You are on page 1of 38

ĐẤT NƯỚC

(trích Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm)

Tài liệu độc quyền do Chuyến Tàu Văn Chương biên soạn. Bạn đọc chỉ xem, không có quyền
download!

Đề 1: Phân tích đoạn thơ sau:

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi


Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...
MB:

Trong dàn hợp xướng thơ trẻ thời chống Mĩ, bên cạnh một Phạm Tiến Duật trẻ trung, sôi
nổi, phong trần với những câu thơ lấm bụi Trường Sơn; một Nguyễn Duy mộc mạc, đằm thắm,
ngọt ngào với những âm điệu lục bát của ca dao vọng về là một Nguyễn Khoa Điềm tài hoa mà
sâu sắc, truyền thống mà hiện đại. Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất trữ tình - chính luận, đậm
chất dân gian; chín cả trong cảm xúc và suy tư của người trí thức, của một người lính, của một nhà
thơ khi viết về đất nước và con người Việt Nam. Trong đoạn trích “Đất nước” – trích từ trường ca
“Mặt đường khát vọng” của NKĐ, những câu thơ sau để lại nhiều ấn tượng sâu đậm trong lòng
người đọc: (Trích thơ)

TB

1. Khái quát chung:

- Trường ca “Mặt đường khát vọng”:

+ Viết năm 1971, in lần đầu năm 1974, gồm 9 chương, được Nguyễn Khoa Điềm viết tại
chiến khu Bình Trị - Thiên dưới những đợt oanh tạc của máy bay B52 của Đế quốc Mĩ. Mau đề +
Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất
nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh hòa nhập với cuộc chiến đấu chống đế
quốc Mỹ xâm lược.

1
- “Đất nước” là chương V của bản trường ca, được xem là
chương hay nhất, thể hiện chủ đề với tư tưởng đất nước của nhân dân”

- Tư tưởng đất nước của nhân dân:

+ Là kết quả của quá trình phát triển lâu dài trong lịch sử yêu nước của dân tộc. Lý Thường
Kiệt nhìn thấy đất nước gắn liền với ngai vàng của vua chúa trong “Nam quốc sơn hà, Trần Quốc
Tuấn gắn với thái ấp, bổng lộc vua ban trong “Hịch tướng sĩ, Nguyễn Trãi phát hiện ra công sức
của nhân dân nhưng vẫn tổng kết lịch sử bằng vai trò của các triều đại trong “Bình Ngô đại cáo”...
Như thế, trong văn học trung đại Việt Nam, tư tưởng trung quân ái quốc là đặc điểm nổi bật, chi
phối quan niệm về lòng yêu nước.

+ Chỉ đến với văn học hiện đại, tư tưởng, đất nước của nhân dân mới được nhận thức triệt
để. Trong “Hải ngoại huyết thư”, Phan Bội Châu viết: “Dân là dân nước, nước là nước dân”. Đặc
biệt, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ, nhiều nhà thơ đã bày tỏ trải nghiệm của mình
về tư tưởng đất nước của nhân dân như: “Tre Việt Nam” của Nguyễn Duy, “Đất nước” của Nguyễn
Đình Thi.

+ Hiểu một cách cơ bản, tư tưởng đất nước của nhân dân là sự khẳng định nhân dân là chủ
nhân đích thực của đất nước. Nhân dân có trách nhiệm xây dựng và bảo vệ đất nước nên cũng là
người được hưởng thụ thành quả tốt đẹp, ngọt ngào từ sự nghiệp đó.

- Đoạn thơ được phân tích:

+ Có vị trí khai mở cảm xúc trong chương “Đất nước”.

+ Đoạn thơ thể hiện chiều sâu cảm xúc mang tính triết lí của Nguyễn Khoa Điếm khi nhà
thơ lí giải cội nguồn của đất nước với câu hỏi: Đất nước có từ bao giờ? Từ đó, nhà thơ khẳng định
đất nước có ở trong ta, quanh ta, là những gì bình dị, gần gũi trong cuộc sống hằng ngày.

2. Phân tích đoạn thơ:

a. 4 câu thơ đầu: Cảm nghĩ về sự ra đời và lớn lên của đất nước:

- Câu thơ đầu như một lời tâm tình thật tự nhiên:

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

+ Trong câu thơ, nhân vật trữ tình xưng “ta” đã mở ra một giọng thơ trò chuyện đằm thắm,
thân tình giữa người con trai và người con gái khi nghĩ về đất nước. Nguyễn Khoa Điềm từng thổ
lộ: “Tôi viết về những điều giản dị của chúng tôi, về tuổi trẻ, về bạn bè. Nên nhân vật trữ tình của

2
tôi là “anh” và “em”. Đó là những lời đồn thắm của người con trai và
người con gái. Chúng tôi mỗi người có một số phận khác nhau nhưng đều gắn kết trong số phận
chung của đất nước.”

+ Trong câu thơ nói riêng và cả chương “Đất Nước” nói chung, hai chữ “Đất Nước” và
“Nhân Dân” được viết hoa, nó như một mĩ từ thể hiện tình yêu, niềm kính trọng của nhà thơ dành
cho đất nước, đồng thời tạo nên những rung cảm mãnh liệt cho người đọc.

+ Ở câu thơ này cũng như trong 4 câu thơ mở đầu, ta nhận ra yếu tố chính luận rất rõ. Đó là
những khái niệm thời gian được xác định qua các cụm từ: “khi ta lớn lên...Đất Nước bắt đầu. Đất
Nước lớn lên...” tiếp nối nhau như để trả lời cho câu hỏi: Đất Nước có từ bao giờ? Trong đó cụm
từ “khi ta lớn lên – Đất Nước lớn lên như một vận động song hành không cùng một thời điểm. Bởi
lẽ khi ta lớn lên thì đất nước đã có rồi, nghĩa là đất nước trở thành một giá trị vật chất, giá trị tinh
thần lâu bền được truyền nối qua nhiều thế hệ, qua không gian và thời gian.

- Câu thơ thứ hai, Nguyễn Khoa Điềm suy ngẫm về vấn đề: Đất Nước có ở đâu?

Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể.

+ Câu thơ khắc họa hình ảnh Đất Nước được lưu truyền qua những câu chuyện mẹ thường
hay kể. Cụm từ "ngày xửa ngày xưa” gợi đến những câu chuyện cổ tích, nơi lưu giữ vẻ đẹp tâm
hồn, truyền thống văn hóa của người Việt. Nghĩa là hình ảnh đất nước được lưu truyền qua các thế
hệ bằng con đường tâm thức: bà kể cho mẹ, mẹ kể cho con. Đất Nước tươi đẹp neo đậu vào tâm
trí của mỗi con người qua những câu chuyện cổ tích hap dan,

+ Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” còn khắc họa hình ảnh “Đất Nước” đăng đăng trong thời
gian. Đây không phải là thời gian cụ thể, chính xác gắn với những triều đại mà nó là thời gian
huyền diệu của những, rất đỗi mơ hồ trong trí tưởng tượng của trẻ thơ. Vì không xác định nên ý
thơ giúp ta cảm nhận thai thìa ve dolls thời gian trường tồn, vĩnh hằng của đất nước.

+ Đất Nước hiện hữu với hình ảnh của mẹ - đấng sinh thành. Đó là cảm xúc tự hào mà sâu
sắc, thanh kính mà gần gũi. Đọc câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm, ta càng hiểu vì sao trong những
ngày chống Mĩ ác liệt, Tố Hữu lại viết:

Đất Nước của những bà mẹ mặc áo thay vai

Bền bỉ nuôi chồng nuôi con chiến đấu

- Tiếp đó, NKD suy ngẫm về thời điểm bắt đầu của đất nước:

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn.

3
+ Câu thơ gợi về sự tích trầu cau, không chỉ nói về truyền thống
văn hóa của người Việt với tục ăn trầu nhuộm răng, có miếng trầu tiếp khách, có miếng trầu giao
duyên, có miếng trầu đo phẩm hạnh của con người... mà còn hàm ý ca ngợi truyền thống nghĩa
tình của con người Việt Nam. Màu trầu đỏ như tấm lòng son thủy chung, ân nghĩa.

+Như vậy, tác giả không chỉ khẳng định đất nước bắt đầu với lãnh thổ, bờ cõi “Sông núi
nước Nam vua Nam ở” (Lý Thường Kiệt) mà quan trọng đất nước bắt đầu với những điều cao đẹp
hơn, những giá trị tinh thần, những phong tục tập quán có từ ngàn đời. Người Việt Nam tự hào với
nền văn minh sông Hồng, sông Mã. Điều này trước đây khi đối thoại với các thế lực phong kiến
phương Bắc, trong “Bình ngô đại cáo” Nguyễn Trãi cũng tự hào mà viết:

Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác

- Câu thơ thứ tư, nhà thơ suy ngẫm về quá trình lớn lên của Đất Nước

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.

+ Đất Nước lớn lên trong quá trình dựng nước và giữ nước của nhân dân, trường tồn, bền bỉ
qua những cuộc kháng chiến chống xâm lăng. Câu thơ nhắc đến truyền thống Thánh Gióng đánh
giặc n thể hiện niềm tự hào về một đất nước anh hùng “Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm Có nội
thù thì vùng lên đánh bại”. Đó là đất nước của những con người “tuốt gươm không chịu sống
quỳ”.

+ Cái vươn vai của Thánh Gióng để trở thành Phù Đổng Thiên Vương phải chăng trở thành
biểu tượng cho sự lớn lên lớn mạnh cùng đất nước qua các thời đại lịch sử. Kết tụ lại ở thời đại
CM của thế kỉ XX:

Ta như thuở xưa thần Phù Đổng

Vụt đứng lên đánh đuổi giặc Ân

Sức nhân dân khỏe như ngựa sắt

Chí căm thù rèn thép làm roi

Lửa chiến đấu ta phun vào mặt

Lũ sát nhân cướp nước hại nòi.

4
b. 5 câu sau: Đất nước hiện hữu trong đời sống sinh hoạt,
trong những vật dụng giản dị gắn bó với con người. Đất nước có ở trong ta và quanh ta.

- Gương mặt ĐN được tác giả tái hiện từ những gì gần gũi trong cuộc sống hàng ngày của
nhân dân. Có cái gì thật cho tiết, tương tận trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm.

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng, hai sương, xay, giã, giần, sàng

+ ĐN hình thành từ những thuần phong mỹ tục, qua cách bới tóc của mẹ tóc ung thì bới sau
đầu” Câu thơ gợi vẻ đẹp thuần Việt không bao giờ bị ngoại lai dù phải trải qua hàng nghìn năm
Bắc thuộc. Vẻ đẹp này cũng từng được ngợi ca trong ca dao xưa:

Tóc ngang lưng vừa chừng em búi,

Để chi dài bối rối lòng anh.

+ ĐN không chỉ hiện thân qua những thuần phong mỹ tục mà còn thể hiện ở lối sống nghĩa
tình, thủy chung của con người dân tộc: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Câu thơ
mang bóng dáng của một bài ca dao cố:

Tay bưng chén muối đĩa gừng,

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.

Chất liệu của câu ca dao đi vào lời thơ nhưng được NKĐ sáng tạo theo lối tư duy thơ hiện
đại. Trong gian khổ, đắng cay, tình mẹ cha ngày càng gắn bó nồng nàn thuỷ chung. Đó là gốc rễ,
cội nguồn đạo lý trong đời sống tình cảm của con người dân tộc,

+ Theo tiến trình phát triển, đất nước được hình thành từ nền văn minh nông nghiệp, từ việc
xây dựng mái nhà che mưa che nắng đến cuộc sống lao động vất vả, thể hiện phẩm chất cần cù,
chịu thương chịu khó của con người đất Việt: “Cải kèo, cái cột thành tên/Hạt gạo phải một nắng,
hai sương, xay, giã, giần, sàng”. Để làm nên một hạt gạo ta ăn mỗi ngày, người ta phải trải qua
bao khó khăn, vất vả “một nắng hai sương”, trải qua những công đoạn “xay, giã, gần, sàng” mới
cho ta thành quả lao động. Ý thơ của NKĐ gợi cho ta nhớ đến câu ca dao mẹ ru thuở nào:

Cày đồng đang buổi ban trưa,

Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.

Ai ơi bưng bát cơm đầy,

5
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.

- Câu thơ cuối như một lời kết luận: Đất nước có từ ngày đó. Cụm từ “ngày đó ” mang ý
nghĩa phiếm chỉ, một lần nữa NKĐ khẳng định đất nước có từ xa xưa và tồn tại đến muôn đời.

3. Nhận xét:

a. Nghệ thuật

- Thể thơ tự do, biến đổi linh hoạt về nhịp điệu; có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất chính
luận và trữ tình, suy tư và cảm xúc.

- Vận dụng sáng tạo chất liệu văn hóa dân gian với tư duy thơ hiện đại.

+ Chất liệu dân gian được vận dụng rất đa dạng và sáng tạo: Có phong tục, lối sống, tập quán
sinh hoạt, những vật dụng quen thuộc: tóc bới sau đầu, cái kèo cái cột, hạt gạo xay giã dần sàng,
hòn than, cái cúi...; Có câu ca dao, tục ngữ "chén muối, đĩa gừng..."; Có truyền thuyết, truyện cổ
tích như Trầu cau, Thánh Gióng.. Cách vận dụng của tác giả thường là chỉ gợi ra bằng một vài chữ
của câu ca dao hay một hình ảnh, một chi tiết trong truyền thuyết, cổ tích.

+ Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng đậm đặc đã tạo nên một không gian
nghệ thuật riêng của đoạn trích vừa bình dị gần gũi, hiện thực lại vừa giàu tưởng tượng bay bổng,
mộng mơ, mới mẻ qua cách cảm nhận bằng tư duy thơ hiện đại. Đó chính là nét đặc sắc thẩm mỹ
thống nhất với tư tưởng "Đất Nước của nhân dân. Đất Nước của ca dao thần thoại".

- Hình ảnh thơ gần gũi bình dị, ngôn ngữ mộc mạc dễ đi vào lòng người đã tạo cho người
đọc cảm nhận đất Tiớc thật gần gũi, có ở trong ta va quanh ta. Giọng điệu đang dạng: thủ thỉ tâm
sự, hào hùng, sâu lắng triết lý...

b. Nội dung:

- Đoạn thơ thể hiện cái nhìn mới mẻ và sâu sắc về ĐN. Nếu trong văn học cổ thường dùng
những hình ảnh ước lệ cao sang như “đế cư thiên thư” (Nam quốc sơn hà Nguyễn Đình Chiểu
trong bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” cũng kỳ vĩ hóa ĐN qua hình ảnh “Một mối sa thư đồ sộ- Hai
vầng nhật nguyệt chói lòa”, thì qua đoạn thơ, với NKĐ, nhà thơ đã bình dị hóa ĐN để ĐN hóa
thân vào cổ tích, ca dao, vào đời sống hằng ngày. Nhà thơ đã đưa hình ảnh ĐN từ ngai vàng của
vua chúa xuống miếng trầu của bà, mái tóc của mẹ, hiện hữu ở cái kèo, cái cột trong ngôi nhà ta
ở, hạt gạo ta ăn mỗi ngày. ĐN trở thành bầu khí quyển bao bọc cuộc sống quanh ta, vừa gần gũi
vừa thiêng liêng.

6
- Qua đoạn thơ, NKĐ cho người đọc thấy Đất Nước trường tồn
ở trong con người, truyền qua các thế hệ, trên chiều rộng của không gian, chiều dài của lịch sử,
trong các bình diện văn hóa, phong tục, tâm hồn, tinh thần, truyền thống của dân tộc, trong đời
sống hàng ngày và trong những biến cố lịch sử trong quá khứ và hiện tại. Đoạn thơ đã thể hiện
chiều sâu tư tưởng đất nước của nhân dân. Đây là đoạn thơ hay, thể hiện cách cảm nhận mới mẻ
và những khám phá độc đáo, cái nhìn toàn diện, nhiều chiều của nhà thơ về đất nước. Nguyễn
Khoa Điềm đã góp phần làm phong phú thêm cho một đề tài quen thuộc của thơ ca.

- Đoạn thơ nâng cao tình yêu và ý thức trách nhiệm với đất nước của mỗi người.

Đề 2: Phân tích đoạn:


Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi Rồng ở

Nước là nơi em tắm Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đất Nước là nơi ta hò hẹn Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm Những ai đã khuất

Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” Những ai bây giờ

Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi” Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Thời gian đằng đẵng Gánh vác phần người đi trước để lại

Không gian mênh mông Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ Hằng năm ăn đâu làm đâu

Đất là nơi Chim về Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ

A. MB

B. TB

1. Khái quát chung.

- Trường ca “Mặt đường khát vọng” (...)

- “Đất nước” là chương V của bản trường ca (...)

- Tư tưởng đất nước của nhân dân (...)

- Đoạn thơ được phân tích:

+ Nằm sau 9 câu thơ mở đầu của chương Đất nước.

+ Trước đó, nhà thơ suy tư về cội nguồn của đất nước, trả lời cho câu hỏi đất nước có từ bao
giờ?

7
+ Đoạn thơ này nhà thơ đi vào lí giải cho câu hỏi: Đất Nước là
gì? Với NKĐ, đất nước hiện hữu qua khong gian địa lí, thời gian lịch sử, chiều sâu văn hóa, nguồn
cội thiêng liêng, tôn kính của dân tộc.

2. Cảm nhận về đoạn thơ

a. Đất Nước là sự kết hợp tuyệt diệu của hai thực thể ĐẤT VÀ NƯỚC tạo nên linh hồn
không gian đất nước.

- Trước hết, Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận không gian đất nước qua một “trò chơi chữ” khá
thú vị. Trên hành trình tìm tới một định nghĩa về đất nước, tác giả đã mượn phép biến ảo của thơ
để chơi trò tách chữ: “Đất là...Nước là...”, rồi lại ghép nhập lại “Đất Nước là...”. Biện pháp sử
dụng ngôn ngữ thơ tài hoa này đã làm nên kiểu câu định nghĩa thật bất ngờ.

Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

+ Khi Đất Nước được tách ra thành hai thành tố nó gắn với kỉ niệm đáng yêu, đáng nhớ, thân
thuộc của một đời người. Cách diễn giải ấy giúp ta hình dung cụ thể: Đất Nước là nơi ta lớn lên,
học tập và sinh hoạt.

+ Tách thành tố ĐẤT - để chỉ con đường hằng ngày anh tới trường đã khẳng định đất nước
là chiếc nôi nuôi dưỡng con người lớn khôn, nơi lưu giữ kỉ niệm từ thuở thơ ấu. Đất nước và mái
trường quê hương không chỉ nuôi lớn mỗi người về phương diện thể xác mà quan trọng hơn là đời
sống tinh thần, bồi đắp hành trang tri thức cho mỗi chúng ta để ta tự tin làm chủ cuộc sống.

+ Tách thành tố NƯỚC – Là dòng sông nơi em tắm mát, dòng sông chở nặng phù sa làm tốt
xanh những cánh đồng, bãi mía, nương dâu, gợi hình ảnh cuộc sống sinh hoạt bình dị, đời thường,
hình ảnh con người gắn kết chặt chẽ với quê hương, xứ sở.

- Khi tách ra thì Đất Nước gắn với kỷ niệm riêng tư của mỗi người còn khi gộp lại Đất Nước
lại sống trong 1 cái ta chung. Với tư duy thơ hiện đại được chắp cánh cảm xúc bằng chất liệu dân
gian còn mở ra một không gian bay bông, mộng mơ của đất nước kết thành những câu thơ thật
đẹp.

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

+ Trong câu thơ nói riêng và cả chương “Đất Nước” nói chung, hai chữ “Đất Nước” và
“Nhân Dân” được viết hoa, nó như một mĩ từ thể hiện tình yêu, niềm kính trọng của nhà thơ dành
cho đất nước, đồng thời tạo nên những rung cảm mãnh liệt cho người đọc.

8
+ Đất Nước hòa nhập vào một, trở thành không gian hẹn hò, là
chiếc nôi nuôi dưỡng và minh chứng cho tình yêu đôi lứa. Nơi trai gái hẹn hò gợi nên những không
gian làng quê thanh bình yên ả: mái đình, hàng cau, lũy tre làng, chiếc cầu tre nho nhỏ... tất cả đều
đẹp, đều hài hòa và nồng đượm làm sao.

+ Và khi hai đứa yêu nhau thì Đất Nước như cũng sống trong nỗi nhớ thầm của hai đứa “Đất
Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. Một chiếc khăn tương tư bay ngang qua
nỗi nhớ, đậu vào lời định nghĩa đất - nước một nỗi niềm khắc khoải của con người, có khả năng
đánh thức ở người đọc thức nhận đất nước chính là nơi ấp ủ “sự sống muôn đời của con người đất
Việt thấm đượm nghĩa tình. Lời thơ như gọi nhạc điệu đầy mê hoặc của cao dao chọng về.

Khăn thương nhớ ai

Khăn rơi xuống đất

Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt lên vai

Khăn thương nhớ ai

Khăn chùi nước mắt.

- Nhìn chung, nhà thơ định nghĩa về đất nước mà dưng dưng kỉ niệm, hồi hộp những tâm
tình. Sự vỡ tách và ghép nhập của hai âm tiết Đất-Nước gợi một chiều sâu tự tưởng: đất nước là
sự gắn bó giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân và cộng đồng, to lớn và nhỏ bé, hiện thực mà
huyền thoại. Đất nước là không gian sinh tồn hết sức gần gũi, thân quen của mỗi người.

- Vẻ đẹp quê hương đất nước được tái hiện trong những lời ca dao toát lên lòng tự hào về
non sông gấm vóc:

Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”

Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”

+ Hai câu thơ khắc hoạ vẻ đẹp trù phú, hùng vĩ của quê hương đất nước. Đó là niềm tự hào,
kiêu hãnh về một đất nước có rừng vàng, biển bạc. Có thể hiểu đó là núi sông, bờ cõi, là Bắc –
Trung – Nam một dải. Biết bao thế hệ nối tiếp nhau xây đắp đất nước từ dãy Trường Sơn hùng vĩ
- "Nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” cho đến biến bờ Thái Bình Dương vỗ sóng
mênh mang - nơi "Con cá ngư ông móng nước biển khơi". Đó nơi dân mình đoàn tụ, phát triển
giống nòi và làm ăn sinh sống làm nên non sông gấm vóc Việt Nam.

+ Có thể nói, niềm tự hào khi viết về vẻ đẹp hùng vĩ, trù phú của quê hương, xứ sở là một
xúc cảm thường gặp trong thơ ca hiện đại. Nguyễn Đình Thi trong bài thơ Đất nước có viết:

9
Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

b. Đất nước gắn với chiều dài lịch sử và chiều sâu văn hóa.

- Nhà thơ cảm nhận Đất Nước không chỉ gắn liền với biên cương, lãnh thổ, địa lý mà Đất
Nước còn gắn với lịch sử, đất nước được cảm nhận bằng chiều sâu “thời gian đằng đẵng”.

Thời gian đằng đẵng

Không gian mênh mông

Hai chữ “đằng đẵng có sức khái quát về chiều dài lịch sử 4000 năm của đất nước với bề dày
văn hoá, văn hiện lâu đời. Đi cùng với “Thời gian đằng đẵng” là “Không gian mênh mông”. Hai
chữ “mênh mông” gợi không gian đất nước rộng lớn.

- Thời gian của đất nước trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm còn chật ních những câu
chuyện truyền thuyết: Chim về, Rồng ở, Lạc Long Quân và Âu Cơ.

Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ

Đất là nơi chim về

Nước là nơi rồng ở

Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

Hướng về nguồn cội của người Việt với cha rồng, mẹ tiên, con cháu vua Hùng, NKĐ muốn
cắt nghĩa lịch sử hình thành đất nước. Chính cách cảm nhận này đã làm cho vẻ đẹp đất nước thấm
đẫm tính huyền thoại, lấp lánh niềm tự hào dân tộc, đánh thức tình cảm cội nguồn sâu sắc trong
tâm hồn con người Việt Nam. Những câu thơ của NKĐ thật sâu sắc mà thấm thía.

- Vì có chung nguồn cội nên dẫu trải qua đằng đẵng thời gian, cho đến hôm nay vẫn thăm
thẳm trong nỗi nhớ của mỗi người dân Việt truyền thống uống nước nhớ nguồn, cúi đầu nhớ ngày
giỗ Tổ, tiếp nối truyền thống con Lạc cháu Hồng gìn giữ non sông đất nước.

Những ai đã khuất

….

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ

+ Đất nước luôn tiềm tằng mối quan hệ giữa các thế hệ trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Những ai đã khuất / Những ai bây giờ. Những ai đã khuất là những người trong quá khứ - những
con người sống giản dị, chết bình tâm, những con người đã có công dựng nước và phát triển đất

10
nước. Những cuộc đời đã hóa núi sông ta. Những ai bây giờ là những
người trong hiện tại, đang sống và chiến đấu. Tất cả đều ý thức sâu sắc về sứ mệnh: Yêu nhau và
sinh con đẻ cái bảo tồn nòi giống Lạc Hồng, để góp vào một nhiệm vụ to lớn, thiêng liêng Gánh
vác phần người đi trước để lại; Làm nên đất nước muôn đời.

+ Hai chữ cái đầu thể hiện một tình cảm sâu nặng. Ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm,
người Việt có truyền thống giỗ tổ vua Hùng để nhớ ơn các vị vua đầu tiên đã có công xây dựng
đất nước. Hai chữ “cúi đầu” chất chứa sự thành kính, ngưỡng vọng.

+ Chữ “tổ”được hiểu là cội nguồn, nói rộng ra là đất nước, quê hương, giống nòi, nói hẹp là
gia đình, dòng họ, ngành nghề. Nhìn chung, đoạn thơ là sự suy ngẫm sâu sắc về đạo lý uống nước
nhớ nguồn, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Nam.

3. Đánh giá

a. Nghệ thuật

- Thể thơ tự do, biến đổi linh hoạt về nhịp điệu; có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất chính
luận và trữ tình, suy tư và cảm xúc.

- Nhà thơ đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật chiết tự: Đất nước là một từ ghép bao gồm hai
thành tố Đất và Nước, lúc được tách ra để khơi sâu, lúc hợp lại tạo sự thống nhất gắn bó. Bằng
cách đó, NKĐ đã đưa đất nước về với những gì hết sức cụ thể trong đời sống sinh hoạt hàng ngày
của mỗi chúng ta.

- Đoạn thơ có cấu trúc đặc biệt: 13 câu chia làm 3 phần, mỗi phần đều lặp lại cách tổ chức
dòng thơ đầy dụng ý: Đất - Nước hợp thành Đất Nước. Đất gắn với anh, nước gắn với em. Khi
hợp thành Đất Nước nó lại trở thành chỉnh thể gắn bó bền chặt. Theo đó, ta cũng thấy có sự chuyển
hóa tự nhiên Anh - Em thành Ta. Đặc biệt cách sử dụng từ ngữ: anh - em - ta - dân mình khiến
người đọc có thể hình dung rất cụ thể sự phát triển, sinh sôi của dân tộc gắn liền với đó là truyền
thống đoàn kết, một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.

- Đoạn thơ đậm đà màu sắc dân gian: vận dụng phong phú chất liệu văn hoá và văn học dân
gian.

- Đất Nước của nhân dân trở thành hình tượng trung tâm, gần gũi, giàu sức gợi cảm. (tham
khảo ở đề 9 câu đâu)

b. Nội dung

11
- Qua đoạn thơ, NKD cho người đọc thấy Đất Nước trường tồn
ở trong con người, truyền qua các thế hệ, trên chiều rộng của không gian, chiều dài của lịch sử,
trong các bình diện văn hóa, phong tục, tâm hồn, tinh thần, truyền thống của dân tộc, trong đời
sống hàng ngày và trong những biến cố lịch sử trong quá khứ và hiện tại. Đoạn thơ đã thể hiện
chiều sâu tư tưởng đất nước của nhân dân. Đây là đoạn thơ hay, thể hiện cách cảm nhận mới mẻ
và những khám phá độc đáo, cái nhìn toàn diện, nhiều chiều của nhà thơ về đất nước. Nguyễn
Khoa Điềm, góp phần làm phong phú thêm cho một đề tài quen thuộc của thơ ca.

- Đoạn thơ nâng cao tình yêu và ý thức trách nhiệm với đất nước của mỗi người.

Đề 3: Phân tích bình giảng đoạn thơ sau:


Trong anh và em hôm nay Mai này con ta lớn lên

Đều có một phần Đất Nước Con sẽ mang đất nước đi xa

Khi hai đứa cầm tay Đến những tháng ngày mơ mộng

Đất Nước trong chúng mình hài hoà nồng thắm Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

Khi chúng ta cầm tay mọi người Phải biết gắn bó san sẻ

Đất nước vẹn tròn, to lớn Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời...

A. MB (Theo đề tài)

Cách 1: Đất Nước là một đề tài muôn thuở của thơ ca và nghệ thuật. Hình hài đất nước cũng
được tạc thành nhiều vẻ đẹp khác nhau từ những góc nhìn khác nhau. Tố Hữu thấy Đất Nước trong
bóng dáng người anh hùng, người Mẹ. Chế Lan Viên “tìm hình của nước” trong vị cha già Hồ Chí
Minh... còn Nguyễn Khoa Điềm, một nhà thơ chống Mỹ lại tìm vẻ đẹp của Đất Nước trong chiều
sâu văn hóa, phong tục mang đậm dấu ấn tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”. Trong đoạn trích
“Đất nước” – trích từ trường ca “Mặt đường khát vọng” của NKĐ, những câu thơ sau để lại nhiều
ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc: (Trích thơ)

Cách 2: Hiếm có một giai đoạn văn học nào mà hình ảnh Tổ quốc – Dân tộc - Đất nước lại
tập trung cao độ như giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tố Hữu với “Ôi Việt Nam! Yêu
suốt một đời/ Nay mới được ôm Người trọn vẹn, Người ơi!” (Vui thế hôm nay), Chế Lan Viên với
“Sao chiến thắng”, Lê Anh Xuân từ hình tượng anh giải phóng quân đã tạo nên “Dáng đứng Việt
Nam”. Và Nguyễn Khoa Điềm gắn liền với Tổ quốc qua “Đất Nước” – một chương thơ trong
trường ca “Mặt đường khát vọng”. Chương thơ đã thể hiện một cách sâu sắc vẻ đẹp của Đất Nước
và tư tưởng lớn của thời đại “Đất nước của nhân dân”. Trong đoạn trích “Đất nước”, những câu
thơ sau để lại nhiều ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc: (Trích thơ)

12
B. TB

1. Khái quát chung.

- Trong dàn hợp xướng thơ trẻ thời chống Mĩ, bên cạnh một Phạm Tiến Duật trẻ trung, sôi
nổi, phong trần với những câu thơ lấm bụi Trường Sơn; một Nguyễn Duy mộc mạc, đằm thắm,
ngọt ngào với những âm điệu lục bát của ca dao vọng về là một Nguyễn Khoa Điềm tài hoa mà
sâu sắc, truyền thống mà hiện đại. Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất trữ tình - chính luận, đậm
chất dân gian, chín cả trong cảm xúc và suy tư của người trí thức, của một người lính, của một nhà
thơ khi viết về đất nước và con người Việt Nam.

- Trường ca “Mặt đường khát vọng” (...)

- “Đất nước” là chương V của bản trường ca (...)

- Đoạn thơ được phân tích:

+ Nằm ở phần đầu của chương Đất nước.

+ Trước đó, nhà thơ suy tư về cội nguồn của đất nước, trả lời cho câu hỏi đất nước có từ bao
giờ?

+ Đoạn thơ này nhà thơ đi vào lý giải cho câu hỏi: Đất Nước là gì? Với NKĐ, đất nước được
thể hiện qua mối quan hệ riêng - chung, cá nhân – cộng đồng; qua nhiều thế hệ tiếp nối. Nguyễn
Khoa Điềm đã dẫn dắt độc giả trở về với hiện thực trực tiếp của cuộc kháng chiến chống Mỹ, nói
lên tiếng nói đầy trách nhiệm của cả một thế hệ chống Mỹ thật sự trưởng thành trong nhận thức và
tình cảm.

2. Phân tích đoạn thơ

a. Trước hết là những nhận thức sâu sắc của “anh” và “em” về đất nước.

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước.

- Trong chương V trường ca Mặt đường khát vọng.Khai từ Đất Nước và Nhân Dân đều được
viết hoa, trở thành “mỹ tự” gợi lên không khí cao cả, thiêng liêng và biểu lộ cao độ cảm xúc yêu
mến, tự hào về Đất Nước và Nhân Dân.

- Lời thơ xuất hiện hai nhân vật trữ tình “anh” và “em” với giọng điệu trữ tình sâu lắng, thiết
tha (...)

- Anh và em đã nhận thức về đất nước thật sâu sắc: mỗi người là một phần nhỏ bé gắn kết
với đất nước. Chỉ “một phần” nhỏ bé thôi, nhưng xiết bao gần gũi, gắn bó, yêu thương và tự hào.

13
Từ khái niệm, ý niệm “môi công dân là một phân tử của cộng đồng,
của đất nước được diễn đạt một cách “miền hóa” qua tiếng nói tâm tình của lứa đôi, của anh và
em”.

- Vì sao Đất Nước lại là “một phần” trong anh và em? Vì Đất Nước là nơi ta sinh ra, nơi ta
lớn lên, sinh hoạt và học tập. Đất nước có ở trong ta và quanh ta. Đất nước là hơi thở của ta, là
máu thịt thiêng liêng của ta. Không ai sống trong đất nước của mình mà lại không được thừa hưởng
những giá trị vật chất và tinh thần: một miếng ăn thôn dã cũng là máu thịt “Anh đi anh nhớ quê
nhà / Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương” của đất. nước. Một tiếng nói, một hơi thở của ta
cũng là đất nước:

Mỗi sớm dậy nghe bốn bề thân thiết

Người qua đường chung tiếng việt cùng tôi

Như vị muối chung lòng biển mặn

Như dòng sông thương mến chảy muôn đời.

(Lưu Quang Vũ)

- Thế nên, trong anh và em luôn có một phần đất nước là như vậy. Đất nước là một phần
không thể thiếu trong hai chúng ta. Đây là cách nói cho thấy niềm tự hào của tuổi trẻ về đất nước.
Đất nước trở thành máu thịt thiêng liêng trong mỗi con người.

b. Đất nước hiện hữu kỳ diệu trong tình yêu đôi lứa.

Khi hai đứa cầm tay

Đất nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm.

- Ở phần thơ trước, Nguyễn Khoa Điềm đã cảm nhận đất nước trong hình bóng của tình yêu
lứa đôi, Đất nước trở thành nơi hò hẹn”, nơi nuôi dưỡng nỗi nhớ thầm”:

“Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”.

- Đến hai câu thơ này, sự suy ngẫm về hình ảnh đất nước gắn với tình yêu lứa đôi được nâng
lên thành một tầm cao mới. Hình ảnh hai đứa cầm tay là sự giao duyên đăng thắm của một tình
yêu tròn đầy viên mãn. Và “khi hai đứa cầm tay thì một mais ấm, một tổ ấm gia đình đã được xây
dựng. Gia đình là một phần của đất nước. Tình yêu lứa đôi làm cho vẻ đẹp của đất nước “hài hòa
nồng thắm” bởi lẽ chỉ có tình yêu lứa đôi và hạnh phúc gia đình mới tạo nên nguồn cội của sự sống
đất nước, tạo nên các thế hệ nối tiếp, làm cho đất nước trường tồn bất diệt.

14
- Ý thơ mang tư tưởng nhân văn cao đẹp của con người Việt
Nam thời chống Mỹ, khi tình yêu lứa đôi hòa quyện với tình yêu đất nước. Đọc hai câu thơ của
Nguyễn Khoa Điềm, ta mới hiểu lời giãi bày của Nguyễn Đình Thi:

Anh yêu em như anh yêu đất nước

Vất vả đau thương trong sáng vô ngần.

c. Đất nước còn hiện hữu trong mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng:

Khi chúng ta cầm tay mọi người

Đất nước vẹn trong to lớn.

- Nói về cội nguồn của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm rất tự hào về sự tích trăm trứng. Người
Việt có cha Rồng, mẹ Tiên, có dòng máu lạc hồng, biết sống nhân nghĩa mà anh hùng: “Lạc Long
Quân...bọc trứng.”

- Đến ý thơ này, Nguyễn Khoa Điềm đã nhấn mạnh tình cảm con người có chung nguồn cội.
Từ thế giới của anh và em, họ vượt qua cái tôi cá nhân bé nhỏ để đến với cái ta chung “Từ chân
trời của một người đến chân trời của mọi người” (Paul Eluard). Hình ảnh “Chúng ta cầm tay mọi
người.” trở thành biểu tượng cho tinh thần đoàn kết cộng đồng để “đất nước vẹn tròn to lớn.” Hai
chữ “vẹn tròn” là vẹn tròn về nghĩa tình, hai chữ “to lớn” gợi sức mạnh của khối đại đoàn kết để
tạo nên bức thành đồng của Tổ Quốc. Từ “hài hòa, nồng thắm” đến “vẹn tròn, to lớn” là cả một
bước phát triển và đi lên của lịch sử dân tộc và đất nước. Câu thơ diễn tả tình đồng bào thật ấm áp,
thiêng liêng, gợi cho người đọc nhớ tới lời nhắc nhở sâu sắc của người xưa:

Nhiễu điều phủ lấy giá gương, .

Người trong một nước phải thương nhau cùng.

- Chính vì ý thức cộng đồng như vậy nên trường ca “MĐKV” đã thức tỉnh tuổi trẻ đô thị
miền Nam xuống đường đấu tranh và “vòng tay lớn mãi để nối sơn hà”, cứ thế mà liền một dải
Bắc – Trung - Nam. Nói như nhà văn Chu Lai: Tuổi trẻ của chúng tôi đã xuống đường chiếm lĩnh
tâm cao của mái nhà, của nhịp cầu, của quả đồi...đem cả lương tâm và nhân phẩm bắn tỏa lên
bầu trời đầy giặc giã”.

Nhận xét: Nhìn chung, 6 câu thơ đầu được viết theo hình thức đối xứng về ngôn từ và cấu
trúc ngữ pháp, có tác dụng làm cho ý thơ liền mạch, tình yêu lứa đôi, tinh thần đoàn kết dân tộc,
tình yêu quê hương đất nước như được hòa quyện trong tính cách và tâm hồn của con người Việt
Nam.

d. Các thế hệ mai sau trong mối quan hệ với đất nước:

15
Mai này con ta lớn lên

Con sẽ mang Đất Nước đi xa

Đến những tháng ngày mơ mộng

- Từ hiện tại của cuộc chiến đấu ác liệt, khi mà “bom napan dội lửa mái nhà”, khi mà hàng
trăm, hàng nghìn người phải sống dưới địa đạo, trong mưa bom bão đạn họ vẫn yêu nhau, vẫn ước
mơ và trông chờ phía trước với niềm tin quyết thắng.

- Ba câu thơ khắc họa hình ảnh đất nước được tiếp nối giữa các thế hệ. Có 3 chiều thời gian
được hiện lên trong đoạn thơ: hình ảnh của bà, cha, mẹ ở ý thơ trước nói về quá khứ, hình ảnh của
anh và em là hiện tại, “con ta lớn lên” là tương lai.

- Những Nguyễn Thi, Anh Đức, Lê Anh Xuân, Sơn Nam,... đã tạo nên giọng điệu Nam Bộ
hấp dẫn trong thơ ca và truyện của mình. Ngay Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Hải cũng có
một giọng điệu “rất Huế”, dễ thương dịu ngọt. Hai tiếng “mai này” là cách nói quen thuộc của bà
con xứ Huế. Hai chữ “mai này” khắc họa hình ảnh đất nước trong tương lai mà “anh” và “em”
nghĩ về con cháu của mình với trách nhiệm “gánh vác phần người đi trước để lại” bằng 1 kỳ vọng
sáng ngời niềm tin: thế hệ con cháu sẽ xây dựng đất nước ta "Vạn cổ thử giang sơn” (Trần Quang
Khải), “To đẹp hơn, đàng hoàng hơn” (Hồ Chí Minh).

- Hai chữ “lớn lên” thể hiện niềm tin vào sức mạnh, trí tuệ, bản lĩnh của con cháu- Những
lớp người chủ nhân trong hành trình đi tới ngày mai của đất nước.

- Cụm từ “đi xa”, “những tháng ngày mơ mộng” gợi một tương lai tươi đẹp của đất nước,
trù phú và hùng mạnh. Đây là điều mà cả “anh” và “em” hay mỗi con người đất Việt đều mong
chờ. Với cảm xúc thơ bay bông, hình ảnh thơ lãng mạn, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa hình ảnh đất
nước đến bến bờ của sự trường tồn, bất diệt.

e. Trách nhiệm, tâm nguyện của mỗi người trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước:

Em ơi em

Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời...

- Nguyễn Khoa Điềm viết nên những câu thơ này bằng tất cả sự trải nghiệm của một người
lăn lộn trong phong trào tranh đấu của thanh niên đô thị miền Nam. Nhà thơ đã thay mặt thế hệ
mình để phát biểu tâm tư với tinh thần công dân, với nhiệt tình tuổi trẻ. Đó cũng là lời đáp cho câu

16
hỏi mang tính chính luận về sự trường tồn của Đất Nước. Đất Nước
bất tử chính nhờ ở tinh thần của những con người tràn đầy nhiệt huyết tuổi thanh xuân, biết sống
có trách nhiệm với thời đại và có khát vọng về tương lai trường tồn của Đất Nước.

- “Em ơi em” là một tiếng gọi đầy yêu thương, giãi bày, san sẻ. Từ sự trải nghiệm sâu sắc
của mình, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm khẳng định đất nước là máu xương, là sinh mệnh của mỗi
người. Mặt khác, đất nước là “máu xương” còn có nghĩa là đất nước tồn tại như một sự sống và để
có sự sống ấy hẳn phải có rất nhiều hi sinh. Cùng thời với Nguyễn Khoa Điềm, Chế Lan Viên có
những thức nhận như thế:

Ôi tổ quốc ta yêu như máu thịt

Như mẹ cha ta, như vợ như chồng

Ôi tổ quốc, nếu cần ta chết

Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông

- Với Nguyễn Khoa Điềm, hành động “gắn bó, san sẻ, hóa thân” là những biểu hiện của tình
yêu quê hương đất nước. Nghĩa là tình yêu quê hương, đất nước không phải là thứ tình cảm hời
hợt, nhạt nhẽo mà nó đi từ những nhận thức “đất nước là máu xương” cho đến những hành động
tự nguyện “gắn bó, san sẻ” và biểu hiện cao đẹp nhất của tình yêu quê hương đất nước là “hóa
thân” – nghĩa là có thể hi sinh vì tổ quốc, lấy sự sống của bản thân để tiếp nối cho sự sống của đất
nước được trường tồn, vững bền.

Đất nước đẹp mênh mang

Đất nước thấm tự nhiên đến tận cùng máu thịt

Chỉ riêng cho người chúng tôi dám chết

(Thanh Thảo)

- Điệp từ “phải biết được nhắc lại hai lần như một mệnh lệnh nhắc nhở trách nhiệm của mỗi
người đối với đất nước. Những câu thơ không hề khô khan, giáo điều bởi đó là mệnh lệnh của trái
tim, được thể hiện bằng một giọng thơ tha thiết, chân thành nên đã đi vào lòng người.

- Câu thơ cuối “Làm nên đất nước muôn đời” vừa là một khát vọng, vừa là một lời khẳng
định biết bao thế hệ nhân dân vô danh đã gắn bó, san sẻ, hóa thân để làm nên đất nước muôn đời.
Như thế “Đất nước là của nhân dân”, do nhân dân hóa thân cuộc đời, phẩm chất, vẻ đẹp tâm hồn
của mình mà tạo thành:

Ôi Đất nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta

17
- Đặt bốn câu thơ trong thời đại chống Mỹ ác liệt, ta mới thấy
khát vọng “gắn bó, san sẻ, hóa thân” cho đất nước thật sâu sắc, lớn lao. Nó truyền đến tâm tư, lay
động trái tim của mỗi người Việt Nam. Lời thơ khích lệ thế hệ trẻ đứng lên bảo vệ tổ quốc, đồng
thời còn khắc họa hình ảnh một đất nước anh hùng với những ước mơ cháy bỏng, đánh thắng giặc
thù của nhiều thế hệ con người Việt Nam mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng.

Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt,

Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng.

(Chế Lan Viên)

3. Đánh giá, kết luận

a. Nghệ thuật

- Thể thơ tự do, biến đổi linh hoạt về nhịp điệu; có sự.........

- Đoạn thơ có cấu trúc đặc biệt- cấu trúc tổng - phân - hợp mà ta cảm nhận được tính chất
chính luận của ngòi bút thơ Nguyễn Khoa Điềm.

- Hình ảnh thơ gần gũi bình dị, ngôn ngữ mộc mạc dễ đi vào lòng người đã tạo cho người
đọc cảm nhận đất nước thật gần gũi, có ở trong ta và quanh ta.

- Các điệp từ, điệp ngữ có tính chất biểu tượng cầm tay”, “phải biết - Giọng điệu đang dạng:
thủ thỉ tâm sự, sâu lắng triết lý...

b. Nội dung

- Đoạn thơ đã cho ta những thức nhận sâu sắc về mối quan hệ giữa mỗi con người với đất
nước. Qua đoạn thơ, NKĐ đã đề cao vai trò vĩ đại cũng như sức mạnh kì diệu của lớp lớp thế hệ
nhân dân vô danh đã và đang “gắn bó, san sẻ, hóa thân” cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Đoạn thơ thể hiện rõ chiều sâu tư tưởng “Đất nước của nhân dân”.

- Qua đoạn thơ, NKĐ cho người đọc thấy Đất Nước trường tồn ở trong con người (...)

- Đoạn thơ nâng cao tình yêu và ý thức trách nhiệm với đất nước của mỗi người.

Đề 4: Phân tích/bình giảng đoạn:

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương

18
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.

Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...

A. MB

B. TB

1. Khái quát chung.

- Trường ca “Mặt đường khát vọng” được NK viết năm 1971, in lần đầu năm 1974, gồm 9
chương, được Nguyễn Khoa Điềm viết tại chiến khu Bình - Trị - Thiên dưới những đợt oanh tạc
của máy bay B52 của Đế quốc Mĩ. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm
chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh hòa
nhập với cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược.

- “Đất nước” là chương V của bản trường ca, được xem là chương hay nhất, thể hiện chủ đề
với tư tưởng đất nước của nhân dân”. Chương “Đất nước khai triển có vẻ phóng túng, tự do như
một thứ tùy bút thơ, nhưng thật ra tứ thơ vẫn tập trung thể hiện tư tưởng “đất nước của nhân dân”
qua các bình diện chủ yếu: đất nước trong chiều dài thời gian lịch sử, đất nước trong chiều rộng
không gian lãnh thổ địa lý; đất nước trong bề sâu truyền thống văn hoá, phong tục, lối sống tâm
hồn, cốt cách dân tộc.

- Tư tưởng “đất nước của nhân dân” là một tư tưởng rất tiến bộ của thơ ca thời đại Cách
mạng. Đoạn trích được bình giảng trên đây đã thể hiện một cách sâu sắc và cụ thể sự “hoá thân”
của nhân dân tạo nên hình hài, linh hồn không gian đất nước.

2. Cảm nhận đoạn thơ

a. Tư tưởng “đất nước của nhân dân” trước hết được thể hiện qua sự biết ơn sâu nặng
của nhà thơ đối với nhân dân đã “góp” cuộc đời mình, tên tuổi của mình, số phận mình để hóa
thân thành những địa danh, thắng cảnh. Những địa danh, thắng cảnh ấy gắng với cuộc sống,
số phận, tính cách của nhân dân.

19
- Để nói lên công lao to lớn của nhân dân trong quá trình dựng
nước và giữ nước, nhà thơ đã nhắc đến những danh lam thắng cảnh, những tên đất, tên làng trên
mọi miền đất nước từ Nam ra Bắc. Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn thấy hình sông, thế núi là sự kết
tinh đời sống tâm hồn của nhân dân. Xuất phát từ quan niệm “hóa thân” của nhà Phật, tác giả đã
trình bày những cảm xúc, suy tưởng của mình: chính nhân dân đã hóa thân thành đất nước, “hóa
thân cho dáng hình xứ sở”, làm nên đất nước vĩnh hằng.

- Vẻ đẹp không gian đất nước hiện lên vừa quen, vừa lạ, thấm đẫm chất liệu văn hóa dân
gian. Quen là bởi những vọng phu, trống mái... vốn là những cảnh đẹp xưa nay, là niềm tự hào lớn
của nhân dân Việt Nam. Lạ ở chỗ, những danh lam thắng cảnh không còn là những cảnh sắc thiên
nhiên thuần tuý nữa mà đã được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được
nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự hoá thân của những con người không tên,
không tuổi.

- Những địa danh, những hình sống thế núi mang hình người, linh hồn dân tộc. Chúng là sự
tượng hình kết tinh đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân mang đậm chủ nghĩa nhân văn của
con người Việt Nam.

Những người vợ nhớ chồng ........ yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

+ Chọn những chất liệu nghệ thuật tiêu biểu của văn hóa dân gian, Nguyễn Khoa Điềm giúp
người đọc cảm nhận xúc động mà thấm thía những nỗi đau trong cuộc đời, thân phận, những vẻ
đẹp trong tâm hồn, tính cách người Việt.

+ Sự tích hòn Vọng Phu không chỉ gợi ra nỗi xót xa cho cảnh ly tán, sự chờ đợi mỏi mòn
trong chiến tranh mà còn ngợi ca tình nghĩa thủy chung của những người vợ nhớ chồng bất chấp
mọi bão tố của chiến tranh và thời gian.

+ Cách gọi tên hòn Trống Mái của dân gian qua cái nhìn của nhà thơ hiện đại trở thành biểu
tượng cho vẻ đẹp phồn thực của cuộc đời, cho sự sắt son, vĩnh hằng của tình yêu đôi lứa. Những
cuộc chia ly, những bi kịch tình yêu đã trở thành truyền thuyết, bất tử hóa trong đời sống nhân
dân, in hình vào vóc dáng núi sông.

Không hóa thạch kẻ ra đi mà hóa thạch kẻ đợi chờ

Đợi một dáng hình trở lại giữa đơn côi

Bài thơ: Vọng phu - Chế Lan Viên

- Nhà thơ đã tìm về cội nguồn để cảm nhận sâu sắc dáng hình đất nước. Những hình ảnh
thân quen của non sông đất nước gợi lên quá khứ hào hùng với truyền thống dựng nước và giữ
nước của nhân dân ta:

20
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương

+ Hình ảnh ĐN được cảm nhận qua truyền thống đánh giặc ngoại xâm oanh liệt. Hình ảnh
ao, đầm vốn dĩ là đặc điểm địa hình tự nhiên của vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng nhưng trong
cảm nhận của nhà thơ nó lại là dấu tích của một thời đại, dấu tích của chủ nghĩa yêu nước, chủ
nghĩa anh hùng được bất tử hóa qua truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc. Cùng
chung cảm hứng này, sau Tố Hữu có viết:

Ta như thuở xa thần Phù Đổng

Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân

Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt

Chí căm thù ta rèn thép thành roi

Lửa chiến đấu ta phun vào mặt

Lũ sát nhân cướp nước hại nòi

(Tố Hữu)

+ Hình ảnh Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương không chỉ nói về
mảnh đất địa linh nhân kiệt nơi đất tổ vua Hùng - Phong Châu, Phú Thọ mà hơn thế, hhững quả
đồi thấp bao quanh núi Hy Cương, nơi có đền thờ các vua Hùng qua cách nhìn của nhân dân đã
trở thành chúng tích của đàn voi chín mươi chín con quây quần thuần phục, trở thành biểu tượng
cho lòng đồng thuận hướng về một quốc gia thống nhất, khẳng định sức mạnh đoàn kết, chung sức
đồng lòng của người dân đất Việt trong buổi đầu dựng nước.

- Hình ảnh Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm gợi vẻ đẹp của những dòng
sông thơ mộng, trù phú. Hình ảnh dòng sông được ví như những con rồng khiến cho ta liên tưởng
đến dòng Cửu Long giang với chín cửa sông như chín đầu rồng mang vẻ đẹp hùng vĩ, mĩ lệ của
quê hương đất nước.

- Tác giả không chỉ chiêm ngưỡng những hình ảnh núi Bút, non Nghiên của vùng đất miền
trung - Quảng Ngãi, mà còn nhìn ra trong đó phẩm chất, truyền thống hiếu học và khát vọng chiếm
lĩnh đỉnh cao tri thức của con người dân tộc ta từ bao đời nay. Những núi Bút, non Nghiên phô
bày vẻ đẹp mỹ lệ giữa đất trời nước Việt hay là hình tượng những người học trò nghèo đã gửi gắm
quyết tâm, ước vọng của mình vào đó:

Người học trò nghèo góp cho đất nước mình núi Bút non Nghiên

21
- Tên đất, tên làng là sự hóa thân của vạn vật gần gũi, của những
con người giản dị thân thương:

Con cóc, con gà ...........ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm

+ Hình ảnh con cóc, con gà thân quen trong đời sống hàng ngày qua trí tưởng tượng phong
phú, tâm hồn bay bổng của nhân dân đã hóa thân vào những đảo lớn, đảo nhỏ giữa một vùng trời
nước mênh mông để Hạ Long thành thắng cảnh.

+ Những người dân với cái tên nôm na, bình dị “ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm”
đánh dấu hành trình ông cha ta mở cõi khai phá phương nam. Họ đã lấy tên mình đặt cho tên đất,
tên làng.

+ Nguyễn Khoa Điềm đã có cái nhìn trân trọng của mình vào nhân dân không tên không tuổi
“những người dân nào không ai biết cũng làm nên tên núi, tên sông và tất cả những cái bình thường
trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân cũng hoá thân thành dáng hình xứ sở.

- Tám câu thơ đầu liên tiếp lặp lại cụm động từ “góp cho đất nước… góp nên… góp mình
dựng đất… góp dòng sông… góp cho Hạ Long… góp tên”. Và chủ thể của sự đóng góp” ấy là
“những người vợ nhớ chồng”, là “cặp vợ chồng yêu nhau”, là “người học trò nghèo”, là “những
người dân nào”...tất cả đều vô danh, đó chính là Nhân Dân, qua năm tháng lặng lẽ, bền bỉ, kiên
cường đã tạo dựng nên đất nước, đặt cái tên, in dấu ấn sâu đậm trên dáng hình của quê hương, xứ
sở.

- Từ hình sống, thế núi, từ truyền thống, tác giả đã có những liên tưởng độc đáo, thú vị, giúp
người đọc cảm nhận công lao to lớn của nhân dân trong quá tình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tư
tưởng đất nước của nhân dân khiến cho những địa danh tiêu biểu của Tổ quốc qua cái nhìn sắc sảo
đầy khám phá của nhà thơ chính là sự hoá thân của những con người bình dị, vô danh, “Không ai
nhớ mặt đặt tên / Nhưng họ đã làm ra ĐN

b. Bốn câu thơ cuối nâng ý thơ lên tầm khái quát: sự hóa thân của nhân dân vào bóng
hình đất nước. Nhân dân chính là người đã tạo dựng, đã đặt tên, ghi dấu ấn cuộc đời mình lên
mỗi ngọn núi, dòng sông, trải khắp dải đất hình chữ S này.

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi, ..... Những cuộc đời đã hoá núi sông ta....

- Bốn câu mang giọng điệu say đắm, ngọt ngào. Từ những cảm nhận cụ thể nhà thơ nâng lên
tầm khái quát, tính chính luận kết hợp một cách hài hòa với chất trữ tình đằm thắm:

- Hai câu đầu là sự khẳng định dáng hình của nhân dân trong không gian đất nước “trên khắp
ruộng đồng gò bãi”. Bóng hình ấy của nhân dân không chỉ làm cho đất nước thêm phần tươi đẹp
mà còn mang “một ao ước, một lối sống cha ông”. Nghĩa là nhân dân không chỉ góp danh lam

22
thắng cảnh, mà còn góp vào đó những giá trị tinh thân, là phong tục,
tập quán, là truyền thống văn hóa lưu dấu, truyền mãi tới mai sau.

- Hai câu cuối, hình tượng thơ được nâng dần lên và chốt lại bằng một câu đầy trí tuệ: “Những
cuộc đời đã hóa núi sông ta”. Nếu “bốn nghìn năm” là dòng “thời gian đằng đẵng” của lịch sử
dựng nước và giữ nước thì “đi đâu ta cũng thấy” lại gợi hình ảnh về những không gian mênh mông
của đất nước. Những con người thầm lặng "một nắng hai sương” trong thời bình, kiên cường
“trồng tre mà đánh giặc” trong thời chiến đã xây nên một tượng đài vinh quang của một đất nước
“rũ bùn đứng dậy sáng lòa”. Động từ “hóa” không chỉ gợi ra những đóng góp lớn lao bởi mồ hôi
xương máu của nhân dân trong quá trình dựng nước và giữ nước, mà còn khẳng định sự hóa thân
kỳ diệu của những con người vô danh đã làm nên “núi sông ta”.

- Chữ “một” được điệp lại 3 lần, chữ “ta” được lấy lại 2 lần, kết hợp từ “ôi” cảm thán đã tạo
nên những vần thơ du dương về nhạc điệu, nồng nàn, say đắm tự hào về cảm xúc. Vừa hào hùng,
vừa thiết tha, lắng đọng. Đất Nước mang vẻ đẹp thiêng thiêng mà gần gũi.

3. Đánh giá

- Qua đoạn thơ, NKĐ đã suy ngẫm về đất nước với cái nhìn có chiều sâu và phát hiện mới
mẻ:

- Về nội dung:

+ Phát hiện mới từ không gian địa lí: Thiên nhiên đất nước trở nên linh thiêng, gần gũi hơn
khi có sự hóa thân của nhân dân. Những địa danh, thắng cảnh tiêu biểu của đất nước, in đậm dấu
ấn tâm hồn, lối sống của nhân dân. Nhân dân – những con người bình dị, vô danh – đã hóa thân
vào đất nước; mỗi người lặng lẽ góp phần mình làm nên vẻ kỳ thú của thiên nhiên và bề dày của
truyền thống.

+ Khái quát về đất nước với những suy ngẫm có tính triết lý sâu sắc: Từ thiên nhiên đất
nước, suy ngẫm về vẻ đẹp tâm hồn của con người, lịch sử Việt Nam. Từ những cuộc đời, những
sự hóa thân cụ thể, nhận thức sâu hơn về mối quan hệ gắn bó giữa thiên nhiên và con người, giữa
đất nước và nhân dân.

+ Chủ thể trữ tình đã bộc lộ niềm tự hào về vẻ đẹp của cảnh quan thiên nhiên kỳ thú, về
những truyền thống quý báu của dân tộc; thể hiện niêm trân trọng và ngưỡng mộ những đóng góp
lớn lao của nhân dân.

- Về nghệ thuật:

+ Kết hợp nhuần nhuyễn giữa chính luận và trữ tình, suy tưởng và cảm xúc, sử dụng sáng
tạo thể thơ tự do với sự biến đổi linh hoạt của âm hưởng, nhịp điệu; biện pháp liệt kê, trùng điệp...

23
+ Sử dụng linh hoạt chất liệu truyện kể dân gian, chất liệu văn
hóa dân tộc để sáng tạo hình ảnh và thể hiện cách cảm nhận độc đáo về đất nước; cách triển khai
ý thơ đi từ cụ thể đến khái quát phù hợp với các suy tưởng chính luận.

+ Ngôn ngữ gần gũi với đời sống mà vẫn mới mẻ, hình ảnh quan thuộc gợi mở nhiều liên
tưởng sâu sắc.

4. Kết luận:

Đoạn thơ thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật đặc sắc của NKĐ. Tư tưởng đất nước của
nhân dân là đóng góp mới mẻ, độc đáo của NKĐ và đề tài đất nước, qua đó khơi dậy niềm tự hào
và ý thức trách nhiệm của mỗi người với đất nước.

Đề 5: Phân tích / bình giảng đoạn:

Em ơi em Nhiều người đã trở thành anh hùng

Hãy nhìn rất xa Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ

Vào bốn ngàn năm Đất Nước Những em biết không

Năm tháng nào cũng người người lớp lớp Có biết bao người con gái, con trai

Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi

Cần cù làm lụng Họ đã sống và chết

Khi có giặc người con trai ra trận Giản dị và bình tâm

Người con gái trở về nuôi cái cùng con Không ai nhớ mặt đặt tên

Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

A. MB

B. TB

1. Khái quát chung

- Đoạn thơ thể hiện những suy ngẫm của nhà thơ về thời gian lịch sử của đất nước trong mối
quan hệ với cuộc sống nhân dân.

2. Phân tích đoạn thơ

a. Niềm tự hào về chiều dài thời gian của đất nước:

Em ơi em

Hãy nhìn rất xa

Vào bốn nghìn năm Đất Nước

24
- Giọng điệu của đoạn thơ có sự thay đổi. Nếu đoạn thơ trước là
những câu thơ tự do có dung lượng số chữ nhiều, câu thơ dài để truyền tải những phát hiện mới
mẻ và độc đáo của NKĐ về sự đóng góp của nhân dân làm nên những không gian hữu hình của
đất nước thì tới đoạn thơ này chuyển sang giọng điệu sâu lắng, thiết tha mang cái nhìn vào dòng
chảy xa xăm, sâu thẳm, vô hình của “bốn nghìn năm” đất nước, nhìn để quan sát, suy ngẫm, để
chiêm nghiệm về vẻ đẹp vô hình của đất nước ở chiều dài thời gian lịch sử, về công sức của nhân
dân trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước

- Trong chương V trường ca Mặt đường khát vọng, hai từ Đất Nước và Nhân Dân đều được
viết hoa, trở thành “mỹ tự" gợi lên không khí cao cả, thiêng liêng và biểu lộ cao độ cảm xúc yêu
mến, tự hào về Đất Nước và Nhân Dân.

- Lời thơ xuất hiện hai nhân vật trữ tình “anh” và “em” với giọng điệu trữ tình sâu lắng, thiết
tha (...)

- Những cụm từ “nhìn rất xa”, “bốn nghìn năm Đất Nước” đã diễn tả sức sống trường tồn
của Đất nước trong chiều dài lịch sử được xác định qua nhiều thế hệ, trải qua nhiều thăng trầm. Ý
thơ thể hiện niềm kiêu hãnh, tự hào của tác giả về chiều dài lịch sử của dân tộc Việt nam. Cùng
viết về cảm hứng này, nhà thơ Huy Cận cũng có những câu thơ thật hay và xúc động:

Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững

Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa

Trong và thật sáng hai bờ suy tưởng

Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa

b. Trong cảm xúc đẩy tự hào, nhà thơ ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn và vai trò của vô vàn người
dân bình dị vô danh trong hai khoảnh khắc của đất nước là thời bình và thời chiến.

- Khi hòa bình, bằng bàn tay lao động, ý chí kiên cường đạp lên gian khổ, họ đã mang lại
màu xanh bất tận của đất nước nông nghiệp trù phú và thuần hậu:

Năm tháng nào cùng người người lớp lớp

Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta.

Cần cù làm lụng

- Khi có giặc ngoại xâm, hình ảnh đất nước được cảm nhận đó là đất nước của “những người
chưa bao giờ khuất":

Khi có giặc người con trai ra trận

Người con gái trở về nuôi cái cùng con

25
Ngày giặc đến nhà đàn bà cũng đánh

Nhiều người trở thành anh hùng

Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ

- Hình ảnh “người con trai ra trận”, “người con gái trở về nuôi cái cùng con” là hình ảnh
thường thấy khi đất nước có chiến tranh. Nhưng kỳ lạ, hào hùng ở chỗ “Ngày giặc đến nhà đàn bà
cũng đánh”. Tổ quốc đã ghi danh biết bao anh hùng nữ tướng như: bà Trưng, Bà Triệu, Võ Thị
Sáu, chị Út Tịch, chị Trần Thị Lý,... là những người phụ nữ, nữ anh hùng quả cảm làm nên vẻ đẹp
của người phụ nữ Việt Nam trung hậu, đảm đang.

- Sự lặp lại bộn bề của ngôn từ với “người người lớp lớp… con gái con trai, có biết bao
người… bốn nghìn lớp người… đã đem đến ấn tượng về sự đông đảo vô cùng của Nhân Dân. Mỗi
lớp người là một thế hệ “có biết vao người con trai con gái, bốn nghìn lớp người” cũng là bốn
nghìn thế hệ với vô vàn những người con gái, con rai, tất cả đều từng bằng tuổi chúng ta, đều đẹp
để trẻ trung, đều cần cù dũng cảm, nối tiếp nhau hết thời này đến thời khác “cần cù làm lụng”
trong thời bình để xây dựng Đất Nước, ra trận và trở thành anh hùng khi Đất Nước có giặc ngoại
xâm để bảo vệ Đất Nước.

- Mặt khác, khi nghĩ về những năm tháng dài rộng của đất nước, nhà thơ gắn với hình ảnh
“người người lớp lớp - con gái, con trai”. Đó là dòng chảy của thời gian đất nước gắn với các thế
hệ, gắn với tuổi trẻ. Một hình ảnh đất nước hiện lên già cỗi về tuổi tác nhưng lại tràn đầy sức sống,
xuân sắc.

- Cả đoạn thơ không hề có tên riêng, chỉ “có con trai con gái, họ”, không có tên một triều
đại dù là hoàng im, cũng không nhắc đến những anh hùng dù “cả anh và em đều nhớ”...

+ Phải chăng vì các triều đại oanh liệt, các anh hùng lẫy lừng tên tuổi đã được tổ quốc lưu
danh sử sách, được lòng dân muôn đời nhớ ơn, thờ phụng.

+ Con số các triều đại, các anh hùng là hữu hạn; còn sự đóng góp của Nhân Dân, của biết
bao con gái con ai trong suốt bốn nghìn năm Đất Nước, những con người đã cần cù làm lụng dựng
xây Đất Nước hoặc ra trận đánh giặc chiến đấu bảo vệ tổ quốc thì vô danh và vô hạn, thầm lặng
và lớn lao, họ đã lặng lẽ hiến dâng từ mồ hôi, xương máu, từ tâm hồn, trí tuệ cho đến cả tuổi thanh
xuân và hạnh phúc lứa đôi để làm nên đất nước.

+ Nhà thơ chỉ cho chúng ta thấy cần có một tấm bia trong tâm khảm mỗi người để ghi tên,
tri ân những người anh hùng vô danh, những thế hệ nhân dân đã thầm lặng hóa thân cho đất nước.

26
c. Trong mạch cảm xúc, suy ngẫm sâu sắc, Nguyễn Khoa
Điềm đã viết những câu thơ mang đậm màu sắc triết lý để khẳng định nhân dân vô danh là
người làm nên lịch sử và là chủ nhân của đất nước

Nhưng em biết không

Có biết bao người con gái con trai

Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra đất nước

- Câu thơ "Nhưng em biết không” mang tính chất tranh biện. Khi nghĩ về thời gian của đất
nước, NKĐ bày tỏ suy ngẫm và nhận thức thật toàn diện: đất nước với thời gian 4000 lịch sử được
dựng xây và gìn giữ bởi những người anh hùng có tên, có tuổi cả anh và em đều nhớ cùng với triệu
triệu nhân dân. Sâu sắc ở chỗ nhà thơ đề cao vai trò của nhân dân vô danh.

- “Họ” là đại từ nhân xưng ngôi thứ ba số nhiều, không mang tính chất xác định, và trong
đoạn thơ này, theo cách nhìn nhận của NKĐ, đó là biết bao người con gái con trai. Trong bốn
nghìn lớp người giống ta lứa tuổi”, đó là Nhân Dân, những lớp người thầm lặng, vô danh, lớn lao,
động đảo.

- Câu thơ Họ đã sống và chết đặt “họ” giữa hai bình diện “sống” và “chết, nhưng điều kì lạ
là hai thái cực này không tạo ra cảm giác đối lập, cũng không đưa đến cảm giác ảm đạm về cái
chết - nó chỉ gợi những dạng thái của tồn tại và tiếp nối, gợi sự trôi chảy miên viễn của thời gian
khi những thế hệ người Việt Nam nối tiếp nhau sinh ra và lớn lên, yêu nhau và sinh con đẻ cái, tạo
ra dòng chảy vĩnh cửu của sự sống. Đem đến cảm giác này trước hết do sự nhịp nhàng, yên ả và
bình lặng khi các nhịp thơ 3/2-2/3 nối tiếp luân chuyển trong 2 câu đầu, sau đó là tính chất phiếm
chỉ của đại từ “họ”, đó không phải là một con người, một thế hệ, đó là Nhân Dân, là quá khứ, hiện
tại và tương lai của cha ông xưa, của chúng ta hôm nay, của con cháu muôn đời sau...

- Câu thơ tiếp theo xác định đặc điểm của nhân dân trong cách sống giản dị, trong cách nghĩ
bình tâm. Họ cứ thuần phát đơn sơ, cần cù làm lụng sau những lũy tre làng, gắn bó thân yêu với
ruộng đồng gò bãi, từ thời này sang đời khác cui cút làm ăn toan lo nghèo khó (Nguyễn Đình
Chiểu). Khi Đất Nước có giặc, họ là những người đầu tiên ra trận, chiến đấu bảo vệ Đất Nước. Khi
hết giặc, súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa, họ trở về với cuộc sống đời thường, bình tâm thanh
thản, không đòi hỏi, không yêu cầu, yêu sách, sứ lặng lẽ “Gánh vác phần người đi trước để lại /

27
Dặn dò con cháu chuyện mai sau” khiến cho sự sống và cái chết của
họ bình thản nối tiếp trong dòng chảy vĩnh hằng của thời gian.

- Lịch sử bốn nghìn năm Đất Nước được viết bằng mồ hôi, nước mắt, máu xương của những
con người ấy, nhưng lịch sử không biết họ là ai, cũng vì họ quá đông đảo và luôn luôn thầm lặng.

+ Họ có thể là những nông dân tần tảo lam lũ với hạt gạo một nắng hai sương xay, giã, giần,
sàng;

+ là những người phụ nữ kiên cường gánh trên vai bao cuộc chiến tranh khi tiễn người con
trai ra trận, họ trở về nuôi cái cùng con, vò võ cô đơn suốt tuổi thanh xuân, để sông núi Không hóa
thạch kẻ ra đi mà hóa thạch kẻ đợi chờ (Chế Lan Viên).

+ Họ cũng có thể là những nông dân nghĩa sĩ: Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn
theo giúp cơ binh... (Nguyễn Đình Chiểu),

+ là những người con trai đã dằn lòng bỏ lại gia đình, quê hương và những người thân yêu
để gian nhà không mặc kệ gió lung lay, để giếng nước gốc đa nhớ nhung da diết..;

+ là những người đã nhất quyết ra đi đầu không ngoại lại, quyết tử cho tổ quốc quyết sinh;
để rồi biết bao Người lính, mùa xuân ấy, ra đi từ đó không về

+ và họ cũng có thể là người lính trên đường hành quân qua miền Tây năm ấy

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục trên súng mũ bỏ quên đời.

(Tây Tiến - Quang Dũng)

=> Tất cả họ đều vô danh không ai nhớ mặt nhớ tên… nhưng họ đã làm ra Đất Nước. Mỗi
người dân Việt trong quỹ thời gian hữu hạn của mình để dựng nước và giữ nước. Tuy nhiên, chính
những đóng góp dù nhỏ bé của mỗi con người đã làm nên sự lớn lao, vĩ đại của Đất Nước, và chính
những cuộc đời ngắn ngủi, hữu hạn của mỗi con người lại làm nên sự trường tồn vô hạn của Đất
Nước muôn đời. ..

- Như vậy, NKĐ đã trả đất nước cho những chủ nhân chân chính là Nhân Dân. Đây không
chỉ là tình cảm mà còn là một cảm quan lịch sử mới mẻ, tiến bộ khi nghĩ về đất nước. Khi cảm
nhận về thời gian lịch sử đất nước, NKĐ đã đi theo một lối riêng. Xưa nay, khi các nhà thơ nghĩ
về thời gian lịch sử của đất nước thường nhắc đến những người anh hùng tên tuổi lừng lẫy như Bà
Trưng, bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung... hoặc nhắc đến các triều đại gắn với ngai
vàng của vua chúa như trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi có viết:

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập

28
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một
phương

Ngay cả Chế Lan Viên, người cùng thời với Nguyễn Khoa Điềm cũng viết:

Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc

Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn

Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc

Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng

+ Còn với NKĐ, ông đã trân trọng, ngợi ca vai trò của nhân dân vô danh trong việc dựng
nước và giữ nước. Dù không đến đài, không bia tượng nhưng núi sông này làm nên từ chính máu
xương của họ. Tư tưởng hay mang chân lý của thời đại "Không có mồ hôi và máu của nhân dân
thì các dân tộc không thể có lịch sử" (Ăngghen)

- Cái khéo của NKĐ khi nghĩ về thời gian lịch sử của đất nước là đã liên hệ thế hệ trước với
thế hệ sau: “Những người con gái con trai... bằng tuổi chúng ta giống ta lứa tuổi”, họ đã làm nhiều
điều lớn lao vĩ đại, họ đã dựng nước giữ nước trong suốt 4000 năm lịch sử. Còn thể hệ trước chúng
ta đã làm gì khi đất nước bị chia cắt? Lời thơ khích lệ thế hệ trẻ vùng đô thị tạm chiếm miền Nam
Việt Nam nói riêng và tuổi trẻ cả nước nói chung trong thời đại kháng chiến chống Mỹ nhận thức
về đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, từ đó có trách nhiệm làm tròn bổn phận của mình với tổ
quốc, quê hương.

C. Đánh giá, kết luận

- Nghệ thuật…

- Nội dung...

Đề 6: Phân tích bình giảng đoạn:

Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Có nội thù thì vùng lên đánh bại Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần
thoại

29
1. Tám câu đầu:

Họ giữ… đánh bại

a. Nhân dân tạo dựng, bảo vệ, lưu truyền từ của cải vật chất đến những giá trị văn hóa
tinh thần cho đất nước:

Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

Họ truyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cái

Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

Họ gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân

Họ đắp đập be bờ cho người đời sau trồng cây hái trái

- Chủ ngữ của sáu câu thơ là đại từ “họ”, nếu phép điệp đem đến cảm giác về sự đông đảo,
tính chất không xác định gợi sự vô danh thì vai trò chủ thể của những hành động đã khẳng định
công lao to lớn của Nhân Dân với Đất Nước.

- Cặp động từ “giữ... truyền” hơn một lần lặp lại trong đoạn thơ đã khẳng định sứ mệnh
thiêng liêng của mỗi con người, các thế hệ trong công cuộc xây dựng Đất Nước, đó là gánh vác
việc thế hệ trước giao phó, giữ gìn, duy trì phát triển để rồi đắn đo, ủy thác, truyền cho những thế
hệ con cháu tiếp nối. Mặt khác, cặp động từ này còn làm nổi lên một hình tượng nghệ thuật thật
kỳ vĩ. Sự tiến hóa của lịch sử, quá trình hình thành văn hóa đất nước giống như một cuộc chạy tiếp
sức không mệt mỏi của nhân dân qua các thế hệ. Nhân dân đem cả cuộc đời mình để xây dựng,
phát triển, lưu truyền văn hóa đất nước đến muôn đời.

- Sau những động từ “giữ...truyền...gánh...đập...be...” là những hình ảnh hoặc hữu hình như:
Hạt lúa... lửa... hòn than... hoặc vô hình như giai điệu, tiếng nói, tên xã, tên làng... tất cả đều là
những giá trị tinh thần hoặc vật chất, để làm nên Đất Nước và đều gắn bó thân thiết với cuộc sống
hàng ngày của người Nhân Dân.

- Tấm lòng của Nhân Dân, công lao khó nhọc của Nhân Dân được khẳng định trong câu thơ
đầy xúc động:

Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

+ Đất Nước VN nằm trong cái nôi của nền văn minh sông Hồng và sông Mã, và Nhân Dân
bao đời nay sống bằng nghề trồng lúa nước. Từ thuở lập quốc, những người con của mẹ Âu Cơ
đã tìm ra cây lúa, đã một nắng hai sương chăm chút, nâng niu, để rồi giữ và truyền cho ta hạt lúa
ta trồng.

30
+ Hạt lúa - những hạt ngọc ngà chắt chiu tinh hoa trời đất, kết
quả của mồ hôi, công sức của con người vì thế đã trở thành truyền thống lao động cần cù của
những người nông dân ngày đêm vất vả bán mặt cho đất, bán lưng cho trời.

+ Hạt lúa cũng là hình ảnh của niềm vui của cuộc sống ấm no khi

Mồ hôi mà đổ xuống đồng

Lúa mọc trùng trùng sáng cả đồi nương.

Lời dặn của cha ông xưa về việc đừng đổ thóc giống ra ăn cho thấy sự thiêng liêng, quan
trọng trong việc giữ và truyền lại hạt lúa cho mùa sau, đời sau, đó là truyền lại sự sinh tồn và phát
triển đối với một dân tộc có nền văn minh lúa nước lâu đời, đó cũng là việc truyền lại tình yêu và
niềm hi vọng về cuộc sống.

- Nhân Dân còn:

Truyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cái.

+ Lửa là hình ảnh của một quá khứ xa xăm khi con người bắt đầu tìm đến ánh sáng văn minh.
Với việc tìm ra lửa, loài người thực sự tách ra khỏi thế giới nguyên thủy tăm tối, dã man. Chính
ngọn lửa đã duy trì sự sống, sự tồn tại cho nhân loại.

+ Nhắc tới lửa là nhắc tới cuộc sống thịnh vượng, sum vầy và cảm giác ấm áp, chở che. Bên
những bếp lửa ấp iu nồng đượm (Bằng Việt), gia đình, cộng đồng quây quần đầm ấm, gắn bó yêu
thương. Từ ngàn xưa, qua những viên than ấp ủ, những con cúi bện bằng rơm người Việt đã truyền
lửa cho nhau trong những không gian thấm đượm tình làng nghĩa xóm, trong những khi tối lửa tắt
đèn....

+ Lửa cũng đồng thời gợi đến cuộc chiến tranh khói lửa để từ đó Đất Nước rũ bùn đứng dậy
sáng lòa (Nguyễn Đình Thi). Ý thơ cũng gợi liên tưởng tới những người nông dân - nghĩa sĩ Cần
Giuộc năm xưa với hỏa mai đốt bằng rơm con cúi.., trong sự liên tưởng ấy, ngọn lửa chính là biểu
tượng của lòng yêu nước, căm thù giặc và ý chí bất khuất kiên cường đánh giặc ngoại xâm gắn bó
với cuộc sống sinh hoạt, lao động và chiến đấu của Nhân Dân, hình ảnh ngọn lửa khi bình dị, thân
yêu, nồng ấm, khi rực rỡ, kì vĩ, lớn lao.

+ Từ đó có thể thấy, truyền lửa qua mỗi nhà vừa là hình ảnh cụ thể của tình làng nghĩa xóm
khi tắt lửa tối đèn, là trao gửi sự sống ấm áp trong những không gian và làng xã Việt bằng hòn
than qua con cái như thuở xa xưa, là truyền lại sức sống trường tồn cho bốn nghìn năm Đất Nước
mà cũng là truyền lại bầu nhiệt huyết để Nhân Dân nối tiếp nhau đựng nước và giữ nước.

- Câu thơ tiếp theo nói về công lao của Nhân Dân trong việc tạo lập và giữ gìn truyền thống
văn hóa, tinh thần của Đất Nước.

31
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói.

+ Tiếng nói là của cải tinh thần vô giá, là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của một
cộng đồng xã hội, là một giá trị văn hóa phi vật thể góp phần làm nên bản sắc văn hóa của một dân
tộc, đánh dấu sự tồn vong của một quốc gia.

+ Tiếng nói ấy tồn tại và phát triển cùng Đất Nước bất chấp hàng ngày năm Bắc thuộc, hàng
trăm năm Pháp thuộc và bao nhiêu cuộc chiến tranh, bất chấp cả những âm mưu đồng hóa của mọi
kẻ thù xâm lược. Đó là nhờ tấm lòng và công sức của Nhân Dân bao đời nay, qua những lời ru
ngọt ngào của bà, của mẹ, qua những lời ca câu ví dân gian, qua sự trong trẻo, thâm trầm của thế
giới thần thoại, cổ tích... Nhân Dân đã truyền lại cho con cháu không chỉ những tình cảm thắm
thiết ân tình, những bài học đạo lý, những linh nghiệm sâu sắc trí tuệ mà con cả giọng điệu, tiếng
nói, ngôn ngữ của dân tộc.

- Nhân Dân còn trân trọng giữ gìn cả những địa danh thân thuộc của từng vùng miền quê
hương đất nước:

Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân

+ Trong cuộc sống hàng ngày của Nhân Dân, trong sự vận động và phát triển của lịch sử Đất
Nước, có những sự thay đổi nơi cư trú vì chiến tranh, vì cuộc sống hoặc để hưởng ứng những chủ
trương chính sách của nhà nước đưa Nhân Dân đi khai khẩn đất hoang, xây dựng các vùng kinh tế
mới. Hàng trăm nghìn người dân mang theo trong những chuyến di dân không chỉ là đồ đạc, lương
thực, bên cạnh những giá trị vật chất còn là những giá trị tinh thần thiêng liêng, quý giá.

+ Nghệ thuật ẩn dụ trong câu thơ qua động từ gánh đã khiến những khái niệm trừu tượng
như tên xã tên làng bỗng trở nên cụ thể và trĩu nặng. Đó không đơn thuần chỉ là địa danh, tên xã
tên làng là hình ảnh của những làng xã Việt, gợi đến những phong tục tập quán, những đình chùa
lễ hội, những giếng nước gốc đa thấm đẫm bao kỉ niệm yêu thương... Những cái tên được mang
theo trong mỗi chuyến di dân – vì thế mà trĩu nặng tình yêu và nỗi nhớ, nhất là sự thiêng liêng ấm
áp của nơi cắt rốn chôn rau.

+ Người dân mang theo những tên xã, tên làng thân thuộc đặt cho vùng đất mới vừa để làm
dịu với phần nào nỗi nhớ quê hương của thế hệ này, vừa để khắc sâu nỗi nhớ của những thế hệ sau
về cội nguồn quê cha đất tổ. về những truyền thống văn hóa, những thuần phong mỹ tục của quê
hương bản quán.

- Nhân Dân còn xây dựng những nền tảng vững chắc cho đời sau an cư lạc nghiệp:

Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái

32
+ Nghĩa của những cụm động từ đắp đập, be bờ gợi lên sự vun
vén cho đầy đặn hơn, vững chắc hơn, đây là hình ảnh thể hiện sự chăm chút ân cần của những
người đi trước với con cháu đời sau. Nhân Dân kiên nhẫn, bền bỉ đắp đập be bờ cho các thế hệ sau
yên tâm trồng cây hái trái.

+ Sự khác nhau giữa hai cụm động từ ở đâu và ở cuối câu thơ về cả thời gian (đời trước -
đời sau), và tính chất công việc (chuẩn bị – hưởng thụ), đã cho thấy đức hi sinh lớn lao, cao thượng
của những người đi trước: họ vất vả lo lắng làm lụng nhưng có thể chẳng được hưởng thành quả
lao động của mình, cây và trái hầu như chỉ dành cho đời sau, nhưng họ vẫn bình tâm thanh thản,
mãn nguyện trong niềm hy vọng con cháu được hưởng phúc, được sung sướng, ấm no từ sự chuẩn
bị chu đáo, trìu mến của mình.

b. Khi Đất Nước có chiến tranh, Nhân Dân lại là những người xông pha nơi hòn tên mũi
đạn, dũng cảm chiến đấu, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ sự bình yên cho Đất Nước:

Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm

Có nội thù thì vùng lên đánh bại

+ Cấu trúc hô ứng: “có... thì” điệp lại lên tiếp trong hai dòng thơ cùng một loạt những động
từ mạnh: chống, vùng lên, đánh bại... khiến giọng điệu thơ rắn rỏi, đanh thép, cho thấy tinh thần
tự nguyện cao độ của Nhân Dân trong sự nghiệp giữ nước.

+ Trong những cuộc chiến tranh vệ quốc, Nhân Dân đã không hề toan tính, ngại ngần, không
yêu cầu, yêu sách, sẵn sàng chiến đấu và hi sinh vì Đất Nước, cùng là để bảo vệ những giá trị tinh
thần và vật chất quý giá do thế hệ trước để lại, do họ vất vả gánh vác, giữ gìn, tạo dựng và truyền
lại cho đời sau. Đó là những giá trị thiêng liêng thấm đẫm mồ hôi, nước mắt, máu xương của biết
bao nhiêu thế hệ nhà Nhân Dân không cho phép bất cứ kẻ thù nào xâm phạm, hủy hoại.

c. Đoạn thơ đã cho thấy công lao vĩ đại của Nhân Dân đối với Đất Nước: họ nối tiếp nhau
sáng tạo, giữ gìn, phát triển và truyền lại cho các thế hệ mai sau những giá trị văn hóa, văn minh
tinh thần và vật chất của Đất Nước từ hại lúa, ngọn lửa, tiếng nói đến tên xã tên làng, tục ngữ, ca
dao... Mỗi thành quả của Đất Nước ngày hôm nay đều là kết tinh, thừa hưởng, tiếp nối quá trình
lao động sáng tạo cần cù, bền bỉ của Nhân Dân. Bất chấp những gian khó nhọc nhằn trong lao
động dựng xây, những mất mát hy sinh trong những cuộc chiến tranh máu lửa, suốt bốn nghìn năm
dựng nước và giữ nước, Nhân Dân đã giữ gìn hồn thiêng sông núi, làm nên bản sắc dân tộc, đã nối
tiếp nhau viết những trang sử hào hùng bằng sức mạnh của tình yêu và ý chí bất khuất kiên cường.

2. 10 câu thơ cuối: Để Đất Nước này....sông xuôi

33
a. Mạch cảm xúc, suy ngẫm của bài thơ cứ dồn tụ dần để cuối
cùng dẫn tới cao trào, làm bật lên tư tưởng cốt lõi:

Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân

Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại

- Những khái niệm đất nước, nhân dân được viết hoa trang trọng, được lặp lại nhiều lần trong
hai câu thơ đã cho thấy sự gắn bó không thể tách rời giữa Nhân Dân và Đất Nước, cũng là cách để
nhà thơ tô đậm ý nghĩa khẳng định cho tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân.

- Sau những câu thơ khẳng định công lao to lớn của Nhân Dân trong sự nghiệp dựng nước
và giữ nước, câu thơ Để Đất Nước này là đất nước của dân tạo ra mối quan hệ nhân quả giữa hai
đoạn thơ, nhờ đó, tác giả đã có thể lý giải sâu sắc và thấm thía hơn tư tưởng chủ đạo Đất Nước của
Nhân Dân qua cách định danh mang đậm sắc thái sở hữu thiêng liêng: Đất Nước Nhân Dân. Với
cụm danh từ Đất Nước Nhân Dân, nhà thơ đã khẳng định chủ nhân đích thực của Đất Nước bằng
một nguyên nhận giản dị và sâu sắc: Đất Nước này tất yếu phải thuộc về Nhân Dân.

- Câu thơ thứ 2 đã lý giải rõ hơn cách định danh cho Đất Nước ở câu trên.

+ Câu thơ tách thành hai vế có tính chất đẳng lập khiến người đọc nhận ra mối quan hệ gắn
kết giữa Nhân Dân ở vế thứ nhất và ca dao thần thoại ở vế thứ hai

+ Ca dao thần thoại có thể coi là hình ảnh hoán dụ cho văn hóa dân gian, mà văn hóa dân
gian là sản phẩm trực tiếp của trí tuệ dân gian, là nơi lưu giữ và tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn, tính cách
của Nhân Dân, cũng là nơi chia sẻ cảm thông cho những đau thương, bất hạnh của Nhân Dân.

+ Văn học dân gian do Nhân Dân sáng tạo nên và phản ánh cuộc sống Nhân Dân, cho nên
đến với văn học dân gian cũng là đến với Nhân Dân. Sự tương đồng ấy cho phép nhà thơ lí giải tư
tưởng của mình một cách thấm thía và xúc động: Đất Nước của Nhân Dân vì Đất Nước được tạo
dựng, được giữ gìn, bảo vệ... bởi tình yêu và nỗi đau của Nhân Dân, bằng nước mắt, mồ hôi, xương
máu của vô vàn những con người thầm lặng, đói nghèo nhưng nghĩa tình trung hậu, của những số
phận bất hạnh khổ đau mà dũng cảm kiên cường, đó là những nội dung đã được chính Nhân Dân
phản ánh một cách chân thực và cảm động trong ca dao thần thoại, trong văn học dân gian, trong
ca dao thần thoại.

=> Như thế, khẳng định đất nước của ca dao, thần thoại cũng là khẳng định đất nước của
nhân dân. Mặt khác, đất nước của ca dao, thần thoại còn gợi vẻ đẹp huyền diệu, một đất nước của
thơ và mộng.

34
b. Qua ca dao thần thoại, Nhân Dân đã đem đến cho chúng
ta những bài học đạo lý, dạy chúng ta biết yêu thương, biết trân trọng công sức nghĩa tình, biết
căm ghét cái xấu, cái ác, biết kiên nhẫn phục thù – biết cách làm người:

Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi

Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội

Biết trồng tre đợi ngày thành gậy

Đi trả thù mà không sợ dài lâu.

- Nhà thơ đã chọn những hình ảnh đặc sắc trong kho tàng ca dao của dân gian để nói về
những phương diện quan trọng nhất mang vẻ đẹp tâm hồn, bản lĩnh của con người VN.

- Đó là đất nước mà con người luôn say đắm thiết tha trong tình yêu đôi lứa. Đất nước không
chỉ là nơi hò hẹn, nơi đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm, đâu chỉ là nơi đôi lứa nắm tay nhau
trong tình cảm hài hòa, nồng thắm. Thú vị hơn, thiêng liêng hơn còn bởi "dạy anh biết yêu em từ
thuở trong nôi".

+ Tình yêu của chàng trai không phải là ngọn gió thoảng qua, không phải là lời ong bướm
mà là lời nói, là suy nghĩ chân thật. Ý thơ khẳng định một tình yêu thủy chung bền vững không có
gì đong đếm được.

+ Câu thơ ngợi ca một tình yêu đắm say, nồng nàn và thủy chung, mang âm hưởng đằm thắm
của câu ca dao xưa vọng về . Yêu em từ thuở trong nôi / Em nằm em khóc anh ngồi anh ru. Nhân
dân dạy ta biết yêu thương, lãng mạn, đắm say thủy chung với những câu ca dao ấy. Đây là phát
hiện mới của Nguyễn Khoa Điềm. Bởi lẽ từ xưa đến nay nói đến nhân dân người ta thường nghĩ
đến những phẩm chất cần cù chịu khó, bất khuất kiên cường. Con ở đây tác giả lại ngợi ca vẻ đẹp
trẻ trung lãng mạn trong tình yêu, những mối tình từ thuở ấu thơ cho đến lúc trưởng thành.

- Nhân dân gìn giữ và truyền lại cho ta quan niệm sống đẹp đẽ, sâu sắc “dạy anh biết” – Sống
trên đời cần quý trọng tình nghĩa, phải: Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội. "Vàng" ở đây
là biểu tượng cho nghĩa tình, nhân dân không chỉ biết sống với nghĩa tình mà hơn hết luôn trân
trọng, gìn giữ vẻ đẹp của tình người, bất chấp không gian, thời gian, bão tố của cuộc đời. Câu thơ
cũng được khơi nguồn từ bài ca dao:

Cầm vàng mà lội qua sông,

Vàng rơi chẳng tiếc, tiếc công cầm vàng

Chỉ có điều ở câu thơ của NKĐ, không chỉ tiếc công cầm vàng mà tiếc cả "vàng". Phải chăng
đó là chất vàng mười trong tâm hồn biết yêu thương nghĩa tình trước sau như một của người Việt.

35
- Đó là một đất nước của những con người quyết liệt với kẻ thù
bằng truyền thống dựng nước và giữ nước hào hùng.

" Biết trồng tre đợi ngày thành gây

Đi trả thù mà không sợ dài lâu"

+ Hai câu thơ đã gợi lại biết bao cuộc kháng chiến oanh liệt, trường kì của nhân dân trong
biết bao cuộc chiến vệ quốc vĩ đại. Từ thuở lập nước, ông cha ta đã luôn phải đương đầu với nạn
ngoại xâm. Cuộc chiến đấu giành độc lập tự do nào cũng kéo dài hàng chục năm, thậm chí hàng
trăm năm. Sau cả nghìn năm Bắc thuộc nhân dân vẫn đứng lên giành chủ quyền, rồi đến 100 năm
đô hộ giặc Tây... thử hỏi nếu không có sự kiên trì bền bỉ và khát vọng tự do mãnh liệt, dân tộc bé
nhỏ này làm sao có thể vượt qua bao nhiêu khó khăn gian khổ, mất mát hy sinh để đến ngày toàn
thắng.

+ Các động từ "trồng" "đợi", kết hợp với hai chữ "dài lâu" ca người vẻ đẹp tâm hồn cần cù,
bền bỉ trong suốt chiều dài 4000 năm dựng nước, giữ nước của dân tộc. Chính vẻ đẹp tâm hồn này
làm nên sức mạnh kì diệu của đất nước. Đúng như nhà thơ NĐT đã từng viết:

Nước chúng ta

Nước của những người không bao giờ khuất

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về

- Có ý kiến cho rằng 6 câu thơ đã phác họa phong cách, bản lĩnh, cột cách của gương mặt
đất nước, nó như 5 cánh của ngôi sao đất nước tỏa sáng rạng ngời. Vẻ đẹp thơ mộng của núi sông,
đất nước được kết đọng lại trong những câu thơ cuối

c. Bốn câu thơ cuối: Hình ảnh người chèo đò, kéo thuyền vượt thác cát cao tiếng hát là
một biểu tượng nói lên sức mạnh Nhân dân chiến thắng mọi thử thách, lạc quan tin tưởng đưa
Đất Nước đi tới một ngày mai vô cùng tươi sáng:

Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

Mà khi về Đất Nước mình khi bắt lên câu hát

Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi...

- Bốn câu thơ gợi cho ta hình ảnh của những dòng sông, những dòng sông không biết đến từ
bến bờ nào nhưng khi hòa vào đất Việt lại vang lên biết bao câu hát điệu hò. Những câu thơ của
Nguyễn Khoa Điềm làm ta nhớ đến những điệu hò hùng tráng trên sông Mã, điệu ca Huế ngọt

36
ngào trên sông Hương và điệu hò kéo lưới mạnh mẽ ở miền Trung,
hay đờn ca tài tử tha thiết trên sông Tiền, sông Hậu ở miền Nam. Và “dòng sông” ấy vừa có ý
nghĩa là dòng sông của quê hương đất nước nhưng vừa có ý nghĩa là dòng sông Văn hóa, dòng
sông Lịch sử.

+ Những câu hát trên dòng sông quê hương được truyền từ đời này sang đời khác, thể hiện
tình yêu với cuộc sống lao động, tình yêu với quê hương Đất Nước, thể hiện tinh thần lạc quan
tươi trẻ của mọi phẩm chất đã giúp Nhân Dân dựng nước và giữ nước.

+ Có một câu ca đã hình dung Đất Nước tôi thon thả giọt đàn bầu... – mọi dòng sông dù có
nguồn cội từ đâu nhưng khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát, tới với Đất Nước của những
tấm lòng nhân hậu, của những tâm hồn lãng mạn, trẻ trung thì văn xuôi cũng hóa thành thơ, lời
nói đời thường cũng ngân nga thành câu hát.

- Từ thơ độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm giúp người đọc nhận rõ hơn tư tưởng chủ đạo của
bài thơ: Đất Nước của Nhân Dân, Nhân Dân làm nên Đất Nước - Nhân Dân không chỉ lao động
xây dựng, không chỉ chiến đấu để giữ gìn và bảo vệ Đất Nước, chính Nhân Dân với tình yêu và
những khát vọng mãnh liệt, với trái tim luôn tràn đầy sự lạc quan tươi trẻ đã đem đến vẻ đẹp lãng
mạn say người cho Đất Nước trên trăm dáng sông xuôi....

Tóm lại: Tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân đã manh nha từ xa xưa trong lịch sử với quan
niệm dân vi bản, khi Nguyễn Trãi khẳng định làm lật thuyền mới biết dân như nước, khi Nguyễn
Đình Chiểu ca ngợi những người nông dân nghĩa sĩ cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó mà cao cả,
anh hùng… Tư tưởng ấy được khẳng định và nhận thức sâu sắc hơn trong thời đánh Mỹ khi được
soi chiếu bằng quan điểm mác xít về Nhân Dân và thực tiễn của cuộc chiến tranh Nhân Dân. Tư
tưởng Đất Nước Của Nhân Dân không chỉ được khẳng định ở bình diện nội dung mà còn được thể
hiện ngay trong yếu tố hình thức của đoạn thơ, trong một không gian nghệ thuật thấm đẫm phong
vị dân gian ngay trong những câu thơ trí tuệ và hiện đại. Ca ngợi Nhân Dân bằng chính những sản
phẩm trí tuệ của Nhân Dân, bằng những các sáng tác phản ánh tâm hồn, tính cách và số phận Nhân
Dân, Nguyễn Khoa Điềm đã có một lựa chọn độc đáo khiến tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân
được thể hiện sâu sắc và đầy sức thuyết phục. Tóm lại, đoạn thơ đã cảm nhận, phát hiện về Đất
Nước trong cái nhìn tổng hợp, toàn vẹn, mang đậm tư tưởng Nhân Dân, đã sử dụng phong phú các
yếu tố của văn hóa, văn học dân gian một cách sáng tạo, hòa nhập trong cách diễn đạt và tư duy
hiện đại, đem đến màu sắc thẩm mỹ vừa quen thuộc, vừa mới mẻ, phù hợp với tư tưởng cột lõi của
tác phẩm, cũng là tư tưởng bao trùm văn học 1945 – 1975: tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân,

d. Nhân dân vô danh là người làm nên bản lĩnh, cốt cách của đất nước:

"Để đất nước này... sông xuôi".

37
- Đoạn thơ mang tính khái quát, thể hiện tư tưởng trọng tâm của
cả chương đất nước" là nơi hội tụ mọi cảm xúc của NKĐ với chiều sâu tư tưởng. Đất nước của
nhân dân". Bằng cảm xúc tự nhiên, nhà thơ đã trở về với cội nguồn dân gian để cảm nhận hình ảnh
đất nước của nhân dân của ca dao thần thoại"

"Để đất nước này là đất nước của nhân dân.

Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại”

- Riêng câu thơ thứ hai với 2 vế song song đồng đang là một cách dùng đa nghĩa giản dị mà
độc đáo về đất nước. Có thể nói, vẻ đẹp truyền thống, tâm hồn của nhân dân hơn đấu hết có thể
tìm thấy trong văn học dân gian mà tiêu biểu là trong ca dao thần thoại. Khẳng định đất nước của
ca dao, thần thoại cũng là khẳng định đất nước của nhân dân. Mặt khác, đất nước của ca dao, thần
thoại còn gợi vẻ đẹp huyền diệu, một đất nước của thơ và mộng.

Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát

Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi

Những câu hát dân ca trên sông nước hay những tâm hồn giàu chất thơ soi bóng cùng núi
sông. Đoạn thơ cuối tiếp tục ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên con người đất nước bằng một niềm tin bất
diệt vào sức sống muôn đời của đất nước sẽ như những dòng sông trải dài đến bất tận.

Tài liệu độc quyền của Chuyến Tàu Văn Chương. Em lưu ý không chia sẻ tài liệu ra
bên ngoài!

38

You might also like