You are on page 1of 105

“CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG”

(TRÍCH “TRUYỀN KÌ MẠN LỤC”- NGUYỄN DỮ)

A.TÁC GIẢ:
- Nguyễn Dữ- có sách phiên âm là Nguyễn Tự ( chưa rõ năm sinh, năm mất), người
huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.
- Ông là học trò của Tuyết Giang Phu Tử Nguyễn Bỉnh Khiêm.
- Ông sống ở thế kỉ XVI, là thời kì triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng, các
tập đoàn phong kiến Lê, Mạc Trịnh tranh giành quyền binh, gây ra các cuộc nội chiến
kéo dài.
- Ông học rộng, tài cao nhưng chỉ làm quan có một năm rồi xin nghỉ về nhà nuôi mẹ
già và viết sách, sống ẩn dật như nhiều trí thức đương thời khác.
B.TÁC PHẨM:
- Truyền kì mạn lục( Ghi chép tản mạn những chuyện kì lạ được lưu truyền): là tác
phẩm viết bằng chữ Hán, khai thác các truyện cổ dân gian và các truyền thuyết lịch
sử, dã sử của Việt Nam. Nhân vật chính thường là những người phụ nữ đức hạnh,
khao khát một cuộc sống yên bình, hạnh phúc nhưng các thế lực bạo tàn và cả lễ giáo
phong kiến khắc nghiệt lại xô đẩy họ vào những cảnh ngộ éo le, oan khuất, bất hạnh.
Một loại nhân vật khác là những người trí thức có tâm huyết, bất mãn với thời cuộc,
không chịu trói mình trong vòng danh lợi chật hẹp.
- Chuyện người con gái Nam Xương là truyện thứ 16 trong 20 truyện của tác phẩm
này.
C.NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT:
- Nội dung: Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương,
“Chuyện người con gái Nam Xương” thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan
nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định vẻ
đẹp truyền thống của họ.
- Nghệ thuật: Tác phẩm là một áng văn hay , thành công về nghệ thuật dựng truyện,
miêu tả , kết hợp tự sự với trữ tình.
3.LUYỆN ĐỀ : PHÂN TÍCH NHÂN VẬT VŨ NƯƠNG :
I.MỞ BÀI:
*Cách 1:
- “Chuyện người con gái Nam Xương” là truyện thứ 16 trong 20 truyện của
“Truyền kì mạn lục”.
- Nhà nho Nguyễn Dữ đã khơi nguồn từ một truyện cổ tích có tên “Vợ chàng
Trương”, rồi bổ sung chi tiết, xây dựng nhân vật, gọt dũa lời văn…để sáng tạo nên 1
áng văn chương đặc sắc, rung động trái tim người đọc bao thế hệ.
- Thông qua nhân vật Vũ Nương, tác giả đã thể hiện sự trân trọng những phẩm chất
tốt đẹp đồng thời cảm thông sâu sắc đối với số phận người phụ nữ trong xã hội phong
kiến xưa.
*Cách 2:
-“Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương

Miếu ai như miếu vợ chàng Trương”.

Ngàn năm trôi qua, làn khói viếng “miếu vợ chàng Trương” vẫn muôn đời lan tỏa,
vấn vương, như tiếc như thương cho số phận đầy bi kịch của Vũ Nương. Bằng ngòi
bút đầy trân trọng trong “Chuyện người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ đã tạc vào
lịch sử văn học Việt Nam hình ảnh một người phụ nữ thời phong kiến, một Vũ
Nương, đại diện cho cái đẹp hoàn mỹ. Nhưng đáng tiếc thay, cuộc đời nàng lại chất
chứa những trang buồn đầy nước mắt.
II.THÂN BÀI:
1. Khái quát :
Câu chuyện kể về nàng Vũ Thị Thiết (còn gọi là Vũ Nương) quê ở Nam
Xương vốn là người phụ nữ mang đầy đủ vẻ đẹp công- dung -ngôn - hạnh .Đó là vẻ
đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Thế nhưng cuộc đời đưa đẩy, chỉ vì lời
nói ngây thơ của đứa con mà bị chồng nghi ngờ , bị những bất công trong xã hội
phong kiến đẩy đến bước đường cùng phải tự kết liễu đời mình để bày tỏ tấm lòng
trong sạch.
- Qua câu chuyện, Nguyễn Dữ đã khắc học thành công nhân vật Vũ Nương là một
người mang đầy đủ vẻ đẹp truyền thống. Nàng không chỉ xinh đẹp, nết na, lại đức
hạnh, hiếu thảo hơn người, thế nhưng, nàng lại phải chịu những nỗi đau, oan khuất bi
kịch.
3.Phân tích :
3.1. Nhân vật Vũ Nương:
a.Ý1: Vẻ đẹp của Vũ Nương: Trước hết,Vũ Nương là người phụ nữ đẹp người,
đẹp nết:
a1. Vẻ đẹp hình thức: có tư dung tốt đẹp.

2
Ngay từ đầu, nàng đã được giới thiệu là “tính đã thuỳ mị, nết na, lại thêm tư dung
tốt đẹp”. Chỉ một câu văn ngắn mà tác giả đã gợi lên hình ảnh một người con gái xinh
đẹp, với sự dịu dàng, duyên dáng.
a2.Vẻ đẹp phẩm chất, tâm hồn:
*Vũ Nương là một người vợ thủy chung, đẹp người, đẹp nết, hết lòng vun vén
cho hạnh phúc gia đình:
-Khi được làm vợ chàng Trương nhà giàu nhưng tính lại đa nghi, đối với vợ thì
phòng ngừa quá sức, thì nàng vẫn giữ gìn khuôn phép không lúc nào để vợ chồng
phải thất hoà.
- Trong hoàn cảnh loạn lạc chiến tranh phong kiến xảy ra, Trương Sinh phải tòng
quân đi lính. Cuộc chia tay thấm đẫm nước mắt của buổi biệt ly. Nàng rót chén rượu
đầy chúc chồng trở về với hai chữ “bình yên” mà không hề mong vinh hiển công
danh phú quý.
-Nàng bày tỏ sự cảm thông với những gian nan, nguy hiểm mà chồng sẽ phải chịu
đựng mà vượt qua . Còn phận người vợ ở nhà Vũ Nương bày tỏ nỗi khắc khoải nhớ
nhung da diết ứa hai hàng lệ.
- Khi xa chồng: Nỗi nhớ thương chồng cứ dài theo năm tháng, luôn luôn khao khát
ngày chồng trở về.
- Khi chồng trở về, bị nghi oan nhưng vẫn cố gắng hết sức phân trần ,giãi bày để níu
giữ hạnh phúc gia đình.
- Khi ở dưới thủy cung, nàng vẫn thương nhớ chồng con, vẫn khao khát ngày được
trở về...
=>Vũ Nương là nguời vợ yêu thương chồng tha thiết, luôn giữ gìn phẩm hạnh, một
lòng chung thủy với chồng, luôn nhớ thương khi chồng xa vắng và khao khát một
mái ấm giản dị luôn có chồng ở bên.
* Vũ Nương còn là một người mẹ hiền đảm đang, yêu con, một người con dâu
hiếu thảo:
- Với vai trò của người mẹ:
+ Khi Trương Sinh đi lính, Vũ Nương ở nhà một mình sinh con, một mình nuôi dạy
con thơ suốt ba năm trời đằng đẵng. Nàng luôn cố gắng bù đắp cho đứa con nhỏ sự
thiếu vắng tình cha. Đêm đêm, nàng chỉ vào chiếc bóng của mình trên vách và bảo đó
là cha Đản. Vũ Nương luôn muốn đứa con cảm nhận được hơi ấm của cha ở bên.
-Với vai trò là một người con dâu:
+ Nàng thay chồng chăm sóc mẹ già.
+ Khi mẹ chồng ốm: hết sức thuốc thang
lễ bái thần phật
lấy lời ngọt ngào khuyên lơn.
+ Khi mẹ chồng mất: Nàng lo ma chay chu tất như đối với cha mẹ đẻ.
=> Lời trăng trối của bà mẹ chồng đã thể hiện sự ghi nhận nhân cách và đánh giá cao
công lao của nàng đối với gia đình nhà chồng. Những lời nói ấy đã chứng minh tình

3
nghĩa mẹ chồng nàng dâu của Vũ Nương tốt đẹp biết bao, vượt lên trên thói thường
của cuộc đời.
* Vũ Nương còn là người coi trọng danh dự, sống tình nghĩa và giàu lòng vị tha:
- Nàng là người phụ nữ rất coi trọng danh dự: Khi bị chồng nghi oan ,nàng hết lời
phân trần thể hiện qua những lời nói tha thiết:
+ Lời thoại 1: hết lời thanh minh khẳng định tấm lòng chung thủy, phẩm hanh của
mình.
+ Lời thoại 2: nói lên nỗi đau đớn, thất vọng khi bị Trương Sinh ruồng rẫy, hắt hủi,
tình nghĩa vợ chồng tan vỡ.
+ Lời thoại 3: thất vọng đến tột cùng, Vũ Nương đành mượn dòng nước để bày tỏ
tấm lòng trong trăng của mình.
=>Vũ Nương là người coi trọng danh dự hơn cả mạng sống của mình.
- Vũ Nương còn là người sống tình nghĩa:
+ Khi Phan Lang nhắc đến phần mộ tổ tiên, nàng ứa hai hàng lệ.
+ Tuy ở thế giới khác nhưng vẫn thương nhớ chồng con, vẫn khao khát được phục
hồi danh dự.
+ Cảm tạ đức của Linh Phi, thề sống chết không bỏ. Đó là sự biết ơn đối với người đã
cứu mạng.
-Nàng còn rất giàu lòng vị tha : Dù Trương Sinh đã khiến nàng chịu nhiều oan khuất
nhưng khi gặp lại không hề oán hận Trương Sinh mà khi gặp vẫn “ đa tạ tình chàng”.
=> Vũ Nương là một người phụ nữ mang đầy đủ nét đẹp của một người phụ nữ
truyền thống. Nàng xứng đáng là “ khuôn vàng thước ngọc” của phụ nữ mọi thời đại.

b. Ý 2: Số phận bi thảm của Vũ Nương:


Một người mẹ hiền, một nàng dâu hiếu thảo, một người vợ thuỷ chung son sắt như
vậy đáng lẽ phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn vậy mà nàng lại phải chịu nỗi oan
khuất và số phận bi thảm:
- Vũ Nương sinh ra trong một gia đình nghèo khó, tưởng được nương tựa nhà giàu.
Nhưng lấy chồng lại có tính đa nghi, đối với vợ luôn phòng ngừa quá sức, nàng luôn
phải giữ gìn khuôn phép để vợ chồng khỏi thất hòa.Rồi chẳng bao lâu chiến tranh xảy
ra, nàng phải xa chồng, phải thay chồng một mình gánh vác công việc gia đình...
- Nỗi bất hạnh lớn nhất của Vũ Nương là bị nghi oan:
Khi Trương Sinh trở về ,ước mong sum họp gia đình của Vũ Nương đã trở thành
hiện thực. Nhưng thực oái oăm, nàng đâu ngờ cái ngày sum họp ấy cũng chính là lúc
nàng vĩnh viễn rời xa tổ ấm. Với bản tính đa nghi lại thêm nỗi buồn mẹ mất nên chỉ
vì lời nói của con trẻ mà Trương Sinh đinh ninh vợ mình thất tiết. Trước sự nghi ngờ
đó của chồng ,Vũ Nương đã hết lòng phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng của mình.
Nhưng Trương Sinh không nghe, không tin, Vũ Nương đã nói lên nỗi đau đớn thất
vọng khôn cùng khi không hiểu vì sao bị đối xử bất công, bị mắng nhiếc và đuổi ra
khỏi nhà. Nàng không có quyền tự bảo vệ ngay cả khi có họ hàng, làng xóm bênh
vực và biện bạch cho mình. Vậy là hạnh phúc gia đình, niềm vui khao khát cả đời
4
nàng đã tan vỡ. Tình yêu không còn “trâm đã gãy, bình đã tan”, cả nỗi đau khổ chờ
chồng như hoá đá trước đây cũng không thể làm lại được nữa.
- Cái chết của Vũ Nương :
+ Thất vọng đến tột cùng, nàng đã mượn dòng nước con sông quê hương để giãi
bày tấm lòng trong trắng của mình.
+ Được Linh Phi và các nàng tiên cứu giúp, nàng được sống dưới thủy cung. Đó là
sự sáng tạo của tác giả khi đưa các chi tiết kì ảo vào cuối câu chuyện. Tuy nhiên ,
không vì thế mà tính bi kịch trong cuộc đời của Vũ Nương được giảm đi. Bởi vì nàng
phải ở thế giới khác, vĩnh viễn không còn được sống bên chồng con, bên gia đình nơi
quê hương nữa.
- Nỗi oan khuất của Vũ Nương có nhiều nguyên nhân và được tác giả diễn tả rất
sinh động như một màn kịch ngắn có tạo tình huống xung đột thắt nút mở nút:
+ Nguyên nhân trực tiếp: tình huống bất ngờ đã tạo nên tấn bi kịch cho cuộc đời
nàng ,đó là hình ảnh chiếc bóng trên vách và lời nói ngây thơ của đứa con. Chiếc
bóng chính là một chi tiết nghệ thuật độc đáo. Chiếc bóng xuất hiện với Vũ Nương là
cách để dỗ con, cho nguôi nỗi nhớ chồng. “Chiếc bóng” đối với bé Đản chỉ là người
đàn ông xa lạ bí ẩn. Còn với Trương Sinh thì lại là bằng chứng không thể chối cãi về
sự hư hỏng của vợ.
+ Nguyên nhân gián tiếp:
. Do Trương Sinh là người có tính đa nghi, hay ghen, cách xử sự lại vô học, hồ đồ,
độc đoán.
. Do sự không công bằng trong hôn nhân đã tạo thêm quyền thế cho người đàn ông
trong xã hội phong kiến.
. Do giáo lý phong kiến bất công, hà khắc khiến người phụ nữ không có quyền tự
bảo vệ mình.
. Do chiến tranh đã tạo ra cảnh “ sinh ly tử biệt”, “ xa mặt cách lòng”.
=>Số phận của Vũ Nương đã phản ánh giá trị hiện thực, nhân đạo sâu sắc.
Số phận của Vũ Nương nói riêng và số phận của người phụ nữ trong xã hội phong
kiến nói chung thật đúng như ca dao đã diễn tả:
“Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu”
* Ý nghĩa của các chi tiết kì ảo:
Ngoài việc phản ánh bi kịch của nhân vật chính trong truyện, Nguyễn Dữ còn thể
hiện sự tài hoa, sáng tạo của mình qua việc đưa những chi tiết truyền kỳ mang tính
lãng mạn kì ảo.Điều đáng nói là ý nghĩa của những yếu kì truyền kì ấy:
- Trước hết , yếu tố kì ảo cuối truyện hoàn chỉnh thêm nét đẹp vốn có của nhân vật
Vũ Nương: dù ở thế giới khác nàng vẫn nặng tình với đời, quan tâm đến chồng con,
vẫn khao khát được phục hồi danh dự.

5
- Bên cạnh đó , yếu tố kì ảo còn đem lại cho câu chuyện một kết thúc phần nào có
hậu, thể hiện ước mơ ngàn đời của người dân về sự công bằng trong xã hội.
- Tuy nhiên, không vì thế mà tính bi kịch của truyện được giảm đi. Bởi vì Vũ Nương
trở lại dương thế rực rỡ uy nghi nhưng chỉ thấp thoáng giữa dòng sông lúc ẩn lúc hiện
rồi mờ nhạt dần và biến mất. Tất cả chỉ là ảo ảnh, là một chút an ủi cho người bạc
mệnh, hạnh phúc thực sự đâu có thể làm lại được nữa mà đã vĩnh viễn mất đi rồi.
- Bi kịch của Vũ Nương là một lời tố cáo XHPK xem trọng quyền uy của kẻ giàu có
và của người đàn ông trong gia đình. Chính cái xã hội bất công ấy đã đày đoạ người
phụ nữ khiến họ phải sống một cuộc đời bất hạnh với nỗi oan nghiệt thương tâm.
2.2.Nhân vật Trương Sinh:
- Con nhà hào phú nhưng vô học.
- Đại diện cho hình ảnh của người đàn ông trong xã hội phong kiến đẩy người phụ nữ
vào bước đường cùng.
3. Đánh giá:
- Tác phẩm là một áng văn hay , thành công về nghệ thuật dựng truyện, miêu tả , kết
hợp tự sự với trữ tình.
- Sử dụng tình huống bất ngờ, tạo sự hấp dẫn của câu chuyện
- Những chi tiết kì ảo tạo cho câu chuyện mang màu sắc cổ tích....
III.KẾT BÀI:
“Chuyện người con gái Nam Xương” khẳng định nét đẹp tâm hồn mang tính
truyền thống của người phụ nữ Việt Nam đồng thời thể hiện niềm cảm thương sâu
sắc đối với họ. Từ một chiếc bóng oan nghiệt, tác phẩm thấm đẫm cảm hứng nhân
văn, mở ra trước mắt người đọc biết bao điều sâu rộng về tình nghĩa vợ chồng, về
quan hệ giữa người với người. Câu chuyện thật xứng đáng là áng “thiên cổ kỳ bút”,
đáng để tìm hiểu và suy ngẫm.

6
VĂN BẢN “HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ”
( HỒI 14) -Ngô gia văn phái-

A.TÁC GIẢ:
- Ngô gia văn phái : là một nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì, ở làng Tả Thanh
Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây ( nay thuộc Hà Nội)
- Trong đó , hai tác giả chính là Ngô Thì Chí( 1753-1788) làm quan thời Lê Chiêu
Thống và Ngô Thì Du(1772-1840) làm quan dưới triều nhà Nguyễn.
B.TÁC PHẨM:
- Hoàng Lê nhất thống chí: tác phẩm viết bằng chữ Hán ghi chép về sự thống nhất
của vương triều nhà Lê vào thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê.
- Thể loại chí: một lối văn ghi chép sự vật, sự việc.
- Cũng có thể xem “Hoàng Lê nhất thống chí” là một cuốn tiểu thuyết lịch sử viết
theo lối chương hồi.
- Tác phẩm không chỉ dừng ở sự nhất thống của vương triều nhà Lê , mà còn được
viết tiếp, tái hiện một giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội phong kiến Việt
Nam vào khoảng ba mươi năm cuối thế kỉ XVIII và mấy năm đầu thế kỉ XIX.
- Cuốn tiểu thuyết có tất cả 17 hồi
- Hồi thứ 14 viết về sự kiện vua Quang Trung đại phá quân Thanh.
C.NỘIDUNG,NGHỆTHUẬT:
- Nội dung: Với quan điểm lịch sử đúng đắn và niềm tự hào dân tộc, các tác giả
“Hoàng Lê nhất thống chí” đã tái hiện chân thực hình ảnh người anh hùng dân tộc
Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh, sự thảm bại của quân
tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống.
- Nghệ thuật:Thể loại chí ghi chép sự việc một cách chân thực, sinh động. Nghệ
thuật xây dựng hình tượng nhân vật đặc sắc. Đoạn trích còn có sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa tự sự với miêu tả và biểu cảm.
D.PHÂN TÍCH:
I.MỞ BÀI:
- Cách 1 :
Trong văn học trung đại Việt Nam, “Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô Gia
Văn Phái là tác phẩm văn xuôi chữ Hán có quy mô lớn nhất và đạt được những thành
tích xuất sắc về nghệ thuật tiểu thuyết.Hồi thứ 14 của truyện kể về việc vua Quang
Trung đại phá quân Thanh một cách chân thực hào hùng. Đoạn trích không chỉ vẽ lên

7
chân dung lẫm liệt của người anh hùng vĩ đại mà còn làm nổi bật sự thất bại thảm hại
của quân Thanh xâm lược, sự đầu hàng nhục nhã của lũ vua quan Lê Chiêu Thống.
- Cách 2 :
Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trận
Bỏ Thăng Long, Chiểu Thông trốn ra ngoài.
Nhan đề của chương 14 đã đưa người đọc trở lại những giờ phút khó khăn nhưng
cũng rất hào hùng của dân tộc vào cuối năm Mậu Thân 1788, đầu năm Kỷ Dậu 1789
khi Lê Chiêu Thống rước 20 vạn quân Thanh sang xâm lược nước ta. Vị cứu tinh của
dân tộc ta thủa ấy là Nguyễn Huệ - người anh hùng áo vải Tây Sơn .
Nguyễn Huệ là hình tượng người anh hùng tiếp nối truyền thống lịch sử chống giặc
ngoại xâm của dân tộc với tấm lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần nhân ái, thông
minh tài trí tuyệt vời, ý chí quả cảm, mạnh mẽ.
- Cách 3:
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc

Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn/

Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi về cửa Bắc/

Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng... /

(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng? – Chế Lan Viên)

Với hơn bốn nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã trải
qua biết bao nhiêu đau thương, mất mát trước vó ngựa xâm lăng của kẻ thù. Nhưng
cũng ghi danh tên tuổi biết bao các vị anh hùng- niềm tự hào của dân tộc VN.

- Trong đó ,hình tượng nhân vật vua Quang Trung những phẩm chất tuyệt vời
của một nhà quân sự lãnh đạo tài ba, văn võ song toàn đã đi vào "Hồi thứ 14"
trong "Hoàng Lê nhất thống chí" thật cụ thể, thật sống động và chân thực, gây
ấn tượng đậm nét trong lòng người đọc.
II. THÂN BÀI:
1.Khái quát;
- “Hoàng Lê nhất thống chí” là một tác phẩm được viết theo thể chí hoặc có thể được
coi viết theo lối tiểu thuyết chương hồi, gồm 17 hồi.
- Cho đến nay lịch sử văn học Việt Nam chưa có tác phẩm văn học nào tái hiện lại
một cách chân thực và sinh động một giai đoạn đầy biến động của XHPKVN cuối thế
kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX như tác phẩm của dòng họ Ngô.
8
Xã hội Việt Nam khoảng 30 năm cuối thế kỉ XVIII từ khi chúa Trịnh Sâm chết (
1782 đến đầu thế kỉ XIX) khi Gia Long Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn thống
nhất đất nước ( 1802) là toàn bộ diễn biến câu chuyện .
- Một trong những hồi trung tâm và hay nhất của cuốn tiểu thuyết là hồi thứ 14 kể
chuyện vua Quang Trung đại phá quân Thanh 1789.
2. Phân tích :
2.1. Ý 1: Hình tượng người anh hùng Quang Trung ( Nguyễn Huệ):
a, Hành động mạnh mẽ quyết đoán:
Từ đầu đến cuối đoạn trích ,Nguyễn Huệ luôn tỏ ra là người có hành động
mạnh mẽ quyết đoán nhưng không xốc nổi, độc đoán mà có tính toán trước sau, có
tham khảo ý kiến. Khi nghe tin giặc chiếm Thăng Long, triều đình nhà Lê đã đầu
hàng, Nguyễn Huệ đã giận lắm định thân chinh cầm quân đi ngay để ra Bắc đánh
đuổi chúng. Nhưng rồi ông đã nghe lời quần thần lên ngôi hoàng đế để “ chính vị
hiệu”, ban lệnh ân xá khắp trong ngoài để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người.
Nguyễn Huệ lên ngôi vua ( ngày 25 tháng chạp năm Mậu Thân 1788 ) sau đó ra lệnh
lập tức xuất quân ngay. Trong vòng thời gian ngắn, Nguyễn Huệ đã làm được bao
nhiêu việc lớn: tế cáo trời đất lên ngôi hoàng đế, đốc suất đại binh ra Bắc, tranh thủ
gặp người cống sĩ ở huyện La Sơn là Nguyễn Thiếp, tuyển mộ quân lính, mở một
cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, hoạch định kế hoạch tiến đánh quân
Thanh… Qủa là một người chỉ huy quân sự cực kì sắc sảo, một nhà chính trị có nhãn
quan rất nhạy bén tự tin.
b, Trí tuệ sáng suốt, nhạy bén:
Nguyễn Huệ còn là một người có trí tuệ sáng suốt nhạy bén thể hiện qua lời phủ
dụ của ông với quân lính và cách ông xử tội Sở, Lân. Lời phủ dụ của nhà vua ở Nghệ
An trong cuộc duyệt binh trước khi lên đường ra Bắc như lời hịch ngắn gọn hào hùng
làm cho họ thêm phấn khích và quyết tâm chiến đấu đánh đuổi quân xâm lược. Bằng
lời lẽ giản dị và dễ hiểu, nhà vua khẳng định chủ quyền đất nước trong lịch sử dựng
nước và giữ nước của dân tộc ta từ đời Hán đến nay, từ thời Hai Bà Trưng cho đến Lê
Thái Tổ. Ông còn vạch trần dã tâm của giặc, kêu gọi quân lính đồng tâm hiệp lực và
ra kỉ luật thật nghiêm minh. Đó là sự sáng suốt trong việc phân tích thời cuộc và thế
tương quan chiến lược giữa ta và địch. Quang Trung còn sáng suốt trong việc xét
đoán và dùng người. Qua cách xử trí đối với Sở, Lân và Ngô Thì Nhậm cho thấy ông
là người lãnh đạo tối cao rất hiểu sở trường, sở đoản của thuộc hạ, lại rất độ lượng
công minh, khen chê đúng người đúng việc. Ông trách Sở và Lân là hạng “ võ dũng
vô mưu”, không biết tuỳ cơ ứng biến. Ông khen Ngô Thì Nhậm là người khéo lời lẽ
có kế sách hợp lí, rõ ràng. Với những nhận xét như vậy chắc chắn tướng sĩ phải tâm
phục khẩu phục.
c,Có ý chí quyết chiến quết thắng và tầm nhìn xa trông rộng:
9
Quang Trung không chỉ sáng suốt , nhạy bén trong việc dùng người, ông còn có
ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng.
-Trước khi xuất quân, Quang Trung đã tính sẵn kĩ mọi phương lược tiến đánh .
- Ông luôn tự tin ở bản thân và các tướng sĩ của mình. Mới khởi binh đánh giặc chưa
giành một tấc đất nào mà đã khẳng định chắc như đinh đóng cột là sẽ giành chiến
thắng quân Thanh trong vòng mươi ngày, hẹn vào Thăng Long ăn mừng chiến thắng
vào mùng 7 năm mới.
- Quang Trung còn tính sẵn kế hoạch ngoại giao sau khi chiến thắng để có thời gian
nuôi dưỡng lực lượng , xây dựng đất nước giàu mạnh để hòa bình ổn định lâu dài.
d,Tài dụng binh như thần :
- Lịch sử hào hùng của dân tộc còn tự hào biết bao khi Quang Trung còn đánh
dấu một mốc son chói lọi với tài dụng binh như thần đến tận bây giờ vẫn làm chúng
ta kinh ngạc. Đó là Người đã chỉ huy một cuộc hành quân thần tốc từ Phú Xuân (
Huế) ra ngoài Bắc với một số lượng đông đảo như thế mà lại có thể đi nhanh,an
toàn,đảm bảo bí mật đến nơi tập kết . Mà phương tiện chủ yếu là đôi chân chiến sĩ
với ngựa voi kéo cả đại bác vượt qua bao quãng đường đèo từ 25 đến 29 tháng
chạp.Vừa tuyển binh, duyệt binh vừa tổ chúc đội ngũ trong 1 ngày và ngay sau đó đã
đến Tam Điệp và đêm 30 Tết lập tức lên đường vừa hành quân vừa đánh giặc bao vây
Hà Hồi, quyết chiến ở Ngọc Hồi, dự định vào Thăng Long ngày mùng 7 tháng Giêng
nhưng thực tế đã vượt trước 2 ngày.
- Quang Trung còn là người anh hùng tài năng trong việc tổ chức quân đội thành
các đạo, các quân chặt chẽ, trong việc sử dụng các tướng lĩnh đúng với sở trường,ưu
điểm của mỗi người.
- Đặc biệt là tài chỉ huy các trận đánh với chiến thuật đa dạng: giữ bí mật, tạo bất
ngờ, dùng nghi binh, dùng ván ghép rơm... Trận Hà Hồi rồi đến Ngọc Hồi mỗi trận
sử dụng một chiến thuật phù hợp và giành chiến thắng tuyệt đối.
=> Dưới sự chỉ huy của Quang Trung, quân Tây Sơn thắng áp đảo khiến quân Thanh
tưởng “ tướng trên trời xuống” , “ quân dưới đất chui lên”, tướng giặc Tôn Sĩ Nghị sợ
mất mật, quân lính nhà Thanh bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết...
=>Đã đánh là thắng, chiến đấu là dũng mãnh ,quyết tử. Thật kỳ diệu bởi tài chỉ huy
của vị chủ tướng. Chiều ngày mùng 5 Tết, quân Tây Sơn đã tiến vào khinh thành
Thăng Long đường hoàng, oai phong trong chiến thắng vang dội.

e,Hình ảnh vua Quang Trung lẫm liệt trong chiến trận:
Vua Quang Trung cầm quân không chỉ trên danh nghĩa mà còn là một tổng chỉ
huy thật sự. Cho tới nay, những trang sử viết về Quang Trung luôn tự hào về hình
ảnh lẫm liệt của ông trong chiến trận. Quang Trung tự mình thống lĩnh một mũi tiến
10
công, cưỡi voi đi đốc thúc, xông pha trước bom đạn, nguy hiểm. Hình ảnh vua trrong
trận đánh Ngọc Hồi thật lẫm liệt: nhà vua cưỡi voi, đội mũ vàng, mặc áo bào đỏ chỉ
huy 3 quân trong khói đạn mù trời, tiếng reo dậy đất. Khí thế quân Tây Sơn dưới sự
chỉ huy của Quang Trung như thế chẻ tre, “ tướng trên trời xuống, quân dưới đất chui
lên”, bất ngờ như tiếng sấm ngang tai làm quân giặc rụng rời sợ hãi. Hình ảnh Quang
Trung ngồi trên bành voi, chiến bào đỏ sạm đen khói súng dẫn đầu đoàn quân vào
Thăng Long trong trận Ngọc Hồi - Đống Đa đánh dấu một mốc son chói lọi trong
lịch sử nước nhà.
g.Quang Trung còn là người có ý thức dân tộc sâu sắc, là vị vua yêu nước thương
dân:
- Việc Quang Trung lên ngôi hoàng đế trước khi ra bắc đánh quân Thanh là sự thể
hiện tinh thần tự chủ cao, nhận lấy sứ mệnh đại diện cho quốc gia, dân tộc để tổ chức
cuộc chiến chất chống quân xâm lược.
- Tinh thần tự chủ, niềm tự hào dân tộc được thể hiện tập trung trong lời dụ của vua
Quang Trung trong cuộc duyệt binh ở Nghệ An trước khi tiến quân ra Bắc Hà:
“Trong khoảng vũ đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam phương Bắc
chia nhau mà cai trị…”. Lời dụ của vua Quang Trung như âm vang và tiếp nối những
tuyên ngôn, chủ quyền của dân tộc ở bài thơ “Sông núi nước Nam” đời Lí. Hịch
tướng sĩ của Trần Hưng Đạo đời Trần, đến Bình Ngô đại cáocủa Nguyễn Trãi đời
Lê.
- Cũng như những bản tuyên ngôn đời trước, lời dụ của Quang Trung đã báo trước
với tất cả niềm tin tưởng về sự thất bại của quân xâm lược.
=> Bằng việc lên ngôi hoàng đế và đưa ra lời dụ này, Quang Trung không còn chỉ là
một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa Bắc Bình Vương trước đó, mà đã đường hoàng là
người đại diện cho ý chí quyết tâm và niềm tự hào của cả dân tộc trong cuộc chiến
đấu giành lại chủ quyền lãnh thổ.
2.2. Ý 2: SỰ THẤT BẠI THẢM HẠI CỦA QUÂN TƯỚNG NHÀ THANH VÀ
SỐ PHẬN BI ĐÁT CỦA VUA TÔI LÊ CHIÊU THỐNG:
a,Quân tướng nhà Thanh( Số phận lũ cướp nước):
Đối lập với hình ảnh đáng tự hào của vua Quang Trung , các tác giả Ngô gia
văn phái đã cho người đọc thấy sự thất bại thảm hại của quân tướng nhà Thanh và số
phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống. Trước hết tướng giặc Tôn Sỹ Nghị hiện lên
là một kẻ xảo trá, tham công, lấy danh nghĩa giúp vua Lê Chiêu Thống khôi phục họ
Lê nhưng thực chất là âm mưu chiếm nước Nam một cách hợp lý và công khai. Hắn
mưu cầu vệc riêng, bất tài, không biết mình, biết địch,kiêu căng chủ quan đã khiến
Tôn Sỹ Nghị có một bài học nhớ đời. Mấy ngày Tết chỉ chăm chú vào việc tiệc tùng
vui chơi, không đề phòng cảnh giác, không nắm tin tức một cách kịp thời. Khi quân
Tây Sơn đến, tướng giặc sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc
áo giáp, bỏ chạy thục mạng qua cầu phao. Thật bất tài, vô dụng, hèn nhát.
11
Tướng nào quân nấy, ta hãy xem quân lính nhà Thanh khi lâm trận: rụng rời sợ
hãi xin hàng, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết. Khi thấy chủ chuồn trước
qua cầu phao , quân lính cũng hoảng hồn tranh nhau qua cầu sang sông , xô đẩy nhau
rơi xuống sông đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được. Đó
là kết cục thích đáng cho những kẻ không có chính nghĩa đem quân đi cướp nước
người.
b,Vua tôi Lê Chiêu Thống (số phận kẻ bán nước):
Số phận của kẻ bán nước cũng thảm hại không kém. Vua Lê Chiêu Thống đã
mù quáng ngờ nghệch tin lời quân Thanh để “cõng rắn cắn gà nhà”, “rước voi về
giày mả tổ”. Hơn thế nữa còn bất chấp là kẻ bù nhìn , chịu sự chỉ huy dạy bảo và sỉ
nhục của bọn Tôn Sỹ Nghị . Trong lịch sử Việt Nam, không thấy có ông vua nào lại
đê hèn đến thế. Hắn từ bỏ vận mệnh của dân tộc dâng đất nước cho giặc và cũng phải
chịu chung số phận với quân Thanh. Khi thấy có biến cố, vua Lê Chiêu Thống cùng
gia đình hắn cùng với bọn tay sai quan lại trung thành với hắn phải trốn chạy trong sự
nhục nhã. Y vội vã đưa thái hậu ra ngoài, sợ hãi chạy “ bán sống bán chết”, cướp cả
thuyền của dân để qua sông. Được người thổ hào mời cơm, vừa ăn xong thì nghe tin
quân Tây Sơn đuổi sắp đến lại vội vàng chạy tiếp.Khi đuổi kịp Tôn Sỹ Nghị, thầy tớ
chỉ còn biết nhìn nhau chảy nước mắt than thở. Và kết cục cuối cùng là vua Lê phải
chịu số phận vong quốc, chôn thây nơi đất khách quê người.
3. Đánh giá:
- Tác phẩm viết theo lối tiểu thuyết chương hồi, không chỉ có giá trị văn học mà còn
mang giá trị lịch sử.
- Cả hai đoạn văn mêu tả cuộc tháo chạy của bọn cướp nước và bán nước đều được
tác giả tả thực với những chi tiết cụ thể nhưng âm hưởng lại hoàn toàn khác nhau.
Đoạn văn miêu tả sự thất bại của quân Thanh với nhịp điệu nhanh, hối hả chứa đựng
sự hả hê, sung sướng của người thắng cuộc. Đoạn văn miêu tả cuộc tháo chạy của
vua Lê Chiêu Thống nhịp điệu chậm hơn , chứa đựng sự ngậm ngùi chua xót của tác
giả trước sự sụp đổ của vương triều mình đã từng phụng thờ , dù biết đó là một kết
cục không thể tránh khỏi.
=>Khắc họa rõ nét hình ảnh người anh hùng Quang Trung trước sự thất bại của lũ
cướp nước và bán nước.
III.KẾT BÀI:
Với ngòi bút khách quan, chân thực, các tác giả Ngô gia văn phái đã dựng lên
một bức tranh sinh động về người anh hùng Nguyễn Huệ- vị vua văn võ song toàn,
chỉ huy tài tình cuộc hành quân thần tốc đại phá quân Thanh . Đồng thời cho thấy rõ
tình cảnh thất bại ê chề, nhục nhã của bọn xâm lược và vua quan bán nước. Tác phẩm
không chỉ cho ta hiểu thêm và tự hào về người anh hùng dân tộc mà còn củng cố ở
mỗi người đọc tinh thần yêu nước và giữ gìn bản sắc dân tộc.

12
“CHỊ EM THUÝ KIỀU”
(TRÍCH “TRUYỆN KIỀU” CỦA NGUYỄN DU)

A. VỊ TRÍ ĐOẠN TRÍCH:


- Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi giới
thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc Thuý Vân và Thuý
Kiều.
B.NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT:
- Nội dung : Đoạn thơ “Chị em Thuý Kiều” đã khắc hoạ rõ nét chân dung chị em
Thuý Kiều. Ca ngợi vẻ đẹp, tài năng của con người và dự cảm về kiếp người tài hoa
bạc mệnh là biểu hiện của cảm hứng nhân văn ở Nguyễn Du.
- Nghệ thuật: Đoạn thơ sử dụng bút pháp ước lệ, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để gợi tả
vẻ đẹp của con người.Ngoài ra trong đoạn thơ , tác giả còn sử dụng thành công các
biện pháp tu từ : nhân hóa, so sánh , ẩn dụ…, sử dụng các thành ngữ, điển tích điển
cố…
C.CÁC Ý CHÍNH:4 phần:
- 4 câu đầu: Giới thiệu khái quát về hai chị em
- 4 câu tiếp: Vẻ đẹp của Thúy Vân
- 12 câu tiếp: Vẻ đẹp tài sắc của Thúy Kiều
- 4 câu cuối: Cuộc sống và đức hạnh của hai chị em.
D.CÁCH MỞ BÀI CHO CÁC ĐOẠN TRÍCH TRONG TRUYỆN KIỀU:
- Giới thiệu tác giả : Nguyễn Du là một nhà thơ lớn, một đại thi hào của dân tộc Việt
Nam.
- Giới thiệu tác phẩm:
+ “Truyện Kiều được coi là kiệt tác của ông, là niềm tự hào của bao thế hệ bạn đọc.
+ Tác phẩm mang giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.
- Giới thiệu đoạn trích: Một trong những đoạn thành công nhất để lại ấn tượng sâu
sắc nhất trong lòng người đọc là đoạn trích “…”
E.PHÂN TÍCH CHI TIẾT ĐOẠN TRÍCH CHỊ EM THÚY KIỀU:
I.MỞ BÀI:
-Cách 1: Có một nhà thơ mà người Việt Nam không ai là không mến yêu
và kính phục, có một truyện thơ mà hơn hai trăm năm qua không mấy người
Việt Nam không thuộc lòng vài đoạn hay vài câu. Nhà thơ ấy, truyện thơ ấy đã

13
trở thành niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Đó chính là đại thi hào Nguyễn
Du và kiệt tác “ Truyện Kiều”. Trong đó đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” được
coi là đỉnh cao về nghệ thuật tả người với bút pháp ước lệ đặc sắc...
-Cách 2:
“Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”
( Kính gửi cụ Nguyễn Du- Tố Hữu)
Những vần thơ của Tố Hữu đã thể hiện niềm kính yêu , ngưỡng mộ đối với đại thi
hào của DT: Nguyễn Du. Câu thơ đã gợi nhắc đến sự thành công của tác phẩm
“Truyện Kiều”- một kiệt tác của nền VHTĐ VN. Trong đó, tiêu biểu (nổi bật , ấn
tượng ...) nhất là đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” với bút pháp tả người đặc sắc đã
khắc họa rõ nét bức chân dung của 2 chị em Thúy Vân, Thúy Kiều.
Cách 3: “Thơ ca làm cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trên đời trở thành bất tử.”
(Shelly). Có những giá trị vững bền của cuộc sống được lưu giữ lại nhờ những vần
thơ, có những nhịp ngân của tâm hồn được in dấu lại qua mỗi trang văn. Có lẽ thơ ca
ra đời để làm bạn với con người, để đồng cảm, sẻ chia với con người trong mọi vui
buồn của cuộc sống. Chính bởi vậy khi đứng trước hiện thực xã hội phong kiến bất
công , Nguyễn Du đã thổn thức lòng mình và cất lên những vần thơ “Truyện Kiều”
đầy xúc cảm. “Chị em Thúy Kiêu” là một trong những đoạn trích tiêu biểu. Trong
đoạn trích này Nguyễn Du đã tập trung miêu tả tài sắc của chị em Kiều, qua đó ta
thấy được cảm hứng nhân văn của ông.
II.THÂN BÀI:
1.Khái quát:
- Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” nằm ở phần đầu của tác phẩmgặp gỡ và đính
ước” khắc họa rõ nét chân dung tuyệt mỹ của Thúy Kiều và Thúy Vân, Ca ngợi vẻ
đẹp chuẩn mực, lý tưởng của người phụ nữ phong kiến, đồng thời dự cảm về kiếp tài
hoa bạc mệnh của thúy kiều.
Với ngòi bút rất mực tài hoa,chỉ với hai mươi tư câu thơ lục bát, Nguyễn Du đã
vẽ nên hai bức chân dung thiếu nữ Thúy Vân , Thúy Kiều bằng tất cả tấm lòng đồng
cảm, mến yêu và trân trọng. Đoạn thơ miêu tả theo một trình tự hợp lí: đầu tiên tác
giả giới thiệu khái quát về cả hai chị em, sau đó lần lượt miêu tả từng người một và
cuối cùng lại khẳng định thêm một lần nữa về cuộc sống, đức hạnh của họ.
2.Phân tích các ý:
a. Ý 1: 4 CÂU ĐẦU: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HAI CHỊ EM:
14
Mở đầu đoạn thơ là lời giới thiệu tự nhiên, giản dị, nhận xét một cách khái
quát của tác giả về 2 cô con gái đầu lòng nhà họ Vương:
“ Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân
Mai cốt cách , tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ , mười phân vẹn mười”
Hai “ả tố nga” gợi lên cách gọi quen thuộc, thân mật của người dân xứ Nghệ đối
với các cô, các chị. Từ “tố nga” đã trở thành hình ảnh ẩn dụ chỉ người con gái đẹp dịu
dàng, kiêu sa như hằng nga trên cung trăng trong truyện cổ tích thần kì. Sau lời nhận
xét chung về nhan sắc, Nguyễn Du giới thiệu về thứ bậc trong gia đình: “Thúy Kiều
là chị, em là Thúy Vân”. Với bút pháp ước lệ lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để gợi tả vẻ
đẹp của con người, Nguyễn Du đã gợi ra dáng vẻ mảnh mai, thanh tao của hai chị em
mang cốt cách của hoa đào, hoa mai. Tâm hồn hai nàng trong trắng tinh khôi như
tuyết. Mỗi người mang một vẻ đẹp khác nhau nhưng đều hoàn hảo tới mức “ mười
phân vẹn mười”.
b.Ý 2: 4 CÂU TIẾP: VẺ ĐẸP CỦA THÚY VÂN:
Sau lời giới thiệu chung, nhan sắc của Thúy Vân được Nguyễn Du khắc họa với
vẻ đẹp cao sang, quý phái, phúc hậu ít ai sánh được:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn , nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thu nước tóc, tuyết nhường màu da”
Câu thơ đầu miêu tả ấn tượng bao quát về nhan sắc, dáng vẻ của Thúy Vân thông
qua 2 từ “trang trọng”. Vẻ đẹp của người thiếu nữ được so sánh với những hình
tượng thiên nhiên, những thứ cao đẹp nhất trên đời: trăng, hoa,mây ,tuyết, ngọc. Ba
câu thơ tiếp theo lần lượt mêu tả cụ thể vẻ đẹp của Vân. Với thủ pháp liệt kê, bút
pháp ước lệ quen thuộc, Thúy Vân hiện lên với khuôn mặt đầy đặn đẹp như trăng
rằm, lông mày sắc nét uốn cong như mày ngài, khuôn miệng xinh xắn với nụ cười
tươi thắm như hoa, giọng nói trong trẻo như ngọc. Hơn nữa nàng còn sở hữu một làn
da trắng mịn màng hơn tuyết, mái tóc óng mượt , bồng bềnh hơn mây. Có thể nói , vẻ
đẹp của Thúy Vân được tạo nên bởi sự hòa hợp, êm đềm về thiên nhiên tạo hóa. Với
cụm từ “mây thua, tuyết nhường” , Nguyễn Du còn dự báo nàng sẽ có một cuộc đời
bình lặng suôn sẻ.
C. Ý 3: VẺ ĐẸP CỦA THÚY KIỀU:
* 2 câu chuyển ý: Khi đọc những câu thơ miêu tả về Thúy Vân, chắc hẳn người đọc
tưởng tượng về một cô gái đẹp tuyệt trần, không ai có thể đẹp hơn được nữa. Nhưng
15
chỉ bằng hai câu thơ tiếp theo thì Thúy Vân bỗng chỉ là các nền để tôn lên vẻ đẹp của
Thúy Kiều.
“ Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Với nghệ thuật so sánh đòn bẩy, Nguyễn Du đã khẳng định vẻ đẹp vượt trội của
Thúy Kiều so với Thúy Vân. Nếu cô em có vẻ đẹp “đoan trang” phúc hậu thì cô chỉ
mang vẻ đẹp “sắc sảo mặn mà” tức là không chỉ có sắc mà còn có tài. Vậy là tài sắc
vẹn toàn, điều này hơn hẳn Thúy Vân.
Nguyễn Du lại tiếp tục dùng bút pháp ước lệ kết hợp với nghệ thuật so sánh, ẩn dụ
để gợi lên bức chân dung về một trang tuyệt thế giai nhân:
“Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”
Vẫn với hình ảnh thiên nhiên mang tính chuẩn mực làm đối tượng so sánh: làn
nước mùa thu gợi lên một đôi mắt trong sáng, long lanh, linh hoạt. Còn hình ảnh “nét
xuân sơn”- nét núi mùa xuân lại gợi lên một đôi lông mày thanh tú trên gương mặt trẻ
trung. Điều đáng lưu ý là so với chân dung em gái, chân dung nàng Thúy Kiều càng
trở nên trừu tượng hơn. Nguyễn Du không miêu tả cụ thể khuôn mặt, mái tóc, làn
da… mà chỉ gợi lên ánh mắt, dáng mày để người đọc tha hồ tưởng tượng. Chúng ta
thấy rõ dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Du khi tác giả tập trung khắc họa vẻ đẹp của
đôi mắt bởi đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, đôi mắt thể hiện sự tinh anh của trí tuệ.
Cái “ sắc sảo” của trí tuệ, cái “mặn mà”của tâm hồn đều liên quan đến làn nước xanh
êm ả ấy. Đó là đôi mắt biết nói, đôi mắt với vẻ đẹp có thể sánh ngang với các đại mỹ
nhân trong văn học cổ Trung Hoa như Tây Thi, Điêu Thuyền, Bao tự…có thể làm
“nghiêng nước nghiêng thành” . xiêu đình đổ quán. Vẻ đẹp của Kiều đã vượt ra ngoài
khuôn khổ , quy luật khiến cho tạo hóa phải ghen ghét, đố kị. Hình ảnh “hoa ghen,
liễu hơn” chính là dự báo về một số phận truân chuyên sóng gió đầy éo le.
Ngoài việc miêu tả về sắc đẹp, Nguyễn Du còn dành nhiều câu thơ để miêu tả tài
năng của Kiều. Câu thơ “ sắc đành đòi một, tài đành họa hai” đã khẳng định tuyệt
đối sắc đẹp của Kiều đến mức độc nhất vô nhị, còn xét về tài thì may ra trong thiên
hạ có người thứ hai. Nàng đạt tới mức gần lý tưởng theo quan niệm phong kiến:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
16
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”
Trí tuệ, tài năng của Thúy Kiều cũng được Nguyễn Du ca ngợi hết mức. Trước
hết nàng có được trí thông minh trời phú, thiên bẩm, cái gì cũng tài, cái gì cũng giỏi.
Đặc biệt là tài đàn của nàng trở thành sở trường, năng khiếu có thể coi như một “nghề
riêng” “ăn đứt” thiên hạ. Ngoài ra Kiều còn biết sáng tác nhạc.Cung đàn “ Bạcmệnh”
chính là sự ghi lại tiếng lòng của một trái tim đa sầu đa cảm. Có thể nói vẻ đẹp của
Kiều là sự kết hợp hài hòa giữa sắc- tài- tình thể hiện sự mến yêu trân trọng vô bờ
của Nguyễn Du dành cho nàng. Qua nghệ thuật so sánh ẩn dụ, bút pháp ước lệ , đặc
biệt là quan niệm lý tưởng hóa nhân vật, Nguyễn Du đã để lại trong lòng người đọc
ấn tượng không phai về một hình tượng nhân vật có một không hai trong lịch sử văn
học nước nhà.
* Chân dung Kiều cũng là chân dung mang tính cách và số phận
- Vẻ đẹp của Kiều làm tạo hóa phải ghen ghét, đố kị: “hoa ghen”, “liễu hờn”,
báo hiệu số phận của nàng gặp gian truân, đau khổ. Cuộc đời Kiều là cuộc đời của
con người hồng nhan đa truân ,tài hoa bạc mệnh. Đúng như Nguyễn Du từng khẳng
định: “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen “
Hay:
“Chữ tài liền với chữ tai một vần”.
D.Ý 4: 4 CÂU CUỐI: CUỘC SỐNG VÀ ĐỨC HẠNH CỦA HAI CHỊ EM:
Bốn câu thơ cuối của đoạn trích như lời khép lại câu chuyện về hai chị em Vân-
Kiều để khẳng định một lần nữa đức hạnh vẹn toàn của họ:
“Phong lưu rất mực hồng quần
.....
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Cuộc sống của hai chị em họ Vương hiện lên thật phong lưu, quý phái song cũng
rất đoan chính, kín đáo, nền nã gia phong. Mặc dù đã đến tuổi trưởng thành nhưng
hai chị em không màng đến chuyện “ong bướm” mà sống khuôn phép, mẫu mực.
Điều đó chứng tỏ vẻ đẹp toàn vẹn, hoàn hảo lý tưởng của hai chị em Vân- Kiều.
III.KẾT BÀI:
Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều nói riêng và “Truyện Kiều” nói chung là một áng
thi ca chứa chan tinh thần nhân đạo của đại thi hào Nguyễn Du. Chúng ta không chỉ
thấy được bút pháp tài hoa của Nguyễn Du qua nghệ thuật tả người mà còn trân trọng
cảm phục trước tấm lòng của ông đối với người phụ nữ trong xã hội phong kiến, Đó
chính là một trong những điều làm nên sức sông lâu bền của “Truyện Kiều” trong
lòng bạn đọc bao thế hệ.

17
PHÂN TÍCH “KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH”
(TRÍCH TRUYỆN KIỀU) CỦA NGUYỄN DU:

A. VỊ TRÍ ĐOẠN TRÍCH:


- Thuộc phần thứ hai : Gia biến và lưu lạc : Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu
xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho
nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm
mưu mới.
B.NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT:
- Nội dung: Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” cho thấy cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi
và tấm lòng thuỷ chung, hiếu thảo của Thuý Kiều.
- Nghệ thuật:
+“ Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn miêu tả nội tâm nhân vật thành
công nhất trong “Truyện Kiều”, đặc biệt là bút pháp tả cảnh ngụ tình.
+Nhiều biện pháp tu từ được sử dụng đem lại hiệu quả NT độc đáo: Điệp ngữ, ẩn dụ
+ Sử dụng điển tích , điển cố, thành ngữ...
+ Một loạt các từ láy tượng hình hình, tượng thanh gợi hình, gợi cảm
+ Nghệ thuật tứ bình...
C.CÁC Ý CHÍNH: 3 Ý:
- 6 câu đầu: Hoàn cảnh cô đơn , tội nghiệp của Thúy Kiều( Tâm trạng Kiều trước
cảnh vật của lầu Ngưng Bích)
- 8 câu tiếp: Nỗi nhớ người thân của Thúy Kiều
+ 4 câu trước : Nhớ Kim Trọng
+ 4câu sau: Nhớ cha mẹ
- 8 câu cuối: Nỗi buồn, sự âu lo của Thúy Kiều thể hiện qua cách nhìn cảnh vật
D.PHÂN TÍCH:
I.MỞ BÀI: ( tương tự đề “ Chị em ThúyKiều”
Nguyễn Du là một nhà thơ lớn, một đại thi hào của dân tộc Việt Nam, “Truyện
Kiều” của ông được coi là kiệt tác, là niềm tự hào của bao thế hệ bạn đọc. Tác phẩm
mang giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Trong đó, đoạn trích “Kiều ở lầu
Ngưng Bích” là một trong những đoạn hay nhát, thành công nhất về nghệ thuật tả
cảnh ngụ tình và khắc họa nội tâm nhân vật”.
II.THÂN BÀI:
18
1. KHÁI QUÁT:
- Đoạn trích nằm ở phần thứ hai: “Gia biến và lưu lạc”.
- Gia đình Kiều bị vu oan, cha và em trai bị bắt. Nàng quyết định bán mình
chuộc cha và em, nhờ Thuý Vân giữ trọn lời hứa với chàng Kim. Nàng rơi vào tay họ
Mã. Khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh của Tú Bà, Kiều nhất định không chịu
cuộc sống ô nhục, nàng uất ức tự vẫn nhưng không thành. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi
Kiều bình phục sẽ gả cho người tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở Lầu Ngưng Bích,
đời thực hiện âm mưu mới.
- Đoạn thơ miêu tả chân thực cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy
chung, hiếu thảo, vị tha của Thúy Kiều khi nàng đang bơ vơ nơi đất khách quê
người..
2. PHÂN TÍCH CHI TIẾT:
a, 6 CÂU ĐẦU: CẢNH NGỘ CÔ ĐƠN BUỒN TỦI CỦA THÚY KIỀU:
Sáu câu thơ đầu gợi ra một không gian mênh mông , bát ngát vắng vẻ, còn Kiều
thì bơ vơ, cô đơn giữa không gian ấy:
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa , tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
- Với hai chữ “khóa xuân” cho thấy Kiều thực chất đang bị giam lỏng ở lầu
Ngưng Bích chứ không phải được đợi kén chồng như lời Tú Bà nói. Không gian
trước lầu Ngưng Bích được mở ra cả chiều rộng và chiều sâu.
Hình ảnh “ non xa trăng gần” gợi lên ngôi lầu Ngưng Bích chơi vơi giữa mênh
mang trời nước.
Cụm từ “ở chung” ngoài nghĩa trăng - núi non chung bầu trời, chung một bức tranh
còn có ngụ ý người - núi - trăng cùng hòa điệu, cùng chung một nỗi sầu.
-Từ lầu Ngưng Bích nhìn ra, Kiều chỉ thấy những dãy núi mờ xa, những cồn cát bụi
bay mù mịt.
- Cảnh vật ấy làm nổi bật hình ảnh Kiều trơ trọi giữa không gian mênh mông hoang
vắng không một bóng người. Kiều hoàn toàn bị cách biệt với thế giới bên ngoài.
-Phải chăng các hình ảnh “non xa, trăng gần, cát vàng, bụi hồng” vừa là hình ảnh
thực, vừa là hình ảnh mang tính ước lệ gợi tả sự mênh mông , rợn ngợp của không
gian.

19
-Qua đó diễn tả tâm trạng cô đơn, thân phận nhỏ nhoi bơ vơ như hạt cát hạt bụi của
Kiều trong cuộc đời rộng lớn.
-Tác giả sử dụng thành ngữ “mây sớm đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn khép kín.
Thời gian cũng như không gian giam hãm con người : sớm và khuya, ngày và đêm,
Kiều chỉ thui thủi một mình, làm bạn với trăng với núi.
-Đặc biệt từ láy “bẽ bàng” gợi tâm trạng chán ngán buồn tủi thương mình bơ vơ nơi
đất khách quê người. Kiều rơi vào hoàn cảnh cô đơn đến tuyệt đối. Có thể nói, 6 câu
thơ như được chia đôi: một nửa là cảnh, một nửa là tình người thấm đẫm trong cảnh
ấy.
b.Ý 2: 8 CÂU TIẾP: NỖI NHỚ NGƯỜI THÂN CỦA THÚY KIỀU:
*4 CÂU TRƯỚC: NỖI NHỚ KIM TRỌNG:
Nếu 6 câu thơ đầu còn là tả “nửa tình nửa cảnh” thì đến 8 câu tiếp theo cảnh đã
mờ đi để cho nỗi nhớ cồn lên ,nôn nao, xôn xao trong lòng Kiều. Người nàng nhớ
đến đầu tiên đó là Kim Trọng- người cùng nàng “thề non hẹn biển”:
“ Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Nguyễn Du đặt nỗi nhớ chàng Kim lên trước nỗi nhớ cha mẹ là đã tả đúng tâm
trạng Kiều lúc ấy.Khi bán mình chuộc cha , nàng đã phần nào làm tròn “chữ hiếu”nên
lúc nào trong lòng cũng canh cánh chưa sống trọn chữ “tình”. Kiều luôn cảm thấy
mình có lỗi, mắc nợ với chàng Kim.
Kiều nhớ đến lời thề nguyền của hai người dưới đêm trăng vàng nâng chén rượu
nồng mà day dứt đau đớn. Kiều hình dung cảnh chàng Kim trở về không gặp nàng
ngày đêm mong mỏi tin tức của nàng. Lại chạnh lòng nghĩ đến thân phận bơ vơ , côi
cút nơi chân trời góc bể nơi đất khách quê người của mình, nỗi đau đớn lại càng nhân
lên gấp bội.
Câu thơ “ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai” phải chăng là tấm lòng nhớ thương
Kim Trọng không bao giờ nguôi quên. Nhưng cũng có thể hiểu rằng: Nàng tự cảm
thấy tấm lòng son sắt của mình đã bị dập vùi hoen ố, nhơ bẩn biết bao giờ gột rửa cho
sạch . Song dù hiểu theo cách nào đi chăng nữa thì cũng thể hiện tình yêu tha thiết ,
nỗi nhớ da diết khôn nguôi của Kiều đối với mối tình đầu trong sáng.

20
*4 CÂU SAU: NỖI NHỚ CHA MẸ:
Sau nỗi nhớ người yêu, nỗi thương xót cha mẹ lại dâng lên trong lòng đứa con
hiếu thảo:
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”

Mặc dù đã bán mình chuộc cha, người chị cả trong gia đình đã hi sinh tất cả bản
thân mình, song khi nghĩ đến cha mẹ nàng không khỏi xót xa. Nàng thương cha mẹ
sáng chiều tựa cửa ngóng tin con , trông mong mỏi mòn.
-Cha mẹ ngày thêm tuổi già sức yếu mà nàng không được tự tay chăm sóc, không
được ủ ấm chăn cho cha mẹ khi mùa đông lạnh giá, không được quạt mát cho cha mẹ
trong những trưa hè oi nồng.
-Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh” và điển tích “sân lai, gốc tử” đều nói lên tâm trạng
nhớ thương, tấm lòng hiếu thảo của nàng. ...
Nàng tưởng tượng cảnh nơi quê nhà tất cả đã đổi thay mà sự đổi thay lớn nhất là cha
mẹ ngày một thêm già yếu.
=>Có thể nói, trong cảnh ngộ ở lầu Ngưng Bích, Kiều là người đáng thương nhất
nhưng nàng đã quên đi cảnh ngộ của bản thân mình để thương cho Kim Trọng, xót xa
cho cha mẹ , đủ thấy nàng là một người tình thủy chung, một người con hiếu thảo,
một người phụ nữ có tấm lòng vị tha đáng trọng.
c.Ý 3: 8 CÂU CUỐI: NỖI BUỒN, SỰ ÂU LO CỦA THÚY KIỀU THỂ HIỆN
QUA CÁCH NHÌN CẢNH VẬT:
- Tám câu thơ vừa là bức tranh “thực cảnh” mà cũng là “tâm cảnh”. Cảnh
được miêu tả theo cấu trúc tứ bình mang vẻ đẹp cổ điển. Ở nơi “khóa xuân”, Kiều chỉ
biết lấy thiên nhiên làm điểm tựa. và từ điểm tựa đó nàng nhận thức về số phận của
mình.
- Trở lại với thực tại, Kiều nhìn xung quanh không một bóng người, chỉ có một
mình đối diện với chính mình và nỗi buồn vì thế càng dâng lên vô hạn. Diễn tả tâm
trạng Kiều, Nguyễn Du chọn cách biểu hiện “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình
này” đúng như ông đã nhận xét:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
21
Điệp ngữ “buồn trông” mở đầu cho mỗi bức tranh mà Kiều quan sát thấy.
* Cảnh đầu tiên mà Kiều trông thấy là hình ảnh cửa bể lúc chiều hôm:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồn xa xa?

- "Buồn trông” là một mô típ quen thuộc trong ca dao, Nguyễn Du đã tiếp thu
một cách sáng tạo để diễn đạt tâm trạng của Thúy Kiều. “Buồn trông” là buồn mà
nhìn xa. Buồn mà trông ngóng một cái gì mơ hồ sẽ lên để làm thay đổi tình trạng hiện
tại.
- Hai câu thơ tả cảnh cửa biển mênh mang trong ánh nắng chiều đang dần lịm
tắt có một cánh buồm thấp thoáng, lẻ loi phía chân trời xa gợi lên khung cảnh mênh
mông, xa vắng. Cả không gian và thời gian của bức tranh thơ thẫm đượm một nỗi
buồn.
+ Không gian xa rộng, quạnh hiu nơi của bể như cũng làm nổi rõ hơn thân
phận nhỏ bé, cô đơn của Kiều.
+ Không gian ấy cộng hưởng cùng thời gian “chiều hôm”-thời khắc gợi nhớ,
gợi buồn khiến như thấm sâu hơn vào tâm hồn người con gái nơi xứ lạ nỗi niềm xót
xa.
- Giữa khung cảnh ấy, trái tim cô đơn, tâm hồn trống vắng cần lắm một hơi
ấm, một sự hiện diện của sự sống: “thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”.
+ Thuyền chính là hình ảnh biểu tượng cho sự sống con người. Nhưng đó là sự
hiện hữu mờ nhạt được diễn tả qua hai từ láy “thấp thoáng xa xa”.
+ Con thuyền vô định hiện hữu với cánh buồm thấp thoáng xa xa như một ảo
ảnh. Đại từ phiếm chỉ “ ai” mang nghĩa mơ hồ. Sự lẻ loi, đơn chiếc của cánh buồm
ẩn dụ cho thấy phận bơ vơ của Kiều nơi “ góc bể trân trời”. Cảnh đã gợi trong lòng
Kiều nỗi nhớ thương về cha mẹ, quê nhà xa cách, nỗi cô đơn và khát khao sum họp.
Viết về cảnh huống này, ca dao xưa có câu:
Chiều chiều ra đứng bờ sông
Muốn về quê mẹ mà không có……
* Nỗi buồn, sự cô đơn của người xa xứ như nhân lên khi Kiều nhìn cánh
hoa trôi bập bềnh trên sóng nước :
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu!
- Thuyền cũng trôi trong vô định, hoa cũng trôi trong vô định, “Biết là về
đâu”. Giống như thân Kiều một mình lạc lõng trong mờ mịt chân mây. Đâu là quê
nhà? Chẳng ai la thân thân.
- “Ngọn nước” và “ hoa” là những hình ảnh ẩn dụ “ Ngọn nước” tượng trưng
cho sóng gió cuộc đời. hình ảnh “ hoa trôi” gợi cảm và dễ làm rung động lòng người,
bởi lẽ dân gian thường dùng hình ảnh “bèo dạt mây trôi” để nói về kiếp người trôi
nổi, ….

22
+ Hình ảnh hoa trôi man mác gợi nỗi buồn xót xa. Đau thương cho một đóa
hoa lìa cội, lìa cành nổi trôi trên sóng nước dập vùi.
| + Nhìn hoa trôi liên tưởng đến thân mình. Kiều cũng đang nhắm mắt để mặc
dòng đời xô đẩy. Đời Kiều như cánh hoa tàn, như cánh chim lạc bầy bay trong giông
tố. Sau này khi bị Tú Bà ép phải tiếp khách ở lầu xanh. Kiều đã chua xót mà cất lời
than thở:
Khi xưa phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
* Sau một cửa biển, một cánh hoa giữa dòng nước là cảnh một “nội cỏ” hiện lên
trước mắt Kiều:
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

- Hình ảnh “ nội cỏ rầu rầu” gợi sắc cỏ ở mộ Đạm Tiên “ rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng
nửa xanh”. Có khác chăng chỉ là nơi đây không phải là một ngôi mộ cụ thể mà thôi.
- Đâu còn là: Cỏ non xanh tận chân trời trong tiết thanh minh khi Kiều còn sống
trong những ngày tháng êm đềm trướng rủ màn che
- Cảnh nơi xứ lạ như thấu cảm nỗi niềm của Kiều nên nhuốm màu tâm trạng của kiếp
người phiêu bạt.Nỗi “ rầu rầu” ấy tràn ngập, lan tỏa khắp không gian. Cái nhìn bao
quát từ “chân mây” xa xăm đến mặt đất, gần gũi, tất cả đều một màu “xanh xanh”
làm cho cỏ cây không còn nét tươi sáng lại thêm vẻ “ rầu rầu” làm cho sự sống càng
thêm cạn kiệt làm cho bức tranh phong cảnh héo tàn thêm.
- Nhìn chung, cảnh vật nhuốm màu tâm trạng, một tâm trạng chán ngán vô vọng vì
cuộc sống vô vị, tẻ nhạt; Kiều đau buồn thương tiếc cho tuổi thanh xuân, tài sắc của
mình đang dần tàn tạ.
- Âm điệu thơ thật buồn bởi vần bằng tạo cho ta cảm giác cái nhìn của kiều như lấp
đầy mệt mỏi, chán chường trước cảnh vật mênh mông.
*Và bức tranh cuối cùng là cảnh con sóng nổi lên ầm ầm sau cơn gió:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Âm điệu lời thơ trở nên dữ dội với những từ tượng thanh: “ ầm ầm”. “kêu”.
Hình ảnh những đợt sóng cuộn lên, trào tới, xô đẩy, cùng với tiếng rít gào của gió
vang lên đe dọa đến hãi hùng. Kiều thấy “gió cuốn” nghe “ sóng kêu” bỗng thấy kinh
hoàng, hốt hoảng. Nỗi buồn, sự thờ ơ sợ hãi đã đưa Kiều vào tâm trạng não nề. hoảng
hốt như kẻ bị bao vây, bị nhấn chìm, hoàn toàn bất lực. Kiều chới với như rơi vào
vực thẳm.
- Từ “ kêu” được sử dụng như một dụng ý nghệ thuật. “ Kêu” chứ không phải
là “ vỗ, đánh, xô, đập” .“Kêu” chính là lời báo một tương lai khủng khiếp,
đầy tai ương, bất trắc đang chờ kiều phía trước, tai họa sắp ập xuống cuộc
đời nàng.

23
- Hai câu thơ gợi hình ảnh một nàng kiều đang trong mắt bão. Thấy “ Gió
cuốn mặt duềnh, nghe tiếng sóng kêu”/ Kiều cảm thấy sợ hãi vô cùng. Tâm
trạng nàng lúc này rất hẫn loạn, kinh hoàng trước những sóng gió của cuộc
đời.
- Tình cảnh của nàng thật éo le, người đọc không thể không thương cảm.
 Đúng như Kiều linh tính,, ngay sau lúc này, Kiều đã bị mắc lừa Sở Khanh và
phải dấn thân vào kiếp lầu xanh.
=> Có thể nói, cảnh vật dưới con mắt Thúy Kiều được miêu tả từ xa đến gần, màu
sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động, nỗi buồn từ man mác bâng khuâng
đến bàng hoàng lo sợ. Với 8 câu thơ cuối, Nguyễn Du đã khẳng định bút pháp tài hoa
bậc nhất của mình qua nghệ thuật tả cảnh ngụ tình và khắc họa nội tâm nhân vật.
3.Đánh giá:
“Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn thành công nhất về khắc họa nội
tâm nhân vật và bút pháp tả cảnh ngụ tình.
- Đoạn trích còn sử dụng những điển tích điển cố sâu sắc.
- Biện pháp tu từ điệp ngữ, hình ảnh ẩn dụ được sử dụng độc đáo
- Các từ láy gợi hình gợi cảm
 Khắc họa cảnh ngộ cô đơn , buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo, vị
tha của Kiều.
III.KẾT BÀI:
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” nói riêng và “Truyện Kiều” nói chung là một
áng thi ca chứa chan tinh thần nhân đạo của đại thi hào Nguyên Du. Chúng tả không
chỉ hiểu được thân phận người phụ nữ dưới xã hội phong kiến mà còn trân trọng, cảm
phục tấm lòng của tác giả đối với họ.Chính vì điều đó, “Truyện Kiều “ đã trở thành
món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống tâm hồn của người dân Việt Nam.

24
LUYỆN ĐỀ PHÂN TÍCH “LỤC VÂN TIÊN CỨU KIỀU NGUYỆT NGA”
(TRÍCH TRUYỆN “LỤC VÂN TIÊN” CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU)

A.TÁC GIẢ:
1.Thân thế:
- Nguyễn Đình Chiểu( 1822-1888) tục gọi là Đồ Chiểu
- Ông sinh ra và lớn lên ở quê mẹ : làng Tân Thới , tỉnh Gia Định ( nay thuộc thành
phố HCM)
- Quê cha: xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừâ thiên - Huế
2. Cuộc đời : nhiều đau khổ:
+ Năm 21 tuổi thi đỗ tú tài
+ 6 năm sau thì bị mù
+ Không đầu hàng số phận, ông về Gia Định dạy học và bốc thuốc chữa bệnh cho
dân. Một mình ông đảm nhiệm ba trọng trách: thầy giáo, thầy thuốc, nhà thơ.
- Khi thực dân Pháp xâm lược Nam Kì, ông tích cực tham gia kháng chiến:
+ Làm cố vấn cho các lãnh tụ nghĩa quân
+ Viết văn thơ cổ vũ tinh thần yêu nước
3.Sự nghệp văn học: Là một nhà thơ yêu nước lớn của dân tộc . Ông để lại nhiều áng
văn chương có giá trị:
+ Truyền bá đạo lí làm người: Truyện Lục Vân Tiên, Dương Từ -Hà Mậu
+ Cổ vũ lòng yêu nước, ý chí cứu nước : Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc,Thơ điếu Trương Định
+ Y học: Truyện thơ dài: Ngư tiều y thuật vấn đáp.
B.TÁC PHẨM:
- Tuyện Lục Vân Tiên là truyện thơ Nôm được sáng tác vào khoảng đầu những năm
50 của thế kỉ XIX, được lưu truyền rộng rãi dưới hình thức sinh hoạt văn hoá dân
gian như “kể thơ”, “nói thơ Vân Tiên” , “hát Vân Tiên” ở Nam Kì Và Nam Trung Kì
và còn lan rộng ra toàn quốc.
- Truyện được in nhiều lần, có khi thêm bớt cả trăm câu thơ
- Văn bản thường dùng hiện nay có 2082 câu thơ lục bát
- Truyện có kết cấu gần giống truyện cổ tích, nội dung: nhằm truyền bá đạo lí làm
người.

25
- Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” thuộc phần đầu của truyện, kể lại
chiến công đầu tiên của LVT.
C. NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT CỦA ĐOẠN TRÍCH:
- Nội dung: Đoạn trích thể hiện khát vọng hành đạo giúp đời của tác giả và khắc họa
những phẩm chất đẹp đẽ của hai nhân vật: Lục Vân Tiên tài ba, dũng cảm, trọng
nghĩa , khinh tài; Kiều Nguyệt Nga hiền hậu, nết na, ân tình.
- Nghệ thuật:
+Xây dựng nhân vật qua hành động, cử chỉ,lời nói.
+ Ngôn ngữ giản dị, gần gũi, dân dã, mang đậm tính Nam Bộ.
D.CÁC Ý CHÍNH:
- Nhân vật Lục Vân Tiên:
+Giới thiệu khái quát
+Hành động đánh cướp.
+ Cử chỉ( cách cư xử).
+Lời nói
-Nhân vât Kiều Nguyệt Nga:
+ Hoàn cảnh xuất thân
+ Lời nói : dịu dàng, mực thước, các xưng hô khiêm nhường
+Tấm lòng ân nghĩa

ĐỀ 1: PHÂN TÍCH NHÂN VẬT LỤC VÂN TIÊN


I.MỞ BÀI:
- “Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường, thoạt nhìn chưa thấy sáng,
song càng nhìn càng sáng”- đó là lời nhận xét của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng về
một nhà thơ yêu nước nổi tiếng của miền Nam thế kỉ XIX: Nguyễn Đình Chiểu.
- Ông nổi tiếng với truyện thơ Nôm “Lục Vân Tiên”, một tác phẩm có sức sống mạnh
mẽ và lâu bền trong lòng nhân dân Nam Bộ.
- Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” là một trong những đoạn trích
hay nhất, giàu ý nghĩa nhất của truyện.
- Trong đó , nhân vật LVT(KNN) được khắc họa thật ấn tượng qua hành động đánh
cướp, tinh thân nghĩa hiệp đáng trọng...(lời nói và tấm lòng ân nghĩa...).
II. THÂN BÀI:
26
1.KHÁI QUÁT:
- “Lục Vân Tiên” là truyện thơ Nôm gồm 2082 câu thơ lục bát. Nguyễn Đình
Chiểu muốn thông qua câu chuyện để truyền bá đạo lí làm người: đề cao trung, hiếu ,
tiết, nghĩa, phê phán thói bất nghĩa, bất nhân, phản trắc…
-Nhân vật chính của truyện là Lục Vân Tiên- một chàng trai văn võ song toàn thể
hiện trọn vẹn ước mơ công lí của tác giả.
(- Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga ” thuộc phần đầu của truyện kể lại
chiến công đầu tiên của chàng trai họ Lục và cuộc gặp gỡ với nàng tiểu thư khuê các
Kiều Nguyệt Nga. Đoạn thơ thể hiện khí phách anh hùng và tinh thần nghĩa khí của
Lục Vân Tiên cũng như sự hiền hậu nết na, ân tình của Kiều Nguyệt Nga.)
2.PHÂN TÍCH CÁC Ý:
a. Hoàn cảnh xuất hiện nhân vật :
- Lục Vân Tiên là một nhân vật lí tưởng, nhân vật đẹp nhất trong truyện "Lục Vân
Tiên" của NĐC. Chàng là con một gia đình thường dân ở quận Đông Thành, một
người học trò khôi ngô, có tài, có đức, văn võ song toàn “ người ở quận Đông Thành
/ Tu nhân tích đức nên sinh con hiền”, đặt tên là Lục Vân Tiên “Tuổi vừa hai tám
nghe chuyên học hành”.
(- Nói theo nhà văn, nhà phê bình văn học Hoài Thanh: “Trong cuộc đấu tranh giữa
cái thiện và cái ác trong một xã hội suy tàn, Nguyễn Đình Chiểu đã đưa vào cả một
đạo quân tưng bừng khí thế, kiên quyết vì chính nghĩa mà chiến đấu và chiến thắng
thì thủ lĩnh đạo quân đó phải là Lục Vân Tiên chứ không phải là một ai khác." )
- Hình ảnh Lục Vân Tiên được khắc hoạ qua mô típ ở truyện Nôm truyền thống: Một
chàng trai tài giỏi cứu cô gái thoát hiểm nghèo rồi từ ân nghĩa đến tình yêu (như
Thạch Sanh đánh bại đại bàng để cứu công chúa ...). Mô típ truyền thống đó thường
thể hiện niềm mong ước của tác giả và cũng là của nhân dân, trông mong ở những
người tài đức, dám ra tay cứu nạn, giúp đời.
- Sau khi từ giã thầy học của mình, Vân Tiên trở về quê thăm cha mẹ để chuẩn bị lên
kinh ứng thi, giữa đường gặp người dân khóc than chaỵ loạn do bọn cướp gây nên.
Chàng hỏi qua sự tình mới hay có một bọn cướp vừa phá làng xóm và bắt đi hai cô
gái. Lục Vân Tiên không chịu nổi cảnh bất bình liền ra tay cứu người:
Vân Tiên nổi giận lôi đình
Hỏi thăm lũ nó còn đình nơi nao
Tôi xin ra sức anh hào
Cứu người cho khỏi lao đao buổi này.
b. Hình ảnh Lục Vân Tiên qua hành động đánh bọn cướp Phong Lai (từ đầu
đoạn trích đến Bị Tiên một gậy thác rày thân vong)

27
Trước hết , LVT là anh hùng hảo hán, có tài năng, văn võ song toàn, có khí phách
anh hùng, có tấm lòng vì nghĩa quên thân....
* Lời nói với bọn cướp:
- Gặp nhật tình huống “bất bằng”, trước tội ác của lũ bất lương. Lục Vân Tiên
thể hiện sự căm giận sục sôi, chàng đã cất lời đanh thép lên án hành động dã
man của chúnggây tai họa của người dân:
“Kêu rằng: "Bớ đảng hung đồ,
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân.”
* Hành động đánh cướp:
- Khi biết, Vân Tiên muốn đánh cướp cứu người, dân làng hết sức khuyên
chàng trẻ tuổi không nên dính vào việc này vì tương quan lực lượng quá
chênh lệch, e sẽ mang họa vào thân nhưng LVT chủ động đi tìm cướp, đánh
tan chúng để cứu người gặp nạn yếu đuối.
“Vân Tiên ghé lại bên đàng.
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô.”
+ Vân Tiên chỉ có một mình, không có vũ khí trong tay, chàng bẻ cây bên
đường làm gậy để đánh cướp. Còn bọn cướp đông đảo, hung hãn, giáo gươm
đầy đủ, thanh thế lẫy lừng “Người đều sợ nó có tài không đương”.
+ Thấy Lục Vân Tiên, tên tướng cướp Phong Lai tức giận nói những lời hung
hãn, ngông cuồng như dọa nạt chàng rồi hắn truyền quân bủa vây bốn phía để
trừng trị Vân Tiên:
Phong Lai mặt đỏ phừng phừng:
“Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây.
Trước gây việc dữ tại mầy,
Truyền quân bốn phía phủ vây bịt bùng".
- Trước tình thế khó khăn nhưng LVT có tinh thần chiến đấu dũng cảm ngoan
cường.
Vân Tiên tả đột hữu xông,
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang
Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Phong Lai trở chẳng kịp tay,
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.
+ Ngay từ phần mở đầu tác phẩm, NĐC đã giới thiệu LVT là người: “Văn đà khởi
phụng đằng giao/ Võ thêm tamlược lục thao ai bì”.
+ Hình ảnh Vân Tiên trong trận đánh được miêu tả thật dũng mãnh. Bất chấp bọn
cướp bao vây tử phía, một mình chàng xông vào đánh bọn cướp không hề đắn đo
28
suy nghĩ, không quản hiểm nguy đến tính mạng của mình “Bẻ cây làm gậy nhằm
làng xông vô”.
+Lục Vân Tiên đã dũng cảm “tả đột hữu xông”, “Khác nào Triệu tử phá vòng
Đương Dang". Hình ảnh Lục Vân Tiên đánh cướp giống như một dũng tướng
tài ba, chủ động mưu trí, dứt khoát, sánh ngang Triệu Tử Long thời Tam Quốc
trong trận phá vây quân Tào Tháo ở ĐươngDang để bảo vệ ấu chúa.
+ Sức mạnh của chàng trai trẻ khiến bọn cướp phải khiếp sợ. Trận đánh kết
thúc nhanh chóng, bất ngờ, quân cướp hung hãn đã tán loạn bỏ chạy “Lâu la
bốn phía vỡ tan / Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.”. Tên tướng cướp
phải bỏ mạng vì tội ác mà hắn đã gây ra: “Phong Lai trở chẳng kịp tay./Bị Tiên
một gậy thác rày thân vong”.

=>Nhận xét:
+ Không cần tả tỉ mỉ trận chiến, chỉ bằng mấy dòng thơ ngắn gọn mà đặc sắc
cùng nghệ thuật so sánh; lời thơ chân chất, mộc mạc Nguyễn ĐC đã nêu lên
một chân lí: kẻ bất nhân độc ác thì sẽ thảm bại, người anh hùng làm việc nghĩa
tất yếu sẽ chiến thắng. Sức mạnh chiến thắng của Lục Vân Tiên là sức mạnh
chiến thắng của chính nghĩa đối với gian tà, là ước vọng của tác giả và nhân
dân.
+ Qua hành động đánh bọn cướp Phong Lai, Vân Tiên hiện lên như một trang
anh hùng hảo hán: có tài vũ dũng, có khí phách anh hùng, có tấm lòng vì nghĩa
quên thân. Chàng tự nguyện dấn thân vào chỗ hiểm nguy, chiến đấu hết mình
và chiến thắng rực rỡ. Tất cả đều vì nhân nghĩa cao đẹp.
b. Hình ảnh Lục Vân Tiên trong cuộc đối đáp với Kiều Nguyệt Nga (phần
còn lại)
Đánh tan lũ cướp Phong Lai chàng đã giải thoát cho Kiều Nguyệt Nga và
Kim Liên. Cuộc kì ngộ giữa người đẹp và anh hùng diễn ra thấm đẫm tình
người.
Qua cuộc hội ngộ này, trước hết ta thấy Vân Tiên là người có tấm lòng nhân
hậu caocả:
Dẹp rồi lũ kiến chòm ong,
Hỏi: “Ai than khóc ở trong xe này"
(…) Vân Tiên nghe nói động lòng,
Đáp rằng:"Ta đã trừ dòng lâu la”
Vân Tiên là con người chính trực hào hiệp nhưng cũng rất từ tâm nhân hậu.
Thấy hai cô gái chưa hết hãi hùng chàng tìm cách an ủi, hỏi thăm ân cần: Hỏi:
“Ai than khóc ở trong xe này". Chàng xúc động và an ủi chân tình khi nghe
người bị nạn (Kiều Nguyệt Nga và Kim Liên) giãi bày cảnh ngộ: Vân Tiên
nghe nói động lòng.
29
-Lục Vân Tiên còn là người biết coi trọng lễ giáo phong kiến trong quan hệ
nam nữ - đó là sự giao tiếp đứng đắn của một người có đọc sách thánh hiền với
người phụ nữ hoàn toàn xa lạ với mình. ( Trong quan niệm phong kiến xưa “ nam
nữ thụ thụ bất thân”)
Khoan khoan ngồi đó chớ ra.
Nàng là phận gái, ta là phận trai .
Tiểu thơ con gái nhà ai.
Đi đâu đến nỗi mang tai bất kỳ.
Chẳng hay tên họ là chi ?
Khuê môn phận gái việc gì đến đây ?
Trước sau chưa hãn dạ này,
Hai nàng ai tớ ai thầy nói ra ?”.
- Vân Tiên là người có tính cách "trọng nghĩa khinh tài" cao thượng:
Khi nghe Kiều Nguyệt Nga mời chàng ghé qua nhà và ngỏ ý "báo đức thù
công" chàng đã khước từ chuyện ân huệ:
Vân Tiên nghe nói liền cười:
Làm ơn há dễ trông người trả ơn.
Nay đà rõ đặng nguồn cơn.
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.
Nhớ câu kiến nghĩa bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
+ Với Lục Vân Tiên, ơn nghĩa là việc thông thường của người có văn hóa,
đang theo dõi kinh sử, hướng về nghĩa khi, lấy chữ nhân làm động cơ, mục
đích cho mọi hành động. Chàng hànhđộng vì lòng nhân, vì nghĩa lớn, trừ kẻ ác,
bảo vệ người lương thiện.
+Chàng quan niệm: Nhớ câu kiến nghĩa bất vi./Làm người thế ấy cũng phi anh
hùng- lời nói vừa phê phán những kẻ tầm thường, vừa khẳng định việc làm
đúng đắn, tất yếu trong lẽ sống của mình: thấy việc nghĩa là phải ra tay, đó là
nghĩa vụ của kẻ làm trai, là thước đo phẩm chất của người anh hùng. Đây là lẽ
sống của bậc hiền nhân quân tử xưa, cũng là của con người chân chính ngày
nay. Đối với chàng, làm việc nghĩa là bổn phận, là lẽ tự nhiên, đâu phải “Làm
ơn há dễ trông người trả ơn”. Quan niệm, lẽ sống của người anh hùng được
Nguyễn Đình Chiểu thể hiện rõ:
“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”
Đó cũng là quan niệm của Nguyễn Du:

30
“Anh hùng tiếng đã gọi rằng
Giữa đường thấy sự bất bằng mà tha”
Hai nhà thơ lớn của dân tộc đã cùng đồng cảm quan niệm về người anh hùng.Tất
cả đều xuất phát từ câu nói của Mạnh Tử: “Kiến nghĩa bất vi vô dũng dã”( thấy việc
nghĩa không làm thì không phải là người anh hùng). Đó là nghĩa vụ và cũng là lí
tưởng sống của người anh hùng hiệp sĩ, các trang nam tử hảo hán thời trung đại. Như
vậy cách cư xử và hành động của Lục Vân Tiên mang tinh thần nghĩa hiệp của các
bậc anh hùng xưa. Qua nhân vật Lục Vân Tiên- một hình ảnh đẹp lí tưởng, Nguyễn
Đình Chiểu muốn gửi gắm niềm tin và khát vọng của mình về một người anh hùng
“Vì dân dẹp loạn”, khát vọng hành đạo giúp đời.
ĐỀ 2: NHÂN VẬT KIỀU NGGUYỆT NGA:
a, Hoàn cảnh xuất hiện nhân vật:
- Trong chuyến đi về miền Hà Khê, Kiều Nguyệt Nga đã phải đối mặt với một
mối nguy hiểm lớn từ đám cướp Phong Lai, chúng cướp phá làng xóm và bắt
đi hai cô gái là Nguyệt Nga và Kim Liên.
- Thân gái yếu ớt không thể làm gì hơn nên khi bị bọn hung đồ chặn cướp thì
nàng đã rất hoảng loạn, sợ hãi.
- Tuy nhiên, khi được những hành động nghĩa hiệp, nhân nghĩa của Lục Vân
Tiên cứu giúp thì những lời nói, hành động sau đó của Kiều Nguyệt Nga đã
cho thấy: nếu Vân Tiên là hình mẫu của vẻ đẹp nghĩa hiệp, thì Nguyệt Nga là
một hình mẫu của vẻ đẹp đoan trang, trọng ân nghĩa, thuỷ chung.
b, Những phẩm chất của Kiều Nguyệt Nga :
. Qua cuộc hội ngộ , trước hết ta thấy Kiều Nguyệt Nga đã bộc lộ đuợc phẩm chất
dịu dàng, thùy mị, nết na và có học thức của một tiểu thư khuê các:
“Thưa rằng:“Tôi thiệt người ngay”
Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ
Trong xe chật hẹp khôn phô
Cúi đầu trăm lạy cứu cô tôi cùng”
+ Những lời nói của Kiểu Nguyệt Nga đáp lại Lục Vân Tiên cho ta thấy nàng là một
người có học thức, lời ăn tiếng nói đều rất rõ ràng, nàng kể lẽ sự tình của mình “Sa
cơ nên mới lầm tay hung đồ”. Hai chữ "Thưa rằng” là cách nói đầy chuẩn mực, tôn
trọng thể hiện được cung cách của một con người có gia giáo, có học thức.
+ Nghe lời hỏi han ân cần của LVT, KNN trình bày rõ ràng, khúc chiết về quê quán,
tên tuổi, gia đình và tình cảnh của mình, đồng thời cho thấy nàng là người con hiếu
thảo, biết vâng lời cha, không ngại đường xá xa xôi nguy hiểm. Nàng cùng nữ tì
chuyển đến nơi cha làm tri phủ mới, để “định bề gia nghi”.
Thưa rằng: "Tôi Kiều Nguyệt Nga,

31
Con này tỳ tất tên là Kim Liên.
Quê nhà ở quận Tây Xuyên,
Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê.
Sai quân đem bức thư về,
Rước tôi qua đó định bề nghi gia.
Làm con đâu dám cãi cha,
Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành!
+ Mọi lời lẽ, cử chỉ của Nguyệt Nga đều toát lên vẻ đẹp dịu dàng, mực thước, trọng
lễ nghĩa. Đối với Vân Tiên, nàng tự xưng một cách khiêm nhường: chút tôi. tiện
thiếp, đồng thời gọi Vân Tiên là quân tửmột cách trân trọng.
Trước xe quân tử tạm ngồi,
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa:
Chút tôi liễu yếu đào tơ,
Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần.
*. Nổi bật ở Nguyệt Nga là lòng biết ơn, sự coi trọng ân nghĩa.
Lâm nguy chăng gặp giải nguy,
Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.
(…)
Hà Khê qua đó cũng gần,
Xin theo cùng thiếp đền ơn cho chàng
Gặp đây đương lúc giữa đàng,
Của tiền chẳng có, bạc vàng cũng không.
Gẫm câu báo đức thù công,
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.
+ Với nàng, ơn nghĩa của Vân Tiên là cái ơn trọng, không chỉ là ơn cứu mạng, mà
còn cứu cả cuộc đời trong trắng của nàng. Vì thế, nàng rất áy náy, băn khoăntìm cách
trả ơn, dù hiểu rằng có đền đáp mấy cũng là chưa dů.
+ Trước hết, nàng muốn bày tỏ lòng biết ơn bằng cách lạy tạ, rồi tha thiết mời Vân
Tiên ghé qua nhà để cha nàng được đền ơn, cuối cùng nàng muốn tặng chiếc trâm để
tỏ lòng tri ân.
-Tất cả những đề nghị đó đều không được Vân Tiên chấp thuận. Chính điều đó càng
làm cho Nguyệt Nga cảm động và nàng đã tự nguyện gắn bó đời mình với Vân Tiên,
vẽ bức hình chàng và luôn mang theo bên mình, dám liều mình để vượt qua mọi thế
lực ngăn cản để giữ trọn lòng thuỷ chung với chàng.

32
3. Đánh giá :
- Nghệ thuật: Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu bình dị mà có sức chinh phục lòng người:
ngôn ngữ mộc mạc, chất phác, gần với lời nói đời thường, mang màu sắc địa phương
Nam Bộ .Nhân vật được khắc họa sống động qua cử chỉ, hành động, lời nói mang
đậm chất Nam Bộ.
=> Đoạn trích khắc họa thành công nhân vật Lục Vân Tiên – mẫu người anh hùng lý
tưởng tuyệt đẹp: có bản tính nhân nghĩa hào hiệp, giàu lòng thương người, là hiện
thân của cái thiện chống cái ác. Kiều Nguyệt Nga là hình mẫu lí tưởng về người phụ
nữ trong XHPK: hiền hậu ,nết na ,ân nghĩa thủy chung.Hình ảnh Lục Vân Tiên thể
hiện rõ quan niệm đạo đức, nhân nghĩa sáng ngời của Nguyễn Đình Chiểu và của dân
tộc ta.
III.KẾT BÀI:

Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” nói riêng và tác phẩm “Lục Vân
Tiên” nói chung đã có vị trí quan trọng trong lòng người dân Nam Bộ. Một người
Pháp đã dịch tác phẩm này sang tiếng Pháp vì điều thôi thúc ông ta chính là hiện
tượng “Ở Nam Kì lục tỉnh, có lẽ không một người chài lưới hay người lái đò nào lại
không ngâm nga vài câu Lục Vân Tiên trong khi đưa đẩy mái chèo.” Điều đó chứng
tỏ tác phẩm đã diễn tả được chân thực những tình cảm của cả một dân tộc mà điều
quan trọng nhất là khát vọng hành đạo giúp đời như Nguyễn Đình Chiểu đã từng
quan niệm:
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”.

33
PHÂN TÍCH BÀI THƠ “ĐỒNG CHÍ” CỦA CHÍNH HỮU

A.TÁC GIẢ:
- Chính Hữu (1926- 2007) tên khai sinh là Trần Đình Đắc, quê ở huyện Can Lộc, tỉnh
Hà Tĩnh.
- Năm 1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ đô và hoạt động trong quân đội suốt hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ.
- Chính Hữu làm thơ từ năm 1947 và hầu như chỉ viết về người lính và chiến tranh.
- Tập thơ “Đầu súng trăng treo” (1966) là tác phẩm chính của ông.
- Thơ ông không nhiều nhưng có những bài đặc sắc, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và
hình ảnh chọn lọc, hàm súc.
- năm 2000, Chính Hữu được nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học
nghệ thuật
B.TÁC PHẨM:
- Bài thơ “Đồng chí” được sáng tác vào năm 1948, tác giả cùng đồng đội tham gia
chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc ( Thu đông 1947) đánh bại cuộc tiến công quy
mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc.
- Bài thơ “Đồng chí” là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất viết về người lính
cách mạng của văn học thời kháng chiến chống Pháp(1946-1954).
C.NỘI DUNG, NGHỆ THUÂT:
- Nội dung: Tình đồng chí của những người lính dựa tên cơ sở cùng chung cảnh ngộ
và lí tưởng chiến đấu thể hiện thật tự nhiên, bình dị mà sâu sắc trong mọi hoàn cảnh,
nó góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh và vẻ đẹp tinh thần của người lính cách
mạng.
- Nghệ thuật: Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu thể hiện hình tượng người lính cách
mạng và sự gắn bó keo sơn của họ qua những chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị ,
chân thực, cô đọng, giàu sức biểu cảm.
D. CÁC Ý CHÍNH:
- 6 câu thơ đầu + câu 7 :Cơ sở hình thành nên tình đồng chí.
-10 câu tiếp: Những biểu hiện của tình đồng chí.

34
-3 câu cuối: Một bức tranh đẹp về tình đồng chí,biểu tượng đẹp về hình ảnh người
lính CM.
E.PHÂN TÍCH:
I. Mở bài:
* Cách 1:
- Chính Hữu là nhà thơ chiến sĩ ,ông làm thơ từ năm 1947 và hầu như chỉ viết về
người lính và chiến tranh. Thơ Chính Hữu không nhiều nhưng có những bài đặc sắc,
cảm xúc dồn nén ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, hàm súc.
- Bài thơ Đồng chí được Chính Hữu sáng tác vào đầu năm 1948 in trong tập “Đầu
súng trăng treo” (1966) là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất viết về người lính
của văn học thời kì kháng chiến chống Pháp .
- Dẫn yêu cầu của đề(Đoạn thơ....)
* Cách 2:
- "Đồng chí!" - Ôi tiếng gọi sao mà thân thương tha thiết quá.(Tình đồng chí đồng đội
là một đề tài quen thuộc đã khơi nguồn cảm hứng sáng tác cho bao nhà thơ nhà văn).
Nó biểu hiện thật đầy đủ tình đồng đội của anh chiến sĩ cụ Hồ từ những năm 1948
của thời kỳ k/c chống Pháp.
- Cảm nhận được những tình cảm vừa thân quen vừa mới lạ trong cuộc sống chiến
đấu ấy, Chính Hữu, một nhà thơ - người chiến sĩ cách mạng đã xúc động viết bài thơ
“Đồng chí”. Với những lời thơ dạt dào tình cảm, bài thơ đã để lại bao cảm xúc trong
lòng người đọc.
-- Dẫn yêu cầu của đề (Đoạn thơ....)
* Cách 3:
“ Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”
(Tố Hữu)
Trong cuộc k/c chống Pháp, người lính bộ đội cụ Hồ trở thành biểu tượng đẹp trong
văn chương,đã khơi nguồn cảm hứng sáng tác cho biết bao nhà thơ nhà văn.
- Với tác phẩm “Đồng chí”, nhà thơ Chính Hữu đã đóng góp cho thơ ca k/c 1
hình tượng đẹp về người lính với những hình ảnh thơ hàm súc, đầy ấn tượng.
- Đoạn thơ...
II. Thân bài
1. Khái quát chung

35
- Bài thơ “Đồng chí” được Chính Hữu sáng tác đầu năm 1948 sau khi ông vừa tham
gia chiến dịch Việt Bắc vô cùng gian khổ, ác liệt. Chính hiện thực cuộc sống kháng
chiến gian lao và sôi nổi đó đã mang lại cho ông những cảm xúc chân thành về vẻ
đẹp bình dị của người lính trong chiến tranh và giúp ông thể hiện thành công một tình
cảm cao đẹp mang dấu ấn thời đại: tình đồng chí.
- “Đồng chí” là tình cảm gắn bó thiêng liêng và bền chặt của những người cùng
chung lý tưởng cách mạng, cùng sát cánh bên nhau chiến đấu cho sự nghiệp chung
của dân tộc. Tình đồng chí cùng với những tình cảm truyền thống khác như tình yêu
tổ quốc, tình cảm gia đình, tình bạn làm phong phú thêm đời sống tâm hồn con người
Việt Nam.
- (Đề ra ko phải khổ đầu: khái quát về mạch cảm xúc-bố cục của bt)
2. Phân tích :
a. Bảy câu thơ đầu, nhà thơ lý giải cơ sở hình thành tình đồng chí thắm thiết,
sâu nặng của những người lính cách mạng.
* Trước hết, những người lính cùng chung cảnh ngộ xuất thân: Trong cuộc chiến
tranh vệ quốc vĩ đại, những chiến sĩ kiên cường chiến đấu bảo vệ Tổ quốc không ai
khác chính là những người nông dân mặc áo lính. Mở đầu bài thơ là lời giới thiệu về
quê hương “anh và tôi”:
Quê hương anh nước mặn đồng chua.
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
- Hai câu thơ có giọng điệu tâm tình,tự nhiên của người đồng đội nhớ lại kỷ niệm về
những ngày đầu tiên gặp gỡ .
- Quê hương anh và làng tôi và cách gọi thân thuộc của những người nông dân cả
cuộc đời gắn bó thiết tha với làng quê.
- Không thấy nhà thơ nhắc đến tên một địa phương cụ thể nào, chỉ biết rằng quê
hương anh là vùng “nước mặn đồng chua”. Thành ngữ “ nước mặn đồng chua” đi
vào câu thơ rất tự nhiên khiến người đọc liên tưởng đến một vùng đồng chiêm trũng
ven biển quanh nằm úng lụt, đất nhiễm phèn nhiễm mặn khó canh tác. Cuộc sống
người dân ở đây rấtgieo neo, cơ cực . Còn “làng tôi” là một làng nghèo ở vùng trung
du miền núi đất cày lên sỏi đá. Đó là nơi đất đai khô cằn, con người phải đổi bát mồ
hôi lấy bát cơm, nơi mà người ta vẫn gọi là “Chó ăn đá gà ăn sỏi”.
- Bằng việc sử dụng thành ngữ và những cụm từ giản dị, quen thuộc của văn học dân
gian, nhà thơ đã cho người đọc thấy “anh và tôi” là những người lính trẻ có cùng
cảnh ngộ, đều là con em của những vùng quê nghèo nàn, lam lũ .Nghèovà cơ cực
truyền từ đời này sang đời khác, năm này sang năm khác trong bối cảnh đất nước có
chiến tranh phải sống kiếp đời nô lệ. Chính Hữu vốn nặng tình nặng nghĩa với làng
quê Việt Nam nên khi nhắc đến quê hương, giọng thơ của ông thật xao xuyến. bồi hồi
36
khó tả. Chỉ qua hai câu thơ thôi tác giả đã nêu rõ thành phần xuất thân của người
chiến sĩ phần lớn họ là nông dân nghèo khổ theo tiếng gọi cứu quốc, họ tạm xa con
trâu, mảnh ruộng để cầm súng giết giặc.
-Hai câu thơ viết theo cấu trúc sóng đôi, đối ứng: “ Quê anh – Làng tôi”, nước mặn
đồng chua/đất cày lên sỏi đá” đã diễn tả sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân của
người lính. Chính điều ấy đã trở thành niềm đồng cảm giai cấp, là cơ sở vững chắc
cho tình đồng chí, đồng đội của họ.
- Cơ sở thứ hai hình thành nên tình đồng chí là họ cùng chung nhiệm vụ, lí
tưởng chiến đấu : Trước ngày nhập ngũ, những con người này vẫn còn là xa lạ:
“ Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời, chẳng hẹn quen nhau”
+ Ngôn ngữ thơ của Chính Hữu giản dị, tự nhiên mà sâu sắc.Những con người tuy xa
lạ, tuy mỗi người ở một “ phương trời” khác nhau tưởng chừng như không hề quen
biết nhưng thật ra lại có sự liên kết vô hình qua từ “ đôi”. Tác giả không viết: “ hai
người xa lạ” mà viết là đôi người xa lạ vì bản thân từ đôi đã hàm chứa nhiều điều
chung nhau, giống nhau, một sự thân thiết khó nói thành lời.
+ Lời thơ viết là chẳng hẹn nhưng thực ra là đã có hẹn: anh và tôi có chung lòng yêu
nước, chung khát khao muốn đánh đuổi giặc để giải phóng quê hương nên cùng tự
nguyện lên đường nhập ngũ để rồi quen nhau. Đó chẳng phải là một cái hẹn hay sao?
(Cái hẹn ấy khiến ta nhớ tới những anh lính trong bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên:
Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ,
Quen nhau từ buổi một, hai.
Súng bắn chưa quen,
Quân sự mươi bài,
Lòng vẫn cười vui kháng chiến.
- Hình ảnh “anh – tôi” riêng biệt đã mờ nhòa, hình ảnh sóng đôi đã thể hiện sự
gắn bó tương đồng của họ trong nhiệm vụ và lí tưởng chiến đấu.
Súng bên súng đầu sát bên đầu
+ Súng bên súng là cách nói hàm súc, giàu hình ảnh, đó là những con người có
chung nhiệm vụ, chung chiến hào, cùng sát cánh bên nhau trong cuộc chiến đấu với lí
tưởng quyết tử cho tổ quốc quyết sinh
+ Hình ảnh đầu sát bên đầu lại diễn tả sự tâm đầu ý hợp, đồng lòng giữa hai người
lính.
+ Trong môi trường quân đội, đơn vị thay cho mái ấm gia đình, tình đồng đội thay
cho máu thịt. Cái xa lạ lần đầu nhanh chóng bị xóa đi. Sát cánh bên nhau chiến đấu,

37
càng ngày họ càng cảm nhận sâu sắc về sự hòa hợp, gắn bó giữa đồng đội cùng
chung lí tưởng và hành động.
- Tình đồng chí nảy nở bền chặt trong sự chan hòa, chia sẻ mọi gian khổ,
thiếu thốn. Đó chính là cơ sở thứ ba hình thành nên tình đồng chí:
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
+ Câu thơ gợi về một thời kì kháng chiến gian khổ: “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp
cùng” (Tố Hữu). Đêm Việt Bắc thì quá rét, chăn lại quá nhỏ, loay hoay mãi không đủ
ấm. Đắp được chân thì hở đầu, đắp được bên này thì hở bên kia. Ngày cùng chung
nhiệm vụ chiến đấu, chia nhau gian khổ, hiểm nguy, đêm đắp chung một chiếc chăn
đơn, cùng những tâm sự vui buồn.
+ Chính trong những ngày thiếu thốn, khó khăn ấy, từ xa lạ họ đã trở thành tri kỉ của
nhau. Tri kỉ là đôi bạn thân thiết, hiểu bạn như hiểu mình. Khi đã trở thành tri âm tri
kỉ rồi ngọt bùi san sẻ, sống chết có nhau.
+ Nhà thơ sử dụng những từ thật chính xác và biểu cảm: bên, sát, chung, thành thể
hiện được sự gắn bó tha thiết của mối tình tri kỉ, của tình cảm đồng chí. Cái tấm chăn
mỏng, hẹp mà ấm nóng tình đồng đội ấy mãi mãi là kỉ niệm đẹp của người lính mãi
không bao giờ quên.
*Câu thơ thứ bảy là một câu thơ đặc biệt,chỉ có hai chữ ngắn gọn: “Đồng chí!”.
+ Câu thơ thứ 7 là câu thơ quan trọng bậc nhất của bài thơ. Nó vừa là nhan đề vừa
là chủ đề , vừa là linh hồn của tác phẩm. Nó như cái bản lề nối hai đoạn thơ, khép mở
hai ý thơ cơ bản: những cơ sở của tình đồng chí và những biểu hiện của tình đồng
chí. Câu thơ vang lên mộc mạc giản dị mà rất thiêng liêng cảm động, khẳng định và
ca ngợi một tình cảm cách mạng mới mẻ bắt nguồn từ tình cảm truyền thống. Đó là
tình bạn, tình đồng đội trong chiến đấu nhưng đã được đổi mới và nâng cao trong
hoàn cảnh mới, thời đại mới.
+ Từ đồng chí được đặt cả thành một dòng thơ ngắn gọn mà ngân vang. Từ đồng
chí kết hợp với dấu chấm cảm như một nốt nhấn đặc biệt mang những sắc thái biểu
cảm khác nhau, nhấn mạnh sự thiêng liêng cao cả trong mối ân tình của người chiến
sĩ. Đồng chí là có tình cảm giai cấp ( xuất thân từ nông dân ) cùng chí hướng, cùng
mục đích. Nhưng trong tình cảm ấy một khi có cái lõi bên trong là tình tri kỉ lại được
thử thách, được tôi rèn trong gian khổ thì mới thực sự vững bền. Không còn anh,
cũng chẳng còn tôi, họ đã trở thành một khối đoàn kết, thống nhất gắn bó.
+ Đồng chí ấy là niềm hội tụ, là nơi kết tinh bao tình cảm đẹp: tình giai cấp, tình bạn,
tình người trong chiến tranh. Hai tiếng đồng chí bởi vậy mà giản dị, đẹp đẽ, sáng ngời
và thiêng liêng. ( Ta lại nhớ đến những gì Chính Hữu viết về đồng đội trong bài “Giá
từng thước đất”:
Đồng đội ta

38
Là hớp nước uống chung
Nắm cơm sẻ nửa
Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa
Chia khắp anh em một mẩu tin nhà
Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết.)
+ Câu thơ vẻn vẹn có hai chữ như một lời đúc kết, như là đáp số, như là lời giải của
sáu câu thơ trước và khởi đầu cho những suy nghĩ tiếp theo về những biểu hiện cao
đẹp của tình đồng chí.
b,Mười câu thơ tiếp theo nhà thơ diễn tả những biểu hiện cao đẹp của tình đồng
chí:
* Trước hết, đồng chí là sự thấu hiểu sâu xa những tâm tư, nỗi lòng của nhau.
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính
- Là những người nông dân mặc áo lính, họ có tấm lòng gắn bó, tình nhớ
thương da diết với ruộng đồng, quê hương. Người lính gác tình riêng ra đi vì nghĩa
lớn, để lại sau lưng mảnh trời quê hương với Ruộng nương đã tạm gửi bạn thân cày,
gian nhà không giờ để mặc kệ gió lung lay.
- Hai chữ mặc kệ đã nói lên được sự dứt khoát mạnh mẽ của người ra đi vì lí
tưởng cao đẹp quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Song dù dứt khoát, mạnh mẽ, những
người lính nông dân hiền lành, chân thật ấy vẫn nặng lòng với quê hương.Câu thơ
khiến chúng ta liên tưởng đến bài thơ “ Tống biệt hành” của Thâm Tâm:
Người đi ừ nhỉ người đi thực
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say
Hay Nguyễn Đình Thi cũng từng viết về sự dứt khoát ra đi của những người lính
nhưng trong lòng vẫn nặng tình với quê hương:
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng, lá rơi đầy
- Câu thơ: “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” sử dụng biện pháp nghệ
thuật tu từ hoán dụ và nhân hóa đã tô đậm sự gắn bó, nhớ thương của người lính với

39
hình bóng quê nhà bình dị, thân thuộc. Quả thực giữa người chiến sĩ và quê hương
anh đã có một mối giao cảm vô cùng sâu sắc, đậm đà.
- Hình ảnh: ruộng nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa, hình ảnh nào cũng
thân thương , cũng ăm ắp một tình quê, một nỗi nhớ thương vơi đầy. Nhắc tới nỗi da
diết này, Chính Hữu đã nói đến sự hi sinh không mấy dễ dàng của người lính. Tâm tư
ấy, nỗi nhớ nhung ấy của anh và cũng là của tôi, là đòng chí, họ thấu hiểu và chia sẻ
cùng nhau. Tình đồng chí đã được tiếp thêm sức mạnh bởi tình yêu quê hương đất
nước.
*Tình đồng chí còn là sự đồng cam cộng khổ, sự chia sẻ những gian lao, thiếu
thốn của cuộc đời người lính:
Với bút pháp hiện thực và lời thơ bình dị, tất cả những khó khăn gian khổ của người
lính được nhà thơ tái hiện bằng những chi tiết hết sức chân thật, sống động:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày.
- Những người lính thời kháng chiến chống Pháp phải đương đầu với những
trận sốt rét rất ác tính, không ít người bị căn bệnh ấy cướp đi sinh mệnh của mình.
Chính Hữu nói về sốt rét bằng giọng thơ mộc mạc, hiền lành của người nông dân mặc
áo lính “biết từng cơn ớn lạnh, sốt run người vầng trán ướt mồ hôi” .
+ Hình ảnh những cơn sốt rét rừng đã được nói đến khá nhiều trong thơ ca kháng
chiến chống Pháp với những giọng điệu đa dạng. Quang Dũng nói về sốt rét bằng
giọng thơ dữ dội với hai chi tiết thật đáng sợ “không mọc tóc” “xanh màu lá”.
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
+ Một nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cũng viết về căn bệnh sốt rét của người lính bằng
những dòng tê tái:
Nơi thuốc súng trộn vào áo trận
Cơn sốt rừng đi dọc tuổi thanh xuân
(Áo trận – Nguyễn Đức Mậu)
- Là người lính, các anh đã từng trải qua những cơn sốt rét nơi rừng sâu trong
hoàn cảnh thiếu thuốc men, lại thêm trang phục phong phanh giữa mùa đông lạnh
giá: áo rách vai, quần tôi vài mảnh vá, chân không giày.... Tất cả những khó khăn,
40
gian khổ được tái hiện bằng những chi tiết hết sức chân thật, không một chút tô vẽ.
Ngày đầu của cuộc kháng chiến, quân đội cụ Hồ mới được thành lập, thiếu thốn đủ
đường, quần áo rách bươm phải buộc túm lại nên người lính vệ quốc còn được gọi là
những anh vệ túm, vệ trọc.
( Nhà thơ Chính Hữu kể lại thời gian gian khổ đó: “Phải nói là chiến dịch vô cùng
gian khổ. Bản thân tôi cũng chỉ phong phanh trên người một bộ áo cánh, đầu không
mũ, chân không giày. Đêm ngủ nhiều khi phải rải lá khô để nằm, không có chăn màn,
ăn uống rất kham khổ vì đang trên đường hành quân truy kích địch. Tôi cũng phải có
trách nhiệm chăm sóc anh em thương binh và chôn cất một số sĩ tử. Sau trận tôi ốm,
tôi phải nằm lại điều trị. Đơn vị cử một đồng chí ở lại săn sóc tôi. Trong khi ốm nằm
ở nhà sàn heo hút, tôi làm bài thơ Đồng chí ” )
+ Đọc những câu thơ này, ta không khỏi chạnh lòng khi thấu hiểu nững gian nan, vất
vả mà thế hệ cha ông đã từng trải qua vừa trào dâng một niềm kính phúc ý chí và bản
lĩnh vững vàng của người lính vệ quốc.
*Phải đương đầu với sự khắc nghiệt của chiến tranh, người lính vẫn lạc quan,
yêu đời.
- Câu thơ “Miệng cười buốt giá” có bốn chữ với cấu trúc tương phản: “cười/buốt giá”
thể hiện sâu sắc tinh thần lạc quan, yêu đời của anh bộ đội cụ Hồ.( Câu thơ gợi nhớ
đến hình ảnh người lính lái xe trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm
Tiến Duật: cười ha ha)
* Biểu hiện của tình đồng chí còn là sự động viên, chia sẻ với nhau tình thương
yêu để vượt qua những khó khăn , gian khổ:
- Hành động “thương nhau tay nắm lấy bàn tay” đã thể hiện được tình thương yêu
đồng đội sâu sắc. Cách biểu lộ tình thương yêu không ồn ào mà thấm thía. Trong
buốt giá gian lao, những bàn tay tìm để truyền đến cho nhau hơi ấm, truyền cho nhau
niềm tin, truyền cho nhau sức mạnh để vượt qua tất cả, đẩy lùi gian khổ. Nội lực tinh
thần ẩn sâu trong trái tim người lính đã thể hiện qua cái bắt tay chân tình ấy. Chiều
sâu của tình đồng chí thiêng liêng cũng đọng lại ở hành động giản dị mà gần gũi, sâu
xa..
- Trong đoạn thơ này, chữ anh và tôi có vị trí rất linh hoạt. Khi còn là những người
xa lạ thì anh đứng một dòng thơ còn tôi đứng một dòng thơ nhưng khi trở thành tình
đồng chí thì anh với tôi cùng đứng trên một dòng thơ và nối với nhau bởi liên từ với.
Chữ anh bao giờ cũng đứng trước chữ tôi, người lính muốn nói về đồng đội trước,
nói về mình sau, đó cũng là một trong những biểu hiện cao đẹp của tình đồng chí.
c. Ba câu thơ cuối là bức tranh đẹp về tình đồng chí, là biểu tượng đẹp về người
lính cách mạng:
Đêm nay rừng hoang sương muối

41
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
- Ba câu thơ tả cảnh phục kích giặc của người lính trong đêm rừng hoang
sương muối. Giữa cảnh hoang vu, tĩnh mịch, lạnh lẽo và nguy hiểm của núi rừng đêm
đông hiện lên hình ảnh thân thiết, gắn bó của những người chiến sĩ sát cánh bên nhau
canh giữu đất trời.
+ Từ chờ cũng đã nói rõ tư thế, tinh thần chủ động đánh giặc của họ.
+ Hình ảnh những người lính đứng cạnh bên nhau vững chãi làm mờ đi cái gian khổ,
ác liệt, giá rét ấy, tạo nên tư thế thành đồng vách sắt trước quân thù. Tầm vóc của
những người lính bỗng trở nên lớn lao, anh hùng.
- Hình ảnh Đầu súng trăng treo rất thực mà cũng rất lãng mạn ( Nhà thơ Chính
Hữu kể rằng: Trong chiến dịch nhiều đêm có trăng. Đi phục kích giặc trong đêm,
trước mắt tôi chỉ có ba nhân vật: khẩu súng, vầng trăng và người bạn chiến đấu. Ba
nhân vật quyện với nhau tạo ra hình ảnh: đầu súng trăng treo.)
+ Tính sáng tạo của hình ảnh này trước hết là sự liên kết thật bất ngờ. Vầng trăng là
hình ảnh rất quen thuộc trong thơ ca muôn đời nay. Nhưng vầng trăng ấy lơ lửng ở
chân trời, có lúc sà xuống treo trên đầu súng thì thật mới lạ.
+ Chữ treo ở cuối bài thơ quả là “nhãn tự” trong một “thần cú” . Treo là không bị
buộc chặt, là lơ lửng, bay bổng lãng mạn. Treo cùng hợp với nhịp điệu 2/2 của câu
thơ, cái nhịp đưa võng lơ lửng, chơi vơi trong mênh mông bát ngát của bầu trời.
+ Hình ảnh đầu súng trăng treo đã vượt lên ý nghĩa tả thực để trở thành một biểu
tượng, một hình ảnh ẩn dụ. Súng là biểu tượng cho chiến đấu, trăng là hình ảnh của
thiên nhiên trong mát, của cuộc sống thanh bình , hạnh phúc, súng là con người,
trăng là đất nước, quê hương; súng là hình ảnh người chiến sĩ gan dạ, kiên cường,
trăng là hình ảnh của người thi sĩ. Sự hòa bình giữa súng và trăng toát lên vẻ đẹp tâm
hồn người lính và tình đồng chí của họ, vừa nói lên ý nghĩa cao cả của cuộc chiến
tranh yêu nước: người lính cầm súng là để bảo vệ cuộc sống hòa bình độc lập, tự do
cho tổ quốc. Hình ảnh này còn gợi lên sự kết hợp giữa cái chân thực dữ dội của cuộc
kháng chiến và sự bay bổng tâm hồn người chiến sĩ, sự kết hợp hài hòa giữa tinh thần
chiến đấu và vẻ đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên.
+Hai hình ảnh súng và trăng tưởng như đối lập nhau ấy khi đứng cạnh nhau lại tạo
nên những cách hiểu bất ngờ, thú vị: Súng và trăng là gần và xa, thực tại và mơ
mộng, hiện thực và lãng mạn. Đó còn là chất thép và chất tình, chất chiến sĩ và thi sĩ
hài hòa, bổ sung cho nhau tạo nên vẻ đẹp tâm hồn của người lính cách mạng.Đó cũng
là vẻ đẹp trữ tình mới của thơ ca kháng chiến chống Pháp đã kết hợp hài hòa chất
hiện thực và lãng mạn.

42
+ Đây là một hình ảnh sáng tạo đầy bất ngờ góp phần nâng cao giá trị bài thơ, tạo đc
những dư vang, sâu lắng trong lòng người đọc.
3. Đánh giá:
- Bài thơ được viết theo thể thơ tự do, cảm hứng hướng về chất hiện thực của đời
sống kháng chiến, khai thác cái đẹp, chất thơ trong cái bình dị, bình thường, không
nhấn mạnh cái phi thường;
- Hình ảnh ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô đọng, giàu sức biểu cảm.
- Giọng thơ sâu lắng, xúc động như một lời tâm tình tha thiết;
- Các biện pháp tu từ ẩn dụ, nhân hóa giàu giá trị thẩm mĩ; thành ngữ dân gian được
vận dụng sáng tạo...
III. Kết luận
- Bài thơ ca ngợi tình đồng chí, đồng đội thắm thiết, sâu nặng của những người
lính cách mạng mà phần lớn họ đều xuất thân từ nông dân. Đồng thời bài thơ đã khắc
họa thành công bức tượng đài người lính cách mạng vừa mang nét độc đáo vừa có
sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp, sức mạnh của dân tộc ta trong thời kì đầu chống
thực dân Pháp. Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng hào hùng của cuộc
kháng chiến, được khắc tạc bằng cả tình yêu của Chính Hữu đối với những người
đồng đội, đối với đất nước mình.
( Bài thơ tiêu biểu cho thơ ca dân tộc trong thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp
và thơ ca Cách Mạng Việt Nam. Là một trong những thi phẩm hay nhất viết về người
lính, bài thơ đã góp vào nên thi ca hiện đại Việt Nam hình tượng người lính nông dân
mang vẻ đẹp mộc mạc, giản dị. Từ hình ảnh người lính trong bài thơ đã gửi đến
người đọc thông điệp về lòng yêu nước và lí tưởng sống cao đẹp của con người).

43
“BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH”
( PHẠM TIẾN DUẬT)
A. TÁC GIẢ:
- Phạm Tiến Duật ( 1941-2007) quê ở huyện Thanh Ba , tỉnh Phú Thọ .
- Sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm thì tham gia quân đội và hoạt động trên tuyến
đường Trường Sơn.
- Đề tài: chủ yếu viết về những người lính Trường Sơn và những cô gái thanh niên
xung phong.
-Giọng điệu sôi nổi , trẻ trung,...
- Năm 2001 được tặng giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật.
B.TÁC PHẨM:
- Bài thơ được đưa vào tập “ Vầng trăng quầng lửa”
- Được giải nhất cuộc thi thơ báo văn nghệ năm 1969.
C.NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT:
- Nội dung:
+ Khắc hoạ hình ảnh những chiếc xe không kính độc đáo
+ Khắc hoạ hình ảnh những người lính lái xe:
(1): tư thế hiên ngang
(2):Tinh thần lạc quan, dũng cảm bất chấp mọi khó khăn , nguy hiểm.
(3): Tình đồng chí đồng đội thắm thiết
(4): Ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam.
- Nghệ thuật:
+ Đưa chất liệu hiện thực vào trong thơ
+ Ngôn ngữ giọng điệu giàu tính khẩu ngữ, có phần ngang tàng, tếu táo ,vui nhộn.
D.CÁC Ý CHÍNH:
*. Nhan đề bài thơ
- Hai khổ đầu: Cách lí giải nguyên nhân những chiếc xe không kính và tư thế của
người lính lái xe:
- khổ 3,4: Tinh thần lạc quan dũng cảm, bất chấp mọi khó khăn gian khổ.
- Khổ 5,6:Những nét sinh hoạt và tình đồng chí đồng đội của những người lính lái xe
- Khổ cuối: Hình ảnh những chiếc xe không kính trở lại và ý chí quyết tâm của
những người lính lái xe.
44
E.PHÂN TÍCH:
I.MỞ BÀI:

*Cách 1:
- Phạm Tiến Duật là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ thời
chống Mĩ cứu nước.
- Ông được biết đến như một nhà thơ chiến sĩ của những chàng trai lái xe dũng cảm,
những cô thanh niên xung phong đáng mến trên nẻo đường Trường Sơn đầy bom
đạn.
- “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” cuả Phạm Tiến Duật đã góp phần làm sống mãi
hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam và không khí thời chiến đấu gian khổ ác liệt mà phơi
phới niềm tin....( mà vô cùng anh dũng, hào hùng).
*Cách 2: Từ đề tài -> tác giả, tác phẩm
- Những năm tháng chống Mỹ hào hùng của dân tộc đã để lại biết bao hồi ức và
những dấu ấn khó phai mờ. Hình ảnh những những cô gái thanh niên xung phong,
anh bộ đội cụ Hồ là một trong những hình ảnh đẹp nhất, lãng mạn và anh hùng nhất
trong kháng chiến.
- Họ đã đi vào thơ ca với tư thế ,tinh thần và phẩm chất cao đẹp.
- “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” ...chính là một trong những tác phẩm tiêu biểu
cho đề tài ấy. Bài thơ đã sáng tạo một hình ảnh độc đáo: Những chiếc xe không kính
để làm nổi bật hình ảnh những người lái xe ở chiến trường Trường Sơn hiên ngang,
dũng cảm, trẻ trung, sôi nổi, giàu tình yêu nước...
( *Cách 3: Hoặc dẫn dắt từ câu thơ:
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
(Tố Hữu)
II.THÂN BÀI:
1.KHÁI QUÁT:( Hoàn cảnh sáng tác và nhan đề).
- Bài thơ về tiểu đội xe không kính rút từ tập thơ Vầng trăng -Quầng lửa của tác giả.
Là tác phẩm đoạt giải nhất trong cuộc thi thơ trong báo Văn nghệ (1969 - 1970).

45
- Bài thơ được ra đời trong thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mĩ diiễn ra rất ác liệt. Mĩ
trút hàng ngàn, hàng vạn tấn bom trên con đường chiến lược Trường Sơn. Trong khi
đó những đoàn xe vận tải vẫn băng ra chiến trường vì Miền Nam phía trước.
-Cái mới lạ và độc đáo nằm ngay trong chính nhan đề của tác phẩm. Nhan đề dài
tưởng như có chỗ thừa bởi tác giả đã thêm hai chữ “Bài thơ”.
- Chính sự mới lạ ấy lại gây ấn tượng và thu hút người đọc bởi tác giả muốn tăng
thêm chất thơ cho những hiện thực đầy gian khổ , chất thơ của tuổi trẻ hiên ngang,
dũng cảm, trẻ trung, vượt lên thiếu thốn, gian khổ, hiểm nguy của chiến tranh.
- Nhưng nổi bật hơn là hình ảnh người lính lái xe Trường Sơn với tư thế hiên ngang,
tinh thần lạc quan dũng cảm bất chấp khó khăn nguy hiểm. Họ có tình đồng chí đồng
đội thắm thiết và đặc biệt là ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất tổ
quốc.
2.PHÂN TÍCH CÁC Ý:
( 2 cách phân tích:
-Cách 1:theo ý:
+Hình ảnh chiếc xe
+Hình ảnh người lính
- Cách 2: Theo khổ thơ)
a. Khổ 1, 2: Trên những chiếc xe không kính, người lính lái xe có tư thế
hiên ngang và tâm thế ung dung, bình tĩnh giữa chiến trường hiểm nguy.
- Xưa nay, những hình ảnh xe cộ, tàu thuyền nếu đưa vào thơ thì thường được
“mĩ lệ hoá”, “lãng mạn hoá” và thường mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả thực. Ta
từng gặp hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trong bài thơ cùng tên của Huy Cận hay con
tàu trong bài “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên. Tuy nhiên hình ảnh những chiếc
xe không kính trong thơ PTD là một hình ảnh thực, được miêu tả cụ thể, chi tiết.
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi.
+ Bằng những câu thơ đậm chất văn xuôi: cách sử dụng điệp từ “không”;
những từ “Bom giật”, “bom rung” tạo thành hai nốt nhấn trong câu thơ. Tác giả đã lí
giải nguyên nhân không có kính của những chiếc xe. Bom đạn ác liệt của chiến tranh
đã tàn phá những chiếc xe ban đầu vốn tốt, mới trở thành hư hỏng.
+ Từ cách giới thiệu chiếc xe đến cách giải thích nguyên nhân xe không có
kính đều rất thật, rất tự nhiên, giọng điệu pha chút ngang tàng trong đó càng gây ra sự
chú ý về vẻ khác lạ của nó. Không những vậy, bom đạn chiến tranh còn làm cho

46
những chiếc xe ấy biến dạng thêm, tưởng như bị huỷ diệt: Không có kính, rồi không
có đèn/ Không có mui xe thùng xe có xước. Hình ảnh những chiếc xe không kính giúp
ta hiểu được rằng, chiến tranh thật khốc liệt, sắt thép còn như thế huống chi là con
người! Hơn thế, còn làm nổi bật chân dung tinh thần của người lính; thể hiện phong
cách thơ độc đáo của PTD - một hồn thơ nhạy cảm với nét ngang tàng, tinh nghịch,
phong trần và yêu thích cái lạ. Đây là hình ảnh độc đáo trong thơ ca kháng chiến:
những chiếc xe kì lạ không có kính chắn gió mà thật anh hùng.
- Viết về những người lính lái xe thì không gì gắn họ với hình ảnh chiếc xe,
qua xe mà làm nổi bật hình ảnh người lính. Thiếu đi những điều kiện phương tiện vật
chất tối thiểu lại là một cơ hội để người lính lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp,
sức mạnh tinh thần lớn lao của họ. Bầu không khí căng thẳng với “Bom giật, bom
rung”, vậy mà tư thế các anh vẫn hiên ngang, tinh thần các anh vẫn vững vàng.
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
+ Nghệ thuật đảo ngữ với từ láy “ung dung” được đảo lên đầu câu thơ thứ
nhất; hai chữ “ta ngồi” và nghệ thuật điệp ngữ với từ “nhìn” được nhắc lại ba lần
trong câu thơ thứ hai đã nhấn mạnh được tư thế ung dung, bình tĩnh, tự tin của người
lính lái xe. Nhịp thơ 2/2/2 khiến âm điệu thơ trở lên chậm rãi diễn tả thái độ thản
thiên, đường hoàng. Với tư thế ấy, người lính đã biến những nguy hiểm, trở ngại trên
đường thành niềm vui thích. Chỉ có người lính lái xe với những kinh nghiệm chiến
trường dày dạn, từng trải mới có được thái độ, tư thế như vậy.
+ Cái nhìn của các anh là cái nhìn bao quát, rộng mở: nhìn đất, nhìn trời, vừa
trực diện, tập trung cao độ “nhìn thẳng”. Hai chữ “nhìn thẳng” đặt sau bốn chữ “nhìn
đất, nhìn trời” là một sáng tạo của PTD. Bước đi của câu thơ này thật bất ngờ! Đang
nhìn trời, nhìn đất nghĩa là nhìn sự vật, bất ngờ chuyển sang nhìn phương hướng, từ
kết cấu động từ + danhh từ bỗng chuyển sang kết cấu động từ + trạng từ; bất ngờ tạo
nên sự tập trung chú ý, tạo nên khoảng lặng, điểm dừng. Cái đọng lại trong tâm trí
của người chiến sĩ lái xe là cái “nhìn thẳng”, một định hướng, một quyết tâm, một ý
chí không gì lay chuyển được.
- Trong tư thế ung dung ấy, người lính lái xe có những cảm nhận rất riêng khi
được tiếp xúc với thiên nhiên trên con đường ra trận.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

47
Như sa như ùa vào buồng lái.
+ Với nhịp thơ đều đặn, cách vận dụng linh hoạt điệp từ “thấy” kết hợp với
phép liệt kê, khổ thơ thứ hai đã miêu tả chân thực, chính xác đến từng chi tiết cảm
giác của người lính khi lái những chiếc xe không kính. Không có kính chắn gió bảo
hiểm, xe chạy nhanh nên người lái phải đối mặt với bao khó khăn, nguy hiểm: nào là
“gió vào xoa mắt đắng” nào là “con đường chạy thẳng vào tim”, rồi “sao trời”, rồi
“cánh chim” đột ngột, bất ngờ “như sa”, “như ùa”, rơi rụng, va đập, quăng ném... vào
buồng lái, vào mặt mũi, thân mình. Dường như chính nhà thơ cũng đang cầm lái, hay
ngồi trong buồng lái của những chiếc xe không kính nên câu chữ mới sinh động và cụ
thể, đầy ấn tượng căng thẳng, đầy thử thách đến thế.
+ Khi xe chạy nhanh, giữa các anh với con đường dường như không có khoảng
cách. Vì không có kính chắn nên người cầm lái có cảm giác và ấn tượng “Con đường
chạy thẳng vào tim”. Đây là một câu thơ hay và giàu ý nghĩa. Con đường thực trước
mặt đó cũng chính là con đường được nhà thơ nâng lên thành con đường lí tưởng,
con đường cách mạng (“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”), con đường trong trái tim
người chiến sĩ, tiếp thêm sức mạnh, niềm tin để họ có thể vượt qua khó khăn gian
khổ, để chiến đấu và chiến thắng.
Nhận xét: Như vậy, ở hai khổ thơ đầu, tác giả tập trung khai thác vẻ đẹp của
người chiến sĩ lái xe, xe qua cách nhìn thế giới bên ngoài. Từ cách nhìn, cách cảm
nhận thế giới, nhà thơ đã thể hiện một cách sáng tạo phong thái ung dung, tư thế chủ
động, tâm hồn nghệ sĩ của những người chiến sĩ lái xe, họ thật nhạy cảm trước vẻ đẹp
của thiên nhiên, họ say mê ngắm nhìn trởi đất trong lúc cảm nhận vẻ đẹp của thế giới,
họ vẫn không quên nhiệm vụ vẻ vang của mình.
b. Khổ 3+4: Những người lính trẻ rất yêu đời, lạc quan, bất chấp khó khăn,
coi thường gian khổ.
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

Không có kính, ừ thì có ướt áo


Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi

48
- Nếu như hai khổ thơ trên là những cảm giác về những khó khăn thử thách dù
sao cũng vẫn mơ hồ thì đến đây, thử thách, khó khăn ập tới cụ thể, trực tiếp. Đó là
“bụi phun tóc trắng” và “mưa tuôn mưa xối”- hậu quả tất yếu của những chiếc xe bị
mất kính bảo vệ. Ở đây, “gió, bụi, mưa” tượng trưng cho gian khổ thử thách ở đời.
Trước thử thách mới, người chiến sĩ vẫn không nao núng. Các anh càng bình tĩnh,
dũng cảm hơn.
- Nhà thơ khai thác triệt để tính tương phản giữa hoàn cảnh và thái độ của
người lính. Hoàn cảnh thật khó khăn, khắc nghiệt, người chiến sĩ phải chịu cảnh “bụi
phun tóc trắng”, “mưa tuôn mưa xối”. Vậy mà thái độ của họ thật thản nhiên, ngang
tàng, bất chấp khó khăn gian khổ. Với những câu thơ giản dị như lời nói thường,
PTD đã tìm được ngôn ngữ riêng của người lính và đưa thẳng vào các câu thơ của
mình: “ừ thì có bụi”, “ừ thì ướt áo”, “chưa cần rửa”, “chưa cần thay” Nhà thơ không
câu nệ vẫn điệu, câu chữ, cú pháp cổ điển mà lấy nhịp điệu ngôn ngữ của hiện thực
cuộc sống để phản ánh đúng suy nghĩ, lời nói, việc làm của người chiến sĩ lái xe trên
đường ra mặt trận. Chính sự giản dị về ngôn từ, sự chân thực trong cảm xúc, suy nghĩ
và sự cụ thể, sinh động trong từng hình ảnh, chi tiết đã góp phần tạo nên sức thuyết
phục và cảm hoá của bài thơ này.
- Vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt, những câu thơ vẫn vút lên tràn đày niềm lạc
quan sôi nổi: “không có kính, ừ thì có bụi - không có kính, ừ thì ướt áo”. Cấu trúc:
“không có...ừ thì... chưa cần” được lặp lại đã thể hiện rõ điều này. Những tiếng “ừ
thì” vang lên như một thách thức, một chấp nhận khó khăn đầy chủ động, một thái độ
cứng cỏi. Dường như gian khổ hiểm nguy của chiến tranh chưa làm mảy may ảnh
hưởng đến tinh thần của người lính lái xe, trái lại họ xem đây là một dịp để thử sức
mình như người xưa xem hoạn nạn, khó khăn để chứng tỏ chí làm trai. Các anh lấy
cái bất biến của lòng dũng cảm, của thái độ hiên ngang để thắng lại cái vạn biến của
chiến trường sinh tử gian khổ, ác liệt.
- Sau thái độ ấy là những tiếng cười đùa, những lời hứa hẹn, quyết tâm vượt
gian khổ hiểm nguy: “Chưa cần rửa... khô mau thôi”. Câu thơ cuối khổ thơ thứ tư có
7 tiếng nhưng có đến 6 thanh bằng “Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi” gợi cảm giác
nhẹ nhõm, ung dung rất lạc quan, rất thanh thản. đó là khúc nhạc vui của tuổi mười
tám đôi mươi, hoà trong những hình ảnh hóm hỉnh: “phì phèo châm điếu thuốc - nhìn
nhau mặt lấm cười ha ha”. Cái cười sảng khoái vô tư ở đây của người lính khác với
“miệng cười buốt giá” trong bài thơ “Đồng chí”, nụ cười hồn nhiên ấy rất hiếm khi

49
gặp trong thơ ca chống Pháp, nụ người ngạo ngễ của những con người luôn luôn
chiến thắng và tràn đầy niềm tin.
- Có lẽ với những năm tháng sống trên tuyến đường Trường Sơn, là một người
lính thực thụ đã giúp PTD đưa hiện thực đời sống vào thơ ca - một hiện thực bộn bề,
một hiện thực thô ráp, trần trụi, không hề trau chuốt, gọt rũa. Đấy phải chăng chính là
nét độc đáo trong thơ PTD? Và những câu thơ thật giản dị đã làm nổi bật lên tính
cách ngang tàng của những anh lính trẻ hồn nhiên, trẻ trung, yêu đời giữa gian khổ
đạn bom ác liệt. Thật đáng yêu và đáng tự hào biết bao!.
c. Khổ 5+6: Tình đồng chí, đồng đội gắn bó, yêu thương:
*Khổ 5: Tình đồng chí keo sơn gắn bó trong cuộc sống chiến đấu:
* Tình đồng chí đồng đội keo sơn gắn bó là một phầm chất cao đẹp của người
lính. Đường Trường Sơn là nơi hội ngộ của những người chiến sĩ, nơi ghi đấu những
kỉ niệm một thời trai trẻ.
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
- Sau mỗi trận mưa bom bão đạn cùng với những chiếc xe dù bị tàn phá nặng
nề hơn những cùng tụ họp để trở thành một tiểu đội đoàn kết, anh hùng. Hình ảnh
“Những chiếc xe từ trong bom rơi” thể hiện sức mạnh quật cường của đoàn xe vận tải
và người lính lái xe Trường Sơn.
- Trên tuyến đường Trường Sơn máu lửa, các anh: Gặp bè bạn suốt dọc đường
đi tới. Khi gặp gỡ, các anh động viên, chào hỏi nhau trong hoàn cảnh độc đáo: “Bắt
tay qua cửa kính vỡ rồi”.
+ Viết về tình đồng đội, trong bài thơ “Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu cũng
có hình ảnh: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Tuy nhiên, hành động: “Bắt tay
qua cửa kính vỡ rồi” của người lính lái xe có sự hồn nhiên, tinh nghịch, trẻ trung.
+ Cái bắt tay là biểu hiện đẹp đẽ ấm lòng của tình đồng chí, đồng đội đầy mộc
mạc nhưng thấm thía. Những bàn tay nắm chặt bàn tay qua “cửa kính vỡ rồi” truyền
cho nhau hơi ấm, truyền cho nhau niềm tin, truyền cho nhau sức mạnh để vượt qua
tất cả, đẩy lùi gian khổ. Nội lực tinh thần ẩn sâu trong trái tim người lính đã thể hiện
qua cái bắt tay thân tình ấy. Chiều sâu của tình đồng chí thiêng liêng cũng đọng lại ở
hành động này. Chí có những người lính, những chiếc xe thời chống Mĩ mới có thể

50
có những cái bắt tay ấy, một chi tiết nhỏ nhưng mang dấu ấn của cả một thời đại hào
hùng.
*Khổ 6: Tình đồng chí keo sơn gắn bó còn được thể hiện trong cuộc sống
thường ngày::
* Những khoảnh khắc của chiến tranh, giữa sự sống và cái chết mong manh
như sợi tóc, những người lính trẻ từ những miền quê khác nhau nhưng cùng có chung
một nhiệm vụ, lí tưởng để gắn bó với nhau như ruột thịt, gia đình.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.

- Hình tượng người chiến sĩ lái xe lại thêm một nét đẹp nữa về tâm hồn. Đây là
tình cảm chia sẻ ngọt bùi của những chàng trai vui vẻ, sôi nổi, yêu đời trong những
phút nghỉ ngơi thoáng chốc, những bữa bơm hội ngộ.
- Trên con đường ra trận ác liệt, một gia đình lớn của những người lính được
hình thành và gắn bó thân thiết. Cách nói “từ trong bom rơi, về đây, thành, chung gia
đình” đã gợi ra một không gian sinh hoạt gần gũi, thân thương. Cuộc sống giản dị,
xuềnh xoàng nhưng ấm áp tình cảm. Lúc cắm trại, các anh trò chuyện, ăn uống, nghỉ
ngơi thoải mái, nhường nhịn nhau như anh em ruột thịt: “chung bát, chung đũa, mắc
võng chông chênh...”. Câu thơ chung bát đũa nghĩa là gai đình đấy là một cách định
nghĩa về gia đình thật lính, hóm hỉnh mà chân tình sâu sắc. Đó là gia dình của những
người lính cùng chung nhiệm vụ, lí tưởng chiến đấu.Họ coi nhau như anh em, như
máu mủ ruột thịt vì dòng máu trong trái tim họ là dòng máu Lạc Hồng, dòng
máu yêu nước.
- Gặp gỡ chỉ trong một thoáng chốc để rồi các anh lại tiếp tục hành quân: “Lại
đi lại đi trời xanh thêm”.
+ Điệp từ “lại đi” gợi tả nhịp sống và chiến đấu kiên cường của tiểu đội xe
không kính mà không một sức mạnh đạn bom nào có thể ngăn cản nổi. Sự sống

51
không chỉ tồn tại mà còn tồn tại trong một tư thế kiêu hãnh, hiên ngang - tư thế của
người chiến thắng.
+ Hình ảnh “trời xanh thêm” thật đẹp và ý nghĩa. Trời xanh thêm vì lòng người
phơi phới say mê trước những chặng đường đã đi và đang đến. Trời xanh thêm vì
lòng người chứa chan niềm lạc quan, tin tưởng về một ngày mai chiến thắng. Câu thơ
cho thấy tâm hồn yêu đời, lãng mạn và mơ mộng của những người lính lái xe.
d. Ý chí, quyết tâm chiến đấu sắt đá, tình cảm sâu đậm với miền Nam ruột
thịt, tình yêu quê hương đất nước mãnh liệt.
* Vẫn bằng giọng thơ mộc mạc, hình ảnh rất đẹp, rất thơ, cảm hứng và suy
tưởng vừa bay bổng vừa sâu sắc. Qua khổ thơ cuối, PTD đã hoàn thiện bức chân
dung người lính lái xe - hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là hình tượng
con người đẹp nhất của thế kỉ: “Như Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi” (Tố Hữu). Khổ
thơ dựng lên hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, bất ngờ thú vị.
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
* Hai câu thơ dồn dập những mất mát, khó khăn do quân địch gieo xuống do
đường trường gây ra, những chiếc xe bị hư hỏng nhiều hơn, dường như bị biến dạng:
“không kính, không mui, không đèn, thùng xe có xước...” và biết bao chiến sĩ đã
dùng cảm hi sinh.
- Điệp ngữ “không có” nhắc lại 3 lần như nhân lên những thử thách khốc liệt.
- Hai dòng thơ ngắt làm 4 khúc gợi địa hình gập ghềnh, khúc khuỷu đầy chông
gai, bom đạn trên con đường ra trận.
* Hai câu cuối âm điệu đối chọi lại, trôi chảy. Đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên
bom đạn cùng những người chiến sĩ vẫn kiên cường hăm hở băng ra tiền tuyến với
một tình cảm thiêng liêng vì miền Nam “trămg đắng nghìn cay”, vì cuộc đấu tranh
thống nhất đất nước:
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim
- Nhà thơ đã nêu lên sự đối lập giữa hai phương diện vật chất và tinh thần. Vậy
nguyên nhân nào mà những chiếc xe tàn dạng ấy vẫn băng băng chạy như vũ bão?
Nhà thơ lí giải: Chỉ cần trong xe có một trái tim.
+ Từ hàng loạt những cái không có ở trên, nhà thơ khẳng định một cái có, đó là
“một trái tim”.

52
+ “Trái tim” là hình ảnh hoán dụ để chỉ người lính. Phải chăng chính trái tim
con người đã cầm lái? Tình yêu Tổ Quốc, tình yêu thương đồng bào, đồng chí ở miền
Nam đau khổ đã khích lệ, động viên người chiến sĩ vận tải vượt khó khăn gian khổ,
luôn lạc quan, bình tĩnh nắm chắc vô lăng, nhìn thật đúng hướng để đưa đoàn xe khẩn
trương tới đích.
+ Ngữ điệu câu thơ Chỉ cần... một trái tim thật nhẹ nhõm, song khả năng khắc
hoạ hình tượng người lính và khơi dậy suy luận triết lí thật sâu sắc. Câu thơ còn
muốn hướng người đọc về một chân lí của thời đại đánh Mĩ; sức mạnh quyết định
chiến thắng không phải là vũ khí, súng đạn mà là con người - con người mang trái
tim nồng nàn yêu thương, ý chí kiên cường, dũng cảm, niềm lạc quan tin tưởng.
Ôi tổ quốc! Ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi tổ quốc! Nếu cần ta chết:
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông
(Sao chiến thắng - Chế Lan Viên)
- Thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ phẩm chất anh hùng của
người lính lái xe kết lại ở “trái tim” gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh và chan chứa
tình yêu quê hương, đất nước. Đó chính là vẻ đẹp chủ nghĩa anh hùng cách mạng của
con người Việt Nam trong kháng chiến. Đúng như nhà thơ Tố Hữu từng viết:
Thiếu tất cả rất giàu dũng khí
Sống chẳng cúi đầu chết vẫn ung dung
Giặc muốn ta nô lệ ta lại hoá anh hùng
Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo.
- Có thể nói, bài thơ hay nhất là câu thơ cuối. Nó là thần cú, nhãn tự, là con
mắt của bài thơ, bật sáng chủ đề, toả sáng vẻ đẹp của hình tượng người lính, tô đậm
những cái không để làm nổi bật cái có. Khổ thơ cuối làm nổi bật chân lí của thời đại:
bom đạn, chiến tranh có thể làm méo mó những chiếc xe, huỷ hoại những giá trị vật
chất nhưng không thể bẻ gãy được những giá trị tinh thần cao đẹp của con người Việt
Nam. Để rồi một nước nhỏ như Việt Nam đã chiến thẳng một cường quốc lớn. Phải
chăng đó là câu trả lời?
3.ĐÁNH GIÁ :
*Nghệ thuật :
- Thể thơ tự do, câu dài ngắn khác nhau, gieo vần ở tiếng cuối cùng của dòng thơ.

53
- Phương thức biểu đạt chính là biểu cảm nhưng có sự gia tăng đáng kể của các yếu
tố tự sự. Điều đó tạo nhiều cở sở để biểu cảm đồng thời tăng sức phản ánh hiện thực
cho thơ.
- Tác giả đưa vào bài thơ chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống ở chiến trường,
cùng với ngôn ngư và giọng điệu giàu tính khẩu ngữ tự nhiên, khỏe khoắn, có nét khá
đặc biệt gần với văn xuôi, gần với lời nói bình thường hàng ngày.
- Nét nổi bật là giọng điệu vui, tinh nghịch, lạc quan. Nó làm nên chát trẻ trung trong
thơ Phạm Tiến Duật.
- BPTT : điệp ngữ, ẩn dụ , hoán dụ ...
* Chiều sâu tư tưởng: Bài thơ đã sáng tạo một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe
không kính, qua đó khắc họa nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn
trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước, với tư thế hiên ngang, tinh thần dũng
cảm, thái độ bất chấp khó khăn coi thường gian khổ hiểm nguy, niềm lạc quan sôi nổi
của tuổi trẻ và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, trái tim yêu nước nồng nhiệt
của tuổi trẻ thời chống Mĩ.
III. KẾT BÀI:
Toàn bộ bài thơ là cảm xúc của những người lính lái xe trên tuyến đường Trường
Sơn. Phạm Tiến Duật đã khẳng định và ngợi ca tinh thần bất khuất của quân đội ta
nhưng với hình ảnh mới mẻ và giọng điệu trẻ trung tinh nghịch phù hợp với tích cách
của những người lính lái xe.Bài thơ không chỉ nói về một tiểu đội xe không kính mà
còn phản ánh cả khí thế giải phóng miền Nam một thời sôi sục, đặc biệt là tinh thần
của thế hệ trẻ:
“ Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
(Tố Hữu).

54
PHÂN TÍCH BÀI THƠ “ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ” ( HUY CẬN)

A. TÁC GIẢ:
- Huy Cận (1919-2005) tên thật là Cù Huy Cận
- Quê : làng Ân Phú, huyện Vụ Quang, tỉnh Hà Tĩnh.
- Ông từng nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập thơ “Lửa thiêng”(1940)
- Tham gia cách mạng từ năm 1945 và sau cách mạng tháng 8 từng giữ nhiều trọng
trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu
của nền thơ hiện đại Việt Nam.
- Được nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ chí Minh về Văn học nghệ thuật năm
1996.
B.TÁC PHẨM:
- Giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh
- Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy Cân mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào
trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống
mới.
- Bài “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập thơ
“Trời mỗi ngày lại sáng” (1958).
C.NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUÂT:
- Nội dung: Bài thơ đã khắc hoạ nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ. thể hiện sự hài hoà giữa
thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước
đất nước và cuộc sống.

55
- Nghệ thuật: Bài thơ có nhiều sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh bằng liên
tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo; có âm hưởng khoẻ khoắn, hào hùng, lạc
quan.
D.CÁC Ý CHÍNH:
- Hai khổ thơ đầu: Cảnh đoàn thuyền ra khơi.
- 4 khổ thơ tiếp: Cảnh lao động đánh cá trên biển và cảnh biển vào đêm:
+ Khổ 3: Hình ảnh con thuyền
+Khổ 4: Hình ảnh các loài cá và biển đêm .
+Khổ 5,6: Hình ảnh con người lao động.
- Khổ cuối: Cảnh đoàn thuyền trở về trong ánh bình minh.
E. Phân tích:
I.Mở bài:
*Cách 1:
- Huy Cận là nhà thơ một thời đã từng đem tâm trạng của mình thổi hồn vào phong
trào Thơ mới. Sau cách mạng tháng Tám, cùng với sự đổi thay của đất nước, thơ Huy
Cận tràn ngập niềm vui, lạc quan và sáng tạo.
- Đi trên con đường thênh thang rộng mở của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đâu đâu nhà
thơ cũng thấy “đất nở hoa”, “ trời mỗi ngày lại sáng”.
- Bài “Đoàn thuyền đánh cá” là một trong những bài thơ hay, tiêu biểu cho hồn thơ
Huy Cận, là một bông hoa tươi thắm trong vườn hoa văn học hiện đại Việt Nam.
*Cách 2:
-“Thơ ca làm cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trên đời trở thành bất tử.” (Shelly).
-Có những giá trị vững bền của cuộc sống được lưu giữ lại nhờ những vần thơ, có
những nhịp ngân của tâm hồn được in dấu lại qua mỗi trang văn.
-Phải chăng thơ ca ra đời để làm bạn với con người, để đồng cảm, sẻ chia với con
người trong mọi vui buồn của cuộc sống.
- Chính vì vậy, trước hiện thực của công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc, Huy
Cận đã bộc lộ tình yêu tha thiết, niềm tự hào của nhà thơ trước thiên nhiên, đất nước
và cuộc sống qua thi phẩm đặc sắc” Đoàn thuyền đánh cá”.
II.Thân bài:
1.Khái quát:
Bài thơ được ra đời trong một chuyến đi thực tế ở Quảng Ninh của tác giả năm
1958.Bài thơ là một bức tranh đẹp lộng lẫy, lung linh sắc màu, vang động âm thanh,

56
vừa hiện thực vừa bay bổng lãng mạn về thiên nhiên và con người lao động.Bằng
những hình ảnh liên tưởng và tưởng tượng phong phú, bài thơ khắc hoạ nhiều hình
ảnh đẹp tráng lệ, thể hiện sự hài hoà giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ
niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống.
2. Phân tích các ý:
2.1. Hai khổ đầu :
a. Mở đầu bài thơ, Huy Cận miêu tả cảnh đoàn thuyền ra khơi lúc hoàng
hôn buông xuống.
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
- Hình ảnh “mặt trời xuống biển” có thể gây ra sự thắc mắc ở người đọc. Bởi lẽ,
bài thơ tả cảnh đoàn thuyền đánh cá ở vùng biển miền Bắc - cụ thể là vịnh Hạ Long,
ở hướng Đông, nơi chỉ thấy cảnh mặt trời mọc trên biển chứ không thể thấy cảnh mặt
trời lặn xuống biển. Vậy thì ở đây, khi viết “mặt trời xuống biển” tức là nhà thơ lấy
điềm nhìn từ trên con thuyền đang ra khơi, giữa biển cả nhìn về hướng tây nơi bờ bãi,
qua một vùng trời nước mới có thể thấy mặt trời lặn xuống biển như thế.
- “Mặt trời xuống biển” nhưng không tàn lụi, không tắt. Nó “như hòn lửa” - một
quả cầu lửa đỏ rực, khổng lồ đang chìm dần vào lòng đại dương. Bằng các biện pháp
tu từ so sánh độc đáo, câu thơ đã khắc hoạ được vẻ đẹp rực rỡ, ấm áp của bức tranh
thiên nhiên hoàng hôn nơi biển cả, khác hẳn với vẻ hiu hắt, ảm đạm, buồn bã của thơ
cổ khi viết về cảnh chiều tàn.
- Ở câu thơ thứ hai, nhà thơ sử dụng phép nhân hoá, ẩn dụ đặc sắc: “Sóng đã cài
then, đêm sập cửa”. Vũ trụ giờ đây giống như một ngôi nhà khổng lồ. Những lượn
sóng trên mặt biển là then cài còn màn đêm giống như cánh cửa lớn. Hình ảnh thơ
khiến cho thiên nhiên vũ trụ bao la mà gẫn gùi với con người, biển cả giống như ngôi
nhà thân thuộc của mỗi ngư dân.
- Hai câu thơ đầu miêu tả cảnh biển vào đêm thật hùng vĩ, mênh mông, tráng lệ
như thần thoại. Thiên nhiên, vũ trụ, biển cá như đang đi vào trạng thái tĩnh lặng, nghỉ
ngơi.
Thiên nhiên, vũ trụ là cái phông, cái nền cho con người xuất hiện:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
- Không gian vũ trụ, biển cả khép lại bởi màn đêm nhưng con người lại mở ra
một thế giới mới, một khung cảnh cuộc sống lao động mới: “Đoàn thuyền đánh cá lại
ra khơi”.
- Từ “lại” biểu thị y so sánh ngược chiều với câu trên: Khi thiên nhiên, vũ trụ
bước vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người lại bắt đầu một công cuộc lao động khẩn
trương và hào hứng. Mặt khác, từ “lại” còn miêu tả hình ảnh đoàn thuyền lại ra khơi
tuần tự, nhịp nhàng, là công việc, là hoạt động hàng ngày, thường xuyên, trở thành
một nếp sống quen thuộc của những người ngư dân vùng biển.
57
- “Câu hát căng buồm cùng gió khơi” là hình ảnh ẩn dụ mang tính khoa trương.
Tiếng hát khoẻ khắn mang niềm vui, sự hào hùng tiếp sức cho gió làm căng cánh
buồm khiến thuyết lướt nhanh trên ngọn sóng biển. Tiếng hát ấy làm nổi bật niềm tự
tin và khí thế hồ hởi của người lao động trong buổi xuất quân chinh phục biển cả,
khiến cho hình ảnh con người xuất hiện giữa không gian rộng lớn của biển khơi mà
không hề có cảm giác nhỏ bé, rợn ngợp. Họ chính là chủ nhân của biển cá.
=> Nhận xét: Khổ thơ đầu có kết câu gọn gàng, cân đối như một bài thơ tứ
tuyệt: hai câu đầu tả cảnh, hai câu sau nói về con người. Cảnh và người tưởng như
đối lập song lại hoà hợp, cảnh làm nền cho hình ảnh con người nổi bật nên như tâm
điểm của một bức tranh - bức tranh lao động khoẻ khoắn, vui tươi tràn ngập âm thanh
và rực rỡ sắc màu.
B. khổ 2:. Bốn câu thơ tiếp theo nói về những câu hát để làm nổi bật một
nét tâm hồn của người dân chài:
Hát rằng: Cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!
- Lời hát thể hiện tâm tư của người lao động. Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng.
Đó chính là ước mơ của bất cứ người dân biển nào, ước mơ trời yên, biển lặng, mong
mỏi đánh bắt được nhiều cá và là niềm say mê trước sự giàu đẹp của biển cả quê
hương. Niềm ước mong ấy phản ánh tấm lòng đôn hậu của những người ngư dân
từng trải qua nhiều nắng gió, bão tố trên biển.
- Lời hát còn ca ngợi biển cả giàu có với muồn loài cá quý ngày đêm “dệt biển”.
Những từ ngữ trong khổ thơ như: “cá bạc, cá thu, đoàn cá, dệt biển, dệt lưới” khiến
câu hát như một điệp khúc nhấn mạnh sự giàu đẹp của biển cả quê hương. Sự giàu có
của biển khơi còn được nhà thơ miêu tả cụ thể bằng hình ảnh so sánh và nhân hoá rất
đẹp. Từng đàn cá thu mình lấp lánh ánh trắng lướt nhanh trên biển như con thoi chạy
đi chạy lại trong khung dệt vải. Và từ đó tác giả liên tưởng: Đến dệt lưới ta đoàn cá
ơi! Thật là một sự tưởng tượng độc đáo! Trong cảm xúc của những người yêu biển,
cá đi trên biển là cá “dệt biển”, cá vào lưới và cá “dệt lưới”. Từ hình ảnh đoàn cá “dệt
biển” mà kêu gọi “đến dệt lưới ta” đã nói lên ước vọng đánh bắt được nhiều cá.
- Từ “ta” trong khổ thơ vang lên kiêu hãnh. Điều này cho thấy cái tôi trữ tình
trong thơ Huy Cận không còn cái tôi nhỏ bé, đơn côi của một Huy Cận “khi xưa hay
sầu lắm” mà là cái “ta” tập thể đầy sức mạnh, đầy lời ca tiếng hát.
- Hình ảnh thơ vừa thực, vừa lãng mạn. Tâm tư người đánh cá gửi gắm trong lời
hát: phấn khởi, say mê trong công việc lao động và trước sự giàu đẹp của biển quê
hương. Lời ca của họ có “muôn luồng sáng” toả giữa biển đêm.
2.2. Bốn khổ tiếp :
*Khổ 3: Biển rộng lớn mênh mông và khoáng đạt trong đêm trăng sáng
Trên mặt biển là hình ảnh con thuyền đang băng băng lướt đi trên sóng:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
58
Lướt giữa mây cao với biển bằng
- Con thuyền vốn nhỏ bé trước biển trời bao la đã trở thành con thuyền kì vĩ
mang tầm vóc vũ trụ. Thuyề có gió làm bánh lái, có trăng làm cánh buồm, lướt nhanh
giữa hai tầng không gian mênh mông của trời - biển đó là “mây cao” và “biển bằng”.
Với cái nhìn lãng mạn, cách sử dụng các biện pháp tu từ nhân hoá, ẩn dụ, phóng đại
khi miêu tả con thuyền với kích thước của vũ trụ, tác giả muốn khắc hoạ sức mạnh và
vẻ đẹp khoẻ khoắn của những người lao động đang làm chủ thiên nhiên đất nước.
Khác hẳn cái cảm giác nhỏ bé, lẻ loi khi con người đối diện với trời rộng sông dài
như trong thơ Huy Cận trước cách mạng T8-1945.
- Từ “lướt” đặc tả đoàn thuyền ra khơi với vận tốc nhanh; thiên nhiên cũng góp
sức với con người trên con đường lao động và khám phá. Tư thế ra khơi nhẹ nhàng,
thoải mái, đầy khí thế đó chỉ có thể có ở những người vừa thoát khỏi kiếp sống nô lệ,
được làm chủ sản xuất, làm chủ trời biển của mình.
Nhưng lao động không phải là một cuộc du ngoạn. Hai câu thơ tiếp khắc
hoạ hình ảnh một trận đánh, một cuộc chiến đấu với thiên nhiên bằng tất cả trí
tuệ và năng lực nghề nghiệp của người dân chài. Nhịp thơ trở nên hối hả, lôi cuốn:
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
- Bên cạnh cái sáng khoái, ung dung của người dân chài, ta vẫn cảm nhận được
nỗi vất vả của họ. Họ phải vượt qua bao dặm biển trong trời đêm, rồi phải “dò bụng
biển”, tìm ra bãi cá, “dàn đan thế trận” để bủa lưới bắt cá. Công việc đánh cá được
MT như một thế trận hào hùng. Tư thế và khí thế của những ngư dân thật mạnh mẽ,
đầy quyết tâm giữa không gian bao la của biển trời. Lúc này, mỗi thuỷ thủ là một
chiến sĩ trên biển và con thuyền, mái chèo, lưới, các ngư cụ khác chính là vũ khí của
họ. Huy Cận phải có sự am hiểu sâu sắc về nghề chài lưới và lòng thông cảm với
người lao động thì ông mới vẽ được bức tranh lao động trên biển cả rất hiện tựhc mà
cũng rất lãng mạn đến thế.
* Khổ 4. Biển giàu đẹp nên thơ và có thật nhiều tài nguyên:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cá đuôi em quẫy trăng vàng choé
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long
- Bằng cách sử dụng biện pháp liệt kê, nhà thơ Huy Cận đã ngợi ca sự giàu có
của biển cả quê hương. Lòng biển chứa đựng biết bao tài sản quý giá có ý nghĩa to
lớn đối với cuộc sống con người: cá bạc, cá thu, cá nhụ, cá chim, cá song, cá đé.
- Những sản vật đó được nhà thơ miêu tả trong tương quan với cái đẹp, cái thơ
mộng kì ảo, đầy ánh sáng và sắc màu. Điệp từ “cá” kết hợp với sự phối sắc tài tình
của việc sử dụng các tính từ chỉ màu sắc; “đen hồng, vàng choé” đã tạo nên một bức
tranh về cảnh biển đêm thật lung linh và huyền ảo.
+ Mỗi loại cá là một kiểu dáng, một màu sắc. Con cá song là một nét vẽ tài hoa.
Vẩy đen, hồng, lấp lánh bơi lượn trong làn nước biển như lẫn vào ánh trăng.
59
+ Hình ảnh “Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé” thật thú vị và sáng tạo. Ánh
trăng in xuống mặt nước, những con cá quẫy đuôi như quẫy ánh trăng tan ra “vàng
choé”, khiến ánh trăng như vàng hơn, rực rỡ hơn, biển cả như sống động hẳn lên. Nhà
thơ phải thật tinh tế mới có được những phát hiện tuyệt vời ấy. Cảnh biển về đêm
mới đẹp đẽ và thi vị làm sao!
- Cảnh đẹp không chỉ ở màu sắc, ánh sáng mà con ở âm thanh.
+ Nhìn bầy cá bơi lội, nhà thơ lắng gnhe tiếng sóng vồ rì rầm: “Đêm thở sao lùa
nước Hạ Long”.
Đêm được nhân hoá như một sinh vật đại dương đang thở. Phải chăng tiếng thở
của đêm chỉ là tiếng sống biển vỗ rì rò dâng cao, hạ thấp?
+ Nhưng tưởng tượng của nhà thơ lại được cắt nghĩa bằng một hình ảnh bất ngờ:
sao lùa nước Hạ Long làm nên tiếng thở của đêm. Tăng, sao phản chiếu ánh sáng
xuống nước biển, mỗi khi sóng vỗ nhịp tưởng như có bàn tay của sao trời đang “lùa
nước Hạ Long”. Đó là sự độc đáo, mới lạ trong sáng tạo nghệ thuật của Huy Cận
khiến cho cảnh thiên nhiên thêm sinh động, có hồn.
* Khổ 5: Biển không những giàu đẹp mà còn rất ân nghĩa thuỷ chung, bao
la như lòng mẹ.
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho tả cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
- “Bài ca gọi cá vào” là tiếng hát thể hiện niềm vui trong lao động của người dân
chài. đó là một cảm xúc bay bổng, phóng khoáng, giàu tình yêu đời. Họ lao động
khẩn trương, đôi tay gõ nhịp hoà vào trăng sao để dồn cá vào lưới.
- Câu thơ: “Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao” gợi trường liên tưởng thú vị.
Dường như không phải con người gõ thuyền để xua cá vào lưới mà là “trăng cao gõ”.
Trong đêm trăng sáng, vầng trăng in xuống mặt nước, sóng xô bóng trăng dưới nước
gõ vào mạn thuyền thành hình ảnh “nhịp trăng cao gõ”. Có thể nói đây là hình ảnh
lãng mạn đầy chất thơ làm đẹp thêm công việc lao động đánh cá trên biển. Thiên
nhiên đã cùng với con người hoà đồng trong lao động.
- Hai câu thơ “Biển cho ta cá như lòng mẹ/ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào” là một
lời hát ân tình sâu sắc trong bài ca lao động say sưa trước biển cả thơ mộng, hùng vĩ,
thể hiện lòng biết ơn và tình yêu sâu nặng của người dân chài với biển cả quê hương.
Trong con mặts và tình cảm của những người dân chài: “Biển như lòng mẹ”, biển cả
đối với ngư dân trở nên thật ấm áp, như người mẹ hiền chở che, nuôi nấng họ lớn lên,
bao bọc họ với một tình cảm trìu mến, thân thương. Mẹ biển là nguồn sống của họ,
gắn bó sống còn, cho họ tất cả những gì thiết yếu của đời sống như người mẹ “Nuôi
lớn đời ta tự buổi nào”.
- Giọng thơ tự nhiên, tha thiết, chân thành mang âm hưởng của ca dao vọng về.
Hình ảnh so sánh “như lòng mẹ” quen thuộc, có sức truyền cảm mãnh liệt, thể hiện

60
tình yêu biển, yêu đời của những người dân chài gắn bó với biển từ bao đời, bao thế
hệ.
*. Khổ 6: Một đêm trôi đi thật nhanh trong nhịp điệu lao động hào hứng,
hăng say:
Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng
- Bóng đêm dần tan, một đê trôi que thật nhanh trong nhịp điệu lao động hào
hứng, hăng say. Trên bầu trời, sao đã thưa và mờ. Ngày đang đến, nhịp thơ 2/2/3 tô
đậm nhịp độ lao động ngày càng khẩn trương.
- Cảnh kéo lưới được miêu tả thật ấn tượng. Hình ảnh những người dân chài với
vẻ đẹp khoẻ khoắn được miêu tả qua những câu thơ thật gợi hình, gợi cảm. Động từ
kéo đi liền với tính từ xoăn vừa gợi tả được những bắp tay săn chắc, rắn rỏi, vừa nói
được cái hồ hởi, hăm hở của những người lao động.
- Cá nhiều đến thành chùm cá nặng - những mẻ lưới nặng đầy cá. Ẩn chứa trong
đó bao niềm vui, hạnh phúc của người ngư dân trước thành quả mà họ đã tốn bao
công sức mới thu hoạch được. Khi mẻ lưới được kéo lên, những tia nắng chiếu trên
khoang cá đầy làm lấp lánh màu sắc. Màu bạc của vẩy cá, màu vàng của đuôi cá “loé
rạng đông” gợi khung cảnh thật rạng rỡ, huy hoàng, tươi đẹp. Vẩy và đuôi của chúng
lấp lánh ánh bình minh rực rỡ ánh lên một màu “vàng, bạc”. Phải chăng đó là sự ca
ngợi của nhà thơ về sự giàu có của biển và “Rừng vàng biển bạc”? Và dường như nó
còn là lòng biết ơn của họ trước sự hào phóng, ưu ái của biển cả đối với con người.
- Câu thơ “lưới xếp buồm lên đón nắng hồng” tạo một sự nhịp nhàng giữa CVC
lao động của con người với sự vận hành của vũ trị. Công việc kết thúc tốt đẹp, họ trở
về trong trạng thái sảng khoái, phấn chấn trong khung cảnh bình minh rạng rỡ, tráng
lệ. “Nắng hồng”, không những khắc hoạ được vẻ đẹp tươi sáng của bầu trời mà còn
thể hiện được lòng yêu đời, yêu thiên nhiên. Màu hồng của một ngày mới, một cuộc
đời mới đang chào đón mọi người.
* Nhận xét: Mỗi khổ thơ là một nét vẽ về biển trời, sóng nước, trăng sao có
nhiều yếu tố lãng mạn, tràn đầy tưởgn tượng dựa trên những yếu tố hiện thực của đời
sống trong đó con người hiện lên trong dáng vẻ trẻ trung, khoẻ mạnh và yêu đời.
2.3. Khổ cuối (khổ 7): Hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trên đường trở về
trong buổi bình minh rực rỡ ánh hồng.
Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi
- Bốn câu thơ dựng lên một quang cảnh kì vĩ, tráng lệ trên biển cả lúc bình
minh.

61
- Đoàn thuyền đánh cá đã ra đi vào lúc hoàng hôn trong tiếng hát và trở về vào
lúc bình minh cũng trong tiếng hát. Câu hát căng buồm với gió khơi- câu thơ này
được lặp lại gần như nguyên vẹn câu thơ cuối của khổ thơ thứ nhất, chỉ thay có một
từ (từ “với”), tạo cho bài thơ kết cấu đầu cuối tương ứng. Cấu trúc lặp lại ấy trở thành
một điệp khúc của một bài ca lao động. Nét đặc biệt trong thơ Huy Cận sau Cách
mạng tháng Tám là con người thường được miêu tả trong tâm trạng vui tươi hào
hứng. Trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, bốn lần nhà thơ nhắc đến hình ảnh con
người đang ca hát. Hát lúc ra khơi, hát lúc gọi cá, hát lúc thuyền về, nghĩa là hát suốt
cả hành trình lao động. Nhờ có lời ca, tiếng hát mà con người không hề có cảm giác
mệt mỏi, công việc lao động nặng nề trở nên nhẹ nhàng, thơ mộng, với bài ca phơi
phới lạc quan.
- Người ngư dân trở về trong tư thế mới “chạy đua cùng mặt trời”. Từ “chạy
đua” thể hiện khí thế lao động mạnh mẽ, sức lực vẫn dồi dào của người lao động.
Đoàn thuyền được nhân hoá, cả mặt trời cũng tham gia vào cuộc chạy đua này và kết
quả con người đã chiến thắng.
- Khi mặt trời vừa mới “đội biển” nhô lên thì con người đã đạt được thành quả
lao động to lớn: “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. Hai câu thơ cuối cùng tạo nên
sự so sánh thật bất ngờ và thú vị, gợi lên những liên tưởng khác nhau trong tâm trí
người đọc. Phải chăng mặt đời nhô lên trên biển giống như mắt cá huy hoàng lấp lánh
ánh sáng, hay đây là hình ảnh tả thực mang tính cách điệu về thành quả lao động của
con người. Sau một đêm lao động hăng say, khẩn trương sôi nổi đoàn thuyền đã thu
dược những khoang đầy ắp cá, mắt cá lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời như trải ra
muôn dặm, đằng sau hình ảnh “mắt cá huy hoàng” là đôi mắt lấp lánh niềm vui của
con người trước thành quả lao động của mình.
- Câu thơ kết bài vừa mang ý nghãi tả thực, vừa khiến người đọc liên tưởng đến một
tương lai tươi sáng, huy hoàng: “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. Ngày mới bắt
đầu - thành quả lao động trải dải muôn dăm phơi, một cuộc đời mới đang sinh sôi,
phát triển...
3.ĐÁNH GIÁ:
- Bài thơ thể hiện những đặc sắc nghệ thuật độc đáo:
+ Thể thơ 7 chữ, nhịp 4/3 có âm hưởng vừa khỏe khoắn, sôi nổi, lạc quan. Âm điệu
thơ như khúc hát say mê hào hứng với chữ “ hát” lặp đi lặp lại 4 lần, khiến bài thơ
như một khúc ca- khúc ca của tình yêu lao động.
+ Hình ảnh thơ mang vẻ đẹp hào hùng, tráng lệ của thiên nhiên, con người. Sáng tạo
hình ảnh thơ bằng liên tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo. Hình ảnh thơ lặp lại
theo kết cấu đầu cuối tương ứng tạo nên kết thúc mở cho tác phẩm.
+ Các biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ, nhân hóa,...; các động từ mạnh được sử dụng
điêu luyện.

62
- Bài thơ có hai nguồn cảm hứng bao trùm và hài hòa với nhau: cảm hứng lãng mạn
tràn đầy niềm vui hào hứng về cuộc sống mới trong thời kì miền Bắc bước vào xây
dựng chủ nghĩa xã hội và cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ, vốn là một nét đẹp nổi bật
của hồn thơ Huy Cận. Sự thống nhất của hai nguồn cảm hứng ấy đã thể hiện vẻ đẹp
hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào, tình
yêu sâu sắc của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống.
- Bài thơ “ Đoàn thuyền đánh cá” xứng đáng là những vần thơ tươi xanh, là “ bài ca
không quên” về những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc.
III.KẾT BÀI:
“Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận là một khúc tráng ca ngợi ca vẻ đẹp của con
người lao động làm chủ biển khơi. Bài thơ khắc hoạ sự nhịp nhàng của con người lao
động với thiên nhiên vũ trụ. Trong cảnh biển đêm, một vùng thiên nhiên tổ quốc hiện
lên thật giàu đẹp, thơ mộng và đó không chỉ là niềm tự hào của riêng nhà thơ Huy
Cận mà là của tất cả nhũng con người Việt Nam yêu quê hương đất nước.

BÀI THƠ “ BẾP LỬA” CỦA BẰNG VIỆT

A.TÁC GIẢ:
- Bằng Việt tên khai sinh là nguyễn Việt Bằng, Sinh năm 1941
- Quê ở huyện Thạch Thất , tỉnh Hà Tây( nay thuộc Hà Nội).
- Ông làm thơ từ đầu những năm 1960 và thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong
thời kì kháng chiến chống Mĩ
- Hiện nay ông là Chủ tịch Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội.
B. TÁC PHẨM:
- Sáng tác năm 1963 khi tác giả đang là sinh viên học ngành Luật ở nước ngoài.

63
- Bài thơ được đưa vào tập “Hương cây- Bếp lửa” (1968), tập thơ đầu tay của Bằng
Việt và Lưu Quang Vũ.
C.NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT:
- Nội dung: Qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ
“ Bếp lửa” gợi lại những kỷ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng
thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà và cũng là
đối với gia đình, quê hương, đất nước.
- Nghệ thuật: Bài thơ đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự và
bình luận.Thành công của bài thơ còn ở sự sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với
hình ảnh người bà, làm điểm tựa khơi gợi mọi kỷ niệm, cảm xúc và suy nghĩ về bà và
tình bà cháu.
D.Các ý chính (4 ý) :
- Khổ 1: Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn kỉ niệm.
- 4 khổ tiếp: Hồi tưởng những kỷ niệm tuổi thơ sống bên bà và hình ảnh người
bà gắn liền với hình ảnh bếp lửa.:
+ khổ 2: kỉ niệm năm lên 4 tuổi
+ Khổ 3: kỉ niệm về hình ảnh người bà gắn liền với hình ảnh tiếng chim tu hú
+ Khổ 4,5 : Những phẩm chất của bà
- Khổ 6: Suy ngẫm về bà và cuộc đời bà.
- Khổ cuối: Nỗi nhớ của người cháu khi xa bà và cũng là tình yêu đối với quê
hương đất nước.
E.Phân tích:
I.Mở bài:
- Cách 1: Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến
chống Mĩ cứu nước . Bài thơ “Bếp lửa” là món quà thơm thảo thể hiện lòng biết ơn
sâu nặng của Bằng Việt đối với bà khi anh đang du học ở nước ngoài.Bài thơ ca ngợi
đức hi sinh, sự tần tảo và tình thương yêu sâu nặng của người bà. Nỗi nhớ của Bằng
Việt về bà cũng là tình cảm chung của những người con xa tổ quốc.
- Cách 2: Trong cuộc đời mỗi con người, kỉ niệm tuổi thơ bao giờ cũng đẹp dẽ thân
thương và chứa chan tình nghĩa. Bởi vì những kỉ niệm ấy thường gắn bó với những
người ruột thịt gần gũi nhất như ông bà ta, cha mẹ ta…Với Bằng Việt, những kỷ
niệm về bà và tình bà cháu chắc hẳn sâu đậm lắm nên mới đủ sức khơi nguồn cho
dòng cảm xúc ấm nóng, để sáng tạo ra bài thơ đặc sắc : “Bếp Lửa”.
II.Thân bài:
1. Khái quát:
64
Qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ ‘Bếp lửa” đã
gợi lại những kỷ niệm đầy xúc động về tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu
trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê
hương , đất nước. Bài thơ có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm và miêu tả, tự
sự và bình luận như kể lại cho người đọc một câu chuyện đầy xúc động về những kỉ
niệm tuổi thơ sống bên bà của Bằng Việt.
2. Phân tích các ý:
a. Khổ 1: Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn dòng hồi tưởng, cảm xúc về bà.
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
- Bếp lửa là hình ảnh đầu tiên, là điểm sáng gợi nhớ, thức dậy bao kỉ niệm trong
kí ức về tuổi thơ, về bà và tình bà cháu. Hình ảnh bếp lửa xuất hiện nhiều lần xuyên
suốt bài thơ, trở thành một biểu tượng về bà, về cuộc đời bà và tình cảm của bà dành
cho cháu. Điều này giúp ta hiểu vì sao bài thơ viết về bà, về kỉ niệm tình bà cháu lại
được tác giả đặt tên là Bếp lửa.
+ Ba tiếng “một bếp lửa” trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ. Bếp lửa ấy hình
ảnh vô cùng quen thuộc, gần gũi trong mọi gia đình Việt Nam từ bao đời.
+ Hình ảnh bếp lửa “chờn vờn sương sớm” là ngọn lửa có thật mà bà nhen lên
mỗi sớm mai để nấu cháo, nấu cơm cho con cháu. Từ lấy “chờn vờn” vừa là ánh sáng
lập loè và từng làn khói vấn vương của bếp lửa mới nhen, vừa gợi lại hình ảnh bóng
bà chập chờn in trên vách.
+ Hình ảnh bếp lửa “ấp iu nồng đượm” gợi nhiều ý nghĩa: Từ ấp iu vừa diễn tả
công việc nhóm bếp, vừa gợi ra bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng của người
nhóm bếp. Đồng thời ấp iu là một sáng tạo từ mới mẻ đánh thức trong tâm trí người
đọc cảm giác của những “ấp ủ” và “nâng niu”, “chắt chiu”. Như thế, bếp lửa “ấp iu
nồng đượm” ấy còn mang tình thương ấm áp của lòng bà dành cho cháu.
- Hình ảnh bếp lửa đánh thức dòng cảm xúc hồi tưởng của cháu về bà, người
nhóm lửa, người nhóm bếp mỗi sớm mai. “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Bếp
lửa của bà là bếp lửa của một cuộc đời đã trải qua “biết mấy nắng mưa”. Những
“nắng mưa” gợi tả sự đằng đẵng của thời gian và tượng trưng cho cuộc đời bà cực
nhọc, tần tảo sớm khuya triền miền của bà. Nghĩ về bếp lửa, nhớ về bếp lửa mà trong
lòng đứa cháu đi xa trào dâng một cảm xúc thương bà mãnh liệt. Chữ “thương” dùng
thật đắt khiến cho cảm xúc lan toả, nỗi nhớ thương như thấm sâu vào hôn người, trở
thành điểm tựa để mở ra một chân trời đầy ắp kỉ niệm tuổi thơ về tình bà cháu.
65
b. 4 khổ tiếp : Những hồi tưởng về tình bà cháu:
*Khổ 2: Kí ức đưa nhân vật nhớ về một tuổi thơ cay cực, thiếu thốn trăm
bề, năm “đói mòn đói mỏi” của nạn đói năm 1945.
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
- Khổ thơ là những kỉ niệm buồn bã về những cơn đói. Cái “đói mòn đói mỏi” là
cái đói khủng khuiếp vắt kiệt sự sống. Và không phải chỉ là “đói mòn mỏi” mà là
“đói mòn đói mỏi”. Từ “đói” được điệp lại đồng thời từ ghép “mòn mỏi” được “cắt”
làm hai, nhịp thơ kéo dài như cảm giác ngao ngán, mệt mỏi của con người trong nạn
đói.
- Ngay đến cả con ngựa cũng phải chịu chung số phận với con người. Con ngựa
gầy rạc cùng với người bố đánh xe chắc cũng gầy khô. Từ “khô rạc” kết hợp với từ
“gầy” nhấn mạnh thêm cái cảm giác kiệt quệ của sinh vật và của cả con người trong
nạn đói.
- Và thật xót xa, ngay cả ngọn lửa cũng đói. Không có ánh sáng, không có hơi
ấm, chỉ có khói. Cái khủng khiếp của nạn đói in dấu đậm nét trong tâm trí đứa trẻ,
khiến cho đến tận lúc trưởng thành, người thanh niên vẫn giữ nguyên cảm giác cay
cay nơi sống mũi của bếp lửa ngập khói trong những ngày tháng đói kém. Cảm xúc
quá khứ hoà lẫn trong hiện tại và chắc hẳn cảm xúc quá khứ phải sâu sắc lắm mới có
thể trỗi dậy mạnh mẽ thế. Cho dù năm tháng trôi qua những kí ức, kỉ niệm ấy trở
thành một vết thương lòng đâu dễ nguôi ngoai.
- Hình ảnh khói hun nhèm mắt cháu đâu phải chỉ là hình ảnh tả thực: khói nhiều
vì củi ướt, vì sương lạnh mà còn là hình ảnh tượng trưng rất xúc động - nghĩ mà
thương tuổi thơ gian khó, nghĩ mà cồn cào một nỗi nhớ thương bà. Câu thơ lắng
xuống bởi vần bằng của tiếng “cay”. Là mùi khói làm cay mắt cháu hay chính tấm
lòng người bà làm cháu không cầm được nước mắt vì nhớ thương bà? Lời thơ giản dị
như những câu văn xuôi, như những lời thủ thỉ tâm tình bứt, bút pháp kể tả đan lồng
đã đưa người đọc đến với những năm tháng đói khổ, thiếu thốn nhưng vẫn ngập tràn
yêu thương.

66
* Và như một thước phim quay chậm, những kỉ niệm gắn liền với hình ảnh
người bà ùa về. Trong suốt “tám năm ròng”, hai bà cháu một già, một trẻ nương
tựa vào nhau trong một không gian trống trải.
Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
- Tám năm ròng là một quãng thời gian không dài đối với đời người nhưng lại là
cả tuổi thơ của cháu. Từ mùi khói bếp, nhân vật trữ tình nhớ về tiếng chim tu hú
trong suốt tám năm ròng của tuổi thơ - những kỉ niệm đầy ắp âm thanh, ánh sáng và
những tình cảm sâu sắc xung quanh bên bếp lửa của bà.
+ Tiếng chim tu hú là tiếng chim quen thuộc của đồng quê mỗi độ vào hè. Trong
văn học, tiếng chim tu hú thường gợi lên sự khắc khoải, xa cách, trông mong một âm
thanh mang sắc điệu trầm buồn. Nhà thơ sử dụng nghệ thuật lấy động tả tĩnh, tiếng
chim tu hú kêu khắc khoải trên cánh đồng xa làm nổi bật cái tĩnh lặng của không
gian, tô đậm thêm cảm giác về tình cảm vắng vẻ, côi cút của hai bà cháu.
+ Tiếng chim tu hú trong nỗi nhớ như giục giã khắc khoải một điều gì da diết
lắm, khiến lòng người trỗi dậy những hoài niệm nhớ mong “tiếng tu hú sao mà tha
thiết thế!”.
+ Điệp từ tu hú được lặp đi lặp lại nhiều lần khiến lời thơ có âm điệu thật bồi
hồi, tha thiết, khiến bản thân người đọc như nghe vẳng lại đâu đây tiếng tu hú từ
trong tiềm thức của tác giả. Sự điệp lại ấy còn gợi lên nỗi nhớ nhung trùng điệp, vấn
vít vào nhau - nỗi nhớ của bà về những gnày ở Huế càng khiến cho nỗi nhớ của cháu
về bà thêm thăm thẳm, vời vợi.
+ Tiếng chim tu hú trở thành một phần tuổi thơ, một mảnh tâm hồn cháu, là sợi
chỉ đỏ nối liên qua khứ và hiện tại. Tiếng chim tu hú khắc khoải khiến dòng kỉ niệm
trải dài rộng hơn trong không gian xa thẳm của nỗi nhớ thương.
- Tuổi thơ của cháu sống trong tình cảnh “Mẹ cùng cha công tác bận không về”,
cháu sống hạnh phúc trong sự chăm lo, dạy dỗ của người bà nhân hậu.
Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,

67
- Tám năm tuổi thơ của tác giả cũng chính là những năm đất nước có chiến
tranh, bố mẹ phải đi công tác xa nhà, cháu phải sống cùng bà.
- Bằng Việt đã khơi dậy những kỉ niệm ngày ấy bằng biện pháp nghệ thuật liệt
kê: “bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm”... đã diễn tả một cách sâu sắc tấm lòng đôn hậu,
tình thương bao la, sự chăm chút của bà đối với cháu nhỏ. Mỗi kí ức hiện về là thêm
một lần hình ảnh bà được khắc sâu trong tâm trí cháu. Trong những năm tháng ấy, bà
vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là chỗ dựa vững chắc cả về vật chất lẫn tinh thần, là cội
nguồn yêu thương của cháu. Bà không chỉ chăm lo cho cháu từng chút một mà còn là
người thầy đầu tiên dạy cho cháu biết bao điều về cuộc sống, những bài học của bà
trở thành hành trang mang theo suốt cuộc đời. Xuân Quỳnhh cũng từng viết về một
người bà như thế trong Tiếng gà trưa:
Tiếng gà trưa
Mang bao nhiêu hạnh phúc
Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng sắc trứng
+ Chữ “bà” và chữ “cháu” được điệp lại 4 lần gợi tình bà cháu quấn quýt yêu
thương. Được sống trong tình thương là hạnh phúc. Người cháu trong bài thơ “Bếp
lửa” tuy phải sống xa cha mẹ, tuy gặp nhiều thiếu thốn khó khăn, nhưng người cháu
thật may mắn khi được sống trong vòng tay yêu thương của bà.
- Vì thế, tự trong tận đáy lòng cháu mới cảm thấy thương bà, yêu bà biết mấy:
“nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Và một lần nữa tiếng chim tu hú lại vọng
về:
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
+ Câu cảm thán Tu hú ơi! kết hợp với câu hỏi tu từ vang lên như một lời trách
cứ nhẹ nhàng. Ở nơi nước Nga xa xôi, tiếng chim tu hú vọng lại trong kí ức của Bằng
Việt khiến nỗi nhớ trào dâng trong lòng nhà thơ cùng những câu hỏi mênh mang, khi
cháu đã đi rồi thì ai sẽ cùng bà nhóm lửa, ai sẽ nghe bà kể những chuyện ngày ở Huế.
Lời thơ là lời chim tu hú hay là lời hỏi chính mình. Là lời than thở, trách móc hay là
mong ước khôn nguôi muốn trở lại bên bà? Nhà thơ Anh Thơ cũng từng đồng điệu
với cảm xúc ấy:
Con đi dài thương nhớ
Mười mấy năm chưa về
Tu hú ơi tu hú!

68
Kêu chi hoài vườn xanh?
+ Nỗi lògn của chim tu hú kêu chi hoài trên những cánh đồng xa phải chăng là
nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ người. Tiếng chim ấy khiến lòng người
trỗi dậy bao hoài niệm nhớ mong.
Với đức hi sinh, tinh thần kiên định, lòng yêu nước mãnh liệt, bà là điểm
tựa tinh thần của cháu, của gia đình trong những ngày “Giặc đốt làng cháy tàn
cháy rụi” (khổ 4).
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
- Những câu thơ với điệp từ cháy được điệp đi điệp lại, từ ghép tàn lụi được tách
ra khiến hiện thực tàn khốc của thời chiến không chỉ lấp đầy câu thơ mà còn tràn
ngập không gian kí ức của tác giả.
- Trong từ láy lầm lụi hiện lên dáng hình của những con người phải chịu đau
thương mất mát, làm cả câu thơ như trĩu xuống.
- Nổi bật lên trên nền hiện thực khốc liệt của chiến tranh là hình ảnh người bà
với một sức sống và nghị lực bền bỉ.
+ Từ láy đinh ninh diễn tả một điều gì đó chắc chắn từ trong tâm khảm. Dẫu
quân giặc “đốt làng cháy tàn chạy rụi”, bà vẫn đứng vững, chống chọi với tất cả
nghịch cảnh để dắt cháu vượt qua khó khăn, bà vẫn âm thầm tạo dựng lại cuộc sống
từ đống tro tàn, bà dựng lại túp lều đơn sơ làm nơi che mưa, trú năng cho cháu.
+ Chính sự vững lòng ấy mà người đọc cảm nhận được vẻ đẹp trong tâm hồn bà
với lòng yêu nước và sự hi sinh lớn lao cao đẹp. Lời bà dặn cháu thật nôm na nhưng
vô cùng chân thực và cảm động - hậu phương có gian khổ, thiếu thốn nhớ nhung, mất
mát... cách mấy cũng phải giấu đi, nén lại trong lòng để cho tiền tuyến được an lòng.
Bà không chỉ thương con, thương cháu mà vô cùng ân cần, chu đáo, hiểu được tâm
trạng của người con đang đi chiến đấu.
- Tác giả cũng là đứa cháu thật tinh tế, nhạy cảm khi phát hiện được hạt ngọc ẩn
kín trong tâm hồn người bà. Bà không còn là của riêng Bằng Việt nữa mà đã hoà
cùng vào biết bao người phụ nữ Việt Nam khác, những con người cần mẫn, giàu đức

69
hi sinh, là chỗ dựa tinh thần lớn lao cho tiền tuyến, góp một phần vô cùng quan trọng
vào chiến thắng chung của nhân dân.
- Mạnh mẽ là vậy nhưng trong hình ảnh bà vẫn có cái hồn giản dị, tự nhiên vốn
có. Ngôn ngữ của bà bình dị, mộc mạc kể này, kể nọ, cứ bảo... bà hiện lên thật gần
gũi, thân thương. Ngay cả cách bà gọi cháu là mày cũng thật dân dã, thể hiện sự yêu
thương trìu mến vô bờ. Những câu thơ không cầu kì, gọt giũa nhưng nói được tấm
lòng bà mênh mông như biển cả với tinh thương con thương cháu sâu thẳm và một
nghị lực phi thường.
*Khổ 5: Từ những kỉ niệm hồi tưởng về tuổi thơ và bà, người cháu trở về
hiện tại để suy ngẫm về “ngọn lửa” của lòng bà, sức sống, niềm tin của cuộc đời
bà và cũng là để thương bà nhiều hơn, nhớ bà nhiều hơn.
Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...
- Hình ảnh bà luôn gắn liền với hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa. Cụm từ “rồi sớm rồi
chiều” ẩn chứa cả một dòng thôi gian âm ỉ, dai dẳng mang theo cả cuộc đời bà, mang
theo bao tâm tình của đứa cháu nơi phương xa.
- Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể, tác giả nâng lên thành hình ảnh ngọn lửa - một
hình ảnh ẩn dụ mang nhiều ý nghĩa:
+ Bếp lửa bà nhen sớm sớm, chiều chiều không phải chỉ bằng nhiên liệu bên
ngoài mà đã sáng bừgn lên thành ngọn lửa của tình yêu thương “luôn ủ sẵn” trong
lòng bà, một ngọn lửa không bao giờ tắt qua tháng năm, một ngọn lửa bất diện từ
trong chính trái tim bà.
+ Đó còn là “ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...”, từ láy “dai dẳng” và dấu chấm
lửng ở cuối câu thơ đã diễn tả sâu sắc sự bền bì và sức lan toả mãnh liệt tình yêu
thương và niềm tin nơi bếp lửa của bà.
+ Điệp ngữ “một ngọn lửa” như một điệp khúc, có tác dụng nhấn mạnh ngọn lửa
chính là sức sống, lòng yêu thương, niềm tin mà bà truyền cho cháu, hun đúc trong
cháu cháy sáng trong cháu, nâng bước cháu trên suốt chặng đường đời.
+ Cùng với hình ảnh ngọn lửa, các từ ngữ chỉ thời gian: “rồi sớm rồi chiều”, các
động từ “nhen”, “ủ sẵn”, “chứa” đã khẳng định tấm lòng vị tha, giàu đức hi sinh, ý
chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ nữ Việt Nam giữa thời chiến.
- Như vậy chính tình thương, đức hi sinh, tính kiên trì nhẫn nại của bà là nguồn
nhiên liệu vô tận làm bừng sáng lên ngọn lửa vĩnh cửu truyền cảm ấy. Bà không để

70
lại cho con cháu những giá trị vật chất thông thường mà là một điều quý giá hơn gấp
bội: ngọn lửa của sự sống, bà là hiện thân cho vẻ đẹp thiêng liêng của người giữ lửa,
truyền lửa.
2.3. Khổ 6: Những suy ngẫm về bà và cuộc đời bà:
Khổ thơ tiếp theo là những suy nghĩ sâu sắc của nhà thơ, của đứa cháu về
người bà kính yêu, về bếp lửa.
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ...
- Cuộc đời của bà nhiều “lận đận”, trải qua nhiều “nắng mưa”.
- Từ láy “lận đận” với hai thanhh trắc giàu sức gợi hình, biểu cảm đã diễn tả cả
cuộc đời vất vả, chuân chuyên của bà.
- Cụm từ “biết mấy năng mưa” là hình ảnh ẩn dụ để chỉ những thăm trầm của
cuộc sống, tô đậm thêm sự hi sinh cần mẫn của đời bà.
Trải qua tất cả những khó khăn, thử thách ấy, hình ảnh bà vẫn chưa bao giờ tách
rời khỏi bếp lửa.
+ “Mấy chục năm rồi”, lời thơ kể mà như đếm, gợi nên cả một tuổi thanh xuân,
cả một đời người thức khuya dậy sớm gắn liền với khói bếp cay nồng.
+ Mấy chục năm trôi qua, giờ cháu đã trưởng thành nhưng bà vẫn giữ thói quen
dậy sớm “nhóm lửa”. Bà vẫn nhóm lên ngọn lửa yêu thương, ngọn lửa đầy sức sống
lan toả, sẻ chia ấm áp. Sự tảo tần, đức hi sinh của bà vẫn vẹn nguyên như thủa nào.
- Điệp từ “nhóm” ngân lên, lan toả và khơi dậy biết bao yêu thương, bao
rung cảm khi nhà thơ suy tư về hành động nhóm bếp, nhóm lửa của bà:
+ Bếp lửa “ấp iu nồng đượm” ở khổ thơ thứ nhất đến đây được lặp lại tạo thành
mạch cảm xúc nối liền, ngân vang như một lời khẳng định về sự cần mẫn, khéo léo
của bà.
+ Bà nhóm bếp lửa “ấp iu nồng đượm” không chỉ để sưởi ấm cho bà và cháu
qua cái lạnh buốt của sương sớm mà còn để luộc khoai, luộc sắn cho cháu ăn đỡ đói
lòng trong những tháng năm thiếu thốn. Để từ đó, bà nhắc cháu không được quên
những năm quên những năm tháng nghĩa tình chia nhau từng củ khoai, củ sắn.

71
+ Không chỉ đem đến cho đứa cháu nhỏ cái ngọt bùi của sắn khoai mà bà còn
“nhóm tình yêu thương”, lan toả tình yêu thương vô hạn từ bà để sưởi ấm và chở che
cho cháu, thắp lên trong trái tim nhỏ bé của cháu những xúc cảm nhân bản.
+ “Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui”. Đến câu này Bằng Việt nhớ về những
năm tháng hai bà cháu sống trong sự đùm bọc, san sẻ cùng xóm làng với “nồi xôi gạo
mới”. Đó là tình cảm xóm làng đoàn kết, gắn bó, chia ngọt, sẻ bùi. Câu thơ như một
lời nhắn gửi hãy luôn sống chan hoà và nghĩ đến mọi người, đừng ích kỉ cho riêng
mình.
+ Các từ ngữ “ấp iu nồng đượm”, “yêu thương”, “ngọt bùi”, “chung vui” đã diễn
tả thật hay tình thương, niềm vui, sự no ấm, hạnh phúc mà bà đã mang lại cho con
cháu. Đó là sự đan xen, quấn quýt giữa những giá trị vật chất đời thường với những
giá trị tinh thần.
+ Điều thú vị nhất trong cảm nghĩ của nhà thơ là bếp lửa của bà đã “nhóm dậy
cả những tâm tình tuổi nhỏ”. Bếp lửa của bà gợi nhớ về một tuổi thơ thiếu thốn
nhưng ấm áp, nghĩa tình. Bếp lửa của bà nuôi dưỡng và làm bừng sáng những ước
mơ, những khát vọng từ thuở ấu thơ của cháu. Bếp lửa của bà đã nhóm lên ngọn lửa
của tình thương ấm áp, hướng cháu đến những lẽ sống cao đẹp trong cuộc đời.
+ Như thế, bà thì nhóm lửa còn Bằng Việt thì nhóm lên biết bao hoài niệm, khơi
dậy bao đợt sóng yêu thương trong lòng người đọc.
- Hình ảnh bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền
lửa, truyền niềm tin và sức sống cho cháu. Người bà ấy giản dị nhưng lại có một
sức mạnh kì diệu. Suốt dọc bài thơ, mười lần xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần
tác giả nhắc tới bà - người phụ nữ Việt Nam truyền thống với vẻ đẹp tảo tần, nhẫn nại
và đầy yêu thương, để rồi từ đó thốt lên trong bao nhớ nhung và trân trọng.
Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!
+ Câu thơ với từ cảm thán “ôi” như chất chứa, dồn nén biết bao điều. Trong đó,
sức mạnh “kì lạ” đã nhóm dậy cả một chân trời kỉ niệm, cả một tuổi thơ, cả một tâm
hồn. Trong đó là sự “thiêng liêng” nhà thơ đã gìn gữi trong tim nơi đất khách, quê
người.
+ Dấu gạch ngang trong câu thơ là một tính nghệ thuật đặc sắc. Dấu gạch ngang
ấy như một khoảng lặng trong bản nhạc để làm nền cho hai tiếng “bếp lửa” ngân lên,
diễn tả bao tâm tình, bao sự kính trọng và ngưỡng mộ đối với bà.

72
+ Đến dây ta mới cảm nhận được toàn bộ vẻ đẹp của hình ảnh bếp lửa. Hình ảnh
ấy đã trở thành cái nền hoàn hảo để mở ra dòng suy ngẫm của tác giả lẫn độc giả về
cuộc đời tần tảo và nghĩa tình của bà.
2.4. Khổ 7: Niềm thương nhớ bà của cháu.
Khép lại bài thơ là lời khẳng định chân thành của người cháu nơi phương xa:
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
- Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?
+ Ở nước Nga xa xôi lạnh giá, bếp ga, bếp điện đã thay thế bếp củi nhem nhuốc
khói, nhưng hình ảnh người bà và bếp lửa sớm mai vẫn đọng lại trong tâm trí cháu.
Biện pháp liệt kê kết hợp với điện từ và điệp cấu trúc “có... trăm...” đã mở ra một thế
giới rộng lớn với những điều vui tươi, mới mẻ. Thế nhưng, cuộc sống hiện đại với
“ngọn khói trăm tàu, ngọn lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” ấy vẫn không thể làm
cho cháu nguôi đi nỗi nhớ thương đau đáu, thường trực về bà, một nỗi nhớ đến mức
“chẳng lúc nào quên nhắc nhở”.
Người bà nói riêng hay người phụ nữ trong gia đình nói chung luôn gắn với
những gì gần gũi, thiêng liêng nhất. Họ trở thành hiện thân của gia đình, quê hương,
đất nước. Niềm kính yêu và trân trọng đối với bà đã trở thành sự gắn bó với gia đình,
tình yêu và nỗi nhớ quê hương, đất nước cũng như lòng biết ơn của Bằng Việt đối với
cội nguồn che chở ấy. Để mỗi ngày ông đều tự hỏi: “Sớm mai này bà nhóm bếp lên
chưa?”, mỗi ngày đều nhớ về bà và bếp lửa của bà. Hình ảnh bếp lửa đã trở thành kỉ
niệm ấm lòng, thành niềm tin thiêng liêng làm ấm lòng theo nhà thơ suốt cả cuộc đời.
4. Nghệ thuật:
Bài thơ được viết theo thể thơ tự do, kết hợp nhuần nhuyễn các phương thức
biểu đạt miêu tả, biểu cảm, tự sự và nghị luận. Hình ảnh thơ sinh động, giàu sức gợi.
Nhiều biện pháp tu từ được vânj dụng thành công như: ẩn dụ, điệp từ, điệp ngữ...
Hình ảnh bếp lửa vừa thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng, gắn liền với hình ảnh
người bà, là điểm tựa khơi gợi kỉ niệm, cảm xúc, suy nghĩ về bà và tình bà cháu.
C. Kết luận:
Bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt chứa đựng những cảm xúc và suy tư ý nghĩa triết
lý sâu sắc: Với Bằng Việt, bếp lửa của tình bà chính là bếp lửa của tình đời, tình
người bình dị, đơn sơ nhưng thiêng liêng, kì diệu. Nhờ thơ bày tỏ niềm nhớ thương
và lòng biết ơn với bà, đó cũng chính là một biểu hiện cụ thể của tình yêu thương, sự

73
gắn bó với gia đình, quê hương và đó cũng là khởi đầu của tình người, tình đất nước.
Qua thi phẩm, Bằng Việt còn khẳng định những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ đều
có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời.
Đọc “Bếp lửa” của Bằng Việt giúp ta biết trân trọng kí ức trong trẻo của một
thời thơ ấu, để thấy thế giới thật mênh mông nhưng vẫn không bằng nhà mình. Để
biết trân trọng và yêu quý ông bà, cha mẹ. Để một ngày nào đó dừng lại giữa dòng
đời bất tận, ta mỉm cười vì luôn có một “Bếp lửa” soi sáng trong tim...

74
“LÀNG” CỦA KIM LÂN
A.TÁC GIẢ:
- Kim Lân( 1920- 2007) tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, quê ở huyện Từ Sơn, tỉnh
Bắc Ninh.
- Ông là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và đã có những sáng tác đăng báo từ trước
Cách mạng tháng Tám 1945.
- Vốn gắn bó và am hiểu sâu sắc cuộc sống ở nông thôn, Kim Lân hầu như chỉ viết về
sinh hoạt làng quê và cảnh ngộ của người nông dân.
- Năm 2001, ông được tặng giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.
B.TÁC PHẨM:
- Sáng tác năm 1948
-Truyện ngắn “Làng” được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp
và đăng lần đầu trên tạp chí văn nghệ năm 1948.
C. NỘI DUNG , NGHỆ THUẬT:
- Nội dung: Tình yêu làng quê và lòng yêu nước, tinh thần kháng chiến của người
nông dân phải rời làng đi tản cư đã được thể hiện chân thực, sâu sắc và cảm động ở
nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân.
- Nghệ thuật: Tác giả đã thành công trong việc xây dựng tình huống truyện, trong
nghệ thuật miêu tả tâm lí và ngôn ngữ nhân vật.
* Nhan đề:
- Nhan đề của truyện là “Làng”chứ không phải làng chợ Dầu’ vì nếu là làng chợ Dầu
thì vấn đề mà tác giả đề cập đến chỉ nằm trong phạm vi nhỏ hẹp, cụ thể ở một làng
- Dụng ý nghệ thuật của tác giả vừa muốn nói lên được cái riêng là tình yêu làng của
nhân vật ông Hai đồng thời ca ngợi tình yêu làng quê tha thiết của những người nông
dân nói chung trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
* Tình huống truyện;
-Tình huống cơ bản của truyện là khi ở nơi tản cư, lúc nào ông Hai cũng da diết nhớ
làng, tự hào về Làng, bỗng bất ngờ nghe được tin làng mình theo giặc.
=> Tình huống đó làm bộc lộ rõ tình yêu tha thiết của ông Hai đối với Làng gắn với
lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến.

LUYỆN ĐỀ:PHÂN TÍCH NHÂN VẬT ÔNG HAI:


I.MỞ BÀI:

75
* Cách 1: T/giả- t/p- nhân vật
- Kim Lân là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam
hiện đại. Nhà văn am hiểu cuộc sống nông thôn và người dân miền Bắc nên ông có sở
trường viết về nông thôn và người nông dân.
- Truyện ngắn « Làng » được ông sáng tác vào năm 1948, trong lúc cuộc kháng chiến
chống Pháp đang bùng nổ trên qui mô toàn quốc. Đây là tác phẩm xuất sắc thể hiện
thành công hình ảnh người nông dân thời đại cách mạng và kháng chiến mà tình yêu
làng quê đã hòa nhập với tình yêu nước.
- Nhân vật ông Hai trong truyện có những nét tình cảm cao đẹp và vô cùng đáng
quí đó là yêu làng gắn với yêu nước và tinh thần kháng chiến.
* Cách 2: Giới thiệu đề tài ->tác giả -> tác phẩm ->nhân vật :
- Cái làng đối với người nông dân có một vị trí và ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong cuộc sống vật chất và tinh thần của họ. Vì thế từ bao đời nay, tình yêu làng quê
đã trở thành thứ tình cảm tự nhiên, sâu nặng thấm vào tâm hồn mỗi người dân quê.
- Nhà văn Kim Lân đã rất thấu hiểu điều đó và ông đã viết nên truyện ngắn “Làng”-
một tác phẩm đặc sắc thể hiện chân thực và cảm động tình yêu làng quê gắn liền với
tinh thần kháng chiến của người nông dân trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
- Trong tác phẩm , nhân vật ông Hai đã được khắc họa thật nổi bật, gây ấn tượng sâu
đậm trong lòng người đọc.
* Cách 3: Dẫn dắt từ 1 lời nhận định:
Nguyễn Khải, một nhà văn nổi tiếng của văn học Việt Nam hiện đại đã từng
tâm sự: “Về văn xuôi là nghề của tôi, trước sau tôi thần phục có ba người là ông
Nguyễn Tuân, Nam Cao và Kim Lân. Sau này viết lách được cái gì thường cũng lấy
văn của ba ông làm chuẩn.” Và khi đọc “Làng” của Kim Lân, tác giả đã ngạc nhiên
và thốt lên rằng: “Đó là thần viết, thần mượn tay người để viết những trang sách bất
hủ”. Có thể nói, linh hồn của truyện ngắn “Làng” là nhân vật ông Hai, Kim Lân đã
đưa vào văn học một bức chân dung sống động của người nông dân Việt Nam những
ngày đầu kháng chiến qua nhân vật ông Hai.

76
b) Cách 4: Dẫn dắt từ 1 lời nhận định:
“Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người.”
(Nguyễn Minh Châu). Quả thực, Con người vừa là điểm xuất phát, là đối tượng khám
phá chủ yếu, vừa là cái đích cuối cùng của văn học. Dù được sáng tác bằng bất cứ thể
loại nào và trong bất cứ thời đại nào, ngòi bút của các nhà văn luôn hướng đến cuộc
sống với tất cả những nỗi niềm, dù là vui tươi yêu đời hay đau khổ đến phẫn uất của
con người. Và trong truyện ngắn “Làng”, nhà văn Kim Lân đã dùng ngòi bút của
mình để mang đến những trang văn neo đậu mãi trong tâm hồn chúng ta về nhân vật
ông Hai, một người nông dân tràn đầy tình yêu làng, yêu nước và tinh thần kháng
chiến.
II.THÂN BÀI:
1.KHÁI QUÁT:
- Với nghệ thật xây dựng tình huống truyện đặc sắc, cách miêu tả tâm lí nhân vật
tinh tế, truyện đã thể hiện thật sinh động tình yêu đối với làng chợ Dầu của nhân vật
ông Hai.
- Ông có cách thể hiện tình yêu làng thật đặc biệt, đó là cái tính thích khoe về làng
với tất cả sự say sưa và hãnh diện.
Song sở dĩ truyện hấp dẫn người đọc từ đầu đến cuối chính là vì tác giả đã sáng tạo
được một tình huống truyện đặc sắc: ông Hai nghe được tin làng chợ Dầu yêu quý
của ông Việt gian theo Tây. Toàn bộ câu chuyện xoay quanh tình huống oái oăm đó.
- Ta thấy được sự chuyển hoá từ lòng yêu làng quê tha thiết trở thành tình yêu nước,
tin tưởng cách mạng và kháng chiến của ông Hai và cũng là của người nông dân nói
chung trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
2.PHÂN TÍCH:
a,Ý 1: TÂM TRẠNG NHÂN VẬT ÔNG HAI TRƯỚC KHI NGHE TIN LÀNG
THEO GIẶC:
-Ở nơi tản cư, ông Hai luôn nhớ da diết về cái làng chợ Dầu của mình.
-Ông luôn khoe làng ông trù phú, đường lát toàn bằng đá xanh, nhà ngói san sát…
Nhưng khi cách mạng nổ ra, ông lại khoe làng ông có tinh thần kháng chiến. Nào là
có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa rộng rãi nhất làng,chòi phát thanh cao
bằng ngọn tre, giao thông hào ngang dọc khắp làng…
- Ông thường xuyên đến phòng thông tin để nghe ngóng những tin tức về làng, tin tức
kháng chiến. Khi biết được những tin tức kháng chiến qua việc nghe lỏm anh dân
quân đọc báo, ông vô cùng vui mừng phẩn khởi, “ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui
quá”.
77
=>Như vậy tình yêu làng của người nông dân ngay từ đầu đã gắn bó với tinh thần
kháng chiến.
b,Ý 2:TÂM TRẠNG NHÂN VẬT ÔNG HAI KHI NGHE TIN LÀNG THEO
GIẶC:
*KHI VỪA MỚI NGHE TIN:
- Khi ông Hai đang phấn chấn với những tin tức kháng chiến vừa nghe được ở
phòng thông tin thì cái tin làng chợ Dầu theo giặc đến với ông quá bất ngờ. “Cổ họng
ông lão nghẹn ắng lại,da mặt tê rân rân, ông lặng đi tưởng như không thở được…Ông
dặn è è như nuốt một cái gì vướng ở cổ, giọng lạc hẳn đi…”.
=>Chỉ một vài câu ngắn, tác giả đã cụ thể hóa cái sững sờ ngạc nhiên cao độ đến hốt
hoảng, đến nghẹn giọng, khó thở trước một cái tin động trời mà ông không thể tin. - -
- Khi trấn tĩnh lại, ông cố chưa tin cái tin ấy nhưng những người tản cư kể lại rành rọt
quá và khẳng định họ “vừa dưới đấy lên” khiến ông không thể không tin.Họ còn nhắc
đến tên Chánh Bệu người làng ông, vậy chắc là đúng rồi.
- Cử chỉ đầu tiên của ông là lảng chuyện, cười nhạt trong sự bẽ bàng và rời khỏi
quán.Những câu nói mỉa mai căm ghét, tiếng chửi của người đàn bà tản cư cứ đuổi
theo làm ông xấu hổ ê chề như là họ đang mắng chửi mình. Ông im lặng “cúi gằm
mặt xuống mà đi”trong sự trốn tránh vì xấu hổ, nhục nhã.
*KHI VỀ ĐẾN NHÀ:
- Khi về đến nhà ông nằm vật ra giường rồi tủi thân nhìn đàn con chơi sậm sụi với
nhau. Ông Hai nghĩ đến sự hắt hủi khinh bỉ của mọi người dành cho những đứa trẻ
của cái làng Việt gian.
- Thương con, ông thoắt căm hận dân làng- những kẻ ông gọi là “chúng bay”một
cách khinh bỉ.Ông nguyền rủa họ đã làm một cái việc nhục nhã, làm tổn hại đến danh
dự của làng, và tội còn to hơn thế: tội phản bội, tội đầu hàng bán nước.
- Với tâm trạng như vậy nên khi trò chuyện với vợ, ông Hai vừa bực bội vừa đau đớn,
vừa gắt gỏng vô cớ rồi trằn trọc thở dài và “nằm im không nhúc nhích”.
*MẤY HÔM SAU:
+)KHI Ở NHÀ KHÔNG ĐI ĐÂU:
-Suốt mấy ngày sau, ông Hai không dám ló mặt đi đâu, chỉ ru rú ở nhà nghe ngóng
tình hình bên ngoài trong lo lắng sợ hãi. “Một đám đông túm lại ông cũng để ý, dăm
bảy tiếng nói cười xa xa ông cũng chột dạ”.
-Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, đang bàn tán đến “cái
chuyện ấy”.Cứ thoáng nghe thấy tiếng “Việt gian, Tây, cam nhông” là ông lại lủi ra
một góc nhà nín thít.

78
=>Với nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế, tác giả đã diễn tả rất cụ thể nỗi ám ảnh nặng
nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông Hai, cùng nỗi đau xót tủi hổ trước
cái tin làng mình theo giặc.
+)KHI MỤ CHỦ NHÀ ĐUỔI GIA ĐÌNH ÔNG ĐI:
-Tình huống gay cấn là một nghệ thuật đặc sắc để nhân vật ông Hai bộc lộ lòng
yêu làng và sự thủy chung đối với kháng chiến, với cụ Hồ. Đó là khi tác giả đặt ông
Hai vào hoàn cảnh bế tắc không lối thoát: gia đình ông bị mụ chủ nhà đuổi đi.Lúc đó
hai tình cảm: đối với làng và đối với kháng chiến đã dẫn ông Hai đến một cuộc xung
đột nội tâm sâu sắc để ông phải dứt khoát chọn một con đường.
- Trong giây phút tuyệt vọng ấy, ông đã chớm có ý định quay về làng cũ nhưng trong
ông lập tức lại tự diễn ra cuộc đấu tranh tư tưởng quyết liệt: “Về làng tức là bỏ kháng
chiến, bỏ cụ Hồ, về làng tức là chịu đầu hàng thằng Tây”.
- Đến lúc này, tình cảm cách mạng, lòng yêu làng yêu nước đã thực sự hòa quyện
trong tâm hồn lão nông tản cư. Và ông quyết định dứt khoát: “Làng thì yêu thật
nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Ông không thể trở về cái làng ấy nữa mặc
dù trong lòng ông, tình yêu đối với làng quê không thể nào nguôi ngoai.
+)TÂM SỰ VỚI CON:
- Cách giải quyết tạm thời trong tình thế cấp bách, bế tắc không làm cho ông hết
đau đớn. Chính trong lúc ấy, ông chỉ còn biết trút nỗi lòng của mình vào những lời
thủ thỉ tâm sự với đứa con út ngây thơ.
-Đoạn văn thật chân thành và cảm động bởi nó không chỉ diễn tả tình cảm cha con
mà còn thể hiện tâm trạng buồn bã đau khổ và quyết tâm trung thành đến cùng của
ông với cách mạng, với cụ Hồ.
- Đầu tiên ông hỏi thằng cu Húc: “ Con là con ai ? Nhà ta ở đâu? Ông muốn khắc sâu
trong tâm trí con về cội nguồn, về quê hương . Bởi vì:
“ Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người”
- Khi thằng bé trả lời “nhà ta ở làng chợ Dầu” và thể hiện ý thích về làng làm ông lại
càng đau khổ. Rồi thái độ của thằng bé giơ tay mạnh dạn nói: “Ủng hộ cụ HCM
muôn năm”làm nước mắt ông lão lại giàn ra, chảy ròng ròng trên má. Cách tâm sự
của ông với con chính là ông tâm sự với chính mình. Lời tâm sự của ông với con lại
một lần nữa diễn tả tình yêu sâu nặng đối với làng chợ Dầu mà ông tạm thời phải xa,
phải thù. Nhưng đáng quý hơn là tấm lòng thủy chung với kháng chiến, với cách
mạng mà biểu tượng là cụ Hồ.Đoạn văn độc thoại nội tâm: “Cụ Hồ trên đầu trên cổ

79
xét soi cho bố con ông…chết thì chết chứ có bao giờ dám đơn sai” quả thật là những
suy nghĩ và lời lẽ chân thành, mộc mạc chứa đựng đầy tình cảm của những người
nông dân nghèo Bắc Bộ.
c.Ý 3:TÂM TRẠNG NHÂN VẬT ÔNG HAI SAU KHI NGHE TIN CẢI CHÍNH:
Ở đoạn kết truyện, cái tin làng chợ Dầu theo giặc được cải chính làm ông Hai
sung sướng vô cùng.Ông thay đổi hẳn:
- Vẻ mặt: “Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng rạng rỡ tươi vui hẳn lên,mồm bỏm bẻm
nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ hấp háy…”
- Hành động : Ông lật đật,hồ hởi đi khoe với bác Thứ hàng xóm cái tin làng chợ Dầu
Việt gian là sai sự thật, hào hứng khoe nhà mình bị Tây đốt nhẵn. Rồi lại lật đật đi
khoe khắp xóm về cái tin mới đó.
- Lời nói: Chỉ vẫn câu nói: “ Tây nó đốt nhà tôi rồi. Đốt nhẵn! ..Ông chủ tịch vưa
fmới lên trên này cải chính..”
=>Ông hãnh diện về làng và phấn khởi khôn nguôi vì ông không phải lựa chọn giữa
một bên là làng và một bên là kháng chiến , tình yêu ấy giờ có thể hòa vào làm một..
Có thể nói , tình yêu làng của nhân vật ông Hai rất tiêu biểu và độc đáo được Kim
Lân diễn tả không chỉ ở trạng thái tâm lí mà trong cả quá trình vận động chuyển biến
tâm trạng của nhân vật.
3. ĐÁNH GIÁ:
-Tình huống truyện đặc sắc giúp nhân vật bộc lộ tâm trạng đa dạng phong phú.
- Tâm trạng nhân vật được miêu tả cụ thể, gợi cảm qua diễn biến nội tâm, ý nghĩ hành
vi, ngôn ngữ và các hình thức trần thuật( đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm),...
nên rất sinh động.
- Truyện được kể theo ngôi thứ ba, đảm bảo tính khách quan, chân thực.
- Ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật thể hiện tính cách của nhân vật, gần gũi
với lời ăn tiếng nói, cách nghĩ của người nông dân.
- Giọng điệu kể chuyện tự nhiên, thân mật, dí dỏm nhưng đôn hậu.
=> Qua truyện ngắn “ Làng”, tác giả đã khắc họa thành công hình tượng một người
nông dân yêu làng, yêu nước hồn nhiên, chất phác mà sâu sắc.

80
Hình tượng nhân vật ông Hai phản ánh chân thực vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân
Việt Nam trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và có ý nghĩa giáo dục
sâu sắc đối với nhiều thế hệ bạn đọc về tình yêu quê hương đất nước. Tác phẩm xứng
đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.

III.KẾT BÀI:
Với cốt truyện đơn giản, truyện ngắn “Làng” tập trung thể hiện tâm lí của nhân vật
ông Hai trong một tình huống đặc biệt lại có khả năng bộc lộ sâu sắc đời sống tình
cảm của con người. Ngôn ngữ nhân vật mạng đậm tính khẩu ngữ và lời ăn tiếng nói
của người nông dân đã giúp Kim Lân xây dựng được một hình tượng nhân vật nông
dân điển hình trong thời kì kháng chiến chống Pháp: tình yêu làng quê thống nhất với
tình yêu nước và tinh thần kháng chiến.

LUYỆN ĐỀ :
Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu
theo giặc.
( Làm đến 16h15 phút ,chụp gửi zalo cho cô. Tùy tốc độ viết của mỗi người. Cô
sẽ lựa chấm điểm trong khoảng thời gian làm bài 35 phút)

81
LUYỆN ĐỀ: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM “ LẶNG LẼ SA PA”
( Nguyễn Thành Long)

A. Kiến thức cơ bản :


I.TÁC GIẢ:
- Nguyễn Thành Long ( 1925- 1991), quê ở huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, viết
văn từ thời kì kháng chiến chống Pháp.
- Ông là cây bút chuyên về truyện ngắn và kí.
II.TÁC PHẨM:
- Sáng tác năm 1970
- Tác phẩm là kết quả của chuyến đi lên Lào Cai trong mùa hè năm 1970 của tác giả.
- Truyện rút từ tập “Giữa trong xanh” in năm 1972.
III.NỘI DUNG, NGHỆ THUẬT:
- Nội dung: (Ghi nhớ SGK)Truyện ngắn “ Lặng lẽ Sa Pa” khắc hoạ thành công hình
ảnh những người lao động bình thường, mà tiêu biểu là anh thanh niên làm công tác
khí tượng ở một mình trên đỉnh núi cao. Qua đó, truyện khẳng định vẻ đẹp của con
người lao động và ý nghĩa của những công việc thầm lặng.
- Nghệ thuật: Truyện đã xây dựng được tình huống hợp lí,cách kể chuyện tự nhiên, có
sự kết hợp giữa tự sự, trữ tình với bình luận.
IV.PHÂN TÍCH:
A.Nhan đề:
Hai chữ Lặng lẽ được đưa lên đầu nhan đề mở ra nhiều ý nghĩa:
+ Vẻ đẹp lặng lẽ, êm đềm mà không hề quạnh hiu, nhịp sống bình yên của một
vùng đất xa xôi mà thơ mộng là Sa Pa.
+ Nhan đề còn gợi vẻ đẹp của những con người lao động lặng thầm. Những
công việc, thành quả lao động mà họ đạt được hết sức lớn lao mà bình dị, họ làm việc
say mê không hề nghĩ đến nghỉ ngơi và cũng không cần ai biết đến mình. Họ là
những con người rất đỗi khiêm tốn, những anh hùng vô danh.
Nhan đề Lặng lẽ Sa Pa thể hiện được chiều sâu chủ đề tư tưởng của truyện
ngắn: Miêu tả bức tranh Thiên nhiên thơ mộng, huyền ảo của Sa Pa. khắc hoạ thành
công hình ảnh những người lao động bình thường, tiêu biểu là anh thanh niên làm
công tác khí tượng ở một mình trên đỉnhnúi Yên Sơn cao 2600m. Qua đó truyện
khẳng định: “Trong cái lặng im của Sa Pa...Sa Pa mà chỉ nghe tên, người ta đã nghĩ
đến chuvện nghỉ ngơi, có những con người làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất
nước”.

B.Tình huống truyện: tự nhiên, tình cờ và hấp dẫn:

82
- Tình huống cơ bản của truyện ngắn “LLSP” chính là cuộc gặp gỡ bất ngờ và
đầy thú vị của anh thanh niên làm việc một mình ở trạm khí tượng với bác lái xe và
hai hành khách trên chuyến xe ấy là ông họa sĩ và cô kĩ sư lên thăm nơi ở và làm việc
của anh thanh niên trong chốc lát.
- Tình huống gặp gỡ này là cơ hội thuận tiện để nhân vật chính - anh thanh
niên được hiện ra qua sự quan sát, suy nghĩ của những nhân vật khác, đặc biệt là ông
họa sĩ già. Chính vì thế nhân vật chính của tác phầm không chỉ hiện ra một cách tự
nhiên mà còn được soi chiếu, đánh giá từ cái nhìn và cảm xúc của những nhân vật
khác, rồi lại tác động đến tình cảm và suy nghĩ của những nhân vật ấy.
- Tình huống truyện độc đáo này còn thể hiện được chiều sâu chủ đề tư tưởng
của truyện ngắn...

LUYỆN ĐỀ

Đề 1: Phân tích bức tranh thiên nhiên Sa Pa:


I. Mở bài:
- Tg, tp, đề ,nhận định.....
- Một trong yếu tố làm nên sưự thành công của tác phẩm LLSP là tg đã khắc họa
bức tranh TN thơ mộng, làm nền cho vẻ đẹp của con người.
II. Thân bài:
1. Khái quát:
- Tg, hoàn cảnh sáng tác.
- Ý nghĩa nhan đề
2.Phân tích:
- Thiên nhiên Việt Nam có rất nhiều cảnh đẹp trong đó có Sa Pa là một danh lam
thắng cảnh nổi tiếng ở miền Bắc. Khí hậu ở đây hài hoà, chính vì thế mà hoa trái bốn
mùa tươi tốt...
- Phong cảnh Sa Pa thật hùng vĩ, nên thơ nhưng cũng thật thanh bình, yên ả: núi
cao với thác đổ trắng xoá, đường núi uốn lượn quanh co, cây cối rậm rạp cứ chen
nhau hiện dần lên bức tranh mỗi lúc một hấp dẫn: những rặng đào, những đàn bò
lang cổ có đeo chuông ở những đồng cỏ trong thung lũng...
- Cảm giác đầu tiên đến với ông hoạ sĩ là cô gái trẻ là bức hoạ về khung cảnh
thiên nhiên lung linh, kì ảo: Cảnh trước mặt bỗng hiện lên đẹp một cách kì lạ. Nắng
bây giờ bắt đầu len tới đốt cháy rừng cây, những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít
trong nắng những ngón tay bằng bạc dưới cái nhìn bao che của những cây tử kinh,

83
thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng. Mây bị nắng xua,
cuộn tròn lại từng cục, lăn trên những vòm lá ướt sương, rơi xuống đường cái, luồn
cả vào gầm xe... Nắng mạ bạc cả con đèo. Cảnh vật được nhân cách hoá sống động.
Mỗi câu, mỗi chữ khắc hoạ bức tranh thiên nhiên đều giàu sức tạo hình, rực rỡ sắc
màu, nhịp điệu êm ái như một bài thơ. Cảnh đẹp thơ mộng ấy truyền cho người đọc
những rung động thẩm mĩ về vẻ đẹp của tác phẩm, làm bừng lên ước muốn một lần
được đặt chân lên Sa Pa.
- Nổi bật lên giữa bức tranh cao xanh bao la rộng lớn của núi rừng Tây Bắc là
bức tranh thiên nhiên thu nhỏ nơi mảnh vườn của chàng trai khí tượng; đứng trong
mây mù... ngang tầm với chiếc cầu vồng kia, bỗng nhiên lại gặp hoa dơn, hoa thược
dược, vàng, tím ,đỏ, hồng phấn, tổ ong,... ngay lúc dưới kia là mùa hè. Vườn hoa
cùng với màu sắc rực rỡ như chính tâm hồn và cuộc sống trong thầm lặng của con
người ở nơi đây, sôi trào, tuôn chảy từ trong nội lực đầy sức sống và mộng mơ của
tuổi trẻ.
- Nghệ thuật miêu tả: Mạch truyện đậm chất trữ tình, chi tiết nghệ thuật rất thơ
mở ra một thế giới hình ảnh vừa chân thực, sinh động lại vô cùng gợi cảm bởi chính
vẻ đẹp của nó. Ngôn ngữ văn xuôi trau chuốt, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, giàu nhạc
điệu. Các biện pháp tu từ nhân hoá, so sánh... được sử dụng điêu luyện.
- Vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên trở thành phông nền để nhà văn miêu tả vẻ
đẹp của con người lao động. Tác phẩm như một bài thơ ngợi ca vẻ đẹp trong cách
sống và suy nghĩ của con người lao động bình thường mà cao cả, những mẫu người
của một giai đoạn lịch sử có nhiều gian khổ, hi sinh nhưng cũng thật trong sáng đẹp
đẽ, gợi lên trong người đọc bao cảm xúc suy tư.
3. Đánh giá:
- Chất thơ là một nét đặc sắc của Lặng lẽ Sa Pa: Chất thơ thấm vào mọi yếu
tố từ cốt truyện, tình huống đến mối quan hệ giữa các nhân vật cùng vẻ đẹp trong tình
cảm và suy nghĩ của họ. Đặc biệt, chất thơ in đậm trong bức tranh thiên nhiên vừa
hùng vĩ vừa mĩ lệ của Sa Pa được hiện ra như dưới cái nhìn của một hoạ sĩ.
- Nghệ thuật miêu tả khung cảnh thiên nhiên với những bức tranh phong cảnh
Sa Pa hùng vĩ, mĩ lệ: biện pháp tu từ, từ ngữ đặc sắc...
III. Kết bài:
- Lặng lẽ Sa Pa là một truyện ngắn hay; một bức tranh thiên nhiên trong trẻo,
nhẹ nhàng; một thông điệp kín đáo, sâu sắc và ngôn ngữ thấm đẫm chất thơ rất tiêu
biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Thành Long....
- Liên hệ: Bồi đắp thêm TYTN....

84
ĐỀ 2: PHÂN TÍCH NHÂN VẬT ANH THANH NIÊN

I.MỞ BÀI:
- Nguyễn Thành Long là cây bút chuyên viết truyện ngắn và kí với phong cách văn
xuôi nhẹ nhàng tình cảm, giàu chất thơ, ánh lên vẻ đẹp của con người và mang ý
nghĩa sâu sắc.
- Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của ông in trong tập “Giữa trong xanh” là một tác
phẩm tiêu biểu và thành công trên nhiều phương diện .
-Truyện giản dị mộc mạc như một ghi chép về cuộc gặp gỡ giữa những con người
bình thường mà lắng đọng tình người, để lại nhiều dư âm trong lòng bạn đọc.Trong
đó ấn tượng nổi bật là anh thanh niên – nhân vật chính của truyện.
II.Thân Bài
1. Khái quát:
-Tình huống cơ bản của truyện ngắn “LLSP” chính là cuộc gặp gỡ bất ngờ và
đầy thú vị của anh thanh niên làm việc một mình ở trạm khí tượng với bác lái xe và
hai hành khách trên chuyến xe ấy là ông họa sĩ và cô kĩ sư lên thăm nơi ở và làm việc
của anh thanh niên trong chốc lát.
- Vị trí nhân vật: Anh TN là nhân vật chính của truyện, dù không xuất hiện
ngay từ dầu truyện mà chỉ hiện ra trong cuộc gặp gỡ tình cờ với ông họa sĩ và cô kĩ
sư qua lời giới thiệu của bác lái xe, khi xe của họ dừng lại nghỉ trong khoảng 30 phút,
nhưng đã đủ để các nhân vật khác kịp nghi nhận một ấn tượng, một “kí hoạ chân
dung” về anh rồi dường như anh lại khuất lấp vào trong mây mù bạt ngàn và cái lặng
lẽ muôn thuở của núi cao Sa Pa.
2.Phân tích:
2. 1.Hoàn cảnh sống và làm việc của anh thanh niên:
- Anh thanh niên hai mươi bảy tuổi, làm việc một mình trên đỉnh núi Yên Sơn
cao 2600m. Anh làm công tác “khí tượng kiêm vật lí địa cầu”, cụ thể là “đo gió, đo
mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết hằng
ngày, phục vụ sản xuất và chiến đấu. Anh phải làm việc trong điều kiện khắc nghiệt,
vất vả, thiếu thốn. Ngày đêm 4 lần (1 giờ, 4 giờ, 11 giờ, 19 giờ) mà anh gọi là giờ
“ốp” phải đều đặn và chính xác báo về trung tâm dù mưa nắng, gió bão hay nửa đêm
tuyết rơi ...
- Theo bác lái xe giới thiệu, anh là người “cô độc nhất thế gian” và có đặc điểm
rất “thèm người”. Tuổi trẻ thường năng động, sáng tạo, thích đi đây đi đó. Bởi thế,
thử thách lớn nhất đối với chàng trai trẻ ấy chính là sự cô đơn đên mức “thèm người”
quá phải chặn cây gỗ ngang đường để dừng xe qua đường để có cơ hội được gặp
người.
2.2. Vẻ đẹp tâm hồn của anh thanh niên
a. Có ý thức, trách nhiệm và tình yêu đối với công việc:
85
- Anh rất yêu công việc , coi đó là lẽ sống của mình. Đối với anh, công việc là
niềm đam mê, là niềm hạnh phúc lớn nhất. Anh hiểu rõ công việc thầm lặng của mình
là có ích mọi người, nó gắn liền anh với cuộc sống chung của đất nước. Anh tâm sự
với ông họa sĩ : “Khi ta làm việc, ta với công việc là một đôi, sao gọi là một mình
được. Huống chi công việc của cháu gắn liền với bao anh em đồng chí dưới kia.
Công việc của cháu gian khổ thế đấy, nhưng cất nó đi cháu buồn đến chết mất”.
- Anh đã đề ra cho mình nhiệm vụ công tác và đã vượt mọi khó khăn thử thách
để đạt được kết quả tốt nhất. Chỉ có một mình ở trạm khí tượng trên núi cao nhưng
anh tự nguyện, tư giác, yên tâm công tác . Công việc của anh ở nơi đây thật là vất vả
và đơn điệu, phải lặp đi lặp lại những con số nhưng anh không cảm thấy nhàm chán.
Thậm chí từng phút, từng giờ anh làm bạn với đủ loại máy móc: "đo gió, đo mưa, đo
nắng, tính mây, đo chắn động mặt đất. Công việc ấy đòi hỏi phải tỉ mỉ, chính xác và
có tinh thần trách nhiệm cao. Và anh đã lập ra môt thời gian biểu để thực hiện nó một
cách nghiêm ngặt dù trong bất cứ hoàn cảnh, điều kiện thời tiết như thế nào.Anh tâm
sự với ông hoạ sĩ già: “Gian khổ nhất là lần ghi bão về lúc một giờ sáng. Rét, bác ạ,
ở đây có cả mưa tuyết đấy. Nửa đêm đang nằm trong chăn nghe chuông đồng hồ chỉ
muốn đưa tay tắt đi. Chui ra khỏi chăn, ngọn đèn báo bão vặn to đến cỡ nào vẫn
không đủ sáng. Xách đèn ra vườn, gió tuyết và im lặng ở bên ngoài như chỉ chực đợi
mình ra là ào ào xô tới…..”. Qua lời anh nói ta có thể hình dụng được bao nhiêu vất
vả, khó khăn mà anh đã chịu đựng.
- Nhưng cái khó khăn, thách thức lớn nhất đối với anh chính là sự cô độc. Đã
có những phút anh phải yếu mềm trước cơn “thèm người” .Anh đã làm đủ mọi cách
để gặp con người, được nghe họ nói, được thấy họ cười, dù chỉ trong một giây phút.
Những khuôn mặt chưa bao giờ anh gặp sao bỗng trở nên thân thiết lạ lùng! Nhưng
cuối cùng, chàng trai đã vượt qua cơn xúc động để trở về với cuộc sống bình thường.
- Thậm chí, mặc dù đã sống một mình trên đỉnh núi cao 2600m nhưng anh vẫn
ước được làm việc ở đỉnh núi cao hơn nữa là ở đỉnh Phan xi Păng cao 3142 mét bởi
anh nghĩ : “ Làm khí tượng , ở được thế mới là lý tưởng chứ”. Đó là ước mong được
vươn cao hơn trong công việc để đạt được mục đích tốt đẹp nhất.
- Những suy nghĩ đẹp ấy khiến anh thêm yêu cuộc sống và con người xung
quanh, “thấy cuộc đời đẹp quá!”, giúp anh có thêm nghị lực để sống một cuộc sống
đẹp, đầy ý nghĩa, gắn bó với mọi người , với quê hương đất nước.
b. Là người sống có lí tưởng, có những suy nghĩ rất đẹp về ý nghĩa của
cuộc sống, về hạnh phúc trong đời:
- Đất nước có chiến tranh, hai bố con anh đều xin ra mặt trận nhưng anh “thua
bố anh 0- 1”.Không được ra trận, anh xin làm công tác khí tượng trên núi cao, trong
khi bao nhiêu người sau khi ra trường đã cố tìm bằng được một nơi làm việc giữa thủ
đô phồn hoa đô thị. Anh tự nguyện làm việc nơi xa xôi hẻo lánh là cả một sư nhận
thức chín chắn. Anh sẵn sàng đi đến bất cứ nơi nào để có thể phát huy tài năng và
thực hiện ước mơ của mình. Anh tự đặt và trả lời câu hỏi : “Mình sinh ra là gì? Mình
đẻ ở đâu? Mình vì ai mà làm việc? Điều này cho thấy anh sống có trách nhiệm với
86
đất nước, với cuộc đời biết bao.
- Với anh hạnh phúc là được làm việc. Khi kể lại thành tích nhờ anh phát hiện
kịp thời đám mây khô, không quân ta đã hạ bao nhiêu máy bay Mĩ ở cầu Hàm Rồng,
anh nói: “Kể từ hôm đó, cháu sống thật hạnh phúc”. Hạnh phúc của bản thân gắn
liền với hạnh phúc của đất nước.
c. Anh thanh niên có phong cách sống rất đẹp.
- Anh là người say mê đọc sách: Sách đã trở thành người bạn thân thiết của
anh. Khi bác lái xe đưa gói sách cho anh, anh “mừng quýnh” như cầm được vàng.
Anh nói với cô gái: “Cô thấy đấy, lúc nào tôi cũng có người trò chuyện, Nghĩa là
sách ấy mà. Mỗi người viết một vẻ”. Anh tự lo liệu xoay sở để thường xuyên có sách
đọc. Sách không chỉ giúp anh nâng cao hiểu biết, nâng cao kiến thức, sách còn giúp
anh khuây khoả trong những phút giây rảnh rỗi. Say mê đọc sách là một thói quen,
một đức tính đáng quý ở anh.
- Anh biết sắp xếp cuộc sống một cách ngăn nắp, khoa học, hợp lí: Anh biết
sống cho sự nghiệp chung lớn lao và cũng biết sống cho riêng mình. Anh trân trọng
cái đẹp : anh trồng hoa, một vườn hoa đầy mầu sắc. Đó là vẻ đẹp của tâm hồn anh và
anh hào phóng tặng cho mọi người. Gian nhà của anh luôn sạch sẽ, gọn gàng. Anh
chạy về trước là để pha trà, cắt hoa tặng khách chứ không phái để thu dọn nhà cửa vì
khách tới thăm bất ngờ như ông họa sĩ tưởng. Anh trồng rau, nuôi gà là để tự cung
cấp cho mình thức ăn.
- Anh sống cởi mở, chân thành và biết quan tâm đến người khác: Anh luôn
khao khát được gặp gỡ, trò chuyện với những người khác. Anh mừng lắm khi được gặp
và có được mối thân tình với bác lái xe. Anh biếu vợ bác lái xe củ tam thất vì mới ốm
dậy.Anh càng mừng hơn khi được tiếp nhà họa sĩ, và cô kỹ sư nông nghiệp trẻ mới ra
trường tại nơi làm việc của anh. Câu chuyện của anh tuôn ra như suối khi gặp mọi người
. Anh mời khách uống trà, tặng hoa, tặng quà (giỏ trứng) cho khách. Và anh rất lưu
luyến với khách khi chia tay. Thái độ vui vẻ, niềm nở, hiếu khách của anh cũng đã để lại
trong lòng mọi người những ấn tượng khó quên.
- Anh thanh niên còn là một người rất khiêm tốn, luôn đề cao ngưòi khác:
Thực tâm, anh thấy công việc và sự đóng góp của mình chỉ là nhỏ bé. Anh luôn say
sưa ca ngợi mọi người. Mặc dù ông hoạ sĩ già hết sức khâm phục anh, ông muốn vẽ
chân dung của anh, nhưng anh một mực từ chối, anh không muốn vì cảm thấy mình
không xứng đáng được hưởng ân huệ ấy. Anh đã kể và giới thiệu những người khác
xứng đáng hơn: “ Một mình thì anh bạn trên trạm đỉnh Phăng -xi -păng ba nghìn một
trăm bốn mươi ba mét kia mới một mình hơn cháu”. Cháu giới thiệu với bác ông kĩ
sư ở vườn rau dưới Sa Pa!... Hay là bác vẽ đồng chí nghiên cứu khoa học ở cơ quan
cháu...” Và anh say sưa kể về thành tích của những người ấy. Đức tính khiêm tốn ấy
của anh đã làm cho ông hoạ sĩ, bác lái xe và cô gái hết sức yêu mến và khâm phục.
2.3. Đánh giá:
- Nghệ thuật miêu tả nhân vật: Với tình huống truyện tự nhiên, tình cờ và
hấp dẫn; nghệ thuật miêu tả nhân vật từ nhiều điểm nhìn; cách kể chuyện tự nhiên có
87
sự kết hợp giữa tự sự, trữ tình với bình luận; giọng văn trong sáng, hồn hậu, giàu chất
thơ...Nguyễn Thành Long đã khắc họa thành công hình tượng nhân vật anh thanh
niên.
- Nhân vật anh thanh niên giúp ta hiểu thêm nét đẹp ở những con người
lao động bình thường và ý nghĩa của những công việc thầm lặng.
+ Đó là hình ảnh những con người lao động mới với phong cách sống đẹp, suy
nghĩ đẹp, sống có lý tưởng, quên mình vì cuộc sống chung, vô tư. lặng thầm, cống
hiến hết mình cho đất nước, say mê, miệt mài, khẩn trương làm việc. Họ có tấm lòng
nhân hậu thật đáng quý, có tác phong sống thật đẹp. Cuộc sống của họ âm thầm, bình
dị mà cao đẹp biết bao.
+ Nhân vật anh thanh niên được Nguyễn Thành Long xây dựng khá sắc nét với
những đặc điểm, suy nghĩ, hành động tích cực, một mẫu người của một giai đoạn lịch
sử có nhiều gian khổ hi sinh nhưng cũng thật trong sáng, đẹp đẽ.
- Những trang viết của Nguyễn Thành Long khiến ta thêm yêu con người và
cuộc sống, thấy được trách nhiệm của mình với sự nghiệp chung của đất nước với
khát vọng “Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình” (Tố Hữu).
D.2. Các nhân vật khác: *Nhân vật phụ xuất hiện trực tiếp:
a. Ông họa sĩ già:
- Ông họa sĩ là nhân vật phụ, nhưng có vai trò quan trọng trong tác phẩm, góp
phần vào sự thành công của truyện.
- Dưới cái nhìn của họa sĩ, nhân vật anh thanh niên hiện ra rõ nét và đẹp hơn,
có thêm chiều sâu tư tưởng, đồng thời khơi gợi nhiều khía cạnh, ý nghĩa về cuộc
sống, về nghệ thuật: “Vì họa sĩ đã bắt gặp 1 điều thật ra ông vẫn ao ước được biết, ôi,
1 nét thôi nhưng khẳng định 1 tâm hồn, khơi gợi cảm hứng sáng tác. Một nét mới đủ
là giá trị 1 chuyến đi dài” Họa sĩ muốn ghi lại hình ảnh anh thanh niên bằng nét bút kí
họa và: “Người con trai ấy đáng yêu thật nhưng làm ông nhọc quá. Với những điều
làm cho người ta nghĩ về anh và những điều anh suy nghĩ...”
- Ông họa sĩ là hình ảnh đẹp về một người lao động nghệ thuật, đồng thời, sự
xuất hiện của nhân vật này đem lại chất thơ đậm đà cho truyện.
2. Cô kĩ sư trẻ:
- Cô kĩ sư cũng là một hình ảnh cao đẹp của tuổi trẻ. Cô vừa mới tốt nghiệp ra
trường, đã tình nguyện lên miền núi công tác.
- Cuộc gặp gỡ bất ngờ với anh thanh niên đã khiến cô bàng hoàng. Cô hiểu thêm
cuộc sống một mình dũng cảm tuyệt đẹp của người thanh niên, về thế giới của những
con người như anh. Cuộc gặp gỡ còn giúp cô đáng giá đúng hơn mối tình nhạt nhẽo mà
cô chối từ nó và yên tâm hơn về quyết định đó của mình. Cùng với bàng hoàng ấy là
một tình cảm hàm ơn với người thanh niên. Không phải vì bó hoa to mà anh tặng cô một
cách hết sức vô tư mà còn vì “một bó hoa, nào khác nữa, bó hoa của những háo hức và
mơ mộng ngẫu nhiên anh cho thêm cô”.
3. Bác lái xe là nhân vật xuất hiện từ đầu truyện, nhưng cũng kịp thể hiện
những nét đẹp trong tính cách. Là người rất yêu công việc, suốt 30 năm trong nghề
88
lái xe mà vẫn luôn giữ được tính cởi mở, niềm nở có trách nhiệm với công việc, nhạy
cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên và con người. Bác lái xe là cầu nối giữa anh thanh
niên và cuộc đời (mua sách cho anh, dừng xe dưới chân đồi để anh trò chuyện, giới
thiệu những người bạn mới cho anh). Bác lái xe cũng là người dẫn dắt truyện, kích
thích sự tò mò của ông họa sĩ và cô kĩ sư về anh thanh niên - người cô độc nhất thế
gian, người rất “thèm người”.
4. Ngoài ra, trong tác phẩm còn có những nhân vật không xuất hiện trực
tiếp mà chỉ được giới thiệu gián tiếp, nhưng cũng góp phần thể hiện chủ đề của
tác phẩm.
- Đó là anh bạn một mình trên đỉnh Phan –xi-păng 3142 m
- Là ông kĩ sư vườn rau Sa Pa hàng ngày ngồi trong vườn chăm chú quan sát
lấy mật của ong rồi tự ray thụ phấn cho hàng vạn cây su hào để làm ra những củ su
hào to hơn, ngọt hơn.
- Đó là anh cán bộ nghiên cứu khoa học đã 11 năm ròng túc trực chờ sét để lập
bản đồ sét tìm tài nguyên cho đất nước.
=> Họ tạo thành cái thế giới những con người như anh thanh niên ở trạm khí
tượng, những con người miệt mài lao động khoa học trong lặng lẽ mà khẩn trương vì
lợi ích của đất nước, vì cuộc sống của mọi người.
=> Nhận xét: Các nhân vật được nhà văn đặt trong tư thế hướng đến cái đẹp:
“Bác lái xe vui tính, ông họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ hướng tới anh thanh niên với tất cả
niềm khâm phục, cảm mến. Còn anh thanh niên lại hướng về anh cán bộ bản đồ sét,
anh thanh niên trên đỉnh Phan - xi - păng, ông kĩ sư vườn rau với ý nghĩ sự cống hiến
của họ mới lớn lao và đáng ngợi ca. Các nhân vật phụ trong truyện đều góp phần
khắc họa nhân vật chính và làm nổi bật chủ để của tác phẩm. Các nhân vật ở đây kể
cả chính cả phụ đều không có tên riêng. Họ là lái xe, họa sĩ, kĩ sư,... phải chăng đây là
dụng ý của ý tác giả muốn nói về những con người vô danh lặng lẽ, dâng cho đời tình
yêu và sức vóc của mình. Cuộc sống của họ thầm lặng mà cao đẹp. Hình ảnh họ
mang vẻ đẹp đẹp trong sáng, lý tưởng. Đó cũng là vẻ đẹp của con người Việt Nam
trong những năm tháng gian lao và hào hùng, chống giặc ngoại xâm và xây dựng đất
nước.
D3.Đánh giá về nghệ thuật:
- Chất thơ là một nét đặc sắc của Lặng lẽ Sa Pa: Chất thơ thấm vào mọi yếu
tố từ cốt truyện, tình huống đến mối quan hệ giữa các nhân vật cùng vẻ đẹp trong tình
cảm và suy nghĩ của họ. Đặc biệt, chất thơ in đậm trong bức tranh thiên nhiên vừa
hùng vĩ vừa mĩ lệ của Sa Pa được hiện ra như dưới cái nhìn của một hoạ sĩ.
- Thành công nổi bật của tác phẩm là đã tạo được tình huống truyện tự nhiên,
tình cờ và hấp dẫn: tình huống cuộc gặp gỡ ngắn ngủi của ông hoạ sĩ, cô kĩ sư với
người thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh núi cao, từ đó miêu tả chân dung
nhân vật chính qua cái nhìn của các nhân vật khác.
- Chọn điểm nhìn trần thuật chủ yếu từ nhân vật ông hoạ sĩ để dễ dàng quan
sát, miêu tả các nhân vật khác và bộc lộ những nhận xét, suy nghĩ qua độc thoại nội
89
tâm.
- Nghệ thuật miêu tả khung cảnh thiên nhiên với những bức tranh phong cảnh
Sa Pa hùng vĩ, mĩ lệ.
- Miêu vả nhân vật từ điểm nhìn của những nhân vật khác: anh thanh niên được
giới thiệu qua lời bác lái xe, được miêu tả qua cái nhìn và suy nghĩ của ông hoạ sĩ, cô
kĩ sư.
- Kết hợp miêu tả, tự sự và bình luận trong truyện; mở đầu và kết thúc truyện
là những bức tranh thiên nhiên đẹp; miêu tả nhân vật xen với trần thuật, kể các sự
việc trong cuộc gặp gỡ; đan xen giữa miêu tả nhân vật anh thanh niên với những suy
nghĩ, bình luận của các nhân vật khác .
=> Truyện giàu chất thơ và lắng đọng tình người,mang ý nghĩa sâu sắc về sự
cống hiến thầm lặng.
3.KẾT BÀI:
Như một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của những con người lao
động bình dị mà cao cả, truyện ngắn“Lặng lẽ Sa Pa” khắc họa vẻ đẹp của anh thanh
niên và ý nghĩa của những công việc thầm lặng.Những con người không tên như anh
đã cống hiến, đã góp phần xây dựng quê hương đất nước một thời khiến chúng ta
phải trân trọng, khâm phục và tự hào . Suy nghĩ và cuộc sống của họ thật ý nghĩa,
đúng như nhà thơ Tố Hữu đã viết:
“Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình ? ”.
(Hoặc : Đã là thanh niên thì “ đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta mà cần hỏi ta đã làm
gì cho tổ quốc hôm nay”).

“CHIẾC LƯỢC NGÀ” CỦA NGUYỄN QUANG SÁNG

90
A.TÁC GIẢ:
- Nguyễn Quang Sáng SN 1932
-Quê: huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang
-Trong kháng chiến chống Pháp , ông tham gia bộ đội và bắt đầu viết văn ở Nam Bộ,
sau đó tập kết ra Bắc.
- Trong kháng chién chống Mĩ, ông trở về chiến trường Nam Bộ và tiếp tục viết văn
- Sáng tác nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim…
- Đề tài: chủ yếu viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến
và trong hoà bình.
-Năm 2000, ông được nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ
thuật.
B.TÁC PHẨM:
- Sáng tác năm 1966 khi tác giả đang ở chiến trường miền Nam.
C.NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT:
- Nội dung: Truyện thể hiện thật cảm động tình cha con sâu nặng và cao đẹp trong
hoàn cảnh éo le của chiến tranh.
- Nghệ thuật:
+Sáng tạo tình huống bất ngờ tự nhiên mà hợp lí.
+Thành công trong việc miêu tả tâm lí và tính cách nhân vật, đặc biệt là nhân vật bé
Thu.
+Cách chọn ngôi kể hợp lí
+Ngôn ngữ đậm tính Nam bộ.
* Nhan đề: Ngắn gọn mà giàu ý nghĩa:
- Chiếc lược ngà được miêu tả cụ thể ,chi tiết trong truyện: Chiếc lược được làm bằng
ngà voi, dài độ hơn một tấc, bề ngang độ ba phân rưỡi, có một hàng răng thưa, trên
sống lưng có khắc dòng chữ : “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”.
- Chiếc lược ngà còn mang ý nghĩa biểu tượng cho tình phụ tử thiêng liêng sâu nặng
trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh: Ông Sáu hi sinh nhưng “tình cha con thì không
thể chết được”.
* Tình huống truyện:
- Tình huống 1: Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến khi đứa con gái đầu lòng – và cũng là
đứa con duy nhất chưa đầy 1 tuổi. Sau 8 năm mới được về thăm nhà thăm con thì trớ
trêu thay đứa con không chịu nhận ba chỉ vì vết thẹo trên mặt. Khi con bé nhận ba thì
cũng chính là lúc hai cha con phải chia tay.
=> Tình huống 1 bộc lộ tình yêu mãnh liệt của bé Thu đối với ba.
- Tình huống 2: Khi trở lại chiến khu, ông Sáu dồn hết tâm sức để làm cây lược ngà
cho con . Nhưng chưa kịp trao cho con thì ông bị hi sinh trong một trận càn của Mĩ.
=> Tình huống 2 bộc lộ tình cảm sâu nặng của người cha dành cho con.
ĐỀ I:.PHÂN TÍCH ĐOẠN TRÍCH TRUYỆN “CHIẾC LƯỢC NGÀ”
I.MỞ BÀI:

91
- Nguyễn Quang Sáng là nhà văn Nam Bộ, ông chủ yếu viết về cuộc sống và con
người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như sau hòa bình.
- Truyện “ Chiếc lược ngà” được ông sáng tác năm 1966 khi cuộc kháng chiến
chống Mĩ đang diễn ra ác liệt.
- Qua câu chuyện đầy cảm động của cha con ông Sáu, một cán bộ cách mạng,
truyện đã ca ngợi tình cha con thiêng liêng sâu nặng trong hoàn cảnh éo le của chiến
tranh.
II.THÂN BÀI:
1.KHÁI QUÁT:
Với nghệ thuật miêu tả tâm lí và xây dựng tính cách nhân vật, đặc biệt là việc
sáng tạo tình huống bất ngờ mà tự nhiên hợp lí, truyện ngắn “Chiếc Lược ngà” đã kể
về một câu chuyện đầy cảm động của cha con ông Sáu. Ông Sáu xa nhà đi kháng
chiến, mãi khi con gái lên 8 tuổi, ông mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Nhưng suốt
gần 3 ngày đêm ở nhà, bé Thu- con gái ông nhất định không chịu gọi ông là ba chỉ vì
vết thẹo trên mặt ông. Khi bé Thu nhận ra ba cũng là lúc cha con họ phải chia tay.
Trở lại khu căn cứ, ông Sáu dồn hết tâm sức để làm chiếc lược ngà tặng con gái
yêu.Nhưng trong một trận càn, ông Sau đã hi sinh khi chưa kịp trao tận tay cho con
chiếc lược.Trước khi nhắm mắt, ông chỉ còn kịp đưa chiếc lược cho bác Ba, người
bạn của mình.
2.PHÂN TÍCH CÁC Ý:
a, Ý 1: NHÂN VẬT BÉ THU: Xung quanh câu chuyện về chiếc lược ngà ấy, hai
hình tượng nhân vật nổi lên thể hiện chủ đề của truyện. Trước hết là nhân vật bé Thu
với tình yêu cha đằm thắm kì lạ.
* Thu là cô bé hồn nhiên , ngây thơ:( được thể hiện xuyên suốt trong toàn bộ câu
chuyện nhưng đặc biệt trong giây phút khi gặp ba):
- Cha đi chiến đấu biền biện xa nhà, đến khi Thu lên 8 tuổi, hai cha con mới được
gặp nhau.Nhưng khi gặp lại, ông Sáu thì xúc động vui mừng còn bé Thu thì lại thể
hiện thái độ ngờ vực, hốt hoảng.
- Nghe ông Sáu gọi, con bé giật mình, tròn mắt nhìn, ngơ ngác lạ lùng. Sau đó mặt nó
tái đi và thét lên gọi :má, má…
=>Cách tả của tác giả rất cụ thể và hợp lí vì lí do cũng thật dễ hiểu: con bé quá ngạc
nhiên , bất ngờ, không hiểu ai gọi mình, không biết chuyện gì đã xảy ra, tiếp theo là
sự sợ hãi và hành động chạy vụt đi.Chi tiết này khiến người đọc cảm động, thương
cho anh Sáu xen lẫn sự tò mò, hồi hộp muốn biết chyyện gì sẽ xảy ra tiếp theo.
*Bé Thu có cá tính mạnh mẽ ( thể hiện trong hai hôm sau):

92
- Trong hai ngày đêm tiếp theo, mặc kệ những lời nói cử chỉ làm thân, vỗ về của
ông Sáu, bé Thu một mực thờ ơ, lạnh lùng đến bướng bỉnh, ngang ngạnh khó hiểu.
Thu nhất định không chịu gọi ông Sáu là ba mà nói trống không.
- Ngay cả khi ở trong tình huống bất đắc dĩ mà bác Ba tưởng nó sẽ phải gọi một tiếng
ba thì nó cũng vẫn tìm ra cách giải quyết.. Đó là khi nồi cơm sôi , nó cũng nhất định
không nhờ ông Sáu chắt nước nồi cơm mà dùng cái vá múc nước ra. Con bé đáo để
thật.
- Trong bữa cơm, ông Sáu gắp cho Thu cái trứng cá thì nó hất ra làm cơm văng tung
toé. Ông Sáu tức giận đánh nó một cái thì nó bỏ về bên nhà ngoại. Khi xuống xuồng,
nó còn cố ý khua lòi tói kêu rổn rảng thật to.
=>Qua những hành động của Thu cho thấy em có cá tính rất mạnh mẽ. Sự ương
ngạnh của em không hoàn toàn đáng trách bởi lẽ trong hai ngày đó bé Thu đâu có coi
ông Sáu là ba mình. Đối với Thu, ông Sáu là một người đàn ông xa lạ nên dứt khoát
không thể yêu. Em chỉ yêu ba khi tin chắc đó là ba của mình.
* Bé Thu có tình yêu ba mãnh liệt: được thể hiện thật cảm động KHI NHẬN RA
ÔNG SÁU LÀ BA:
- Ngày cuối cùng ông Sáu được ở nhà với gia đình thì thái đội và tình cảm của bé
Thu trong buổi chia tay thay đổi một cách đột ngột, kì lạ và rất cảm động.
- Trong lúc bố mẹ đang bận rộn với việc tiếp khách thì con bé như bị bỏ rơi, lúc đứng
ở góc nhà, lúc tựa cửa. Vẻ mặt của nó có cái gì hơi khác, cái nhìn của nó “không ngơ
ngác lạ lùng mà nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”.
- Trong giây phút chia tay, mọi người, kể cả ông Sáu cũng không ngờ rằng nó bất
ngờ thét lên gọi “Ba” với tiếng kêu như xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người,
nghe thật xót xa. Đó là tiếng ba nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng ba như
vỡ tung ra từ đáy lòng nó. “Nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, rồi
nhảy thót lên , ôm chặt lấy cổ ba nó”.Nó nói nghẹn ngào trong tiếng khóc: “Ba!
Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!” Rồi nó hôn ba nó cùng khắp,hôn tóc, hôn
cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó.Sợ hai tay không giữ được ba, nó
dang cả hai chân câu chặt lấy ba nó.
- Đoạn văn được kể qua lời của bác Ba thật cảm động. Hoá ra sự thay đổi thái độ của
bé Thu tất cả đều vì cái thẹo. Sau buổi tối ngủ ở nhà bà ngoại, mọi nghi ngờ của nó
được giải toả và trong Thu nảy sinh cảm xúc ân hận và hối tiếc.Nghe bà kể, nó nằm
im rồi lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn.Vì vậy trong phút chia tay
cuối cùng , tình yêu nỗi nhớ, niềm ân hận và hối tiếc của bé Thu bị dồn nén bấy lâu,
nay bùng ra mạnh mẽ, hối hả, cuống quýt và mãnh liệt.Chứng kiến cảnh ấy, bà con
xung quanh không ai cầm được nước mắt, còn người kể chuyện thì như thấy ai đó
đang nắm chặt lấy tim mình.

93
=>Qua biểu hiện tâm lí và thái độ ,hành động của bé Thu, ta thấy cô bé có cá tính
mạnh mẽ, dứt khoát, yêu ghét rạch ròi, quyết liệt. Ở bé Thu, nét cá tính cứng cỏi đến
ương ngạnh nhưng không mất đi vẻ hồn nhiên , ngây thơ và chân thành của một đứa
trẻ Nam Bộ trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt. Điều đó còn khẳng định nhà văn
không chỉ am hiểu tâm lí trẻ thơ mà còn thể hiện tình cảm yêu mến, trân trọng sự hồn
nhiên ngây thơ của các em.
b, ý 2: NHÂN VẬT ÔNG SÁU:
b1. Ông Sáu mang vẻ đẹp của người chiến sĩ cách mạng kiên trung:
- Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, phải rời xa
những gì thân yêu nhất: người vợ trẻ, đứa con thơ chưa đầy một tuổi.
- Suốt 8 năm trời đằng đẵng, ông không một lần về thăm nhà, thăm con.
- Khi được về thăm nhà, con không nhận ba, lúc nó nhận ra thì hai cha con phải chia
tay. Nhưng ông cũng không ở lại thêm ngày nào mà trở về đơn vị luôn để nhận nhiệm
vụ.=> ông đã gác tình riêng vì nghĩa lớn.
- Cảm động hơn là trong thắng lợi to lớn của dân tộc có đóng góp một phần xương
máu của ông SÁU.
b 2.Vẻ đẹp của người cha với tình yêu thương con sâu nặng:
*TRƯỚC KHI VỀ THĂM NHÀ:
Nhân vật chính thứ hai của câu chuyện là ông Sáu- một người cha hi sinh cả cuộc
đời để giữ gìn tình cha con bất diệt. Vì kháng chiến, ông Sáu phải xa con 8 năm trời.
Trong suốt chuỗi ngày xa con ấy, ông luôn nhớ con, trách vợ sao không đưa con lên
thăm. Nhưng với lí do đường sá xa xôi, lại phải qua rừng, vợ ông không thể đưa con
đi cùng được nên ông đành chấp nhận. Trong lòng ông luôn khao khát gặp con, mong
sớm được trở về với gia đình.
*KHI VỀ THĂM NHÀ:
+,Khi mới gặp con:
Thế rồi cái ngày ông Sáu mong chờ cũng đến. Ông cùng người bạn tên là Ba được
về thăm nhà trước khi đi tập kết.Trên đường về, “cái tình người cha cứ nôn nao trong
người ông”.Khi nhìn thấy con, không đợi được xuồng cập bến, ông nhảy thót lên bờ,
xô chiếc xuồng tạt ra khiến ông Ba bị chới với. Rồi ông bước những bước dài, giơ hai
tay gọi con. Chắc ông nghĩ rằng con ông sẽ chạy xô vào lòng ông, sẽ ôm chặt lấy cổ
ông.Nhưng không ngờ con bé lại phản ứng quyết liệt và sợ hãi bỏ chạy. Ông hụt hẫng
vô cùng, nỗi đau đớn khiến mặt ông sầm lại và hai tay buông xuống như bị gãy.
+,Mấy hôm sau ở nhà:
Trong suốt hai ngày tiếp theo, ông Sáu không đi đâu, chỉ ở nhà dỗ dành, vỗ về con,
mong con gọi một tiếng “ba”. Nhưng con bé dứt khoát không gọi, ông càng vỗ về ,

94
nó càng đẩy ra.Trong bữa cơm khi ông gắp cho nó miếng trứng cá vào chén, con bé
hất tung ra khiến ông không nén được tức giận và đã đánh con.Chính phút giây nóng
giận ấy đã khiến ông phải day dứt trong suốt thời gian dài. Rõ ràng ôngSáu đã bị đặt
trong hoàn cảnh hết sức éo le mà ông không ngờ tới và không biết tìm cách nào để
giải toả nếu không có chuyện làm con bé giận và bỏ sang nhà bà ngoại.
+, Khi chia tay:
- Rồi hai ngày ngắn ngủi trôi qua, sang ngày thứ 3 , ông Sáu phải chia tay với gia
đình và bà con làng xóm.Vì bận tiếp khách nên ông không để ý đến sự thay đổi trong
vẻ mặt của bé Thu.
- Đến lúc chào con, ông nhìn nó với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu, rất muốn ôm con
nhưng sợ nó lại giẫy lên bỏ chạy nên ông chỉ nhìn con và chào con trong nỗi buồn
không gì đong đếm được: “Thôi, ba đi nghe con”.Trước phản ứng đột ngột đến không
ngờ của con bé, ông Sáu không ghìm được xúc động và giọt nước mắt đã lăn trên má
của người cha tội nghiệp. Đó là giọt nước mắt của niềm hạnh phúc vô bờ trước tình
cảm của con bộc lộ một cách mãnh liệt, cuống quýt. Rồi ông phải chia tay con mang
theo lời hứa với con khi nào về sẽ mua cho con cây lược.
* KHI TRỞ LẠI CHIẾN KHU:
Tình cảm sâu nặng của ông Sáu đối với con càng được thể hiện rõ ràng hơn trong
tình huống sau của câu chuyện- khi ông trở lại chiến khu cho đến lúc hi sinh.
- Trước hết là nỗi nhớ thương xen lẫn sự day dứt, ân hận vì đã trót đánh mắng con
gái.Lời dặn của đứa con lúc chia tay khiến ông quyết tâm nung nấu ý định sẽ tự tay
làm một chiếc lược bằng ngà voi để dành tặng cho đứa con gái bé bỏng yêu dấu.Khi
kiếm được khúc ngà, ông vui sướng, hớn hở như một đứa trẻ được quà.
- Rồi những ngày tiếp đó, ông dành hết tâm trí, công sức vào làm cây lược.”Những
lúc rảnh rỗi, ông cưa từng chiếc răng lược, gò lưng tỉ mỉ như một người thợ bạc. Ông
còn cẩn thận khắc lên chiếc lược dòng chữ với bao nỗi nhớ thương: “Yêu nhớ tặng
Thu con của ba”.
- Những lúc rảnh rỗi, ông lại mang chiếc lược ra ngắm nghía và mài lên mái tóc mình
cho lược thêm bóng, thêm đẹp. Chiếc lược phần nào làm dịu đi nỗi ân hận và ánh lên
niềm hi vọng khắc khoải sẽ có ngày được gặp lại con, trao tận tay nó món quà kỉ
niệm này.
*GIÂY PHÚT TRƯỚC LÚC HI SINH:
- Nhưng rồi một tình cảnh đau thương lại đến với cha con ông: ông Sáu đã hi sinh
trong một trận càn . Trước lúc hi sinh, không còn đủ sức để trăng trối điều gì, ông
dồn hết chút sức lực cuối cùng đưa tay móc chiếc lược đưa cho ông Ba và nhìn bạn
hồi lâu...
- Đó là sự trăng trối không lời nhưng còn thiêng liêng hơn cả một bản di chúc.
95
3.ĐÁNH GIÁ:
-Sáng tạo tình huống truyện bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí để bộc lộ sâu sắc tình cảm
cha con và tính cách nhân vật bé Thu.
- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, đặc biệt là tâm lí nhân vật trẻ em chính xác, tinh
tế qua những biểu hiện sinh động về ngoại hình, cử chỉ, hành động. Ở Thu còn có nét
cá tính là sự cứng cỏi đến mức tưởng như ương ngạnh nhưng Thu vẫn là một đứa trẻ
với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ của con trẻ. Điều này cho thấy tác giả rất hiểu tâm
lí trẻ em và có tấm lòng yêu mến trân trọng những tình cảm trẻ thơ.
- Cách trần thuật từ ngôi thứ nhất cùng sự phối hợp tự sự, miêu tả với biểu cảm làm
tăng khả năng biểu đạt ở truyên. Ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật đậm chất
miền Nam.=> Câu chuyện về chiếc lược ngà của cha con ông Sáu không chỉ gợi lên
tình cha con thắm thiết, sâu nặng của người chiến sĩ mà còn gợi ra trong lòng người
đọc sự thấm thía về những đau thương, mất mát mà chiến tranh đã đem đến cho bao
con người, bao gia đình Việt Nam.
III. Kết bài:
Gấp trang sách lại, mỗi người đọc vẫn không khỏi xúc động trước câu chuyện éo
le thời chiến tranh của gia đình ông Sáu. Truyện không chỉ giúp ta hiểu thêm về một
giai đoạn lịch sử đầy đau thương của dân tộc mà còn thấy được sự thiêng liêng, bất
diệt của thứ tình cảm cao quý: tình phụ tử.Từ đó, câu chuyện còn bồi đắp thêm cho
người đọc tình yêu đối với gia đình, quê hương, đất nước và trân trọng với thế hệ cha
anh đi trước:
Tuốt gươm không chịu sống quỳ
Tuổi xanh không tiếc sá chi bạc đầu
Lớp cha trước lớp con sau
Đã thành đồng chí chung câu quân hành. (Tố Hữu)

ĐỀ II. PHÂN TÍCH NHÂN VẬT BÉ THU.


A. Mở bài
* Cách 1:
Nhà văn Nga - Aimatôp có viết “Không thể nói về chiến tranh một cách giản
đơn, không thể xem nó như câu chuyện cổ tích nhẹ nhàng ru ta vào giấc ngủ. Chiến
tranh đọng lại thành máu trong sâu thẳm trái tim con người và kể chuyện về nó không
phải là điều dễ dàng”. Qủa đúng như vậy, kể chuyện về chiến tranh với các nhà văn
Việt Nam là điều không dễ dàng, nhất là trong cuộc kháng chiến chống Mĩ 30 năm
trường kì của dân tộc ta. Tuy nhiên, nhà văn Nguyễn Quang Sáng, cây bút trưởng

96
thành từ trong cuộc chiến tranh chống Mĩ ở Nam Bộ lại nhìn về hiện thực đau thương
đó bằng một cái nhìn nhân văn, cao đẹp. Vượt lên những mất mát, đau thương của
con người, nhà văn ngợi ca về vẻ đẹp của tình cha con, tình đồng đội. Điều này được
thể hiện trọn vẹn trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” viết năm 1966 khi nhà văn hoạt
động tại Chiến trường Nam Bộ. (Trong đó, nhân vật bé Thu/ ông Sáu để lại nhiều ấn
tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc).
* Cách 2:
- Nguyễn Quang Sáng là nhà văn - chiến sĩ, ông chủ yếu viết về cuộc sống và
con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như sau hoà bình. Trang văn của
Nguyễn Quang Sáng mang vẻ đẹp giản dị, mộc mạc, nhưng sâu sắc, đậm đà chất
Nam Bộ.
- Truyện ngắn Chiếc lược ngà được Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966, khi tác
giả hoạt động tại chiến trường Nam Bộ trong những năm kháng chiến chống Mĩ và
được đưa vào tập truyện cùng tên.
- Qua câu chuyện đầy cảm động của cha con ông Sáu, một cán bộ cách mạng,
truyện đã ca ngợi tình phụ tử thắm thiết, sâu xa trong hoàn cảnh éo le và đau thương
trong chiến tranh.
B. Thân bài:
1. Hoàn cảnh sống của bé Thu
- Sống trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, Thu cũng như bao cô bé miền
Nam khác đều thiếu thốn tình cha từ nhỏ do ba em đi kháng chiến. Khi ông Sáu ra đi,
em chưa đầy một tuổi. Tám năm trời, ba con em chỉ biết nhau qua hai tấm ảnh. Thu
rất nhớ thương ba, mong chờ ngày ba trở về. Lần về phép ba ngày của ông Sáu là cơ
hội hiếm hoi để ba con Thu gặp gỡ nhau, bày tò tình phụ tử. Nhưng nhà văn lại đặt bé
Thu vào một tình huống đầy éo le: vì một sự hiểu lầm trẻ con, Thu không chịu nhận
ông Sáu là ba, đến lúc nhận ra thì cũng là giây phút ba em lên đường tập kết. Và lần
gặp mặt ấy là lần gặp mặt đầu tiên, duy nhất và cũng là cuối cùng của cha con em.
- Từ tình huống truyện éo le ấy, người đọc nhận ra cá tính riêng của nhân vật bé
Thu, một cô bé tám tuổi bướng bỉnh nhưng dễ thương và đặc biệt có tình yêu ba
mãnh liệt, sâu sắc. Tình yêu ấy được thể hiện trong hai hoàn cảnh trái ngược nhau,
trước và sau khi nhận ra ba của em.
2. Trước khi nhận ra ba
- Thu thương ba như thế. Ta tưởng chừng như khi được gặp ba, em sẽ bồi hồi,
sung sướng và sà vào vòng tay của ba em mà nũng nịu với tình cảm mãnh liệt hơn

97
bao giờ hết. Nhưng không, Thu đã làm cho người đọc phải bất ngờ qua hành động
quyết liệt không chịu nhận ông Sáu là ba.
+ Gặp lại con sau tám năm xa cách, ông Sáu không kìm được nỗi vui mừng
trong phút đầu nhìn thấy đứa con. Cái tình cha con cứ nôn nao, ông Bước vội vàng...
kêu to... Thu! Con.
+ Nghe gọi, con bé giật mình, tròn mắt nhìn... ngơ ngác, lạ lùng... khi ông Sáu
đến gần, giọng lặp bặp, run run: Ba đây con! Ba đây con! Thì con bé thấy lạ quá, mặt
bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: Má!Má! Ông Sáu đứng một mình “nhìn theo
con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai cánh tay buông
xuống như bị gãy”.
- Trong ba ngày phép ngắn ngủi, ông Sáu không đi đâu chỉ quanh quẩn ở nhà
với con, chặm sóc con. Đáp lại sự vồ vập của người cha, bé Thu lại tỏ ra ngờ vực,
lảng tránh. Ông Sáu càng muốn gần con thì đứa con lại càng tỏ ra lạnh nhạt, xa cách.
Trong hai ngày đêm tiếp theo, mặc kệ những lời nói, cử chỉ âu yếm, lmf thân, vỗ về
tình cảm của ông Sáu, bé Thu một mực thờ ơ, lạnh lùng đến mức bướng bỉnh, ngang
ngạch bất cần. Ông càng chiều thương, nó càng lảng tránh. Ông càng khao khát được
nghe con gọi tiếng “ba”, nó càng cố tình từ chối. Nhà văn đã xây dựng một loạt các
chi tiết để miêu tả tâm lí, thái độ rất trẻ con, cố chấp của bé Thu.
+ Mej bảo gọi ba ăn ơm thì nó gọi trống không: “vô ăn cơm! cơm chín rồi”,
“con kêu rồi mà người ta không nghe”. Hai tiếng “người ta” mà Thu thốt lên làm anh
Sáu đau lòng đến mức “không khóc được, chỉ khe khẽ lắc đầu cười”.
+ Thậm chí ngay cả khi bị má đặt vào một hoàn cảnh khó khăn để buộc Thu gọi
ông Sáu một tiếng “ba” là chắt nước nồi cơm to đang sôi, Thu cũng lại nói trống
không “cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái”. Sự im lặng của ông Sáu và cả sự gợi ý của
bác Ba đều không thể làm cô bé gọi tiếng “ba” đơn sơ, giản dị. Tiếng gọi mà mỗi đứa
trẻ đều ghi nhớ và bập bệ lần đầu tiên trong cuộc đời mình.
+ Đỉnh điểm của sự kiên quyết chối từ tình yêu thương của ông Sáu cho bé Thu
là chi tiết ông Sáu gắp cái trứng cá ngon nhất vào chén cơm của Thu nhưng con bé lại
hất nó ra khỏi chén cơm. Nỗi đau khổ trong ba ngày nén chịu trào lên, ông Sáu đánh
một cái vào mông con, Thu không khóc, lầm lì bỏ trứg cá lại vào chén cơm và bỏ
sang nhà bà ngoại, lúc đi còn cố ý khua dây xuống kêu thật to.
- Những chi tiết bình thường mà tinh tế này chứng tỏ nhà văn rất thấu hiểu tâm lí
trẻ em. Trẻ con vốn rất thơ ngây nhưng cũng đầy cố chấp, nhất là khi chúng có sự
hiểu lần, chúng kiên quyết chối từ tình cảm của người khác mà không cần cân nhắc.

98
nhất là với một cô bé cá tính, bướng bỉnh như Thu. Người đọc nhiều khi thấy giận
em, thương cho ông Sáu. Nhưng thật ra em vẫn là cô bé dễ thương. Bởi nguyên nhân
sâu xa của sự chối từ ấy vẫn là tình yêu ba. Tình yêu đến tôn thờ, trung thành tuyệt
đối với người ba trong tấm ảnh chụp chung với má - người ba với gương mặt khôgn
có vết thẹo dài. (Mặt khác, trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, em
còn quá bé nhỏ để có thể hiểu được những tình thế khắc nghiệt, éo le của cuộc sống
và người lớn cũng không ai kịp chuẩn bị cho em những khả năng bất thường nên em
không tin ông Sáu là ba em chỉ vì trên mặt ông có vết sẹo khác với hình ảnh mà em
được biết).
3. Khi nhận ra ba
- Thế nhưng, tình yêu ba trong bé Thu đã trỗi dậy mãnh liệt vào cái giây phút bất
ngờ nhất, giây phút ông Sáu lên đường trong nỗi đau vì không được con đón nhận.
Bằng sự quan sát tinh tế, bác Ba là người đầu tiên nhận ra sự thay đổi của Thu “vẻ
mặt sàm lại buồn rầu”, “đôi mắt như to hơn nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”. Điều đó
cho thấy trong tâm hồn đứa trẻ nhạy cảm như Thu đã ý thức về cảm giác chia li, giây
phút này em thèm biểu lộ tình yêu với ba hơn hết, nhưng sự ân hận về những gì mình
đã làm ba buồn khiến em không dàm bày tỏ.
- Để rồi tình yêu ba trào dâng mãnh liệt trong em vào khoảnh khắc ba nhìn em
với cái nhìn trìu mén, giọng nói ấm áp “thôi, ba đi nghe con!”. Đúng vào lúc không
một ai ngờ tới, kể cả ông Sáu, Thu thốt lên tiếng kêu thét “Ba...a...a...ba!”. “Tiếng
kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé ruột gan mọi người, nghe thật xót xa.
Đó là tiếng “ba” nó cố kìm nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ba” như vỡ tung ra
từ đáy lòng nó”. Tiếng gọi thân thương ấy đứa trẻ nào cũng gọi đến thành quen
nhưng với cha con Thu là nỗi khát khao của 8 năm trời xa cách thương nhớ. Đó là
tiếng gọi của trái tim, của tình yêu trong lòng đứa bé 8 tuổi mong chờ giây phút gặp
ba.
- Đi liền với tiếng gọi là những cử chỉ vồ vập, cuống quýt trong nỗi ân hận của
Thu: Chạy xô tơi, nhảy thót lên, dang chặt hai tay ôm lấy cổ ba, hôn ba cùng khắp,
hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, hôn cả vết thẹo dài trên má, khóc trong tiếng nấc, kiên quyết
không cho ba đi... Cảnh tượng ấy tô đậm thêm tình yêu mãnh liệt, nỗi khát khao
mong mỏi mà Thu dành cho ba. Phút giây ấy khiến mọi người xung quanh không ai
cầm được nước mắt và bác Ba “bỗng thấy khó thở như có bàn tay ai nắm chặt trái tim
mình”. Đây là khoảnh khắc đẹp nhất của tình cha con trong bé Thu, ông Sáu. Cả hai
cha con ông đã đợi chờ trong tám năm chỉ để có vài phút ngắn ngủi này.

99
- Dường như nhà văn Nguyễn Quang Sáng cũng muốn kéo dài thêm giây phút
chia ly của cha con Thu trong cảm nhận của người đọc bằng cách rẽ mạch truyện
sang một hướng khác, để bác Ba nghe bà ngoại Thu kể lại cuộc chuyện trò của hai bà
cháu đêm qua.
+ Thì ra trong đêm bỏ về nhà bà ngoại, Thu đã được bà giải thích về vết thẹo
làm thay đổi khuôn mặt ba nó. Sự nghi ngờ bấy lâu đã được giải toả và ở Thu nảy
sinh một trạng thái như là sự ân hận, hối tiếc: “Nghe bà kể nó nằm im, lăn lộn và
thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”.
+ Thu ân hận, xót xa vì lỗi lầm của mình. Giờ đây cô bé mới vỡ lẽ ra người cha
của cô thật đẹp và thật anh hùng. Cô bé không chỉ yêu cha, thương cha mà còn tự hào
về cha. Thu ôm chặt lấy ba mình như cố níu kéo niềm hạnh phúc lớn lao mà ba ngày
được ở gần ba em đã bỏ lỡ.
+ Như vậy, trong lòng cô bé, tình yêu dành cho ba luôn là một tình cảm thống
nhất, mãnh liệt. Dù cách biểu hiện tình yêu ấy khác nhau trong hai hoàn cảnh, nhưng
nó vẫn xuất phát từ một cội nguồn trong trái tim đứa trẻ luôn khao khát tình cha.
+ Xót thương thay cho Thu bởi cô bé đâu hiểu rằng cuộc gặp gỡ đầu tiên này
cũng là lần cuối cùng. Mang lời hẹn ước của con gái ra đi: “Ba về, ba mua cho con
một cây lược ngà nghe ba!” khiến ông Sáu nghĩ đến việc làm một chiếc lược dành
tặng cho con.
+ Kiếm được khúc ngà, anh vui sướng như đứa trẻ được quà, rồi để hết tâm trí,
công sức vào việc làm cây lược, cưa răng, chuốt bóng... tỉ mỉ, cần mẫn, công phu;
“trên sống lưng được khắc một dòng chữ nhỏ: Yêu nhớ tặng Thu con của ba”.
+ Nhưng tình cảnh thật đáng thương, anh không kịp đưa cây lược ngà đến tận
tay cho con, người cha ấy đã hi sinh trong một trần càn. Trước khi vĩnh biệt con, ông
Sáu vẫn nhớ chiếc lược, đã chuyển nó cho bác Ba - người bạn chiến đấu thân thiết
như một cử chỉ chuyển giao sự sống, một sự uỷ thác, là ước nguyện cuối cùng - ước
nguyện của tình phụ tử. Điều đó đúng như bác Ba nói: “Chỉ có tình cha con là không
thể chết được” - vượt lên trên bom đạn để trường tồn với thời gian.
+ Chiếc lược ngà trở thành kỉ vật chứa đựng tình thương, nỗi nhớ, hình bóng,
tấm lòng người cha. Chiếc lược ngà đã động viên Thu vững vàng trong cuộc chiến
đấu. Khi bác Ba tình cờ gặp lại Thu và trao cây lược thì cô bé bướng bỉnh, cá tính
ngày nào đã trở thành cô giao liên dũng cảm. Và nguồn sức mạnh tiếp theo cho Thu
là tình yêu ba, tình yêu đất nước.
4. Nghệ thuật xây dựng nhân vật.

100
- Nguyễn Quang Sáng đã sáng tạo tình huống truyện bất ngờ mà tự nhiên, hợp kí
để bộc lộ sâu sắc tình cảm cha con và tính cách nhân vật bé Thu.
- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, đặc biệt là tâm lí nhân vật trẻ em chính
xác, tinh tế qua những biểu hiện sinh động về ngoại hình, ngôn ngữ, hành động. Ở
Thu còn có nét cá tính là sự cứng cỏi đến mức tưởng như ương ngạnh, nhưng Thu
vẫn là một đứa trẻ với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ của con trẻ. Điều này cho thấy
tác giả rất am hiểu tâm lí trẻ em và có tấm lòng yêu mến trân trọng những tình cảm
trẻ thơ.
- Xây dựng cốt truyện khá chặt chẽ, lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp.
Cách trần thuật từ ngôi thứ nhất, đặt vào nhân vật bác Ba - người bạn chiến đấu của
ông Sáu và cũng là người chứng kiến, tham gia vào câu chuyện. Với ngôi kể này,
người kể chuyện xen vào những lời bình luận, suy nghĩ, bày tò sự đồng cảm, chia sẻ
với nhân vật nhưng câu chuyện vẫn mang tính khách quan.
- Ngôn ngữ kể chuyện mang đậm chất Nam Bộ.
C. Kết luận.
Bé Thu là nhân vật gây ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc và làm ta xúc động
khi đọc “Chiếc lược ngà”. Thông qua câu chuyện của ông Sáu và bé Thu, nhà văn
Nguyễn Quang Sáng đã bày tỏ niềm đồng cảm, xót thương, day dứt trước những đau
thương, mất mát của con người trong chiến tranh. Đồng thời, nhà văn trân trọng, phát
hiện, nâng niu vẻ đẹp của tình phụ tử - vẻ đẹp thiêng liêng, bất diện trong tâm hồn
con người mà sự tàn khốc của chiến tranh không thể huỷ diệt được. Đó là giá trị nhân
đạo, nhân văn sâu sắc của tác phẩm. Chiếc lược ngà là một trong những tác phẩm hay
nhất viết về đề tài tình phụ tử. Xứng đáng là một truyện ngắn hay vừa là chứng tích
của một thời, vừa là hiện thân của một chân lí giản dị của mọi thời đại. (Nguyễn
Kiên)
ĐỀ III. PHÂN TÍCH NHÂN VẬT ÔNG SÁU
A. Mở bài
B. Thân bài
* Hoàn cảnh của ông Sáu: tương tự như đề 2.
1. Ông Sáu trước hết là người chiến sĩ cách mạng dũng cảm, một người
nông dân Nam Bộ giàu lòng yêu nước. Ông đã tham gia hai cuộc kháng chiến
(đánh Pháp và đánh Mĩ). Vì cuộc chiến đấu chung của dân tộc, ông Sáu đã phải
mang vết sẹo dài trên mặt, hi sinh cả thời trai trẻ và hạnh phúc gia đình. Và cuối cùng
ông ngã xuống lặng thầm, không một nấm mồ, không bia mộ giữa rừng sâu.

101
2. Ông Sáu còn là người có số phận éo le đau thương do chiến tranh gây ra.
- Ra đi đánh giặc từ năm 1946, để lại người vợ và đứa con thân yêu nơi quê nhà.
Sự xa cách càng làm dâng lên trong ông nỗi nhớ nhung tha thiết đứa con gái mà khi
ông đi nó chưa đầy một tuổi. Nỗi nhớ ấy đã trở thành niềm khao khát, mơ ước cháy
bỏng trong lòng ông. Chính vì vậy mỗi lần vợ lên thăm là một lần ông hỏi “Sao
không cho con bé lên cùng?”. Không gặp được con ông đành ngắm con qua ảnh
vậy... Mặc dầu tấm ảnh đó đã rách nát, cũ kĩ lắm rồi, nhưng ông luôn giữ gìn nó vô
cùng cẩn thận, coi nó như một báu vật. Và tám năm trời là những năm tháng dài đằng
đẵng ấy cũng làm tăng lên trong lòng ông Sáu nỗi nhớ nhung, mong chờ, ông Sáu ao
ước gặp con.
- Thế rồi niềm ao ước ấy đã trở thành hiện thực. Ông Sáu được ghỉ phép về thăm
nhà và quê hương vài ngày. Mấy ngày về thăm nhà, ông lại phải trải qua nỗi đau về
tinh thần: đứa con gái duy nhất ông hằng mong nhớ, không chịu nhận ông là cha,
không một lời gọi ba. Cái khao khát của một người lính sau những năm dài vào sinh
ra tử trở lại quê hương, được gặp lại vợ con, được nghe con cất tiếng gọi “ba” một
tiếng cũng không được trọn vẹn. Đó là bi kịch đau thương của con người thời chiến
tranh.
3. Ông Sau là người cha thương con sâu sắc.
a. Trong những ngày về phép thăm nhà.
- Là người cha thương con sâu sắc nên khi được gặp lại con sau nhiều năm xa
cách với bao nỗi nhớ thương khiến ông Sáu không kìm được nỗi vui mừng trong phút
đầu nhìn thấy đứa con. Tình cha con cứ nôn nao: Không thể chờ xuồng cập bến anh
nhún chân, nhảy tót lên. Bước vội vàng, kêu to... Thu! Con. Anh vừa bước, vừa khom
người đưa tay chờ đón con, có lẽ ông rất vui, rất xúc động và hạnh phúc, tìn rằng đứa
con sẽ đến với mình. Nhưng bé Thu đã từ cối, chạy và kêu thét lên gọi: Má! Má!.
“Anh đứng sững lại đó nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại... hai tay
buông thõng xuống như bị gãy”. Ông Sáu vô cùng buồn bã, thất vọng, đau đớn,
không hiểu vì sao Thu lại có thái độ như vậy.
- Trong ba ngày phép ngắn ngủi, ông Sáu không đi đâu chỉ quanh quẩn ở nhà
với con, chăm sóc con nhưng bé Thu không nhận cha khiến ông vô cùng buồn. Ông
Sáu càng muốn gần con thì bé Thu lại càng tỏ ra lạnh nhạt, xa cách. Mặc kệ những
lời nói, cử chỉ âu yếm, làm thân, vỗ về tình cảm của ông Sáu, bé Thu một mực thờ ơ,
lạnh lùng đến mức bướng bỉnh, ngang ngạnh bất cần. Ông Càng chiều thương, nó

102
càng lảng tránh. Ông càng khao khát được nghe con gọi tiếng “ba”, nó càng cố tình
từ chối.
+ Khi mẹ bảo gọi va vào ăn cơm thì cô bé gọi trống không: Vô ăn cơm! Câu nói
của cô bé như đánh vào tâm can ông, nhưng ông vẫn ngồi im, giả vờ không nghe, chờ
nó gọi: “Ba vô ăn cơm”. Thế nhưng Thu vẫn không chịu gọi ba, đã vậy còn bực dọc
nói mấy câu: “Cơm chín rồi!” và “Con kêu rồi mà người ta không nghe”. Đến lúc này
ông chỉ biết “nhìn con bé vừa khe khẽ lắc đầu, vừa cười. Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi
không khóc được nên ành đành phải cười vậy thôi”.
- Tình yêu thương của người cha dành cho con trở nên bất lực khi ông Sáu đánh
con bé một cái vào mông vì nó đã hất miếng trứng cá mà ông gắp ra khỏi bát cơm
làm cơm văng tung toé. Khi bị ông Sáu tức giận đánh một cái thì nó bỏ về nhà bà
ngoại, khi xuống xuồng còn cố ý khua dây cột xuống kêu rổn rảng thật to. Thật bất
hạnh cho số phận của ông Sáu. Bom đạn giặc Mỹ đã làm thay đổi hình hài ông. Vết
thẹo dài trên má phải - vết thương của chiến tranh - đã làm cho đứa con gái thương
yêu, bé bỏng không nhận ra bóng dáng người cha nữa!
- Cho đến lúc chia tay vợ con lần thứ hai để bước vào cuộc chiến đấu mới, chân
ông ngập ngừng không muốn bước. Hẳn rằng ông Sáu muốn ôm con, hôn con nhưng
“sợ nó lại giẫy đạp và bỏ chạy” nên ông chỉ đứng đấy “nhìn nó với cặp mắt trìu mến
xen lẫn buồn rầu”. Trong ánh mắt của ông chất chứa bao yêu thương mà ông muốn
trao gửi tới con gái yêu của mình: “Thôi ba đi nghe con”.
- Cũng chính giây phút ấy, ông nghe chính từ con tiếng gọi “Ba...a...a...ba!”.
Tiếng kêu như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa.
Tiếng gọi bật lên sau bao kìm nén, chờ đợi khắc khoải. Đó cũng là cái tiếng “ba” mà
ông Sáu đã chờ đợi suốt tám năm trời xa con, đã chờ đợi suốt mấy ngày về bên con,
ông đã tưởng chẳng thể còn được nghe thì bất ngờ nó thét lên. Nó vỡ ra còn lòng
người đọc thì nghẹn lại.
+ Người cha không cầm nổi nước mắt vì bất ngờ, vì sung sướng, vì thương yêu
và vì cả sự éo le của tình cảm nữa. Giọt nước mắt của ông là giọt nước mắt của vui
sướng, hạnh phúc. Và không muốn cho con thấy mình khóc, ông Sáu một tay ôm con
một tay rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con... Thế là con bé đã gọi ông
bằng ba. Ai có thể ngờ được một người lính đã dày đạn nơi chiến trường và quen với
cái chết cận kề lại là người vô cùng mềm yếu trong tình cảm cha con. Sao bao năm
tháng mong chờ, đau khổ, ông Sáu đã được đón nhận một niềm vui vô bờ. Bây giờ

103
ông có thể ra đi với một yên tâm lớn rằng ở quê nhà có một đứa con gái thân yêu luôn
chờ đợi ông, từng giây từng phút mong ông quay về.
b. Tình cảm thương nhớ con của ông Sáu khi trở lại chiến khu.
- Tình cảm của ông Sáu dành cho bé Thu trở nên mãnh liệt hơn, cao cả, thiêng
liêng và cảm động hơn bao giờ hết ở tình huống thứ hai của câu chuyện, lúc ông Sáu
ở rừng. Nỗi nhớ thương xen lẫn sự day dứt, ân hận cứ ám ảnh ông Sáu suốt nhiều
ngày vì ông đã đánh con khi nóng giận.
- Nhưng trên hết, mang lời hẹn ước của con gái ra đi “Ba về, ba mua cho con
một cây lược nghe ba!”. Một mong ước đơn sơ của đứa con gái bé bỏng trong gây
phút cha con từ biệt. Nhưng đối với người cha ấy, đó là mong ước đầu tiên và cũng là
duy nhất cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng. Kiếm cho con cây lược trở thành bổn
phận của người cha, thành tiến gọi cầu khẩn của tình phụ tử trong lòng. Ông nghĩ đến
việc làm một chiếc lược ngà dành tặng cho con. Có lẽ không đơn thuần vì ở rừng núi
chiến khu, ông không thể mua được cây lược nên làm lược từ ngà voi là một cách
khắc phục khó khăn. Mà cao hơn thế, sâu hơn thế, ngà voi là thứ quý hiếm - chiếc
lược cho con của ông phải được làm bằng thứ quý giá ấy. Và ông không muốn mua,
mà muốn tự tay mình làm ra. Ông sẽ đặt vào trong ấy tất cả tình cảm yêu thương
dành cho đứa con gái bé nhỏ của mình.
+ Kiếm được khúc ngà, ông vui sướng như đứa trẻ được quà, rồi để hết tâm trí,
công sức vào việc làm cây lược. Ông “ngồi cưa từng chiếc răng lược, trận trọng, tỉ mỉ
và khổ công như người thợ bạc”, “gò lưng tẩn mẩn khắc từng chữ: Yêu nhớ tặng Thu
con của ba”. Chiếc lược “dài bộ hơn một tấc, bề ngang độ ba phân rưỡi”. Lòng yêu
con đã biến người chiến sĩ trở thành một nghệ nhân - nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một
tác phẩm duy nhất trong cuộc đời. Cho nên, chiếc lược ngà kết tinh trong nó tình phụ
tử mộc mạc mà đằm thắm, đơn sơ và kì diệu làm sao!
+ Chiếc lược ngà ấy chưa chải được mái tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được
phần nào tâm trạng ông Sáu. Nó trở thành một điểm tựa tinh thần, an ủi ông, nuôi
dưỡng trong ông tình cha con và sức mạnh chiến đấu. Hằng đêm, ông nhìn ngắm
chiếc lược, cố mài lên mái tóc, cho chiếc lược thêm bóng, thêm mượt. Ông hi vọng sẽ
có ngày được gặp lại con, trao tận tay nó mòn quà kỉ niệm này.
- Nhưng tình cảm thật đáng thương, ông Sáu không kịp đưa cây lược ngà đến
tay cho con, người cha ấy đã hi sinh trong một trận càn của quân giặc. Nhưng “hình
như chỉ có tình cha con là không thể chết được”. Không còn đủ sức trăn trối điều gì,
tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho ông làm được một việc “đưa tay vào túi, móc cây

104
lược” đưa cho người bạn chiến đấu thân thiết và cứ nhìn bạn hồi lâu. Nhưng đó là
điều trăn trối không lời, nó rõ ràng và thiêng liêng hơn cả một lời di chúc, bởi đó là
sự uỷ thác, là ước nguyện cuối cùng của người bạn thân - ước nguyện của tình phụ tử.
Bắt đầu từ giây phút ấy, chiếc lược ngà của tình phụ tử đã biến người đồng đội thành
một người cha - người cha thứ hai của cô bé Thu.
- Ông Sáu là một người cha hiền lành, nhân hậu, biết nâng niu tình cảm cha con,
một người cha để bé Thu suốt đời yêu quý và tự hào. Ông Sáu đã hi sinh trong những
ngày chiến tranh đen tối và gian khổ. Ngồi mộ ông là “ngôi mộ bằng” giữa rừng sâu.
Tuy ông Sáu đã hi sinh nhưng câu chuyện về hai cha con ông sẽ còn sống mãi. Hình
ảnh chiếc lược ngà với dòng chữ yêu thương sẽ mãi là kỉ vật, là nhân chứng về nỗi
đau, bi kịch của chiến tranh, là minh chứng cho số phận đau thương, lòng quả cảm và
tình yêu con bất diện của một người cha, một người chiến sĩ anh hùng đã trả qua hai
cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ ác liệt.
4. Nhận xét về nghệ thuậ xây dựng nhân vật.
- Sáng tạo tình huống truyện bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí để bộc lộ sâu sắc tình
cảm cha con và tính cách nhân vật ông Sáu.
- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, chân thực qua những biểu hiện sinh
động về ngoại hình, hành động, ngôn ngữ của nhân vật.
- Xây dựng cốt truyện khá chặt chẽ, lựa chọn nhân vật kể chuyện tích hợp. Cách
trần thuật từ ngôi thứ nhất, đặt vào nhân vật bác Ba - người bạn chiến đấu của ông
Sáu và cũng là người chứng kiến, tham gia vào câu chuyện. Với ngôi kể này, người
kể chuyện xen vào những lời bình luận, suy nghĩ, bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với
nhân vật nhưng câu chuyện vẫn mang tính khách quan.
- Ngôn ngữ kể chuyện đậm chất Nam Bộ.
c. Kết luận.
Ông Sáu là nhân vật gây ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc và làm ta xúc động khi
đọc “Chiếc lược ngà”. Thông qua câu chuyện của ông Sáu và bé thu, nhà văn Nguyễn
Quang Sáng đã bày tỏ niềm đồng cảm, xót thương, day dứt trước những đau thương,
mất mát của nhân dân Nam Bộ nói riêng, con người Việt Nam nói chung trong hai
cuộc chiến tranh với thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đồng thời, nhà văn trân trọng,
phát hiện, nâng niu vẻ đẹp của tình đồng chí, đặc biệt là tình phụ tử - vẻ đẹp thiêng
liêng, bất diệt trong tâm hồn con người mà sự tàn khốc của chiến tranh không thể huỷ
diệt được. Đó là giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc của tác pẩhm. Chiếc lược ngà là
một trong những áng văn hay nhất viết về đề tài tình phụ tử. Xứng đáng là Một truyện
ngắn hay vừa là chứng tích của một thời, vừa là hiện thân của một chân lí giản dị
của mọi thời.

105

You might also like