You are on page 1of 25

Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn ……………………………… Giáo viên: Trần Thị Minh Yến

ĐẤT NƯỚC
- NGUYỄN KHOA ĐIỂM-
I. Tìm hiểu chung
1.Tác giả
- Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ thời chống Mĩ như
Phạm Tiến Duật, Bằng Việt, Nguyễn Duy, Hoàng Nhuận Cầm, Lê Anh Xuân, Lâm Thị Mĩ Dạ,.. Thơ
Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư, cảm xúc dồn nén, thể hiện tâm tư của người trí thức tích cực tham
gia vào cuộc kháng chiến của dân tộc.
2.Tác phẩm
a. Đề tài
- Đất nước là một đề tài phong phú của thơ ca Việt Nam. Trước Nguyễn Khoa Điềm có nhiều bài thơ
hay, nhiều nhà thơ thành công khi viết về đề tài này:
+ Đất nước anh hùng trong kháng chiến chống Pháp mang hồn thu Hà Nội của Nguyễn Đình
Thi.
+ Đất nước cổ kính, mang hồn dân gian Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm.
+ Đất nước hóa thân trong dòng sông xanh đầy ắp kỉ niệm trong thơ Tế Hanh.
+ Đất nước hài hòa trong dáng hình quê hương và tình yêu đôi lứa trong thơ Giang Nam.
+ Nhưng Nguyễn Khoa Điềm đã tìm được một cách nói riêng để chương thơ Đất nước của ông
đem đến cho bạn đọc những rung cảm mới về quê hương đất nước: ĐẤT NƯỚC CỦA NHÂN DÂN.
b. Xuất xứ
- Đất nước thuộc phần đầu chương V, trường ca "Mặt đường khát vọng". Trường ca gồm 9 chương:
Lời chào, Báo động, Giặc Mĩ, Tuổi trẻ không yên, Đất nước, Áo trắng, Xuống đường, Khoảng lớn âm
vang, Báo bão.
c. Hoàn cảnh sáng tác
- Trường ca được viết tại chiến khu Trị - Thiên năm 1971, giữa lúc cuộc kháng chiến đang diễn
ra ác liệt. Lúc này, Mĩ chuẩn bị leo thang chiến tranh ra miền Bắc. Từ Thanh Hóa đến Quảng Bình,
Quảng Trị là tuyến lửa. Ở miền Nam, chúng tuyên truyền cho thanh niên lối sống ích kỉ, phản động:
"Nơi nào sung sướng, nơi ấy là Tổ quốc tôi" và "Biên giới Hoa Kì kéo dài đến tận miền Nam Việt
Nam".
=> Nguyễn Khoa Điềm viết trường ca để kêu gọi sự thức tỉnh của thanh niên, tuổi trẻ các vùng
địch tạm chiếm ở miền Nam, nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ, xuống đường, hòa nhịp vào
cuộc kháng chiến của dân tộc.
c.Bố cục: "Đất nước" gồm hai phần:
- Phần đầu: Những cảm nhận sâu sắc, mới mẻ của nhà thơ về đất nước (đất nước có từ bao giờ, đất
nước là gì?)
- Phần hai: Tư tưởng đất nước của nhân dân (đất nước do ai làm ra và làm ra đất nước như thế nào? )
II.Phân tích
1. Nêu vấn đề
Cách 1.
“Có mối tình nào hơn
1
Năm học 2022-2023
Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn ……………………………… Giáo viên: Trần Thị Minh Yến
Tổ quốc?”
(Trần Mai Ninh)
Bằng tình cảm yêu thương sâu nặng và cảm hứng nồng nàn về Tổ quốc – các nhà
thơ – chiến sĩ đã để lại cho núi sông này biết bao vần thơ đẹp về con người, đất nước
Việt Nam. Nếu các nhà thơ thường dùng những hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ mang tính biểu
tượng, tạo ra một khoảng cách để cảm nhận, chiêm ngưỡng về đất nước thì Nguyễn
Khoa Điềm lại cảm nhận về đất nước qua những gì hết sức gần gũi, đơn sơ, bình dị, mộc
mạc gắn liền với mỗi con người như máu thịt, như hơi thở. Đất nước ấy tắm đẫm trong
hương liệu văn hóa dân gian, trong tư tưởng lớn của thời đại – tư tưởng “Đất nước của
nhân dân”. Trong chương thơ có đoạn (trích thơ – nếu thi đoạn)
Cách 2.
“Ôi, Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ như cha như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông”
(Chế Lan Viên)
Đất nước là một đề tài phong phú của thơ ca Việt Nam. Trước Nguyễn Khoa
Điềm có nhiều bài thơ hay, nhiều nhà thơ thành công khi viết về đề tài này. Đất nước
anh hùng trong kháng chiến chống Pháp mang hồn thu Hà Nội của Nguyễn Đình Thi.
Đất nước cổ kính, mang hồn dân gian Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm. Đất nước hóa
thân trong dòng sông xanh đầy ắp kỉ niệm trong thơ Tế Hanh. Đất nước hài hòa trong
dáng hình quê hương và tình yêu đôi lứa trong thơ Giang Nam. Nguyễn Khoa Điềm đã
tìm được một cách nói riêng để chương thơ “Đất Nước” của ông đem đến cho bạn đọc
những rung cảm mới về quê hương đất nước: ĐẤT NƯỚC CỦA NHÂN DÂN. Trong
chương thơ có đoạn (trích thơ – nếu thi đoạn)
2. Phân tích
2.1. Giới thuyết chung
Dẫn:
“Thi sĩ là một con chim sơn ca ngồi trong bóng tối hát lên những tiếng êm dịu để
làm vui cho sự cô độc của chính mình.” (Selly). Không! Thi sĩ phải là người mở rộng
hồn ra để đón nhận những vang động ở đời, phản chiếu tất cả những âm vang của đời
trên trang giấy. Nguyễn Khoa Điềm là một thi sĩ như thế. Sinh ra trong một gia đình trí
thức cách mạng, sau khi tốt nghiệp khoa Ngữ văn trường ĐH Sư phạm Hà Nội, Nguyễn
Khoa Điềm cùng thế hệ của mình đã lên đường tham gia cuộc kháng chiến chống Mĩ
cứu nước với tinh thần:
“Đất nước đẹp mênh mang
Đất nước thấm tự nhiên thấm đến tận cùng máu thịt
Chỉ riêng cho Người, chúng tôi dám chết”
2
Năm học 2022-2023
Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn ……………………………… Giáo viên: Trần Thị Minh Yến
(Thanh Thảo – Thử nói về hạnh phúc)
Có thể nói, “sắt lửa mặt trận” đã tạo nên một Nguyễn Khoa Điềm với những vần
thơ giàu chất suy tư, cảm xúc dồn nén, thể hiện tâm tư của người trí thức tích cực tham
gia vào cuộc kháng chiến của dân tộc.
Đất nước thuộc phần đầu chương V, trường ca "Mặt đường khát vọng". Trường ca
được viết tại chiến khu Trị - Thiên năm 1971, giữa lúc cuộc kháng chiến đang diễn ra ác
liệt mà bản thân nhà thơ trực tiếp có mặt. Lúc này, Mĩ chuẩn bị leo thang chiến tranh ra
miền Bắc. Ở miền Nam, chúng tuyên truyền cho thanh niên lối sống ích kỉ, phản động:
"Nơi nào sung sướng, nơi ấy là Tổ quốc tôi" và "Biên giới Hoa Kì kéo dài đến tận miền
Nam Việt Nam".
=> Nguyễn Khoa Điềm viết trường ca để kêu gọi sự thức tỉnh của thanh niên, tuổi
trẻ các vùng địch tạm chiếm ở miền Nam, nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ,
xuống đường, hòa nhịp vào cuộc kháng chiến của dân tộc.
Chương thơ “Đất Nước” gồm 2 phần. Phần đầu là những cảm nhận sâu sắc mới
mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước. Phần hai là tư tưởng Đất Nước của nhân dân.
Đoạn thơ trên thuộc phần đầu. Trong đoạn thơ này, Nguyễn Khoa Điềm đưa người đọc
về với cội nguồn đất nước: Đất nước có từ bao giờ?
2.2. Những cảm nhận sâu sắc, mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước
a. Đất nước có từ bao giờ?
“Tâm hồn tôi khi Tổ quốc soi vào
Thấy ngàn núi, trăm sông diễm lệ”
(Chế Lan Viên – Chim lượn trăm vòng)
- Đất nước đẹp, đất nước kì vĩ là thế. Nhưng khi nói về sự ra đời của đất nước, Nguyễn
Khoa Điềm không điểm lại các vương triều lừng lẫy trong lịch sử, không kể về những
người anh hùng với chiến công chói lọi được ghi trong sử sách , cũng không sử dụng
những hình ảnh mang tính trang trọng, thiêng liêng như "thiên thư" hoặc "một mối xa
thư đồ sộ, hai vầng nhật nguyệt chói lòa",... Nguyễn Khoa Điềm nói về sự ra đời của đất
nước một cách thật giản dị:
"Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể".
- “Thơ là tiếng lòng” (Diệp Tiến). “Lòng như nhật nguyệt thì thơ cũng sáng như nhật
nguyệt” (Xuân Diệu). Thơ Nguyễn Khoa Điềm thực sự là tiếng lòng của nhà thơ, hơn
thế, còn là tiếng nói tâm hồn của một thế hệ. Câu thơ mở đầu như một lời tâm tình thật
giản dị, xúc động, thiêng liêng:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi:
+ Là phương thức trữ tình, bao giờ các nhà thơ cũng chọn lựa nhân vật trữ tình
phù hợp để biểu đạt cảm xúc trong thơ. Nếu thơ Thanh Thảo là “Chúng tôi đã đi không
tiếc đời mình” thì thơ Nguyễn Khoa Điềm lại là “ta”.

3
Năm học 2022-2023
Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn ……………………………… Giáo viên: Trần Thị Minh Yến
+ "Ta" là sự hóa thân của nhà thơ nhưng cũng là để chỉ mỗi chúng ta, mỗi người
dân đất Việt. Đặt trong không khí tráng ca của thời chống Mĩ, các xưng hô “ta” còn tạo
nên không khí sử thi hào hùng của một thời:
Chào 61! Đỉnh cao muôn trượng
Ta đứng đây, mắt nhìn bốn hướng
Trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau
Trông Bắc trông Nam, trông cả địa cầu!
(Tố Hữu)
+ Cách xưng hô ấy dễ tạo sự đồng cảm, đồng điệu của nhiều người, đặc biệt là thế
hệ trẻ.
+ Khi ta lớn lên, ta trưởng thành trong sự che chở, nuôi dưỡng của cha mẹ, quê
hương thì đất nước đã có rồi.
+ Đã có rồi: gợi ra chiều dài, chiều sâu lịch sử của đất nước. Đất nước có từ ngàn
xưa, từ thời khai thiên lập địa, từ thời huyền thoại cổ tích, khi Lạc Long Quân và Âu cơ,
đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng, các vua Hùng góp phần dựng nên đất tổ Hùng
Vương... Nghĩa là, đất nước có trước ta, đất nước là chiếc nôi yên ả, là bà mẹ hiền nhân
từ, dang rộng vòng tay yêu thương, che chở ngay từ khi ta mới cất tiếng khóc chào đời.
+ Vậy, đất nước có từ bao giờ? Lời lí giải của nhà thơ sao mà gần gũi, thân
thương đến thế:
"Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể".
+ Không xa lạ, không trừu tượng, thuyết lí khô khan. Đất nước có trong chính
những câu chuyện cổ tích mẹ thường hay kể.
+ Cụm từ "ngày xửa ngày xưa" mang điệu hồn của những câu chuyện huyền
thoại, đưa ta về một thuở rất xa khi đất nước phôi thai.
+ Chỉ một ý thơ, một nhịp kể đầm ấm “ngày xửa ngày xưa...” của mẹ, đất nước đã
hiện lên trong không khí huyền thoại, cổ tích. Với không khí cổ tích đó, đất nước trở nên
thiêng liêng, kì diệu, yên ả, thanh bình, xa xăm. Thế giới cổ tích với ông bụt, bà tiên,
phép nhiệm màu, giấc mơ hạnh phúc, công lý đã làm nên sự trường tồn của ĐN:
"Nếu nhắm mắt nghe bà kể chuyện
Sẽ được nhìn thấy các bà tiên
Thấy chú bé đi hài bảy dặm
Quả thị thơm cô tấm rất hiền" .
(Nói với em – Vũ Quần Phương)
+ Những từ "bắt đầu", "lớn lên" tuy không xác định thời gian cụ thể, nhưng lại
khẳng định quá trình hình thành lâu đời của đất nước.
+ Như vậy, ngay từ thuở còn nằm nôi, ta chưa thể hiểu đất nước với những khái
niệm trừu tượng như cương vực, lãnh thổ, độc lập, chủ quyền nhưng chỉ qua nhịp kể

4
Năm học 2022-2023
Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn ……………………………… Giáo viên: Trần Thị Minh Yến
ngày xửa ngày xưa của mẹ, đất nước với cánh cò trắng chao nghiêng, lũy tre làng yên ả,
giọt mồ hôi vất vả khuya sớm tảo tần… đã thấm vào tâm hồn ta, trở thành lẽ sống, máu
thịt, dòng sữa ngọt ngào nuôi ta khôn lớn.
=> Quả thực, “thơ là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn”. Đọc
thơ Nguyễn Khoa Điềm ta như gặp lại tuổi thơ, tâm hồn mình, như được nhìn thấy được
bà, thấy mẹ với những câu chuyện đi suốt những năm tháng tuổi thơ. Thật ý nghĩa, tươi
đẹp, gần gũi, ấm áp biết bao!
- Đất nước tươi đẹp, thanh bình như huyền thoại của chúng ta đã có từ lâu đời. Vậy, đất
nước được hình thành từ đâu? Đất nước được hình thành từ phong tục, tập quán, văn
hóa, truyền thống, lối sống cao đẹp của dân tộc:
* Trước hết, sự hình thành đất nước gắn liền với thuần phong mĩ tục:
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Tóc mẹ thì bới sau đầu
+ Miếng trầu bà ăn là truyền thống phong tục tốt đẹp của dân tộc Việt. Từ ngàn
xưa người dân ta đã lấy “Miếng trầu là đầu câu chuyện”. Miếng trầu còn là tín hiệu
giao duyên của đôi lứa:
“Từ ngày khăn mở trầu trao
Miệng chỉ cười nụ biết bao nhiêu tình”
+ Là nhịp cầu kết nối hạnh phúc, yêu thương: “Miếng trầu nên dâu nhà người”.
+ Miếng trầu gợi liên tưởng đến linh hồn của một quốc gia. Bởi “ miếng trầu bay
giờ bà ăn” là sự hóa thân của tình nghĩa anh em yêu thương gắn bó, tình cảm vợ chồng
son sắt chung thủy. Không có sự hóa thân kì diệu của tình nghĩa sẽ không có sắc thắm
của miếng trầu, không có vẻ đẹp thuần phong mĩ tục ngàn đời của đất nước.
+ Hình ảnh “tóc mẹ thì bới sau đầu” đơn sơ, bình dị, vừa gợi tả được vẻ đẹp giản
dị, duyên dáng, thanh cao của người phụ nữ Việt vừa khẳng định phẩm chất chịu thương
chịu khó, đức tính cần cù của những người mẹ vất vả một nắng hai sương nuôi con khôn
lớn. Ca dao xưa đã từng ngợi ca vẻ đẹp nên thơ của người phụ nữ Việt qua hình ảnh "bới
tóc" thân thương:
"Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài bối rối dạ anh"
Hay:
“Tóc mai sợi ngắn sợi dài
Lấy nhau chẳng đặng thương hoài ngàn năm”
=>Những thứ nhỏ bé thân thương ấy đã làm nên phong tục, tập quán ngàn đời,
làm nên đất nước của mỗi chúng ta. Vậy đấy, chẳng phải nơi góc bể chân trời nào xa
xăm vời vợi, chẳng phải vương triều, thời đại nào trong quá vãng xa xưa, đất nước hiện
diện ngay trong ngôi nhà ta ở, nơi có gương mặt hiền hậu nhân từ của bà, búi tóc sau đầu

5
Năm học 2022-2023
Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn ……………………………… Giáo viên: Trần Thị Minh Yến
giản dị, thân thương của mẹ. Đất nước được hình thành từ chính cuộc sống hàng ngày
của mỗi chúng ta. Thật thương quý biết bao!
“Tôi đã cùng xương thịt nhân dân của tôi
Cùng đổ mồ hôi cùng sôi giọt máu
Tôi sống một cuộc đời chiến đấu
Của triệu người yêu dấu gian lao”
+ Gắn bó với cuộc sống hàng ngày của nhân dân, khai thác chất liệu hiện thực từ
đời sống nhân dân, câu thơ của NKĐ đã thực sự lay cảm hồn ta bằng những điều bình dị
nhất: “Thơ hay là thơ giản dị, xúc động và ám ảnh” (Trần Đăng Khoa).
*Sự hình thành đất nước còn gắn với lối sống thủy chung, tình nghĩa:
“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.
+ Câu thơ được nhào nặn bởi chất liệu văn hóa dân gian. Từ thành ngữ quen
thuộc "muối mặn gừng cay” đến ca dao “Tay nâng đĩa muối chén gừng / gừng cay muối
mặn xin đừng quên nhau” đã có sự hòa trộn kì diệu để làm nên ý thơ giản dị mà sâu xa.
Hình ảnh “muối mặn, gừng cay” gợi nhắc tới nghĩa tình vợ chồng chung thủy, đồng cam
cộng khổ. Dẫu cuộc đời trăm đắng ngàn cay, nhưng nghĩa tình chồng vợ vẫn một lòng
một dạ sắt son:
“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Dẫu xa nhau cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa".
+ Tình nghĩa yêu thương, chung thủy của mẹ cha là một yếu tố làm nên diện mạo
tinh thần của đất nước. Lẽ sống ấy thấm vào đời sống tâm hồn con người Việt Nam từ
ngàn xưa. Trong ca dao có câu:
“Chồng em áo rách em thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc người”
+Cho đến cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ trường kì gian khổ, có biết
bao người vợ nhớ chồng, mòn mỏi đợi chờ chồng đến hết tuổi thanh xuân:
“Một mình một mâm cơm
Ngồi bên nào cũng lệch
Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền”
(Nguyễn Duy)
+ Chỉ bằng hình ảnh “muối mặn gừng cay”, Nguyễn Khoa Điềm đã gợi nên bao
nghĩa, bao tình của cha, của mẹ. Không cần tìm ở đâu xa, chỉ cần trong gia đình, cha mẹ
“thương nhau bằng gừng cay muối mặn” ta đã thấy ở đó lẽ sống của một đất nước, một
dân tộc. Dẫu cuộc sống còn nhiều vất vả, gian nan, đời người thăng trầm, dâu bể với biết
bao “chua ngọt đã từng” nhưng chính trong cuộc sống đầy gian khó ấy, phẩm chất của
6
Năm học 2022-2023
Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn ……………………………… Giáo viên: Trần Thị Minh Yến
người Việt tỏa sáng lặng lẽ như vì sao giữa trời. Ánh sáng từ lẽ sống ấy là một phần của
đất nước chúng ta.

- E-ren-bua từng nói: “Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào đại trường giang
Vôn-ga, con sông Vôn-ga đi ra bể. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên
lòng yêu Tổ quốc”. Quan niệm của E-ren-bua cũng có sự tương đồng với cách cảm
nhận của Nguyễn Khoa Điềm. Với nhà thơ, đất nước không chỉ có trong “những cái
ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”, “miếng trầu bây giờ bà ăn”, lối sống thủy
chung tình nghĩa như muối mặn gừng cay của cha mẹ. Đất nước còn hiện lên thật
bình dị, thân thương qua những cái tên thuần Việt:
“Cái kèo cái cột thành tên”.
+ Câu thơ gợi tả một nét đẹp trong đời sống văn hóa dân tộc. Người Việt Nam đặt
tên con không cầu kì, xa lạ, kiểu cách. Họ lấy ngay những bộ phận của ngôi nhà đặt tên
cho con cái. Những cái kèo, cái cột vô tri, bỗng trở thành tên gọi của những đứa con.
Những cái tên nôm na, dân dã (kèo, cột) còn gợi nhắc một yếu tố văn hóa của người Việt
(người Việt có truyền thống dựng tre làm nhà để ở) đồng thời cho thấy sự gắn bó tha
thiết của họ với ngôi nhà thân thuộc cũng như cũng như cuộc sống nghèo khó, sự mộc
mạc, chân chất của người dân Việt Nam.
=> Như vậy, truyền thống văn hóa lâu đời của nhân dân: miếng trầu dung dị của
bà, mái tóc bới hiền hòa của mẹ, cách gọi tên cái kèo, cái cột dân dã, đến tình yêu thủy
chung qua gừng cay muối mặn của cha mẹ. Tất cả những điều tưởng bình dị ấy đã trở
thành nếp sống, phẩm chất tốt đẹp, thuần phong mĩ tục đậm đà bản sắc Việt Nam.
*Sự hình thành đất nước gắn liền với truyền thống lao động vất vả, cần cù và
truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm.
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
+ Lời thơ gợi nhớ truyền thuyết thánh Gióng nhổ tre làng đánh giặc Ân thuở xa
xưa và hình ảnh cây tre Việt Nam trong các cuộc chiến tranh vệ quốc. Truyện xưa kể
rằng, có một cậu bé sinh ra đã 3 tuổi mà vẫn chưa biết nói cười. Đến khi nghe sứ giả báo
tin vua cầu người hiền tài đánh giặc Ân, câu nói đầu tiên của cậu bé là xin đi đánh giặc.
Khi gậy sắt gãy, Thánh Gióng đã nhổ tre diệt thù. Đánh giặc xong, Thánh Gióng cởi lại
áo giáp sắt, một mình một ngựa từ từ bay lên trời. Từ đó, cây tre trở thành biểu tượng
cho sức sống mãnh liệt của dân tộc Việt Nam, một dân tộc trải qua nhiều đau thương,
máu lửa, luôn phải đương đầu với kẻ thù tàn bạo nhất, nhưng luôn kiên cường, bất
khuất, anh dũng bảo vệ quê hương, xứ sở.
- Có thể nói, trong lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc, cây tre đã góp phần
làm nên chiến thắng: "Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre!
Anh hùng lao động. Tre! Anh hùng chiến đấu" (Thép Mới). Với truyền thống quý báu
đó, Đất Nước ngày càng lớn lên, trưởng thành vững mạnh. Hai từ "lớn lên" được dùng
thật đơn sơ, giản dị nhưng đã thổi vào đất nước của chúng ta một linh hồn, một trái tim,
một hơi ấm nồng nàn, chứa chan sự sống. Có thể nói, truyền thống yêu nước bền bỉ, kiên
7
Năm học 2022-2023
Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn ……………………………… Giáo viên: Trần Thị Minh Yến
cường giữ nước luôn được khơi dậy qua những lời kể êm ấm, huyền diệu của mẹ trở
thành hồn thiêng dân tộc:
“Đêm hè mẹ kể con nghe
Chuyện xưa ông Gióng nhổ tre diệt thù”
- Ngoài truyền thống yêu nước, truyền thống lao động cũng tạo nên sự hình
thành đất nước.
"Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã, giần sàng"
+ Một nắng hai sương là thành ngữ chỉ sự gian nan, vất vả cực khổ, nhọc nhằn
lam lũ của con người.
+ Xay, giã, giần, sàng,... diễn tả những công việc nhọc nhằn mà người nông dân
đã trải qua để làm ra hạt gạo. Nỗi vất vả, gian truân đó đã đi vào ca dao:
“Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”
Ông bà, cha mẹ chúng ta đã phải trải qua bao gian nan "một nắng hai sương", đã
đổ bao mồ hôi với bao công việc của nhà nông nhọc nhằn "xay, giã, giần, sàng,..." mới
làm ra hạt gạo dẻo thơm.
+ Hạt gạo bé nhỏ là sự kết tinh của đất, của nước, của những giọt mồ hôi vất vả,
lặng thầm.
+ Hạt gạo là vật chất cũng là sự sống, là cội nguồn văn hóa dân tộc.
+ Hạt gạo là linh hồn, hương sắc của làng quê đất Việt thân thương để những ai
“ăn đâu làm đâu” cũng tha thiết nhớ về. Với Nguyễn Đình Thi, nhớ về Hà Nội là nhớ
mùi thơm hương cốm mới:
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa…”
Mảnh đất Kinh Bắc ngàn xưa trong nỗi nhớ thương da diết của Hoàng Cầm cũng
được khơi nguồn từ hương vị thân thương ấy:
“Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng”
Mùi rơm rạ mang hương đồng gió nội ấy cũng ngát hương trong thơ Huy Cận:
“Đường trong làng hoa dại với mùi rơm
Người cùng tôi đi dạo giữa đường thơm”
=> Có thể nói, hạt gạo là hạt ngọc, ngọc của trời đất, ngọc của tâm hồn, văn hóa
dân tộc. Thủ pháp nghệ thuật liệt kê kết hợp việc sử dụng thành ngữ dân gian "một nắng
hai sương" gợi ra cuộc sống vất vả, nhọc nhằn và phẩm chất cần cù, chịu thương chịu
8
Năm học 2022-2023
Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn ……………………………… Giáo viên: Trần Thị Minh Yến
khó của người Việt. Truyền thống lao động tốt đẹp của nhân dân cũng là một phần của
hồn nước.
- Đoạn thơ kết thúc bằng lời khẳng định “Đất Nước có từ ngày đó…”. Ngày đó là
“ngày xửa ngày xưa…” xa xăm mà rất đỗi diệu kì. Dấu ba chấm kết thúc đoạn thơ gợi ra
chiều dài, chiều sâu bất tận và sự trường tồn vĩnh hằng của lịch sử đất nước chúng ta…
* Tóm lại, chín dòng thơ đầu là cảm nhận về sự hình thành và phát triển lâu đời
của đất nước. Nhà thơ không điểm lại các vương triều nổi tiếng trong lịch sử dân tộc,
không nói về những người anh hùng với chiến công chói lọi; cũng không định nghĩa về
đất nước bằng những khái niệm trừu tượng, kì vĩ, cao siêu như "thiên thư", "nhật
nguyệt", "một mối xa thư đồ sộ"….Nguyễn Khoa Điềm đã đưa đất nước từ trời cao
thượng đế xuống miếng trầu của bà, búi tóc sau đầu của mẹ, hạt gạo một nắng hai
sương xay giã giần sàng, cái cột cái kèo trong nhà ta ở…. Cách cảm nhận ấy đã đem
đến cho ta những nhận thức sâu sắc, mới mẻ về đất nước: Đất nước không trừu tượng,
không xa xôi, đất nước kết tinh trong cuộc sống hàng ngày của mỗi chúng ta; đất nước
hiện diện trong cuộc sống muôn màu của nhân dân lao động, thật gần gũi, thiêng liêng
mà bình dị biết bao!
“Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
3. Đánh giá
a. Nội dung
“Giá trị của một tác phẩm phải là giá trị tư tưởng của nó nhưng là tư tưởng đã
được rung lên ở các cung bậc cảm xúc” (Nguyễn Khải). Qua dòng cảm xúc ngọt ngào,
êm ái mà lắng đọng, sâu xa của Nguyễn Khoa Điềm, ta nhận ra sự hình thành của đất
nước suốt dọc dài lịch sử “thời gian đằng đẵng”. Đất nước ta có từ xa xưa. Sự hình thành
của đất nước bắt đầu từ những gì giản dị, gần gũi, thân thuộc mà thiêng liêng nhất, gắn
liền với cuộc sống hàng ngày của nhân dân lao động. Từ đó, nhà thơ khẳng định tư
tưởng cốt lõi, xuyên suốt chương thơ: Tư tưởng Đất nước của nhân dân. Tư tưởng này
đã được manh nha trong lịch sử, được Nguyễn Khoa Điềm làm sâu sắc và mới mẻ hơn
trong thời kì chống Mĩ cứu nước, giúp thế hệ trẻ nhận ra vai trò, trách nhiệm, sứ mệnh
của mình trong thời điểm “Bốn mươi thế kỉ cùng ra trận”. Đất Nước của Nguyễn Khoa
Điềm xứng đáng là vũ khí đấu tranh đắc lực của một nhà thơ – chiến sĩ.
b. Nghệ thuật:
“Thơ không phải là rượu đã rót ra chén mà là men đương lên, không phải hoa đã
nở trên cành mà là dòng nhựa đương chuyển” . Làm nên chất men say của một thi phẩm
đâu chỉ bởi nội dung mà còn ở nghệ thuật đặc sắc.
- Thể thơ tự do góp phần thể hiện cảm xúc thoải mái, tự do, chân thực, xúc động.
- Sử dụng sáng tạo các chất liệu văn hóa dân gian: tục ngữ, thành ngữ, ca dao, cổ
tích, truyền thuyết,... Với chất liệu này, tác giả dã tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa

9
Năm học 2022-2023
Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn ……………………………… Giáo viên: Trần Thị Minh Yến
bay bổng, mĩ lệ vừa gần gũi thân thuộc, góp phần thể hiện tư tưởng Đất Nước của Nhân
dân.
- Hình tượng thơ có sức mạnh gợi cảm. Mỗi câu chữ đều gợi liên tưởng đến chiều
sâu của không gian và thời gian, của lịch sử và văn hóa với biết bao thăng trầm đổi thay
của đất nước và những con người đã làm nên đất nước này.
- Từ Đất Nước được lặp lại nhiều lần và viết hoa dưới dạng kính ngữ thể hiện sự
hiện diện, gần gũi trong muôn mặt đời thường của đất nước.
- Giọng thơ tâm tình, tha thiết trầm lắng, trang nhiêm mà linh hoạt về nhịp điệu
góp phần thể hiện chủ đề đất nước trong bút pháp chính luận trữ tình. Đó là dấu ấn
phong cách nghệ thuật của Nguyễn Khoa Điềm.
III. Kết bài
Ai đó đã từng nói: “Thơ ca là hình vẽ vĩnh cửu trong trái tim mọi người” . Với
hình ảnh thơ giản dị, ý thơ lắng đọng, sâu xa, những cảm xúc, suy nghĩ về đất nước của
Nguyễn Khoa Điềm đã trở thành “hình vẽ vĩnh cửu trong trái tim” để ta thêm yêu, thêm
gắn bó với đất nước, quê hương mình. Thời gian, năm tháng sẽ đi qua, nhưng thơ vẫn là
bó đuốc đốt thiêu, là bàn tay thắp lửa để ta vươn lên lẽ sống cao đẹp, giữ vững niềm tin
yêu giữa mưa nắng cuộc đời:
“Anh đi qua trái đất để lại chừng thơ ấy
Hãy thương anh! Anh nào có chi nhiều
Một chút nắng tàn, một dòng nước chảy
Trái tim nghèo, nhưng cũng đã tin yêu”.

(Chế Lan Viên)

b. Đất nước là gì?


- Mượn hình thức trò chuyện, tâm tình với một người con gái yêu thương, nhà thơ định nghĩa đất nước
theo cách riêng của mình, theo cách đặc biệt của thơ. Vận dụng tính đơn lập của âm tiết tiếng Việt,
Nguyễn Khoa Điềm đã tách đất nước thành hai thành tố đất và nước để có thể đi sâu vào khái niệm,
biến khái niệm đất nước trừu tượng thành cụ thể, sinh động, gợi cảm.
"Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm"
+ Nếu ở 9 câu thơ mở đầu chương ĐN, NKĐ có công đưa đất nước từ trời cao thượng đế, từ
ngai vàng vua chúa xuống miếng trầu của bà, búi tóc của mẹ, xuống hạt gạo một nắng hai sương,
xuống cái cột, cái kèo trong nhà ta ở... thì trong đoạn thơ trên, NKĐ đã cụ thể hóa đất nước để thấy nó
rất gần gũi, thân quen, gắn bó với mỗi con người. ĐN không trừu tượng, xa xôi, đất nước là không
gian bình dị, thân thuộc, gắn bó với cuộc sống hàng ngày của mỗi chúng ta.

10
Năm học 2022-2023
Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn ……………………………… Giáo viên: Trần Thị Minh Yến
+ Mái trường quê hương, nơi gắn bó với con người suốt một thời thơ ấu, nơi có bao gương mặt
thầy cô dịu dàng nhân hậu, nơi có bạn bè vô tư, hồn nhiên, trong sáng tuổi thần tiên, nơi dạy ta biết yêu
quê hương qua từng trang sách nhỏ. Nơi anh đến trường, nơi ấy là đất.
+ Còn nơi em tắm, nơi có dòng sông xanh thăm thẳm, hiền hòa, nơi có nước gương trong soi
tóc những hàng tre với cây đa, bến nước, con thuyền nhỏ nhoi đang lững lờ xuôi mái, nơi ấy là nước.
+ ĐN hiện hình cụ thể, riêng biệt mà rất đỗi quen thuộc, mái trường tuổi ấu thơ, con đường
hàng ngày đi học, cây đa, bến nước, dòng sông tươi mát, hiền hòa đều là hình ảnh của đất nước chúng
ta.
+ Đất nước là không gian thiêng liêng, gắn liền với tình yêu đôi lứa:
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.
+ Nơi ta hò hẹn, nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm, đó là không gian riêng tư,
không gian gắn liền với tình yêu đôi lứa. Ở không gian đó, anh và em đã lần đầu hò hẹn, đã trao cho
nhau những rung động thầm kín của mối tình đầu, để từ ngày đó, em biết thương, biết nhớ, biết gửi vào
chiếc khăn tay kỉ niệm bao rung động thổn thức của trái tim yêu buổi ban đầu.
+ Như vậy, ĐN là một phần tinh thần không thể thiếu, không thể tách rời với mỗi con người.
Nó không chỉ là mảnh đất sinh ra ta, nuôi ta khôn lớn hàng ngày mà còn là quê hương của tinh thần,
của tình yêu. Không gian ấy trở nên thật thiêng liêng, kì diệu, chỉ hai người biết, chỉ hai người hay, chỉ
thuộc về trái tim của hai con người đã từng yêu và nhớ. Ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm có sự gặp gỡ với
những cảm nhận đầy sâu sắc của nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn:
"Nếu anh đi với người yêu
Chỉ xin anh nhớ một điều nhỏ thôi
Con đường ta đã dạo chơi
Xin đừng đi với một người khác em
Hàng cây nay đã lớn lên
Vươn cành để lá êm đềm chạm nhau
Hai ta ai biết vì đâu
Hai con đường sẽ xa nhau xa hoài
Nếu cùng người khác dạo chơi
Xin anh hãy tránh nẻo vui ban đầu" .
(Con đường)

+ Có thể nói, đất nước trong phần sâu thẳm trái tim mỗi con người. Đất nước đã trở thành kỉ
niệm, kho báu đầy ắp kí ức thân thương.
+ Câu thơ: Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm được Nguyễn Khoa
Điềm sáng tạo từ bài ca dao ngọt ngào, đằm thắm:
"Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt".

11
Năm học 2022-2023
Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn ……………………………… Giáo viên: Trần Thị Minh Yến
+ Cách vận dụng sáng tạo chất liệu dân ca làm cho ý thơ đạt đến độ liên tưởng lắng đọng bất
ngờ, hàm súc, sâu xa. Từ thuở xa xưa nào, những cô gái Việt dịu dàng, kín đáo, sâu sắc đã gửi trọn
niềm thương, nỗi nhớ người yêu vào chiếc khăn tay. Nỗi nhớ tha thiết, bâng khuâng ấy làm nên một
phần diện mạo tinh thần đất nước. Ngày nay, chiếc khăn tay vẫn là nơi em gửi trọn nỗi nhớ anh. Và
thật kì diệu, không gian em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm đã trở thành đất nước. Đất nước
tình yêu. Một không gian rất thầm kín, rất riêng tư, chỉ hai người biết, chỉ hai người hay, thật thiêng
liêng, xúc động.
+ Trên hành trình tìm lời định nghĩa về ĐN, tác giả đã mượn phép biến ảo của thơ ca để chơi trò
tách chữ Đất là, Nước là, rồi ghép nhập Đất nước là trò chơi ngôn từ thông minh ấy đã tạo ra những
kiểu câu định nghĩa bất ngờ: Đất là nơi anh đến trường / Nước là nơi em tắm. Những câu thơ định
nghĩa về Đất Nước mà cứ rưng rưng những kỉ niệm, hồi hộp những tâm tình. Sự vỡ tách và ghép nhập
2 âm tiết Đất và Nước gợi lên một chiều sâu suy tưởng : ĐN là sự thống nhất giữa cái chung và cái
riêng, cộng đồng và cá nhân, to lớn và nhỏ bé, hiện thực và huyền thoại ..... ĐN nằm trong sự sống, tình
yêu, trái tim mỗi con người.
+ Vẫn mạch cảm xúc thiết tha, nhà thơ say sưa lí giải:
"Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc
Nước là nơi con cá ngư ong móng nước bể khơi"

+ Lấy ý từ câu hát dân gian Bình Trị Thiên ngọt ngào sâu lắng: "Con chim phượng hoàng bay
ngang hòn núi bạc - Con cá ngư ông móng nước ngoài khơi - Gặp nhau đây xin phân tỏ đôi lời - Kẻo
mai kia con cá về sông vịnh, con chim nọ đổi dời về non xanh", câu thơ đưa người đọc về với những
không gian đất nước thân thương. Những từ "núi bạc", "biển khơi",...mang âm hưởng dân gian gợi ra
một đất nước mênh mông, giàu đẹp. Đất nước không chỉ được đo bằng chiều dài cương vực lãnh thổ
mà được cho bằng khúc ca ngọt ngào, bằng sự ngân vang của câu hát. Đất của ta là rừng vàng, nước
của ta là biển bạc. Thật trù phú, tươi đẹp, yên ả, thanh bình.
+ Sự mênh mông giàu đẹp đó không phải tự nhiên mà có. Nó gắn liền với thời gian đẵng đẵng,
dài lâu, liên tục, bền bỉ, mà nhân dân ta đã đổ bao mồ hôi, xương máu để xây dựng, bảo vệ bờ cõi đất
nước thành dải đất chữ S cho dân mình đoàn tụ, đoàn tụ trong yêu thương, tự hào. Từ " đằng đẵng" gợi
ra chiều dài, chiều sâu trong lịch sử dân tộc. Trong suốt 4000 năm dựng nước và giữ nước ấy, đất nước
là không gian sinh tồn của cộng đồng biết bao thế hệ người dân Việt:
"Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng".
+ Ở đoạn thơ này, những hình tượng quen thuộc trong thần thoại, truyền thuyết như chim, rồng,
Lạc Long Quân, Âu Cơ, bọc trăm trứng cùng ùa về trong trường liên tưởng của nhà thơ. Sự hội tụ ấy
làm bật lên ý thơ có tầm khái quát cao: dân tộc ta là con Rồng cháu Tiên - trai tài, gái sắc. Đất ta là nơi
đất lành chim về. Nước ta là nước thiêng nơi rồng ở. Dân tộc Việt là anh em một nhà cùng sinh ra từ
bọc trăm trứng của cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ. => Một dân tộc có cội nguồn văn hóa, có truyền
thống lâu đời, rất đỗi thân thương như thế chính là đất nước của nhân dân.
+ Đất nước qua cách cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm không khô khan mà tươi rói cảm xúc.
Bởi đất nước không chỉ là sự thống nhất của các yếu tố lịch sử, địa lí, văn hóa, phong tục,...mà đất nước
gắn liền với đời sống, số phận của từng cá nhân ở mọi phương diện, là sự tiếp nối của các thế hệ từ
quá khứ "những ai đã khuất" đến hiện tại "những ai bây giờ" và tương lai "yêu nhau và sinh con đẻ
cái". Vì thế, mỗi thế hệ, mỗi cá nhân đều phải gắn bó với đất nước. Đặc biệt, trách nhiệm của thế hệ

12
Năm học 2022-2023
Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn ……………………………… Giáo viên: Trần Thị Minh Yến
hôm nay vô cùng nặng nề nhưng vinh quang. Chúng ta vừa phải gánh vác những công việc nhọc nhằn,
nặng nề mà cha ông giao lại, vừa phải dặn dò con cháu chuyện mai sau một cách ân cần, chu đáo để
các thế hệ sau sẽ tiếp tục đưa đất nước đi xa đến một chân trời hòa bình, hạnh phúc, ấm no, giàu mạnh:
Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.

+ Vì sự mưu sinh, mỗi người có thể làm ăn, lập nghiệp ở nơi đâu. Nhưng trong thẳm sâu tâm
hồn mỗi chúng ta đều mang trong hồn dòng máu Việt. Trong những giờ khắc thiêng liêng nhất, niềm tự
hào gắn bó với đất nước lại trỗi dậy nồng nàn. Vì thế, dù ăn đâu làm đâu, cũng không bao giờ được
quên ngày giỗ Tổ. Hai chữ "cúi đầu" trong câu thơ đong đầy thành kính, thiêng liêng, đem đến cảm
nhận, dường như mọi thế hệ người dân Việt, từ những ai đã khuất đến những ai bây giờ đều im lặng cúi
đầu hướng về nguồn cội, tổ tiên; đúng như ông bà ta từng căn dặn con cháu:
"Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba".
- Từ sự gắn bó sâu sắc của nhân dân với đất nước, nhà thơ phát hiện một chân lí giản dị mà sâu
sắc. Đất nước là sự thống nhất của nhiều yếu tố, cái riêng và cái chung, cá nhân và cộng đồng, cái
hàng ngày và cái vĩnh hằng:
"Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước"
+ Anh và em là những cá nhân trong cộng đồng, quốc gia, dân tộc. Đời sống tâm hồn, tình cảm,
nhân cách, trí tuệ của mỗi cá nhân đều có một phần đất nước ở trong mình. Điều đó có nghĩa, đất nước
không xa lạ, trừu tượng mà kết tinh, hóa thân trong cuộc sống của mỗi người. Bởi mỗi người đều mang
trong mình dòng máu Lạc Hồng, được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất quê hương; được thừa hưởng di
sản văn hóa vật chất, tinh thần của nhân dân; từ phong tục, tập quán, truyền thống, lối sống đến ngọn
lửa, hạt gạo, ngôn ngữ, tiếng nói thân thương và mang trong mình tính cách, phẩm chất tiêu biểu của
dân tộc: Cần cù, chăm chỉ, chịu thương chịu khó, giàu lòng yêu nước, sống ân nghĩa, chung thủy.
+ Giọng thơ tâm tình, lối xưng hô anh em tha thiết, nhà thơ như nhắn nhủ: Đất nước không chỉ
tồn tại khách thể mà đã hóa thân trong mỗi người, trở thành một phần tâm hồn, trí tuệ mỗi người, của
anh và em. Sự gắn bó máu thịt giữa số phận cá nhân với vận mệnh cộng đồng là tư tưởng chung của
thời đại:
"Khi hai đứa cầm tay
Đất nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn to lớn".
+ Tình yêu lứa đôi riêng tư đã mang trong nó vẻ đẹp hài hòa, nồng thắm của tâm hồn dân tộc.
Khi chúng ta cầm tay nhau, cái riêng tư của tình yêu đôi lứa gắn bó với cái chung của tình yêu đất
nước, đất nước trong chúng ta trở nên "hài hòa nồng thắm", bền chặt và đầy sức sống. Khi chúng ta
cầm tay mọi người, liên kết gắn bó với cộng đồng tạo nên khối đại đoàn kết dân tộc, đất nước vẹn tròn
to lớn, có sức mạnh, tầm vóc, trường tồn và phát triển.
+ Anh và em là thế hệ hôm nay, con ta là thế hệ mai sau. Con sẽ mang đất nước đi xa "đến
những tháng ngày mơ mộng". Đất nước sẽ tươi đẹp hơn, hạnh phúc hơn, nhưng tháng này mơ mộng ở
hiện tại sẽ trở thành hiện thực ngày mai.
- Từ sự cảm nhận sâu sắc, mới mẻ về đất nước, kết thúc phần một, tác giả bày tỏ thái độ đầy
trách nhiệm của mỗi cá nhân, cộng đồng trong việc giữ gìn, bồi đắp cho đất nước bền vững muôn đời:

13
Năm học 2022-2023
Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn ……………………………… Giáo viên: Trần Thị Minh Yến
"Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và chia sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời".
+"Em ơi em" là lời nhắn nhủ tâm tình ngọt ngào, tha thiết như được cất lên từ trái tim tình yêu
lứa đôi hòa quyện với tình yêu đất nước đầy nhiệt tình, cháy bỏng.
+ "Đất Nước là máu xương" nghĩa là đất nước được xây dựng, bảo vệ bằng máu xương của
nhân dân qua trường kì lịch sử. Đất nước là sinh mệnh, là sự sống của mình, phải biết quý trọng, gìn
giữ, gắn bó, yêu thương. Câu thơ như một định nghĩa ngắn gọn, được chia thành hai vế: đất nước là
máu xương của mình, song đọc lên ta thấy rưng rưng một niềm xúc động tưởng như trong con tim, khối
óc, trong từng tế bào cơ thể của sự sống chúng ta đang có dòng máu nóng của trái tim đất nước đầy
nhiệt huyết, sôi trào.
+ Vì thế, trách nhiệm với đất nước cũng là trách nhiệm với chính bản thân mình. Mỗi chúng ta
phải tự nhiên gắn bó với đất nước bằng tình cảm thiết tha, dù đi đâu, làm gì, "ăn đâu làm đâu cũng phải
hướng về đất nước.
+ Không những thế, mỗi chúng ta phải san sẻ với cộng đồng bằng ý thức trách nhiệm, gánh vác
một phần trách nhiệm với đất nước "khi Tổ quốc cần", đồng thời, còn phải biết hóa thân bằng hành
động hi sinh cho đất nước.
+ Chữ "hóa thân" được nhà thơ dùng không chỉ phù hợp với màu sắc dân gian lấp lánh sắc màu
huyền thoại của chương thơ mà còn diễn tả sâu sắc sự tự nguyện dâng hiến trọn vẹn, sẵn sàng chiến
đấu, hi sinh để bất tử hóa cùng non sông đất nước của mỗi người dân.
+ Điệp ngữ "phải biết" vừa như một mệnh lệnh, lại vừa như tiếng nói thúc giục của con tim tạo
thành chất chính luận trữ tình sâu lắng của lời thơ.
* Tóm lại, được bao bọc trong không khí của văn học dân gian, hình tượng đất nước trong thơ
Nguyễn Khoa Điềm hiện lên thật thơ mộng, trữ tình như từ xa xưa vọng về, bình dị mà thân thương,
gắn bó tha thiết với mỗi người dân. Nhà thơ định nghĩa về đất nước bằng thơ. Lời thơ vừa lấp lánh sắc
màu huyền thoại dân gian, vừa lung linh vẻ đẹp của trí tuệ, vừa thiết tha cảm xúc, tạo nhiều âm vang
trong lòng người đọc.
+ Nếu Đất nước - Nguyễn Đình Thi mang đậm sắc thái hiện đại, gắn liền với chiều dài của cuộc
kháng chiến chống Pháp đau thương, anh dũng và chiến thắng, thì Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm đậm
đà phong vị dân gian, gắn với cội nguồn văn hóa dân tộc. Cùng tỏa sáng tình yêu và niềm tự hào với
đất nước, nhưng mỗi bài thơ có vẻ đẹp riêng khiến cho cảm hứng về quê hương, đất nước trở nên đa
dạng, hấp dẫn. Đất nước có từ lâu đời, đất nước được hình thành từ những truyền thống cao đẹp của
nhân dân, đất nước mênh mông giàu đẹp, gần gũi, gắn bó với mỗi người dân trên mọi phương diện: đại
lí, lịch sử, văn hóa. Đất nước hiện diện trên từng làng xóm, thôn phố. Đất Nước bình dị, thân thương
với mỗi người. Đất nước này là đất nước của nhân dân.
2. 2. Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân
* Nếu ở phần đầu khúc ca, tác giả nói về lịch sử đất nước cùng lối định nghĩa đất nước bằng thơ
theo cách riêng của mình thì 47 dòng thơ tiếp theo, nhà thơ đi sâu vào tư tưởng đất nước của nhân
dân trên tất cả các bình diện: không gian địa lí, thời gian lịch sử và văn hóa phong tục của nhân
dân.
a. Nhìn ở phương diện địa lí
- Tư tưởng đất nước của nhân dân dẫn nhà thơ đến một cách nhìn mới mẻ có chiều sâu về địa lí.
Người đọc được tiếp nhận một phát hiện mới mẻ rất thú vị về những danh lam thắng cảnh trên đất
nước ta như Vịnh Hạ Long, những di tích văn hóa như hòn Vọng Phu, núi Bút, non Nghiên; những di
14
Năm học 2022-2023
Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn ……………………………… Giáo viên: Trần Thị Minh Yến
tích lịch sử như làng Gióng, đất Tổ. Trải dài trên đất nước ta không chỉ là địa hình sông núi thuần túy
mà tạo hóa ban tặng mà còn được cảm nhận như là sự đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những
cảnh ngộ, số phận nhân dân và thấm đẫm vẻ đẹp tâm hồn nhân dân: thủy chung, yêu nước, hiếu học.
-Những người vợ nhớ chồng ..... . Câu thơ gợi ta liên tưởng đến hòn Vọng Phu và câu chuyện
cảm động về lòng chung thủy, tình yêu của người vợ với chồng. Câu chuyện kể về người đàn bà bồng
con đợi chồng, đợi đến thành hóa đá mà người chồng không trở lại. Những hòn Vọng Phu vẫn còn ở
nhiều nơi trên đất nước Việt Nam, phải chăng đến hôm nay người đàn bà ấy vẫn đợi .....
+ Sự thật, trên nhiều vùng của đất nước ta có những tảng đá lớn hay núi đá trông giống như
hình người đàn bà bồng con. Đây là hình tượng kì thú của thiên nhiên do sự kiến tạo diệu kì hàng triệu
năm lịch sử. Nhưng nhân dân ta đã thổi vào những hòn đá vô tri ấy một sức sống, một linh hồn qua trí
tượng bay bổng, diệu kì trong truyện kể dân gian.Vì thế, những hòn đá vô tri mang linh hồn dân tộc,
mang vẻ đẹp đời sống tinh thần của nhân dân, đời sống tinh thần của những người đàn bà thương con,
yêu chồng, nguyện hóa đá đợi chồng. Chắc chắn, nếu không có những mối tình đắm say, chung thủy,
không có những người vợ đợi chồng trong các cuộc chiến tranh li tán thì không có cảm nhận kì thú, sâu
sắc như thế về núi Vọng Phu.
- Lối sống thủy chung, tình nghĩa của nhân dân ta đã kết tinh, hóa thân thành huyền thoại về núi
Vọng Phu, thành hòn Trống Mái:
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái.
+ Hòn Trống Mái là một cảnh đẹp gần bãi biển Sầm Sơn. Ở đây có 2 tảng đá lớn hình thù ngộ
nghĩnh, xếp chồng lên một nền đá chênh vênh. Nhân dân ta đã tưởng tượng 2 hòn đá ấy là hòn Trống
và hòn Mái, rồi gắn nó với sự tích về tình yêu được lưu truyền ở địa phương. Từ đó hòn Trống, Mái trở
thành biểu tượng cho tình yêu đôi lứa thủy chung, son sắc, sống chết bên nhau và mãi mãi không bao
giờ chia lìa. Phải thế chăng mà từ những người vợ nhớ chồng nhà thơ đã chuyển thành cặp vợ chồng
yêu nhau. Cặp cũng là đôi, nhưng còn chỉ sự gắn bó khăng khít, không bao giờ có thể chia lìa.
- Trên hành trình khám phá vai trò, công lao của nhân dân qua hàng ngàn năm lịch sử và sự hóa
thân của nhân dân vào hình sông, thế núi, Nguyễn Khoa Điềm còn phát hiện ta: nhiều danh lam thắng
cảnh của đất nước ta còn là sự hóa thân của truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm.
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
+ Ý thơ được xây dựng sáng tạo dựa trên truyền thuyết Thánh Gióng – một truyền thuyết tiêu
biểu cho truyền thống yêu nước của người Việt.
+ Thánh Gióng là một cậu bé sinh ra đã 3 năm mà không biết nói cười. Nhưng khi nghe sứ giả
báo nhà Vua vời người ra đánh giặc Ân cứu nước. Câu nói đầu tiên của cậu bé là xin đi đánh giặc. Nhờ
sự giúp đỡ của dân làng mà Thánh Gióng lớn nhanh như thổi; nhờ sự góp sức của dân làng mà Thánh
Gióng có ngựa sắt, áo giáp sắt, gậy sắt đi đánh giặc bảo vệ quê hương. Sau khi đánh giặc xong, Thánh
Gióng cởi áo giáp sắt rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời: Những ao, đầm còn lại ngày hôm nay là
dấu tích gót ngựa Thánh Gióng. Chắc chắn, nếu nhân dân ta không có tinh thần yêu nước, chống giặc
ngoại xâm qua hàng ngàn năm lịch sử thì không bao giờ có sự cảm nhận kì diệu đến như vậy về những
ao, đầm mộc mạc, bình dị, gần gũi và đơn sơ. Lòng yêu nước của người dân Việt đã thổi hồn vào
những hình ảnh bình dị thân thương đó một sức sống, một linh hồn dân tộc, để rồi "Đêm đêm rì rầm
trong tiếng đất" ta lại nghe thấy "những buổi ngày xưa vọng nói về".
- Không chỉ có những người anh hùng lớn lên từ nhân dân đã hóa thân mình làm thành lịch sử,
mà còn có cả người học trò nghèo cũng hóa thân làm nên núi Bút, non Nghiên.
+ Núi Bút, non Nghiên cũng là một hiện tượng kì thú của thiên nhiên Việt Nam. Ở Việt Nam
có nhiều ngọn núi đẹp trông như hình cái bút, nghiên mực. Nhân dân ta lấy đặc điểm hình dáng của núi
đặt tên thành núi Bút, non Nghiên. Đặt tên núi như vậy, nhân dân ta ca ngợi truyền thống hiếu học của

15
Năm học 2022-2023
Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn ……………………………… Giáo viên: Trần Thị Minh Yến
dân tộc bằng hình tượng người học trò nghèo hóa thân vào thế núi, hình sông. Cùng từ đó, hình ảnh núi
Bút, non Nghiên trở thành biểu tượng cho truyền thống hiếu học của người Việt.
-Với cảm hứng tự hào, say sưa, nhà thơ nhìn thấy tất cả mọi danh lam thắng cảnh trên đất nước
này đều là sự hóa thân của nhân dân, đều trở nên có ý nghĩa khi được cảm nhận qua tâm hồn của nhân
dân. Sự quan sát tinh tế, sắc sảo, khả năng liên tưởng, sáng tạo tài hoa đã giúp nhà thơ phát hiện ra cả
những sự vật thiêng liêng hay gần gũi, bình thường thân thuộc trong cuộc sống nhân dân đều hóa thân
vào đất nước:
Chín mươi chín con voi góp mình dựng nên đất Tổ Hùng Vương.
+ Ý thơ được xây dựng dựa trên truyền thuyết về đất tổ Vua Hùng. Chín mươi chín con voi thực
chất là chín mươi chín ngọn núi bao quanh núi Hi Cương, nơi có đền thờ các Vua Hùng. Nhân dân ta
đã hình dung hình chín mươi chín ngọn núi ấy giống như hình chín chín con voi quây quần, thuần phục
đất tổ. Chỉ có một con không quy thuận, nên bị chặt đầu. Từ truyền thuyết chín chín con voi, nhà thơ ca
ngợi lịch sử dân tộc trong quá trình dựng nước, giữ nước, ca ngợi tinh thần đoàn kết, truyền thống
uống nước nhớ nguồn của dân tộc. Vì thế, mỗi người dân Việt Nam:
Hàng năm ăn đâu, làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ
+Chín chín con voi là sự hóa thân của lòng yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc của nhân dân
suốt 4000 năm.
+ Những con rồng nằm im cũng góp cho đất nước dòng sông xanh thẳm. Câu thơ thể hiện sự
liên tưởng, sáng tạo tài hoa của NKĐ: Nhà thơ hình dung những dòng sông hiền hòa, xanh thẳm, chảy
qua các làng mạc, xứ sở như Cửu Long Giang là sự hóa thân của những con rồng im lặng, thân thương.
+ Ngay cả những con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh. Ai đã
đến Hạ Long nếu quan sát, để ý kĩ sẽ thấy có nhiều đảo đá có hình thù trông xa như con cóc, con gà.
Nhà thơ đã liên tưởng đó là sự hóa thân của tất cả những gì gần gũi, giản dị, thân thuộc nhất trong đời
sống nhân dân vào ĐN.
+ Cuộc sống bình dị và những đóng góp thầm lặng của nhân dân đã đặt tên cho sông núi: ông
Đốc, ông Trang, Bà Đen, bà Điểm,... Cảnh núi sông hội tụ lấp lánh qua những vần thơ đẹp, soi bóng
tâm hồn nhân dân và những cuộc đời vô danh, càng thấm thía một điều bình dị: Đất nước của nhân dân,
đất nước mang màu sắc dân gian, dân dã.
=>Như vậy, tất cả mọi danh lam, thắng cảnh trên đất nước ta đều do sự hóa thân của nhân dân
mà thành. Có thể đó là những người anh hùng dân tộc, những người dân có tên, nhưng cũng có thể là
những người dân không tên: Những người vợ nhớ chồng, cặp vợ chồng yêu nhau ... tất cả, họ đã sống
một cuộc đời đẹp như huyền thoại, họ đã hóa thân vào dáng hình xứ sở làm nên đất nước muôn đời ....
Vì thế, mọi danh lam thắng cảnh chỉ có ý nghĩa thực sự khi được cảm nhận qua đời sống tâm hồn của
nhân dân.
- Từ những hình ảnh cụ thể, tác giả đã khái quát, kết đọng sự hóa thân của nhân dân vào Đất
Nước.
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình một ao ước một lối sống ông cha
+ Tác giả nhìn thấy trên khắp ruộng đồng, gò bãi đều do sự hóa thân của nhân dân mà thành. Và
sự hóa thân ấy là sự hóa thân của nhân dân suốt 4000 năm lịch sử:
Ôi đất nước sau 4000 năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta....

16
Năm học 2022-2023
Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn ……………………………… Giáo viên: Trần Thị Minh Yến
+ Thán từ "ôi" diễn tả sự xúc động sâu sắc, chân thành của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử 4000
năm dựng nước của dân tộc. Trong suốt 4000 năm ấy, nhân dân thầm lặng, vô danh đã hóa cuộc đời
mình làm nên núi sông, đất nước chúng ta. Câu thơ "những cuộc đời đã hóa núi sông ta" vang lên một
cách đầy kiêu hãnh, tự hào.
+ Dấu ba chấm kết thúc đoạn thơ vừa gợi ra chiều dài xa xăm bất tận của đất nước vừa là lời
khẳng định sự cống hiến lặng thầm, sự hóa thân kì diệu của nhân dân trong suốt 4000 năm lịch sử.
Chính nhân dân đã sống cuộc đời đẹp như huyền thoại, đã cống hiến hi sinh để làm nên hình sông,
dáng núi suốt dọc chiều dài lịch sử đất nước của chúng ta.
-Nội dung:
+ Đoạn thơ thể hiện những cảm nhận sâu sắc của NKĐ về ĐN: ĐN không trừu tượng, không xa
xôi. ĐN có trong đời sống, tinh thần nhân dân và nhân dân hóa thân làm nên sự trường tồn của ĐN. Từ
sự hóa thân của nhân dân vào danh lam, thắng cảnh NKĐ đã thể hiện những suy tưởng mang tầm triết
lí về vai trò của nhân dân trong lịch sử, từ đó bày tỏ tình cảm yêu mến, lòng tự hào về ĐN – ND.
-Nghệ thuật:
+Thể thơ tự do đã thể hiện những cảm xúc của tác giả về đất nước thật sâu rộng, chân thành.
+Giọng điệu tâm tình, sâu lắng, trang nghiêm mà linh hoạt về nhịp điệu đã góp phần thể hiện
chủ đề ĐN trong bút pháp chính luận, trữ tình.
+Vận dụng sáng tạo những chất liệu văn hóa dân gian từ đó tạo nên một không gian nghệ thuật
vừa bay bổng, vừa mĩ lệ, diệu kì lại vừa gần gũi, thiêng liêng. Điều này đã góp phần thể hiện tư tưởng
ĐN của nhân dân một cách sâu sắc.
+Các hình ảnh thơ giàu chất suy tưởng, có khả năng gợi chiều dài của lịch sử đất nước, dân tộc
trong bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đồng thời, còn có khả năng gợi tả vẻ đẹp trong đời sống
tinh thần của nhân dân.
+Đoạn thơ có cấu trúc câu trùng điệp.Vế đầu của câu thơ là hình ảnh của nhân dân, những sự
vật gắn bó gần gũi, thân thiết với nhân dân (Những người vợ nhớ chồng, cặp vợ chồng yêu nhau, gót
ngựa Thánh Gióng, những con voi, con rồng...), vế sau của câu là các danh lam thắng cảnh (hòn Trống
Mái, núi Vọng Phu, đất tổ Hùng Vương, núi Bút, non Nghiên...) vừa lặp lại cấu trúc câu theo thủ pháp
nghệ thuật trùng điệp, kết hợp với thủ pháp nghệ thuật liệt kê đã khẳng định vai trò của nhân dân trong
việc xây dựng, phát triển đất nước.
-Như vậy, sự trưởng thành vững bền của đất nước phụ thuộc vào vai trò của mỗi cá nhân trong
cộng đồng và sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc. Nếu mỗi cá nhân đều ý thức được vai trò, trách
nhiệm của mình đối với đất nước, yêu đất nước như máu thịt của mình, sẵn sàng hóa thân vào dáng
hình xứ sở, vào ruộng đồng gò bãi,...thì nhất định đất nước sẽ tươi đẹp hơn.
b. Nhìn ở phương diện thời gian lịch sử, nhà thơ cũng khẳng định tư tưởng đất nước của nhân
dân. Tư tưởng này chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử 4000 năm đất nước:
"Em ơi em hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm đất nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái ở nhà nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
17
Năm học 2022-2023
Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn ……………………………… Giáo viên: Trần Thị Minh Yến
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước"
- Đoạn thơ được mở đầu bằng một lời gọi, lời nhắn nhủ chân thành, tha thiết của chàng trai với
cô gái người mình yêu:
Em ơi em hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm đất nước.
+ Nhìn vào bốn nghìn năm đất nước không phải là cái nhìn của cá nhân mỗi con người, mà là
cái nhìn mang tầm vóc lịch sử, nhân loại và thời đại. Đó là cái nhìn bốn hướng, trông lại nghìn xưa
trông tới mai sau; cái nhìn của con mắt Bạch Đằng, con mắt Đống Đa, cái mang tính sử thi hoành
tráng. Phải bằng con mắt ấy, mỗi chúng ta mới có cái nhìn đầy đủ, khái quát và sâu sắc nhất về vai trò
của nhân dân trong lịch sử.
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái con trai bằng tuổi chúng ta
+ Khi nói về lịch sử đất nước, tác giả không nhắc đến các triều đại tên tuổi như Đinh, Lí, Trần,
Lê; cũng không nhắc đến các anh hùng được ghi tên trong sử sách. Nhà thơ tập trung nói về những con
người vô danh, bình dị. Họ là lớp lớp những người con gái con trai bằng tuổi chúng ta. Trong suốt bốn
nghìn năm ấy họ đã xây dựng, bảo vệ giữ gìn đất nước này.
+ Cụm từ chỉ thời gian không xác định "năm tháng nào" kết hợp với từ "lớp lớp" chỉ số nhiều,
các danh từ chung "con gái, con trai" tạo nên những vần thơ bình dị nhưng giàu sức gợi cảm. Nhân
dân các thế hệ từ lớp này đến lớp khác đã nối tiếp nhau đứng lên giữ gìn quê hương, xứ sở bằng mồ
hôi, công sức và xương máu của mình:
"Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh".
- Bằng cái nhìn mang tầm vóc lịch sử, trong bốn câu thơ ngắn gọn, Nguyễn Khoa Điềm đã khái
quát vai trò của nhân dân trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước.
+ Nhân dân là những người "cần cù làm lụng". Sự vất vả dãi dầu một nắng hai sương của những
người lao động chân lấm tay bùn đâu chỉ làm ra hạt gạo bé nhỏ, tinh khôi như kết tinh cả mưa giông,
nắng lửa; đâu chỉ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng, chuyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi.
Phẩm chất cần cù, chịu thương chịu khó của nhân dân còn làm nên văn hóa, phong tục, tập quán,
truyền thống, lối sống cao đẹp của dân tộc. Hơn thế, chính cuộc đời lao động nhọc nhằn vất vả một
nắng hai sương của nhân dân, lối sống bình dị thanh cao của nhân dân đã hóa thân vào đất nước. Mọi
danh lam thắng cảnh, mọi hình sông thế núi như núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, những ao đầm lấp lánh
sắc màu huyền thoại, những núi bút, non nghiên, những con cóc, con gà quê hương thân thương bình
dị, những cửa sông ông Đốc, ông Trang, những tên xã tên làng Bà Đen, Bà Điểm đều là sự hóa thân
của nhân dân.

18
Năm học 2022-2023
Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn ……………………………… Giáo viên: Trần Thị Minh Yến
=> Sự cần cù trong lao động của nhân dân đã làm nên những giá trị văn minh vật chất, tinh thần
và làm sáng lên phẩm chất tâm hồn dân tộc: nhẫn nại, cần cù, chịu thương chịu khó. Đúng là đất nước
này là đất nước nhân dân.
+ Không chỉ xây dựng, nhân dân còn bảo vệ đất nước:
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh".
+ Bằng cách viết giản dị những giàu chất trữ tình, Nguyễn Khoa Điềm đã dựng lại lịch sử dân
tộc trong suốt 4000 năm. Việt Nam là một dân tộc bé nhỏ nhưng phải liên tiếp đối mặt với các cuộc
chiến tranh xâm lược. Từ thời An Dương Vương nối nghiệp các vua Hùng, Triệu Đà đã nhiều lần cầm
quân sang thôn tính Âu Lạc. Vì chủ quan, khinh suất, An Dương Vương đã để "cơ đồ đắm biển sâu".
Từ đó, đất nước ta trải qua một nghìn năm Bắc thuộc. Sau đó, các triều đại hùng mạnh nhất của Trung
Quốc : Hán, Đường, Tống, Nguyên đều tìm cách xâm chiến Đại Việt. Trong những giây phút lâm
nguy, đầy thử thách ấy của lịch sử; người con trai sẵn sàng ra trận, người con gái trở về nuôi cái cùng
con. Tiền tuyến chắc tay súng, hậu phương vững tay cày. Lớp lớp những người con gái con trai ấy đã
sẵn sàng sống xa nhau, hi sinh hạnh phúc riêng tư để bảo vệ Tổ quốc. Yêu nước, thương nòi, đó là
phẩm chất, truyền thống của dân tộc Việt. Vì thế, trách nhiệm chiến đấu bảo vệ đất nước không của
riêng ai:
"Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh"
+ Ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm gợi lên trong lòng mỗi chúng ta một niềm tự hào khôn tả về
chiến công lừng lẫy của Bà Trưng, Bà Triệu, của những đội quân tóc dài, những người con gái Việt
Nam đã không quản ngại gian khổ hi sinh vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Đất nước của chúng ta là
"Đất nước của những người con gái con trai/Đẹp hơn hoa hồng cứng hơn sắt thép/Xa nhau không hề
rơi nước mắt/ Nước mắt dành cho ngày gặp mặt". Thật thân thương, gần gũi và bình dị biết bao.
- Trong những cuộc kháng chiến trường chinh ấy, có những người đã trở thành anh hùng, có
những anh hùng được lưu danh trong sử sách cả anh và em đều nhớ và biết ơn họ: Ngô Quyền, Trần
Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Lê Lợi, Quang Trung,...
Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
- Chưa đâu! Và ngay cả trong những ngày đẹp nhất
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hoá thành văn
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng…
(Chế Lan Viên – Tổ quốc bao giờ đẹp thế này
chăng?)
Nhưng với tư tưởng đất nước của nhân dân, Nguyễn Khoa Điềm đặc biệt nhấn mạnh đến
những người lao động bình thường, thầm lặng, vô danh:
"Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên

19
Năm học 2022-2023
Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn ……………………………… Giáo viên: Trần Thị Minh Yến
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước"
"Biết bao người con gái con trai" giống ta lứa tuổi trong suốt bốn nghìn năm lịch sử ấy là nhân
dân. Tên tuổi họ chưa một lần được ghi tên trong sử sách "không ai nhớ mặt đặt tên" nhưng cuộc đời
thầm lặng của mỗi người đã hóa núi sông ta. Cảnh sắc núi sông gắn liền với tâm hồn dân tộc, khí phách
của giống nòi. Cái bình dị tồn tại quanh ta hòa với cái cao cả thiêng liêng cho thấy vẻ đẹp vĩnh hằng
của đất nước và sự trường tồn của dân tộc gắn với muôn triệu nhân dân của mọi thế hệ trong dòng chảy
4000 năm đất nước. Đất nước ta này đất nước của nhân dân.
c. Nhìn ở phương diện văn hóa, nhà thơ khẳng định vai trò của nhân dân.
- Đất nước của nhân dân không chỉ hiện diện ở bề rộng không gian địa lí, ở chiều dài của thời
gian lịch sử mà còn ở tầng sâu của tâm hồn, chiều cao của ý chí giống nòi, bề dày của văn hóa dân tộc.
Nhân dân không chỉ là người chiến đấu mà còn là người giữ gìn văn hóa dân tộc. Những hạt lúa, hòn
than, tiếng nói,...đều giản dị nhưng là sự sống của cả dân tộc, là văn hóa, là hồn thiêng sông núi mà
chính nhân dân là người đã giữ gìn, truyền lại cho muôn đời, tạo thành chiều sâu văn hóa dân tộc.
"Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây mà hái trái" .
+ Trước hết, nhân dân là người tạo nên những giá trị văn minh vật chất cho đất nước ta: "Họ
giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng"
+ Hạt lúa ta trồng ngày hôm nay và suốt 4000 năm lịch sử có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối
với dân tộc Việt. Bởi hạt lúa là vật chất, hạt lúa là sự sống là cội nguồn văn hóa dân tộc ta. Trong hạt
lúa bé nhỏ, tinh khôi ấy, có mồ hôi công sức lao động của những người nông dân vất vả dãi dầu một
nắng hai sương; có sự kết tinh của Đất và Nước, của bão giông, nắng lửa. Trên hết, đó còn là sự lắng
kết của phẩm chất, tinh thần lao động cần cù, chịu thương chịu khó của nhân dân. Từ hạt lúa bé nhỏ,
thân thương nhân dân "một nắng hai sương xay giã, giần, sàng,...cộng đồng cư dân của nền văn minh
nông nghiệp lúa nước đã hình thành. Không có hạt lúa nhân dân giữ và truyền cho ta, không thể có một
đất nước VN tươi đẹp :"Việt Nam đất nước ta ơi/ Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn/Cánh cò bay
lả dập dờn/ Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều", không thể có "những hội hè đình đám/ trên núi
Thiên Thai/ trong chùa Bút Tháp"; không thể có "đường trong làng hoa dại với mùi rơm/ Người cùng
tôi đi dạo giữa đường thơm". Nhân dân đã giữ và truyền cho ta sự sống, văn hóa, tinh thần dân tộc.
+ Không chỉ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng, nhân dân còn là người "chuyền lửa qua mỗi
nhà từ hòn than qua con cúi" .
+ Cũng giống như hạt lúa, ngọn lửa cũng là một bước phát triển của văn hóa, văn minh nhân
loại mà nhân dân ta gìn giữ bao đời. Thuở hồng hoang, xa xưa nhất của lịch sử, con người đã sống
trong những hang động đầy bóng tối. Thần lửa Promete đã chịu bao đau khổ, cực hình đem ngọn lửa
đến cho con người. Nhân dân ta đã lưu giữ và truyền lại hơi ấm, ánh sáng văn minh ấy qua mỗi nhà để
duy trì sự sống cho chúng ta ngày nay.
+ Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm đâu chỉ là sự suy ngẫm, trải nghiệm đầy sâu sắc về vai trò
của nhân dân trong lịch sử, ẩn sâu trong từng câu chữ, nhà thơ còn gợi lại cả một truyền thống, phong
tục tốt đẹp ngàn đời của nhân dân ta.
+ Nhân dân ta có tập quán dùng rơm con cúi để giữ lửa. Trong mỗi con cúi được bện từ rơm, rạ
mộc mạc đơn sơ là trái tim bé nhỏ của ngọn lửa hồng được lưu giữ qua bao ngày tháng, truyền từ nhà
này sang nhà khác, từ đời trước đến đời sau. Từ đó, truyền thống hàng xóm tối lửa tắt đèn có nhau
được hình thành trong đời sống nghĩa tình của dân tộc Việt.
20
Năm học 2022-2023
Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn ……………………………… Giáo viên: Trần Thị Minh Yến
=> Có thể nói, ngọn lửa từ rơm con cúi được nhân dân bao đời chuyền lại đã tỏa sáng lịch sử
của dân tộc, nhân loại, tỏa sáng phong tục, tập quán và lối sống cao đẹp của cộng đồng ngườiViệt Nam.
Không có nhân dân, sẽ không có những giá trị văn minh vật chất, tinh thần ấy.
- Nhân dân còn là người "truyền giọng điệu mình cho con tập nói".
+ Câu thơ gợi ta liên tưởng đến truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ. Từ khi năm mươi con
theo mẹ lên rừng, năm mươi con theo cha xuống biển, mẹ Âu Cơ và cha Lạc Long Quân đã truyền cho
con tiếng nói của dân tộc. Để rồi từ đó, theo dòng chảy không ngừng nghỉ của thời gian, ông bà, cha mẹ
lại truyền cho con tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc.
+ Ngôn ngữ là thứ của cải vô cùng quý giá của mỗi quốc gia:
1) Đó là kết quả của quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước: Trong một nghìn năm nhân
dân ta sống dưới thời Bắc thuộc, Trung Quốc luôn tìm cách đồng hóa dân tộc ta. Nhưng với ý thức và
lòng tự hào, tự tôn dân tộc, nhân dân ta vẫn giữ được ngôn ngữ, tiếng nói của dân tộc mình. Có thể nói,
tiếng nói là tấm lụa bạch hứng vong hồn của biết bao thế hệ đã qua, là tiếng nói tinh thần, tâm hồn của
ông cha ta từ ngàn đời truyền lại cho con cháu.
2) Hơn nữa, tiếng nói còn là nơi lưu giữ bản sắc văn hóa dân tộc, giúp phân biệt dân tộc này với
dân tộc khác. Tiếng Việt của ta rất giàu và đẹp "tiếng tha thiết nói thường nghe như hát/ Kể mọi điều
ríu rít bằng âm thanh". Những người mẹ truyền giọng điệu mình cho con tập nói cũng là truyền cho con
tình yêu với ngôn ngữ, văn hóa, bản sắc dân tộc.
3) Đặc biệt, từng ngôn từ, câu chữ nhân dân đã truyền cho con từ thuở còn thơ ấu đã tạo nên sự
gắn kết của cả một cộng đồng quốc gia, dân tộc:
"Mỗi sớm dậy nghe bốn bề thân thiết
Người qua đường chung tiếng Việt cùng tôi
Như vị muối chung lòng biển mặn
Như dòng sông thương mến chảy muôn đời".
=> Không có nhân dân, đất nước ta không thể có kho tàng ngôn ngữ diệu kì đến thế.
- Nhân dân còn là người "gánh tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân"
+ Câu thơ gợi nhắc lại những năm tháng gian lao của cộng đồng người dân Việt trong công
cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
+ Vì lũ lụt, hỏa hoạn, thiên tai, chiến tranh giặc dã, người dân đã phải di cư đến những nơi ở
mới, tìm những vùng đất mới. Trong những chuyến di dân để tìm sự sống ấy, họ đã gánh theo những
tên xã, tên làng, nơi kí thác niềm ước mong của người dân Việt trên mọi miền đất dải chữ S thân
thương.
+ Họ đã phát bờ, mở cõi, khai hoang, lấn biển để dựng xây phát triển đất nước như ngày hôm
nay.
=> Vì thế, mỗi tên xã tên làng đều gắn liền với những chặng hành trình nhọc nhằn gian khổ mà
không ít vinh quang của nhân dân trong cong cuộc dựng nước và giữ nước.
- Không chỉ mở mang bờ cõi, đem lại cho đất nước một dáng hình tươi đẹp; nhân dân
còn là người đắp đập be bờ cho người sau trồng cây mà hái trái.
+ Ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm được xây dựng trên truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy
Tinh. Vì không lấy được Mị Nương, hàng năm, cứ vào tháng bảy, Thủy Tinh lại dâng nước đánh Sơn
Tinh. Nhưng nước dân cao bao nhiêu, núi lại lên cao bấy nhiêu.
+ Cuộc chiến giữa Sơn Tinh với Thủy Tinh là cuộc chiến đầy gian nan của nhân dân ta
chống lại mưa giông, bão lũ, sự tàn phá khốc liệt của thiên nhiên. Nhờ có những người dân đã đắp đập

21
Năm học 2022-2023
Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn ……………………………… Giáo viên: Trần Thị Minh Yến
be bờ ngăn sông, chắn lũ; không quản ngại thần sông, thần biển hô mưa gọi gió mà chúng ta được
hưởng hoa thơm, quả ngọt và cuộc sống yên bình, hạnh phúc của ngày hôm nay.
- Nhân dân còn là người chống ngoại xâm và diệt nội thù.
"Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại"
+ Lịch sử của dân tộc Việt Nam là lịch sử đấu tranh đầy đau thương và anh dũng. Trong 4000
năm dựng nước và giữ nước, nhân dân ta phải liên tiếp chống giặc ngoại xâm và diệt nội thù. Từ Triệu
Đinh Lí Trần bao đời gây nền độc lập/ Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Đến thời điểm Nguyễn Khoa Điềm viết Đất Nước, đế quốc Mĩ vẫn đang tiếp tục leo thang chiến tranh
ra miền Bắc. Nhân dân ta lại anh dũng đoàn kết một lòng đứng lên giết giặc. "Một dây ná một dây
chông cũng tấn công giặc Mĩ". Nhờ có tinh thần chống ngoại xâm, diệt nội thù của nhân dân mà đất
nước ta hoàn toàn được độc lập, tự do, nhân dân được hưởng hạnh phúc.
+ Nghệ thuật điệp từ "có"..."thì" cho thấy tinh thần tự nguyện, hăng hái, sẵn sàng chiến đấu hi
sinh để bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc một cách tự nhiên như lẽ sống ngàn đời của người dân
Việt.
+ Từ "họ" được lặp lại nhiều lần, đứng ở đầu mỗi dòng thơ không chỉ có tác dụng khẳng định
vai trò của nhân dân trong lịch sử mà còn có giá trị gợi hình, nhân dân hết lớp này đến lớp khác đã nối
tiếp nhau lao động, xây dựng, bảo vệ đất nước.
+ Từ ngữ, hình ảnh giản dị, mộc mạc, giọng điệu tha thiết, sâu lắng đã thể hiện tư tưởng Đất
nước của nhân dân bằng bút pháp chính luận trữ tình.
=> Quả thực, không có nhân dân, không có đất nước, không có dáng hình xứ sở, văn hóa phong tục tập
quán của đất nước ngày hôm nay.
d. Định nghĩa về đất nước:
- Mạch cảm xúc này dâng lên thành cao trào để nhà thơ khẳng định một chân lí:
"Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại".
+ Hai câu thơ là định nghĩa về đất nước giản dị mà sâu sắc.
+ "Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân" vì nhân dân là người chiến đấu, xây dựng, bảo vệ đất
nước suốt 4000 năm lịch sử bằng mồ hôi, xương máu của mình. Không có nhân dân sẽ không có phong
tục, tập quán, truyền thống, lối sống nghĩa tình, thủy chung, cao đẹp; không có vẻ đẹp của thế núi, hình
sông.
+ Đất Nước của Nhân dân vì đất nước được hình thành từ những bản sắc văn hóa dân tộc thấm
đẫm vẻ đẹp tâm hồn nhân dân: Yêu nước, cần cù lao động, hiếu học, chung thủy trong tình yêu, quý
trọng tình nghĩa, bền bỉ kiên cường trong chiến đấu, lạc quan, yêu đời trong gian khó.
+ Đất Nước của Nhân dân cũng chính là Đất Nước của ca dao thần thoại. Vì:
+ Ca dao, thần thoại chính là sáng tác của nhân dân, phản ánh đời sống, tâm tư, tình cảm của
nhân dân và lưu giữ tâm hồn nhân dân qua bao biến động thăng trầm của lịch sử.
+ Ta hoàn toàn có thể cảm nhận những nét đẹp bình dị và tinh tế trong tâm hồn nhân dân trong
ánh sáng lấp lánh của ca dao thần thoại và qua ca dao, thần thoại, những sáng tác bay bổng diệu kì của
nhân dân ta thấy được cả tinh thần đất nước, tinh thần dân tộc.
+ Nếu Lí Thường Kiệt phải dùng đến đế cư, thiên thư để trang trọng hóa đất nước. Nguyễn
Đình Chiểu phải dùng đến "một mối xa thư đồ sộ, hai vầng nhật nguyệt chói lòa" để thiêng liêng hóa
đất nước, thì với hệ thống từ ngữ giản dị, mang đậm màu sắc dân gian; Nguyễn Khoa Điềm đã bình dị

22
Năm học 2022-2023
Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn ……………………………… Giáo viên: Trần Thị Minh Yến
hóa đất nước, làm cho đất nước thật sự hóa thân trong tâm hồn và cuộc sống của mỗi người dân trên đất
này.
- Để làm rõ tâm hồn nhân dân qua sáng tác ca dao, thần thoại, nhà thơ viết:
"Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu"...
+ Ở đoạn thơ này, nhà thơ đã vận dụng và chuyển ý sáng tạo những câu ca dao thành lời thơ
đằm thắm, ca ngợi nhân dân, ca ngợi bản sắc dân tộc.
+ Trong cả kho tàng ca dao dân ca phong phú của người Việt, nhà thơ đã chọn lọc ba bài ca dao
để nói về ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân.
+ Ca dao có câu:
"Yêu em từ thuở trong nôi
Em nằm em khóc anh ngồi anh ru".
+ Nguyễn Khoa Điềm đã viết thật dung dị : "Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi" để ca ngợi
tinh thần say đắm trong tình yêu của người dân Việt. Người Việt "Đã yêu, yêu đến tận cùng/ Đã
thương thương đến nát lòng vì nhau".
+ Không chỉ say đắm trong tình yêu, người Việt còn rất quý trọng tình nghĩa. "Biết quý công
cầm vàng những ngày lặn lội". Ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm được xây dựng từ chất liệu ca dao:
"Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc tiếc công cầm vàng"
+"Vàng" biểu tượng cho những giá trị cao quý; "công cầm vàng" là những gian nan, vất vả, cực
khổ mà con người phải trải qua. Đối với người dân Việt, công sức, tình nghĩa mà con người dành cho
nhau còn quý giá hơn vàng. Đó cũng là một nét đẹp trong tinh thần dân tộc.
- Say đắm trong tình yêu, quý trọng tình nghĩa, người Việt còn rất quyết liệt trong trả thù, chiến
đấu.
"Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu"
+ Câu thơ được sáng tạo từ truyền thuyết Thánh Gióng và câu ca dao :"Thù này ắt hẳn còn
lâu/Trồng tre thành gậy gặp đâu đánh què" để nói về tinh thần quyết liệt trong chiến đấu của người dân
Việt.
=> Như vậy, say đắm trong tình yêu, quý trọng tình nghĩa, quyết liệt trong trả thù chiến đấu là
bản sắc tinh thần nhân
+ Cái gì đã tạo cho con người Việt Nam tồn tại mà không xóa nhòa bản sắc của mình? Cái gì
đã tạo cho con người VN truyền thống văn hiến rực rỡ? Chính là nhân dân. Nhân dân đã sống cuộc đời
đôn hậu, đời thường, sống giàu nghĩa tình ngay cả khi trong những hoàn cảnh lịch sử phá vỡ cuộc sống
bình thường đó.
- Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh dòng sông và câu hát, đem lại cảm nhận, đất nước ta đẹp như dòng
sông, hiền hòa như câu hát. Trên dòng sông ấy lấp lánh sắc màu văn hóa của cộng đồng 54 dân tộc
Việt. Mỗi dân tộc góp một vẻ đẹp, một bản sắc làm nên văn hóa Việt Nam.
3.Đánh giá
* Nội dung

23
Năm học 2022-2023
Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn ……………………………… Giáo viên: Trần Thị Minh Yến
Qua những cảm nhận sâu sắc mới mẻ về Đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định tư tưởng
Đất Nước của Nhân dân. Tư tưởng ấy đã được manh nha từ xa xưa trong lịch sử dân tộc. Đến thơ văn
hiện đại, vai trò của nhân dân với đất nước cũng tiếp tục được đề cao. Trong Đất nước, Nguyễn Đình
Thi viết: "Ôm đất nước những người áo vải/ Đã đứng lên thành những anh hùng". Như vậy, đề cao vai
trò của nhân dân với đất nước là cả một truyền thống trong lịch sử văn học dân tộc. Nguyễn Khoa
Điềm đã khai thác sâu sắc, toàn diện, mới mẻ tư tưởng này. Từ đó, nhà thơ thức tỉnh tuổi trẻ miền Nam
các thành thị vùng địch tạm chiếm nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ, xuống đường hòa nhịp
cùng cuộc chiến đấu của dân tộc.
* Nghệ thuật
Đoạn thơ trích trong chương V giàu chất trữ tình chính luận, vừa được viết bằng chiều sâu trí
tuệ, chiều cao văn hóa vừa được viết bằng những rung động mãnh liệt của cảm xúc nên rất dễ đi vào
lòng người.
- Sử dụng sáng tạo các chất liệu văn hóa dân gian: tục ngữ, thành ngữ, ca dao, cổ tích, truyền
thuyết,... Với chất liệu này, tác giả dã tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa bay bổng, mĩ lệ vừa gần gũi
thân thuộc, góp phần thể hiện tư tưởng Đất Nước của Nhân dân.
- Hình tượng thơ có sức mạnh gợi cảm. Mỗi câu chữ đều gợi liên tưởng đến chiều sâu của
không gian và thời gian, của lịch sử và văn hóa với biết bao thăng trầm đổi thay của đất nước và những
con người đã làm nên đất nước này.
- Từ Đất Nước được lặp lại nhiều lần và viết hoa dưới dạng kính ngữ thể hiện sự hiện diện, gần
gũi trong muôn mặt đời thường của đất nước.
- Giọng thơ tâm tình, tha thiết trầm lắng, trang nhiêm mà linh hoạt về nhịp điệu góp phần thể
hiện chủ đề đất nước trong bút pháp chính luận trữ tình. Đó là dấu ấn phong cách nghệ thuật của
Nguyễn Khoa Điềm.
III. Kết bài
Cách 1.
Bằng những hình ảnh thơ giản dị, cách sử dụng chất liệu văn hóa dân gian vừa gần gũi, vừa bay
bổng lãng mạn như lời hát từ tình mẹ yêu thương, Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm không chỉ kêu gọi
sự thức tỉnh của thanh niên, tuổi trẻ miền Nam vùng địch tạm chiếm, “Khi Tổ quốc cần họ biết sống
xa nhau” mà còn là lời ngợi ca hay nhất, đẹp nhất về Đất Nước của Nhân dân:
“Và cứ thế nhân dân thường ít nói
Như mẹ tôi lặng lẽ suốt một đời
Và cứ thế nhân dân cao vòi vọi
Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời
Mãi mãi sống còn hỡi nhân dân tôi”.

Cách 2.
Đất Nước là một đoạn trích hay nhất trong trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa
Điềm Thi phẩm ấy không chỉ khẳng định tài năng của nhà thơ mà còn nói lên được tiếng nói của người
công dân yêu nước với tình yêu sâu nặng, mãnh liệt ‘như máu xương của mình”. Cuộc chiến tranh
chống Mĩ gian khổ đã làm con người xích lại gần nhau, tất cả đều hướng đến nhiệm vụ chung cao cả để
bảo vệ Tổ quốc. Tình yêu và trách nhiệm cao cả ấy trong thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng chính là quyết
tâm của cả một thời đại: “Thời đại của chúng tôi là thời đại của tuổi trẻ đã xuống đường, chiếm lĩnh
từng tầm cao của mái nhà, tầm cao của ngọn đồi, của nhịp cầu để đem tất cả lương tâm và nhân phẩm
bắn tỏa lên bầu trời đầy giặc giã” (Chu Lai).

24
Năm học 2022-2023
Tài liệu ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn ……………………………… Giáo viên: Trần Thị Minh Yến
Cách 3.
Pautopxki từng nói: “Niềm vui của nhà thơ chân chính là niềm vui của người mở đường đến với
cái đẹp”. Phải chăng, Nguyễn Khoa Điềm đã tìm thấy niềm vui cho mình khi mở đường đến với Đất
Nước của nhân dân.
--------------------------------------------

25
Năm học 2022-2023

You might also like