You are on page 1of 40

* Nếu bạn không chịu bắt tay vào làm thì chẳng có điều gì là khả thi cả *

VIỆT BẮC
-Tố Hữu-

A. MỞ BÀI CHUNG

Biêlinxki đã từng nói: “Bất cứ thi sĩ vĩ đại nào, sở dĩ họ vĩ đại bởi vì những đau khổ và hạnh phúc của họ bắt nguồn từ
khoảng sâu thẳm của lịch sử xã hội, bởi vì họ là khí quan và đại biểu của xã hội, của thời đại và của nhân loại.” Tố Hữu
chính là một đại biểu xuất sắc của thời đại mình, là lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam. Từ đầu đến cuối
trong cuộc đời mình ông đều gắn bó với con đường cách mạng giải phóng dân tộc, là nhà thơ của lí tưởng cộng sản. Con
đường thơ của ông luôn gắn bó, song hành và phản ánh chân thật các chặng đường gian khổ, hi sinh nhưng cuối cùng đi
đến thắng lợi vẻ vang của cách mạng Việt Nam. Thơ Tố Hữu dễ thuộc, dễ nhớ và đậm đà bản sắc dân tộc, giọng điệu tâm
tình ngọt ngào dễ đi vào lòng người, trở thành quen thuộc trong tâm thức người Việt. Bài thơ "Việt Bắc" được đánh giá là
đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu, là một trong số các bài thơ hay nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp.
Bài thơ in trong tập thơ cùng tên năm 1954.

B. PHÂN TÍCH ĐOẠN THƠ

Đoạn số 1:
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu, từ đó nhận xét về tính cảm của nhà thơ với Việt Bắc:

- Mình về mình có nhớ ta?

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân ly

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...

(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.109)

I. MỞ BÀI

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

- Giới thiệu yêu cầu của đề bài:

II. THÂN BÀI

1. Khái quát

1.1. Hoàn cảnh sáng tác


- Sau 9 năm kháng chiến đầy gian khổ, hi sinh dân tộc ta đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu.
Hiệp định Giơnevơ được kí kết, hoà bình được lập lại, một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách
mạng được mở ra. Tháng 10-1954, các cơ quan của Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội.
Miền Bắc bước vào thời kì xây dựng đất nước. Cuộc sống thay đổi có tính chất bước ngoặt, từ chiến tranh sang hoà bình,
từ núi rừng về thành thị. Biết bao lưu luyến ân tình với những nơi đã từng đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi. Nhân sự
kiện có tính thời sự và lịch sử ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc”vào tháng 10-1954. Hơn nữa, trong hoàn cảnh
ấy, người ta chó nhu cầu muốn nhìn lại chặng đường lịch sử đã đi qua, lí giải chiến tháng và xác định con đường đi tiếp.
Hoàn cảnh ấy đã chi phối đến cảm hứng sáng tác và nội dung của bài thơ.

1.2. Kết cấu bài thơ:

- Nhà thơ đã chọn hình thức thể hiện là lối đối đáp của ca dao dân ca nhưng nếu trongca dao, dân ca là đối đáp giữa
đôi lứa yêu nhau thì bài thơ là lời đối đáp giữa người đi lànhững người cán bộ cách mạng miền xuôi với người ở là người
dân Việt Bắc. Hình thứcđối đáp làm cho bài thơ mang âm hưởng của những bài hát giao duyên vừa đằm thắm, thiếttha
vừa sâu nặng nghĩa tình.

- Thực ra, bên ngoài là đối đáp, còn bên trong là lời độc thoại, là biểu hiện tâm tư tình cảm củachính nhà thơ, của những
người tham gia kháng chiến.

1.3. Đề tài:

- Đề tài của bài thơ là đề tài chia li, tiễn biệt là một đề tài quen thuộc trong thơ ca xưa nay. Thế giới văn học tuyệt vời đã
lưu giữ cho ta bao cuộc chia ly bất tử. Nhớ cuộc chia ly Lý Bạch với Mạnh Hạo nhiên trên lầu Hoàng Hạc. Cuộc từ biệt
Thúc Sinh của Thúy Kiều sau những ngày mặn nồng, thắm thiết. Cuộc chia li chói ngời sắc đỏ trong thơ Nguyễn Mĩ …Và
đến "Việt Bắc" của Tố Hữu người đọc không thể quên cuộc chia tay lịch sử giữa những người cách mạng miền xuôi với
người Việt Bắc.

- Thơ ca về chia li, tiễn biệt thường chất chứa buồn đau, sầu muộn:

"Người lên ngựa, kẻ chia bào

Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san

(Truyện Kiều - Nguyễn Du)

“Cùng trông lại lại cùng chẳng thấy

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

Ngàn dâu xanh ngắt một màu

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”

(Chinh phụ ngâm)

Nhưng trong "Việt Bắc" Tố Hữu đã thể hiện những sắc điệu mới bởi bài thơ được sáng tác trong ngày chiến thắng, chia
tay để rồi gặp lại, cả người đi người ở đều hướng đếnmột viễn cảnh tươi đẹp của đất nước. Điều này cũng cho thấy Tố
Hữu luôn là nhà thơ của lẽ sống lớn, niềm vui lớn, tình cảm lớn. Thơ ông không đi vào những tình cảm cá nhân riêng tư
mà chỉ hướng đến những cảm xúc lịch sử của lòng người, của thời đại. Khúc ca vềcuộc chia tay của nhân dân VB với cán
bộ về xuôi đã minh chứng cho điều Xuân Diệu nói:“Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”

2. Phân tích đoạn thơ


2.1. Khái quát

- Kết cấu đối đáp được thể hiện rất rõ ngay từ tám câu thơ đầu tiên của bài thơ. Người ta đã có lý khi nói thơ Tố Hữu là
thứ thơ "đốt cháy trái tim để trở thành trí tuệ", với ý tưởng trữ tình hoá sự kiện chính trị cũng như đời sống chính trị của
đất nước, viết "Việt Bắc", Tố Hữu đã sáng tạo -nên một cấu tứ rất độc đáo-khúc hát đối đáp trong cuộc chia tay giữa
người ở và người về xuôi để khơi gợi những kỉ niệm gắn bó trong những ngày kháng chiến gian khổ mà vẻ vang.

- Cặp từ mình – ta: Mình - ta vốn là cách xưng hô quen thuộc trong đời sống hàng ngày, là cách xưng hô của vợ chồng
hoặc giữa những người có mối quan hệ thân thiết, gắn bó.

- Trong ca dao, dân ca cặp từ mình - ta thường xuất hiện trong các bài ca dao giao duyên như:

Mình nói với ta mình hãy còn son

Ta đi qua ngõ thấy con mình bò

Con mình những trấu cùng tro

Ta đi lấy nước tắm cho con mình

Hay:

Mình về có nhớ ta chăng

Ta về ta nhớ hàm răng mình cười

Hoặc:

Mình về ta chẳng cho về

Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ

- Cách xưng hô mình - ta gần gũi thân thương được Tố Hữu vay mượn trong ca dao, dân ca. Sáng tạo của nhà thơ là ở chỗ
nếu trong ca dao, dân ca mình - ta là đôi lứa yêu nhau với một nam một nữ thì trong bài thơ mình - ta là người đi (người
cán bộ miền xuôi) và kẻ ở (nhân dân Việt Bắc). Sáng tạo hơn nữa là trong bài thơ mình - ta có sự chuyển hóa, hòa quyện
thành sự đồng vọng diễn tả chung tâm tư của cả người đi, kẻ ở. Cả mình và ta đều chung những kỉ niệm gắn bó, chung
một nỗi niềm tâm trạng, nay phải chia tay biết bao lưu luyến, bịn rịn. Bài thơ đã vượt ra khỏi những cảm xúc riêng tư để
chuyển tải một vấn đề rất lớn của đời sống cách mạng – đó là vấn đề ân nghĩa thủy chung của cách mạng với nhân dân.

2.2. Bốn câu thơ:

“Mình về mình có nhớ ta

Mười năm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”

Lời ướm hỏi ngọt ngào của người ở lại

- Bốn câu thơ đầu của bài thơ là lời ướm hỏi ngọt ngào của người ở lại. Trong cuộc chia tay nhà thơ đã để cho người ở lại
là người lên tiếng trước bởi trong cuộc chia tay những người ở lại thường là người nhạy cảm hơn. Đoạn thơ có hai câu
hỏi tu từ "Mình về mình có nhớ ta" và Mình về mình có nhớ không", hỏi không phải để được trả lời mà hỏi để nhắn nhủ,
nhắc nhở người đi, ravề hãy nhớ. Con người đang đứng trước cuộc biệt li nên hình thức câu thơ cũng nhuốm màu li biệt.
Tác giả đã đặt hai từ mình - ta ở vị trí đầu và cuối câu tạo cảm giác xa xôi, cách biệt. Còn ở giữa là cụm từ "mình có nhớ"
thể hiện tâm trạng băn khoăn, nhớ thương của người ở lại.

- Cụm từ "mình có nhớ" được lặp lại 2 lần, riêng từ nhớ được lặp lại 4 lần trong thể hiện nỗi nhớ da diết, khôn nguôi của
người ở lại. Họ lo sợ mai này bạn mình về nơi phồn hoa đô hội đầy cám dỗ sẽ không giữ được tình cảm son sắt, thủy
chung. "Việt Bắc" là bài ca tình nghĩa. Câu hỏi vang lên dồn dập như nhắc nhở, như khắc sâu những tình cảm tốt đẹp của
quân dân, của cách mạng và kháng chiến, của mình với ta. Nỗi niềm, tình cảm ấy của người ở lại còn được nhà thơ Tố
Hữu nhắc đến trong đoạn thơ sau của bài thơ:

Mình về thành thị xa xôi

Nhà cao còn nhớ núi đồi nữa chăng

Phố đông có nhớ bản làng

Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng

- Lời người ở lại khơi gợi lại thời gian gắn bó trong suốt 15 năm. Câu thơ phảng phất âm hưởng của một câu Kiều về 15
năm tình nghĩa sâu nặng, thủy chung của Thúy Kiều và Kim Trọng:

Những là dày ước mai ao

Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình

Mười lăm năm ấy là mười lăm năm gắn bó giữa những người cách mạng miền xuôi với nhân dân Việt Bắc trên chiến khu
cách mạng. Mười lăm năm ấy được tính từ khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940, từ khi Hồ Chí Minh về nước bắt tay vào xây
dựng khu căn cứ địa cách mạng tại chiến khu Việt Bắc để làm thủ đô kháng chiến của dân tộc:

Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt

Trắng rừng biên giới nở hoa mơ

Bác về im lặng con chim hót

Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ

Cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc đã cùng ăn, cùng ở, cùng chiến đấu gắn bó khăng khít và làm nên chiến thắng lẫy
lừng của dân tộc “vang dội năm châu, chấn động địa cầu” và rồi là một cuộc chia tay lịch sử, người cán bộ cách mạng rời
Việt Bắc về xuôi. Mười lăm năm "Mình đây ta có đắng cay ngọt bùi", mười lăm năm "bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp
cùng", ...làm sao kể xiết biết bao ân tình. Bốn từ "thiết tha mặn nồng" cho thấy tình cảm giữa Việt Bắc và cán bộ thật
thủy chung sâu nặng, keo sơn bền chặt. Hỏi không chỉ để nhắn nhủ người đi mà đây cũng là cách để người ở lại bày tỏ
tình cảm của mình. Không biết ra về mình có nhớ không, còn ta không thể nào quên những ngày tháng ấy.

- Lời người ở lại còn gợi nhớ cả không gian Việt Bắc qua các hình ảnh chỉ thiên nhiên như cây, núi, sông, nguồn. Ra về rồi,
thấy cây hãy nhớ đến núi rừng chiến khu, nhìn sông hãy nhớ đến suối nguồn Việt Bắc. Cách gợi nhắc như lời dặn dò kín
đáo mà chân thành. Việt Bắc là cội nguồn cách mạng, "Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa", là trung tâm đầu não
của cuộc kháng chiến. Câu thơ này là sự vận dụng linh hoạt và tài tình của nhàthơ Tố Hữu với câu tục ngữ "Uống nước
nhớ nguồn". Phải chăng người ở muốn khẳng định có những ngày tháng gian khổ ở Việt Bắc mới có ngày chiến thắng về
ta, để hôm nay mình được về thủ đô Hà Nội. Nên dù có đi đâu, về đâu hãy nhớ đến mảnh đất Việt Bắc, cái nôi của cách
mạng làm nên chiến thắng, là cội nguồn của dân tộc. Đó là đạo lý làm người, là truyền thốngvăn hóa của người Việt
Nam. Qua đó nhà thơ cũng nhắc nhớ các thế hệ con cháu phải biết hướng về gốc gác, về nơi bén rễ, về cái nôi cho ta
hình hài.
=> Bốn câu thơ như một bài ca dao đầy chất trữ tình thể hiện những băn khoăn, trăn trở của ngườiở lại, của Việt Bắc
thuỷ chung với cách mạng. Tố Hữu đã chọn được cách nói để khơi nguồn cho cảm xúc, mạch thơ trong những câu mở
đầu này cứ thế tuôn chảy suốt bài thơ

2.3. Bốn câu thơ:

Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân ly

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...

Tiếng lòng của người ra đi

*Hai câu đầu:

- Trước những lời tha thiết của người ở lại, người ra đi không trực tiếp trả lời những câuhỏi của người ở lại mà lắng nghe,
rồi như tự nói với chính mình như một lời độc thoại nội tâm trữ tình đầy sâu lắng. Đại từ "ai" tuy phiếm chỉ nhưng rất cụ
thể, gần gũi, thân thương và chỉ người ở lại. Cồn là hình ảnh gợi không gian núi rừng Việt Bắc. Trong câu thơ hình ảnh
người Việt Bắc hiện lên giữa không gian thiên nhiên quen thuộc cất lên những lời tha thiết, nhớ thương. Người ra cũng
cảm được nỗi lòng của người ở lại nên trong lòng họ cũng trào dâng bao tình cảm nhớ thương, quyến luyến... Bởi vậy,
đoạn thơ trở thành lời đồng vọng của người đi và kẻ ở.

- Tố Hữu đã thể hiện thật tinh tế tâm trạng người về xuôi bằng hai từ láy: Bâng khuâng và bồn chồn.

+“Bâng khuâng” là nhớ thương, lưu luyến, bịn rịn.

+ “Bồn chồn” diễn tả tâm trạng hồi hộp, day dứt, nôn nao. Trong lòng cồn lên bao nỗi nhớ thương, không nỡ
chia xa nên bước chân người ra đi trở nên ngập ngừng, dùng dằng vừa muốn đi lại vừa muốn ở. Ai đó cũng đã diễn tả
thật hay tâm trạng ấy của người ra đi "Bước đi một bước lâu lâu lại dừng". Nghệ thuật tiểu đối kết hợp với đảo ngữ vừa
tạo chất nhạc, chất thơ ngọt ngào, vừa nhấn mạnh vào tâm tư với nhiều cảm xúc rối bời trong lòng người ra đi.

*Hai câu sau:

- Lời người gợi lên cảnh một cuộc chia tay đầy lưu luyến bịn rịn. Trong đó "áo chàm" là biện pháp nghệ thuật hoán dụ
dùng hình ảnh chiếc áo màu chàm để chỉ người Việt Bắc, là cách dùng bộ phận để chỉ toàn thể vì người Việt Bắc thường
nhuộm và mặc áo màu chàm. Màu chàm là màusắc của núi rừng, bền bỉ, không hề phai nhạt như tình cảm mãi không
bao giờ nhạt phai. Màu áo chàm thể hiện phẩm chất của người Việt Bắc giản dị, mộc mạc, chịu thương chịu khó và ân
tình, thủy chung:

Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn

Chàm nâu thêm đậm phấn son chẳng nhòa

Cuộc chia tay có những người dân Việt Bắc đầy ân nghĩa đưa tiễn, giãi bày tình cảm nhớ thương. Người ra đi cũng chưa
đi đã nhớ nhớ tiếng ai tha thiết, nhớ áo chàm, cồn nhỏ, nhớ cảnh nhớ người và tình cảm của người ra đi cũng thật son
sắc, thủy chung.

- Câu thơ “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” là câu thơ gợi nhiều cảm xúc, là hình ảnhcó giá trị biểu cảm cao cho thấy
người đi kẻ ở đều chung một nỗi niềm lưu luyến bịn rịn khiến cảnh chia tay hiện lên thật cảm động. Cả người đi và kẻ ở
đều có bao nhiêu điều muốn nói, bao nhiêu tình cảm muốn giãi bày nhưng nghẹn ngào không cất nổi thành lời. Và có lẽ
ngôn ngữ cũng không đủ để diễn đạt bao nỗi nhớ thương nên im lặng cũng là cáchthể hiện tình cảm. Họ cầm tay nhau
mà không biết nói gì nhưng trong cái cầm tay ấy hẳn có bao nhiêu xúc động, nghẹn ngào. Đôi khi chỉ cần một cái cầm tay
thôi đã đủ nói lên tất cả. Giống như những người lính trong bài thơ của Chính Hữu vì thương nhau mà nắm lấy tay nhau:

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

(Đồng chí - Chính Hữu)

Cái nắm tay trong bài thơ “Đồng chí” là để xiết chặt tình đồng đội, để cùng nhau vượt lên trên gian khổ. Còn cái cầm tay
trong cuộc chia ly này là tình cảm quân dân cá nước, là mối quan hệ chân thành, bền chặt của cách mạng và nhân dân.
Ba dấu chấm lửng đặt ở cuối đoạn thơ giống như một nốt lặng trong một khuôn để tình cảm cứ ngân dài, sâu lắng.

3. Đánh giá

3.1. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật

Bằng thể thơ lục bát êm dịu, kết cấu đối đáp của ca dao, dân ca, ngôn ngữ, hình ảnh giản dị, quen thuộc, đậm chất ca
dao, dân ca, giọng điệu thơ ngọt ngào, truyền cảm, đặc biệt thể hiện qua việc sử dụng cặp từ mình - ta thân mật cùng
với các biện pháp tu từ như điệp từ, hoán dụ, tiểu đối... đoạn thơ đã trở thành một khúc trữ tình, sâu lắng thể hiện tình
cảm son sắc, thủy chung giữa người đi và kẻ ở, giữa những người cán bộ cách mạng miền xuôi và nhân dân Việt Bắc.
Tình cảm trong sáng ấy là tình cảm cách mạng. tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân trong cuộc
kháng chiến chống Pháp, là cội nguồn sức mạnh để Việt Bắc trở thành quê hương cách mạng, cội nguồn chiến thắng.

3.2. Nhận xét về tình cảm của nhà thơ với Việt Bắc

Kết cấu của bài thơ là kết cấu đối đáp của ca dao, dân ca. Trong đó, đoạn thơ là lời của người Việt Bắc tự bày tỏ lòng
mình và nhắn nhủ người cán bộ cách mạng miền xuôi rằng ra về hãy nhớ về mười lăm năm trên chiến khu Việt Bắc, nhớ
cảnh và người Việt Bắc. Nhưng đây chỉ là sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ Tố Hữu bởi trong thực tế không hề có cuộc
chia li người đi kẻ ở như vậy. Sáng tạo nghệ thuật này có ý nghĩa giúp nhà thơ giãi bày được tình cảm của mình, khẳng
định mười lăm năm trên chiến khu chính là cội nguồn của tình cảm sâu nặng của những người cán bộ cách mạng và nhân
dân Việt Bắc. Những ngày tháng ở Việt Bắc trở thành kỉ niệm, ấn tượng sâu sắc, đẹp đẽ không thể phai mờ trongtâm trí
người cán bộ khi trở về xuôi. Vì vậy, đoạn thơ không chỉ thể hiện cái nhìn khái quátvề cuộc kháng chiến chống Pháp đầy
gian khổ, thiếu thốn nhưng chất chứa ân tình mà còn là lời ngợi ca, tri ân Việt Bắc, với cuộc kháng chiến và con người
kháng chiến, thể hiện lòng biết ơn, tình cảm thủy chung của người cán bộ cách mạng đối với chiến khu cách mạng và con
người Việt Bắc. Đoạn thơ góp phần làm nổi bật phong cách thơ Tố Hữu và bồi đắp những tình cảm đẹp cho người đọc về
tình quân dân trong quá khứ và hiện tại, nhắc nhở mỗi người Việt Nam về lòng biết ơn cội nguồn.

Đoạn số 2:
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu, từ đó nhận xét về khúc hùng và tình ca:

“Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?


Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già.

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Mình về, còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?

(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.110)

I. MỞ BÀI

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

- Giới thiệu yêu cầu của đề bài:

II. THÂN BÀI

1. Khái quát (giống đoạn 1)

2. Phân tích đoạn thơ: Lời người ở lại gợi nhắc về những ngày tiền khởi nghĩa, cách mạng tháng Tám

2.1. Giới thiệu đoạn thơ

- Kết cấu đối đáp được thể hiện rất rõ trong suốt đoạn trích, bao gồm cả đoạn thơ này. Người ta đã có lý khi nói thơ Tố
Hữu là thứ thơ "đốt cháy trái tim để trở thành trí tuệ", với ý tưởng trữ tình hoá sự kiện chính trị cũng như đời sống chính
trị của đất nước, viết "Việt Bắc", Tố Hữu đã sáng tạo nên một cấu tứ rất độc đáo-khúc hát đối đáp trong cuộc chia tay
giữa người ở và người về xuôi để khơi gợi những kỉ niệm gắn bó trong những ngày kháng chiến gian khổ mà vẻ vang.

- Cặp từ mình – ta: Mình - ta vốn là cách xưng hô quen thuộc trong đời sống hàng ngày, là cách xưng hô của vợ chồng
hoặc giữa những người có mối quan hệ thân thiết, gắn bó.

- Trong ca dao, dân ca cặp từ mình - ta thường xuất hiện trong các bài ca dao giao duyên như:

Mình nói với ta mình hãy còn son

Ta đi qua ngõ thấy con mình bò

Con mình những trấu cùng tro

Ta đi lấy nước tắm cho con mình

Hay:
Mình về có nhớ ta chăng

Ta về ta nhớ hàm răng mình cười

Hoặc:

Mình về ta chẳng cho về

Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ

- Cách xưng hô mình - ta gần gũi thân thương được Tố Hữu vay mượn trong ca dao, dân ca. Sáng tạo của nhà thơ là ở
chỗ nếu trong ca dao, dân ca mình - ta là đôi lứa yêu nhau với một nam một nữ thì trong bài thơ mình - ta là người đi
(người cán bộ miền xuôi) và kẻ ở (nhân dân Việt Bắc). Sáng tạo hơn nữa là trong bài thơ mình - ta có sự chuyển hóa, hòa
quyện thành sự đồng vọng diễn tả chung tâm tư của cả người đi, kẻ ở. Cả mình và ta đều chung những kỉ niệm gắn bó,
chung một nỗi niềm tâm trạng, nay phải chia tay biết bao lưu luyến, bịn rịn. Bài thơ đã vượt ra khỏi những cảm xúc riêng
tư để chuyển tải một vấn đề rất lớn của đời sống cách mạng – đó là vấn đề ân nghĩa thủy chung của cách mạng với nhân
dân. Trong đoạn thơ, từ mình lúc được ghép thành "mình đi", lúc lại thành "mình về" có thể hiểu một cách đơn thuần là
chỉ người cán bộ cách mạng nhưng cũng có thể hiểu theo một hướng khác là mình đi hôm nay liệu ngày mai mình có trở
về và khi về còn nhớ. Từ "mình" còn được ghép thành các cụm từ "Mình đi, có nhớ", "mình về, còn nhớ" thành lời ướm
hỏi, gợi nhắc, nhắn nhủ người ra đi ra về hãy nhớ.

- Trong đoạn thơ 12 câu có 4 câu thơ đầu tái hiện những ngày tháng gian khổ trên chiến khu Việt Bắc, 4 câu thơ tiếp
theo là những ngày tháng nghĩa tình và 4 câu thơ cuối khẳng định những ngày tháng trên chiến khu Việt Bắc đã làm nên
những trang sử vẻ vang của đất nước.

2.2. Bốn câu thơ:

- Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

Những ngày tháng gian khổ

- Bốn câu thơ trước hết gợi lên bức tranh thiên nhiên Việt Bắc dữ dội, khắc nghiệt với mưa nguồn, suối lũ, mây mù. Núi
rừng Việt Bắc có những cơn mưa rừng dầm dề tê buốt, những trận bão rừng đá nghiêng, cây đổ, những con suối róc
rách, hiền lành bỗng dưng thành dòng nước lũ cuốn phăng tất cả, rừng núi Việt Bắc thương bị mây mù bao phủ bởi nó
rất cao so với mực nước biển. Cảnh sương mù ở vùng rừng núi miền Bắc nước ta cũng được nhà thơ Quang Dũng tái
hiện trong "Tây Tiến" để nói về những khó khăn, gian khổ của người lính:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Cách nói tăng tiến “những mây cùng mù” càng nhấn mạnh khung cảnh hoang sơ, đầy thách với người cán bộ cách mạng.
Những ngày đầu lập căn cứ địa cách mạng ấy, người cán bộ từ miềnxuôi chưa quen với cái khắc nghiệt của thiên nhiên
rừng núi nên bao nhiêu khó khăn gian khổ. Nhưng cũng từ buổi ấy, nhân dân và cán bộ đã cùng nhau đồng cam, cộng
khổ, gắn bó chia sẻ cùng nhau.
- Không chỉ đối diện với sự khắc nghiệt của thiên nhiên, những người cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc còn phải
sinh hoạt trong điều kiện vật chất vô cùng thiếu thốn, kham khổ. Thiếu thốn nên chỉ có miếng cơm chấm muối, bát cơm
cũng phải chia đôi, không có cơm thì ăn trám, ăn măng, cùng đắp chăn làm từ vỏ cây sui. Mặc dù khó khăn gian khổ là
thế nhưng họ vẫn cùng nhau vượt qua bởi cùng khắc sâu mối thù với giặc. “Mối thù nặng vai” là hình ảnh hoán dụ có tác
dụng vật chất hóa, cụ thể hóa mối thù sâu nặng của nhân dân đối với bè lũ cướp nước và bán nước. Nghệ thuật đối lập
giữa miếng cơm nhỏ bé với mối thù to lớn đè nặng trên vai đã nâng cao tầm vóc con người Việt Nam trong cuộc kháng
chiến chống Pháp. Với ý chí quyết tâm, ngườiViệt Nam đã vượt qua mọi khó khắn gian khổ để chiến đấu và chiến thắng
quân thù.

2.3. Bốn câu thơ:

Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Những ngày tháng nghĩa tình

*Hai câu thơ đầu:

- Chính những ngày tháng khó khăn, gian khổ ấy đã làm nên nghĩa nên tình, khiến cho những người cán bộ cách mạng và
nhân dân Việt Bắc xích lại gần nhau, yêu thương gắn bó với nhau hơn. Bởi vậy mà những ngày tháng gian khổ cũng là
những ngày tháng nghĩa tình. Nghĩa tình sâunặng nên khi phải chia tay mới lưu luyến, bịn rịn, bâng khuâng, không cầm
nổi lòng mình mà cất lên lời giãi bày, thổ lộ tình cảm.

- Trong cuộc chia tay người ở lại đã lên tiếng giãi bày, thổ lộ tình cảm nhớ thương, tha thiết qua hai hình thức gián tiếp
và trực tiếp:

+ Ban đầu, người ở lại giãi bày tình cảm một cách gián tiếp, tế nhị bằng cách mượn các hình ảnh thiên nhiên như
rừng núi, trám bùi, măng mai. Đây là cách nói lấp lửng, giãi bày tình cảm đầyý nhị, khéo léo mà nhà thơ Tố Hữu học
được từ ca dao:

Bây giờ mận mới hỏi đào

Vườn hồng đã có ai vào hay chưa

Mận hỏi thì đào xin thưa

Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào

Nghệ thuật nhân hóa kết hợp với nghệ thuật hoán dụ “rừng núi nhớ ai”, trong đó hoán dụ "rừng núi" chỉ Việt Bắc và
người Việt Bắc, đại từ phiếm chỉ "ai" chỉ người cán bộ về xuôi đã diễn tả trong cuộc chia tay này, dường như cả thiên
nhiên và con người Việt Bắc đều thương nhớ người cán bộ về xuôi. Người ở lại còn khéo léo bày tỏ tình cảm chân thành,
mộc mạc của mình qua hình ảnh trám bùi, măng mai vốn sản vật của núi rừng Việt Bắc. Đây là các món ăn thường nhật
của cán bộ kháng chiến, cũng được Hồ Chí Minh nhắc đến trong bài thơ "Tức cảnh Pác Bó":

Sáng ra bờ suối tối vào hang

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng


Khi những người cán bộ cách mạng ở Việt Bắc, người Việt Bắc lấy măng, hái trám để nuôi cán bộ. Vì thế bài thơ mới có
những câu thơ tuyệt bút:

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Tình cảm quân dân thắm thiết nên khiến hình ảnh cô gái hái măng một mình trong rừng mà không hề gợi cảm giác lẻ loi,
đơn chiếc. Nhưng bây giờ khi những người cán bộ cách mạng về xuôi trám và măng không có người thu hái nên để trám
rụng, măng già.

=> Nhìn chung, việc mượn các hình ảnh thiên nhiên để giãi bày tình cảm đã thể hiện tình cảm nhớ thương, cảm giác lẻ
loi, trống vắng đến thẫn thờ, ngẩn ngơ của người ở lại. Mình về ta nhớ và nỗi lòng của con người lan tỏa cả ra thiên
nhiên,cảnh vật khiến cả núi rừng dường như cũng ngẩn ngơ, trống trải, buồn bã đến lạ thường.

*Hai câu thơ sau:

- Gợi ra cảnh vật Việt Bắc với những mái nhà tranh, vách đất, những bờ lau xám hiu hắt. Đây vẫn là những hình ảnh được
sử dụng để bộc lộ gián tiếp tình cảm của người ở lại trong cuộc chia tay. Từ láy"hắt hiu" kết hợp với màu lau xám càng
làm nổi bật lên khung cảnh hoang vắng, đơn sơ, buồn bã của cảnh vật.

- Nhưng dường như diễn tả tình cảm một cách gián tiếp chưa đủ, chưa thỏa, chưa diễn tả hết được tình cảm sâu nặng
nên người Việt Bắc sau đó không cần mượn hình ảnh gián tiếp mà khẳng định trực tiếp, rõ ràng tình cảm của mình là
"đậm đà lòng son". "Lòng son" là từ ngữ rất đắt để thểhiện tình cảm sâu sắc, thủy chung, kết hợp thêm với từ láy "đậm
đà" cùng nghệ thuật đối lập, đối lập giữa "hắt hiu lau xám" với "đậm đà lòng son"càng góp phần khẳng định tấm lòng sắc
son, caoquý của nhân dân Việt Bắc.

2.4. Bốn câu thơ:

Mình về, còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?

Việt Bắc là cội nguồn cách mạng, làm nên những trang sử vẻ vang của dân tộc

- Người ở lại một lần nữa nhắn nhủ người đi nhớ về Việt Bắc. "Núi non" ở đây là hoán dụ chỉ thiên nhiên, con người Việt
Bắc. Núi non này đã từng chở che và cùng cán bộ kháng chiến, nhân dân Việt Bắc đánh giặc:

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

Núi giăng thành lũy sắt dày

Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”

Lời người ở lại gợi nhắc lại những ngày còn là Việt Minh kháng Nhật, là những ngày đầu đầu gian khổ của cuộc kháng
chiến, người ở lại mong người về xuôi nhớ ghi những thời khắc lịch sử ấy, bởi “mình – ta” đã gắn bó với nhau từ khi đó
để làm nên chiến thắng hôm nay.
- Ở đoạn thơ 12 câu này cặp từ mình - ta được lặp đi lặp lại 8 lần. Trong đó, mười câu thơ đầu của đoạn thơ "mình" chỉ
người ra đi nhưng đến câu thơ "Mình đi, mình có nhớ mình" thì từ mình chỉ cả người đi và kẻ ở. Mình với ta chuyển hóa,
tuy hai mà một thể hiện tình cảm gắn bó, mặn nồng.

- Người ở lại còn nhắc đến các tên địa danh Tân Trào, Hồng Thái nay đã trở thành hai di tích lịch sử nổi tiếng, gắn với hai
sự kiện quan trọng của cách mạng. Cây đa Tân Trào là nơi làm lễ xuất quân của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng
quân, tiền thân của Quân đội Việt Nam. Đình Hồng Thái là nơi họp quốc dân đại hội phát động khởi nghĩa cách mạng
tháng Tám. Những sự kiện lớn lao ấy đã làm nên thắng lợi của cách mạng tháng Tám, mở ra là những trang sử vẻ vang
của dân tộc. Nhắc đến các địa danh này, người ở lại muốn nhắn nhủ người ra đi nhớ về Việt Bắc là nhớ về quê hương
cách mạng.

3. Đánh giá

3.1. Đánh giá chung về nội dung và nghệ thuật

- Bằng thể thơ lục bát êm dịu, kết cấu đối đáp của ca dao, dân ca, ngôn ngữ, hình ảnhgiản dị, quen thuộc, đậm chất ca
dao, dân ca, giọng điệu thơ ngọt ngào, truyền cảm, đặc biệt thể hiện qua việc sử dụng cặp từ mình - ta thân mật cùng
với các biện pháp tu từ như điệp từ, ẩn dụ, tiểu đối... Nét đặc sắc trong đoạn thơ này là ở chỗ tiết tấu rất giàu nhạc điệu.
Tố Hữu đã sử dụng nghệ thuật đối một cách triệt để trong các câu thơ tám chữ làm cho nhạc điệu củađoạn thơ trở nên
réo rắt và tạo nên những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc với người đọc. Đoạn thơ vìthế đã trở thành một khúc trữ tình, sâu
lắng thể hiện tình cảm son sắc, thủy chung giữa người đi và kẻ ở, giữa những người cán bộ cách mạng miền xuôi và nhân
dân Việt Bắc. Tình cảm trong sáng ấy là tình cảm cách mạng, tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân
trong cuộc kháng chiến chống Pháp, là cội nguồn sức mạnh để Việt Bắc trở thành quê hương cách mạng, cội nguồn chiến
thắng.

3.2. Nhận xét đoạn thơ là khúc hùng ca và tình ca

Khúc hùng ca là khúc ca hào hùng, ngợi ca cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ mà oanh liệt của dân tộc. Khúc tình ca
là bài ca trữ tình dạt dào yêu thương, chan chứa ân tình của cái tôi trữ tình nhà thơ, của người kháng chiến,của nhân
dân dành cho Đảng, cho đất nước, dân tộc, cho Bác Hồ kính yêu…

Đoạn thơ là khúc hùng ca của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bởi đã phản ánh những ngày đầu kháng chiến đầy
khó khăn, gian khổ, anh dũng và kết thúc bằng thắng lợi vẻ vang. Lời thơ tràn đầy âm hưởng anh hùng ca mang dáng vẻ
của một sử thi hiện đại, khẳng định sức mạnh của dân tộc, ca ngợi cách mạng tháng tám là trang sử vàng tạo thành từ
lòng yêu nước, căm thù giặc, tình nghĩa thủy chung của con người kháng chiến.

Không chỉ vậy, tuy đề cập đến đề tài chiến tranh cách mạng nhưng bài thơ Việt Bắc nói chung, đoạn thơ nói riêng hướng
cảm xúc đến nghĩa tình thuỷ chung cách mạng của con người Việt Nam trong kháng chiến, đó là một phẩm chất có ý
nghĩa truyền thống của dân tộc. Bài thơ đã làm sống lại vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc, vẻ đẹp của cuộc
sống chiến đấu gịan khổ nhưng ấm áp tình người, vẻ đẹp của lịch sử cách mạng Việt Nam một thời không quên.Tất cả
khắc sâu trong nỗi nhớ của người cán bộ cách mạng về xuôi: thiên nhiên Việt Bắc, người dân Việt Bắc bình dị, son sắt,
thủy chung; nghĩa tình của nhân dân với cán bộ cách mạng, là sự đồng cam cộng khổ, cùng chung niềm vui và gánh vác
những nhiệm vụ nặng nề. Tất cả tạo nên phong cách thơ độc đáo của Tố Hữu, làm cho thơ ông trở nên gần gũi dễ học dễ
thuộc đi vào lòng người.

Đoạn số 3:
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu, từ đó nhận xét về nỗi nhớ và tình cảm của nhà thơ
với Việt Bắc:
- Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.

Ta đi, ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...

Thương nhau, chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.

Nhớ sao lớp học i tờ

Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa...

(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.110,111)

I. MỞ BÀI

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

- Giới thiệu yêu cầu của đề bài:

II. THÂN BÀI

1. Khái quát(gống đoạn 1 )

2. Phân tích đoạn thơ: Người ra đi gợi nhắc tình cảm gắn bó
2.1. Giới thiệu đoạn thơ

- Kết cấu đối đáp được thể hiện rất rõ trong suốt đoạn trích, bao gồm cả đoạn thơ này. Người ta đã có lý khi nói thơ Tố
Hữu là thứ thơ "đốt cháy trái tim để trở thành trí tuệ", với ý tưởng trữ tình hoá sự kiện chính trị cũng như đời sống chính
trị của đất nước, viết "Việt Bắc", Tố Hữu đã sáng tạo nên một cấu tứ rất độc đáo-khúc hát đối đáp trong cuộc chia tay
giữa người ở và người về xuôi để khơi gợi những kỉ niệm gắn bó trong những ngày kháng chiến gian khổ mà vẻ vang.

- Cặp từ mình – ta: Mình - ta vốn là cách xưng hô quen thuộc trong đời sống hàng ngày, là cách xưng hô của vợ chồng
hoặc giữa những người có mối quan hệ thân thiết, gắn bó.

- Trong ca dao, dân ca cặp từ mình - ta thường xuất hiện trong các bài ca dao giao duyên như:

Mình nói với ta mình hãy còn son

Ta đi qua ngõ thấy con mình bò

Con mình những trấu cùng tro

Ta đi lấy nước tắm cho con mình

Hay:

Mình về có nhớ ta chăng

Ta về ta nhớ hàm răng mình cười

Hoặc:

Mình về ta chẳng cho về

Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ

- Cách xưng hô mình - ta gần gũi thân thương được Tố Hữu vay mượn trong ca dao, dân ca. Sáng tạo của nhà thơ là ở
chỗ nếu trong ca dao, dân ca mình - ta là đôi lứa yêu nhau với một nam một nữ thì trong bài thơ mình - ta là người đi
(người cán bộ miền xuôi) và kẻ ở (nhân dân Việt Bắc). Sáng tạo hơn nữa là trong bài thơ mình - ta có sự chuyển hóa, hòa
quyện thành sự đồng vọng diễn tả chung tâm tư của cả người đi, kẻ ở. Cả mình và ta đều chung những kỉ niệm gắn bó,
chung một nỗi niềm tâm trạng, nay phải chia tay biết bao lưu luyến, bịn rịn. Bài thơ đã vượt ra khỏi những cảm xúc riêng
tư để chuyển tải một vấn đề rất lớn của đời sống cách mạng, đó là vấn đề ân nghĩa thủy chung của cách mạng với nhân
dân.

- Nếu như đoạn thơ trước nói về nỗi lòng kẻ ở người đi, tái hiện cảnh chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn rồi sau đó người ở
lại đã hỏi và gợi nhắc người ra đi hãy nhớ về 15 năm gắn bó, nhớvề những ngày tháng gian khổ mà nghĩa tình thì đoạn
thơ này đến lượt người ra đi thổ lộ, giãi bày tình cảm của mình. Lời người ra đi gợi lại nỗi nhớ về cuộc sống sinh hoạt
trên chiến khu Việt Bắc,khẳng định tình cảm son sắc, chưa về đã nhớ. Nhớ thiên nhiên Việt Bắc thơ mộng, thanh bình,
yên ả và nhớ người Việt Bắc nghèo về vật chất nhưng sâu nặng nghĩa tình, nhớ những ngày tháng gian nân mà vẫn lạc
quan, yêu đời, tỉnh cảm vẫn gắn bó keo sơn.

2.2. Bốn câu thơ đầu:

- Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh


Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...

Người ra đi khẳng định tình cảm mặn nồng, trước sau như một

- Trước nỗi lòng của người ở lại, người ra đi cũng khẳng định tình cảm son sắc thủy chung. “Ta – mình”, “mình – ta”
được lặp đi lặp lại, quấn quýt, quyện hoà làm một. Câu thơ đầu của đoạn thơ là sự vận dụng sáng tạo câu ca dao về tình
cảm lứa đôi:

Ta với mình tuy hai mà một

Mình với ta tuy một mà hai

"Đinh ninh" là sự khẳng định chắc chắn, mãi mãi gắn bó, thuỷ chung. Như vậy, người ra đi ở đây đã khẳng định tình cảm
của mình với Việt Bắc và người Việt Bắc trước sau như một, lúc nào cũng mặn mà đinh nình, dù có thế nào cũng không
thay lòng đổi dạ.

- Câu thơ "Mình đi, mình lại nhớ mình” là sự hô ứng, để trả lời cho câu hỏi đặt ra của đồng bào Việt Bắc “Mình đi mình
có nhớ mình". Người cán bộ kháng chiến về nơi đô thành nhưng vẫn nhớ đến những ngày sống ở chiến khu Việt Bắc.
Đây cũng chính là lời khẳng định phẩm chất đạo đức của người cán bộ kháng chiến, luôn nhớ về cội nguồn cách mạng.

- Biện pháp nghệ thuật so sánh “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” đã khẳng định một lần nữa sự chung thuỷ
son sắt, tình cảm bền chặt của người cán bộ kháng chiến với Việt Bắc. Nhà thơ Tố Hữu có lẽ đã sáng tạo câu thơ dựa
trên hình ảnh ca dao:

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Trong ca dao, tình mẹ vô bờ bến được so sánh với nước trong nguồn, tuôn chảy bất tận không bao giờ cạn. “Bao nhiêu”
thành cặp với “bấy nhiêu” là cái vô tận đi liền với một cái vô tận khác. Câu thơ chính là tiếng lòng được thốt lên từ một
trái tim tràn đầy xúc động của kẻ ở người về trong giây phút li biệt, thể hiện tình cảm nhớ thương gắn bó của những
người cách mạng về xuôi với cảnh và người Việt Bắc cũng như nước trong nguồn không bao giờ vơi cạn.

2.3. Câu thơ "Nhớ gì như nhớ người yêu"

Nhớ Việt Bắc và người Việt Bắc như nỗi nhớ của tình yêu đôi lứa:

- Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, nhà thơ đã diễn tả nỗi nhớ về một mảnh đất như nỗi nhớ người yêu, một mối quan
hệ chính trị lại giống như một tình yêu đôi lứa. Tình yêu luôn đi liền với nỗi nhớ và nỗi nhớ trong tình yêu thì luôn là
nồng nàn, da diết, cháy bỏng nhất. Thơ ca xưa nay viết về nỗi nhớ trong tình yêu rất nhiều. Ca dao cũng có những câu
như:

Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

Như đứng đống lửa như ngồi đống than

Hoặc:

Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ

Nhớ ai, ai nhớ bây giờ nhớ ai


Ông hoàng thơ tình Xuân Diệu cũng thể hiện một nỗi nhớ mãnh liệt:

Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh.

Anh nhớ em, anh nhớ lắm! em ơi!

Nỗi nhớ trong tình yêu của người phụ nữ lại được nữ thi sĩ Xuân Quỳnh miêu tả:

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức

Nỗi nhớ người yêu là nỗi nhớ có khi ngẩn ngơ, ngơ ngẩn; có khi có khi bồn chồn, bối rối, bổi hổi, bồi hồi, mãnh liệt và
thường trực... Nỗi nhớ Việt Bắc và người Việt Bắc phải chăng hàm chứa mọi cung bậc cảm xúc ấy. Với hình ảnh so sánh
này, Tố Hữu đã thể hiện được tình cảm rất sâu đậm của người đi bởi có nỗi nhớ nào thổn thức, thường trực và mãnh liệt
hơn nỗi nhớ trong tình yêu.

- Điệp từ "nhớ" được lặp lại hai lần trong câu thơ đã nhấn mạnh nỗi nhớ cồn cào, da diết khôn nguôi. Cuộc đời mỗi con
người đều không tránh được chuyện đi và ở, hội ngộ vàchia li. Những mảnh đất đã từng qua, ngững con người đã từng
gắn bó đều để lại niềm thương và nỗi nhớ như nhà thơ Chế Lan Viên đã khái quát:

Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn

Mười lăm năm trên chiến khu Việt Bắc đã để lại bao tình cảm luyến thương nên trong giờ phút chia tay tất cả kỉ niệm
trong suốt 15 năm gắn bó bỗng chốc ùa về với nhữngấn tượng, tình cảm sâu đậm nhất. Và người ra đi cũng nhu cầu
được bày tỏ nỗi lòng.

2.4. Đoạn thơ:

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy

Nhớ thiên nhiên việt Bắc yên ả, thanh bình, thơ mộng

- Trong nỗi nhớ của người ra đi thiên nhiên Việt Bắc rất đẹp và thơ mộng. Đó là ViệtBắc vào những đêm trăng. “Trăng
lên đầu núi" là vầng trăng mới lên, mới lấp ló nơi đầu núi thật đẹp và lãng mạn. Khung cảnh Việt Bắc có ánh trăng chiếu
rọi rất nên thơ còn đượcnhà thơ Tố Hữu miêu tả một lần nữa trong bài thơ:

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

"Nắng chiều lưng nương” cũng là khoảnh khắc đẹp của thiên nhiên Việt Bắc, ánh nắng dịu nhẹ trải vàng cả núi rừng và
nương rẫy trong buổi chiều tà. Các hình ảnh thiênnhiên thơ mộng ấy còn gợi hình ảnh con người Việt Bắc trong những
khoảnh khắc đẹp, gợinhững đêm trăng hò hẹn, những buổi chiều lao động trên nương rẫy.
- Nỗi nhớ không chỉ trải dài theo thời gian “trăng lên – nắng chiều – sớm – khuya” mà còn trải rộng khắp không gian: Bản
khói cùng sương – bếp lửa – rừng nứa – bờ tre – ngòi Thia – sông Đáy – suối Lê... Nghệ thuật liệt kê đã tái hiện nỗi nhớ
vơi đầy của người cán bộ kháng chiến đồng thời khắc họa được vẻ đẹp của quê hương Việt Bắc. Những đồi tre bát ngát,
những dòng suối mát trong, con sông hiền hòa, những bếp lửa ấp iu nồng đượm, tất cả cứ in sâu trong nỗi nhớ người về.
Nhắc đến dòng sông, đồi núi, rừng nứa, bờ tre là rưng rưng bao kỉ niệm, đong đầy bao yêu thương. Những cái tên: Ngòi
Thia, sông Đáy, suối Lê có lẽ không đơn thuần chỉ là những địa danh mà còn ẩn dấu bao kỉ niệm, cảm xúc. Có thể nói mỗi
thời gian, không gian này với người về xuôi đều lung linh kỉ niệm, cham chứa yêu thương.

- Câu thơ “Sớm khuya bếp lửa người thương đi về” là một điểm nhấn của nỗi nhớ với sự xuất hiện của hình ảnh con
người Việt Bắc. Hai chữ “người thương” thật hay, đó là những con người gắn bó với nhau bằng tình sâu nghĩa đậm.
“Người thương” ấy là những ai? Đó có thể là người em liên lạc “Sớm bản Na chiều em qua bản Bắc, mười năm tròn
không mất một phong thư”, có thể là người anh du kích với “Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách”, là người mế “Lửa hồng
soi tóc bạc/ năm con đau mế thức một mùa dài” như trong bài thơ “Tiếng hát con tàu” Chế Lan Viên cũng đã từng nói
đến. Họ là những người đã cưu mang, đùm bọc, che chở cán bộ kháng chiến, là những người mà cán bộ kháng chiến coi
như máu thịt, như gia đình. Hai chữ “người thương” vì vậy mà chất chứa biết bao ân tình của người về xuôi.

- Các điệp từ: nhớ gì, nhớ từng, nhớ những cùng với nghệ thuật so sánh (như nhớ người yêu), các tên địa danh ngòi Thia,
sông Đáy, suối Lê và tiểu đối đều góp phần thể hiện thành công những cung bậc cảm xúc phong phú của nỗi nhớ quê
hương cách mạng, tạo nên chất nhạc chất họa mê li, say đắm cho khổ thơ.

2.5. Đoạn thơ:

Ta đi, ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi..

Thương nhau, chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

Nhớ người mẹ nắng cháy lung

Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Nhớ người Việt Bắc nghèo về vật chất nhưng sâu nặng nghĩa tình

- Hai câu thơ “Ta đi ta nhớ những ngày/ Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi” đã khái quát và khẳng định được tình cảm
của người ra đi, ta về là ta luôn nhớ. Cụm từ “đắng cay ngọt bùi” là ẩn dụ, trong đó “đắng cay” là ẩn dụ cho những gian
khổ, vất vả; “ngọt bùi” tượng trưng cho niềm vui, hạnh phúc. Trong nỗi nhớ của người ra đi có những kỉ niệm về những
ngày tháng khó khăn, gian khổ những cũng có nhiều kỉ niệm ngọt ngào, có niềm vuichiến thắng, có hạnh phúc tình yêu.

- Nếu hai câu thơ trước có ý nghĩa khái quát, thì hai câu thơ “Thương nhau chia củ sắn lùi/ bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp
cùng” đã cụ thể hóa những đắng cay, ngọt bùi trong cuộc sống kháng chiến. Bao nhiêu gian khổ đã cùng nhau nếm trải
như thiên nhiên khắc nghiệt, thiếu thốn kham khổ về vật chất, giặc đến giặc lùng... Khó khăn gian khổ lại làm người cán
bộ kháng chiến và người dân Việt Bắc yêu thương, đùm bọc nhau hơn. Nghệ thuật đảo ngữ với từ "Thương nhau" được
đặt lên đầu cặp lục bát cho thấy đó là căn nguyên, cội nguồn để dẫn đến những hành động nhường cơm, sẻ áo. Sắn lùi là
món ăn bìnhdị, dân dã. Chăn sui được làm từ vỏ cây sui, thô ráp nhưng là thứ duy nhất họ có để xua đi cái giá lạnh của
vùng núi cao. Họ phải chia nhau từng củ sắn, bát cơm sẻ làm đôi, đắp cùngchăn sui để tỏa cho nhau hơi ấm. Các động từ
“chia”, “sẻ”, “đắp cùng” thể hiện những hành động đầy ân nghĩa của người Việt Bắc, làm người ra đi mãi ghi nhớ, khắc
sâu.
- Người Việt Bắc nhường cơm, sẻ áo, nuôi giấu người cán bộ cách mạng còn đượcthể hiện qua hình ảnh người mẹ Việt
Bắc “nắng cháy lưng, địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”. Đây có lẽ là một trong những hình ảnh in đậm nhất trong lòng
người ra đi. Người mẹ địu con lên nương rẫy trong cái nắng đến cháy da, cháy thịt để vừa trông nom, che chở cho đứa
con thơ bên mình vừa kiên trì, cần mẫn “bẻ từng bắp ngô” để nuôi con, nuôi cán bộ. Sự tương phản, đối lập giữa cái dữ
dội của thiên nhiên với ý chí nghị lực của con người càng làm tôn lên vẻ đẹp cần cù, chịu thương chịu khó, giàu đức hi
sinh của người mẹdân tộc. Hình ảnh những người mẹ tuyệt vời, kì diệu trong những cuộc kháng chiến còn được gặp lại
trong bài thơ "Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ" của Nguyễn Khoa Điềm:

Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội

Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng”

Chính người mẹ Việt Bắc, những người mẹ Việt Nam anh hùng với tình mẫu tử và tình cảm cách mạng thiêng liêng đã
góp phần to lớn làm nên chiến thắng của dân tộc, trở thành những nhân vật lịch sử trong các cuộc kháng chiến vĩ đại.

2.6. Đoạn thơ:

Nhớ sao lớp học i tờ

Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa...

Nhớ cuộc sống kháng chiến gian khổ nhưng đầy niềm vui

- Nhớ về những ngày ấy là nhớ về không khí của những lớp học i tờ, những ngày tháng vừa làm cách mạng vừa diệt giặc
dốt. Trước khi cách mạng đến, dân ta có biết bao cuộc đời tủi cực, tăm tối, bị nô lệ và thiếu ánh sáng văn hóa, đa số
nhân dân mù chữ. Muốnlàm cách mạng phải dạy dân học chữ vì vậy mà những lớp bình dân học vụ ra đời. Cụm từ "đồng
khuya đuốc sáng" cho thấy đêm đêm giữa mênh mông núi rừng Việt Bắc vang lên tiếng học i tờ, làm nên một sức sống
mới trên quê hương cách mạng. Cụm từ "những giờ liên hoan” trong câu thơ cho thấy lớp học tuy có những vất vả gian
khổ nhưng vẫn đầy niềm vui, tưng bừng náo nức nhất là trong những giờ liên hoan sôi nổi.

- Những ngày tháng ấy là những ngày tháng cơ quan đầy gian nan, thử thách. Nhưngvới tinh thần lạc quan cách mạng
người cán bộ miền xuôi và nhân dân Việt Bắc vẫn vượt qua, họ vẫn yêu đời nên tiếng hát vẫn bay cao, vang xa giữa núi
đồi. Tinh thần lạc quan vốn là truyền thống của người Việt Nam, càng khó khăn gian khổ phẩm chất ấy càng được bộc lộ
rõ ràng. Tinh thần ấy đã được những người những người cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc phát huy cao độ trong
cuộc kháng chiến chống Pháp, góp phần cổ vũ, nâng đỡ, chắp cánh niềm tin để ta có đủ sức mạnh đi đến chiến thắng.

- Trong nỗi nhớ của người ra đi còn có những âm thanh quen thuộc, bình dị, than thương là âm thanh tiếng mõ tiếng
chày vang lên giữa núi rừng Việt Bắc. Đó là tiếng mõ trâu buổi chiều trở về bản làng, là tiếng chày nhịp nhàng của cối giã
gạo bên suối. Mỗi một âm thanh lại gợi mở bức họa bình dị mà thơ mộng. Tiếng giã gạo đêm khuya bình dị mà ghi dấu
bao nghĩa tình sâu nặng. Tiếng suối róc rách nơi rừng xa lại gợi cái trong ngần, thơ mộng của cảnh vật. Những âm thanh
của cuộc sống lao động thường ngày, khi sống cùng có lẽ chẳng mấy ai để ý, nhớ nhung, nhưng khi xa rồi thì những âm
thanh ấy lại khiến con người bồi hồi, xao xuyến, thổn thức. Lời thơ dứt mà những âm thanh ấy cứ ngân vang mãi rong
lòng người chia xa Việt Bắc. Từ láy "đều đều" không chỉ thể hiện âm thanh đều đều của tiếng mõ tiếng chày vào các buổi
chiều và vào ban đêm hòa quện giữa âm thanh của rừng núi mà còn thể hiện nhịp sống đều đều, êm ả thanh bình trên
chiến khu.

3. Đánh giá

3.1. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật

Bằng thể thơ lục bát êm dịu, kết cấu đối đáp của ca dao, dân ca, ngôn ngữ, hình ảnh giản dị, quen thuộc, đậm chất ca
dao, dân ca, giọng điệu thơ ngọt ngào, truyền cảm, đặc biệt thể hiện qua việc sử dụng cặp từ mình - ta thân mật cùng
với các biện pháp tu từ như điệp từ, ẩn dụ, tiểu đối...Qua nỗi nhớ của người ra đi, đoạn thơ gợi ra trước mắt người đọc
bức tranh thiên nhiên, con người Việt Bắc vừa thơ mộng vừa giàu chất hiện thực, diễn tả sâu sắc tình cảm ân tình thủy
chung son sắc giữa những con người đã cùng đồng cam cộng khổ, là những kỉ niệm in đậm trong lòng nhà thơ cũng như
bao người trong cuộc kháng chiến. Việt Bắc tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu có sự hòa quyện giữa chất trữ tình
chính trị và nghệ thuật biểu hiện đậm đà tính dân tộc

3.2. Nhận xét về nỗi nhớ và tình cảm của nhà thơ với Việt Bắc

Đoạn thơ đã thể hiện nỗi nhớ về Việt Bắc. Nỗi nhớ ấy khó diễn tả cho hết, tha thiết và thể hiện tình cảm sâu nặng. Nỗi
nhớ gắn liền với từng cảnh vật, những địa danh quen thuộc bình dị mà cũng rất nên thơ. Đó là nỗi nhớ rõ ràng, cụ thể,
sống động: “bản khói cùng sương”, “trăng lên đầu núi”, “nắng chiều”, “rừng nứa bờ tre”, “ngòi Thia, sông Đáy”, “suối
Lê”…Trong cảnh thấp thoáng bóng dáng con người Việt Bắc thân thương cần mẫn, chịu thương chịu khó, chia ngọt sẻ
bùi, đồng cam cộng khổ, cưu mang cán bộ, bộ đội trongnhững ngày kháng chiến đầy gian khổ, thiếu thốn:

=> Cảnh và người Việt Bắc, những ngày tháng ở Việt Bắc trở thành kỉ niệm, ấn tượng sâu sắc, đẹp đẽ không thể phai mờ
trong tâm trí người cán bộ khi trở về xuôi. Nhìn chung, qua nỗi nhớ, nhà thơ đã tái hiện lại một giai đoạn kháng chiến
chống Pháp đầy gian khổ, thiếu thốn nhưng chất chứa ân tình. Đoạn thơ nói riêng và cả bài thơ là lời ngợi ca, tri ân Việt
Bắc, là khúc hùng ca, bản tình ca về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Qua đó tác giả thể hiện lòng biết ơn,
tình cảm thủy chung đối với con người Việt Bắc. Đoạn thơ góp phần làm nổi bật phong cách thơ Tố Hữu và bồi đắp
những tình cảm đẹp cho người đọc về tình quân dân trong quá khứ và hiện tại, nhắc nhở lòng biết ơn cội nguồn

Đoạn số 4:
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu, từ đó nhận xét về tính dân tộc thể hiện trong đoạn
thơ:

Ta về, mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hoà bình


Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.111)

I. MỞ BÀI

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

- Giới thiệu yêu cầu của đề bài:

II. THÂN BÀI

1. Khái quát

2. Phân tích đoạn thơ: Bức tranh tứ bình về Việt Bắc

2.1. Giới thiệu về đoạn thơ

- Kết cấu đối đáp được thể hiện rất rõ trong suốt đoạn trích, bao gồm cả đoạn thơ này. Người ta đã có lý khi nói thơ Tố
Hữu là thứ thơ "đốt cháy trái tim để trở thành trí tuệ", với ý tưởng trữ tình hoá sự kiện chính trị cũng như đời sống chính
trị của đất nước, viết "Việt Bắc", Tố Hữu đã sáng tạo nên một cấu tứ rất độc đáo-khúc hát đối đáp trong cuộc chia tay
giữa người ở và người về xuôi để khơi gợi những kỉ niệm gắn bó trong những ngày kháng chiến gian khổ mà vẻ vang.
Ngoài ra, bên ngoài là đối đáp, còn bên trong là lời độc thoại, là biểu hiện tâm tư tình cảm của chính nhà thơ, của những
người tham gia kháng chiến.

- Ở những đoạn thơ trước, người cán bộ cách mạng miền xuôi và người Việt Bắc đã lần lượt nhắc lại những kỉ niệm gắn
bó trong suốt 15 năm và khẳng định tình cảm son sắc thủy chung. Đến đoạn thơ này người ra đi tiếp tục gợi nhắc những
kỉ niệm gắn bó bằng những ấn tượng sâu đậm nhất, kết tinh nhất về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Đây được coi là
10 câu thơ tuyệt bútđạt đến độ toàn bích trong bài thơ. Trong đó, hai câu thơ đầu được đánh giá là chủ đề, khái quát
được nội dung của cả đoạn thơ là nỗi nhớ về thiên nhiên con người Việt Bắc trong bốn mùa theo thứ tự Đông - Xuân -
Hạ - Thu.

2.2. Hai câu thơ đầu:

Ta về, mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người

Hai câu thơ chủ đề cho cả đoạn

- Cặp từ mình – ta: Mình - ta vốn là cách xưng hô quen thuộc trong đời sống hàng ngày, là cách xưng hô của vợ chồng
hoặc giữa những người có mối quan hệ thân thiết, gắn bó.

- Trong ca dao, dân ca cặp từ mình - ta thường xuất hiện trong các bài ca dao giao duyên như:

Mình nói với ta mình hãy còn son

Ta đi qua ngõ thấy con mình bò

Con mình những trấu cùng tro

Ta đi lấy nước tắm cho con mình

Hay:
Mình về có nhớ ta chăng

Ta về ta nhớ hàm răng mình cười

Hoặc:

Mình về ta chẳng cho về

Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ

- Cách xưng hô mình - ta gần gũi thân thương được Tố Hữu vay mượn trong ca dao, dân ca. Sáng tạo của nhà thơ là ở
chỗ nếu trong ca dao, dân ca mình - ta là đôi lứa yêu nhau với một nam một nữ thì trong bài thơ mình - ta là người đi
(người cán bộ miền xuôi) và kẻ ở (nhân dân Việt Bắc). Sáng tạo hơn nữa là trong bài thơ mình - ta có sự chuyển hóa, hòa
quyện thành sự đồng vọng diễn tả chung tâm tư của cả người đi, kẻ ở. Cả mình và ta đều chung những kỉ niệm gắn bó,
chung một nỗi niềm tâm trạng, nay phải chia tay biết bao lưu luyến, bịn rịn. Bài thơ đã vượt ra khỏi những cảm xúc riêng
tư để chuyển tải một vấn đề rất lớn của đời sống cách mạng – đó là vấn đề ân nghĩa thủy chung của cách mạng với nhân
dân.

- Câu thơ thứ nhất là lời ướm hỏi của người ra đi với người ở lại. "Ta về" được lặp lại hai lần như xác nhận hoàn cảnh
chia li tiễn biệt, trong đó ta chỉ người ra đi. Nhưng người ra đi ở đây đặt câu hỏi với người ở lại không phải để được trả
lời bởi đến đoạn thơ này cả người đi kẻ ở đều đã cảm nhận được tình cảm sâu sắc, mặn nồng mà họ dành cho nhau. Bởi
vậy, câu thơ chỉ là cái cớ, là cây cầu để người ra đi dẫn dắt, thổ lộ tình cảm của mình là ra về mà lòng đầy thương nhớ

- Câu thớ thứ hai đã cụ thể hóa nỗi nhớ của người về xuôi. Ra về là ta nhớ, nhớ hoa và nhớ người. Hoa ở đây là ẩn dụ chỉ
vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc. Nhớ hoa là nhớ những gì đẹp nhất,tinh túy nhất, tươi sáng nhất về thiên nhiên Việt Bắc.
"Nhớ hoa cùng người" nghĩa là cùng với nỗi nhớ về thiên nhiên là nỗi nhớ về con người Việt Bắc. Tố Hữu lựa chọn thật
đắt hai hình ảnh đối xứng: hoa - người. Hoa là vẻ đẹp tinh tuý nhất của thiên nhiên, tương xứng với hoa là con người
như người ta thường nói "Người ta là hoa của đất".

2.3. Bốn cặp lục bát còn lại là bức tranh tứ bình về thiên nhiên, con người Việt Bắc

- Trong quan niệm mĩ học thời cổ điển, tứ bình là cấu trúc nghệ thuật đạt đến sự hài hòa, cân xứng. Chẳng hạn, khi miêu
tả thiên nhiên người xưa thường sử dụng mô-típ Tùng - cúc - trúc - mai, Xuân - hạ - thu - đông; khi miêu tả người thì
theo mô-típ ngư - tiều - canh - mục; khi miêu tả các con vật thì là Long - ly - quy - phụng... Trong đoạn thơ này Tố Hữu đã
sử dụng cấu trúc nghệ thuật tứ bình để thể hiện một cách cô đúc nhất vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc

- Sự đối xứng giữa hoa và người khiến bốn cặp lục bát còn lại được cấu tạo với phương thức miêu tả khá thống nhất là
cứ câu lục nói đến thiên nhiên, câu bát nói tới con người. Tả thiên nhiên thì gắn với màu sắc đặc trưng của từng mùa, tả
con người thì gắn với công việc lao động, thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của người Việt Bắc.

- Tố Hữu viết bài thơ “Việt Bắc” vào tháng 10 năm 1954, khi ấy miền Bắc nước ta đang vào mùa đông. Cho nên, mùa
đông là mùa trong hiện tại, cũng là mùa mở ra bộ tranh tứ bình. Cũng có ý kiến cho rằng, sở dĩ mùa đông là mùa bắt đầu
trong đoạn thơ này là vì Tố Hữu lấy cảm hứng từ thắng lợi của chiến dịch Việt Bắc thu đông

2.4. Mùa đông:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

- Vẻ đẹp của thiên nhiên: Qua con mắt tinh tế của nhà thơ, thiên nhiên mùa đông gắn với hai màu sắc xanh và đỏ thể
hiện qua các hình ảnh rừng xanh và hoa chuối đỏ tươi.
+ Rừng xanh: Mùa đông rừng núi hiện lên trong màu xanh bạt ngàn của cây rừng, bao phủ cả một không gian rộng
lớn tạo thành cái nền cho bức tranh cảnh vật. Chính cái màu xanh của núi rừng Việt Bắc đã:

Núi giăng thành lũy sắt dày

Rừng che bộ đội rừng vây quân thù

+ Hoa chuối đỏ tươi (nhãn tự): Trên cái nền xanh ấy có điểm xuyết những bông hoa chuối đỏ tươi, thắp sáng cả
cánh rừng đại ngàn. Màu đỏ tươi của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng như ngọn lửa ấm thắp
sáng lên bức tranh cảnh vật, xua tan bớt cái lạnh giá, u ám, hiu hắt của rừng núi vào mùa đông. Hai chữ "đỏ tươi" không
chỉ là từ ngữ chỉ sắc màu, mà chứa đựng cả một sự bừng thức, một khám phá ngỡ ngàng, một rung động rất thi nhân.
Hình ảnh bông hoa chuối đỏ tươi còn hiện lên như một biểu tượng của niềm tin, của tình yêu, của sự lạc quan như
Nguyễn Mỹ cũng hướng đến trong “Cuộc chia li màu đỏ”:

Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi

Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người

Nghĩa là màu đỏ ấy sẽ theo đi

Như chưa hề có cuộc chia li

- Hình ảnh con người: Hình ảnh con người trong bức tranh cảnh vật mùa đông là hình ảnh người với công việc lên rừng
hái củi, phát nương làm rẫy góp công góp sức cho cuộc chiến đấu. Bước chân đã tới lưng đèo, hình ảnh con người đứng
giữa đèo cao, giữa núi đồi đầy vững chãi, tự tin, mang tâm thế của người làm chủ núi rừng, làm chủ cuộc sống. Tư thế và
tâm thế ấy còn được thể hiện một lần nữa trong bài thơ "Lên Tây Bắc" của Tố Hữu thể hiện rõ quan niệm của nhà thơ về
con người kháng chiến, trở thành một nét thi pháp đặc sắc trong thơ của ông:

Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều

Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo

Núi không đè nổi vai vươn tới

Lá ngụy trang reo với gió đèo

Tâm thế là chủ ấy còn được thể hiện trong nhiều bài thơ của các nhà thơ cùng thời với Tố Hữu như Nguyễn Đình Thi:

Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những cánh đồng thơm mát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa

- Hình ảnh người lên rừng lấy củi, phát nương, làm rẫy còn được miêu tả với con dao giắt cạnh sườn, ánh nắng mùa
đông phản chiếu vào sáng lấp lánh. Ở đây, câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ
thuật nhiếp ảnh. Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông
Việt Bắc.
- Hình ảnh con người trong hai câu thơ không chỉ mang vẻ đẹp sử thi, tiêu biểu cho con người Việt Nam trong cuộc
kháng chiến chống Pháp mà còn gợi lên phẩm chất tốt đẹp của người Việt Bắc cũng là phẩm chất tốt đẹp của người Việt
Nam cần cù, chăm chỉ, chịu thương, chịu khó.

2.5. Mùa xuân:

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

- Vẻ đẹp của thiên nhiên:

+ Cụm từ chỉ thời gian "ngày xuân" : Nhà thơ không viết là mùa xuân mà là ngày xuân đầy tinh tế thể hiện sự ngỡ
ngàng trước vẻ đẹp lộng lẫy của đất trời, vạn vật khi vào xuân và tác giả đãchớp lấy khoảnh khắc đẹp nhất, có thần nhất
của mùa xuân Việt Bắc.

+ Màu sắc, hình ảnh: Nếu màu sắc của mùa đông là hai sắc màu xanh, đỏ thì bức tranh mùa xuân gắn với sắc trắng.
Cùng với sự chuyển mùa, mùa đông sang mùa xuân, là sự chuyển màu trong bức tranh thơ. Màu xanh trầm tĩnh, lạnh giá
của rừng già chuyển sang màu trắng tinh khôi của hoa mơ khi mùa xuân đến. Cụm từ "trắng rừng" cho thấy hoa mơ nở
trắng, bao phủ cả khu rừng. Núi rừng Việt Bắc ngập tràn một sắc trắng tinh khôi, dịu nhẹ, ngọt ngào và mang sức sống
bất diệt, xôn xao, rạo rực của mùa xuân. Hiện thực đầy mơ mộng này còn được nhà thơ Tố Hữu nhắc đến một lần nữa
trong trường ca "Theo chân Bác":

Ôi sáng xuân nay xuân 41

Trắng rừng biên giới nở hoa mơ

Bác về im lặng con chim hót

Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ

- Hình ảnh con người: Nhớ sắc trắng hoa mơ nơi xuân rừng Việt Bắc không thể không nhớ đến con người Việt Bắc vào
mùa xuân. Trong dân gian từ ngàn xưa cho đến nay luôn cho rằng mùa xuân là mùa của các lễ hội thế nên mới có câu ca
“tháng giêng là tháng ăn chơi”. Nhưng trong những năm tháng mùa xuân khi đất nước có chiến tranh, quê hương còn
bóng giặc thì dù mùa xuân nhân dân gác lại việc vui chơi để miệt mài với, say mê với công việc. Vào mùa xuân con người
xuất hiện trong công việc đan nón. Hình ảnh người đan nón được tập trung miêu tả quađôi bàn tay. Hai chữ "chuốt
từng" gợi liên tưởng về đôi bàn tay tỉ mỉ, dường như bao yêu thương đợi chờ mong ngóng đã gửi vào từng sợi nhớ, sợi
thương kết nên vành nón; gợi phẩm chất của người Việt Bắc kiên trì, khéo léo, cẩn trọng, tài hoa. Sự khéo léo và tài hoa
của người đan nón, của con người Việt Nam cũng được nhà thơ Nguyễn Đình Thi miêu tả:

Tay người như có phép tiên

Tranh tre nứa lá cũng dệt nghìn bài thơ

Một chiếc mũ nan, một vành nón lá nhưng chứa đựng trong đó bao ân tình thắm thiết, mặn nồng của người dân Việt
Bắc. Và bao chiến sĩ đã đội những chiếc mũ ấy để vượt qua mưa bom, bão đạn của cuộc chiến đấu. Hơn thế nữa chiếc
mũ ấy đã trở thành người bạn trên đoạn đường hành quân trùng điệp:

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan


2.6. Mùa hè:

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

- Vẻ đẹp của thiên nhiên: Có thể nói bức tranh cảnh vật mùa hè là bức tranh gợi cảm nhất. Bởi vì nếu như trong bức
tranh của hai mùa đông và xuân chỉ gắn với những đường nét và màu sắc thì đến bức tranh mùa hè, tác giả đã đánh
thức thêm giác quan mới. Bức tranh cảnh vật mà hè không chỉ gắn với màu vàng của rừng phách mà còn làm thính giác
choàng tỉnh bởi âm thanh rộn rã, tưng bừng của tiếng ve.

Mùa hè đến tiếng ve kêu râm ran trong vòm lá như tiếng đàn, tiếng nhạc. Cái hay của câu thơ là ở chỗ nó thể hiện được
một phản ứng có tính dây chuyền. Cây phách nở hoa vàng vào mùa hè và khi ve kêu báo hiệu mùa hè đến cũng là lúc
nhưng bông hoa phách ẩn hiện trong tán lá nở rộ. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng sắc vàng trong câu thơ "Ve kêu rừng
phách đổ vàng" không phải là màu vàng của hoa như những người soạn sách nhiều năm lầm tưởng mà là màu vàng của
lá. Trong cuốn Hồi kí nhớ lại một thời khi nói về vẻ đẹp nên thơ của Việt Bắc cùng những gì là "luyến tiếc ngẩn ngơ" khi
rời Việt Bắc, nhà thơ Tố Hữu đã chép lại đoạn thơ đặc sắc về thiên nhiên bốn mùa của Việt Bắc, đồng thời cũng đã chú
thích rất rõ ràng về cây phách: Phách là loại cây gỗ cao, cuối hè đầu thu thì lá vàng rực lên (Nhớ lại một thời - Hồi kí -
NXB Hội Nhà văn, 2000, trang 302).

Từ "đổ" là được dùng thật chính xác, tinh tế khi nó gợi sự thay đổi đột ngột và đồng loạt của màu sắc. Và chỉ trong một
câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động khi tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến, rừng phách đột
ngột, đồng loạt đổi sang màu vàng rực rỡ.

- Câu thơ miêu tả mùa hè Việt Bắc gợi ta nhớ đến hai câu Kiều của Nguyễn Du, cũng thể hiện một phản ứng dây chuyền
và sự chuyển màu đồng loạt của lá rừng. Khi Thúc Sinh lên ngựa, Thúy Kiều phải buông áo và đúng lúc Kiều buông áo
Thúc Sinh thì rừng cây phong đồng loạt đổi màu sang màu đỏ của chia li. Có điều để diễn tả sự động loạt đổi màu của
rừng phong, đại thi hào Nguyễn Du đã dùng từ "nhuốm":

Người lên ngựa, kẻ chia bào

Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san

- Hình ảnh con người: Hai câu thơ mùa hè càng trở nên gợi cảm hơn với hình ảnh cô em gái hái măng một mình. Cách
gọi "Cô em gái" thể hiện rõ cách sử dụng ngôn từ rất tinh tế của Tố Hữu thể hiện rõ sự gần gũi, thân thương, trìu mến.
Cô gái Việt Bắc hái măng một mình trong rừngkhông gợi sự cô đơn, lẻ loi bởi vì cô hái măng để nuôi cán bộ, nuôi bộ đội
thể hiện tình cảm sâu nặng của người Việt Bắc với người cán bộ cách mạng miền xuôi, thể hiện tình quân dân thắm
thiết. Bởi vậy nên khi cán bộ về xuôi, cả rừng núi dường như cũng ngẩn ngơ: “Trám bùi để rụng, măng mai để già”.

- Có ý kiến cho rằng hai câu thơ về mùa hè rất đẹp, gợi cảm nhưng ít nhiều chưa hợp lí vì cô em gái không thể tìm kiếm,
hái măng trong rừng phách. Thế nhưng ta hoàn toàn có thể chấp nhậnđược vì cảnh vật, con người Việt Bắc ở đây là
những vẻ đẹp ấn tượng, kết tinh nhất trong mùa hè và có thể chúng được cảm nhận ở những không gian, vạt rừng khác
nhau trên chiến khu cách mạng.

2.7. Mùa thu:

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

Khép lại bộ tứ bình là cảnh mùa thu. Đây là cảnh đêm thật phù hợp với khúc hát giao duyên trong thời điểm chia tay giã
bạn. Nếu như bức tranh mùa hè được đánh giá là gợi cảm nhất thì bứctranh mùa thu lại thơ mộng và được miêu tả bằng
cách thức khác biệt nhất. Bức tranh cảnh vật không được miêu tả vào ban ngày mà được miêu tả vào ban đêm, không
được miêu tả qua màu sắc mà gắn với vẻ đẹp của ánh trăng, con người không xuất hiện qua công việc lao động mà xuất
hiện qua tiếng hát.

- Vẻ đẹp của thiên nhiên: Ấn tượng đẹp nhất về mùa thu Việt Bắc là những đêm trăng. Ánh trăng sáng trong, mát dịu
chiếu rọi khắp núi rừng gợi một không gian huyền ảo, thơ mộng, thanh bình. Ánh trăng Việt Bắc ấy cũng được Hồ Chí
Minh nhắc đến trong bài thơ được sáng tác trên chiến khu cách mạng:

Trăng vào cửa sổ đòi thơ

Việc quân đang bận xin chờ hôm sau

- Hình ảnh con người: Đại từ phiếm chỉ "ai" thể hiện cách nói bóng gió, lấp lửng của ca dao, dân ca và ở đây chỉ người
Việt Bắc. Trong không gian mờ ảo, thơ mộng, thanh bình của đêm trăng vang lên tiếng hát của người Việt Bắc. Tiếng hát
về tình cảm ân nghĩa, thủy chung hòa quyện vào bức tranh cảnh vật không chỉ làm cho bức tranh mùa thu thêm gợi cảm
mà còn thể hiện phẩm chất ân tình, thủy chung của người Việt Bắc nói riêng, của người Việt Nam nói chung.

3. Đánh giá

3.1. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật

Thể thơ lục bát được tác giả phô diễn với những tình cảm, tư tưởng mới mẻ vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Lối hát đối đáp
tạo ra giai điệu phong phú cho bài thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo. Ngôn ngữ trong sáng,
nhuần nhị, và có nhiều nét cách tân. Đặc biệt, tiếng nói yêu thương – nét nổi bật trong phong cách thơ Tố Hữu được thể
hiện thấm thía... Qua đoạn thơ, Tố Hữu đã tái hiện bức tranh cảnh vật, con người bằng những ấn tượng đẹp nhất, sâu
đậm nhất. Trong đó người và cảnh không thể tách rời, thiên nhiên không thể thiếu bóng dáng con người và con người
được đặt trong khung cảnh thiên nhiên. Chúng hỗ trợ, bổ sung cho nhau làm tôn lên vẻ đẹp của nhau. Bức tranh tứ bình
về thiên nhiên, con người Việt Bắc trong bốn mùa đã xóa bỏ cách nghĩ thông thường về thiên nhiên Việt Bắc, cho rằng
đó là vùng rừng núi xa xôi, heo hút, hoang vắng, rừng thiêng, nước độc và cho thấy một Việt Bắc tươi đẹp, thơ mộng,
đáng yêu biết bao. Đoạn thơ cũng như bài thơ vì thế đã bồi đắp thêm cho ta tình yêu thiên nhiên, quê hươngđất nước
tươi đẹp.

3.2. Nhận xét về tính dân tộc của bài thơ

- Khái niệm: Tính dân tộc được hiểu là một đặc tính nhưng đồng thời cũng là thước đo giá trị của một tác phẩm văn họ,
thể hiện sự gắn bó của văn học với văn hóa tinh thần dân tộc. Mỗi dân tộc trên thế giới đều có đời sống riêng, cách cảm
thụ riêng, hệ giá trị riêng…do truyền thống văn hóa, tâm lí, phong tục tập quán và ngôn ngữ tạo thành sự biểu hiện tập
trung của các phương diện ấy vào nội dung và hình thức tác phẩm, tạo thành tính dân tộc trong tác phẩm văn học.
Những tác phẩm văn chương lớn từ trước cho đến nay hường vừa mang tính nhân loại, vừa mang tính dân tộc sâu sắc.
Trong văn học, tính dân tộc được thể hiện ở cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Về nội dung, một tác phẩm mang tính
dân tộc phải thể hiện được những vấn đề nóng bỏng liên quan đến vận mệnh dântộc, thể hiện được khát vọng, tình cảm
và ý chí của một dân tộc. Về hình thức, tác phẩm đótiếp thu một cách sáng tạo tinh hoa văn hóa của dân tộc. Nếu hiểu
như thế thì thơ Tố Hữu mang phong cách nghệ thuật “đậm đà bản sắc dân tộc”.

- Về nội dung: Thơ Tố Hữu đã phản ánh đậm nét hình ảnh, con người Việt Nam, Tô quốc Việt Nam trong thời đại cách
mạng, với truyền thống tinh thần, tình cảm, đạo lí của dân tộc. Bài thơ đã làm sống lại vẻ đẹp của thiên nhiên và con
người Việt Bắc, vẻ đẹp của cuộc sống chiến đấu gian khổ nhưng âm áp tình người, vẻ đẹp của lịch sử cách mạng Việt
Nam một thời không quên.
- Về nghệ thuật: Kế thừa xuất sắc thơ ca dân tộc: thể thơ lục bát. Bài thơ sử dụng cách nói "mình – ta" và lối đối đáp của
ca dao dân ca. Sử dụng lời ăn tiếng nói của nhân dân, ngôn ngữ thuần Việt, các biện pháp tu từ so sánh, nhân hoá, phép
điệp…. phát huy nhạc điệu qua việc láy vần, phối thanh.

Bài văn tham khảo

Có nhà thơ đã từng tâm sự “tôi phải lòng đất nước và nhân dân của mình” nên đã viết về đất nước, về nhân dân như
nói với người đàn bà mình yêu. Có một nhà thơ luôn viết về đất nước nhân dân, một nhà thơ được mệnh danh là lá cờ
đầu của thơ ca cách mạng, con đường thơ của ông gắn liền với các chặng đường cách mạng của dân tộc, nhà thơ đó
không ai khác chính là Tố Hữu. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Tố Hữu đã để lại có nền văn học nước nhà nhiều bài
thơ hay, trong đó tiêu biểu nhất là “Việt Bắc” được trích trong tập thơ cùng tên của ông. Cảm xúc chủ đạo của bài thơ là
nỗi nhớ của người cánbộ cách mạng với mãnh đất con người ở Việt Bắc. Nhớ về Việt Bắc, nhà thơ không thể nàoquên
cảnh đẹp bốn mùa Xuân – Hạ Thu – Đông cũng như hình ảnh những con người Việt Bắc chịu thương chịu khó, sâu nặng
nghĩa tình. Điều đó được tái hiện cụ thể, sinh động qua đoạn thơ sau:

Ta về, mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Thơ là tiếng nói của tình cảm con người, những rung động của trái tim trước cuộc đời. Chính vì thế, sau chiến thắng Điện
Biên Phú, Hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, miền Bắc được hòa bình. Tháng 10 năm 1954, nhân sự kiện lịch sử cơ quan
trung ương của Đảng và chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội TH đã viết bài “Việt Bắc”. Bilinxki hoàn toàn chính
xác khi cho rằng “thơ trước hết chính là cuộc đời và sau đómới là nghệ thuật”. Tố Hữu thật tinh tế khi mượn thơ để tái
vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên bốn mùa : Xuân – Hạ - Thu – Đông ở Việt Bắc. Mở đầu đoạn thơ là cảm xúc nhớ nhung
khôn nguôi của người ra đi về thiên nhiên, con người Việt Bắc:

Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Tác giả thật tinh tế khi mở đầu đoạn thơ bằng một câu hỏi tu từ bâng khuâng thấm vào hồn người và cảnh vật. Vẫn là
cách xưng hô “ta – mình” ngọt ngào trong ca dao, dân ca gợi nhiều cảm xúc. “Ta” chỉ người đi, “mình” chỉ người ở lại.
Điệp từ “ta” được nhắc lạibốn lần cùng với từ “hoa” cho thấy người về mang theo nỗi nhớ “những hoa cùng người”.
“Hoa” tượng trưng cho vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc, còn “người” là vẻ đẹp của con người lao động Việt Bắc. Hai đối
tượng ấy luôn hòa quyện, gắn bó quấn quýt bên nhau. Đến với tám câu sau, ta thấy bên cạnh một câu nói về nỗi nhớ
thiên nhiên, tiếp đến là câu thơ bộc lộ nỗi nhớ con người. Qua 4 cặp lục bát, nhà thơ cho ta thấy được bộ tứ bìnhđặc
sắc của núi rừng VB. Tuy nhiên khác với bộ tứ bình truyền thống tả theo trình tự: xuân,hạ, thu đông, thì bốn mùa của
Việt Bắc lại hiện ra không theo trình tự ấy. Mùa đầu tiên hiện lên trong nỗi nhớ của người ra đi là bức tranh thiên nhiên
mùa đông tràn đầy sức sống:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Nhắc đến mùa đông người ta thường nghĩ đến cảnh rét mướt, tiết trời thì u ám, giá lạnh. Nhưng đến với mùa đông
trong thơ Tố Hữu thì ngược lại, thiên nhiên núi rừng mở ra một màu xanh bạt ngàn, hùng vĩ, tràn đầy sức sống. Giữa cái
màu xanh ấy điểm vào màu đỏ tươi của hoa chuối rừng nở rộ lung linh dưới ánh mặt trời. Chính gam màu nóng ấy đã
xua tan cái lạnh lẽo, hoang vu của núi rừng mang đến sự ấm áp cho bức tranh thiên nhiên muà đông. Bức tranh mùa
đông càng sống động hơn khi có sự xuất hiện của con người đang lao động “dao gài thắt lưng” lên núi làm nương, phát
rẫy sản xuất lương thực cung cấp cho kháng chiến. Hình ảnh người lao động hiện lên giữa khung cảnh núi rừng thật khỏe
khoắn, hăng say, tỏa sáng trong từng câu chữ “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Qua câu thơ ấy cho ta thấy một tư
thế rất đẹp của con người đó là làm chủ lao động, làm chủ thiên nhiên đất trời:

“Núi rừng đây là của chúng ta/

Trời xanh đây là của chúng ta”

(Nguyễn Đình Thi).

Đấy là cái tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và vững chãi . Có thể nói, giữa sự hoang sơ heo hút, giữa đất trời và rừng núi
mênh mông, không ai khác con người trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông VB.Sau bức tranh mùa đông là bức
tranh mùa mùa xuân tinh khôi và tràn trề sức sống:

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Nếu mùa đông Việt Bắc có những lúc chói chang, ấm áp trong ánh nắng vàng thì thiên nhiên mùa xuân lại được miêu tả
trong một gam màu dịu mát. Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ.
Động từ “nở” cho thấy mức độ sinh sôi, trù phú của loài hoa tinh khiết này đang ở độ căng tràn sức sống. Việt Bắckhi
xuân về, màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng,
bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. Đây không phải là lầnđầu tiên Tố Hữu viết về màu trắng ấy, năm 1941 Việt Bắc cũng
đón Bác Hồ trong màu sắc hoa mơ:

Ôi sáng xuân nay xuân 41

Trắng rừng biên giới nở hoa mơ

Cách dùng từ tài hoa của Tố Hữu làm ta nhớ tới câu thơ tả mùa xuân của đại thi hào Nguyễn Du:

“Cỏ non xanh tận chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

Giữa cái nền trắng của hoa mơ ấy, nổi bật lên hình ảnh con người lao động cần mẫn “chuốt từng sợi giang” để đan từng
chiếc nón, chiếc mũ cho bộ đội. Động từ “chuốt” kết hợp với trợ từ “từng” thể hiện bàn tay khéo léo, tỉ mỉ, tài hoa và
phẩm chất cần mẫn, nhanhnhẹn của người lao động. Đó chính là nét đáng yêu, đáng nhớ của Việt Bắc mãi in đậm trong
trái tim người ra đi.

Tiếp đến là bức tranh mùa hạ Việt Bắc hiện ra óng vàng rực rỡ, tựa như một bức tranh sơn mài rực rỡ

“Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Tiếng ve, hoa phách là đặc trưng của mùa hè Việt Bắc. Đầu hè từ cuối tháng ba sangtháng tư cả rừng phách nhất tề thay
lá, khi bản đàn ve vừa cất dạo khúc đầu tiên báo hiệu mùa hè đến thì cả rừng phách lá màu xanh đồng loạt chuyển sang
sắc vàng lai láng trong ít ngày. Đây là một bức tranh sơn mài được vẽ lên bằng hoài niệm, nên lung linh ánh sáng, màu
sắc và rộn rã âm thanh. Tranh mùa hè mà cứ cảm tưởng như màu vàng trong tranh củanhững danh họa phương Tây vẽ
về mùa thu, làm ta nhớ đến bức tranh mùa thu trong thơ của các nhà thơ mới:

“Em không nghe mùa thu

Lá thu rơi xào xạc

Con nai vàng ngơ ngác

Đạp trên lá vàng khô”

(Lưu Trọng Lư)

Câu thơ “ve kêu rừng phách đổ vàng” mang vẻ đẹp cổ điển, chỉ có sáu tiếng mà gợi lên cả âm thanh, ánh sáng, màu sắc,
đường nét, diễn tả rất đắt sự chuyển đổi của thiên nhiên và sự vận động của thời gian. Đó là bức tranh mùa hè đầy sức
sống rạo rực đổ ra muôn phương. Đi cùng với bức tranh thiên nhiên mùa hè là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái
búp măng rừng cung cấp cho bộ đội: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Hai chữ “một mình” mà vẫn không gợi lên cái
cô đơn hiu hắt bởi cô đang làm bạn với thiên nhiên tươi đẹp, đang làm chủ lao động, làm chủ tự do. Hình ảnh thơ đã gợi
lên sự trẻ trung,yêu đời, chịu thương, chịu khó của cô gái nuôi quân hết lòng phục vụ cho kháng chiến và cách mạng. Câu
thơ còn mang nỗi niềm cảm kích, biết ơn trân trọng đồng bào Việt Bắc củanhà thơ nói riêng, và của cán bộ về xuôi nói
chung, hình ảnh ấy người đi không bao giờ có thể quên được.

Khép lại bức tranh tứ bình đa sắc màu là bức tranh mùa thu cùng tiếng hát chia tay giã từ:

“Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Khác với cái sôi động náo nhiệt của mùa hè, thiên nhiên mùa thu hiện lên thật thanh bình, yên ả. Vẻ đẹp ấy được tạo
nên từ ánh trăng thu. Nếu trăng Việt Bắc trong thơ Bác Hồ mang vẻ đẹp “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”, thì trăng
trong thơ Tố Hữu lại là “trăng rọi hòa bình”. Chữ “rọi” rất hay, nó diễn tả được ánh trăng tràn ngập cả không gian bao la.
Đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình rọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Giữa bao la ánh
trăng vàng dịu mát ấy lại vang lên tiếng hát nghĩa tình của đồng bào Việt Bắc. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào
dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình. Đây cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc, của núi rừng của tình cảm
mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng, gợi cho người đi lẫn độc giả những rung động sâu sắc về tình yêu quê hương
đất nước, tình yêu tổ quốc.

Mình về thành thị xa xôi

Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?


Phố đông, còn nhớ bản làng

Sáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?

Nếu ví nội dung của một tác phẩm như một cánh diều, thì nghệ thuật chính là phương tiện cứu cánh cho cánh diều ấy
bay cao, bay xa. Cái chắp cánh cho hồn thơ Tố Hữu bay xa, gây ấn tượng sâu sắc với người đọc chính là phong cách.
Đoạn thơ trên tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu: phong cách trữ tình chính trị. Từ câu chuyện chính trị, chia tay lịch
sử giữa nhân dân và cách mạng đã được lãng mạn hóa thành cuộc chia tay của“ta” và “mình” tạm xa nhau đi làm nghĩa
vụ. Phong cách thơ Tố Hữu còn được thể hiện qua tính dân tộc trong nội dung và hình thức thể hiện. Về nội dung, đoạn
thơ để lại vẻ đẹp của truyền thống dân tộc với đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Về hình thức nghệ thuật, Tố Hữu sử dụng
thể thơ lục bát – thể thơ truyền thống của dân tộc , kết hợp với ngôn ngữ mộcmạc, giản dị như lười ăn tiếng nói hằng
ngày và âm điệu ngọt ngào. Đặc biệt là lối kết cấu đối đáp quen thuộc trong ca dao, dân ca qua đại từ xưng hô “mình –
ta” ngọt ngào như lời ru, đưa ta vào thế giới của những kỉ niệm tình nghĩa thủy chung. Cùng với các biện pháp tutừ được
tác giả vận dụng khéo léo như hoán dụ, câu hỏi tu từ, điệp từ… Tất cả đã hòa quyện lại và chắp cánh, nâng đỡ cho ngòi
bút của Tố Hữu thăng hoa cùng Việt Bắc. Tất cả đã làm nên một đoạn thơ giàu tính tạo hình về thiên nhiên và con người
Việt Bắc, mở rộng hơn nữa, đó là tình yêu quê hương đất nước sâu nặng trong tâm hồn của nhà thơ cách mạng– Tố
Hữu.

Một tác phẩm tồn tại bất hủ với thời gian phải đảm bảo được ba giá trị: giá trị nhận thức, giá trị giáo dục, giá trị thẩm mĩ.
Việt Bắc của ố Hữu đã đảm bảo được ba tiêu chí trên.Chế lan Viên đã từng nhận xét rằng “nhà thơ này sử dụng đôi mắt
tinh tường, nhà thơ khác sử dụng bộ óc kì ảo, còn Tố Hữu anh chỉ sử dụng tình cảm và trái tim trần”. Thật vậy từ
những cảm xúc dạt dạo trong tâm hồn mình, nhà thơ đã viết nên tuyệt phẩm tuyệt vời về tình quân dân Việt Bắc gắn bó
sâu nặng nghĩa tình thủy chung, son sắc. Tình cảm ấymãi in đậm trong trái tim Tố Hữu.

Đoạn số 5:
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu, từ đó nhận xét về cảm hứng sử thi của đoạn thơ:

Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.

Núi giăng thành luỹ sắt dày

Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù

Mênh mông bốn mặt sương mù

Đất trời ta cả chiến khu một lòng.

Ai về ai có nhớ không?

Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng.

Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng

Nhớ từ Cao - Lạng, nhớ sang Nhị Hà...

Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung


Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.

Tin vui chiến thắng trăm miền

Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

Vui từ Đồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.112,113)

I. MỞ BÀI

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

- Giới thiệu yêu cầu của đề bài:

II. THÂN BÀI

1. Khái quát

2. Phân tích đoạn thơ: Khí thế chiến đấu, chiến thắng của quân và dân ta trên chiến khu

Việt Bắc

2.1. Giới thiệu đoạn thơ

- Kết cấu đối đáp được thể hiện rất rõ trong suốt đoạn trích, bao gồm cả đoạn thơ này. Người ta đã có lý khi nói thơ Tố
Hữu là thứ thơ "đốt cháy trái tim để trở thành trí tuệ", với ý tưởng trữ tình hoá sự kiện chính trị cũng như đời sống chính
trị của đất nước, viết "Việt Bắc", Tố Hữu đã sáng tạo nên một cấu tứ rất độc đáo-khúc hát đối đáp trong cuộc chia tay giữa
người ở và người về xuôi để khơi gợi những kỉ niệm gắn bó trong những ngày kháng chiến gian khổ mà vẻ vang. Trong
đó đoạn thơ này là lời người ra đi thể hiện nỗi nhớ về những ngày tháng hào hùng trên chiến khu Việt Bắc.

- Nếu như các đoạn thơ trước của bài thơ đã thể hiện nghĩa tình trong kháng chiến giữa những người cán bộ cách mạng
miền xuôi với nhân dân Việt Bắc trong suốt 15 thì đoạn thơ này lời người đi đã làm sống lại khí thế chiến đấu và chiến
thắng của quân và dân ta trên chiến khu Việt Bắc từ những ngày đầu gian khổ đến khi chiến thắng về ta.

- Đoạn thơ thể hiện cảm hứng sử thi đậm nét khi tái hiện khí thế dũng mãnh, cảnh tượng hào hùng, sôi nổi của quân và
dân ta trong chiến đấu. Từ đó ca ngợi chiến thắng, thể hiện niềm tự hào dân tộc. "Việt Bắc" vì thế không chỉ là bản tình ca
mà còn trở thành bản anh hùng ca về cuộc kháng chiến chống Pháp.

2.2. Mười câu thơ:

Nhớ khi giặc đến giặc lùng


... Nhớ từ Cao Lạng, nhớ sang Nhị Hà.

Khí thế chiến đấu và những trận đánh, chiến thắng bước đầu

- Những ngày kháng chiến trên chiến khu Việt Bắc là những ngày tháng đầy gian khổ. Những ngày đầu ấy quân và dân ta
không chỉ phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt là mưa nguồn, suối lũ, mây mù, với điều kiện sinh hoạt vật chất vô
cùng thiếu thốn chỉ có miếng cơm chấm muối, chia sẻ với nhau từng củ sắn, bát cơm, cùng đắp chăn làm từ vỏ cây sui...
mà còn có cả những ngày giặc đến giặc lùng. "Giặc đến" là thời điểm nguy kịch, "giặc lùng" là cảnh nguy biến, hoảng
loạn, tan tác, loạn lạc. Cảnh giặc đến gây bao tang thương đã được nhà thơ Hoàng Cầm khắc họa:

Quê hương ta từ ngày khủng khiếp

Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn

Ruộng ta khô Nhà ta cháy

Chó ngộ một đàn

Lưỡi dài lê sắc máu

Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang

Hiện thực của những ngày đầu ta yếu, địch mạnh ấy cũng giống như khi Lê Lợi mới gây dựngkhởi nghĩa Lam Sơn được
Nguyễn Trãi viết trong "Bình Ngô đại cáo":

Ta đây!

Núi Lam Sơn dấy nghĩa

Chốn hoang dã nương mình.

Nghệ thuật chiến tranh du kích là phải dựa vào là phải dựa vào địa hình hiểm trở, rừng núi để đánh giặc. Bởi vậy mà núi
đá, rừng cây cũng tham gia đánh giặc. Núi rừng Việt Bắc tươi đẹp, hiền hòa trong bức tranh tứ bình nay bỗng trở thành
những chiến sĩ thực thụ trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược.

+ Núi đá tham gia đánh giặc: Những dãy núi trùng điệp dàn trải như thành lũy kiên cốbất khả xâm phạm che chở bộ
đội, dân quân, du kích,… Tư thế hiên ngang kiêu hùng củanhững vách núi làm cho kẻ thù bất lực.

+ Rừng cây cũng tham gia đánh giặc: Rừng cây vừa bao vây quân thù, vừa chở chebộ đội. Rừng núi vốn là những vật
vô tri, song dưới con mắt của nhà thơ, trong cuộc khángchiến trường kì toàn dân, toàn diện cũng trở nên có ý chí, có
tình người. Chúng cùng quândân ta tham gia chiến đấu và trở thành đồng đội với quân và dân ta trong cuộc chiến.
Vớinghệ thuật nhân hóa, Tố Hữu đã biên núi rừng, thiên nhiên thành những người lính anhdũng kiên cường.

+ Bốn mặt sương mù: Khung cảnh chiến đấu vừa hào hùng vừa thơ mộng, đất trờibao la chìm trong sương mù dày
đặc. Màn sương ấy như che chở cho quân ta và cản bướcquân thù.

+ "Cả chiến khu một lòng": Cả núi rừng Việt Bắc giờ đây đang cùng chung một nhịp đập trái tim. Tất cả đang hướng
về cuộc chiến đấu, hướng về sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc, bảovệ quê hương yêu dấu. Cụm từ này đã nhấn mạnh tình đoàn
kết quân dân, sự gắn bó giữa con người và thiên nhiên. Tất cả bừng lên ngọn lửa căm hờn, ngọn lừa hừng hực tinh thần
quyết chiến, quyết thắng.

Qua những câu thơ này, Tố Hữu thế hiện lòng tự hào trước sức mạnh của dân tộc ta.Khi Tổ quốc, quê hương cần, tất cả
thiên nhiên và con người đều sẵn sàng chiến đấu, sẵnsàng hi sinh. Ngay từ những ngày đầu vất vả, gian khổ nhất khí thế
chiến đấu của quân vàdân ta trên chiến khu Việt Bắc đã cao ngất trời, không khác gì khí thế của quân đội nhàTrần trong
cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông:

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu

Ba quân tì hổ khí thôn ngưu

(Múa giáo non sông trải mấy thâu - Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)

- Câu thơ "Ai về ai có nhớ không?": Đại từ "ai" lặp lại 2 lần, tuy phiếm chỉ nhưng kếthợp thành "ai về" rõ ràng là chỉ
người đi. Cả câu thơ là một câu hỏi. Câu hỏi ấy cũngkhông phải để được trả lời mà là một câu hỏi tu từ để cho thấy
người ra đi đang tự nhìn vào lòng mình và sử dụng câu hỏi như một cây cầu nối để dẫn dắt vào nỗi nhớ về những
trậnđánh, chiến thắng.

- Với quyết tâm đánh giặc, cả chiến khu từ thiên nhiên đến con người đều một lòng chiếnđấu nên ta đã có những trận
đánh, những chiến thắng bước đầu. Điệp từ "nhớ" được lặp lại 4lần trong 4 câu thơ khẳng định sâu sắc nỗi nhớ niềm
thương của người cán bộ về xuôi.Cũng trong 4 câu thơ, nhà thơ còn sử dụng nhiều tên địa danh. Nhưng đó không
phảinhững địa danh đơn thuần mà là những địa danh diễn ra những trận đánh, những chiếnthắng của quân và dân ta.
Nhà thơ Quang Dũng trong bài thơ "Tây Tiến" cũng nhắc đến rấtnhiều tên địa danh như Sài Khao, Mường Lát, Mai Châu,
Pha Luông, Mường Hịch...

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Những tên địa danh ấy gợi lên trong lòng người đọc bao nhiêu niềm thương nỗi nhớvề một thời Tây Tiến. Nhưng ở đây,
các địa danh trong thơ Tố Hữu không chỉ gợi niềmthương, nỗi nhớ mà còn là niềm tự hào chiến thắng. Đoạn thơ là lời
khẳng định đầy tự hàorằng ta vẫn có thể chiến đấu và chiến thắng trong những ngày đầu khó khăn, gian khổ nhất.

2.3. Hai câu thơ:

Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Nét tả khái quát: Những con đường ra trận trên chiến khu Việt Bắc

- Nếu như đoạn thơ 10 câu trên là những ngày đầu khó khăn, gian khổ mới chỉ có những trận đánh, chiến thắng bước
đầu thì đoạn thơ tiếp theo đã tái hiện khí thế chiến đấu, chiến thắng ngút trời của quân và dân ta. Đoạn thơ được kết
cấu theo cấu trúc mà trong đó nét tả khái quát là miêu tả những con đường ra trận trên chiến khu Việt Bắc làm hiện lên
khí thế ra trận của quân và dân ta. Sau đó là miêu tả cụ thể những đoàn quân, đoàn dân công và những đoàn xe cơ giới
ra chiến trường trên những nẻo đường Việt Bắc. Và cuối cùng là nêu các tên địa danh là những chiến thắng trên khắp
mọi miền tổ quốc, khẳng định chiến thắng về ta.

- Khí thế chiến đấu và chiến thắng ấy được thể hiện trước hết qua nét tả khái quát về những con đường ra trận trên
chiến khu Việt Bắc. Hai câu thơ mở ra một không gian rộng lớn, hùng tráng là trên khắp các ngả đường Việt Bắc. Thời
gian được thể hiện qua từ láy "đêm đêm" không chỉ thể hiện quãng thời gian lặp đi lặp lại là hàng đêm mà còn xác nhận
một hiện thực thời đó là quân ta chủ yếu hoạt động và kiểm soát về đêm. Mặt khác, trong cuộc kháng chiến thần tốc ấy,
để tiếp tế, chi viện cho chiến trường đủ cả về nhân lực và vật lực thì quân và dân ta phải hoạt động cả trong đêm. Hiện
thực ấy được nhắc tới trong rất nhiều thi phẩm ra đời cùng thời như:

Những đêm dài hành quân nung nấu


Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu

(“Đất nước” - Nguyễn Đình Thi),

Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống

Bộ đội bên sông đã trở về”

(“Bên kia sông Đuống” - Hoàng Cầm)

- Khí thế chiến đấu dũng mãnh của quân và dân ta được thể hiện rõ qua từ láy "rầm rập" và biện pháp nghệ thuật so

sánh "như là đất rung"

+ Từ láy "rầm rập": cho thấy sự chuyển động của những bước chân trên con đường ra mặt trậnvà hơn nữa cho thấy sức
mạnh, nhịp độ khẩn trương của quân ta.

+ Nghệ thuật so sánh có phần cường điệu "như là đất rung" càng nhấn mạnh khí thế chiến đấu,sức mạnh quân và dân ta,
là sức mạnh nhân nghĩa của mấy ngàn năm lịch sử. Khí thế chiến đấu và chiến thắng ấy tưởng chừng có thể làm rung
chuyển trời đất, lay động cả càn khôn. Mặt đất tưởng chừng rung chuyển dưới bước chân của những người khổng lồ
đầu đội trời, chân đạp đất trong cuộc ra quân vĩ đại.

+ Từ "của ta" một lần nữa khẳng định tâm thế làm chủ. Đó là tâm thế của cả dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Tâm thế ấy còn được Tố Hữu nhắc đến một lần nữa trong "Hoan hô chiến sĩ Điện Biên":

Của ta trời đất đêm này

Sông kia, đồi nọ, núi này của ta

Cũng là tâm thế được thể hiện trong thơ Nguyễn Đình Thi về thời ấy:

Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những cánh đồng thơm mát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa

Nhìn chung, hai câu thơ thể hiện rõ niềm tự hào làm chủ và khí thế chiến đấu chiến thắng cao ngất trời của những con
người chưa ra trận mà như đã nắm chắc phần thắng trong tay. Truyền thống yêu nước đã kết tinh thành sức mạnh,
thành khí thế hào hùng của cả dân tộc trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược như "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn
Trãi miêu tả:

Đánh một trận sạch không kình ngạc

Đánh hai trận tan tác chim muông

Nổi gió to quét sạch lá khô

Thông tổ kiến sụt toang đê vỡ


2.4. Hai câu thơ:

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Hình ảnh đoàn quân ra trận

- Hình ảnh đoàn quân được miêu tả trong sự trưởng thành, lớn mạnh, đội ngũ đôngđảo, hùng hậu. Nghệ thuật trùng
điệp với hai từ láy “điệp điệp" và “trùng trùng" đi liềnnhau ở câu thơ có sức gợi tả đó, nó vừa gợi lên hình ảnh đoàn
quân với sức mạnh vô song,tầng tầng, lớp lớp như sóng cuộn. Đoàn quân ra mặt trận hùng tráng, mang cả sức mạnhcủa
lòng yêu nước, của lí tưởng cách mạng, khát khao chiến đấu và chiến thắng quân thù.

- Câu thơ thứ hai "Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan" đầy sáng tạo, được ngắt theo nhịp 4/4 càng làm tăng thêm vẻ
đẹp của người lính - một vẻ đẹp vừa hiện thực vừa mộng ảo, gợi lên những ấn tượng đẹp về anh bộ đội cụ Hồ. Câu thơ
trước hết tả thực hình ảnh những người lính trong cuộc hành quân đêm, súng khoác trên vai, ánh sao chênh chếch trên
đầu mũi súng. Nhưng câu thơ không chỉ có ý nghĩa tả thực mà còn gợi nhiều liên tưởng. Trong đó, ánh sao là biểu tượng
cho lí tưởng của người chiến sĩ, là ánh sáng cách mạng, là ý chí đánh giặc của người lính. Những người lính chiến đấu vì lí
tưởng cao đẹp, vì độc lập tự do cho đất nước. Cụm từ "ánh sao đầu súng" đã nâng tầm vóc những người lính khiến họ
vươn tới tận sao trời. Từ "bạn cùng" đã nhấn mạnh sự hài hòa giữa vẻ đẹp và lí tưởng ngời sáng của người chiến sĩ với
cái bình dị, đời thường của người lính được gợi ra từ hình ảnh "mũ nan". Chiếc mũ nan ấy có thể được đan bởi những
người dân Việt Bắc, họ gửi vào chiếc mũ bao nhiêu tin yêu cho chiến trường:

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Như thế, hình ảnh “Ánh sao đầu súng" ở đây cũng có nét giống với hình ảnh "Đầusúng trăng treo” trong bài thơ "Đồng
chí" của Chính Hữu. Ánh sao đầu súng ấy cũng cóthể là ánh sáng của ngôi sao gắn trên chiếc mũ nan của người lính, ánh
sáng của lí tưởngcách mạng soi cho người lính bước đi, như nhà thơ Vũ Cao trong bài "Núi đôi" đã viết:

Anh đi bộ đội sao trên mũ

Mãi mãi là sao sáng dẫn đường

2.5. Hai câu thơ:

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

Hình ảnh đoàn dân công

- Trên các nẻo đường Việt Bắc còn có những đoàn dân công bền bỉ tải lương thực,súng đạn để phục vụ cho chiến trường.
Hình ảnh của họ cũng thật đẹp, thật hào hùng vàđầy lạc quan không kém những người lính. Cụm từ "từng đoàn" thể
hiện đội ngũ rất đôngđảo, hùng hậu. Điều đó khẳng định cuộc kháng chiến chống Pháp của ta là cuộc khángchiến toàn
dân, toàn diện, là cuộc chiến tranh nhân dân mà cả nước đều dốc lòng, dốc sứccho tiền tuyến lớn.

- Hình ảnh đoàn dân công đi trong đêm cũng là hình ảnh rất thực ở thời ấy. Họ đi dưới ánh sáng của những ngọn đuốc và
từ những ngọn đuốc bay ra muôn tàn lửa tạo nên một hình ảnh rất đẹp, đậm chất lãng mạn, thậm chí có thể liên tưởng
muôn tàn lửa bay ra từ những bó đuốc ấy như đã tạo ra một đêm hội hoa đăng. Nghệ thuật cường điệu “dấu chân nát
đá” đã tạo nên hình ảnh thơ đầy chất thần thoại. Bước chân đoàn dân công như bước chân của những con người đội đá,
vá trời, làm rung chuyển vũ trụ. Biện pháp nghệ thuật này có tác dụng nhấn mạnh sức mạnh và ý chí của đoàn dân công
sẵn sàng đạp bằng mọi chông gai để đi tới. Bởi thế nên mới có những câu thơ, lời hát:

Bác thương đoàn dân công

Đêm nay ngủ ngoài rừng

Rải lá cây làm chiếu

Manh áo phủ làm chăn

2.6. Hai câu thơ:

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.

Đoàn xe cơ giới ra chiến trường

- Trên những con đường Việt Bắc không chỉ có đoàn quân, đoàn dân công mà còn có những đoàn xe cơ giới chở lương
thực, đạn dược, chở bộ đội ra chiến trường. Hai câu thơ với bút pháp chủ đạo là nghệ thuật tương phản, đối lập đã cho
ta cái nhìn toàn diện về cuộc kháng chiến của dân tộc. Hình ảnh thơ ở đây vừa có nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa biểu
trưng:

+ Nghĩa thực: Những đoàn xe đi trong đêm giữa bóng tối nghìn đêm thăm thẳm của núi rừng Việt Bắc với đèn pha
bật sáng xua tan bóng tối sương dày để soi rõ con đường ra tiền tuyến cho đến ngày mới sẽ có hừng đông ló rạng.

+ Nghĩa biểu trưng: Cụm từ thời gian “nghìn đêm thăm thẳm sương dày” như gợi lại cả một thời kì dài đất nước ta
chìm trong ách nô lệ, tăm tối, hết nghìn năm Bắc thuộc lại Pháp thuộc. Đồng thời là muôn vàn những gian khổ, hi sinh,
thử thách, khó khăn trên con đường cách mạng, kháng chiến. Cụm từ“ngày mai lên” chỉ một tương lai tươi sáng. Con
đường ra trận trên chiến khu Việt Bắc là con đường đầy khó khăn gian khổ, hi sinh nhưng cũng chính là con đường đi tới
ngày mai tươi sáng.

- Nghệ thuật tương phản, đối lập càng bộc lộ rõ cảm hứng lãng mạn, thể hiện khát vọng và niềm tin cháy bỏng của nhân
dân ta vào một ngày mai tất thắng. vẻ đẹp của đoàn xe cơ giới ra chiến trường và niềm tin chiến thắng ấy còn được thể
hiện trong một bài thơ ra đời trong cuộc kháng chiến chống Mỹ là bài thơ "Tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật:

Không có kính, rồi xe không có đèn,

Không có mui xe, thùng xe có xước,

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:

Chỉ cần trong xe có một trái tim.

2.7. Bốn câu thơ:

Tin vui chiến thắng trăm miềm

Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về

Vui từ Ðồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.


Tin vui chiến thắng

Với khí thế chiến đấu và chiến thắng mạnh mẽ, với sức mạnh, ý chí to lớn nên cuối cùng ta đã chiến thắng. Tin vui thắng
từ khắp các mặt trận dồn dập ùa về. Gọi tên các địa danh để nói đến chiến thắng trở thành một nét riêng của thơ Tố
Hữu. Nghệ thuật liệt kê, trong đó mỗi địa danh được liệt kê ra là một chiến thắng. Vì vậy, gọi tên địa danh là thể hiện
niềm tự hào dân tộc, niềm tự hào chiến thắng. (Mở rộng về cách sử dụng địa danh trong thơ: Xem ở trên)

- Với các địa danh được liệt kê ở khắp mọi miền đất nước cùng với cách sử dụng ngôn ngữ như "trăm miền", cấu trúc
"...vui về...vui từ...vui lên..." càng thể hiện rõ hơn chiến thắng vẻ vang của dân tộc. Chiến thăng liên tiếp báo về Việt Bắc
cũng được Hồ Chí Minh khẳng định trong bài thơ Báo tiệp":

Trăng vào cửa sổ đòi thơ,

Việc quân đang bận xin chờ hôm sau

Chuông lầu chợt tỉnh giác thu

Ấy tin thắng trận liên khu báo về

3. Đánh giá chung

3.1. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật

Thể thơ lục bát được tác giả phô diễn với những tình cảm, tư tưởng mới mẻ vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Lối hát đối đáp
tạo ra giai điệu phong phú cho bài thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tácgiả vận dụng khéo léo. Ngôn ngữ trong sáng,
nhuần nhị, và có nhiều nét cách tân. Đặc biệt, đáng chú ý trong bài thơ là âm hưởng rất hùng tráng khi miêu tả cuộc ra
quân vĩ đại của dân tộc. Có thểnói "Việt Bắc" là thơ trữ tình chính trị và đoạn thơ này mang đầy cảm hứng anh hùng ca,
đậm màu sắc sử thi lãng mạn. Đoạn thơ là âm vang của cuộc kháng chiến thần thánh, là bản tổng kết bằng thơ về mười
lăm năm chống Pháp nhưng vẫn nằm trong mạch cảm xúc về nỗi nhớ Việt Bắc,ân tình ân nghĩa của người cán bộ cách
mạng miền xuôi với Việt Bắc và nhân dân việt Bắc.

3.2 Nhận xét về tình sử thi:

Một trong những đặc điểm nổi bật của văn học Việt Nam 1945- 1975 là thể hiện rõ khuynh hướng sử thi và cảm hứng
lãng mạn. Chất sử thi trong văn học thường được thể hiện khi nó tập trung phản ánh những vấn đề có ý nghĩa sống còn
của đất nước: Tổ quốc còn hay mất, tự do hay nô lệ. Nhân vật chính là những con người đại diện cho phẩm chất và ý chí
của dân tộc; gắn bó số phận cá nhân với số phận đất nước; luôn đặt lẽ sống của dân tộc lên hàng đầu. Giọng điệu sử thi
là giọng ngợi ca, trang trọng và đẹp tráng lệ, hào hùng.

Trong thơ Tố Hữu thường thấy những sự kiện chính trị của đất nước là đối tượng thường thể hiện chủ yếu, đồng thời
cũng đề cập những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và mang tính chất toàn dân. Thơ Tố Hữu thương có các nhân vật trữ tình
mang tầm vóc lịch sử và thời đại. Sự kiện chính trị của đất nước là đối tượng thường thể hiện chủ yếu, đồng thời cũng
đề cập những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và mang tính chất toàn dân. Trong đó Việt Bắc là bản tổng kết bằng thơ, là bản
anh hùng ca về cuộc kháng chiến chống Pháp. Bài thơ ra đời nhân sự kiện lớn có tính lịch sử của thời đại, thể hiện tình
cảm cách mạng sâu sắc giữa những người cán bộ cách mạng miền xuôi với người dân Việt Bắc và căn cứ địa cách mạng.

Chính điểm nhìn nghệ thuật mang tính sử thi của nhà thơ đã nâng các nhân vật trữ tình trong bài thơ thành những con
người nhân danh cộng đồng, nhân danh Đảng và dân tộc mà ở đây là hình ảnh người cán bộ cách mạng miền xuôi, người
dân Việt Băc, hình ảnhngười chiến sĩ cách mạng có lý tưởng cao đẹp, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì độc lập tự do của tổ
quốc, là đoàn dân công ra chiến trường.Ngoài ra, tính sử thi trong đoạn thơ còn được thể hiện qua một hồn thơ luôn
hướng tới cái ta chung, âm điệu hào hùng, dồn dập tạo nên phong cách nghệ thuật độc đáo cho thơ TốHữu: tính chất
trữ tình chính trị sâu sắc.

Đoạn số 6:
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu, từ đó nhận xét về phong cách nghệ thuật của nhà
thơ:

Ai về ai có nhớ không?

Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.

Nắng trưa rực rỡ sao vàng

Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công

Điều quân chiến dịch thu đông

Nông thôn phát động, giao thông mở đường

Giữ đê, phòng hạn, thu lương

Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...

Ở đâu u ám quân thù

Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi

Ở đâu đau đớn giống nòi

Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.

Mười lăm năm ấy, ai quên

Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hoà

Mình về mình lại nhớ ta

Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào.

(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.109)

I. MỞ BÀI

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

- Giới thiệu yêu cầu của đề bài:

II. THÂN BÀI

1. Khái quát

2. Phân tích đoạn thơ: Việt Bắc là quê hương của cách mạng

2.1. Giới thiệu về đoạn thơ


Đoạn thơ này tác giả lại chuyển sang giọng điệu thơ trang trọng, thiêng liêng để diễn tả nỗi nhớ của người về đối với
Trung ương Chính phủ – Cụ Hồ. Và hình ảnh của Việt Bắc trong trí nhớcủa người về là quê hương cách mạng, căn cứ địa
kháng chiến, là niềm tin,hi vọng của cả dân tộc.

2.2. Hình ảnh Trung ương chính phủ ở Việt Bắc

- Câu thơ "Ai về ai có nhớ không?": Đại từ phiếm chỉ “ai” được điệp lại hai lần trong câu thơ sáu tiếng như nốt luyến láy
đầy vấn vương. “Ai” vừa là người đi cũng vừa là nhân dân Việt Bắcnên câu hỏi ấy như nỗi niềm băn khoăn, tha thiết của
cả người đi và kẻ ở khi nhớ về những tháng ngày nơi thủ đô gió ngàn.

- Khung cảnh Việt Bắc: Khi quyết định rời thủ đô Hà Nội, thực hiện kế hoạch vườn không nhà trống thì đồng thời cơ quan
đầu não của TƯ của đảng và chính phủ kháng chiến cũng di chuyển lên chiến khu Việt Bắc nên mới có khung cảnh:

Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.

Nắng trưa rực rỡ sao vàng

Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công

+ Hình ảnh ngọn cờ đỏ sao vàng: Khi thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân cũng là lúc lá cờ đỏ sao vàng
được lấy làm quốc kì của dân tộc ta. Lá cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay trên cửa hang lộng gió, phải chăng đó là hang
PắcPó, nơi lãnh tụ HCM kính yêu của chúng ta sống và làm việc. Hình ảnh này không chỉ mang ý nghĩa tả thực mà nó còn
mang ý nghĩa tượng trưng cho tinh thần, ý chí quyết tâm cao độ trong cuộc kháng chiến của quân và dân ta và niềm tin
tất thắng vào cuộc kháng chiến của dân tộc.

+ Ánh nắng trưa rực rỡ: Khung cảnh Việt Bắc nơi chiến khu hiện lên rực sáng bởi sự xuất hiệnánh nắng chói chang
của mặt trời. Hãy nhớ lại những tháng năm dân tộc ta phải đi qua “nghìn đêm thăm thẳm sương dày” mới hiểu hết giá trị
của ánh nắng mặt trời khi chiếu rọi đến nơi đây. Phải chăng điều nhà thơ Tố Hữu muốn nói thật giản dị nơi nào có Đảng,
có chính phủ nơi đó có ánh sáng mặt trời, có sự sống, có độc lập tự do. Đó là chân lí mà chàng thanh niên trẻ tuổi
NguyễnKim Thành đã nhận ra từ tuổi đôi mươi.

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim

Khung cảnh nơi chiến khu hiện lên thật rực rỡ, làm tấm phông nền tươi sáng cho "Trung ương, Chính phủ luận bàn việc
công". Có lẽ không có hình ảnh nào tuyệt mĩ hơn ánh sáng lí tưởng cách mạng đang tỏa khắp chiến khu, ngọn gió của tự
do đang phần phật thổi trên lá cờ tổ quốc. Tất cả vì ngày mai chiến thắng.

- Từ Việt Bắc phát động ra mọi phong trào thi đua, yêu nước trong cả nước:

+ Trên tiền tuyến: Ðiều quân cho chiến dịch thu đông.

+ Hậu phương: Trong khi tiền tuyến nổ súng thì cũng là lúc hậu phương phải tập trung cao độ cho sản xuất để hoàn
thành vai trò tiếp viện cho chiến trường với các phong trào: phát động phong trào ở nông thôn như phong trào ba tốt,
ba đảm đang, chị hai năm tấn, phong trào mở đường giao thông, giỡ đê, phòng hạn, thu mua lương thực, mở trường ở
các khu...

2.3. Vai trò của Bác Hồ:

Ở đâu u ám quân thù


Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi

Biện pháp nghệ thuật đối lập làm nổi bật vai trò của vị lãnh tụ kính yêu và tài ba của dân tộc. Bác chính là người soi
đường dẫn lối cho kháng chiến. Bóng tối và sự u ám của quân thù không thể lấn át được ánh sáng tỏa rạng từ Cụ Hồ. Đó
không chỉ đơn thuần là ánh sáng của vị lãnh tụ màcòn là linh hồn, trái tim của cuộc chiến đấu nuôi dưỡng niềm tin của cả
dân tộc.

2.4. Vai trò của chiến khu cách mạng

Ở đâu đau đớn giống nòi

Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.

- Khi giống nòi dân tộc đang quằn quại, đau khổ dưới ách nô lệ lầm than, hãy hướng trái tim thì Việt Bắc chính là nơi hội
tụ cội nguồn sức mạnh, là nơi đặt niềm tin và hi vọng của đồng bào cả nước. Cả nước hướng về Việt Bắc để nuôi ý chí
chiến đấu quyết giành lại độc lập tự do cho đấtnước.

Mười lăm năm ấy ai quên

Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà

- Thời gian mười lăm năm được nhắc lại lần thứ hai trong đầy ắp ân tình và kỉ niệm. Và một sự khẳng định như lời thề
son sắt "Mười lăm năm ấy ai quên". Hơn nữa, hai câu thơ còn là một khái quát về ý thức cội nguồn, lòng biết ơn quê
hương cách mạng, đó là lẽ sống, lẽ làm người chân chính. Một Việt Bắc gian lao, bền bỉ, một Việt Bắc nghĩa tình và yêu
nước – sẽ mãi còn là nỗi nhớ và tình cảm sắt son. Mười lăm năm trên chiến khu Việt Bắc đã khiến Việt Bắc trở thành quê
hương, thành cái nôi của cách mạng, trở thành cội nguồn chiến thắng.

2.5. Hai câu thơ cuối:

Mình về mình lại nhớ ta

Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào

- Khúc hoàn ca:

- Hai câu thơ là tiếng ân ca tha thiết của khúc hát giao duyên của ta và mình lại cất lên như lời thủy lời chung. Mình và ta
lại quấn quýt giao hòa trong nỗi nhớ thương. Đây cũng chính là câu trảlời của người ra đi cho câu hỏi “Mình đi mình có
nhớ mình” của người ở lại. Nghĩa là người về muốn nhắn nhủ với Việt Bắc là dù xa cách dù về thành thị xa xôi thì người
các bộ kháng chiến năm xưa vẫn giữ gìn và phát huy phẩm chất tốt đẹp của người cán bộ cách mạng.

- Một lần nữa những địa danh thiêng liêng như Tân Trào, Hồng Thái được nhắc lại tạo thành kết cấu vòng tròn để thể
hiện tình cảm son sắt thủy chung của người đi kẻ ở rằng tình cảm với 15 năm trên chiến khu Việt Bắc mãi vẹn nguyên
như thuở ban đầu.

3. Nhận xét về đặc điểm phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu

Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu với yếu tố trữ tình chính trị. Từ câu chuyện chính trị, chia tay
lịch sử giữa nhân dân và cách mạng đã được lãng mạn hóa thành cuộc chia tay của “ta” và “mình” tạm xa nhau đi làm
nghĩa vụ, thể hiện tìnhcảm thủy chung son sắt giữ người ra đi và người ở lại. Đó là tình cảm gắn bó sâu nặng của người
cán bộ cách mạng về xuôi với Việt Bắc, thể hiện vẻ đẹp của truyền thống dân tộc vớiđạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Tính
sử thi được thể hiện rõ khi tái hiện một chặng đường lịch sử oai hùng của dân tộc. Tố Hữu sử dụng thể thơ lục bát – thể
thơ truyền thống của dântộc kết hợp với ngôn ngữ mộc mạc, giản dị như lười ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân và
âm điệu ngọt ngào đậm chất Huế. Đặc biệt là lối kết cấu đối đáp quen thuộc trong ca dao, dân ca qua đại từ xưng hô
“mình – ta” ngọt ngào như lời ru, đưa ta vào thế giới của những kỉ niệm và tình nghĩa thủy chung. Cùng với các biện
pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo như hoán dụ, câu hỏi tu từ, điệp từ… thể hiện được tính nhạc của tiếng Việt
khiên bài thơ trở nên dễ thuộc, dễ nhớ và dễ đi vào lòng người.

C. KẾT LUẬN CHUNG

Thơ ca nói riêng cũng như văn chương nói chung phải bắt rễ từ cuộc đời để rồi “nở hoa nơi từ ngữ”. Mỗi tác phẩm văn
chương được ví như tấm gương phản chiếu thời đại nó ra đời . Ý thức được về điều đó nên bàn về tình yêu Tổ quốc nhà
thơ Tố Hữu đã từng thổ lộ rằng: “Tôi yêu đất nước và nhân dân tôi, tôi viết về đất nước và nhân dân tôi như viết về
người đàn bà tôi yêu”. Bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu gắn với cuộc kháng chiến chống Pháp và chiến thắng vẻ vang của
dân tộc. từ đó thể hiện tình yêu quê hương, đất nước đã trở thành một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của thơ ca kháng
chiến chống Pháp, trở thành bài ca đi cùng năm tháng. Cảm ơn người con của xứ Huế đã để lại cho hậu thể một bản hùng
ca về ân tình cách mạng trong lịch sử thơ ca dân tộc.

41 ou

You might also like