You are on page 1of 5

Tên: Võ Thị Hoàng Linh

Lớp: 12A06. STT:19


Điểm Lời phê của giáo viên

Đề bài: Phân tích đoạn 2 bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
Bài làm
Tô Hoài từng nhận định Tố Hữu xứng đáng là "Ngôi sao sáng nhất trong
bầu trời thơ ca cách mạng Việt Nam thế kỷ 20". Với Nguyễn Ðăng Mạnh thì Tố Hữu
được mệnh danh là "Nhà thơ của lẽ sống cách mạng", "Nhà thơ của Tổ quốc Việt
Nam", là "Hồn thơ dân tộc". Ông là một trong những nhà thơ lớn nhất, tiêu biểu nhất
của nền thi ca hiện đại, ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng, nhà thơ của lý tưởng cộng
sản. Thơ Tố Hữu thể hiện lẽ sống lớn, tình cảm lớn của con người Cách mạng, mang
đậm đà tính dân tộc trong nội dung và hình thức thể hiện. Tập thơ "Việt Bắc", là đỉnh
cao của thơ Tố Hữu đồng thời cũng là thành tựu hàng đầu của thơ ca kháng chiến
chống Pháp, trong đó bài thơ "Việt Bắc" được coi là kết tinh sở trường nghệ thuật của
ngòi bút Tố Hữu. Đó là khúc hát ân tình của người kháng chiến đối với quê hương, đất
nước với nhân dân cách mạng được thể hiện bằng một nghệ thuật vừa cổ điển vừa
hiện đại mà cốt lõi là truyền thống ân nghĩa đạo lý thủy chung của dân tộc.Đoạn hai
của tác phẩm là những nỗi băn khoăn, trăn trở của người ở lại:
“Mình đi, có nhớ những ngày

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”

Bắt đầu đến với đoạn thơ thứ ba Tố Hữu đã sử dụng và miêu tả hàng loạt
những câu hỏi rất ngọt ngào:

- Mình đi, có nhớ những ngày


Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

Ta có thể thấy rằng ở khổ thơ trên , nhà thơ Tố Hữu đã sử dụng một loạt
những cụm từ “có nhớ”, điều này làm cho người đọc cảm nhận được khung cảnh của
người khung cảnh ân cần, lo âu ko biết rằng : những người linh , người cán bộ về
xuôi, mọi người có còn nhớ đến chiến khu Việt Bắc nơi đây nữa ko? Để cho những
con người Việt Bắc hỏi là vì tác giả đã muốn khêu gợi lại những ngày chiến đống ,
kháng chiến chống thực dân Pháp . Nhớ thiên nhiên của chiến khu Việt Bắc mưa
nguồn suối lũ, những mây cùng mù đặc tả thiên nhiên ở Việt Bắc , câu thơ đã một
phần nào đó miêu ta rõ nét nhất được cảnh thiên nhiên hoang vu, nơi núi rừng Việt
Bắc, tuy rằng khung cảnh có chút âm u nhưng mà vẫn có một chút gì đó mang đậm
chất trữ tình, mộng mơ , hùng vĩ. Ngoài việc phải đương đầu với mọi khó khắn, sự hà
khắc, gian nan của tự nhiên, những người lính , người cán bộ cách mạng và những dân
nơi chiến khu Việt Bắc còn phải đối diện với cuộc sống thiếu thốn, đầy gian nan khổ
cực miếng cơm còn phải chấm muối. Hình ảnh mang tính chất hoán dụ gợi tưởng
đến một mối thù sâu nặng của dân tộc Việt Nam ta đối với những kẻ xâm lăng, cướp
nước, những kẻ không có lương tâm bán nước ta cho giặc ngoại xâm .

Tiếp tục mạch cảm xúc , vẫn là những lời hỏi của người dân nơi chiến khu
Việt Bắc nhưng mà trong đó lại ẩn chứa trong vần thư lại là lời bày tỏ hàn huyên của
người ở lại, bộc lộ ra được tình cảm yêu thương , với cảm xúc bịn rịn không muốn xa
cách với người lính, cán bộ trở về thủ đô Hà Nội :

“Mình về, rừng núi nhớ ai


Trám bùi để rụng, măng mai để già.”

Nhà thơ Tố Hữu đã sử dụng những biện pháp hoán dụ như rừng núi nhớ
người nào rừng núi chính là hình ảnh của nơi thiên nhiên Việt bắc, cũng là hình ảnh
của con người nơi đây, còn đại từ người nào là để chỉ những người cán bộ về thủ đô
Hà Nội nhằm để nhấn mạnh tình cảm đậm đà, thiết tha và nỗi nhớ da diết của dân
chúng ở chiến khu Việt Bắc đối với những người lính, người cán bộ kháng chiến, với
Đảng và chính phủ Thiên nhiên và con người Việt Bắc nhớ về những người lính, cán
bộ về xuôi nhiều tới mức trám bùi để rụng, măng mai để già, ở đây tác giả đã xuất sắc
khi sử dụng biện pháp nhân hóa người đọc thấy được những nối nhớ nhung da diết kẻ
đi và người ở lại như thế nào. Trám bùi và măng mai là một trong những món ăn
thường ngày của nhân dân nơi chiến khu Việt Bắc, của người lính, cán bộ kháng
chiến, chiến đấu chống thực dân ; nhưng nó cũng là một món đặc sản của thiên nhiên
nơi chiến khu mà không phải là chỗ nào cũng có được món ấy . “Mình về” ở đây là
chỉ những người linh và cán bộ cách mạng , họ về khiến núi rừng nơi Việt Bắc bỗng
nhiên trở thành trống trải đến đáng lạ, buồn phiền tới lạ đời, ngay cả đến những trám
bùi, măng mai cũng ko có người nào thu hái. Người ở lại đã biểu lộ rõ những ân tình ,
tình cảm của mình thật thành tâm và thiết tha khi phải chia xa với những người
lính ,cán bộ cách mạng.

Những người dân nơi chiến khu Việt Bắc vẫn tiếp tục hỏi, nhưng ở trong đoạn thơ này
lời hỏi ấy đã được nhấn mạnh hơn, được thể hiện chi tiết và rõ ràng hơn: những người
lính, người cán bộ trở về thủ đô gió ngàn Hà Nội có nhớ đến những cảnh vật Việt Bắc
và con người chiến khu Việt Bắc nơi đây , nhớ những năm tháng cùng nhau chịu biết
bao nhiêu là khổ cực, gian nan cùng nhau kháng chiến đánh đuổi những bọn xâm lăng
đất nước Việt Nam:

Mình đi, có nhớ những nhà


Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Ở đây tác giả lại tiếp tục sử dụng nhiều cụm từ “nhớ” nhà thơ đã sử dụng
biện pháp hoán dụ – gợi cho người đọc cảm nhận được tâm cảnh lo lắng, lo âu ko biết
rằng: Những người lính , cán bộ có nhớ những người dân chiến khu Việt Bắc này hay
ko? Chứ dân chúng , nhận dân ở nơi chiến khu Việt Bắc này nhớ cán bộ nhiều lắm,
nhớ tới nỗi hắt hiu lau xám. Ở đây đã được nhà thơ Tố Hữu sử dụng từ láy hắt hiu liên
kết với hình ảnh đặc biệt của thiên nhiên chiến khu Việt Bắc lau xám càng làm nổi bật
hơn khung cảnh cô đơn hoang vắng, đơn sơ giản dị , yên lặng của núi rừng Việt Bắc .
Nhưng đối lập với khung cảnh đơn sơ, hoang vắng ấy lại là một tấm lòng son, một
tấm lòng ấm áp và giàu tình cảm của con người Việt Bắc nơi đây . Ngoài ra, nhân dân
Việt Bắc còn muốn biết thêm rằng: Cán bộ khi trở về thủ đô Hà Nội có còn nhớ đến
núi non, nhớ đến thiên nhiên Việt Bắc hùng vĩ này hay ko? Có nhớ khoảng thời gian
mười năm năm gian nan, vất vả khổ cực cùng nhau kháng chiến , thuở còn làm Việt
Minh hay ko? Chính cái tình cảm , tình nghĩa của đồng bào dân tộc Việt Nam nói
chung và đồng bào vùng chiến ku Việt Bắc nói riêng đối với quân nhân, với cách
mạng; là một sự đồng cảm cùng chia sẻ mọi gian khổ, cùng phụ trách những nhiệm vụ
nặng nề, gian nan cho Việt Bắc quê hương của Cách Mạng, cỗi nguồn cho Cách Mạng
càng thêm tươi sáng trong tâm não nhà thơ nói riêng và trong lòng độc giả nói chung.
Cuối cùng là kết lại đoạn thơ là biết bao nhiêu nỗi nhớ nhung về những danh
lam thắm cảnh , những địa danh lịch sử mà chỉ có ở chiến khu Việt Bắc mới có:

“Mình đi mình lại nhớ mình


Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa"
Ở đây nhà thơ Tố Hữu chỉ sử dụng với 2 câu thơ này, nhưng mà ông đã gửi
gắm rất nhiều thương tư tình cảm, ẩn chứa rất nhiều điều muốn nói ; nổi bật nhất ở
đây ta có thể thấy rằng là ở một câu thơ 6 chữ nhưng mà lại có tới ba từ mình liên kết
với nhau nghe thật thiết tha và nồng thắm . Nhà thơ Tố Hữu sử dung từ mình thứ nhất
và thứ hai được dùng để chỉ những người lính , người cán bộ về dưới thủ đô Hà Nội ,
tiệp tục là từ mình thứ ba ta có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau . Nếu như ta hiểu
theo một nghĩa rộng, mình là chiến khu Việt Bắc thì đại từ nhân xưng thứ bậc hai câu
thơ mang theo hàm ý: Người linh , Cán bộ về xuôi, về thủ đô Hà Nội ko biết cán bộ có
còn nhớ tới nhân dân nơi chiến khu Việt Bắc này hay không , nhớ tới những người ở
lại này ko ? Còn với nghĩa hẹp hơn, từ mình ở đây chính là để chỉ những người linh ,
cán bộ cách mạng trở về xuôi , sử dụng đại từ nhân xưng bậc nhất giúp cho câu thơ
được hiểu theo 1 nghĩa khác: Người lính, người Cán bộ trở về thủ đô Hà Nội, họ có
nhớ chính mình hay ko? Có còn nhớ tới những kĩ niệm trong suốt mười năm năm của
bản thân, nhớ những năm tháng đấu tranh gian khổ, vì độc lập tự do của toàn dân tộc
Việt Nam hay ko? Thấy rằng với cách hiểu thứ hai này, người ở lại , những người dân
chiến khu Việt Bắc lại đã đặt ra một vấn đề, sợ rằng mọi người sẽ ngủ quên trên chiến
thắng của mình, quên đi những quá khứ hào hùng của mình, thậm chí sẽ phản bội lại
những lí tưởng đẹp của bản thân.Ở đây nhà thơ Tố Hữu đã tưởng tượng trước được
diễn biến tâm lý của con người sau chiến tranh thắng lợi.

Khép lại tác phẩm, bài thơ Việt Bắc là khúc ca ân tình đầy xúc động của
nhà thơ Tố Hữu về khoảng thời gian kháng chiến gian khổ và hướng về một tương
lai tươi sáng của đất nước. Khi viết về thể loại trữ tình cách mạng, Tố Hữu đã rất khéo
léo sử dụng những chất liệu nghệ thuật dân tộc đó là thể thơ lục bát và ngôn ngữ mang
đậm sắc thái dân gian. Có thể thấy được rằng, Việt Bắc chính là một khúc anh hùng ca
về cách mạng, về cuộc kháng chiến chính nghĩa của dân tộc mà sâu trong đó là tình
cảm giữa các chiến sĩ và đồng bào, tình cảm với mảnh đất Việt Bắc, rộng ra là tình
cảm của mỗi người dân Việt Nam với quê hương, đất nước với đoạn hai của tác phẩm
là những nỗi băn khoăn, trăn trở của người ở lại. Bài thơ là niềm tự hào về truyền
thống ân nghĩa, thủy chung, những đạo lý tốt đẹp đã được truyền thừa từ thế hệ này
sang thế hệ khác và nhắc nhở thế hệ sau này phải ghi nhớ và tiếp tục phát huy truyền
thống cha ông.

You might also like