You are on page 1of 7

HỌ VÀ TÊN: ĐÀO NGUYỄN NGÂN TRÂM

SỐ: 38

ĐỀ 5: PHÂN TÍCH 22 CÂU THƠ TIẾP THEO CỦA BÀI THƠ “VIỆT BẮC”:

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.

Núi giăng thành luỹ sắt dày

Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.

Mênh mông bốn mặt sương mù

Đất trời ta cả chiến khu một lòng.

Ai về ai có nhớ không?

Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng.

Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng

Nhớ từ Cao - Lạng, nhớ sang Nhị Hà...

Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.

Tin vui chiến thắng trăm miền

Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

Vui từ Đồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”


Bài làm

Thơ ca như một bông hoa tuyết nhẹ nhàng hạ cánh bên bờ của hiện thực, khiến người đọc mê
mẩn chiêm ngưỡng và quyện lòng mà không chút đắn đo. Nếu ví thế giới nghệ thuật là một bức tranh
muôn màu, muôn vẻ, thì thơ chính là một mảng màu tươi sáng và đẹp đẽ, say đắm lòng người với vô
vàn cung bậc xúc cảm như Voltaire đã viết: “Thơ là âm nhạc của tâm hồn, những tâm hồn đa sầu, đa
cảm”. Nhắc đến thơ ca kháng chiến, ta không thể nào quên đi hình ảnh của một người chiến sĩ làm thơ,
là “cánh chim đầu đàn" của thơ ca cách mạng Việt Nam - Tố Hữu. Mỗi tác phẩm của ông như mang
trong mình tiếng nói của thời đại, một thời đại bi tráng của dân tộc, một thời đại đất nước ngập chìm
trong bom đạn, khó khăn. Song chưa bao giờ ta bắt gặp ở thơ Tố Hữu sự bi thương đến cùng cực, thơ
ông như một bản tình ca dịu dàng, đầm thắm, lạc quan, khơi dậy trong lòng độc giả những rung cảm
khôn nguôi. Một trong những kiệt tác thơ ca của Tố Hữu chính là tác phẩm “Việt Bắc” - khúc tình ca sâu
nặng, thủy chung của người cán bộ Tố Hữu đối với nhân dân, với Cách mạng đã “gây xúc động” bao
trái tim yêu thơ qua bao tháng năm dài. Đặc biệt, khúc ca ra trận trong khung cảnh sôi động của cuộc
kháng chiến chống Pháp đã được nhà thơ tập trung miêu tả qua dòng hoài niệm về hình ảnh những
con đường Việt Bắc nhộn nhịp, sục sôi:

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng

...

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng."

Sau những hoài niệm về thiên nhiên và con người Việt Bắc, đoạn thơ dẫn vào khung cảnh
Việt Bắc kháng chiến với những cảnh tượng rộng lớn, những hoạt động sôi nổi, những chiến thắng
hào hùng...Đoạn thơ đã chuyển từ nhịp ngọt ngào, tha thiết của bản tình ca ân nghĩa đậm chất trữ tình
sang nhịp điệu sôi nổi, dồn dập, mạnh mẽ của khúc anh hùng ca hào tráng đậm chất sử thi khi thể
hiện nỗi nhớ về những kỉ niệm của cuộc kháng chiến oanh liệt hào hùng.

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.

Núi giăng thành lũy sắt dày

Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.

Mênh mông bốn mặt sương mù

Đất trời ta cả chiến khu một lòng.”

Nhà thơ gợi lại những kỉ niệm ở chiến khu Việt Bắc, khi người đi - kẻ ở đã cùng nhau kề vai sát
cánh, cùng nhau chiến đấu trong sự bao bọc của thiên thiên. Đại từ “ta” không còn chỉ riêng kẻ ở hay
người đi, bởi “ta” ở đây đại diện cho “chúng ta", cho sự đoàn kết, đồng lòng tạo dựng một tầm vóc sử
thi nổi bật cho đoạn thơ. “Ta” bao gồm kẻ ở, người đi và chính cả thiên nhiên núi rừng Việt Bắc. “Rừng
cây núi đá" luôn là tấm chắn vững chắc tạo nên ưu thế cho bộ đội ta giành thắng lợi. Đứng trước cánh
rừng đại ngàn mênh mông, quân thù phải lùi bước, phải e sợ, dè chừng bởi thiên nhiên và con người
đất Việt luôn đồng lòng, đoàn kết trọn vẹn. Đó chính là sự ưu ái lớn mà rừng cây Việt Bắc mang đến, ta
nắm trọn địa hình, hiểu rõ từng tuyến đường để đưa ra chiến lược phù hợp, đúng đắn nhất. Hơn thế
nữa, nhà thơ kết hợp cùng phép nhân hóa khiến cho sự vật vô tri vô giác trở nên có hồn. Từng cành cây,
hòn đá cũng góp một phần không nhỏ cho chiến thắng mai sau, biến thiên nhiên thành một lực lượng
kháng chiến, thể hiện tình đoàn kết đặc biệt giữa thiên nhiên và con người. Trong sinh hoạt đời sống
hằng ngày, thiên nhiên Việt Bắc có trong những bữa ăn đơn sơ như trám bùi, măng mai, củ khoai, củ
sắn; còn trong chiến tranh, thiên nhiên như mang tính chất quả cảm của con người Việt Nam “che bộ
đội” và “vây quân thù", luôn có mặt khi đất nước hiểm nguy, tất cả đều cùng chung mục tiêu quyết
chiến quyết thắng, giành lại độc lập cho dân tộc. Sự giao hòa giữa thiên nhiên và con người trong thơ
Tố Hữu khiến ta nhớ đến những vần thơ của của Nguyễn Đình Thi khi ông ca ngợi đất nước. Hình ảnh
“trời xanh”, “núi rừng” đều là của “chúng ta” – những con người một lòng hướng về tổ quốc:

“Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những cánh đồng thơm ngát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa

Nước chúng ta

Nước những người chưa bao giờ khuất”

Tiếp nối những vẫn thơ chung lòng, chung sức của thiên nhiên và con người Việt Bắc, thi nhân
bộc lộ niềm tha thiết trong nỗi nhớ khi lần lượt điểm tên những địa danh lịch sử vẻ vang một thời:

“Ai về ai có nhớ không ?

Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng.

Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng

Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà...’’

Điệp từ “nhớ” phủ tràn từng vần thơ, bộc lộ nỗi niềm khắc khoải của thi nhân khi điểm qua
từng chặng đường trong kí ức. Phép liệt kê ‘’Phủ Thông’’, ‘’đèo Giàng’’, ‘’sông Lô’’, ‘’phố Ràng’’, ‘’Cao –
Lạng’’, ‘’Nhị Hà’’... đều là những địa điểm mà họ đã gắn bó không ít lần, là những cứ điểm kháng chiến
quan trọng và với mỗi người cán bộ sẽ không thể nào quên. Trả lời cho câu hỏi “ai có nhớ không?”
chính là lời đáp thiết tha, chắc nịch: “ta về ta nhớ" bởi Tố Hữu đã mượn thơ để nói hộ tiếng lòng mình,
gói gọn cả một thời đại thơ Cách mạng cao đẹp. Không đi sâu vào tình cảm cá nhân riêng lẻ, mà ngược
lại, thơ ông là thứ tình cảm “có nhiều máu huyết hơn" luôn hướng về toàn dân tộc. Tình cảm ấy hòa vào
vần thơ “Việt Bắc” tạo nên khí thế ngút trời của quân và dân ta trong tư thế tiến công. chiến thắng,
trong khí thế thần tốc, anh dũng, hào hùng tiến lên phía trước.

“Tôi yêu đất nước và nhân dân tôi, tôi viết về đất nước và nhân dân tôi như viết về người đàn
bà tôi yêu". Tình yêu sâu nặng tha thiết dành cho đất nước là những gì Tố Hữu mang theo ở tuổi được
cách mạng soi sáng đến những năm cuối đời, ông vẫn luôn một lòng thủy chung như vậy. Việt Bắc có lẽ
là bài thơ rõ nhất cho tình yêu của tác giả. Bằng kỉ niệm đã qua, nhà thơ miêu tả lại hình ảnh đất nước
khi kháng chiến, cảnh dân và quân ta tổng phản công giành thắng lợi. Những câu thơ đầy sức công phá,
mạnh mẽ tạo thành bản hùng ca về cuộc chiến đấu gian khổ mà bất khuất của dân tộc:

“Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung”

Nhà thơ đã say đắm hòa quyện với những kỉ niệm, nghĩa tình gắn bó, cùng nỗi nhớ da diết
khôn nguôi đối với chiến khu và tạo nên một bản tình ca - cũng là bản hùng ca ca ngợi cuộc kháng
chiến hào hùng vĩ đại của dân tộc. Trong bản tình ca - hùng ca ấy, ta bắt gặp một hồn thơ đã sống sâu
sắc, trọn vẹn với từng giây phút của cuộc kháng chiến, để rồi “đêm đêm” dõi theo hành trình của quân
và dân ta, tự hào và ngợi ca bằng những vần thơ tình nghĩa. Tố Hữu đã khẳng định chắc nịch một niềm
tin và lòng tự hào mãnh liệt dành trọn cho chiến khu Việt Bắc. Câu thơ “Những đường Việt Bắc của ta”
là một lời quả quyết hùng tráng, tưởng như một đoàn người trai tráng đang đồng thanh hô hào thật to
khỏe: “Việt Bắc của ta" vậy! Trong kháng chiến chống Pháp, ta nghe tình đồng chí “súng bên súng, đầu
sát bên đầu”, ta thấy chạnh lòng với hình ảnh “anh về đất" của Quang Dũng, rồi kiêu hãnh hiên ngang
khi đọc thơ Việt Bắc. Như ai đó đã bảo: trăm ngả, trăm đường hướng về Việt Bắc, trăm nẻo từ Việt Bắc
tỏa đi muôn nơi đều là “của ta". Hai tiếng ấy vang lên thật gần gũi, thân thuộc, giản dị mà thiêng liêng
vô cùng. Trong thời điểm ấy, được khẳng định hùng hồn một phần trong đất nước là “của ta” là một
hạnh phúc không gì diễn tả được. Đó cũng là niềm tự hào về sự bất khả xâm phạm của vùng căn cứ
kháng chiến Việt Bắc - căn cứ địa cách mạng quan trọng của đất nước ta trong cuộc kháng chiến chống
Pháp lúc bấy giờ. Những con đường từng bị chiếm đóng nay cũng trở về là “của ta" - đất của Việt Nam
mãi mãi thuộc về người Việt Nam!

Tiếp đến là hình ảnh đoàn binh điệp điệp trùng trùng, hùng hồn và khí thế rợp trời:

“Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan"

Tinh thần đoàn kết dân tộc luôn là phẩm chất tuyệt vời, là cốt cách sáng ngời của người Việt
Nam anh hùng. Vì thế, hình ảnh đoàn binh đông đảo càng làm uy lực và khí thế chiến đấu dâng lên gấp
bội: Trong không gian đêm tối, quân ta vẫn “rầm rập” đi, khí thế hùng hồn, dữ dội như “đất rung". Biện
pháp so sánh, nhân hóa được sử dụng lột tả được hết tráng chí như vũ bão lúc bấy giờ. Hình ảnh “đất
rung" hiện lên như thể không gì có thể cản được, làm lay chuyển trời đất, phá tan mọi giới hạn không
gian. Không chỉ là một đêm hành quân “rầm rập” như thế, mà là “đêm đêm” - đêm nào cũng như thế,
họ luôn giữ được lý tưởng và sức mạnh bền bị mỗi ngày. Câu thơ mang âm hưởng khỏe khoắn, đanh
thép, sống động như một cuộc diễu binh. Nhưng chưa dừng lại ở đó, câu thơ tiếp theo: “Quân đi điệp
điệp trùng trùng” càng lột tả được khí thế hồ hởi như cơn sóng ào ạt, như thác nước tuôn trào liên tục,
sức mạnh ấy còn thể hiện sự kỷ luật của đoàn binh, dù đêm tối nhưng vẫn giữ được tinh thần kháng
chiến hăm hở. Các từ tượng hình “điệp điệp”, “trùng trùng" như thể bước chân của quân ta đang bước
dồn dập trên trang sách, hùng vĩ và cao đẹp. Hình ảnh đoàn binh khí thế ngợp trời ấy đã làm ta trầm
trồ, nhưng sẽ càng thán phục hơn khi lắng nghe lý tưởng của họ: “Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”.
Giờ đây, nơi đầu súng có ánh sao của lý tưởng cách mạng soi sáng, có ánh sáng rực rỡ của niềm tin
chiến thắng, của hòa bình đang chiếu rọi. Những ngôi sao xuất hiện trong bầu trời đêm để chiếu sáng
cho bầu trời, trở thành những vì tinh tú đi vào giấc mơ của mỗi con người. Những ánh sao của Việt Bắc
cũng chiếu rọi cả đêm tối của chiến tranh, soi đường dẫn lối cho kháng chiến thắng lợi. Đây là hình ảnh
đậm chất lãng mạn, giàu chất thơ trong bài thơ, ánh sao đi cùng với đầu súng, người bạn đi cùng với
mũ nan, tất cả đều song hành, đồng lòng đưa dân tộc đến bờ vinh quang, không kẻ thù nào có thể chia
cắt được!

Nhưng làm nên chiến thắng không chỉ có những người lính, mà còn có sự đoàn kết đồng lòng
của hậu phương, của lực lượng dân công hỏa tuyến cũng hùng hậu không kém:

“Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay.

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên."

Khí thế mạnh mẽ trong đoạn thơ này được bộc lộ rõ nét qua hai hình ảnh song hành: “Quân đi
điệp điệp trùng trùng” - “Dân công đỏ đuốc từng đoàn”. Đoàn quân chủ lực và đoàn dân công, từng
đoàn nối tiếp nhau, hỗ trợ đắc lực cho cuộc kháng chiến quan trọng này. Hình ảnh “đỏ đuốc từng đoàn”
là những đuốc lửa, những đèn pha cứ rực rỡ, thắp sáng cả bầu trời đêm. Từng đoàn với “bước chân nát
đá” như bước chân của những “hiệp sĩ”, sức mạnh và sức nặng của bước chân có thể làm “nát đá” với
“muôn tàn lửa bay". Hình ảnh “bước chân" được nhân hóa đặc sắc, nhưng cũng mang nhiều ẩn dụ sâu
sắc: “đá” tượng trưng cho những khó khăn, thử thách khắc nghiệt của cuộc kháng chiến - bước chân
làm “nát đá”, nghĩa là bước chân của đoàn binh, của đoàn quân công có đủ sức mạnh để giảm nát hết
những gian nan đó, đó là ý chí, là sức mạnh không gì có thể ngăn trở hay làm lung lay. Thời gian làm
việc của lực lượng dân công hỏa tuyến chủ yếu vào ban đêm, trong những tháng ngày cả nước ta cùng
tập trung vào trận đánh lớn để quyết tâm giành lại độc lập cho dân tộc:

“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày


Đèn pha bật sáng như ngày mai lên".

Nghìn đêm diễn ra chiến sự ác liệt, trong “thăm thẳm sương dày" trong đêm tối rét buốt sâu
thẳm ấy, đó là những đêm trường nô lệ khiến bao người gian lao. Trong Tây Tiến, Quang Dũng cũng
từng nói về sự “thăm thẳm”, nhưng là thăm thẳm của dốc núi khúc khuỷu, hay “sương lấp” giá lạnh; còn
với Tố Hữu, sương dày lên từng lớp chồng chất giữa đêm vắng “thăm thẳm" đến rợn người. Nghìn đêm
ấy trôi qua, đêm tối được chiếu sáng bởi đèn pha bật sáng của đoàn dân công, hình ảnh này đối lập với
hình ảnh ảnh sao chiếu sáng đầu súng, bó đuốc đỏ rực của đoàn binh ở đoạn trên, và cả hai hình ảnh
đều đẹp đẽ lạ thường. “Như ngày mai lên” chính là sự bộc lộ mạnh mẽ của niềm tin, cảm hứng về một
viễn cảnh tươi sáng ở ngày mai. Hình ảnh “nghìn đêm" như đòn bẩy càng làm bật lên ánh sáng rực rỡ
của con người, của niềm hy vọng mạnh mẽ vào tương lai. “Ánh sáng soi rọi con đường, dẫn lối đến ngày
mai. Ngày mai sẽ là ánh sáng, sẽ là độc lập, tự do". Nỗ lực, hi sinh cuối cùng đã không phụ lòng người,
bao cố gắng của quân dân ta đã được đền đáp trong những chiến thắng dồn dập vào giai đoạn tổng
phản công:

“Tin vui chiến thắng trăm miền

Hòa bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

Vui từ Đồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng."

Ta như nghe tiếng reo ca toàn thắng vọng về từ lịch sử, chiến thắng như trải dài “trăm miền”,
từ miền ngược, đến miền xuôi, từ những miền sâu thẳm trong trái tim mỗi người đang hướng về nước
Việt. Từ “vui” được điệp lại bốn lần trong suốt bốn câu thơ, niềm vui như lan tỏa ra, như dâng trào lên
mãnh liệt và hào sảng. Hơn thế, ở câu thơ đầu này, ta có một từ “vui”, đến câu thơ thứ hai, ta thấy “vui
về”, câu thơ thứ ba là “vui từ..” và cuối cùng là “vui lên”. Niềm vui tươi, hồ hởi, mừng rỡ như tăng tiến,
như lan rộng tỏa khắp không gian và thời gian. Chiến thắng nối tiếp chiến thắng, từ nơi này sang nơi
khác, hạnh phúc rực rỡ như ánh sao vàng của đất nước, sáng bừng lên khắp mọi miền. Từng loạt địa
danh nối tiếp nhau, dồn dập và rực rỡ như những ánh sao. Tố Hữu, bằng một sự tinh tế nào đó đã khiến
câu thơ vẫn cứ đậm đà, đằm thắm dù ông sử dụng biện pháp liệt kê địa danh, tưởng như có thể làm câu
thơ khô khan bất cứ lúc nào. Nhưng không, thơ vẫn cứ rất “thơ”, nghe như âm vang từ chiến khu Việt
Bắc đổ về với bao sự vỡ òa vậy.

Một câu thơ hay không chỉ dừng ở bề nổi trên trang giấy, giới hạn ở câu từ mà nó sẽ mở rộng
tâm hồn, giúp ta có thêm trải nghiệm, ta như được sống một cuộc đời mới và Tố Hữu đã làm được điều
khó khăn đó bằng chính quá trình lao động nghiêm túc và miệt mài không ngừng nghỉ của mình. Đoạn
thơ kết thúc nhưng dư âm của nó vẫn còn mãi về niềm vui chiến thắng của quân ta trong thời kì kháng
chiến gian khổ rất hào hùng. Thành công ấy đến từ thể thơ lục bát truyền thống, biện pháp tu từ được
vận dụng một cách linh hoạt, triệt để từ so sánh, điệp từ ngữ, liệt kê. Hình ảnh thơ giàu sức sáng tạo, từ
ngữ giản dị mộc mạc, giọng điệu hồ hởi vui tươi, liệt kê các địa danh lịch sử mang niềm vui to lớn, lan
rộng khắp cuộc kháng chiến đầy tự hào, hiên ngang bất khuất khiến cho nó còn để lại dư âm trong lòng
người đọc về tình yêu đất nước với nhiều giá trị nhân văn sâu sắc. Nhà thơ đã thành công khi giúp bạn
đọc hiểu rõ hơn về chiều dài lịch sử của dân tộc một cách rõ nét khi theo dòng hoàn niệm về con người
và thiên nhiên Việt Bắc với khuynh hướng sử thi và khuynh hướng lãng mạn ấn tượng, độc đáo, nghệ
thuật và nội dung đan cài, hài hòa đủ để người đọc thấu trọn nỗi niềm, tình yêu của tác giả.

“Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi

Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu

Tôi sống với cuộc đời chiến đấu

Của triệu người yêu dấu gian lao”

(Xuân Diệu)

Bất kì tác phẩm văn học nào khi ra đời đều mang theo một sứ mệnh đặc biệt và kì diệu, bởi
chính bản thân nó đã phản ánh một thời kỳ của dân tộc, tái hiện những năm tháng hào hùng tươi đẹp
mà dân tộc đã trải qua. Trong hành trình ấy, “Việt Bắc" đã trở thành một tác phẩm như thế, được ra đời
trong tâm huyết trọn vẹn của người nghệ sĩ của nhân dân - người nghệ sĩ đã sống để chiến đấu và làm
thơ hết mình để tạo nên những thi phẩm đượm lòng. Có thể nói, Tố Hữu đã chọn gắn đời thơ của mình
với kháng chiến, với Cách mạng, ông dùng thơ làm cầu nối đến trái tim người đọc, đóng góp vào sự đa
dạng, phong phú của thơ ca Việt Nam. Vì thế, đến hôm nay, cả đoạn trích bức tranh ra quân như một
tiếng vọng mà đời sau khi nhìn lại sẽ luôn thấy tự hào, hạnh phúc vì được sống trong một đất nước anh
hùng, dũng cảm và tuyệt vời như thế!

You might also like