You are on page 1of 9

Cảm nhận đoạn 1 - Việt Bắc

I . MỞ BÀI :
*Nhận định:
- “Thơ là đi giữa nhạc và ý. Rơi vào cái vực ý, thì thơ sẽ sâu, nhưng rất dễ khô
khan. Rơi vào cái vực nhạc, thì thơ dễ làm đắm say người, nhưng cũng dễ nông
cạn. Tố Hữu đã giữ được thế quân bình giữa hai vực thu hút ấy. Thơ của anh vừa
ru người trong nhạc, vừa thức người bằng ý.” (Chế Lan Viên – “Lời nói đầu
tuyển tập thơ Tố Hữu”)
- “Nhà thơ này sử dụng đôi mắt tinh tường, nhà thơ khác sử dụng bộ óc kì ảo, còn
Tố Hữu, anh chỉ sử dụng tình cảm và trái tim trần” (Chế Lan Viên)
-  Sức mạnh của thơ Tố Hữu trong những ngày đen tối ấy chính là vì nó nói với trái
tim, chính là bởi người cách mạng ấy là một thi sĩ chính cống, thật sự.
(Xuân Diệu -“Tố Hữu với chúng tôi”)
*Dàn ý mở bài :
- Dẫn dắt: bằng các nhận định văn học về tác giả Tố Hữu hoặc tác phẩm Việt Bắc,
bằng đề tài, bằng vị trí của tác giả trong dòng chảy văn học Việt Nam lúc bấy
giờ,...
- Giới thiệu tác giả Tố Hữu và tác phẩm “Việt Bắc” 
- Luận đề: Tái hiện cuộc chia tay chan chứa tình nghĩa yêu thương cùng sự bịn rịn
lưu luyến giữa cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc
- Phạm vi: 8 câu thơ đầu bài thơ “Việt Bắc”

*Đoạn văn – mở bài:


Luận đề : Tái hiện khung cảnh chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn giữa người ra đi và người ở
lại.
“ Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành một mật
Một giọt mật thành, đòi vạn chuyến ong bay ”
(Chế Lan Viên)
Những nhà thơ lớn của dân tộc đã lưu dấu trên thi đàn nhờ những “chuyến bay” miệt mài và
cần mẫn như thế. Họ miệt mài sống, miệt mài nhớ thương, miệt mài trân trọng những mùa
vui, những miền kí ức buồn mà họ cùng dân tộc đi qua, để rồi sau tất cả, họ trở thành “người
thư kí trung thành” của thời đại, ký thác vào đời những vần thơ đầy xúc cảm và tinh tế. Một
trong những cây bút ấy là nhà thơ Tố Hữu – lá cờ tiên phong cho nền thơ ca Cách mạng Việt
Nam. Bằng ngòi bút tài hoa của mình, ông đã gửi lại thi đàn dân tộc một tiếng thơ “Việt Bắc”
– một bản tình ca, hùng ca đậm đà tình quân dân. Tại đây, nhà thơ khéo léo tái hiện lại khung
cảnh chia tay đầy bịn rịn, lưu luyến giữa người chiến sĩ Cách mạng ra đi và nhân dân Việt
Bắc ở lại, tất cả những dòng cảm xúc ấy đã được kết tinh một cách trọn vẹn trong 8 dòng thơ
đầu tiên của tác phẩm.
* Mở bài bằng vị trí của tác phẩm trong dòng chảy văn học Việt Nam lúc bấy giờ
Trong bài thơ “Tiếng hát con tàu”, nhà thơ Chế Lan Viên đã viết:
“Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường”
Ta không thể phủ nhận có những giai đoạn lịch sử đã gánh vác trên mình sứ mệnh thiêng
liêng, cũng như thế, có những tác phẩm nghệ thuật dù ra đời từ rất lâu và bị thay thế bởi
những cách tân thi ca được thể nghiệm nhưng những tác phẩm ấy vẫn đóng vai trò là bản
thánh ca của thời kháng chiến và giúp cho người nghệ sĩ sáng tác có một chỗ đứng danh dự
trong nền văn học dân tộc. Tác phẩm “Việt Bắc” của nhà thơ Tố Hữu - người hát tình ca
Cách mạng không mệt mỏi - chính là một trong những bản thánh ca bất diệt ấy. Tác phẩm đã
ghi lại một cách chân thực và sống động chặng đường lịch sử khó quên mà ở đó luôn ngời
sáng tình cảm thiết tha, gắn bó của người Cách mạng và nhân dân Việt Bắc. Đoạn thơ gồm 8
câu đầu của thi phẩm đã kết tinh tài năng, tâm huyết, tấm lòng của Tố Hữu trong việc tái hiện
cuộc chia tay chan chứa tình nghĩa yêu thương cùng sự bịn rịn lưu luyến giữa cán bộ cách
mạng và nhân dân Việt Bắc.

II. KHÁI QUÁT


*Nhận định:
- “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên trình độ là thơ rất đỗi trữ tình” ( Xuân Diệu )
- “Tố Hữu nhìn cách mạng bằng con mắt lãng mạn của một thi sĩ”
- “Với Tố Hữu, thơ là vũ khí đấu tranh cách mạng. Ðó chính là đặc sắc và cũng là bí
quyết độc đáo của Tố Hữu trong thơ”
(Lời giới thiệu tập thơ Từ ấy, Văn học, 1959, Đặng Thai Mai)
- “Việt Bắc trước hết là một bài thơ trữ tình – chính trị… Bài thơ là một khúc hát ân
tình thủy chung réo rắt, đằm thắm bậc nhất, và chính điều đó làm nên sức ngân vang
sâu thẳm, lâu bền của bài thơ” (Trần Đình Sử)
*Dàn ý khái quát:
- Tác giả : Tố Hữu
 “Cánh chim đầu đàn” của nền thơ ca Cách mạng
 Sự nghiệp thơ song hành cùng sự nghiệp Cách mạng
 Nổi bật với phong cách nghệ thuật đặc trưng : giàu chất trữ tình chính trị,
khuynh hướng sử thi và tính dân tộc đậm đà
 Tập thơ tiêu biểu : “Gió lộng”, “Việt Bắc”, “Máu và hoa”,...
- Tác phẩm “Việt Bắc”:
 Được đánh giá là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp
 Xuất xứ : trích từ tập thơ cùng tên “Việt Bắc”
 Hoàn cảnh ra đời : sau chiến thắng Điện Biên Phủ (07/05/1954), Hiệp định
Giơnevo được kí kết, hòa bình lập lại, miền Bắc hoàn toàn giải phóng. Tháng
10 năm 1954, cơ quan Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc
trở về Hà Nội.
 Nhân sự kiện trọng đai này, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc” để cất
lên tiếng ca đằm thắm về đạo lí thủy chung, nghĩa tình của dân tộc
 Ý nghĩa tác phẩm : ‘Việt Bắc’ là khúc tình ca tha thiết của người kháng chiến
với quê hương Cách mạng – biểu hiện qua sự lưu luyến của người ra đi khi rời
xa Việt Bắc; đồng thời là khúc hùng ca về tinh thần đoàn kết, kháng chiến của
nhân dân. Từ đó cất lê tiếng ca đằm thắm về đạo lí thủy chung, nghĩa tình của
dân tộc : “Uống nước nhớ nguồn”.
 Luận đề -8 câu thơ đầu: tái hiện cuộc chia tay bịn rịn, lưu luyến giữa người đi
và kẻ ở.
*Đoạn văn – khái quát
Nhắc đến tên tuổi của Tố Hữu, trong trái tim của mỗi người yêu văn chương sẽ nhớ đến,
ông được mệnh danh là “cánh chim đầu đàn” của thơ ca Cách mạng Việt Nam. Các chẳng
đường sáng tác của Tố Hữu luôn song hành với những chặng đường lịch sử gian khổ, hi sinh
nhưng cũng đầy vẻ vang và hào hùng của dân tộc. Nhận xét về thơ Tố Hữu, Xuân Diệu
viết :”Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên một trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”, bởi lẽ ngòi bút Tố
Hữu đã thấm đượm men say của lí tưởng cách mạng và chất trữ tình ngọt ngào qua những
vần thơ đậm đà tính dân tộc. Từ những tình cảm trữ tình, sâu sắc đó nhà thơ đã viết nên kiệt
tác của đời mình, đó là bài thơ “Việt Bắc”- trở thành đỉnh cao của thơ Việt Nam thời kì kháng
chiến chống Pháp. Tháng 7 năm 1954, khi chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc, Hiệp định Giơ-
ne-vơ được kí kết, miền Bắc hoàn toàn giải phóng đến tháng 10 năm 1954, những người cán
bộ từ Việt Bắc trở về miền xuôi để tiếp quản Thủ đô Hà Nội. Nhân sự kiện trọng đại này, nhà
thơ Tố Hữu đã viết bài thơ “Việt Bắc”, không chỉ để cất lên tiếng ca đằm thắm về đạo lí thủy
chung, nghĩa tình của dân tộc mà còn thể hiện niềm tự hào, niềm tin mãnh liệt của người
Cách mạng vào Đảng và Bác Hồ. Nổi bật trong thi phẩm là màn đối đáp đầy lưu luyến giữa
những người cán bộ về xuôi và đồng bào Việt Bắc ở lại, khung cảnh đó đã được tác giả tái
hiện lại trọn vẹn trong 8 câu thơ đầu tiên.

III. THÂN BÀI : 8 câu đầu - Tái hiện cuộc chia tay giữa người đi, kẻ ở lại
* 4 câu đầu : Lời của người Việt Bắc hỏi người ra đi nhằm khơi gợi kỉ niệm về một đoạn
thời gian gắn bó, nghĩa tình
- 2 câu thơ đầu : gợi nhắc kỷ niệm mười lăm năm gắn bó ( thời gian kháng chiến) :
Dẫn : Trong giờ khắc chia tay đầy lưu luyến bịn rịn, tiếng lòng thổn thức của người ở lại đã
cất lên, “ta” hỏi là để khơi lại kỉ niệm về một thời đã qua, về không gian nguồn cội, về nghĩa
tình đã gắn bó keo sơn với “mình” trong suốt mười lăm năm :
“Mình về minh có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng. “
 Có thể thấy, trong câu hỏi của người ra di : “mình” là chỉ người cán bộ Cách
mạng, “ta” ý chỉ đồng bào Việt Bắc. Cách sắp xếp vị trí của “mình” và “ta” :
“mình” ở đầu câu, “ta” ở cuối câu, giống như một cái nhìn đau đáu về nhau,
gợi ra sự xa xôi, cách biệt. “Mình” và “ta” tưởng như xa mà lại thật gần, bởi
giữa “mình” và “ta” có sự gắn kết với nhau bởi nỗi “nhớ”
 Đại từ nhân xưng “mình”-“ta” : cách xưng hô mộc mạc, quen thuộc thường
xuất hiện trong lối hát của ca dao:
“Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm vạt áo, ta đề câu thơ”
Tố Hữu học tập cách nói ấy và đưa vào trong thơ của mình, khiến cho câu thơ
giống như một khúc hát giao duyên đằm thắm của đôi lứa yêu nhau
 Tạo không khí trữ tình cảm xúc
 Quãng thời gian “mười lăm năm ấy” : là dấu mốc đặc biệt tính từ năm 1939
khi cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra cho đến tháng 10 năm 1954 khi trận đánh
Điện Biên Phủ thắng lợi vẻ vang, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng.
 Đó là 15 năm kề vai sát cánh, chung lưng đấu cật, 15 năm tình cảm gắn
bó của người ở và người về. Đối với 1 đời người, 15 năm chỉ là một
chặng đường nhưng đối với một mối tình của những con người đã gắn
bó với nhau, coi nhau như người thương thì đó lại là một khoảng thời
gian dài
 Cho thấy sự bịn rịn trong nỗi niềm của những người ở lại
Liên hệ: Khi nhắc đến chủ đề li biệt, đã có không ít nhà thơ lựa chọn đề tài này, như Nguyễn
Du đã từng có một đoạn thơ day dứt lòng người khi viết về cảnh Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều
“Người về chiếc bóng năm canh
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối thiếc, nửa soi dặm đường”

 Cách nói “thiết tha mặn nồng” : cho thấy rõ hơn nữa tình cảm bền chặt, keo
sơn giữa người Việt Bắc và người kháng chiến cùng sẻ chia, gắn bó trong suốt
“mười lăm năm” cách mạng gian khổ hào hùng.
 Trong hơn một thập kỉ đó, quân và dân ta đã cùng trải qua biết bao khó
khăn gian khổ, cùng sẻ chia biết bao niềm vui nỗi buồn. Ấy vậy mà giờ
phút chia li cũng đến, mọi nỗi niềm sâu kín của “mười lăm năm”ấy
bỗng vỡ òa, thổn thức – “liệu rằng người ra đi còn nhớ không”?
 Cuộc chia tay đậm đà tình quan dân, tính dân tộc.

- 2 câu thơ sau : lời nhắc nhở ân tình ân nghĩa, cũng là lời dặn dò kín đáo thiết tha của
người ở lại ( không gian kháng chiến )
Dẫn : Tố Hữu đã từng nói :”Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã thật tràn đầy”,
chính những niềm thương, nỗi nhớ trào dâng ấy đã tạo ra những rung động mãnh liệt trong
cảm xúc của nhà thơ, để từ thời gian “mười lăm năm” gắn bó, ông đã kín đáo gợi nhắc về
không gian thiêng liêng của cội nguồn nghĩa tình :
“ Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn ? ”
 Câu hỏi tu từ láy theo hình thức tăng tiến : “có nhớ ta, có nhớ không” gợi
những cung bậc cảm xúc : từ ướm hỏi xa xôi đến nỗi khắc khoải lắng nghe
lời đồng vọng.
 Giúp ta cảm nhận được tấm chân tình của người ở lại dành cho người
ra đi.
 Điệp từ “nhìn”, “nhớ” được lặp lại nhiều lần, nhấn mạnh một nỗi nhớ
thường trực, miên man và sâu lắng trong trái tim của người ra đi và người
ở lại, âm hưởng câu thơ cũng trở nên day dứt, trăn trở.
 Hình ảnh : “núi”, “nguồn” – những nét đặc trưng tiêu biểu của núi rừng
Việt Bắc, gợi một không gian rộng lớn, vừa hùng vĩ, lại vừa thơ mộng trữ
tình.
 Cách nói : “nhìn cây, nhìn sông” để gợi nhắc tới một thực tế trong tương
lai, khi người Cách mạng giã từ quá khứ hào hùng để trở về với chốn phồn
hoa đô hội, và “nhớ núi, nhớ nguồn” là những trăn trở, nỗi nhớ nhung của
người chiến sĩ hướng quá khứ.
 Câu thơ thể hiện mối tương giao giữa thực tế và mong đợi, khiến các
vế câu như tiềm ẩn một nỗi niềm trăn trở : liệu rằng người về xuôi rồi
có còn nhớ tới Viêt Bắc hay không?
 Ngoài ra, các hình ảnh : sông”, “núi”, “cây” và “nguồn” còn có tính chất
bao trùm, có tính cội nguồn gợi nhắc ta về các câu ca dao của cha ông :
“Con người có tổ có tông
Như cây có cội, như sông có nguồn”
Hình ảnh “cội nguồn” còn được Tố Hữu tinh tế đặt ngay trong những dòng
đầu của bài thơ, như một lời chắc định chắc nịch về cái nôi Cách mạng của
dân tộc : Việt Bắc.
 Việt Bắc là cội nguồn cách mạng, là quê hương cách mạng dựng lên
Cộng hòa, có Việt Bắc mới có ngày đất nước độc lập. Nhớ về Việt Bắc
cũng chính là nhớ về cội nguồn với đạo lí “Uống nước nhớ nguồn”
 Đây chính là một lẽ sống cao cả, một tình cảm lớn trong thơ của Tố
Hữu.

* 4 câu cuối: Tiếng lòng của người về xuôi mang theo bao nỗi nhớ thương, bịn rịn, da
diết

- 2 câu thơ đầu: Cảm xúc của người ra đi

Dẫn: Nếu bốn câu đầu là niềm băn khoăn, trăn trở cũng như sự bịn rịn, lưu luyến của người
ở lại thì đến với hai câu tiếp theo chính là cảm xúc nhớ thương xen lẫn nỗi thấp thỏm, lo âu
của người ra đi:

“Tiếng ai tha thiết bên cồn


Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi”
 Đại từ phiếm chỉ “ai” để chỉ đồng bào Việt Bắc kết hợp với câu hỏi tu từ
làm cho câu thơ trở nên ngân nga, tha thiết
 Từ láy “tha thiết” chỉ tình cảm gắn bó sâu nặng, không thể nào quên. 
Điều đặc biệt ở đây là nếu người ở lại khẳng định tình cảm “thiết tha” thì
người ra đi khẳng định tình cảm “tha thiết”, từ đó tạo nên sự hô ứng về
mặt ngôn ngữ, sự trùng phùng, đồng điệu trong nỗi lòng của “mình” và
“ta”.
 Cảm xúc của người ra đi dâng trào qua hai cụm từ:
+ “Bâng khuâng” là tâm trạng lưu luyến, nhớ thương của người cách
mạng khi phải xa những kỉ niệm, xa những con người nghĩa hiệp, xa
mảnh đất đầy yêu thương
+ Cụm từ “bồn chồn” là trạng thái tâm lí thấp thỏm, nao nao, không yên
lòng
 Với hai cụm từ đó, nhà thơ đã diễn tả chính xác tâm trạng “người đi
không nỡ, người ở không yên” của người cách mạng trong giây phút li
biệt
Liên hệ : Cũng trong dòng tâm trạng xao xuyến, bịn rịn, bâng khuâng không nỡ chia xa ấy,
nhà thơ Chế Lan Viên từng viết :
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”

- 2 câu thơ tiếp theo: Giây phút chia tay

Dẫn: Có thể nói, giây phút chia tay giữa người đi, kẻ ở trong nỗi bâng khuâng, quyến luyến
đã được thi nhân Tố Hữu khắc họa thật rõ nét dưới ngòi bút tài hoa của mình :

“Áo chàm đưa buổi phân li


Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
 Hình ảnh “áo chàm”: 
+ Với nghệ thuật hoán dụ chỉ người dân Việt Bắc, nhà thơ đã cho thấy
sự am hiểu sâu sắc phong tục tập quán nơi đây.
+ Mặt khác, hình ảnh “áo chàm” là màu quê hương, màu dân tộc đậm
đà, cũng là tấm lòng không thể phai mờ của người dân Việt Bắc với Cách
mạng.
 Cụm từ “phân li” đã cho người đọc cảm nhận về một vật thể vốn thống
nhất nhưng lại bị ngoại cảnh tác động khiến họ xa rời
 Thấy được sự gắn bó giữa người Cách mạng với người Việt Bắc đến
mức keo sơn “tuy hai mà một”
 Hành động “Cầm tay”: biểu tượng cho tình yêu thương đoàn kết, để truyền
cho nhau sức mạnh cũng như cho thấy sự đồng điệu, gắn kết giữa 2 tâm
hồn
 Trong giờ khắc chia li, người đi và kẻ ở nặng trịu bao nỗi vấn vương
khó có thể ngỏ thành lời, họ chỉ có thể trao nhau những ánh mắt,
những cái nắm tay để tỏ lòng mình
 Đây là cái “cầm tay” để siết chặt tình quân dân gắn bó như cá với nước
 Người đọc cảm nhận được biết bao nhiêu tình cảm ân tình, thắm thiết
trong hành động ấy.
Liên hệ: Sự nghẹn ngào và đầy cảm xúc trong hành động “cầm tay” lúc chia li cũng được
nhà thơ Chính Hữu khắc họa thật rõ nét trong bài thơ “Đồng chí”:
“ Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
hay trong bài thơ “Hơi ấm bàn tay”, Lưu Quang Vũ đã viết:
“ Phút chia tay ta chỉ nắm tay mình
Lời chưa nói thì bàn tay đã nói
Mình đi rồi hơi ấm còn ở lại
Còn bồi hồi trong những ngón tay ta.”
 Nhịp thơ lẻ kết hợp với dấu “...” cuối dòng đã diễn tả tinh tế trạng thái ngập
ngừng, quyến luyến của kẻ ở, người đi và chính tình cảm ấy đã trở thành giai
điệu ngọt ngào nhất trong khúc tâm tình mà Tố Hữu dành cho đồng bào chiến
khu Việt Bắc.

IV. NGHỆ THUẬT

* Nhận định về nghệ thuật:


- “ Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo vì vậy Nó đòi hỏi phải có phong cách tức
là phải có nét gì đó rất mới rất riêng thể hiện trong tác phẩm của mình.”
(Văn học 12)
- “ Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và khám phá về nội dung.”
(Lêonit Lêonop)
- “ Đối với nhà thơ thì cách viết, bút pháp của anh ta là một nửa việc làm. Dù bài
thơ thể hiện ý tứ độc đáo đến đâu, nó cũng nhất thiết phải đẹp. Không chỉ đơn
giản là đẹp mà còn đẹp một cách riêng. Đối với nhà thơ, tìm cho ra bút pháp của
mình – nghĩa là trở thành nhà thơ.” (Raxun Gamzatop)
- “ Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo.Vì vậy đòi hỏi người sáng tạo phải có
phong cách nổi bật,tức là có cái gì rất riêng mới lạ trong phong cách của mình.”
(Văn học 12)

* Dàn ý nghệ thuật:

- Về nội dung:


 Tình nghĩa yêu thương gắn bó mặn nồng giữa người Cách mạng và nhân dân
Việt Bắc
 Sự bịn rịn lưu luyến trong giờ phút chia tay
- Về nghệ thuật:
 Phong cách trữ tình chính trị đậm đà tính dân tộc
 Thể thơ lục bát
 Lời đối đáp và cách sử dụng quan hệ từ “mình” - “ta” quen thuộc trong giao
duyên
 Giọng thơ tâm tình, từ ngữ gần gũi, giản dị
 Sử dụng các biện pháp tu từ và cách nói quen thuộc của dân gian

*Đoạn văn – nghệ thuật:


“Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo.Vì vậy đòi hỏi người sáng tạo phải có phong
cách nổi bật,tức là có cái gì rất riêng mới lạ trong phong cách của mình”.Hạ bút sau khi đã
hoàn thành xong tám câu đầu bài thơ “Việt Bắc”, Tố Hữu thực sự đã thực hiện trọn vẹn thiên
chức của một người sáng tạo con chữ không chỉ bởi giá trị nội dung và còn đặc sắc về nghệ
thuật. Trước hết, tác giả đã khéo léo sử dụng phong cách trữ tình chính trị đậm đà tính dân
tộc cùng sự uyển chuyển trong cách diễn đạt một sự kiện chính trị trọng đại bằng thể thơ lục
bát đã làm nổi bật tài năng, sự sáng tạo cũng như ngòi bút tinh tế của thi nhân. Bên cạnh đó,
với lời đối đáp và cách sử dụng quan hệ từ “mình – ta” quen thuộc trong giao duyên kết hợp
giọng thơ tâm tình cũng như từ ngữ gần gũi, giản dị, thi nhân đã khắc họa rõ nét tình nghĩa
yêu thương gắn bó mặn nồng giữa người Cách mạng và nhân dân Việt Bắc. Đồng thời, sự bịn
rịn lưu luyến trong giờ phút chia tay đã được bộc lộ một cách tinh tế và sâu sắc thông qua
việc sử dụng các biện pháp tu từ xen lẫn cách nói quen thuộc của dân gian. Tất cả đã góp
phần xây dựng thành công khung cảnh li biệt chứa chan tình yêu thương cũng như sự bịn rịn,
bâng khuâng giữa người đi kẻ ở
V. KẾT BÀI
*Nhận định
- “Việt Bắc là đỉnh thơ cao nhất mà Tố Hữu đã bước lên”
(Xuân Diệu – “Tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu”)
- “Thời đại ta đã may mắn có được nhà thơ Tố Hữu (Hoài Thanh)
- “Thơ của chàng thanh niên Tố Hữu khi ấy từ trái tim vọt ra cũng như thơ của
chúng tôi, cũng lãng mạn như thể chúng tôi, nhưng là thứ lãng mạn khác, có nhiều
máu huyết hơn; thơ chúng tôi chỉ đập cho mở cửa trời nhưng thơ Tố Hữu thì mới
có chìa khóa: Cách mạng, giải phóng dân tộc, giải phóng cho người lao khổ”
(Tố Hữu với chúng tôi, 1975,Xuân Diệu)
- “Thơ Tố Hữu là thơ một con người biết trân trọng lấy đời mình, muốn làm cho
đời mình trở nên hữu ích. Vậy thì ai kia còn phung phí đời mình, làm gì cũng
được, sống sao cũng xong, trong khi đọc thơ này hãy bắt đầu thử dừng lại mà biết
quý lấy đời mình, mà đem xây dựng nó” (Chế Lan Viên)
*Đoạn văn – Kết bài:
1.
Nói về “Việt Bắc”, Tố Hữu đã từng khẳng định :”Cảnh vật và tinh thần Việt Bắc đã
nhập vào hồn tôi, máu thịt tôi, Việt Bắc ở trong tôi”. Và quả thực như vậy, bởi khi đặt chân
vào mảnh hồn của “Việt Bắc”, ngay tám câu thơ đầu tiên, ta dường như thấy cả nỗi lòng trăn
trở, bịn rịn của nhà thơ.Từng câu từ trong thơ của Tố Hữu như được hòa tấu bởi chất nhạc
dân gian bình dị, quen thuộc nhưng không hề chán ngán. Những hình ảnh hoán dụ: “áo
chàm”, phép trùng điệp:”mình về, có nhớ,..”, câu hỏi tu từ,,. đều được nhà thơ vận dụng một
cách khéo léo. Không chỉ vậy, Tố Hữu còn sử dụng nhuần nhuyễn thể thơ dân tộc: thơ lục bát
kết hợp linh hoạt lối hát đối đáp giao duyên “mình-ta” đã tạo nên một giọng điệu tâm tình,
ngọt ngào cho tác phẩm. “Việt Bắc” lúc này đây đã không chỉ còn là điệu nhạc của tình đồng
bào sâu nặng và những năm tháng hào hùng dân tộc đã đi qua, mà còn trở thành tiếng vọng
ngân dài, nêu cao đạo lý ân tình ân nghĩa thủy chung của cha ông ta tự bao đời: đó là lẽ
sống :”Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.
2.
Khép lại trang sách, đoạn thơ đã để lại biết bao dư âm khó phai trong lòng người đọc.
Bằng ngòi bút tài hoa trong việc sử dụng phong cách trữ tình chính trị đậm đà tính dân tộc
cùng sự uyển chuyển trong cách diễn đạt một sự kiện chính trị trọng đại bằng thể thơ lục
bát kết hợp lời đối đáp và cách sử dụng quan hệ từ “mình” - “ta” quen thuộc trong giao
duyên, Tố Hữu đã khắc họa thành công tình nghĩa yêu thương gắn bó mặn nồng giữa người
Cách mạng và nhân dân Việt Bắc cũng như sự bịn rịn lưu luyến trong giờ phút chia tay.
Quả đúng như Chế Lan Viên đã từng nhận định: “Thơ là đi giữa nhạc và ý. Rơi vào cái vực
ý, thì thơ sẽ sâu, nhưng rất dễ khô khan. Rơi vào cái vực nhạc, thì thơ dễ làm đắm say
người, nhưng cũng dễ nông cạn. Tố Hữu đã giữ được thế quân bình giữa hai vực thu hút ấy.
Thơ của anh vừa ru người trong nhạc, vừa thức người bằng ý”.

You might also like