăng, qua
từng bản khói, qua hình ảnh bếp lửa. Trăng vốn là hình ảnh quen thuộc trong thơ ca
cách mạng bởi trăng là người bạn tâm tình của người chiến sĩ cách mạng. Trong bài
thơ "Đồng chí" ta cũng bắt gặp hình ảnh "Đầu súng trăng treo" trong đêm chờ giặc
tới của nhà thơ Chính Hữu. Nhưng trong "Việt Bắc" trăng lại gợi ra sự thơ mộng của
núi rừng bởi đây chính là thời điểm hẹn hò thích hợp của đôi lứa. Nỗi nhớ về Việt Bắc
lan tỏa ra cả lưng nương bởi tình yêu đối với con người lao động miệt mài của người
về xuôi. Tình cảm ấy được khẳng định bởi "sớm khuya bếp lửa" gắn liền với tình cảm
yêu mến của "người thương đi về". Không chỉ vậy, nỗi nhớ về Việt Bắc còn được mở
rộng theo vùng không gian trong khu căn cứ Việt Bắc với "Ngòi Thia, sông Đáy, suối
Lê vơi đầy".

Không chỉ nhớ về thiên nhiên, về con người Việt Bắc mà người về xuôi còn nhớ tới
những kỉ niệm ở Việt Bắc cùng đồng đội:

"Ta đi ta nhớ những ngày


Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
...
Chày đêm nện cối đều đều suối xa..."

Có lẽ những năm tháng kháng chiến đã để lại trong lòng người cán bộ về xuôi một
kỉ niệm không bao giờ phai mờ. Hoàn cảnh khó khăn của cuộc kháng chiến khiến họ
phải chia nhau từng củ sắn, bát cơm, mảnh chăn nhỏ. Đó là những ngày tháng đồng
cam cộng khổ vì một mục tiêu cao cả đó là giải phóng đất nước thoát khỏi ách
thống trị của thực dân Pháp. Thời gian chung sống với đồng bào Việt Bắc đã khiến
cho người về xuôi nhớ cả đến hình ảnh người mẹ hiền từ, tần tảo sớm hôm "địu con
lên rẫy bẻ từng bắp ngô" mà không quản gian lao khó nhọc để nuôi sống gia đình
và tiếp sức cho cán bộ kháng chiến. Những tình thương yêu cao cả và vô cùng đẹp
đẽ đó đã khiến cho người về xuôi không khỏi xót thương và cảm phục trong lòng.
Những tiếng đánh vẫn ngọng nghịu của lớp học "i tờ" cũng khiến cho người về xuôi
phải bồi hồi khi nhớ về Việt Bắc bởi đó là niềm vui, niềm tự hào của đồng bào miền
núi khi được học chữ của cách mạng, của Bác Hồ. Nỗi nhớ của người về xuôi còn
hướng về những năm tháng cơ quan với tiếng hát say sưa yêu đời hòa chung cùng
tiết tấu tiếng nhạc "chày đêm nện cối đều đều suối xa".

Khổ thơ đã thể hiện nỗi nhớ của người cán bộ về xuôi với cảnh vật và con người và
những kỉ niệm cùng với đồng đội khi còn ở Việt Bắc. Nhịp điệu hài hòa, uyển chuyển,
ngôn ngữ giản dị, mộc mạc nhưng đi sâu vào tâm trí người đọc, thể hiện tài năng
sáng tác của Tố Hữu. Bởi vậy mà bài thơ "Việt Bắc" được đánh giá là một bản tình ca
và một khúc hùng ca hoành tráng.

Qua khổ thơ thứ 5 của bài thơ "Việt Bắc" ta thấy được nỗi nhớ da diết của người về
xuôi với Việt Bắc. Đó là tình cảm da diết, chân tình với cách mạng của những tấm
lòng yêu nước. Đoạn thơ đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc bởi những
ngôn từ nhẹ nhàng, da diết có chút hóm hỉnh của nhà thơ Nguyễn Tuân.

Pitch bức tranh tứ bình : ta về mk có nhớ ta… thuỷ chung

Pauxtôpxki đã từng nói “Niềm vui của nhà thơ chân chính là niềm vui của
người mở đường đến với cái đẹp”. Quả đúng như thế, trong bài thơ Việt
Bắc, Tố Hữu đã mở đường đến với cái đẹp của bộ tranh tứ bình và cũng là
mở đường đi tới tình yêu quê hương đất nước:

Ta về mình có nhớ ta

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Tố Hữu là nhà thơ của lý tưởng cộng sản, lá cờ đầu của nền thơ ca cách
mạng Việt Nam. Mỗi thời kỳ lịch sử đi qua, Tố Hữu đều để lại dấu ấn riêng
mang đậm hồn thơ trữ tình chính trị: Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận,
Máu và hoa… Trong đó, “Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng và
thơ ca chống Pháp nói chung. Bài thơ được làm vào tháng 10.1954, khi
Trung ương Đảng và Chính phủ cùng cán bộ chiến sĩ rời chiến khu để về
tiếp quản thủ đô Hà Nội. Lấy cảm hứng từ không khí của buổi chia tay lịch
sử ấy, Tố Hữu đã xúc động viết nên bài thơ này. Đoạn thơ ta sắp phân tích
sau đây là đoạn thơ hay nhất của bài thơ Việt Bắc với cảnh đẹp bốn mùa
Xuân – Hạ Thu – Đông.

Hai câu thơ mở đầu mang cảm xúc chủ đạo của toàn đoạn thơ. Đó là cảm
xúc nhớ nhung không nguôi về Việt Bắc:

Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Đoạn thơ mở đầu bằng một câu hỏi tu từ bâng khuâng thấm vào hồn
người và cảnh vật. Vẫn là cách xưng hô “Ta – Mình” ngọt ngào trong ca
dao gợi nhiều cảm xúc. “Ta” chỉ người đi, “mình” chỉ người ở lại. Điệp từ
“ta” được nhắc lại bốn lần cùng với từ “hoa” là âm “a” (âm mở) khiến cho
dòng cảm xúc của người đi như bỗng trở nên mênh mang sâu lắng hơn.
Người về mang theo nỗi nhớ “những hoa cùng người”. “Hoa” là vẻ đẹp của
thiên nhiên Việt Bắc còn “người” là vẻ đẹp của con người lao động Việt
Bắc. Bốn cặp câu tiếp theo, câu lục nhắc đến hoa thì câu bát lại nói đến
người. Hoa và người đều hài hòa trong những câu thơ đầy lãng mạn, trẻ
trung của hồn thơ Tố Hữu. Nói “nhớ những hoa cùng người” phải chăng là
nỗi nhớ trong nỗi niềm bâng khuâng, da diết cứ tuôn chảy khắp thiên
nhiên, núi rừng chiến khu.

Bức tranh mùa đông mở ra thiên nhiên núi rừng Việt Bắc đầy sức sống:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi


Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Tố Hữu viết bài thơ Việt Bắc vào tháng 10.1954, khi ấy miền Bắc nước ta
đang vào mùa đông. Cho nên, mùa Đông là mùa trong hiện tại, cũng là
mùa mở ra bộ tranh tứ bình. Cũng có ý kiến cho rằng, sở dĩ mùa đông là
mùa bắt đầu trong đoạn thơ này là vì Tố Hữu lấy cảm hứng từ thắng lợi
của chiến dịch Việt Bắc thu đông.
Nhắc đến mùa đông người ta thường nghĩ đến cảnh rét mướt, lụi tàn, lòng
người thì cô đơn, tiết trời thì u ám. Nhưng đến với mùa đông trong thơ Tố
Hữu thì ngược lại, thiên nhiên ở đây lại giàu sức sống và ấm áp. Hai màu
sắc đối lập mà hài hòa “xanh” – “đỏ tươi” mang đến bao cảm xúc. Màu
xanh là màu của sự sống, màu của cánh rừng mùa đông tươi tốt chứ
không hề tàn lụi. Hoa chuối “đỏ tươi” nở rộ lung linh dưới ánh mặt trời.
Trong gam màu hội họa, màu đỏ là gam màu nóng, cho nên, chính nó
cũng đã xua đi gam màu lạnh lẽo của rừng xanh mang đến sự ấm áp cho
bức tranh thiên nhiên.

Bức tranh màu đông càng sống động hơn bởi sự xuất hiện của con người,
ấy là con người của vùng chiến khu lên núi làm nương, phát rẫy sản xuất
lương thực cung cấp cho kháng chiến. Con người tỏa sáng trong từng câu
chữ “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.. Ở đây nhà thơ không khắc họa
gương mặt mà chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt
trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ở ngang lưng. Ở đây câu thơ vừa mang
ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh.
Con người như một điểm hội tụ của ánh sáng. Con người ấy cũng đã xuất
hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất – “đèo cao”. Con người đang chiếm
lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng, tự do, làm chủ lao động, làm chủ tình
thế với đôi cánh tay như hai cánh bay lên:

“Núi rừng đây là của chúng ta


Trời xanh đây là của chúng ta”
(Nguyễn Đình Thi).
Đấy là cái tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và vững chãi. Có thể nói, giữa
hoang sơ tráng lệ, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang. Con
người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.

Bức tranh mùa xuân lan tỏa và bừng sáng một sức sống hoang dại và
mãnh liệt của hoa mơ:

Ngày xuân mơ nở trắng rừng


Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Nếu như phương Nam nắng gió nổi tiếng với sắc vàng của hoa Mai, Hà
Nội với màu đỏ của hoa đào thì Việt Bắc có đặc trưng riêng bởi màu trắng
của hoa mơ. Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong
trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng. Động từ “nở” nằm ở giữa câu
làm sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống. Nở trắng cả thời
gian “ngày xuân”, nở trắng cả không gian “trắng rừng”. Như vậy là màu
trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả
khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. Đây
không phải là lần đầu tiên Tố Hữu viết về màu trắng ấy, năm 1941 Việt Bắc
cũng đón Bác Hồ trong màu sắc hoa mơ:

Ôi sáng xuân nay xuân 41


Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ
Dưới bóng hoa mơ dịu mát, thấp thoáng hình ảnh con người lao động với
hoạt động “chuốt từng sợi giang”. Người Việt Bắc đẹp tự nhiên trong
những công việc hằng ngày, đó là công việc đan nón bằng thủ công, một
nghề truyền thống của Việt Bắc. Từ “chuốt” và hình ảnh thơ đã nói lên
được bàn tay và phẩm chất của con người lao động: cần mẫn, tỉ mẩn,
khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút đó cũng chính là phẩm chất tần
tảo của con người Việt Bắc tạo nên nét đáng yêu của con người làm chủ
nơi đây.

Bức tranh mùa hạ Việt Bắc óng vàng tựa như một bức tranh sơn mài vừa
đậm chất cổ điển vừa mang những đường nét hiện đại:

Ve kêu rừng phách đổ vàng


Nhớ cô em gái hái măng một mình
Câu thơ thứ nhất có hai hình ảnh: tiếng ve và hoa phách. Tiếng ve là đặc
trưng của mùa hạ. Hoa phách là đặc trưng của mùa hè Việt Bắc. Những
ngày cuối xuân, cả rừng phách còn là màu xanh bạt ngàn, những nụ hoa
còn náu kín trong kẽ lá, khi bản đàn ve vừa dạo khúc đầu tiên của mùa hè
thì những nụ hoa nhất tề đồng loạt trổ bông, cả rừng phách lai láng sắc
vàng. Đây là một bức tranh sơn mài được vẽ lên bằng hoài niệm, nên lung
linh ánh sáng, màu sắc và rộn rã âm thanh. Đặc biệt, câu thơ tựa như một
bức sơn mài càng ngắm càng đẹp, càng ngắm càng say mê. Tranh mùa
hè mà cứ cảm tưởng như màu vàng trong tranh của những danh họa
phương Tây vẽ về mùa thu.
Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo
chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội: “Nhớ cô em gái
hái măng một mình”. Trong thơ xưa, người phụ nữ miền sơn cước thường
xuất hiện với những thân phận đau buồn hay sự cô đơn, hiu hắt:

Cô hái mơ ơi! Cô gái ơi!


Chẳng trả lời tôi lấy một lời
Cứ lặng mà đi rồi khuất bóng
Rừng mơ hiu hắt, lá mơ rơi
(Nguyễn Bính)
Trong thơ Tố Hữu, người em xuất hiện rất trữ tình, thơ mộng, gần gũi thân
thương. Hai chữ “một mình” mà vẫn không gợi lên cái cô đơn hiu hắt bởi
cô đang làm bạn với thiên nhiên tươi đẹp, đang làm chủ lao động, làm chủ
tự do. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu khó chịu thương của cô
gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm cảm thông, trân trọng của tác giả.
Ba chữ “măng – một – mình” đi liền với nhau tạo nên nhạc tính làm giọng
thơ trở nên da diết bâng khuâng. Người đi rồi mà dường như hồn còn lạc
giữa bạt ngàn hoa phách. Và dường như, nhớ em, anh không chỉ nhớ
trong quá khứ, trong hiện tại mà còn nhớ em trong cả tương lai nữa, vì mai
về rồi lại thương em lẻ loi đơn chiếc một mình.

Khép lại bộ tranh tứ bình là bức tranh mùa thu cùng tiếng hát chia tay giã
bạn để lại âm vang nghĩa tình kháng chiến:

“Rừng thu trăng rọi hòa bình


Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Có ai đó đã nói rằng: núi rừng Việt Bắc nhiều sắc hoa nhưng có loài hoa lạ
“Hoa trăng”. Trăng đẹp nhất là trăng mùa thu. Có lẽ chính vì vậy mà bức
tranh thiên nhiên và con người càng trở nên gần gũi, thân thương hơn bao
giờ hết. Chữ “rọi” rất hay, nó diễn tả được ánh trăng tràn ngập cả không
gian bao la. Đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình rọi sáng niềm vui lên
từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc.

Giữa bao la ánh trăng vàng dịu mát ấy lại vang lên tiếng hát. Đó là tiếng
hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân
tình. Đây cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc của núi rừng của tình cảm
mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng:
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông, còn nhớ bản làng
Sáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?
Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào một số thủ pháp nghệ thuật: thể
thơ lục bát với âm điệu nhẹ nhàng tình cảm, mang phong vị ca dao, dân ca
đậm hồn dân tộc. Cách miêu tả giàu hình ảnh, sử dụng nhiều động từ và
hình ảnh giàu tính biểu cảm. Phối màu sống động. Điệp từ nhớ biến hóa
linh hoạt để lại trong lòng bao dư vị khó quên: nhớ ta – ta nhớ những hoa
cùng người; nhớ người đan nón – nhớ cô em gái – nhớ ai tiếng hát. Tất cả
đã làm nên một đoạn thơ giàu tính tạo hình về thiên nhiên và con người
Việt Bắc, mở rộng hơn nữa, đó là tình yêu quê hương đất nước sâu nặng
trong tâm hồn của nhà thơ cách mạng – Tố Hữu.

Vâng! Bộ tranh tứ bình Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của
núi rừng gợi cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa của
tình yêu quê hương đất nước. Nói về lòng yêu nước, nhà văn I-li-a Ê-ren-
bua của nước Nga từng nói: Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào đại
trường giang Von-ga, con sông Von-ga đi ra biển. Lòng yêu nhà, yêu làng
xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc. Đọc bộ tranh tứ bình của
Việt Bắc lại càng yêu thương thấm thía hơn cảnh đẹp của quê hương đất
nước mình trên khắp mọi nẻo đường quê. Yêu quê hương nào đâu chỉ là
yêu văn hóa, yêu con người, yêu tiếng mẹ đẻ mà yêu quê hương, yêu đất
nước mình còn là vì những cảnh trí thiên nhiên tươi đẹp ấy. Tố Hữu đã
mang vào tận tâm hồn ta vẻ đẹp thiên nhiên bốn mùa tươi đẹp cho ta yêu
những điều bình dị, thân thiết, gắn bó trong cuộc sống hằng ngày. Thiên
nhiên đất nước ta thật đẹp thật hào hùng mà cũng thật lãng mạn biết bao.
Đó là Lũng Cú đến mũi Cà Mau với chiều dài đất nước từ cực Bắc đến cực
Nam, từ Tây sang Đông. Nơi có biết bao danh thắng thiên nhiên mà nhân
dân đã góp công sức tạo thành. Những sông suối thiên nhiên chảy vào
dòng sông thi ca lấp lánh bao vần thơ đẹp: sông Hương, sông Thu Bồn,
sông Đà Rằng, sông Hồng “tiếng hát bốn ngàn năm”. Những núi Vọng Phu,
những hòn Trống Mái… do tình yêu thủy chung của con người tạo nên.
Cho đến cả những người dân bình dị cũng góp tuổi góp tên mình dựng xây
nên “tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân”.
Trong không gian sinh tồn ấy, con người Việt Nam đã sinh sống và làm
việc, cùng yêu thương, đoàn kết, chia bùi sẻ ngọt, cùng chống lại bao kẻ
thù hung bạo để bảo vệ độc lập dân tộc. Con người Việt Nam thật đáng tự
hào, họ là những con người “sống giản dị, chết bình tâm”. Thời chiến tranh
quyết xông pha trận mạc, cái chết có hề chi dù “trăm thân phơi ngoài nội
cỏ, ngàn xác này gói trong da ngựa”. Thời bình, họ “cần cù làm lụng”,
“súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa”. Đó là vẻ đẹp của lối sống yêu
chuộng hòa bình, coi trọng danh dự, phẩm giá con người.

Ngày nay, sống trong thời bình nhưng chúng ta cũng không ngừng nâng
cao cảnh giác trước những diễn biến hết sức phức tạp của khu vực và thế
giới, nhất là cuộc chạy đua vũ trang toàn cầu. Một cuộc chiến có thể xảy
ra. Hơn bao giờ hết, mỗi bạn trẻ cần tích cực học tập để có kiến thức,
nâng cao lòng yêu nước và quyết tâm bảo vệ quê hương nếu xảy ra biến
cố. Nên nhớ rằng: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông
có thể cạn, đá có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi” (Hồ
Chí Minh). Hãy yêu đất nước mình từ con đường đi học đến nhành cây,
ngọn cỏ, từng giọng nói thầy cô đến ánh mắt mẹ cha âu yếm nhìn ta mỗi
buổi về nhà.

Xin cảm ơn nhà thơ Tố Hữu đã mang đến cho ta những vần thơ đẹp về
thiên nhiên nhiên và con người Việt Bắc mà cũng là cảnh trí, con người
Việt Nam. Vẻ đẹp của bộ tranh tứ bình ấy giúp ta cảm nhận thấm thía hơn
tình yêu thiên nhiên của tác giả và cũng giúp chúng ta ngộ ra được tình
yêu đất nước nào đâu phải ở đâu xa, yêu những điều bình dị quanh ta
cũng là yêu đất nước, quê hương

Ptich khổ 8

Tố Hữu là một trong những tác gia xuất sắc, thơ anh để lại chính là một
phần to lớn trong lịch sử đất nước từ trước đến nay. Gắn liền với cách
mạng Việt Nam, thơ ca Tố Hữu đã phản ánh những điều trọng đại trong
lịch sử nước mình. Trong đó có tác phẩm thơ Việt Bắc cùng khổ thơ ra
trận đã để lại trong lòng bạn đọc những giá trị khó phai mờ.

Là một tác gia lớn, không quá ngạc nhiên khi thơ ca Tố Hữu rất dễ đi vào
lòng bạn đọc, viết về kháng chiến nhưng có một điều đặc biệt lại thể hiện
được những cảm xúc vẫn rất đỗi trữ tình, ngọt ngào đằm thắm – một chất
Huế rất riêng trong con người anh.

Vốn là một chiến sĩ cách mạng, lấy Đảng là chân lí, là ánh sáng điểm tựa,
là nơi anh sẽ nguyện trung thành đi cùng và gắn bó. Vì thế, từ khi chọn lựa
chân lí giác ngộ lí tưởng đảng đến khi Việt Bắc ra đời, chính là lúc Tố Hữu
hiện thực hóa những lí tưởng cao đẹp của mình. Anh đã nguyện sống và
kháng chiến với họ để cùng gắn bó cùng cùng sẻ chia. Khổ thơ ra trận đã
phản ánh rõ điều đó:

Những đường Việt Bắc của ta


Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân quân đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Những đoàn dân quân trùng trùng điệp điệp nối tiếp nhau ra trận trên khắp
mọi nẻo đường. Nổi bật lên một tư thế làm chủ, những đoàn quân cứ thế
bước đi cứ thế nối nhau, như thể hiện tinh thần hăng say, ý chí quyết liệt,
ngày đêm nối tiếp ra trận. Những từ ngữ chỉ số nhiều “những” “đêm đêm”
“của” chỉ sự sở hữu. So sánh “như là đất rung” và từ láy rầm rập thể hiện
khí thế sôi động, lực lượng đông đảo, sức mạnh và tinh thần to lớn như kết
thành làn sóng không gì có thể ngăn cản được.

Quân đi điệp điệp trùng trùng


Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Tiếp đó là hình ảnh “trùng điệp” được tách ra làm hai từ láy “điệp” và
“trùng” để diễn tả hình ảnh những đoàn quân nối dài, hoán dụ “ánh sao
đầu súng” có thể là mũ của những người dân công hỏa tuyến, cùng các
lực lượng kháng chiến đang kề vai sát cánh bên nhau. Nó đều là những
hình ảnh thực, khi đặt cạnh nhau khiến thể hiện lên rõ nét khối sức mạnh
vĩ đại của dân tộc ta. Hình ảnh ấy càng được thể hiện đẹp đẽ hơn sau khi
nối tiếp những đoàn quân là những đoàn dân công hỏa tuyến. Những con
người giản dị, vốn chân lấm tay bùn chân thật mộc mạc, cũng ngày đêm
nối tiếp nhau, tạo thành một làn sóng.

Dân quân đỏ đuốc từng đoàn


Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay
Các từ ngữ chỉ số nhiều “từng” “muốn” chỉ những lực lượng đông đỏ,
không chỉ bộ đội chính quy mà con là những người dân công, từ “đỏ đuốc”
là phép đảo trật tự từ nhấn mạnh màu đỏ, một ánh lửa rực hồng ở những
bó đuốc, và phải chăng hình ảnh này còn biểu tượng cho nhiệt huyết của
mỗi người dân Việt Nam, tinh thần kháng chiến ác liệt, cách nói cường
điệu “bước chân nát đá” như nhấn mạnh tới sức mạnh vô địch của khối đại
đoàn kết toàn dân. Một cảm hứng lãng mạn vô cùng.

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày


Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Trên bước đường ra trận không thể thiếu được hình ảnh những chiếc xe
tăng nối đuôi nhau ngày đêm vượt núi vượt bom đạn để mang ra tiền
tuyến. “nghìn đêm” cùng từ láy “thăm thẳm” và hình ảnh “sương dày” gợi ý
nghĩa biểu tượng đó chính là những khó khăn đang luôn đợi chờ, những
gian khổ gập ghềnh trong thời kì kháng chiến.

Phép so sánh “như ngày mai lên” ngược lại với những khó khăn, nó đã thể
hiện một niềm tin chiến thắng, một tinh thần lạc quan, những hi vọng vẫn
luôn đợi chờ ta phía trước, đó chính là sự xứng đáng cho sự đồng lòng
đoàn kết của toàn dân tộc.

Bằng việc sử dụng thể thơ lục bát quen thuộc, và Tố Hữu được coi như
một người có tài năng sử dụng thành thạo, hóa phép cho câu thơ như
bừng tỉnh, đẹp thêm trăm phần. Cùng giọng thơ linh hoạt, lúc hăng say, lúc
đằm thắm, tha thiết và vui tươi, đã cho ta thấy những hình ảnh thật đẹp.
Đó không chỉ là nguồn cổ vũ to lớn trong thời chiến mà còn có ý nghĩa như
động lực to lớn trong thời bình, ca ngợi và khẳng định giá trị của khối đại
đoàn kết dân tộc, không gì có thể ngăn cản, dập tắt được. Cảm ơn Tố
Hữu, cảm ơn khổ thơ ra trận, đã cho ta niềm tin, sức mạnh sẵn sàng vượt
qua mọi khó khăn, thử thách.

Ptich nhớ khi giặc đến giặc lùng


Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam và là nhà thơ trưởng thành
trong cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc. Thơ ông có sự hòa quyện mềm
mại giữa yếu tố chính trị và yếu tố thơ ca, vì vậy tác phậm vừa đậm chất trữ tình
lãng mạn, vừa có yếu tố chính trị. Những tác phẩm của ông chủ yếu viết về cách
mạng, con người cách mạng. Trong đó, tác phẩm Việt Bắc tiêu biểu cho thơ của Tố
Hữu, được sáng tác trong hoàn cảnh cơ quan của Đảng chuyển từ Việt Bắc về Hà
Nội. Trong đoạn trích “Nhớ khi giặc đến giặc lùng… Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi
Hồng” là khúc ca ân nghĩa qua khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc được tác giả
hồi tưởng đầy xúc động và ân tình.

Nhớ khi giặc đến giặc lùng


Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Cả khổ thơ tái hiện hoàn cảnh chiến tranh vô cùng căng thẳng và đày khó khăn.
Nhớ khi giặc đến giặc lùng – một cảm xúc bao trùm đoạn thơ là nỗi nhớ. Khác với
những đoạn trước, nỗi nhớ tràn ngập yêu thương da diết và đều là những cảm xúc
hạnh phúc, bình yên. Thì trong câu thơ này, nỗi nhớ mang âm điệu sôi sục của này
kháng chiến. Thời gian chiến đấu khắc nghiệt, hình dung ra cảnh giặc lùng từng
chiến sĩ, căng thẳng vô cùng. Có như vậy mới biết các chiến sĩ cách mạng gan dạ
và phải chiến đấu anh dũng thế nào để thoát khỏi họng súng của kẻ thù.
Điều đáng nói, khi giặc đến lùng thì từ con người đến thiên nhiên đều trở thành
“thần hộ vệ” cho các chiến sĩ. Cả rừng cây, núi đá đều cùng các chiến sĩ cách mạng
đánh giặc, núi thì giăng thành lũy sắt dày, rừng thì che cho bộ đội ẩn mình để
chống giặc. So với những đoạn thơ trước, đoạn thơ đã tạo nên một âm điệu sử thi
hào hùng. Cả quân và dân và thiên nhiên núi rừng như hòa vào với nhau, tạo nên
một khối sức mạnh vô cùng vững chãi, đồng lòng đánh quân xâm lược. Thiên
nhiên núi rừng Tây Bắc không hề vô tri vô giác mà vô cùng sống động, thể hiện sự
gắn bó, đồng lòng, đoàn kết cùng con người Việt Bắc bảo vệ các chiến sĩ cách
mạng, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp giải phóng đất nước.
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng
Cả câu thơ mở ra một không gian vô cùng lớn, bốn mặt sương mù, sương giăng
khắp nơi khiến cho khung cảnh mờ ảo và vô cùng hiểm nguy. Khung cảnh có phần
uy linh nhưng cũng không kém phần lãng mạn. Hình ảnh “Mênh mông bốn mặt
sương mù” cũng thể hiện sự phát triển của kháng chiến, chiến khu giải phóng ngày
càng rộn lớn hơn. Đặc biệt, không chỉ thiên nhiên núi rừng mà ngay cả đất trời
cũng đều là của ta, đều một lòng chống giặc.
Hàm ý câu thơ thứ hai chính là khẳng định chủ quyền của vùng giải phóng. Sông
núi này là của chúng ta, đất trời này là của chúng ta và thực dân Pháp đang xâm
phạm chủ quyền cần phải đánh đổi. Cả hai câu thơ cũng thể hiện sự đoàn kết, cùng
hướng về đất nước của dân Việt Bắc nói riêng và dân ta nói chung trong cuộc
kháng chiến trường kì này.
Ai về ai có nhớ không ?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ Phố Ràng
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà.
Trong đoạn thơ này tác giả sử dụng câu hỏi tu từ, hỏi mà như không hỏi. Đọc qua
thôi chúng ta cũng cảm nhận nỗi nhớ của người đi và kẻ ở. Các chiến sĩ cách mạng
về xuôi không nguôi nhớ những người dân Việt Bắc đã bao bọc, cưu mang, che
chở trong những năm gian khó. Và ngược lại, những con người Việt Bắc cũng
không thể quên những người chiến sĩ cộng sản gan dạ, dám hi sinh vì tổ quốc. Sau
câu hỏi tu từ là đại từ “Ta”, một đại từ thể hiện sự rộng lớn, đại diện cho một thế
hệ, và khẳng định nỗi nhớ của Ta – những người chiến sĩ về xuôi dành cho đồng
bào Việt Bắc là lớn lao, là cụ thể. Nhớ từ Phủ Thông đến đèo Giàng, từ sông Lo
đến Phố Ràng, từ Cao lạng sang Nhị Hà. Nỗi nhớ trải dài khắp miền Việt Bắc, cho
thấy một tình cảm thâm sâu và in đậm trong trí nhớ.
Đây cũng là những địa danh ghi lại những chiến công hào hùng của dân tộc. Đó là
sự kiện Phủ Thông – Đèo Giàng – nơi diễn ra các trận hồi đầu cuộc kháng chiến
chống Pháp. Sông lô – phố Ràng nơi đánh tàu chiếm Pháp trong chiến dịch Việt
Bắc và trận đánh đồn Phố Ràng. Riêng địa danh Cao Bằng, lạng sơn thì ta mở
chiến dịch giải phóng biên giới Việt trung. Như vậy, trong nỗi nhớ còn chứa đựng
niềm tự hào về những chiến công hào hùng, càng khẳng định vai trò của con người
quan trọng biết nhường nào.
Mười lăm năm sinh sống, chiến đấu ở mảnh đất này sao có thể cứ nói đi là đi được? Hay
giống như nhà thơ Chế Lan Viên đã từng viết trong bài thơ “Tiếng hát con tàu”:
“Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!”
Những kỉ niệm không chỉ gắn với con người, mà còn gắn với những vùng đất. Họ đã trở
thành một phần của vùng đất ấy, giờ đây giây phút chia tay những cảm xúc như trào dâng,
như ùa về làm người ra đi cũng quyến luyến mãi không thôi. Những địa danh với những cái
tên quen thuộc gắn liền với mảnh đất Việt Bắc, ghi lại những dấu ấn lịch sử hào hùng, những
chiến công và thắng lợi vang dội. Đó không chỉ là những chiến công mà còn là niềm tự hào
về nó, về những chiến sĩ và con người, thiên nhiên Việt Bắc đã gắn kết với nhau, đoàn kết
thành một khối để chiến đấu và bảo vệ từng phần nhỏ nhất của đất nước.
Bài thơ “Việt Bắc” là một bản anh hùng ca, ca ngợi những chiến công của người chiến sĩ
cũng như người dân Việt Bắc. Cũng từ đó, tác phẩm đã trở thành một trong những tác phẩm
ấn tượng nhất mỗi khi nhắc tới thơ ca Cách mạng.

You might also like