Professional Documents
Culture Documents
I . MỞ BÀI :
*Nhận định:
- “Thơ là đi giữa nhạc và ý. Rơi vào cái vực ý, thì thơ sẽ sâu, nhưng rất dễ khô
khan. Rơi vào cái vực nhạc, thì thơ dễ làm đắm say người, nhưng cũng dễ nông
cạn. Tố Hữu đã giữ được thế quân bình giữa hai vực thu hút ấy. Thơ của anh vừa
ru người trong nhạc, vừa thức người bằng ý.” (Chế Lan Viên – “Lời nói đầu
tuyển tập thơ Tố Hữu”)
- “Nhà thơ này sử dụng đôi mắt tinh tường, nhà thơ khác sử dụng bộ óc kì ảo, còn
Tố Hữu, anh chỉ sử dụng tình cảm và trái tim trần” (Chế Lan Viên)
- Sức mạnh của thơ Tố Hữu trong những ngày đen tối ấy chính là vì nó nói với trái
tim, chính là bởi người cách mạng ấy là một thi sĩ chính cống, thật sự.
(Xuân Diệu -“Tố Hữu với chúng tôi”)
*Dàn ý mở bài :
- Dẫn dắt: bằng các nhận định văn học về tác giả Tố Hữu hoặc tác phẩm Việt Bắc,
bằng đề tài, bằng vị trí của tác giả trong dòng chảy văn học Việt Nam lúc bấy
giờ,...
- Giới thiệu tác giả Tố Hữu và tác phẩm “Việt Bắc”
- Luận đề: Tái hiện cuộc chia tay chan chứa tình nghĩa yêu thương cùng sự bịn rịn
lưu luyến giữa cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc
- Phạm vi: 8 câu thơ đầu bài thơ “Việt Bắc”
III. THÂN BÀI : 8 câu đầu - Tái hiện cuộc chia tay giữa người đi, kẻ ở lại
* 4 câu đầu : Lời của người Việt Bắc hỏi người ra đi nhằm khơi gợi kỉ niệm về một đoạn
thời gian gắn bó, nghĩa tình
- 2 câu thơ đầu : gợi nhắc kỷ niệm mười lăm năm gắn bó ( thời gian kháng chiến) :
Dẫn : Trong giờ khắc chia tay đầy lưu luyến bịn rịn, tiếng lòng thổn thức của người ở lại đã
cất lên, “ta” hỏi là để khơi lại kỉ niệm về một thời đã qua, về không gian nguồn cội, về nghĩa
tình đã gắn bó keo sơn với “mình” trong suốt mười lăm năm :
“Mình về minh có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng. “
Có thể thấy, trong câu hỏi của người ra di : “mình” là chỉ người cán bộ Cách
mạng, “ta” ý chỉ đồng bào Việt Bắc. Cách sắp xếp vị trí của “mình” và “ta” :
“mình” ở đầu câu, “ta” ở cuối câu, giống như một cái nhìn đau đáu về nhau,
gợi ra sự xa xôi, cách biệt. “Mình” và “ta” tưởng như xa mà lại thật gần, bởi
giữa “mình” và “ta” có sự gắn kết với nhau bởi nỗi “nhớ”
Đại từ nhân xưng “mình”-“ta” : cách xưng hô mộc mạc, quen thuộc thường
xuất hiện trong lối hát của ca dao:
“Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm vạt áo, ta đề câu thơ”
Tố Hữu học tập cách nói ấy và đưa vào trong thơ của mình, khiến cho câu thơ
giống như một khúc hát giao duyên đằm thắm của đôi lứa yêu nhau
Tạo không khí trữ tình cảm xúc
Quãng thời gian “mười lăm năm ấy” : là dấu mốc đặc biệt tính từ năm 1939
khi cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra cho đến tháng 10 năm 1954 khi trận đánh
Điện Biên Phủ thắng lợi vẻ vang, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng.
Đó là 15 năm kề vai sát cánh, chung lưng đấu cật, 15 năm tình cảm gắn
bó của người ở và người về. Đối với 1 đời người, 15 năm chỉ là một
chặng đường nhưng đối với một mối tình của những con người đã gắn
bó với nhau, coi nhau như người thương thì đó lại là một khoảng thời
gian dài
Cho thấy sự bịn rịn trong nỗi niềm của những người ở lại
Liên hệ: Khi nhắc đến chủ đề li biệt, đã có không ít nhà thơ lựa chọn đề tài này, như Nguyễn
Du đã từng có một đoạn thơ day dứt lòng người khi viết về cảnh Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều
“Người về chiếc bóng năm canh
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối thiếc, nửa soi dặm đường”
Cách nói “thiết tha mặn nồng” : cho thấy rõ hơn nữa tình cảm bền chặt, keo
sơn giữa người Việt Bắc và người kháng chiến cùng sẻ chia, gắn bó trong suốt
“mười lăm năm” cách mạng gian khổ hào hùng.
Trong hơn một thập kỉ đó, quân và dân ta đã cùng trải qua biết bao khó
khăn gian khổ, cùng sẻ chia biết bao niềm vui nỗi buồn. Ấy vậy mà giờ
phút chia li cũng đến, mọi nỗi niềm sâu kín của “mười lăm năm”ấy
bỗng vỡ òa, thổn thức – “liệu rằng người ra đi còn nhớ không”?
Cuộc chia tay đậm đà tình quan dân, tính dân tộc.
- 2 câu thơ sau : lời nhắc nhở ân tình ân nghĩa, cũng là lời dặn dò kín đáo thiết tha của
người ở lại ( không gian kháng chiến )
Dẫn : Tố Hữu đã từng nói :”Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã thật tràn đầy”,
chính những niềm thương, nỗi nhớ trào dâng ấy đã tạo ra những rung động mãnh liệt trong
cảm xúc của nhà thơ, để từ thời gian “mười lăm năm” gắn bó, ông đã kín đáo gợi nhắc về
không gian thiêng liêng của cội nguồn nghĩa tình :
“ Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn ? ”
Câu hỏi tu từ láy theo hình thức tăng tiến : “có nhớ ta, có nhớ không” gợi
những cung bậc cảm xúc : từ ướm hỏi xa xôi đến nỗi khắc khoải lắng nghe
lời đồng vọng.
Giúp ta cảm nhận được tấm chân tình của người ở lại dành cho người
ra đi.
Điệp từ “nhìn”, “nhớ” được lặp lại nhiều lần, nhấn mạnh một nỗi nhớ
thường trực, miên man và sâu lắng trong trái tim của người ra đi và người
ở lại, âm hưởng câu thơ cũng trở nên day dứt, trăn trở.
Hình ảnh : “núi”, “nguồn” – những nét đặc trưng tiêu biểu của núi rừng
Việt Bắc, gợi một không gian rộng lớn, vừa hùng vĩ, lại vừa thơ mộng trữ
tình.
Cách nói : “nhìn cây, nhìn sông” để gợi nhắc tới một thực tế trong tương
lai, khi người Cách mạng giã từ quá khứ hào hùng để trở về với chốn phồn
hoa đô hội, và “nhớ núi, nhớ nguồn” là những trăn trở, nỗi nhớ nhung của
người chiến sĩ hướng quá khứ.
Câu thơ thể hiện mối tương giao giữa thực tế và mong đợi, khiến các
vế câu như tiềm ẩn một nỗi niềm trăn trở : liệu rằng người về xuôi rồi
có còn nhớ tới Viêt Bắc hay không?
Ngoài ra, các hình ảnh : sông”, “núi”, “cây” và “nguồn” còn có tính chất
bao trùm, có tính cội nguồn gợi nhắc ta về các câu ca dao của cha ông :
“Con người có tổ có tông
Như cây có cội, như sông có nguồn”
Hình ảnh “cội nguồn” còn được Tố Hữu tinh tế đặt ngay trong những dòng
đầu của bài thơ, như một lời chắc định chắc nịch về cái nôi Cách mạng của
dân tộc : Việt Bắc.
Việt Bắc là cội nguồn cách mạng, là quê hương cách mạng dựng lên
Cộng hòa, có Việt Bắc mới có ngày đất nước độc lập. Nhớ về Việt Bắc
cũng chính là nhớ về cội nguồn với đạo lí “Uống nước nhớ nguồn”
Đây chính là một lẽ sống cao cả, một tình cảm lớn trong thơ của Tố
Hữu.
* 4 câu cuối: Tiếng lòng của người về xuôi mang theo bao nỗi nhớ thương, bịn rịn, da
diết
Dẫn: Nếu bốn câu đầu là niềm băn khoăn, trăn trở cũng như sự bịn rịn, lưu luyến của người
ở lại thì đến với hai câu tiếp theo chính là cảm xúc nhớ thương xen lẫn nỗi thấp thỏm, lo âu
của người ra đi:
Dẫn: Có thể nói, giây phút chia tay giữa người đi, kẻ ở trong nỗi bâng khuâng, quyến luyến
đã được thi nhân Tố Hữu khắc họa thật rõ nét dưới ngòi bút tài hoa của mình :