You are on page 1of 76

TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ MẬU LƯƠNG

NĂM HỌC: 2022 - 2023

TÀI LIỆU ÔN TẬP THI VÀO LỚP 10


MÔN NGỮ VĂN
HỌ VÀ TÊN: CHU ĐỖ QUANG MINH
LỚP: 9A2
CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
-Nguyễn Dữ-
BT1: Viết bài giới thiệu về tác giả Nguyễn Dữ và văn bản “Chuyện người con gái Nam
Xương”
“Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Du là một tác phẩm hay trong làng văn
học trung đại.
Nguyễn Dữ chưa rõ năm sinh năm mất, quê ở tỉnh Hải Dương. Ông học rộng tài cao, ông là
học trò của Tuyết Giang Phu Tử Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông đỗ đạt nhưng chỉ làm quan 1
năm rồi cáo quan về ở ẩn. Tác phẩm chính của ông là “Truyền kì mạn lục”
“Chuyện người con gái Nam Xương” viết vào thế kỉ XVI, là truyện thứ 16 của “Truyền kì
mạn lục” được viết dựa theo truyện cổ tích “Vợ chàng Trương” thuộc thể loại truyện truyền
kì. Tác phẩm có bố cục 4 phần: “Cuộc sống của vợ chồng Vũ Nương, Vũ Nương khi Trương
Sinh đi lính, Vũ Nương khi Trương Sinh đi lính trở về, cuộc sống của Vũ Nương dưới thủy
cung” đi theo trình tự thời gian và không gian.
Tác phẩm viết về Vũ Nương - một người có số phận bất hạnh, cưới một người chồng vô
học, lại có tính đa nghi. Hàng ngày cô phải giữ gìn khuôn phép, cuộc sống vợ chồng chưa
được bao lâu thì Trương Sinh bị bắt đi lính, một tuần sau cô sinh con và đặt tên là Đản.
Trong suốt thời gian Trương Sinh đi lính, một mình cô chăm lo cho bé Đản, chăm sóc mẹ
chồng lúc ốm và lo ma chay chu đáo khi bà mất. Ba năm sau, Trương Sinh trở về, nghe lời
nói ngây thơ của bé Đản mà nghi ngờ, đánh đập, đuổi Vũ Nương ra khỏi nhà. Không được
minh oan, Vũ Nương bèn tự tử bên Sông Hoàng Giang. Tối hôm ấy, Trương Sinh hiểu ra nỗi
oan của vợ nhưng đã quá muộn. Sống dưới thủy cung, Vũ Nương gặp Phan Lang - người
cùng làng được Linh Phi cứu để trả ơn. Vũ Nương nhờ Phan Lang đứa chiếc trâm hoa vàng
cho Trương Sinh và dặn Trương Sinh lập đàn giải oan trên bến S.Hoàng Giang thì cô sẽ trở
về nhưng cô chỉ trở về trong chốc lát rồi lại biến đi mất.
Về nghệ thuật, tác giả sử dụng thể loại truyện truyền kì. Tác phẩm được viết theo ngôi số ba,
tác giả xây dựng thành công nhân vật Vũ Nương, Trương Sinh, nội tâm nhân vật Vũ Nương
được miêu tả tinh tế. Tình huống truyện thắt nút mở nút, ngôn ngữ truyện sử dụng nhiều điển
tích, điển cổ. Tác giả phải sử dụng nhiều yếu tố kỳ ảo và sáng tạo chi tiết cái bóng.
Tác giả phản ánh thực trạng xã hội, chiến tranh phi nghĩa, coi thường người phụ nữ, đẩy
người phụ nữ vào số phận bất hạnh. Đồng cảm với số phận bất hạnh của người phụ nữ, ước
mơ về sự đổi đời, ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ.
Quả thật, “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ là một tác phẩm hay trong
làng văn học trung đại. Nó được mệnh danh là áng thiên cổ kì bút. Bao nhiêu năm trôi qua
tác phẩm vẫn sống mãi trong lòng người đọc.
BT2: Hãy chỉ ra các chi tiết kỳ ảo trong văn bản “Chuyên người con gái Nam Xương”
và nêu ý nghĩa của những chi tiết kỳ ảo đó.
 Những chi tiết kỳ ảo:
- Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa.
Phan Lang gặp nạn , lạc vào động rùa, gặp Linh Phi được cứu giúp, gặp lại Vũ Nương và
được sứ giả của Linh Phi rẽ đường nước đưa về dương thế.
- Vũ Nương tự tử, được Linh Phi cứu về ở thủy cung.
- Vũ Nương hiện về trong lễ giải oan trên bến Hoàng Giang giữa lung linh huyền ảo rồi lại
biến đi mất.
- Ý nghĩa của các chi tiết kỳ ảo:
- Phù hợp với thể loại truyện truyền kì, tăng sức hấp dẫn cho câu chuyện.
Hoàn chỉnh thêm nét đẹp vốn có của Vũ Nương: nặng tình nặng nghĩa, quan tâm chồng con,
phần mộ tổ tiên, khao khát được phục hòi danh dự, bao dung, độ lượng, trọng tình nghĩa.
- Tạo nên một kết thúc phần nào có hậu cho câu chuyện.
Thể hiện ước mơ về lẽ công bằng ở đời của nhân dân ta.
BT3: Trong “Chuyên người con gái Nam Xương”, cái bóng có ý nghĩa gì trong các kể
chuyện?
- Cái bóng trong câu chuyện có ý nghĩa đặc biệt vì đây là chi tiết tạo nên các thắt nút mở nút
hết sức bất ngờ.
- Cái bóng có ý nghĩa thắt nút vì:
- Đối với Vũ Nương: Trong những ngày chồng đi xa, vì thương nhớ chồng, vì không muốn
con nhỏ thiếu vắng bóng người cha nên đêm đêm nàng thường chỉ bóng mình trên tường và
nói dối con đó là cha nó. Lời nói dối của Vũ Nương với mục đích hoàn toàn tốt đẹp.
- Đối với bé Đản: Mới 3 tuổi còn ngây thơ, chưa hiểu biết những điều phức tạp nên đã tin là
nó có một người cha đêm nào cũng đến, mẹ đi cũng đi, mẹ ngồi cũng ngồi nhưng chẳng bao
giờ bế nó.
- Đói với Trương Sinh: chỉ nghe lời nói của bé Đản về một người cha khác (chính là cái
bóng) đã nảy sinh nghi ngờ vợ không chung thủy, nảy sinh thái độ ghen tuông và lấy nó làm
bằng chứng để về nhà mắng nhiếc, đánh đuổi Vũ Nương để nàng phải tìm đến cái chết đầy
oan ức.
→ Cái bóng cũng là chi tiết mở nút vì Trương Sinh sau này hiểu ra nỗi oan của vợ cũng
chính là cái bóng của chàng trên tường được bé Đản gọi là cha, bao nhiêu nghi ngờ của
Trương Sinh và nỗi oan của Vũ Nương đều được hóa giải nhờ cái bóng.
→ Chính cách thắt nút mở nút câu chuyện bằng chi tiết cái bóng đã làm cho cái chết của Vũ
Nương càng thêm oan nghiệt, giá trị tố cáo xã hội phong kiến nam quyền đầy bất công với
người phụ nữ càng thêm sâu sắc.
BT4: Giải thích nhan đề của văn bản “Chuyên người con gái Nam Xương”
Nhan đề: “Truyền kì mạn lục”
→ Ghi chép tản mạn những câu chuyện kì lạ được lưu truyền
Chú thích 1 (Sgk – trang 49)
Truyền kì mạn lục (Ghi chép tản mạn những câu chuyện kì lạ được lưu truyền) : tác phẩm
được viết bằng chữ Hán, có chịu ảnh hưởng của truyện truyền kì Trung Quốc – một thể
truyện thường có yếu tố kì lạ, hoang đường – nhưng cũng khai thác cái truyện cổ dân gian
lịch sử, dã sử của Việt Nam. Nhân vật chính thường là những người phụ nữ đức hạnh, khao
khát một cuộc sống yên bình, hạnh phúc, nhưng các thế lực bạo tàn và cả lễ giáo khắc nghiệt
lại xô đẩy họ vào những cảnh ngộ éo le, oan khuất, bất hạnh. Một loại nhân vật khác là
những người tri thức có tâm huyết, bất mãn với thời cuộc, không chịu trói mình trong vòng
danh lợi chật hẹp. Chuyện người con gái Nam Xương là một trong hai mươi truyện của tác
phẩm này.
BT5: Em hiểu gì về thể loại của văn bản “Chuyên người con gái Nam Xương”
Thể loại: Truyện truyền kì
● Thường có yếu tố hoang đường, kỳ ảo, khai thác các truyện cổ dân gian: truyền thuyết, lịch
sử, dã sử
● Gửi gắm thái độ, quan điểm của tác giả về con người và cuộc sống thực tại.
BT6: Kết thúc truyện có ý nghĩa gì?
- 1 kết thúc có hậu nhưng cũng không làm giảm sự bi kịch của tác phẩm.
- Đàn giải oan cũng chỉ là một chút an ủi cho người bạc phận chứ không thể làm sống lại tình
xưa. Nỗi oan đã được giải nhưng hạnh phúc thật sự đâu có thể tìm lại được nữa. Sự dứt áo ra
đi của Vũ Nương thể hiện thái độ phụ định cõi trần thế - nơi phụ nữ không thể có được hạnh
phúc. Điều đó càng khẳng định niềm thương cảm của tác giả đối với số phận bi thảm của
người phụ nữ.
- Kết thúc truyện như vậy càng làm tăng thêm sự trừng phạt đối với Trương Sinh, chàng phải
cắn rứt ân hận vì lỗi lầm của mình và bài học cuộc sống càng thêm sâu sắc. Đánh mất niềm
tin là đánh mất tất cả, hạnh phúc trở thành hư ảo.
BT7: Xác định đề tài của văn bản trên và cho biết tác phẩm cùng đề tài.
- Đề tài: người phụ nữ
- Tác phẩm cùng đề tài:
● Truyện Kiều – Nguyễn Du
● Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương
● Quan âm thị kính
BT8: Nêu nguyên nhân dẫn đến cái chết của Vũ Nương.
- Do xã hội phong kiến thối nát, trọng nam kinh nữ, chiến tranh phi nghĩa, hôn nhân mua
bán.
- Do sự vô học và tính đa nghi của Trương Sinh.
- Do lời nói ngây thơ của bé Đản.
- Do cái bóng mà đêm đêm Vũ Nương vẫn chỉ trên vách.
→ Nguyên nhân sâu xa: do xã hội thối nát.
→ Nguyên nhân trực tiếp: do Trương Sinh vừa vô học, vừa đa nghi.
BT9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
A) Số phận bất hạnh
- Cô xuất thân trong một gia đình nghèo, cô lấy phải người chồng vô học, lại có tính đa nghi
trong một cuộc hôn nhân mang tính chất mua bán. Trương Sinh xin mẹ 100 lượng vàng để
cưới cô về làm vợ, cuộc sống gia đình chưa được bao lâu thì Trương Sinh bị bắt đi lính. Cô
phải xa chồng lên tới 3 năm. Ba năm trời một mình cô lo toan mọi việc trong gia đình từ
chăm con, chăm sóc mẹ chồng khi bà ốm, lo ma chay chu đáo khi bà mất. Ngày Trương Sinh
trở về đoạn tụ cũng là ngày biệt ly. Trương Sinh nghe lời nói ngây thơ của bé Đản mà nghi
ngờ, đánh đuổi Vũ Nương ra khỏi nhà, mặc cho những lời minh oan đầy nước mắt, những lời
can ngăn của bà con hàng xóm nhưng hắn không rung động. Không thể minh oan, Vũ Nương
bèn tự tử trên bến sông Hoàng Giang. Đây là số phận của người phụ nữ trong xã hội phong
kiến. Đó cũng là số phận của nàng Kiều, 15 năm lưu lạc đất khách quê người. Đó là số phận
của Thị Kính, nửa đêm bị bà mẹ chồng đuổi ra khỏi nhà với tội danh “gái say trai lập chí giết
chồng”
B) Phẩm chất tốt đẹp
- Cô là người phụ nữ yêu thương chồng con. Luôn giữ gìn khuôn phép để gia đình không bị
bất hòa.
- Khi Trương Sinh đi lính, cô không quan tâm đến tinh hoa phú quý mà chỉ lo lắng cho sự
bình yên của chồng.
- Ba năm xa chồng, cô không tô son điểm phấm đi đến chỗ đông người, cô luôn sống trong
nỗi nhớ chồng: “mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn chân trời
góc bể không thể nào ngăn được”.
- Đêm đêm cô chỉ bóng mình trên vách để vơi nỗi nhớ chồng.
- Vì yêu chồng nên cô lo lắng, chăm sóc cho gia đình chu đáo từ việc mẹ chồng ốm, lo ma
chay chu đáo khi bà mất đến việc chăm sóc con.
C) Cô là người đảm đang, thao vát
- Ba năm Trương Sinh đi lính, một mình Vũ Nương chăm sóc gia đình từ chăm con, chăm
sóc mẹ chồng khi bà ốm đến lo ma chay chu đáo khi và mất. Đây là phẩm chất của người
phụ nữ Việt Nam từ bao đời nay.
D) Cô là người con dâu hiếu thảo
- Khi mẹ chồng ốm, cô lo thuốc than, lễ bái thần phật, lấy lời nói ngọt ngào để khuyên lơn,
chăm sóc chu đáo.
- Khi mẹ chồng mất, cô lo ma chay chu đáo như cha mẹ đẻ mình.
→ Mọi việc Vũ Nương làm đều xuất phát từ tình yêu thương thực sự. Lời tăng trối của bà
mẹ chồng trước lúc mất càng giúp ta hiểu hơn tấm lòng hiếu thảo của Vũ Nương “xanh khi
quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ” càng cho thấy sự hiếu thảo của cô.
E) Cô là người trọng danh dự và tình nghĩa
- Cưới phải người chồng vô học lại có tính đa nghi nên cô hết sức giũ gìn khuôn phép.
- Ba năm chồng đi lính, cô không tô son đánh phấn đi đến chỗ đông người.
- Khi danh dự bị chồng bôi nhọ, cô rất đau khổ, tìm đủ mọi cách để thanh minh nhưng không
được, cô chọn cái chết.
- Cô yêu cầu Trương Sinh lập đàn giải oan trên bến Hoàng Giang → đây là một cách đòi lại
danh dự.
- Cô cảm tạ ân đức Linh Phi nên thề sống chết không rời bỏ.
G) Cô là người bao dung độ lượng
- Mặc dù Trương Sinh đánh đuổi, nghi oan cho Vũ Nương nhưng ở dưới thủy cung nghe kể
chuyện về Trương Sinh, cô đã bật khóc và khẳng định tất có ngày trở về.
H) Cuộc sống của Vũ Nương dưới thủy cung
- Lẽ ra “Chuyện người con gái Nam Xương” có thể dừng ở chi tiết Trương Sinh hiểu ra nỗi
oan của vợ và lập đàn giải oan trên bến sông Hoàng Giang nhưng với tấm lòng nhân đạo của
mình, Nguyễn Dữ không chỉ để cho nhân vật của mình được giải oan mà còn cho cô có một
cuộc sống hạnh phúc, sung sướng ở chốn làng mây cung nước. Đây là đoạn Nguyễn Dữ sử
dụng triệt để yếu tố hoang đường kỳ ảo, chính nó đã thể hiện đạo lí “ở hiền gặp lành” và
hoàn thiện phẩm chất của Vũ Nương:
- Vũ Nương là người yêu thương chồng và bao dung độ lượng mặc dù Trương Sinh là
nguyên nhân gây ra cái chết của cô nhưng khi ở dưới thủy cung, nghe câu chuyện mà Phan
Lang kể thì cô đã bật khóc và khẳng định không thể ở đây được nữa. Lời tiễn biệt của cô “đa
tạ tình chàng, thiếp chẳng thế trờ về nhân gian được nữa” thắm thiết tình nghĩa. Cánh xưng
hô “chàng – thiếp” đầy tình cảm, Vũ Nương hiểu tình cảnh và sự hối hận của Trương Sinh.
- Vũ Nương là người trọng tình nghĩa, cô cảm tạ ân đức của Linh Phi nề thề sống chết cũng
không bỏ, ở bên hầu hạ
- Tác phẩm kết thúc vừa có hậu, vừa không có hậu. Vũ Nương được giải oan nhưng cô lại
không thể trở về, đoạn tụ với gia đình, chồng con. Đây là bài học mà Nguyễn Dữ gửi gắm
cho mọi người, “phải biết trân trọng những gì mình đang có, nếu không sẽ không thể nào lấy
lại được.”
HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ
HỒI THỨ MƯỜI BỐN
Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trận Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống
trốn ra ngoài
- Ngô Gia Văn Phái –
BT1: Viết bài giới thiệu về nhóm tác giả Ngô Gia Văn Phái và hồi thứ mười bốn.
Ngô Gia Văn Phái là một nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, huyện
Thanh Oai, tỉnh Hà Tây nay thuộc Hà Nội. Trong đó có 2 tác giả chính là Ngô Thì Chí (1753
– 1788) làm quan thời Lê Chiêu Thống, ông là tác giả của 7 hồi đầu và Ngô Thì Du (1772 –
1840) là quan dưới triều Nguyễn, ông là tác giả của 7 hồi tiếp. Có ý kiến cho rằng 3 hồi cuối
là do Nguyễn Thì Tiến viết.
Hồi 14 (Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trận, bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra
ngoài) được viết vào cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19, trích hồi thứ mười bốn của “Hoàng Lê nhất
thống chí” gồm 17 hồi. Nó thuộc thể chí, viết bằng chữ Hán. Hồi 14 kể về những người anh
hùng Nguyễn Huệ, nghe tin quân Thanh chiếm được Thăng Long ông giận lắm, định cầm
quân đi ngay. Ngày 25 tháng Chạp, ông lên ngôi vua lấy hiệu là Quang Trung và xuất quân.
Ngày 29 tháng Chạp, ông đến Nghệ An, tại đây ông tìm gặp Nguyễn Thiếp, mở cuộc chiêu
binh, mở tiệc khao quân hẹn ngày mùng 7 sẽ ăn mừng ở Thăng Long. Nửa đêm mùng 3, ông
chiếm được làng Hà Hồi. Nửa đêm mùng 4 rạng sáng ngày mùng 5, ông chiếm đồn Ngọc
Hồi, Tôn Sĩ Nghị sợ hãi trốn về nước. Quang Trung giải phóng thành Thăng Long và đại
thắng. Về nghệ thuật, tác giả sử dụng thể chí, giọng văn biến hóa khôn lường, khi viết về
Nguyễn Huệ thì vô cùng tự hào nhưng đau đớn và chua xót khi viết về Lê Chiêu Thống, hả
hê vui sướng khi viết về quân Thanh, ngôi kể thứ 3, xây dựng thành công nhân vật Nguyễn
Huệ với nghệ thuật đối lập tương phản.
Hồi 14 đã tái hiện lịch sử Việt Nam 30 năm cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19 cho thấy tài năng
của Nguyễn Huệ, sự đớn hèn nhục nhã của vua Lê Chiêu Thống và thấy được dã tâm của
quân Thanh.
Quả thật, hồi thứ 14 là một tác phẩm hay. Nó được mệnh danh là cuốn tiểu thuyết chương
hồi lớn nhất trong lịch sử văn học trung đại. Bao nhiêu năm qua, tác phẩm vẫn sống mãi
trong lòng người đọc.
BT2: Phân tích nhân vật Nguyễn Huệ.
A) Là một con người hành động mạnh mẽ, quyết đoán:
- Từ đầu đến cuối đoạn trích, Nguyễn Huệ luôn luôn là người hành động xông xáo, nhanh
gọn, có chủ đích và rất quả quyết.
- Nghe tin giặc chiếm Thăng Long, ông không hề nao núng, định cầm quân đi đánh giặc
ngay.
- Chi trong vòng 1 tháng, Nguyễn Huệ đã làm được rất nhiều việc lớn: “tế cáo trời đất”, lên
ngôi hoàng đế, đốc xuất đại binh ra Bắc.
B) Đó là một con người có trí tuệ sáng suốt và nhạy bén:
- Khi 20 vạn quân Thanh hùng hổ xâm lược nước ta, thế giặc mạnh, đất nước lâm nguy,
vận mệnh ngàn cân treo sợi tóc, Nguyễn Huệ đã quyết định lên ngôi hoàng đế, lấy niên
hiệu là Quang Trung để chính danh mình thống nhất nội bộ, hội tụ anh tài và quan trọng
hơn là để “yên kẻ phản trắc” và giữ lấy lòng người được nhân dân vô cùng ủng hộ.
- Sáng suốt trong việc nhận định tình hình địch – ta, thể hiện rõ trong lời phủ dụ:
+ Ông khẳng định chủ quyền nước ta “đất nào sao ấy, phương Nam phương Bắc chia
nhau mà cai trị”
(liên hệ 2 câu đầu bài “Nam quốc sơn hà” – Lí Thường Kiệt: “Nam quốc sơn hà nam đế
cư/ Tiệt nhiên định phật tại thiên thư”)
+ Ông chỉ rõ dã tâm của quân Thanh “chúng sang nước ta chỉ để cướp bóc, giết hại
nhân dân, vơ vét của cải.”
+ Ông tự hào về truyền thống lịch sử vẻ vang “Đời Hán có Trương Nữ Vương – đời
Tống có Đinh Lê Hoàng, Lê Đại Hành”
+ Ông cảnh cáo quân Thanh nếu có ý định sang xâm lược nước ta nhất định sẽ phải
chịu hậu quả.
+ Ông kêu gọi binh sĩ đứng lên đấu tranh và đề ra kỉ luật nghiêm minh nếu ai ăn ở 2
lòng sẽ bị giết.
 Lời phủ dụ như một bài hịch ngắn gọn mà ý tứ phong phú sâu xa, có tác dụng kích thích
lòng yêu nước và truyền thống quật cường của dân tộc.
- Sáng suốt trong việc xét đoán bề tôi:
+ Qua lời nói của vua Quang Trung với Sở và Lân, ta thấy ông hiểu rõ sở trưởng, sở
đoản của các tướng sĩ, khen chê đúng người đúng việc.
+ Ông đánh giá cao Ngô Thì Nhậm là người “túc trí đa mưu”
C) Là người có tầm nhìn xa trông rộng:
- Vừa mới khởi binh nhưng Quang Trung đã nói chắc như đinh đóng cột “phương lược tiến
đánh đã có tính sẵn”, đã biết thắng giặc trong vòng 10 ngày, đã khao binh trước và hẹn
mùng 7 ăn tết ở Thăng Long.
- Chưa thắng giặc nhưng Quang Trung đã nghĩ đến quyết sách ngoại giao và kế hoạch hòa
bình trong 10 năm tới.
D) Là vị tướng có tài thao lược hơn người.
Cuộc hành quân thần tốc do Quang Trung chỉ huy đến nay vẫn làm chúng ta hết sức kinh
ngạc.Đội quân của Quang Trung từ Phú Xuân ra Thăng Long vừa hành quân vừa đánh giặc
theo kế hoạch là từ ngày 25 tháng Chạp đến mùng 7 Tết nhưng mùng 5 Tết đã thắng giòn
giã.Đội quân hành quân đường xa phải đi liên tục, thế giặc rất mạnh nhưng đội ngũ vẫn
chỉnh tề.Như vậy người cầm quân quả là người có tài tổ chức tuyệt vời.
E) Là vị vua lẫm liệt trong chiến trận:
- Quang Trung thân chinh cầm quân không phải trên danh nghĩa nhà vua mà là tổng chỉ
huy chiến dịch thực sự. Hình ảnh người anh hùng áo vải được khắc họa rất oai phong,
lẫm liệt “khói tỏa mù trời cách gang tấc không trông thấy gì” nổi bật hình ảnh nhà vua
“cưỡi voi đi đốc thúc với tấm áo bào màu đỏ đã sạm đen khói súng.
 Hình ảnh Quang Trung hiện lên thật oai phong, lẫm liệt và tính cách quả cảm, mạnh mẽ,
trí tuệ sáng suốt, nhạy bén, tài dùng binh như thần, là người tổ chức và là linh hồn của
chiến công vĩ đại. Hình ảnh được xây dựng chân thực, sinh động, được khắc họa đậm nét.
TRUYỆN KIỀU
- Nguyễn Du -
BT1: Viết bài văn giới thiệu về tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiều.
Nguyễn Du là một đại thi hào dân tộc, là danh nhân văn hóa thế giới.
“Truyện Kiều” là kiệt tác của Nguyễn Du, là kiệt tác của văn học Việt Nam và được dịch ra
nhiều thức tiếng trên thế giới.
Thân bài:
Nguyễn Du (1765 – 1820) tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điền,
huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc có truyền
thống văn học và nhiều đời làm quan. Cuộc đời ông gắn với một thời đại có nhiều biến động
dữ dội: Giai cấp phong kiến Việt Nam bước vào thời kì khủng hoảng trầm trọng, đời sống
nhân dân vô cùng cực khổ, phong trào nhân dân khởi nghĩa nổi ra liên tục mà đỉnh cao là
cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Trong hoàn cảnh ấy, Nguyễn Du đã sống phiêu bạt nhiều năm trên
đất Bắc (1786 – 1796) rồi về sống ở ẩn tại quê nội Hà Tĩnh (1796 – 1802). Sau khi Nguyễn
Ánh lên ngôi, Nguyễn Du ra làm quan bất đắc dĩ với triều Nguyễn. Năm 1813 – 1814, ông
được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc. Năm 1820, khi chuẩn bị làm chánh sứ sang Trung
Quốc lần thứ 2 nhưng chưa kịp đi thì ông bị bệnh và mất tại Huế. Nguyễn Du là người có
kiến thức sâu rộng, am hiểu văn hóa dân tộc và văn chương Trung Quốc. Cuộc đời từng trải,
đi nhiều, tiếp xúc nhiều đã tạo cho ông một vốn sống phong phú và niềm cảm thông sâu sắc
với những nỗi đau khổ của nhân dân. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du gồm những tác
phẩm có giá trị lớn bằng chữ Hán và chữ Nôm. Về chữ Hán, Nguyễn Du có 3 tập thơ:
“Thanh Hiên thi tập”, “Nam Trung tạp ngâm”, “Bắc hành tạp lục” với tổng số 243 bài. Về
chứ Nôm, xuất sắc nhât là “Đoạn trường tân thanh” thường gọi là “Truyện Kiều”, ngoài ra
còn có “Văn chiêu hồn”. Năm 1965, ông được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa
thế giới.
“Truyện Kiều” tên gọi ban đầu là “Đoạn trường tân thanh” (Tiếng kêu mới về nỗi đau đứt
ruột). Dung lượng: 3254 câu thơ lục bát. Nguồn gốc “Truyện Kiều” được sáng tác dựa trên
cốt truyện “Kim Vân Kiều Truyện” tiểu thuyết chương hồi của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung
Quốc) nhưng Nguyễn Du đã đem lại cho truyện Kiều những sáng tạo mới mẻ cả về nội dung
và nghệ thuật. Thể loại: truyện Nôm.
Tác phẩm gồm 3254 câu thơ lục bát chia làm 3 phần: Phần 1: Gặp gỡ và đính ước, phần 2:
Gia biến và lưu lạc, phần 3: Đoàn tụ.
Giá trị nội dung: đề cao những giá trị nhân bản của con người, thể hiện khát vọng về tình
yêu thương đến đứt ruột cho thân phận con người, đặc biệt là người phụ nữ tài sắc trong xã
hội phong kiến, là bản cáo chạm đanh thép tội ác của các thế lực đen tối trong xã hội cũ.
Giá trị nghệ thuật: nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật tự sự mới mẻ, ngôn ngữ trong
sáng, điêu luyện, giàu sức gợi cảm, ẩn dụ, điển cố, giọng điệu thương cảm rất phù hợp với
chủ nghĩa nhân đạo thống thiết của Nguyễn Du.
Tóm lại, Nguyễn Du là một thiên tài văn học, một nhân đạo chủ nghĩa lớn, một bậc thầy về
nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ Tiếng Việt. “Truyện Kiều” của Nguyễn Du được mệnh danh là
kiệt tác của muôn đời.
BT2: Tác phẩm này có những nhan đề nào? Ý nghĩa của nhan đề đó? Cho biết một tác
phẩm trong Ngữ Văn 9 cùng thế loại với tác phẩm này.
 Nhan đề: “Đoạn trường tân thanh”. “Truyện Kiều”
 Ý nghĩa nhan đề:
- Nguyễn Du đặt tên cho tác phẩm thơ Nôm của mình bằng chữ Hán là “Đoạn trường tân
thanh” trong xu thế chung của sáng tác búc bấy giờ khi mượn truyện cũ để viết tác phẩm
mới, được hiểu là “Tiêng kêu mới về nỗi đau đứt ruột”, nhan đề này đã định lý chủ đề của
một truyện.
- Khi được lưu truyền, nhân dân gọi là “Truyện Kiều” nôm na dễ nhớ, dễ hiểu. Lấy tên
nhân vật chính (nàng Thúy Kiều) đặt tên cho tác phẩm, cách đặt tên thường thấy trong truyện
Nôm mách bảo. Tác phẩm tự sự này xoay quanh cuộc đời nhân vật chính là nàng Kiều,
người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại bị những thế lực hắc ám vùi dập đọa đầy.
 Tác phẩm cùng thể loại: “Truyện Lục Vân Tiên”

CHỊ EM THÚY KIỀU

- (Trích Truyện Kiều) – Nguyễn Du -

1 Vị trí đoạn trích

- Thuộc phần 1 của Truyện Kiều “gặp gỡ và đính ước”.


- Bắt đầu từ câu 15 – 30
BT1 Viết đoạn văn quy nạp (8 - 10 câu) có sử dụng câu phủ định, câu mở rộng thành
phần (gạch chân, chú thích) làm rõ chân dung Thúy Vân qua đoạn trích “Chị em Thúy
Kiều” của Nguyễn Du.
(1) Trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, tác giả Nguyễn Du có viết: “Vân xem trang
trọng khác vời”. (2) Vân mang một vẻ đẹp đoan trang, quý phái ít ai sánh kịp. (3) Vân có
khuôn mặt tròn đầy đặn như vầng trăng, lông mày cong đậm như con ngài. (4) Miệng cười
tươi như hoa, giọng nói trong trẻo như ngọc, tóc của nàng bồng bềnh hơn cả mây, làn da
trắng mịn hơn cả tuyết. (5) Vẻ đẹp của Thúy Vân được sánh với những gì tinh túy nhất của
đất trời: mây, trăng, hoa, tuyết, ngọc. (6) Vân mang một vẻ đẹp đoan trang phù hợp với
chuẩn mực xã hội, vẻ đẹp của Thúy Vân được thiên nhiên thán phục “Mây thua nước tóc,
tuyết nhường màu da” dự báo về số phận sẽ suôn sẻ, hạnh phúc sau này. (7) Chao ôi, chân
dung Thúy Vân mới đẹp làm sao! (8) Chẳng phải tác giả là người có trái tim tràn đầy tình
yêu thương mới viết được những câu thơ hay đến như vậy. (9) Tóm lại, bằng nghệ thuật đặc
sắc, thể thơ lục bát, giọng thơ đầy tự hào, ngôn ngữ thơ giàu giá trị biểu cảm, hình ảnh thơ
mang tính biểu tượng cao, biện pháp tu từ ẩn dụ, nhân hóa, ước lệ tượng trưng, cách tả tỉ mỉ,
Nguyễn Du đã khắc họa rõ nét chân dung Thúy Vân qua 4 câu thơ tiếp qua đoạn trích “Chị
em Thúy Kiều” khiến em rất xúc động.

BT2: Viết đoạn văn T-P-H (10 – 12 câu) có sử dụng câu nghi vấn, phép nối (gạch chân,
chú thích) làm rõ chân dung Thúy Kiều qua đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” của
Nguyễn Du.

(1) Chân dung Thúy Kiều được tác giả Nguyễn Du khắc họa rõ nét qua 12 câu thơ tiếp
trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”. (2) Trong đoạn trích, tác giả có viết “Kiều càng sắc
sảo mặn mà”. (3) Kiều mang vẻ đẹp sắc sảo, mặn mà đầy chất trí tuệ mà cũng đằm thắm đầy
chất nữ tính, vẻ đẹp của Kiều vượt trội hơn hẳn Thúy Vân cả về tài lẫn sắc, nghệ thuật so
sánh kết hợp với lối nói đòn bẩy được Nguyễn Du sử dụng một cách sáng tạo, nếu Vân là
một giai nhân thì Kiều là một tuyệt thế giai nhân, “làn thu thủy, nét xuân sơn” miêu tả vẻ đẹp
của Kiều, Nguyễn Du đặt tả vẻ của đôi mắt, bằng biện pháp tả thiên về gợi cho thấy cô có
đôi mắt trong, xanh, sâu thăm thẳm như làn nước mùa thu, lông mày tràn đầy sức sống như
núi mùa xuân. (4) Vẻ đẹp của Kiều khiến thiên nhiên phải ghen hờn, đố kỵ, dự đoán về một
số phận đầy bất hạnh sau này, điển tích “nghiêng nước nghiêng thành” được vận dụng một
cách sáng tạo tài tình, sắc đẹp của Kiều khiến cho mất nước, xiêu thành.
(5) Xét về sắc, Kiều đứng ở vị trí số một, xét về tài họa may có người đứng thứ hai: “Thông
minh vố sẵn tính trời/ Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm/ Cung thương lau bậc ngũ âm/ Nghề
riêng ăn đứt hồ cầm một trương/ Khúc nhà tay lựa nên chương/ Một thiên bạc mệnh lại càng
não nhân”. (6) Kiều mang một trí tuệ trời ban, cô giỏi cả cầm, kì, thi, họa, tài nào cũng lên
đến độ tuyệt đỉnh, đặc biệt là tài đánh đàn, những từ “làu bậc, nghề riêng, ăn đứt” đã khẳng
định vị trí số một của cô. (7) Kiều có thể thuộc làu từng nốt nhạc trong giai điệu cổ, đàn với
cô trở thành nghề riêng không ai sánh bằng. (8) Bên cạnh tài đàn, Kiều còn có khả năng sáng
tác bản nhạc cung đàn “Bạc mệnh” ra đời làm tất cả tài năng, tâm hồn tinh tế của cô, nó cũng
như một định mệnh nghiệt ngã, dai dẳng, đeo bám suốt cuộc đời Kiều. (9) Chao ôi, tác giả
mới tinh thế làm sao! (10) Chắc hẳn ông phải là người có trái tim nhân đạo mới viết những
câu thơ hay đến như vậy. (11) Còn nghệ thuật thì sao? (12) Về nghệ thuật, tác giả sử dụng
thể thơ lục bát, giọng thơ đầy tự hào, ngôn ngữ giàu giá trị biểu cảm, hình ảnh thơ mang tính
biểu tượng cao, tác giả còn sử dụng biện pháp ước lệ tượng trưng, nghệ thuật tả thiên về gợi,
nhân hóa, ẩn dụ, đòn bẩy. (13) Tóm lại, tác giả Nguyễn Du đã miêu tả tinh tế chân dung
Thúy Kiều qua 12 câu thơ tiếp của đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” khiến em rất xúc động.

BT3: Điểm giống nhau và khác nhau giữa Thúy Kiều và Vũ Nương.

 Giống nhau:
- Thúy Kiều và Vũ Nương-nhân vật chính trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam
Xương” của Nguyễn Dữ đều tiêu biểu cho phẩm chất và số phận của người phụ nữ trong
xã hội phong kiến.
- Phẩm chất: Đáp ứng đầy đủ những chuẩn mực đạo đức và quan niệm thẩm mĩ của thời
đại: đẹp người, đẹp nết, thủy chung, nhân hậu, vị tha, coi trọng phẩm tiết, luôn khát
vọng hạnh phúc chính đáng.
- Số phận bi kịch: Là nạn nhân của những thế lực bạo tàn, bị đổi xử bất công, khổ đau,
oan khuất.
- Vũ Nương: hạnh phúc tan vỡ, tâm sức bị phụ bạc, phẩm tiết bị xúc phạm,… phải tìm
đến cái chết.
- Thúy Kiều: phải trải qua hều hết những bất hạnh của người phụ nữ: tình duyên tan vỡ,
thành món hàng, bị lừa vào lầu xanh.
 Điểm khác nhau
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều) - Nguyễn Du
1 Vị trí đoạn trích
- Thuộc phần II của Truyện Kiều: Gia biến và lưu lạc
- Từ câu 1033 – 1054
*Chú thích (trang 94)
Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn
đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở
lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
BT1: Viết đoạn văn qui nạp (10 – 12 câu) có sử dụng lời dẫn trực tiếp, phép lặp (gạch
chân, chú thích) làm rõ nỗi nhớ người thân của Thúy Kiều qua đoạn trích “Kiều ở lầu
Ngưng Bích”.
(1) Trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, tác giả Nguyễn Du có viết:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gội rửa bao giờ cho phai.”
(2) Trước hết, nàng đau đớn nhớ tới chàng Kim, điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật
tâm lý, vừa thể hiện sự tinh tế của ngòi bút Nguyễn Du. (3) Nhớ người tình là nhớ đến tình
yêu nên bao giờ Kiều cũng nhớ tới lời thề đôi lứa “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng”,
vừa mới hôm nào nàng và chàng cùng uống chén rượu thề nguyền son sắt hẹn ước trăm năm
mà nay mỗi người một ngả, mối chuyện tình ấy đã bị cắt đứt một cách đột ngột, nàng xót xa,
ân hận như một kẻ phụ tình, đau đớn và xót xa khi hình dung cảnh người yêu hướng về mình
đêm ngày đau đớn – chờ tin mà uổng công vô ích “Tin sương luống những rày trông mai
chờ”. (4) Lời thơ có nhịp thổn thức của một trái tim yêu thương nhỏ máu, câu thơ “Tấm son
gột rửa bao giờ cho phai” có thể hiểu là tấm lòng son trong trắng của Kiều đã bị vùi dập,
hoen ố biết bao giờ mới gột rửa cho được, có thể hiểu là tấm lòng thương nhớ Kim Trọng
không bao giờ nguôi quên, đối với Kim Trọng, Kiều thật sâu sắc, thủy chung, thiết tha, day
dứt (Chao ôi …)
(5) Tiếp đó, Kiều xót xa khi nhớ tới cha mẹ “Xót người tựa cửa hôm mai”. (6) Nghĩ tới song
thân, nàng thương và xót, nàng thương cha mẹ khi sáng khi chiều tựa của ngóng tin con,
trông mong sự đỡ đần, nàng xót xa lúc cha mẹ tuổi già sức yếu mà nàng không được gần gũi,
chăm sóc, báo hiếu cho cha mẹ. (7) Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh”, điển cố “gốc tử đã vừa
người ôm”, cụm từ “biết mấy nắng mưa” nói lên tâm trạng nhớ thương và tấm lòng hiếu thảo
của Kiều dành cho cha mẹ đang ngày càng già nua, đau yếu, lần nào nhớ về cha mẹ, Kiều
cũng nhớ tới chín chữ cao sâu và luôn đau xót mình đã bất hiếu không thể chăm sóc được
cho cha mẹ. (8) Qua đó ta thấy được tấm lòng Kiều hướng về quê hương xứ sở cùng những
người thân yêu nhất của mình. (9) Chao ôi, Nguyễn Du mới tinh tế làm sao! (10) Chắc hẳn
Nguyễn Du phải là người có trái tim tràn đầy tình yêu thương mới viết được những câu thơ
hay đến như vậy. (11) Tóm lại, bằng nghệ thuật đặc sắc, thể thơ lục bát, ngôn ngữ thơ giàu
giá trị biểu cảm, hình ảnh thơ mang tính biểu tượng cao, điển tích, điển cố “sân lai, gốc tử”,
Nguyễn Du đã khắc học rõ nét nỗi nhớ người thân của Kiều qua đoạn thơ trên khiến em rất
xúc động.
BT3: Viết đoạn văn T-P-H (8 – 10 câu) có sử dụng lời dẫn trực tiếp, câu ghép nguyên
nhân (gạch chân, chú thích) làm rõ 8 câu thơ cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”
của Nguyễn Du.
(1) Tám câu thơ cuối trong văn bản “Kiều ở lầu Ngưng Bích” của Nguyễn Du đã diễn tả sinh
động tâm trạng của Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. (2) Trong đoạn trích, tác giả có
viết:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”
(3) Đoạn thơ là một minh chứng cho nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của ngòi bút thiên tài
Nguyễn Du, mỗi cảnh vật trước lầu Ngưng Bích gợi cho Kiều một nỗi buồn khác nhau, từ
cảnh mà Kiều nghĩ đến thân phận mình. (4) Ngắm “cảnh buồm thấp thoáng” ẩn hiện ngoài
khơi xa, Kiều tự hỏi “Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?”, nỗi buồn xa quê trào dâng,
Kiều hiểu ngày trở về của mình là vô vọng, ngắm dòng nước với “cánh hóa trôi” Kiều tự hỏi
“Hoa trôi man mác biết là về đâu?” buồn cho thân phận chìm nổi, lênh đênh của mình không
biết tương lai rồi sẽ ra sao. (5) “Nội cỏ rầu rầu” là cảm nhận bằng một tâm trạng buồn bởi
cuộc sống héo hắt bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích của nàng, tiếng sóng biển từ xa vọng vào
ầm ầm vây quanh lầu Ngưng Bích là sự bàng hoàng, lo sợ, dự cảm buồn về những bất trắc
của cuộc đời đang đến vùi dập, xô đẩy cuộc đời Kiều. (6) Điệp ngữ “buồn trông” đứng đầu 4
câu thơ diễn tả nỗi buồn dằng dặc triền miên như những lớp sóng trào đang dồn dập tới tấp
xô đến cuộc đời Kiều, cảnh lầu Ngưng Bích được cảm nhận bằng tâm trạng Kiều nên người
buồn, cảnh cũng buồn, đoạn thơ như dự báo về chuỗi ngày đau thương đang chờ đợi Kiều ở
phía trước. (7) Chao ôi, tâm trạng Kiều mới buồn làm sao! (8) Chắc hẳn ông phải là người có
tâm hồn nhạy cảm mới viết được những câu thơ hay đến như vậy. (9) Về nghệ thuật, vì tác
giả sử dụng thể thơ lục bát, giọng thơ đầy tự hào, ngôn ngữ thơ giàu giá trị biểu cảm, hình
ảnh thơ mang tính biểu tượng cao, tác giả còn sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ, điệp ngữ, tăng
tiến, ngôn ngữ độc thoại nội tâm nên tác phẩm rất hay. (10) Tóm lại, Nguyễn Du đã khắc họa
rõ nét tâm trạng của Kiều qua đoạn thơ trên khiến em rất xúc động.
ĐỒNG CHÍ
-Chính Hữu-
1 – Tác giả
 Chính Hữu (1926-2007), tên khai sinh là Trần Đình Đắc, quê ở huyện Can Lộc, tỉnh
Hà Tĩnh.
 Năm 1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ đô và hoạt động trong suốt hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mĩ. Chính Hữu làm thơ từ năm 1947 và hầu như chỉ viết
về người lính và chiến tranh.
 Tập thơ đầu súng Đầu súng trăng treo (1966) là tác phẩm chính của ông. Thơ ông
không nhiều nhưng có những bài đặc sắc, cảm súc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh thơ
được chọn lọc, hàm súc. Năm 2000 Chính Hữu được Nhà nước trao tặng Giải thưởng
Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
2- Tác phẩm
 Bài thơ “Đồng chí” được sáng tác vào đầu năm 1948, sau khi tác giả cùng đồng đội tham
gia chiến chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947) đánh tan cuộc tổng tiến
công quy mô lớp của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc. Bài thơ “Đồng chí” là một trong
những tác phẩm tiêu biểu nhất viết về người lính cách mạng của văn học thời kháng chiến
chống Pháp (1946-1954). In trong tập “Đầu súng trăng treo”(1966)
3 Chú thích 1 (sgk- trang 129)
 Đồng chí: người có cùng chí hướng, lí tưởng. Người cùng ở trong đoàn thể chính trị
hay một tổ chức cách mạng thường gọi nhau là “đồng chí”. Từ sau Cách mạng tháng
Tám năm 1945, “đồng chí” thành từ xưng hô quen thuộc trong các cơ quan, đoàn thể,
đơn vị bộ đội.
BT1: Viết đoạn văn diễn dịch có sử dụng thành phần cảm thán, phép lặp (gạch
chân, chú thích), làm rõ khổ đầu bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu.
(1) Cơ sở hình thành tình đồng chí được tác giả Chính Hữu khắc họa rõ nét qua 7 câu thơ
đầu bài “Đồng chí”. (2) Trong bài thơ, tác giả có viết:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá. ”
(3) Hai câu thơ như một cuộc trò chuyện giữa hai người lính trong giây phút nghỉ ngơi. (4)
Thành ngữ “nước mặn, đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá” được Chính Hữu vận dụng tài tình
hóa ra họ đều xuất thân từ nông dân, đến từ những vùng quê nghèo khó khăn, lan lũ, đại từ
xưng hô “anh-tôi” dã diễn tả tình cảm gắn bó, thân thiết giữa họ. (5) Không chỉ đồng cảnh
ngộ mà học còn cùng chung 1 lí tưởng sống cao đẹp “Anh với tôi đôi người xa lạ/ Tự
phương trời chả hẹn ngày quen nhau/ Súng bên súng, đầu sát bên đầu” đôi là hai, diễn tả
tình đồng chí gắn bó khăng khít đến độ không tách rời, kết hợp với hình ảnh ẩn dụ “Súng
bên súng”, hoán dụ “đầu sát bên đầu” cho thấy những con người xa lạ từ khắp phương trời
tụ họp về đây, cùng đấu tranh giành lại độc lập tự do cho đất nước. (6) Không những vậy,
họ còn chung một hoàn cảnh sống rất khó khăn “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”, “tri
kỉ” là hiểu bạn như hiểu mình. (7) Tình đồng chí được hình thành là cả một quá trình lâu
dài, từ những con người xa lạ, họ quen nhau thành tri kỷ và cuối cùng là đồng chí. (8) Câu
thơ cuối kết thúc khổ thơ vừa là câu cảm thán vừa là câu đặc biệt vì chỉ có hai tiếng, kết
thúc bằng dấu chấm than, nốt tạo một nốt trầm, nó vang lên như một sự phát triển, một lời
khẳng định thể hiện cảm xúc dồn nén được thốt ra như một lời cao trào của cảm xúc, trở
thành tiếng gọi thiết tha của tình đồng chí, đồng đội. (9) “Đồng chí” – người có chung trí
hướng, lý tưởng, người cùng ở trong một đoàn thể chính trị hay một tổ chức cách mạng
thường gọi nhau là “đồng chí”, từ sau cách mạng tháng tám năm 1945, “đồng chí” thành từ
xưng hộ quen thuộc trong các cơ quan, đoàn thể, đơn vị bộ đội, câu thơ như một bản lề kết
thúc “cơ sở hình thành tình đồng chí” mở ra “biểu hiện của tình đồng chí”. (10) Chao ôi,
tác giả mới tinh tế làm sao! (11) Chắc hẳn Chính Hữu phải có tâm hồn nhạy cảm với viết
được những câu thơ hay đến như vậy. (12) Về nghệ thuật, Chính Hữu sử dụng thể thơ tự
do, giọng thơ bình dị, ngô ngữ thơ mộc mạc như lời ăn tiếng nói ăn ngày, hình ảnh thơ
chân thực, ông còn sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ “súng bên súng”, hoán dụ “đầu sát bên
đầu”, điệp ngữ
 Chú thích : - phép lặp
= thành phần cảm thán
BT2: Viết đoạn văn quy nạp (10-12 câu) có sử dụng thành phần phụ chú, phép thế
(gạch chân chú thích) làm rõ biểu hiện của tình đồng chí trong bài thơ “Đồng chí” của
Chính Hữu
(1) Trong bài thơ “Đồng chí” tác giả Chính Hữu có viết:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
(2) Sự thấu hiểu tâm tư sâu kín nhất của long nhau được Chính Hữu miêu tả tinh tế qua ba
câu mở đầu phần 2 “Biểu hiện của tình đồng chí” (3) Ba câu thơ là lời của người người bạn
nhưng được thể hiện qua lời nói của nhân vật “tôi”, nó chứng tỏ người lính thấu hiểu những
tâm tư sâu kín nhất của bạn mình khi xa quê, người lính nhớ ruộng, gian nhà, giếng nước gốc
đa đây là hình ảnh thân thuộc của làng quê hiện lên nỗi qua nỗi nhớ của người lính (4) “Mặc
kệ” là không quan tâm không để ý nó thể hiện tình yêu thương mãnh liệt vì đất nước người
lính sẵn sàng từ bỏ những gì thân thuộc nhất nhưng sâu thẳm trong tâm trí của người lính
hình ảnh quê hương vẫn luôn được in đậm, biện pháp hoán dụ, kết hợp lối nói nhân hoá,
giếng nước gốc đa cho thấy có 2 nỗi nhớ ở hai đầu tổ quốc đang hướng về nhau người lính
vượt không gian để nhớ về quê hương và quê hương vượt không gian để nhớ về người lính
(5) Người lính cùng nhau chia sẻ mọi khó khăn trong cuộc sống “Anh với tôi biết từng cơn
ớn lạnh / Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi” từng biểu hiện của căn bệnh sốt rét ác tính
được miêu tả chi tiết chân thức chính xác “ớn lạnh, sốt run,vừng trán ướt mồ hôi” (6) Nhờ
biện pháp tả thực câu thơ trở nên chân thực hơn và có khả năng rung động lòng người không
phải chỉ chịu đựng căn bệnh sốt rét ác tính mà họ còn phải chịu đựng sự thiếu thốn vật chất
“Áo anh rách vai / Quần tôi có vài mảnh vá / Chân không giày” (7) Đoạn thơ cấu tạo bằng
cặp câu sánh đôi đã diễn tả tình đồng chí gắn bó keo sơn, biện pháp liệt kê kết hợp bút pháp
tả thực dã diễn tả cuộc sống khó khăn thiếu thốn nơi chiến trường đây là thực tế của cách
mạng Việt Nam sau năm 1946 trong hoàn cảnh ấy người lính có 1 hành động cao đẹp
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” câu thơ cấu tạo bằng cấu trúc nguyên nhân – kết quả đây
không phải là cái nắm tay thông thường mà đây là 1 biểu hiện của tình đồng chí (8) Vì
thương nhau nên họ nắm lấy bàn tay để truyền hơi ấm cho sức mạnh để động viên an ủi
khích lệ nhau vượt qua khó khăn (9) Chao ôi, Chính Hữu mới tinh tế làm sao! (10) Chắc hẳn,
ông phải là người có trái tim tràn đầy tình yêu thương mới viết được những câu thơ hay đến
như vậy (11) Về nghệ thuật, tác giả sử dụng thể thơ tự do, giọng thơ bình dị, ngôn ngữ thơ
mộc mạc giống như lời ăn, tiếng nói hằng ngày, hình ảnh thơ chân thực, tác giả còn sử dụng
biện pháp tu từ hoán dụ kết hợp nhân hoá (12) Tóm lại biểu hiện của tình đồng chí đã được
tác giả Chính Hữu (1926-2007) khắc hoạ rõ nét qua đoạn thơ trên khiến em rất xúc động.
 Chú thích: - phép thế
= thành phần phụ chú
BT3: Viết đoạn văn T-P-H (10-12 câu) có sử dụng thành phần tình thái, phép liên kết
(gạch chân, chú thích) là rõ 3 khổ thơ cuối bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu.
(1) Bức tranh đẹp về tình đồng chí được tác giả Chính Hữu khắc họa rõ nét qua 3 khổ cuối
bài “đồng chí”. (2) Trong bài thơ, tác giả có viết:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo."
(3) Ba câu thơ vẽ ra một đêm đứng gác của người lính, không gian “rừng hoang sương
muối”. (4) Nó cho ta thấy những khó khăn khốc liệt của chiến tranh. (5) Nổi bật trên phông
nền ấy là những hình ảnh cao lớn của người lính: “Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới/ Đầu
súng trăng treo”. (6) Có ý kiến cho rằng câu “Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới” bị thừa từ
nhưng đây là dụng ý của tác giả, họ đứng cạnh bên nhau không chỉ về khoảng cách địa lý mà
còn hòa hợp với nhau cả về tâm hồn, động từ “chờ” cho thấy họ đứng trong tư thế chủ động
sẵn sàng chiến đấu “chờ giặc tới”. (7) Đây là sự phát triển của cách mạng Việt Nam. (8) Hay
nhất trong bài thơ phải kể đến câu thơ cuối “Đầu súng trăng treo”, câu thơ mang hai lớp
nghĩa tả thực và lớp nghĩa biểu tượng, đêm đã về khuya trăng xà xuống thấy tưởng như đang
treo trên đầu ngọn súng, súng biểu tượng cho chiến tranh, trăng biểu tượng cho hòa bình, vì
hòa bình người lính sẵn sàng cầm súng lên để chiến đấu, trong thực cảnh đó họ vẫn lạc quan
yêu đời tin vào một ngày mai tươi sáng. (9) Chao ôi, bức tranh đẹp về tình đồng chí mới đẹp
làm sao! (10) Chắc hẳn ông là người có tâm hồn nhạy cảm với viết được câu thơ hay đến
như vậy. (11) Về nghệ thuật, tác giả sử dụng thể thơ tự do, giọng thơ bình dị, ngôn ngữ thơ
mộc mạc như lời ăn, tiếng nói ăn hàng ngày, hình ảnh thơ chân thực, ông còn sử dụng biện
pháp tu từ ẩn dụ “Đầu súng trăng treo”. (12) Tóm lại, Chính Hữu đã miêu tả tinh tế bức tranh
dẹp về tình đồng chí qua đoạn thơ trên, khiến em rất xúc động
 Chú thích: - thành phần tình thái
= phép liên kết (phép nối)
BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH
-Phạm Tiến Duật-
1 Tác giả
 Phạm Tiến Duật (1941 - 2007), quê ở tỉnh Phú Thọ.
 Năm 1964, sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Sự phạm Hà Nội, ông gia nhập quân
đội, hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn. Là nhà thơ tiêu biểu của thế hệ trẻ Việt
Nam thời chống Mĩ (cùng thời với nhà thơ Xuân Quỳnh, Bằng Việt)
 Thơ ông chủ yếu viết về thế hệ trẻ thời chống Mĩ là người lính lái xe, cô nữ thanh
niên. Thơ ông sôi nổi, trẻ trung, mang đậm chất lính.Năm 2012, ông được nhà nước
trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
2 Hoàn cảnh sáng tác
 Bài thơ sáng tác năm 1969, khi nhà thơ trực tiếp tham gia và chứng kiến cuộc kháng
chống Mĩ diễn ra vô cùng ác liệt. Bài thơ nằm trong chùm thơ đạt giải nhất trong cuộc
thi do báo Văn nghệ tổ chức. Được đưa vào tập thơ “Vầng trăng quầng lửa”.
3 Ý nghĩa nhan đề
 Đây là một nhan hay giàu ý nghĩa. Nhan đề dài tưởng như có chỗ thừa nhưng thu hút
được người đọc ở cái vẻ lạ, độc đáo của nó.
 Làm nổi bật lên hình ảnh toàn bài: “những chiếc xe không kính”. Hai chữ “bài thơ”
được thêm vào cho thấy rõ hơn cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả muốn
nói chất thơ của hiện thực khốc liệt thời chiến tranh, chất thơ của tuổi trẻ hiên ngang,
dũng cảm vượt lên sự thiếu thốn, gian khổ, nguy hiểm thời chiến.
 Nhan đề đã thẻ hiện chủ đề của tác phẩm: ca ngợi phẩm chất cao đẹp của người lính,
đặc biệt là sự kiên cường, dũng cảm.
BT1: Viết đoạn văn diễn dịch (10-12 câu) có sử dụng thành phần phụ chú, lời dẫn trực
tiếp (gạch chân chú thích), làm rõ hình ảnh những chiếc xe không kính trong “Bài thơ
về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.
(1) Hình ảnh những chiếc xe không kính được Phạm Tiến Duật khắc họa rõ nét qua “Bài
thơ về tiểu đổi xe không kính” (sáng tác năm 1969). (2) Đây là hình ảnh méo mó chưa bao
giờ xuất hiện trong văn học. (3) Xưa nay hình ảnh tàu xe vào thơ thường được mĩ lệ hóa,
lãng mạn hóa nhưng Phạm Tiến Duật đưa một hình thực đến trần trụi, đó là những chiếc xe
không kính. (4) Nó đã tạo nên sự hấp dẫn cho thơ của Phạm Tiến Duật:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”

(5) Hai câu thơ như một lời tranh cãi thường ngày với giọng điệu ngang tàn, ngạo nghễ, xe
không có kính không phải vì xe không có kính mà là lý do khác. (6) Biện pháp điệp từ
“bom” kết hợp với nghệ thuật liệt kê, động từ mạnh “giật, rung” càng thể hiện sự khốc liệt
của nơi đây, như một phép lạ xe vẫn chạy băng băng về phía trước với một sức mạnh không
thể ngăn cản được “Không có kính rồi xe không đèn/Không có mui xe, thùng xe có xước”.
(7) Biện pháp liệt kê “không có kính, không có đèn/ không có mui, thùng xe có xước” kết
hợp với lối tăng tiến và điệp ngữ “không có” giúp ta hiểu càng tiến sâu vào miền Nam, chiến
tranh càng trở lên khốc liệt hơn. (8) Xe trở lên biến dạng. (9) Điều đó càng ca ngợi phẩm
chất cao đẹp của người chiến sĩ, đặc biệt là sự kiên cường dũng cảm. (10) Chao ôi, tác giả
mới tinh tế làm sao! (11) Chắc hẳn ông phải là người có trái tim tràn đầy tình yêu thương thì
mới viết được những câu thơ hay đến như vậy. (12) Về nghệ thuật, tác giả sử dụng thể thơ tự
do, giọng thơ ngang tàn, ngạo nghễ, đầy chất lính tráng, hình ảnh thơ méo mó, biến dạng,
ngôn ngữ thơ giàu giá trị biểu cảm, tác giả còn sử dụng biện pháp điệp từ, liệt kê.
 Chú thích: - thành phần phụ chú
= lời dẫn trực tiếp

BT2: Viết đoạn văn quy nạp (6-8 câu) có sử dụng thành phần biệt lập, câu phủ định
(gạch chân, chú thích), làm rõ khổ 2 “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm
Tiến Duật
(1) Trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” nhà thơ Phạm Tiến Duật có viết:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chảy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột cánh chim
Như sa ùa vào buồng lái.”
(2) Biện pháp đảo ngữ đưa từ láy “ung dung” lên đầu câu kết hợp với dại từ “ta”, “Ung dung
buồng lái ta ngồi” giúp ta hiểu hơn về phong thái ung dung lạc quan của người chiến sĩ. (3)
Tầm nhìn của anh không chỉ là chiếc xe mà là cả thế giới bao la rộng lớn, hóa ra xe không
kính không phải là khó khăn mà là cơ hội để anh có thể “Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” với
nhịp thơ 2/2/2, điệp “ngữ nhìn” kết hợp với nghệ thuật liệt kê cho thấy anh hoàn toàn hòa
hợp với thế giới vô cùng, vô tận của thiên nhiên để tận hưởng cảm giác mạnh. (4) Sao trời,
cánh chim như ùa vào buồng lái để sống cùng với anh, điệp ngữ “nhìn thấy”, ẩn dụ chuyển
đổi cảm giác “gió vào xoa mắt đắng”, so sánh “Như sa như ùa vào buồng lái” đã diễn tả sự
cảm nhận thế giới bên ngoài một cách chân thực, sinh động của người lính đem lại, đặc biệt
là hình ảnh “con đường chạy thẳng vào tim” gợi tốc độ lao nhanh của những chiếc xe cho
thấy sự khẩn trương của người lính đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, nó là hình ảnh
ẩn dụ về con đường chiến đấu vì miền Nam độc lập. (5) Chao ôi, tác giả mới tinh tế làm sao!
(6) Chẳng phải ông phải là người có trái tim tràn đầy tình yêu thương thì mới viết được
những câu thơ hay đến như vậy. (12) Tóm lại, bằng nghệ thuật đặc sắc, thể thơ tự do, giọng
thơ ngang tàn, ngạo nghễ, đầy chất lính tráng, hình ảnh thơ méo mó, biến dạng, ngôn ngữ
thơ giàu giá trị biểu cảm, biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, liệt kê,đảo
ngữ, tác giả Phạm Tiến Duật (1941-2007) đã miêu tả tinh tế phong thái ung dung tự tại, bằng
khó khăn thành niềm vui, có cơ hội hưởng thụ của người qua đoạn thơ trên, khiến em rất xúc
động.
 Chú thích: - câu phủ định
= thành phần biệt lập (thành phần phụ chú)
BT3: Viết đoạn văn T-P-H (8-10 câu) có sử dụng câu ghép chính phụ, câu nghi vấn
(gạch chân, chú thích), là rõ khổ 3 “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến
Duật
(1) Sự kiên cường dũng cảm coi thường khó khắn gian khổ của người lính lái xe được
Phạm Tiến Duật miêu tả tinh tế qua khổ 3 “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. (2) Trong bài
thơ, tác giả có viết:
“Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phụn tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”

(3) Động từ mạnh “phun” được tác giả miêu ta tinh tế. (4) Nó diễn tả sự khó khăn, gian khổ
của nơi đây, thiên nhiên Trường Sơn thật dữ dội. (5) Bụi ở đây không thổi, không bay mà
phun, chẳn mấy chốc những chàng sinh viên mới tốt nghiệp đã trở thành người già với mái
tóc bạc trắng, vậy mà anh vẫn “ Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc/ Nhìn nhau mặt lấm
cười ha ha”, điệp cấu trúc “không có … ừ thì”, “chưa cần” kết hợp với từ láy “phì phèo”
không chỉ miêu tả hành động hút thuốc mà còn cho ta thấy một sự ngang tàn, ngạo nghễ, coi
thường khó khăn của người lính. (6) Nụ cười “ha ha” vang động núi rừng khiến ta nhớ đến
nụ cười của người lính trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu “Miệng cười buốt giá”, nụ
cười trong bài thơ “Đồng chí” méo mó, biến dạng thì nụ cười của người lính lái xe mới sảng
khoái, mãn nguyện làm sao, đây là một sự phát triển của cách Mạng Việt Nam. (7) Chao ôi,
tác giả mới tinh tế làm sao! (8) Chắc hẳn ông là người có một trái tim tràn đầy tình yêu
thương thì mới viết được những câu thơ hay đến như vậy. (9) Còn nghệ thuật thì sao? (10)
Về nghệ thuật, tác giả sử dụng thể thơ tự do, giọng thơ ngang tàn, ngạo nghễ, đầy chất lính
tráng, hình ảnh thơ méo mó, biến dạng, ngôn ngữ thơ giàu giá trị biểu cảm, biện pháp tu từ
so sánh, từ láy nên tác phẩm rất hay. (11) Tóm lại, Phạm Tiến Duật đã khắc họa rõ nét sự
kiên cường, dũng cảm, coi thường khó khăn, gian khổ của người lính lái xe qua đoạn thơ
trên, khiến em rất xúc động.
 Chú thích : - câu ghép chính phụ
= câu nghi vấn
BT4: Viết đoạn văn diễn dịch (5-8 câu) có sử dụng câu hỏi tu từ, lời dẫn trực tiếp
(gạch chân, chú thích), làm rõ khổ 4 “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm
Tiến Duật.
(1) Sự kiên cường dũng cảm coi thường khó khăn gian khổ của người lính lái xe được
Phạm Tiến Duật miêu tả tinh tế qua khổ 4 “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. (2) Trong bài
thơ, tác giả có viết:
“Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.”
(3) Khó khăn nối tiếp khó khăn người lính không chỉ phải đương đầu với “bụi phun tóc
trắng” mà anh còn phải đương đầu với “mua tuôn, mưa xối”. (4) Xe không kính làm áo
người lính ướt hết nhưng anh chưa cần thay vẫn tiếp tục lái trăm cây số nữa, với anh chỉ cần
mưa ngừng gió lùa vào chiếc áo sẽ tự khô, điệp từ “chưa cần” được lặp đi, lặp lại nhiều lần
càng nhấn mạng hơn sự kiên cường dũng cảm của người lính. (5) Với họ khó khăn chỉ là
chuyện nhỏ không đáng để họ lưu tâm. (6) Chao ôi, tác giả mới tinh tế làm sao! (7) Phải
chăng ông phải là người có trái tim tràn đầy tình yêu thương thì mới viết được những câu thơ
hay đến như vậy? (8) Về nghệ thuật, tác giả sử dụng thể thơ tự do, giọng thơ ngang tàn, ngạo
nghễ, đầy chất lính tráng, hình ảnh thơ méo mó, biến dạng, ngôn ngữ thơ giàu giá trị biểu
cảm, tác giả còn sử dụng biện pháp tu từ điệp từ “chưa cần”
 Chú thích: - lời dẫn trực tiếp
= câu hỏi tu từ
BT5: Viết đoạn văn quy nạp (4-6 câu) có sử dụng thành phần tình thái, phép lặp
(gạch chân, chú thích), làm rõ khổ 5 “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm
Tiến Duật.
(1) Trong bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, tác giả Phạm Tiến Duật có Viết:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.”
(2) Những người lính từ khắp mọi miền tổ quốc tụ họp về đây với lí tưởng sống cao đẹp, đấu
tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, một lần tình cờ gặp nhau trên tuyến đường
Trường Sơn ác liệt, không cần biết tên, không cần biết mặt, không cần biết đến từ đâu, chỉ
cần gặp nhau trên đường họ là đồng chí của nhau “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” đây không
phải là cái bắt tay xã giao thông thường mà là cái bắt tay để tiếp thêm sức mạnh cho nhau để
vượt qua khó khăn. (3) Chao ôi, tác giả mới tinh tế làm sao! (4) Chắc hẳn ông phải là người
có trái tim tràn đầy tình yêu thương thì mới viết được những câu thơ hay đến như vậy. (5) Về
nghệ thuật, Phạm Tiến Duật sử dụng thể thơ tự do, giọng thơ ngang tàn, ngạo nghễ, đầy chất
lính tráng, hình ảnh thơ méo mó, biến dạng, ngôn ngữ thơ giàu giá trị biểu cảm. (6) Tóm lại,
tình đồng chí, đồng đội keo sơn gắn bó được Phạm Tiến Duật khắc họa rõ nét qua khổ trên,
khiến em rất xúc động.
 Chú thích: - thành phần tình thái
= phép lặp
BT6: Viết đoạn văn T-P-H (6-8 câu) có sử dụng câu trần thuật đơn có từ là phép liên
kết ( gạch chân chú thích) làm rõ khổ 6 “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm
Tiến Duật
(1)Tình đồng chí đồng đội gắn bó keo sơn và sự kiên cường dũng cảm lạc quan yêu đời của
người lính lái xe được tác giả Phạm Tiến Duật khắc hoạ rõ nét qua khổ 6 “Bài thơ về tiểu đội
xe không kính”. (2)Trong bài thơ tác giả có viết:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi lại đi trời xanh thêm”
(3)Người lính không chỉ gắn bó trong chiến đấu mà còn gắn bó trong đời thường, sau phút
giây nghỉ ngơi thoáng chốc và bữa cơm hội ngộ những người lính đã xích lại thành gia đình
“Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy” cách định nghĩa thật lính thật thêm tình sâu sắc đó là
gia đình của những người lính cùng chung nhiệm vụ lí tưởng chiến đấu “Võng mắc chông
chêng đường xe chạy /Lại đi lại đi trời xanh thêm” “chông chênh” một từu láy giàu chất tạo
hình, không chỉ là vẽ về cái võng được mắc tạm bợ vào 2 gốc cây bên đường mà còn tái hiện
cuộc sống khó khăn thếu thốn đến giấc ngủ cũng chập chờn tam bợ.(4) Ấy nhưng như một
phép lạ người lính vẫn tin vào ngày mai tươi sáng “Lại đi lại đi trời xanh thêm” điệp từ lại đi
kết hợp với ẩn dụ “trời xanh thêm” đã cho thấy niềm tin của những người lính vào một ngày
mai tươi sáng xe vẫn tiến thẳng về phía trước. (5)Chao ôi! (6) Tác giả là người thật tinh tế.
(7)Chắc hẳn ông phải là người có tâm hồn nhạy cảm mới viết được những câu thơ hay đến
như vậy. (8)Tóm lại, bằng nghệ thuật đặc sắc thể thơ tự do, giọng thơ ngang tàn, ngạo nghễ,
đầy chất lính tráng, hình ảnh thơ méo mó, biến dạng, ngôn ngữ thơ giàu giá trị biểu cảm, tác
giả còn sử dụng biện pháp tu từ điệp từ “Lại đi”, ẩn dụ “trời xanh thêm” ,tác giả Phạm Tiến
Duật đã khắc hoạ rõ nét tình đồng chí thắm thiết keo sơn của những người lính lái xe qua
đoạn thơ trên khiến em rất xúc động.
 Chú thích: - lời dẫn trực tiếp
= câu trần thuật đơn có từ là
BT7: Viết đoạn văn diễn dịch (8-10 câu) có sử dụng trợ từ, câu cảm thán (gạch chân,
chú thích), làm rõ khổ 7 “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.

(1) Sự kiên cường dũng cảm của người lính lái xe được Phạm Tiến Duật khắc họa rõ nét
qua khổ 7 “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. (2) Trong bài thơ, tác giả có viết:
“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim ”

(3) Biện pháp liệt kê “không kính, không đèn” kết hợp điệp ngữ “không có” cho thấy câu thơ
đầu dồn dập những mất mát hi sinh từ không có kính, không có đèn, không có mui xe, thùng
xe có vết xước. (4) Càng tiến sau vào miền Nam chiến tranh càng trở lên khôc liệt hơn, chiếc
xe trở lên méo mó, biến dạng. (5) Ấy thế nhưng như một phép lạ chiếc xe vẫn chạy băng
băng về phía trước “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước/ Chỉ cần trong xe có một trái tim”.
(6) Lối hoán dụ “trái tim” cho thấy đó là trái tim yêu thương người cầm lái, trái tim đã trở
thành nhãn trị của bài thơ, điều đó khẳng định một định lý:
“Thiếu tất cả ta vẫn giàu khí
Sống chả cúi đầu, chết vẫn ung dung
Giặc muốn ta phải nô lệ, ta lại phải hóa anh hùng
Sức mạnh nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo”

(Tố Hữu)
(7) Chính nhưng khó khăn, gian khổ nơi chiến trường, thậm chí là cái chết cũng không là
cho người kính chùn bước, anh vẫn kiên cường, dũng cảm vượt qua tất cả với một lòng nồng
nàn yêu nước, một khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, khổ thơ đã khép lại
bài thơ với hai hình ảnh đối lập nhau, hai câu thơ đầu dồn dập những mất mát hi sinh thì hai
câu thơ cuối dựng một bức tượng đài cao đẹp của người lính lái xe. (8) Chao ôi, tác giả mới
tinh tế làm sao! (9) Chắc hẳn ông phải là người có trái tim tràn đầy tình yêu thương thì mới
viết được những câu thơ hay đến như vậy. (10) Về nghệ thuật, tác giả sử dụng thể thơ tự do,
giọng thơ ngang tàn, ngạo nghễ, đầy chất lính tráng, hình ảnh thơ méo mó, biến dạng, ngôn
ngữ thơ giàu giá trị biểu cảm, tác giả còn sử dụng biện pháp tu từ liệt kê, tăng tiến, hoán dụ
“trái tim”, đối lập tương phản
 Chú thích: - câu cảm thán
= trợ từ
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
-Huy Cận-
1 Tác giả
 Huy Cận (1919-2005) tên thật là Cù Huy Cận, quê ở Hà Tĩnh.
 Trước năm 1945, ông là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ mới với tập thơ “Lửa
thiêng”. Sau năm 1945, ông tham gia kháng chiến và giữ nhiều chức vụ trọng trách bộ
máy chính quyền.
 Thơ ông vui, thể hiện niềm tin yêu vào cuộc sống. Năm 1996, ông nhận giải thưởng
Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
2 Hoàn cảnh sáng tác
 Bài thơ sáng tác vào tháng 10 năm 1958, là kết quả của chuyến đi thực tế của tác giả
tại vùng mỏ Quảng Ninh. Khi ấy miền Bắc đang đi vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội. In trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng”
3 Mạnh cảm xúc
 Đi theo trình tự thời gian, không gian, mạch cảm cảm xúc, hành trình một chuyến ra
khơi của đoàn thuyền đánh cá
BT1: Viết đoạn văn diễn dịch (10-12 câu) có sử dụng câu ghép quan hệ bổ xung, thành
phần phụ chú (gạch chân, chú thích) làm rõ khổ 1 bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của
Huy Cận.
(1) Cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá được tác giả Huy Cận khắc họa rõ nét qua khổ 1 bài
thơ “Đoàn thuyền đánh cá” (sáng tác năm 1958). (2) Trong bài thơ, tác giả có viết:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”
(3) Nghệ thuật kết hợp nhân hóa “Mặt trời xuống biển nhưng hòn lửa” cho thấy mặt trời
giống như một quả cầu lửa đang từ từ lặn xuống đáy biển như vẫn cố hắt lên những tia sáng
rực rõ nhất. (4) Biển mang một vẻ đẹp trắc lệ, huy hoàng, nghệ thuật nhân hóa kết hợp ẩn dụ
“Sóng đã cài then, đêm sập cửa” diễn tả biển như một ngôi nhà khổng lồ. (5) Màn đêm là
cánh cửa, sóng là then cài. (6) Người dân ra khơi nhưng thực chất là trở về ngôi nhà của
chính mình. (7) Thiên nhiên đi vào trạng thái nghỉ ngơi, cũng là bức tranh về con người bắt
đầu công việc của chính mình “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi/ Câu hát căng buồm với gió
khơi”. (8) Đây không phải là lần đầu tiên họ ra khơi đánh cá mà đối với người dân chài đó là
một thói quen được lặp đi lặp lại, không là một con thuyền nhỏ nhoi đơn độc mà đoàn thuyền
nối đuôi nhau, gợi ra không khí làm ăn tập thể. (9) Thiên nhiên nghỉ ngơi, con người bắt đầu
làm việc nhưng họ vẫn cất cao tiếng hát, nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “câu hát căng
buồm” thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời của con người dân chài, nó như tiếp thêm sức
mạnh làm căng buồm, đẩy con thuyền ra khơi đánh cá. (10) Chao ôi, tác giả mới tinh tế làm
sao! (11) Chắc hẳn, ông phải là người có tâm hồn nhạy cảm thì mới viết được những câu thơ
hay đến như vậy. (12) Không những tác giả sử dụng thể thơ bảy chữ, giọng thơ khỏe khắn
như một khúc hát say mê, hình ảnh thơ được xây cất dựa trên trí tưởng phong phú, ngôn ngữ
thơ giàu giá trị biểu cảm mà ông còn sử dụng biện pháp tu từ so sánh “mặt trời – hòn lửa”,
nhân hóa kết hợp ẩn dụ, nghệ thuật đối lặp tương phản giữa sự nghỉ ngơi của thiên nhiên với
công việc của con người.
 Chú thích: - thành phần phụ chú
= câu ghép quan hệ bổ xung
BT2: Viết đoạn văn quy nạp (10-12 câu) có sử dụng câu phủ định, trợ từ (gạch chân,
chú thích) làm rõ khổ 2 bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận.
(1) Trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”, tác giả Huy Cận có viết:
“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặn,
Cá thu biển đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lướt ta, đoàn cá ơi!”
(2) Chính tiếng hát khỏe khắn được người dân chài lên đã xua đi màn đêm yên tĩnh. (3)
Người dân cất cao tiếng hát để ca ngợi sự giàu đẹp của biển khơi, biện pháp tu từ liệt kê kết
hợp với hình ảnh so sánh “Cá thu biển nhưng đoàn thoi” cho thấy biển quê hương có rất
nhiều loại cá khác nhau nào là cá bạc, nào là cá thu. (4) Mỗi loài cá lại mang một sắc màu
tạo lên tấm lưới sắc màu rực rỡ. (5) khi màn đêm buông xuống người dân phải đối mặt với
biển nguy hiểm, thậm chí còn phải trả giá bằng mạng của mình. (6) Hiểu được điều đó họ đã
cất cao tiếng hát để gọi cá vào cầu nguyện cho một đêm bội thu “Đến dệt lướt ta đoàn cá ơi”.
(7) Lời mời gọi kết hợp với dấu chấm than mong ước hồn hậu của ngư dân. (8) Họ hát bài ca
gọi cá vào lưới thể hiện tình yêu biển. (9) Chao ôi, tác giả mới tinh tế làm sao! (10) Chẳng
phải, ông phải là người có tâm hồn nhạy cảm thì mới viết được những câu thơ hay đến như
vậy. (11) Về nghệ thuật, tác giả sử dụng thể thơ bảy chữ, giọng thơ khỏe khắn như một khúc
hát say mê, hình ảnh thơ được xây cất dựa trên trí tưởng phong phú, ngôn ngữ thơ giàu giá
trị biểu cảm, ông còn sử dụng biện pháp liệt kê “cá bạc”, cá thu so sánh với đoàn cá ơi. (12)
Tóm lại, cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá được Huy Cận khắc họa rõ nét qua khổ thơ trên,
khiến em rất xúc động.
 Chú thích: - câu phủ định
= trợ từ
BT3: Viết đoạn văn T-P-H (10-12 câu) có sử dụng lời dẫn trực tiếp, phép liên kết
(gạch chân, chú thích) làm rõ khổ 3 bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận.
(1) Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển được tác giả Huy Cận khắc họa rõ nét qua khổ 3 bài
thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. (2) Trong bài thơ, tác giả có viết:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lưới giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”
(3) Biển trở nên mênh mông rộng lớn vừa có chiều cao, chiều rộng, chiều sâu. (4) Đoàn
thuyền hiện lên với vẻ đẹp lãng mạn, hùng vĩ, nó không hề nhỏ bé giữa dại dương bao la
rộng lớn có khả năng chế ngự thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ mình. (5) Biện pháp tu từ
nhân hóa kết hợp ẩn dụ “Thuyền ta lái gió với buồm trăng”, thuyền có gió làm bánh lái, có
trăng làm cánh buồm. (6) Câu thơ được xây cất treo trí tưởng tượng phong phú, động từ
mạnh “lướt” chỉ tốc độ của con thuyền, nó nhanh như bay có trạng thái nhẹ nhàng, lúc bay
lên cao, lúc xuống tận đáy biển, giữa không gian mênh mông rộng lớn ấy, con thuyền giống
như một chàng dũng sĩ dang thỏa sức tung hoành làm chủ thiên nhiên. (7) Hiện tượng
chuyển đổi trường tự vụng được Huy Cận sử dụng một cách tài tình “dò, dan đan, thế trận,
vây giăng” vốn thuộc trường từ vựng quân sự nhưng lại được Huy Cận dùng để chỉ công
việc đánh bắt cá. (8) với ông đánh bắt cá là một công việc khó khăn gian khổ không khác gì
một trận đánh, còn người dân chài giống như nhừng lính kiên cường, dũng cảm, trí tuệ, bày
binh bố trận để đánh cá. (9) Chao ôi, tác giả mới tinh tế làm sao! (10) Chắc hẳn, ông phải là
người có tâm hồn nhạy cảm thì mới viết được những câu thơ hay đến như vậy. (11) Tóm lại,
bằng nghệ thuật đặc sắc, thể thơ bảy chữ, giọng thơ khỏe khắn như một khúc hát say mê,
hình ảnh thơ được xây cất dựa trên trí tưởng phong phú, ngôn ngữ thơ giàu giá trị biểu cảm,
ông còn sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa kết hợp ẩn dụ “thuyền-lái gió, buồm-trăng”,
chuyển đội từ vựng, Huy Cận đã miêu tả tinh tế cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển qua khổ
thơ trên, khiến em rất xúc động.
 Chú thích: - lời dẫn trực tiếp
= phép liên kết (phép nối)
BT4: Viết đoạn văn diễn dịch (10-12 câu) có sử dụng thành phần cảm thán, câu ghép
chính phụ (gạch chân, chú thích), làm rõ khổ 4 bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”
(1) Sự giàu đẹp của biển quê hương được tác giả Huy Cận khắc họa rõ nét qua bài thơ
“Đoàn thuyền đánh cá”. (2) Trong bài thơ, tác giả có viết:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.”
(3) Bằng biện pháp liệt kê tên loài cá cho thấy biển quê hương rất giàu với nhiều loài cá khác
nhau, loài cá nào cũng quý, nào là cá nhụ, nào là cá chim, nào là cá đé. (4) Nổi bật giữa thế
giới loài cá ấy là vẻ đẹp của cá song. (5) Cá song với hai gam màu đỏ đen được ánh sáng
chiếu vào, tạo nên những luồng sáng lấp lánh. (6) Biển mang một vẻ đẹp nên thơ. (7) Cá
song như một nàng thiếu nữ yêu kiều rạng rỡ dưới trăng. (8) Nghệ thuật nhân hóa “đêm thở,
sao lùa” cho thấy một thực thể có hồn với nhịp thở đều đặn của một trái tim. (9) Tác giả đã
tạo ra hình ảnh đảo ngược, ánh sao in bóng xuống biển nhưng không phải sao đi đẩy vào
mạn thuyền mà dường như chính ánh sao như lùa nước Hạ Long, làm nên tiếng thở của đêm,
khổ thơ còn cho ta thấy được tâm hồn lãng mạn, bay bổng, một trái tim tràn đầy tình yêu
thương của Huy Cận. (10) Chao ôi, tác giả mới tinh tế làm sao! (11) Chắc hẳn, ông phải là
người có tâm hồn nhạy cảm thì mới viết được những câu thơ hay đến như vậy. (12) Về nghệ
thuật, vì tác giả sử dụng thể thơ bảy chữ, giọng thơ khỏe khắn như một khúc hát say mê, hình
ảnh thơ được xây cất dựa trên trí tưởng phong phú, ngôn ngữ thơ giàu giá trị biểu cảm, ông
còn sử dụng biện pháp tu từ liệt kê “cá nhụ, cá đé, cá song”, so sánh “cá song – đuốc”, nhân
hóa “em, đêm thở, sao lùa” nên khiến cho tác phẩm rất hay.
 Chú thích: - câu ghép chính phụ
= thành phần cảm thán
BT5: Viết đoạn văn quy nạp (6-8 câu) có sử dụng thành phần phụ chú phép liên kết từ
đồng nghĩa (gạch chân, chú thích) làm rõ cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong
đoạn thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận.
(1) Trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” tác giả Huy Cận (1919-2005) có viết:
“Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”
(2) Người dân chài cất lên tiếng háy để gọi cá vào lưới hoà vào công việc của họ là nhịp đập
của trăng sao. (3) Biện pháp tu từ đảo trật tự cú pháp kết hợp nhân hoá “Gõ thuyền đã có
nhịp trăng cao”. Trăng vỗ vào mạn thuyền hoà vào tiếng hát làm cho tiếng hát bay bổng nó
còn xua cá đuổi cá vào lưới. (4) Hiểu được điều đó người dân chài đã ca ngợi tấm long bao
dung ân nghĩa của biển khơi hình ảnh so sánh “Biển như lòng mẹ” cho thấy biển như một
người mẹ đã dâng hiến tất cả mọi thứ cho họ, nuôi họ lớn, khổ thơ còn thể hiện tấm long biết
ơn của con người đối với biển khơi hình ảnh nhân hoá “nuôi ta lớn” cho thấy họ hiểu biển đã
cho họ tất cả mọi thứ để họ có được cuộc sống như ngày hôm nay. (5) Chao ôi, Huy Cận thật
tinh tế làm sao! (6) Chắc hẳn ông phải là người có tâm hồn nhạy cảm mới viết được những
câu thơ hay đến như vậy. (7) Thơ 7 chữ giọng thơ khoẻ khoắn như 1 khúc hát say mê, hình
ảnh thơ được xây cất dựa trên trí tưởng tượng vô cùng phong phú ngôn ngữ thơ giàu giá trị
biểu cảm, biện pháp tu từ đảo trật tự cú pháp, nhân hoá, so sánh, tác giả Huy Cận đã miêu tả
tinh tế tấm lòng bao dung ân nghĩa thuỷ chung của biển khơi qua đoạn thơ trên khiến em rất
xúc động.
 Chú thích: - thành phần phụ chú
= phép liên kết (đồng nghĩa)
BT6: Viết đoạn văn T-P-H (8-10 câu) có sử dụng thán từ, câu mở rộng thành phần
(gạch chân, chú thích), làm rõ khổ 6 bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận.
(1) Cảnh đoàn thuyền đánh cá được tác giả Huy Cận khắc họa rõ nét qua bài thơ “Đoàn
thuyền đánh cá”. (2) Trong bài thơ, tác giả có viết:
“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.”
(3) Màn đêm trôi đi thật nhanh trong nhịp điệu lao động hăng say, hứng khởi. (4) Một ngày
mới bắt đầu cũng là lúc người dân thu hoạch mẻ cá đầu tiên. (5) Sau một đêm lao động vất
vả, thành quả là thu được thật mĩ mãn, những cánh tay thoăn thoắt, những bắp thị cuồn cuộn,
họ mải mê với công việc của mình, những mẻ cá lớn khiến họ phải xoăn tay lại. (6) Không
chỉ thu được nhiều loài cá mà họ thu hoạch nhiều loại cá quý hiếm, “Vảy bạc đuôi vàng lóe
rạng đông” là một hình ảnh ẩn dụ đặc sắc, cái đặc biệt của nhà thơ Huy Cận không phải là
mặt trời chiếu vào những con cá làm cho chúng lấp lánh mà ánh sáng của những con cá làm
cho mặt trời rực rõ tỏa sáng, màn đêm trôi qua, người dân chài xếp lưới lên, căng buồm, bắt
đầu một ngày mới, với họ rạng đông không chỉ là mặt trời buổi sáng sớm mà còn là niềm tin
của người dân vào mottj tương lai tươi sáng được làm chủ cuộc sống. (7) Chao ôi, tác giả
mới tinh tế làm sao! (8) Chắc hẳn, ông phải là người có tâm hồn nhạy cảm thì mới viết được
những câu thơ hay đến như vậy. (9) Về nghệ thuật, tác giả sử dụng thể thơ bảy chữ, giọng
thơ khỏe khắn như một khúc hát say mê, hình ảnh thơ được xây cất dựa trên trí tưởng phong
phú, ngôn ngữ thơ giàu giá trị biểu cảm. (10) Tóm lại, tác giả Huy Cận đã miêu tả tinh tế
cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển qua đoạn thơ trên, khiến em rất xúc động.
 Chú thích: - thán từ
= câu mở rộng thành phần
BT7: Viết đoạn văn diễn dịch (10-12 câu) có sử dụng tình thái từ, thành phần tình thái
(gạch chân, chú thích) làm rõ khổ 7 bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận.
(1) Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển được tác giả Huy Cận khắc họa rõ nét qua khổ 7 bài
thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. (2) Trong bài thơ, tác giả có viết:
“Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời,
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi.”
(3) Nếu đoàn thuyền ra khơi vào buổi chiều thì lại trở về vào một buổi sáng sớm bình minh.
(4) Câu thơ “Câu hát căng buồm với gió khơi” đã xuất hiện ở khổ đầu nhưng bây giờ lặp lại
ở khổ cuối tạo lên kết cấu đầu cuối tương ứng, nó đã làm cho bài thơ giống như một khúc hát
say mê. (5) Nếu ở khổ một là một khúc hát cầu nguyện cho một đêm lao động bội thu thì ở
khổ cuối tiếng hát khải hoàn ăn mừng chiến thắng. (6) Đoàn thuyền tăng tốc chạy đua với
thời gian để kịp trở về bán những mẻ cá tươi ngon nhất. (7) Mặt trời vốn vô tri vô giác nhưng
nhờ biện pháp nhân hóa nó đã trở thành một đối thủ đáng gờm tha gia vào cuộc chay đua
cùng đoàn thuyền, kết quả là con người chiến thắng. (8) Những mẻ cá tươi ngon nhất được
ánh sáng chiến vào tạo nên hàng nghìn mặt trời tí hon. (9) Mỗi ngày mới bắt đầu cũng là
niềm tin của người dân vào một tương lai tươi sáng. (10) Chao ôi, tác giả mới tinh tế làm
sao! (11) Chắc hẳn, ông phải là người có tâm hồn nhạy cảm thì mới viết được những câu thơ
hay đến như vậy. (12) Về nghệ thuật, tác giả sử dụng thể thơ bảy chữ, giọng thơ khỏe khắn
như một khúc hát say mê, hình ảnh thơ được xây cất dựa trên trí tưởng phong phú, ngôn ngữ
thơ giàu giá trị biểu cảm, ông còn sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa “Đoàn thuyền chạy đua
cùng mặt trời”, kết cấu đầu cuối tương ứng.
 Chú thích: - tình thái từ
= thành phần tình thái
BT8: Viết đoạn văn diễn dịch (10-12 câu) có sử dụng phép lặp, câu ghép (gạch chân,
chú thích), trình bày cảm nhận của em về vẻ đẹp của người lao động được phản ánh
trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận.
(1) Vẻ đẹp của người dân lao động được tác giả Huy Cận miêu tả tinh tế qua bài thơ “Đoàn
thuyền đánh cá”. (2) Trước hết họ là những con người kiên cường dũng cảm, lạc quan, yêu
đời, yêu công việc. (3) Họ ra khơi khi màn đêm buông xuống, thiên nhiên đã đi vào trạng
thái nghỉ ngơi. (4) Đây là một công việc vất vả thậm chí phải đối mặt với cái chết vậy mà họ
vẫn cất cao tiếng hát “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. (5) Đây là tiếng hát của sự lạc
quan, yêu đời, coi thường mọi khó khăn nó đã đi theo họ trong suốt hành trình đánh cá, từ
lúc ra khơi, trên biển, tới lúc trở về. (6) Nó tiếp thêm cho họ sức mạnh để vượt qua khó khăn.
(7) Trong mặt họ biển quê hương giàu đẹp vô cùng, với hàng ngàn, hàng vạn loài cá khác
nhau, chúng được ánh sáng của trăng chiếu vào tạo lên một vẻ đẹp lung linh huyền ảo cho
biển “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe/ Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”. (8) Họ hiểu biển
quê hương đã cho họ tất cả mọi thứ, một người mẹ bao dung, độ lượng với tất cả sự biết ơn,
trân trọng “Biển cho ta cá như lòng mẹ/ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”. (9) Những con
người lao động ấy có tâm hồn lãng mạn, bay bổng giữa trời biển bao la, con thuyền con họ
trở thành trung tâm củ vũ trụ, lúc bay lên cao, lúc xuống đáy biển, nó có gió làm bánh lái, có
trăng làm cánh buồm lướt đi trên mặt biển bao la, đặc biệt nhất người dân là những người tài
giỏi, mưu trí, công việc đánh bắt cá gian khổ, đầy hiểm nguy, họ bày binh bố trận như những
người lính giữa chiến trường để giành chiến thắng “Ra đậu dặm xa dò bụng biển/ Dàn đan
thế trận lưới vây giăng”. (10) Chao ôi, tác giả mới tinh tế làm sao! (11) Chắc hẳn, tác giả
phải là người có tâm hồn nhạy cảm thì mới viết được những câu thơ hay đến như vậy. (12)
Về nghệ thuật, Huy Cận sử dụng thể thơ bảy chữ, giọng thơ khỏe khắn như một khúc hát say
mê, hình ảnh thơ được xây cất dựa trên trí tưởng phong phú, ngôn ngữ thơ giàu giá trị biểu
cảm, ông còn sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa “em, đêm thở, sao lùa”, so sánh “biển – lòng
mẹ”.
 Chú thích: - câu ghép
= phép lặp
BẾP LỬA
-Bằng Việt-
1 Tác giả
 Bằng Việt (1941-2015) tên thật là Nguyễn Việt Bằng, quê ở Hà Nội.
 Ông là nhà thơ trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ. Ông từng
giữ chức Chủ tịch Hội liên hiệp Văn Học nghệ thuật Hà Nội.
 Thơ ông trong trẻo, mượt mà, thường viết về tình cảm gia đình và tình cảm quê hương
đất nước.
 Tác phẩm chính “Bếp lửa”.
2 Hoàn cảnh sáng tác

 Bài Thơ sáng tác năm 1963, khi Bằng Việt đang là sinh viên ngành luật du học ở Liên
Xô cũ. In trong tập “Hương cây – Bếp Lửa”. Đất nước bị chia cắt làm hai miền, miền
Bắc đi lên xây dựng CNXH, miền Nam đấu tranh thống nhất đất nước
 (Tập thơ này đặc biệt vì đây là tập thơ của hai nhà thơ: “Hương cây” của Lưu
Quang Vũ, “Bếp lửa” của Bằng Việt)
3 Ý nghĩa nhan đề
 Đây là một nhan đề hay giàu ý nghĩa. Bếp lửa là một hình ảnh quen thuộc trong mỗi
gia đình người Việt Nam đã trở thành hình ảnh tượng trưng gợi hình ảnh ấm áp của
tình bà cháu. “Bếp lửa” là nơi bà nhóm lên tình cảm khát vọng, trở thành ngọn lửa của
tình yêu, niềm tin. “Bếp lửa” là kỉ niệm thiêng liêng, nâng bước người cháu trên suốt
cuộc hành trình dài rộng của cuộc đời.
 Nhan đề của tác phẩm: “Tình bà cháu sâu sắc thấm thía”.
4 Mạch cảm xúc
 Từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm
BT1: Viết đoạn văn quy nạp (10-12 câu) có sử dụng tình thái từ, thành phần biệt lập
(gạch chân chú thích) làm rõ khổ 1 bài “Bếp lửa” của Bằng Việt
(1) Trong bài thơ “Bếp lửa”, tác giả Bằng Việt có viết:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
(2)Mở đầu bài thơ Bằng Việt đưa người đọc đến hình ảnh chiếc bếp lửa khơi nguồn cảm xúc
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm / Một bếp lửa ấp iu nồng đượm” (3) Điệp từ “một bếp
lửa” vang lên như một điệp khúc diễn tả một nỗi nhớ da diết khôn nguôi trong buổi sáng sớm
(4)Nổi bật lên là một ngọn lửa chập chờn lúc cao lúc thấp lúc tỏ lúc mờ hắt lên trên tường
nhà, liếp cửa. (5) “Ấp iu” là một từ láy đầy sức sáng tạo của Bằng Việt ông khéo léo kết hợp
giữa hai từ ấp ủ và nâng niu nó không chỉ gợi 1 công việc nhóm lửa mà nó cong gợi bàn tay
khéo léo chi chút của người bà. (6) 2 câu thơ đã vẽ ra một cuộc sống thanh bình yên ả hạnh
phúc ở một làng quê. (7) Nhớ về bếp lửa người cháu nhớ về bà “Cháu thương bà biết mấy
nắng mưa” (8)Cháu thương bà bởi những gian truân vất vả của đời bà, BPTT ẩn dụ “nắng
mưa” không chỉ là nắng mưa của thiên nhiên mà còn là những khó khăn vất vả mà bà phải
trải qua. (9) Chao ôi, tác giả mới tinh tế làm sao! (10) Chắc hẳn, ông phải là người có tâm
hồn nhạy cảm thì mới viết được những câu thơ hay đến như vậy. (11) Tóm lại, bằng nghệ
thuật đặc sắc thể thơ thiên về tám chữ, giọng thơ thủ thỉ tâm tình như lời kể chuyện, ngôn
ngữ thơ giầu giá trị biểu cảm, hình ảnh thơ mang tính biểu tượng cao, biện pháp điệp từ “một
bếp lửa”, ẩn dụ “nắng mưa” Bằng Việt đã khắc hoạ rõ nét hình ảnh chiếc bếp lửa khơi nguồn
cảm xúc qua đoạn thơ trên khiến em rất xúc động.
 Chú thích: - thành phần biệt lập
= thành phần tình thái
BT2: Viết đoạn văn diễn dịch (8-10 câu) có sử dụng câu trần thuật đơn có từ là, câu
hỏi tu từ (gạch chân, chú thích) làm rõ khổ 2 bài “Bếp lửa” của Bằng Việt.
(1) Hồi ức của cháu về bà và tuổi thơ được tác giả Bằng Việt khắc hoạ rõ nét qua khổ 2 bài
thơ “Bếp lửa”. (2) Trong bài thơ tác giả có viết:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ đến giờ sống mũi còn cay”
(3) Lên bốn tuổi người cháu phải chịu đựng nạn đói khủng khiếp năm 1945, đây không phải
là sự việc sảy ra ngày một ngày hai mà là một thói quen không thể bỏ lặp đi lặp lại từ ngày
này sang ngày khác. (4) Thành ngữ “đói mòn đói mỏi” được Bằng Việt vận dụng một cách
sáng tạo nó diễn tả 1 nạn đói khủng khiếp kéo dài từ ngày này sang ngày khác khiến con
người mòn mỏi cả về thể xác lẫn tinh thần. (5) Bố phải đi đánh xe ông phải chịu cảnh nạn
đói ấy hình ảnh “khô rạc ngựa gầy” càng diễn tả rõ hơn cái nạn đói ấy. (6) Bên bếp lửa hồng
cùng bà nhóm lên vào mỗi buổi sớm mai không phải là cái bếp lửa bình thường mà đó là bếp
lửa ẩm ướt đầy khói. (7) Khói bốc lên sộc và mắt mũi khiến nước mắt lưng tròng tạo một
cảm giác khó chịu khi nhớ “Khói hun nhèm mắt cháu / Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”
đây không phải là cái cay do khói xộ vào mà còn là cái cay của sự xúc động khi nhớ về quá
khứ, kỉ niệm đã lùi vào dĩ vãng nhưng nó vẫn in đậm trong tâm trí người cháu tưởng như sảy
ra ngày hôm qua. (8) Chao ôi! (9) Tác giả mới tinh tế làm sao. (10) Phải chăng ông là người
có trái tim tràn đầy tình yêu thương mới viết được những câu thơ hay đến như vậy. (11) Về
nghệ thuật tác giả sử dung thể thơ thiên về 8 chữ giọng thơ thủ thỉ tâm tình như lời kể
chuyện ngôn ngữ thơ giàu giá trị biểu cảm hình ảnh thơ mang tính biểu tượng cao tác giả còn
sử dụng thành ngữ “đói mòn đói mỏi”.
 Chú thích: - câu hỏi tu từ
= câu trần thuật đơn có từ là
BT3: Viết đoạn văn T-P-H (8-10 câu) có sử dụng câu ghép đẳng lập, thành phần cảm
thán (gạch chân, chú thích) làm rõ khổ 3 bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt.
(1) Hồi ức của cháu về bà và tuổi thơ được tác giả Bằng Việt khắc hoạ rõ nét qua khổ 3 bài
thơ “Bếp lửa”. (2) Trong bài thơ tác giả có viết:
“Tám năm rong cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà thường kể chuyện những này ở Huế
Tiếng tu hú kêu sao mà tha thiết thế
Mẹ cùng cha đi công tác xa bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi sao không đến ở cùng bà
Mà kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
(3) Tám năm trời ròng rã, lê thê, một cuộc sống khốn khó vất vả, tiếng tu hú não nêg khắc
khoải từ xa vọng lại càng là cho âm thanh cuộc sống trở nên não nề thê lương trong những
tháng ngày hơn. (4) Bà dành cho cháu tất cả tình yêu thương, bên ngọn lửa hồng, bà kể cháu
nghe những câu chuyện về cuộc tổng tiến công ở Huế vào năm 1945, BPTT liệt kê “bà bảo
cháu nghe, bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học” bà không chỉ nuôi lớn cháu về mặt thể xác
mà bà còn nuôi cháu cả về tinh thần. (5) Những câu chuyện ngày ở Huế mà bà kể cho cháu
đã bồi đắp cho cháu lòng tự hào, tình yêu quê hương đất nước, bà dạy cho cháu những điều
hay lẽ phải, dạy cho cháu những điều phải làm cùng 1 lúc bà hiện lên với 3 vai trò, bà vừa là
người thầy, vừa là người cha, vừa là người mẹ, ở vai trò nào bà cũng đều làm bằng tất cả tình
yêu. (6) Thấu hiểu những khó khăn của đời bà, người cháu rất ngoan ngoãn nghe lời bà, bà
bảo thì nó nghe, bà dạy thì cháu làm, bà chăm thì nó học, điệp từ “bà-cháu” đã diễn tả tình
cảm bà cháu gắn bó, khăng khít, quấn quýt với nhau không thể tách rời, câu thơ cuối kết thúc
khổ thơ bằng 1 câu hỏi tu từ kết hợp nhân hoá “Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà / Kêu chi
hoài trên những cánh đồng xa?” người cháu cất tiếng gọi ngày thơ cầu cứu chú chim tu hú
đem đếm niềm vui cho người bà câu thơ như xoáy vào lòng người đọc nỗi nhớ da diết khôn
nguôi và sự băn khoăn, day dứt của người cháu về cuộc đời bất hạnh của bà. (7) Chao ôi, tác
giả mới tinh tế làm sao! (8) Chắc hẳn ông phải là người có tâm hồn nhạy cảm mới viết
những câu thơ hay đến như vậy. (9) Về nghệ thuật tác giả sử dụng thể thơ thiên về tám chữ,
giọng thơ thủ thỉ tâm tình như lời kể chuyện, ngôn ngữ thơ giàu giá trị biểu cảm, hình ảnh
thơ mang tính biểu tượng cao và tác giả còn sử dụng biện pháp tu từ liệt kê “bà bảo, bà dạy,
bà chăm, cháu nghe, cháu làm, cháu học”, điệp từ “bà-cháu”, nhân hoá “Tu hú ơi”, câu hỏi tu
từ. (10) Tóm lại Bằng Việt đã miêu tả tinh tế hồi ức của cháu về bà và tuổi thơ qua đoạn thơ
trên khiến em rất xúc động.
 Chú thích: - thành phần cảm thán
= câu ghép đẳng lập
BT4: Viết đoạn văn diễn dịch (8-10 câu) có sử dụng phép thế, câu nghi vấn (gạch chân
chú thích) làm rõ khổ 4 bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt.
(1) Hồi ức của cháu về bà và tuổi thơ được tác giả Bằng Việt khắc hoạ rõ nét qua khổ 4 bài
thơ “Bếp lửa”. (2)Trong bài thơ tác giả có viết:
“Năm giặc đốt làng, cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bề trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà còn nhớ đinh ninh:
“Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên” ”
(3) Không chỉ trải qua nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà cả 2 bà cháu còn phải đi qua 9 năm
kháng chiến trường kì “Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi /Hàng xóm bốn bề trở về lầm lụi
/Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”. (4) Thành ngữ “cháy tàn cháy rụi” đã diễn tả khủng khiếp
của chiến tranh, giặc đốt làng tất cả trở thành tro bụi không còn một chút dấu vết con người
mệt mỏi đau khổ chán chường. (5) Họ giống như 1 cái xác không hồn bởi sự sợ hãi bởi mọi
thứ đã biến mất “lầm lụi”. (6) Căn nhà nơi nương tựa duy nhất của 2 bà cháu cũng phút chốc
biến thành đống tro tàn, chiến tranh thực sự khủng khiếp nó không chỉ tàn phá tất cả mà còn
để lại sự đau đớn về tinh thần ấy vậy mà bà vẫn đinh ninh dặn cháu “mày có viết thư chớ kể
này kể nọ /Cứ bảo nhà vẫn được bình yên” (7) Lời dặn của bà được Bằng Việt trích dẫn trực
tiếp càng làm cho lời thơ trở nên chân thực hơn cách xưng hô “Mày” đã diễn tả tình bà cháu
gắn bó thân thiết đong thời cho ta thấy sự mộc mạc dân dã của người phụ nữ Việt Nam xưa
câu nói của bà đã vi phạm phương châm về chất bà dặn cháu nói sai sự thật qua đó cho ta
thấy bà là người phụ nữ giàu đức hi sinh yêu con yêu đất nước bà nhận hết mọi khó khăn
gian khổ về mình và để con yên tâm công tác. (8) Chao ôi Bằng Việt mới tinh tế làm sao! (9)
Chắc hẳn ông phải là người có trái tim tràn đầy tình yêu thương mới viết được những câu thơ
hay đến như vậy. (10) Còn nghệ thuật thì sao (11) Về nghệ thuật tác giả sử dụng thể thơ
thiên về 8 chữ giọng thơ thủ thỉ tâm tình như lời kể chuyện ngôn ngữ thơ giàu giá trị biểu
cảm hình ảnh thơ mang tính biểu tượng cao tác giả còn sử dụng thành ngữ từ láy.
 Chú thích: - phép thế
= câu nghi vấn
BT5: Viết đoạn văn quy nạp (8-10 câu) có sử dụng lời dẫn trực tiếp, phép lặp (gạch
chân, chú thích), làm rõ khổ 5 bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt.
(1) Trong bài thơ “Bếp lửa”, tác giả Bằng Việt có viết:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”
(2) Rồi sớm rồi chiều là vòng tuần hoàn của thời gian kéo dài từ ngày này qua ngày khác. (3)
“Nhen” nghĩa là nhóm, là khơi lên, gợi lên. (4) Từ “bếp lửa” từ đầu bài thơ đến đây được
Bằng Việt chuyển thành “ ngọn lửa”, “ngọn lửa” lòng bà, “ngọn lửa” niềm tin, đây là biện
pháp tu từ ẩn dụ với Bằng Việt, bà vừa là người nhóm bếp vừa là người giữ lửa đồng thời là
người truyền lửa. (5) Ngọn lửa bà nhóm lên mỗi buổi sáng đã nuôi người cháu khôn lớn về
thể xác nhưng quan trọng hơn là ngọn lửa tâm hồn, ngọn lửa niềm tin trong lòng bà luôn
bùng cháy để truyền sang cho đứa cháu. (6) Bà dặn cho cháu biết yêu thương, bà thắp sang
cho đứa cháu niềm tin để cháu vượt qua khó khăn để trở thành sinh viên ngành luật du học
tại Liên Xô cũ. (7) Chao ôi, tác giả mới tinh tế làm sao! (8) Chắc hẳn, ông phải là người có
tâm hồn nhạy cảm thì mới viết được những câu thơ hay đến như vậy. (9) Về bằng nghệ thuật,
tác giả sử dụng thể thơ thiên về tám chữ, giọng thơ thủ thỉ tâm tình như lời kể chuyện, ngôn
ngữ thơ giầu giá trị biểu cảm, hình ảnh thơ mang tính biểu tượng cao, ông còn sử dụng biện
pháp tu từ ẩn dụ kết hợp với điệp từ “một ngọn lửa”. (10) Tóm lại, hồi ức của cháu về bà và
tuổi thơ được tác giả Bằng Việt miêu tả tinh tế qua khổ thơ trên, khiến em rất xúc động.
 Chú thích: - lời dẫn trực tiếp
= phép lặp
BT6: Viết đoạn văn quy nạp (8-10 câu) có sử dụng phép lặp, câu mở rộng thành phần
(gạch chân, chú thích), làm rõ khổ 6 bài thơ “Bếp Lửa”.
(1) Trong bài thơ “Bếp lửa”, tác giả Bằng Việt có Viết:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi sôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
(2) Từ láy “lận đận” được đảo lên đầu câu kết hợp với lối nói ẩn dụ “nắng mưa”, bằng tất cả
lòng biết ơn, cháu đã thấu hiểu đời bà trải qua quá nhiều gian truân. (3) Bà phải trải qua nạn
đói khủng kiếp năm 1945, lại cùng cháu bước vào chín năm kháng chiến trường kì. (4) Tuổi
già sức yếu, không những không được cháu con chăm sóc mà lại phải thay con nuôi dưỡng,
dạy bảo đứa cháu ngây thơ, sự tần tảo hi sinh ăn sâu vào thói quen nếp nghĩ của bà, mấy
chục năm trôi qua, cháu đã trở thành sinh viên ngành luật du học tại Liên Xô cũ, cuộc sống
đã nhiều đổi thay nhưng bà vẫn giữ nguyên vẹn một thói quen dậy sớm, nhóm bếp lửa vào
mỗi buổi sớm mai, ba câu thơ không chỉ là sự thấu hiểu mà còn là sự dằn vặc, đau đớn của
đứa cháu vì không thể chăm sóc được cho bà. (5) Điệp từ “nhóm” được lặp đi lặp lại nhiều
lần nhưng mang hai nét nghĩa khác nhau, nhóm trong “nhóm bếp lửa” là hoạt động dùng
nguyên liệu dễ cháy để tạo thành ngọn lửa, nó được dùng theo nghĩa gốc, còn “nhóm” trong
“nhóm niềm yêu thương, nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ” có nghĩa là “nhen” là khơi
lên, gợi lên, đây là nghĩa chuyển, chuyển theo phương thức ẩn dụ, bà vừa là người nhóm lửa,
là người giữ lửa đồng thời là người truyền lửa, bà đã nhen lên ở đứa cháu thơ tình yêu
thương , sự san sẻ với người xung quanh, đặc biệt bà khơi lên ở cháu những ước mơ khát
vọng của tuổi thơ, chính nó đã tiếp thêm sức mạnh để vượt qua khó khăn. (6) Với cháu nó
không phải là bếp lửa bình thường mà nó đã trở thành biểu tượng cho người bà, Bằng Việt
đã kết thúc khổ thơ bằng câu cảm thán đầy xúc động “Ôi kì lạ thiêng liêng – bếp lửa!”, câu
thơ đã thể hiện cảm xúc của người cháu về bếp lửa, với cháu nó không còn là bếp lửa bình
thường nữa, nó trở lên kì lạ và thiêng liêng bếp lửa ở chỗ tình yêu yêu thương và niềm tin bà
dành cho cháu, bếp lửa trở thành một mảnh tâm hồn, một phần không thể thiếu trong cuộc
đời sống tinh thần của cháu. (7) Chao ôi, tác giả mới tinh tế làm sao! (8) Chắc hẳn, ông phải
là người có trái tim tràn đầy tình yêu thương thì mới viết được những câu thơ hay đến như
vậy. (9) Về nghệ thuật, tác giả sử dụng thể thơ thiên về tám chữ, giọng thơ thủ thỉ tâm tình
như lời kể chuyện, ngôn ngữ thơ giầu giá trị biểu cảm, hình ảnh thơ mang tính biểu tượng
cao, tác giả còn sử dụng biện pháp đảo trật tự cú pháp “Lận đận đời bài biết mấy nắng mưa”,
ẩn dụ “nắng mưa”, điệp từ “nhóm”. (10) Tóm lại, suy nghĩa của cháu về người bà được Bằng
Việt khắc họa rõ nét qua khổ thơ trên, khiến em rất xúc động.
 Chú thích: - phép lặp
= câu mở rộng thành phần
BT7: Viết đoạn văn diễn dịch (8-10 câu) có sử dụng lời dẫn trực tiếp, câu bị động (gạch
chân, chú thích), làm rõ khổ 7 bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt.
(1) Suy ngẫm của người cháu về bà được tác giả Bằng Việt khắc họa rõ nét qua khổ 7 bài
thơ “Bếp lửa”. (2) Trong bài thơ, tác giả có viết:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăng ngả
Những vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
-Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?...”
(3) Dấu chấm ngăn cách dòng thơ thứ nhất thành hai câu thơ diễn tả cảm xúc nghẹn ngào
không cất lên lời. (4) Điệp từ “trăm” không còn là một trăm nữa mà là nhiều. (5) Điệp từ
“có” kết hợp với biện pháp liệt kê ẩn dụ “Khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả”
cho thấy cháu giờ đã có một cuộc sống xung túc đủ đầy nhưng vẹn nguyên trong lòng cháu
là một tình cảm không bao giờ thay đổi giành cho người bà kính yêu. (6) Kết thúc khổ bằng
một câu hỏi tu từ “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa” nó như xoáy sâu vào lòng người đọc
về một nỗi nhớ da diết, khôn nguôi. (7) Đồng thời còn là lời nhắc nhở tự nhủ chân thành
cháu luôn nhớ về bà nên nhớ nhớ về quá khứ thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”. (8)
Chao ôi, tình cảm của người cháu dành cho bà mới xúc động làm sao! (9) Chắc hẳn, ông
phải là người có tâm hồn nhạy cảm thì mới viết được những câu thơ hay đến như vậy. (10)
Về nghệ thuật, tác giả sử dụng thể thơ thiên về tám chữ, giọng thơ thủ thỉ tâm tình như lời kể
chuyện, ngôn ngữ thơ giầu giá trị biểu cảm, hình ảnh thơ mang tính biểu tượng cao, tác giả
còn sử dụng biện pháp tu từ điệp từ “trăm”, ẩn dụ kết hợp liệt kê, câu hỏi tu từ.
 Chú thích: - lời dẫn trực tiếp
= câu bị động
ÁNH TRĂNG
-Nguyễn Duy-
1 Tác giả
 Nguyễn Duy sinh năm 1948, tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, quê ở Thanh Hóa.
 Năm 1966, ông gia nhập quân đội, hoạt động trong bình chủng thông tin và tham gia
chiến đấu ở nhiều chiến trường. Năm 1975 ông chuyển về làm báo văn nghệ giải
phóng. Năm 1977, ông làm đại diện thường trú báo Văn học nghệ thuật.
 Tác phẩm chính “Ánh trăng”
2 Thể thơ 5 chữ
 Bài thơ không giới hạn về số câu số khổ, mỗi câu thường có 5 tiếng, gieo vần tiếng
cuối cùng câu 1 vần với tiếng cuối cùng của câu 2 và tiếng cuối cùng của câu 4 trên
khổ.
3 Mạch cảm xúc
 Trải qua nhanh từ dòng hồi tưởng về kỉ niệm đẹp trong quá khứ và những thay đổi sau
đó đến sự thức tỉnh và suy ngẫm
4 Lưu ý cách viết thơ đặc biệt:
 Tác giả chỉ viết hoa chữ cái đầu mỗi khổ mà không viết hoa chữ cái đầu mỗi dòng. Cả
bài thơ chỉ có một dấu chấm kết thúc bài thơ.
 Tác dụng: bài thơ giống như một câu chuyện. Phù hợp với mạch cảm xúc tuôn trào
mãnh liệt tưởng như không có điểm dừng.
5 Ý nghĩa nhan đề
 Dù “vầng trăng” nhiều lần xuất hiện ở trong bài thơ với tư cách là đối tượng chữ tình,
còn “ánh trăng” chỉ xuất hiện một lần ở cuối bài thơ nhưng lại được lấy làm nhan đề
cho cả bài thơ (cũng là nhan đề cho cả tập của ông), điều đó cho ta thấy đây là nhan đề
hay, giàu ý nghĩa. “Ánh trăng” là ánh sáng tinh khiết của trăng đã soi sáng những
khoảng tối trong tâm hồn của con người khiến họ thức tỉnh. Nhan đề đã định hướng tư
tưởng chủ đề và làm nổi bật ý nghĩa triết lý của bài thơ:
 Bài thơ có ý nghĩa như một lời cảnh tỉnh, nhắc nhở, chúng ta đừng quên đi những gì
đẹp đẽ đã gắn bó với con người trong quá khứ, cần phải sống tình nghĩa, thủy chung.
Nhan đề đã truyền tải đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” một cách kín đáo và tinh tế.
BT1: Viết đoạn văn quy nạp (6-8 câu) có sử dụng khởi ngữ, phép nối (gạch chân, chú
thích), làm rõ khổ 1 bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy.
(1) Trong bài thơ “Ánh trăng”, tác giả Nguyễn Duy có viết:
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến trăng ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
(2) Hồi nhỏ cậu bé sống với đồng với sông, với bể , chiến tranh xảy ra và cậu bé trở thành
người lính, nơi người lính sống chính là rừng hoang. (3) Điệp từ “với” kết hợp với biện pháp
liệt kê “đồng, sông, bể” càng làm cho thấy tuổi thơ đầy hạnh phúc, đi nhiều, hiểu nhiều, biết
nhiều, cuộc sống hòa mình vào thế giới thiên nhiên, ở đây người lính cũng có trăng làm bạn.
(4) Trăng soi sáng mọi nẻo đường chiến dịch, chẳng mấy chốc giữa người lính và trăng đã
nảy sinh tình cảm gắn bó mật thiết “vầng trăng thành tri kỉ”, “tri kỉ” là hiểu bạn như hiểu
mình, ta bắt gặp trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu, chỉ có điều trong bài thơ “Đồng
chí” là tình cảm giữa con người với con người, còn trong bài thơ “Ánh trăng” là tình cảm
gắn bó giữa người và trăng. (5) Chao ôi, tác giả mới tinh tế làm sao! (6) Chắc hẳn ông là
người có trái tim tràn đầy tình yêu thương mới viết được những câu thơ hay đến nhưng vậy.
(7) Về nghệ thuật, tác giả sử dụng thể thơ năm chữ, giọng thơ thay đổi theo mạch cảm xúc,
ngôn ngữ thơ giàu giá trị biểu cảm, hình ảnh thơ mang tính biểu tượng cao, ông còn sử dụng
biện pháp điệp từ “với”, liệt kê, nhân hóa “vầng trăng thành tri kỉ”. (8) Tóm lại, tác giả
Nguyễn Duy đã miêu tả tinh tế cuộc sống của người và trăng trong quá khứ qua đoạn thơ
trên, khiến em rất xúc động.
 Chú thích: - khởi ngữ
= phép nối
BT2: Viết đoạn văn quy nạp (4-6 câu) có sử dụng thành phần biệt lập, phép liên kết
(gạch chân, chú thích), làm rõ khổ 2 bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy.
(1) Trong bài thơ “Ánh trăng” tác giả Nguyễn Duy có viết:
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
(2) Một loạt tính từ “trần trụi,hồn nhiên” kết hợp với biện pháp tu từ nhân hoá “hồn nhiên
như cây cỏ” đã diễn tả 1 cuộc sống mộc mạc bình dị chân thật, hồn nhiên, sống đúng với bản
chất thật, không che đậy không tô vẽ, tình cảm giữa người và trăng càng gắn bó với nhau, họ
đã trở thành cái tình, cái nghĩa ở đời tưởng không bao giờ quên nhưng trong đoạn thơ, tác giả
đã hé mở một sự thay đổi, lãng quên sắp sảy ra, “Ngỡ là tưởng, tưởng không bao giờ quên
nhưng cuối cùng chính con người đã lãng quên. (3) Chao ôi, tác giả mới tinh tế làm sao! (4)
Chắc hẳn, ông phải là người có tâm hồn nhạy cảm mới viết được những câu thơ hay đến như
vậy. (5) Về nghệ thuật, tác giả sử dụng thể thơ 5 chữ, giọng thơ thay đổi theo mạch cảm xúc,
ngôn ngữ thơ giàu giá trị biểu cảm, hình ảnh thơ mang tính biểu tượng cao, tác giả còn sử
dụng biện pháp tu từ so sánh “hồn nhiên như cây cỏ” nhân hoá “vầng trăng tình nghĩa”. (6)
Tóm lại, tác giả Nguyễn Duy đã khắc hoạ rõ nét cuộc sống của người và trăng trong quá khứ
qua đoạn thơ trên khiến em rất xúc động.
 Chú thích: - thành phần biệt lập
= phép liên kết
BT3: Viết đoạn văn T-P-H (6-8 câu) có sử dụng câu ghép, câu bị động (gạch chân, chú
thích) làm rõ khổ 3 bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy.
(1) Cuộc sống của người và trăng ở hiện tại được tác giả Nguyễn Duy khắc hoạ rõ nét qua
khổ 3 bài thơ “Ánh trăng”. (2) Trong bài thơ tác giả có viết:
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
(3) Chiến tranh kết thúc người lính rời chiến trường trở về, sống và làm việc tại thành phố
Hồ Chí Minh tại đây anh có một cuộc sống đầy đủ sung túc hiện đại với ánh điện cửa gương
nhưng lại hoàn toàn tách biệt với thế giới thiên nhiên điểm đặc biệt là người lính lại có thái
độ hài lòng thoải mái trước cuộc sống ấy. (4) Quen nó đã trở thành một thói quen trong cuộc
sống của anh trước thái độ ấy của người lính, trăng vẫn vẹn nguyên tình nghĩa lặng thầm
theo dõi anh “vầng trăng đi qua ngõ /như người dưng qua đường” trăng theo anh từ chiến
trường về thành phố trăng ngày ngày đi qua ngõ dõi theo từng bước chân của anh, dù chỉ là
nhỏ nhất. Ấy thế nhưng người lại coi trăng như một kẻ hoàn toàn xa lạ. Biện pháp tu từ so
sánh kết hợp và cách sử dụng từ ngữ vô cùng đặc biệt “người dưng” được tác giả sử dụng
một cách đầy sáng tạo. Trăng và người từ đôi bạn tri âm, tri kỉ như những người thân trong
gia đình. Nay họ đã trở thành những kẻ xa lạ, hoàn toàn không quen biết. Câu thơ là sự đối
lập tương phản giữa cái vẹn nguyên tình nghĩa của vầng trăng và sự bạc bẽo vô cảm của con
người. (5) Chao ôi, tác giả mới tinh tế làm sao! (6) Chắc hẳn, ông phải là người có tâm hồn
nhạy cảm mới viết được những câu thơ hay đến như vậy. (7) Về nghệ thuật, tác giả sử dụng
thể thơ 5 chữ, giọng thơ thay đổi theo mạch cảm xúc, ngôn ngữ thơ giàu giá trị biểu cảm,
hình ảnh thơ mang tính biểu tượng cao, tác giả còn sử dụng biện pháp tu từ hoán dụ “ánh
điện cửa gương”, nhân hoá “vầng trăng đi qua ngõ”, so sánh “như người dưng qua đường”,
ẩn dụ “vầng trăng”, đối lập tương phản giữa sự vẹn nguyên của trăng và sự vô tình của con
người. Tóm lại, tác giả Nguyễn Duy đã miêu tả tinh tế cuộc sống của con người và trăng ở
hiện tại qua đoạn thơ trên khiến em rất xúc động.
 Chú thích: - câu ghép
= câu bị động
BT4: Viết đoạn văn diễn dịch (4-6 câu) có sử dụng câu trần thuật đơn có từ là, tình
thái từ (gạch chân, chú thích), là rõ khổ 4 bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy.
(1) Cuộc sống của người và trăng ở hiện tại được tác giả Nguyễn Duy khắc họa rõ nét qua
khổ 4 bài thơ “Ánh trăng”. (2) Trong bài thơ, tác giả có viết:
“Thình lình điện tắt điện tắt
phòng buyn-đinh tối ôm
vột bật tung cửa sổ
dột ngội vầng trăng tròn”
(3) Sự lãng quên sẽ tiếp tục diễn ra nếu không có một tình huống bất ngờ “đèn điện tắt”, đây
là một tình huống bình thường với tất cả mọi người nhưng với người lính nó là một tình
huống bất ngờ, bởi từ lâu người lính đã quen với cuộc sống hiện đại, tiện nghi đầy đủ. (4)
“đèn điện tắt” căn phòng hiện đại trở nên vô dụng, bằng một hành động nhanh, mạnh, gấp
với thái độ sợ hãi, người lính vội bật tung cửa sổ để tìm đến ánh sáng tự nhiên bên ngoài,
trước mắt người lính vầng trăng tròn đột ngột hiện ra, hay chính là sự đột ngột của lòng
người, người lính ngỡ ngàng nhận ra trăng vẫn vẹn nguyên tình nghĩa, lặng thầm dõi theo
người lính, chỉ có người lính là hoàn toàn thay đổi, lãng quên vầng trăng. (5) Chao ôi! (6)
Tác giả là người thật tinh tế. (7) Chắc hẳn ông là người có trái tim tràn đầy tình yêu thương
mới viết được những câu thơ hay đến nhưng vậy. (7) Về nghệ thuật, tác giả sử dụng thể thơ
năm chữ, giọng thơ thay đổi theo mạch cảm xúc, ngôn ngữ thơ giàu giá trị biểu cảm, hình
ảnh thơ mang tính biểu tượng cao, ông còn sử dụng biện pháp tu từ đảo trật tự cú pháp
“Thình lình đèn điện tắt, đột ngột vầng trăng tròn”, ẩn dụ “vầng trăng tròn”.
 Chú thích: - câu trần thuật đơn có từ là
= tình thái từ
BT5: Viết đoạn quy nạp (6-8 câu) có sử dụng lời dẫn trực tiếp, thành phần cảm thán
(gạch chân, chú thích), làm rõ khổ 5 bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy.
(1) Trong bài thơ “Ánh trăng”, tác giả Nguyễn Duy có viết:
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”
(2) Bắt gặp vầng trăng, người lính có một hành động rất dũng cảm “Ngửa mặt lên nhìn mặt”.
(3) “Mặt” trong “ngửa mặt”, đây là nghĩa gốc, “mặt” trong “nhìn mặt”, là mặt trăng, là nghĩa
chuyển, chuyển nghĩa theo phương thức ẩn dụ, đó là tư thế đối diện đàm tâm, anh rất dũng
cảm nhận lỗi với trăng. (4) Bắt gặp vầng trăng, người lính vô cùng xúc động đến nghẹn
ngào, quá khứ hiện về một cách đầy đủ, vẹn nguyên, sống động, biện pháp tu từ so sánh
“như là đồng là bể/ như là sông là rừng”, điệp từ “như là”, liên kết kếp hợp ẩn dụ “đồng, bể,
sông, rừng”, biểu tượng cho quá khứ được Nguyễn Duy vận dụng một cách tài tình, hóa ra
người lính không chối bỏ quá khứ mà chỉ lãng quên nó đi, để rồi hôm nay quá khứ hiện về
đầy đủ, tất cả như một cuốn phim tua chậm vụt hiện về, những năm tháng quá khứ gian lao
nhưng đầy đủ tính sống dậy trong tâm trí anh, đó còn là hình ảnh của một đất nước vẹn
nguyên tình nghĩa, bắt gặp vầng trăng là bắt tất cả, giọt nước mắt rưng rưng trong sự hối hận
đầy xúc động của người lính khiến chúng ta trân trọng. (5) Chao ôi, tác giả mới tinh tế làm
sao! (6) Chắc hẳn ông là người có trái tim tràn đầy tình yêu thương mới viết được những câu
thơ hay đến nhưng vậy. (7) Tóm lại, bằng nghệ thuật đặc sắc, thể thơ năm chữ, giọng thơ
thay đổi theo mạch cảm xúc, ngôn ngữ thơ giàu giá trị biểu cảm, hình ảnh thơ mang tính biểu
tượng cao, biện pháp tu từ so sánh, điệp từ, liệt kê, ẩn dụ, tác giả Nguyễn Duy đã miêu tả
tinh tế cảm xúc và suy ngẫm của nhà thơ qua đoạn thơ trên, khiến em rất xúc động.
 Chú thích: - lời dẫn trực tiếp
= thành phần cảm thán
BT6: Viết đoạn văn T-P-H (10-12 câu) có sử dụng câu bị động, thán từ (gạch chân,
chú thích), làm rõ khổ 6 bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy.
(1) Cảm xúc và suy nghĩa của nhà thơ được tác giả Nguyễn Duy khắc họa rõ nét qua khổ 6
bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy. (2) Trong bài thơ, tác giả có viết:
“Trăng cứ tròn vành vạch
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.”
(3) Khổ thơ cuối là một khổ thơ vô cùng đặc biệt, nó chia làm hai cặp, mỗi cặp đã diễn tả
một tâm trạng khác nhau. (4) “Trăng cứ tròn vành vạch/ kể chi người vô tình” hai câu thơ sử
dụng nghệ thuật đối lập tương phản kết hợp với biện pháp tu từ ẩn dụ, đối lập giữa cái vẹn
nguyên tình nghĩa của vầng trăng với sự bạc bẽo vô tình của lòng người. (5) Trăng như một
người bạn bao dung, độ lượng bỏ qua mỗi lỗi lầm trong quá khứ của người lính, trăng bao
dung nhưng rất đối nghiêm khắc. (6) Trăng lặng im nhìn người lính như trách móc, cảnh báo,
giận hờn, nhắc nhở “ánh trăng im phăng phắc/ đủ cho ta giật mình”, trước cái nhìn đó của
vầng trăng, người lính đã có một hành động hết sức bản năng “giật mình”, đây không chỉ là
một cái giật mình theo bản năng mà còn là cái giật mình của sự ăn năn, hối hận vì nhận ra sự
bạc bẽo, vô tình của mình, đã lãng quên đi những quá khứ tươi đẹp nhất của lòng mình. (7)
Toàn bộ bài thơ là câu chuyện của riêng Nguyễn Duy năm 1975, sau khi đất nước thống nhất
được ba năm, ông đã lãng quên đi quá khứ đẹp nhất của mình nhưng ta có thể thấy trong một
phần nào của mình, vì tác giả sử dụng đại từ “ta” thay cho tôi nhằm nhắc nhở con người về
đạo lí “uống nước nhớ nguồn”. (8) Xuyên suốt bài thơ ta bắt gặp hình vầng trăng “vầng trăng
thành tri kỉ”, “cái vầng trăng tình nghĩa”, … nhưng ta lại bắt gặp hình ảnh ánh trăng ở khổ
cuối, nếu vầng trăng là sự tròn đầy viên mãn thì ánh trăng là ánh sáng tinh khiết của vầng
trăng như một ánh sáng của lương tri soi vào khoảng tối nhất trong tâm hồn người khiến anh
thức tỉnh, đây chính là đạo lí “uống nước nhớ nguồn của dân tộc Việt Nam, đó là lí do
Nguyễn Duy đặt tên cho bài thơ là “ánh trăng” và cả tập thơ của ông. (9) Chao ôi, tác giả
mới tinh tế làm sao! (10) Chắc hẳn ông là người có trái tim tràn đầy tình yêu thương mới viết
được những câu thơ hay đến nhưng vậy. (11) Về nghệ thuật, tác giả sử dụng thể thơ năm
chữ, giọng thơ thay đổi theo mạch cảm xúc, ngôn ngữ thơ giàu giá trị biểu cảm, hình ảnh thơ
mang tính biểu tượng cao, ông còn sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ “trăng cứ tròn vành vạch”,
nhân hóa “ánh trăng im phăng phắc”, đối lập tương phản . (12) Tóm lại, tác giả Nguyễn Duy
đã miêu tả tinh tế cảm xúc và suy ngẫm của nhà thơ qua đoạn thơ trên, khiến em rất xúc
động.
 Chú thích: - câu bị động
= thán từ

MÙA XUÂN NHO NHỎ

-Thanh Hải -
1 Tác giả
 Thanh Hải (1930-1980) tên khai sinh là Phạm Bá Ngoãn, quê ở Thừa Thiên - Huế.
 Trong cuộc kháng chiến chống Pháp chống Mĩ, ông ở lại quê hương để hoạt động cách
mạng và tiếp tục sáng tác. Ông bắt đầu sáng tác vào năm 1954.
 Ông là người có công xây dựng nền văn học cách mạng miền Năm từ những ngày đầu.
 Tác phẩm chính: “Mùa xuân nho nhỏ”
2 Hoàn cảnh sáng tác
 Bài thơ sáng tác vào tháng 11 năm 1980 khi Thanh Hải đang nằm trên giường bệnh và
chỉ 1 tháng sau thì ông qua đời, đất nước thống nhất được 5 năm còn gặp nhiều khó
khăn.
 In trong tập “Thơ Việt Nam 1945-1985”.
3 Thể thơ 5 chữ
 Bài thơ không giới hạn về số câu số khổ mỗi câu có 5 tiếng tuân theo quy tắc gieo vần
tiếng cuối cùng của câu 1 vần với tiếng cuối cùng của các câu chẵn trên cùng 1 khổ.
4 Mạch cảm xúc
 Cảm xúc về mùa xuân thiên nhiên → Cảm xúc về mùa xuân đất nước → Suy tư và
ước nguyện của nhà thơ → Cảm xúc về mùa xuân xứ Huế.
5 Ý nghĩa nhan đề
 Đây là một nhan đề hay giàu ý nghĩa.
 Mùa xuân là một khái niệm trừu tượng thuộc về thiên nhiên, tác giả kết hợp với tính từ
“nho nhỏ” làm cho mùa xuân trở nên hữu hình, cụ thể. Nhan đề là 1 sáng tạo độc đáo
dùng theo lối ẩn dụ chỉ cuộc đời tươi đẹp ông muốn dâng trọn cho đất nước.
 Nhan đề đã thể hiện chủ đề của tác phẩm: Bộc lộ ước nguyện cống hiến khiêm
nhường, tha thiết của nhà thơ; thể hiện quan điểm về sự thống nhất giữa cái chung và
cái riêng, giữa cá nhân và cộng đồng.
BT1: Viết đoạn văn diễn dịch (10-12 câu) có sử dụng khởi ngữ, thành phần biệt lập
(gạch chân, chú thích) làm rõ khổ 1 bài thơ “Mùa xuân nhỏ nhỏ” của Thanh Hải.
(1) Cảm xúc về mùa xuân thiên nhiên được tác giả Thanh Hải miêu tả tinh tế qua khổ 1 bài
thơ “Mùa xuân nho nhỏ”. (2) Trong bài thơ, tác giả có viết:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”.
(3) Bức tranh mùa xuân của thiên nhiên được vẽ bằng vài nét chấm phá nhưng rất đặc sắc.
(4) Động từ “mọc” được đặt ở đầu câu kết hợp biện pháp đảo ngữ, từ chỉ số ít “một” nhằm
nhấn mạnh, khắc họa sự khỏe khoắn, “mọc” tiềm ẩn một sức sống mạnh mẽ, sự vươn lên trỗi
dậy giữa dòng rộng lớn, không gian mênh mông, chỉ có một bông hoa thôi nhưng không hề
gợi lên sự lẻ loi, đơn chiếc, trái lại bông hoa ấy hiện lên lung linh, sống động, tràn đầy sức
sống. (5) Màu sắc có hai gam màu hài hòa, dịu nhẹ, tươi tắn, màu xanh lam của dòng sông
hòa cùng màu tím biếc của hoa lục bình, một màu tím giản dị, thủy chung, mộng mơ và
quyến rũ, đó là màu sắc đặc trưng của xứ Huế. (6) Đẹp nhất trong bức tranh mùa xuân ấy
phải kể đến tiếng hót của chú chim chiền chiện “Ơi con chim chiền chiện/ Hót chi mà vang
trời”, tiếng chim chiền chiện là loài chim của mùa xuân. (7) Cách dùng các từ cảm thán “ơi,
chi mà” mang chất giọng ngọt ngào, đáng yêu của con người xứ Huế thân thương, gần gũi
mang nhiều sắc thái cảm xúc như một lời trách yêu. (8) Khung cảnh mùa xuân có không gian
cao rộng, màu sắc hài hòa, âm thanh vang vọng – một sắc xuân của xứ Huế, mùa xuân trong
thơ Thanh Hải chẳng có mai vàng đào thắm, cũng chẳng có muôn hoa khoe sắc màu rực rỡ,
mùa xuân trong thơ Thanh Hải thật giản dị, đằm thắm, điều đó thể hiện cảm xúc say sưa
ngây ngất, xốn xang, rạo rực của nhà thơ trước cảnh đất trời vào xuân. (9) Giọt ở đây có thể
là giọt mưa, giọt sương mùa xuân long lanh dưới ảnh mặt trời nhưng đặt trong mối liên kết
giữa hai câu thơ đứng ở đằng trước, nó lại trở thành giọt âm thanh của chú chim chiền chiện ,
một âm thanh thôi nhưng lại làm xáo động cả một không gian yên tĩnh, đem đến cho mùa
xuân một sức sống diệu kì, ở đây có sự chuyển đổi cảm giác từ thích giác đến thị giác, xúc
giác, trân trọng, nâng niu, yêu mến mùa xuân, tác giả đưa đôi bàn tay ra hứng với tất cả sự
nâng niu. (10) Chao ôi, tác giả mới tinh tế làm sao! (11) Chắc hẳn ông phải là người có tâm
hồn nhạy cảm mới viết được những câu thơ hay đến như vậy. (12) Về nghệ thuật, tác giả sử
dụng thể thơ năm chữ, giọng thơ vui vẻ, tự hào, ngôn ngữ thơ giàu giá trị biểu cảm, hình ảnh
thơ mang tính biểu tượng cao, ông còn sử dụng biện pháp đảo ngữ, thành phần gọi đáp “ơi”.
 Chú thích: - khởi ngữ
= thành phần biệt lập
BT2: Viết đoạn văn quy nạp (8-10 câu) có sử dụng câu ghép quan hệ bổ sung trợ từ
(gạch chân chú thích) làm rõ khổ 2 bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải.
(1)Trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” tác giả Thanh Hải có viết:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc dắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao”.
(2) Mùa xuân của đất nước được Thanh Hải gợi tả qua hai hình ảnh “người cầm súng”,
“người ra đồng”.(3)Đây là hai hình ảnh hoán dụ gợi tả hai nhiệm vụ trọng đại của đất nước
Việt Nam trong những năm 1980 chiến đấu để bảo vệ và lao động để dựng xây đất nước.
(4)Điệp từ “mùa xuân” cho thấy mùa xuân đến, người lính ra chiến trường, họ mang theo
những cành non để nguỵ trang, người nông dân ra đồng mang theo những nhánh mạ non để
bắt đầu một vụ gieo cấy mới, họ làm những công việc này vào màu xuân hay chính họ bằng
những công việc đầy ý nghĩa đã đem mùa xuân tươi đẹp đến mọi vùng miền của đất nước.
(5)Điệp từ “lộc” không những chỉ là chồi non lộc biếc mà còn là một sức sống mãnh liệt diệu
kì. (6)Tất cả đang lao động trong nhịp điệu lao động hăng say “Tất cả như hối hả/Tất cả như
xôn xao”, điệp từ “tất cả” kết hợp với từ láy “hối hả”,“xôn xao” gợi một không khí tất bật
khẩn trương mọi người làm việc hết mình trong vũ điệu lao động say mê ấy. (7) Chao ôi,
mùa xuân của đất nước mới tươi đẹp làm sao! (8)Chắc hẳn ông phải là người có tâm hồn
nhạy cảm mới viết được những câu thơ hay đến như vậy. (9) Về nghệ thuật không những tác
giả sử dụng thể thơ năm chữ giọng thơ vui vẻ, tự hào, hạnh phúc ngôn ngữ thơ giàu giá trị
biểu cảm hình ảnh thơ mang tính biểu tượng cao mà tác giả cong sử dụng biện pháp tu từ
hoán dụ “người cầm súng”, “người ra đồng” điệp từ “mùa xuân” “tất cả” “lộc”. (10)Tóm lại
mùa xuân của đất nước đã được Thanh Hải khắc hoạ rõ nét qua khổ thơ trên khiến em rất
xúc động.
 Chú thích: - câu ghép quan hệ bổ sung
= trợ từ
BT3: Viết đoạn văn T-P-H (8-10 câu) có sử dụng câu chứa lời dẫn trực tiếp, phép liên
kết (gạch chân, chú thích) làm rõ khổ 3 bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải.
(1) Cảm xúc về mùa xuân đất nước được tác giả Thanh Hải miêu tả tinh tế qua khổ 3 bài
thơ “Mùa xuân nho nhỏ”. (2) Trong bài thơ, tác giả có viết:
“Ðất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Ðất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.”
(3) Đến khổ ba giọng thơ của Thanh Hải đã có nhiều thay đổi, không còn là giọng thơ say
mê, háo hức, tự hào mà là giọng điệu trầm lắng, đầy chất suy tư. (4) Thanh Hải nhìn lại lịch
sử bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, ông không hiện tượng hóa lịch sử của
dân tộc mình mà nhìn thẳng vào sự thật để thấy rằng lịch sử dân tộc Việt Nam đầy những
thăng trầm với bao nỗi vất vả, gian lao, một nghìn năm chịu ách đô hộ của phong kiến
phương Bắc rồi những năm kháng chiến trường kì chống lại thực dân Pháp, đế cuốc Mĩ và
bao thế lực phản động khác. (5) Ấy thế nhưng với tình yêu tha thiết dành cho đất nước, ông
tin tưởng dân tộc sẽ vượt qua bao nỗi khó khăn “Đất nước như vì sao/ Cứ đi lên phía trước”.
(6) Nghệ thuật so sánh “Đất nước như vì sao”, “sao” là một nguồn ánh sáng lấp lánh, là vẻ
đẹp vĩnh hằng vượt qua mọi không gian và thời gian kết hợp với từ ngữ mang tính khẳng
định “cứ đi lên” chính là niềm tin mãnh liệt và lòng tự hào của Thanh Hải, dân tộc Việt Nam
tuy nhỏ bé nhưng kiên cường vượt qua bao nỗi gian lao để tỏa sáng trên bầu trời, sánh vai
với các cường quốc năm châu. (7) Chao ôi, tác giả mới tinh tế làm sao! (8) Chắc hẳn ông
phải là người có tâm hồn nhạy cảm mới viết được những câu thơ hay đến như vậy. (9) Tóm
lại, bằng nghệ thuật đặc sắc, thể thơ năm chữ, giọng thơ trầm lắng suy tư, ngôn ngữ thơ giàu
giá trị biểu cảm, hình ảnh thơ mang tính biểu tượng cao, biện pháp tu từ so sánh “đất nước
như vì sao”, tác giả Thanh Hải đã khắc họa rõ nét bức tranh mùa xuân của đất nước qua đoạn
thơ trên khiến em rất xúc động.
 Chú thích: - câu chứa lời dẫn trực tiếp
= Phép liên kết (phép thế)
BT4: Viết doạn văn diễn dịch (8-10 câu) có sử dụng thành phần cảm thán, phép liên kết
(gạch chân, chú thích), làm rõ khổ 4 bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải.
(1) Suy ngẫm và ước nguyện cống hiến của nhà thơ được tác giả Thanh Hải miêu tả tinh tế
qua khổ 4 bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”. (2) Trong bài thơ, tác giả có viết:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến.”
(3) Thanh Hải muốn được làm con chim đem tiếng hát cống hiến cho cuộc đời, một cành hoa
đầy hương sắc là những gì tinh túy nhất của một vườn cây, ông muốn làm một nốt trầm, nốt
nhạc có âm điệu thấp nhất nhưng lại không thể thiếu để tạo nên sự xao xuyến cho bản hòa
ca. (4) Những hình ảnh bình dị nhưng lại là những gì tinh túy nhất của cuộc đời. (5) Một loạt
những hình ảnh ẩn dụ đẹp “con chim”, “cành hoa”, “nốt trầm” kết hợp với điệp từ “ta làm, ta
nhập” cho thấy Thanh Hải muốn được cống hiến phần đời đẹp nhất nhưng không ôn ào,
không khoa trương mà chân thành và rất đỗi khiêm tốn. (6) Khát vọng cống hiến ấy càng trở
nên cháy bỏng hơn qua việc lặp lại những hình ảnh đã xuất hiện ở khổ một “bông hoa”, “con
chim” nhưng nét đặc biệt nếu ở khổ một tác giả sử dụng đại từ “tôi”, đây là cái say sưa, ngất
ngây của riêng nhà thơ trước vẻ đẹp tuyệt vời của Thanh Hải thì đến khổ này, tác giả đã sử
dụng đại từ “ta” để thể hiện đây không chỉ là ước nguyện của riêng nhà thơ mà là của tất cả
mọi người. (7) Chao ôi, ước nguyện cống hiến của Thanh Hải mới đẹp làm sao! (8) Chắc hẳn
ông phải là người có trái tim tràn đầy tình yêu thương mới viết được những câu thơ hay đến
như vậy. (9) Về nghệ thuật, tác giả sử dụng thể thơ năm chữ, giọng thơ tha thiết, ngôn ngữ
thơ giàu giá trị biểu cảm, hình ảnh thơ mang tính biểu tượng cao. (10) Tác giả còn sử dụng
biện pháp tu từ liệt kê kết hợp ẩn dụ “con chim”, “cành hoa”, “nốt trầm”, điệp từ “ta làm, ta
nhập”.
 Chú thích: - thành phần cảm thán
= Phép liên kết (đồng nghĩa)
BT5: Viết đoạn văn quy nạp (8-10 câu) có sử dụng câu hỏi tu từ, khởi ngữ (gạch chân
chú thích) làm rõ khổ 5 bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”của Thanh Hải.
(1) Trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” tác giả Thanh Hải có viết:
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”
(2) Ông muốn được làm “một màu xuân nho nhỏ” để “lặng lẽ dâng cho đời”, đây là hình ảnh
ẩn dụ đặc sắc nhất trong bài thơ kết hợp nhân hoá “mùa xuân – lặng lẽ dâng”, đảo trật tự cú
pháp “lặng lẽ dâng cho đời” thể hiện khát vọng được cống hiến phần đời đẹp nhất của mình.
(3) Trước Thanh Hải chưa từng có một hình ảnh thơ vừa lạ vừa hồn nhiên nhưng lại rất đỗi
thân thương như vậy. (4) Hình ảnh mùa xuân nho nhỏ khiên nhường nhưng kiêu hãnh biết
bao bởi sự ý thức về giá trị của cuộc đời về hạnh phúc, hiến dâng đón nhận, mùa xuân nhỏ
cũng tự nhiên hoà vào mùa xuân lớn của dân tộc nhưng không ồn ào náo nhiệt mà lặng thầm
khiêm tốn biết chừng nào. (5) Với nhà thơ đã cống hiến là phải cống hiến hết mình dù là
đang ở trong giai đoạn nào của cuộc đời “Dù là tuổi hai mươi /Dù là khi tóc bạc”. (6) Biện
pháp điệp từ “dù là” kết hợp với hình ảnh hoán dụ, liệt kê “tuổi hai mươi”, “khi tóc bạc” cho
thấy đây không chỉ là ước nguyện cống hiến của riêng nhà thơ mà còn là lời nhắn nhủ tha
thiết chân thành của Thanh Hải muốn gửi đến cuộc đời: Mỗi người dù bạn là ai hãy cống
hiến phần đời đẹp nhất để tạo ra màu xuân cho cả dân tộc, quả đúng là:
“Nếu là con chim, chiếc lá
Con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào có vay mà không có trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”
(Một khúc ca mùa xuân - Tố Hữu)
(7) Chao ôi, ước nguyện cống hiến của Thanh Hải mới chân thành làm sao! (8) Phải chăng
ông phải là người có trái tim tràn đầy tình yêu thương mới viết được những câu thơ hay đến
như vậy. (9) Về nghệ thuật, tác giả sử dụng thể thơ năm chữ giọng thơ tha thiết ngôn ngữ thơ
giàu giá trị biểu cảm hình ảnh thơ mang tính biểu tượng cao, tác giả còn sử dụng biện pháp
tu từ nhân hoá “mùa xuân- lặng lẽ dâng”, ẩn dụ, đảo trật tự cú pháp, điệp từ, hoán dụ. (10)
Tóm lại, ước nguyện cống hiến của nhà thơ đã được Thanh Hải miêu tả tinh tế qua khổ thơ
trên khiến em rất xúc động.
 Chú thích: - câu hỏi tu từ
= khởi ngữ
BT6: Viết đoạn văn diễn dịch (6-8 câu) có sử dụng thán từ, câu bị động (gạch chân chú
thích) làm rõ khổ 6 bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải.
(1) Cảm xúc về mùa xuân xứ Huế được tác giả Thanh Hải miêu tả tinh tế qua khổ 6 bài thơ
“Mùa xuân nho nhỏ”. (2) Trong bài thơ tác giả có viết:
“Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế”.
(3) Khép lại bài thơ chính là những cảm xúc của Thanh Hải về mùa xuân xứ Huế, đây là
tiếng lòng sâu thẳm, là một góc tâm tư Thanh Hải dành riêng cho quê hương mình. (4) Nhà
thơ cất lên những bản nhạc mang đậm bản sắc xứ Huế. (5) “Nam ai” là khúc nhạc có giai
điệu buồn thương, còn “Nam bình” thì dịu dàng, man mác, hoà vào tiếng hát quê hương ấy là
nhịp phách tiền- một nhạc cụ nổi tiếng, những giai điệu trầm lắng, suy tư nhưng lại dịu dàng
tha thiết chính là tình yêu ông dành cho quê hương mình. (6) Chao ôi, tác giả mới tinh tế làm
sao! (7) Chắc hẳn ông phải là người có tâm hồn nhạy cảm mới viết được những câu thơ hay
đến như vậy. (8) Về nghệ thuật tác giả sử dụng thể thơ năm chữ giọng thơ tha thiết ngôn ngữ
thơ giàu giá trị biểu cảm hình ảnh thơ mang tính biểu tượng cao, tác giả còn sử dụng biện
pháp điệp từ “nước non”.
 Chú thích: - thán từ
= câu bị dộng
VIẾNG LĂNG BÁC
-Viễn Phương-
1 Tác giả
 Viễn Phương (1928-2005) tên thật là Phan Thanh Viễn, quê ở An Giang.
 Trong thời kì kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ ông hoạt động ở Nam Bộ. Ông là
một trong những cây bút có mặt sớm nhất trong lực lượng văn nghệ giải phóng miền
Nam
 Thơ ông trong trẻo, nhẹ nhàng, đầy tình cảm.
 Tác phẩm chính: “Viếng lăng bác”
2 Hoàn cảnh sáng tác
 Bài thơ sáng tác vào tháng 4 năm 1976 sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc
thắng lợi, đất nước thống nhất, lăng chủ tịch Hồ Chí Minh vừa khánh thành, Viễn
Phương cùng đoàn đại biểu miền nam ra thăm miền bắc, vào lăng viếng Bác. Bài thơ
được sáng tác trong dịp đó.
 In trong tập thơ “Như mây mùa xuân” (năm 1978).
3 Mạch cảm xúc
 Đi theo trình tự thời gian không gian, mạch cảm xúc, hành trình viếng lăng Bác.
BT1: Viết đoạn văn diễn dịch (8 - 10 câu) có sử dụng khởi ngữ, thành phần biệt lập
(gạch chân chú thích) làm rõ khổ 1 bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương.
(1) Cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác được tác giả Viễn Phương khắc họa rõ
nét qua khổ 1 bài thơ “Viếng lăng Bác”. (2) Trong bài thơ, tác giả có viết:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”.
(3) Câu thơ mở đầu như 1 lời thông báo Viễn Phương cùng đoàn đại biểu miền Nam lần đầu
tiên ra thăm lăng Bác. (4) Thông báo nhưng cũng rất giàu sắc thái biểu cảm thông qua cách
sử dụng từ ngữ, cách xưng hô “Con - Bác” gần gũi, chân thành, tạo cảm giác như 1 cuộc
thăm giữa những người thân trong gia đình, thân mật nhưng rất đỗi trang trọng bởi từ “Bác”
được Viễn Phương viết hoa, đầy thành kính. (5) Lối nói giảm nói tránh “thăm” chính là một
lời khẳng định Bác vẫn còn sống mãi, bất tử với non sông và làm giảm bớt sự đau buồn. (6)
Từ xa nhìn lại, hình ảnh để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong tâm trí Viễn Phương chính là
hình ảnh hàng tre:
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
(7) Hàng tre nổi bật giữa không gian mênh mông, rộng lớn, tre với sức sống mãnh liệt, sự
chịu đựng dẻo dai, kiên cường đã khiến Viễn Phương có sự liên tưởng độc đáo đến đất nước
và con người Việt Nam với những phẩm chất tuyệt vời, trung thực, kiên cường, hình ảnh ẩn
dụ “hàng tre” cho thấy tre bao quanh lăng Bác hay chính là người dân Việt Nam thầm lặng,
bền bỉ ở bên người bất chấp khó khăn, gian khổ “bão táp mưa sa”, xúc động đến nghẹn ngào,
Viễn Phưỡng đã thốt lên “Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam”, “Ôi” là câu cảm thán biểu thị
niềm xúc động của tác giả trước hình ảnh hàng tre. (8) Chao ôi, tác giả mới tinh tế làm sao!
(9) Chắc hẳn ông phải là người có tâm hồn nhạy cảm mới viết được những câu thơ hay đến
như vậy. (10) Về nghệ thuật, tác giả sử dụng thể thơ tự do, giọng thơ tự hào, thành kính,
trang nghiêm, ngôn ngữ thơ giàu giá trị biểu cảm, hình ảnh tho mang tính biểu tượng cao, tác
giả còn sử dụng biện pháp nói giảm nói tránh “thăm”, ẩn dụ “hàng tre”, thành ngữ “bão táp
mưa sa”.
 Chú thích: - thành phần biệt lập
= khởi ngữ
BT2: Viết đoạn văn quy nạp (7 – 9 câu) có sử dụng câu hỏi tu từ, phép lặp (gạch chân
chú thích) làm rõ khổ 2 bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương.
(1) Trong bài thơ “Viếng lăng Bác”, tác giả Viễn Phương có viết:
“Ngày ngày mặt trời đi qua đi trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết trào hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
(2) Khổ thơ được tạo nên từ cặp câu với những hình ảnh thực và ẩn dụ sóng đôi. (3) Hình
ảnh mặt trời ở câu trên là hình ảnh thực, một mặt trời thiên nhiên rực rỡ, vĩnh hằng ngày
ngày đi qua lăng Bác, còn “mặt trời” ở câu dưới là hình ảnh ẩn dụ - hình ảnh Bác Hồ, màu
sắc “rất đỏ” làm cho câu thơ có hình ảnh đẹp, gây ấn tượng sâu xa hơn, nói lên tư tưởng cách
mạng, lòng yêu nước nồng nàn của Bác. (4) Thông qua hình ảnh ẩn dụ trên, tác giả vừa nói
lên sự vĩ đại của Bác Hồ (như mặt trời) vừa thể hiện sự tôn kính, biết ơn của nhân dân, của
nhà thơ đối với Bác , Bác là vầng mặt trời đem lại cuộc sống, ánh sáng của độc lập tự do cho
dân tộc Việt Nam. (5) Hình ảnh “dòng người đi trong thương nhớ” đã sử dụng biện pháp ẩn
dụ chuyển đổi cảm giác để diễn tả ngày ngày dòng người đi trong nỗi xúc động, bồi hồi,
trong lòng tiếc thương, kính cẩn, nặng trĩu nỗi nhớ thương, nhịp thơ chậm, giọng thơ trầm
như những bước chân dòng người vào lăng Bác, họ kết thành những tràng hoa, đây không
chỉ là hình ảnh tả thực, những dòng người xếp thành hàng dài vào lăng Bác trông như những
tràng hoa vô tận, mà còn là một ẩn dụ đẹp, sáng tạo của nhà thơ, cuộc đời của họ đã nở hoa
dưới ánh sáng của Bác, những bông hoa tươi thắm đó đang dâng lên Người những gì tốt đẹp
nhất “dâng bảy mưới chín mùa xuân” là hình ảnh hoán dụ mang ý nghĩa trừu tượng, con
người bảy mươi chín mùa xuân ấy đã sống một cuộc đời đẹp như những mùa xuân và đã là
ra những mùa xuân cho đất nước, cho con người. (6) Chao ôi, tác giả mới tinh tế làm sao! (7)
Phải chăng ông là người có tâm hồn nhạy cảm mới viết được những câu thơ hay đến như
vậy? (8) Tóm lại, bằng nghệ thuật đặc sắc, thể thơ tự do, giọng thơ tự hào, thành kính, trang
nghiêm, ngôn ngữ thơ giàu giá trị biểu cảm, hình ảnh thơ mang tính biểu tượng cao, biện
pháp ẩn dụ “Mặt trời”, điệp từ “ngày ngày”, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “dòng người đi trong
thương nhớ”, hoán dụ “bảy mươi chín mùa xuân”, tác giả Viễn Phương đã khắc họa rõ nét
cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác qua khổ tho trên khiến em rất xúc động.
 Chú thích: - Câu hỏi tu từ
= Phép lặp
BT3: Viết đoạn văn T-P-H (8 – 10 câu) có sử dụng câu nghi vấn, khởi ngữ (gạch chân
chú thích) làm rõ khổ 3 bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương.
(1) Cảm xúc của nhà thơ khi ở trong lăng Bác được tác giả Viễn Phương mêu tả tinh tế qua
khổ 3 bài thơ “Viếng lăng Bác”. (2) Trong bài thơ, tác giả có viết:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!”
(3) Niềm biết ơn thành kính đã chuyển sang niềm xúc động nghẹn ngào khi bước chân vào
trong lăng, tác giả nhìn thấy: “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên - Giữa một vầng trăng sáng
dịu hiền”, không gian như dừng trôi, thời gian như đọng lại, giọng thơ trùng xuống đầy trầm
tư. (4) Bằng biện pháp ói giảm nói tránh “giấc ngủ bình yên” nhà thơ như thấy Bác đang
thanh thản trong giấc ngủ giữa một vầng trăng sáng dịu hiền, ánh sáng dịu nhẹ trong lăng
Bác được tác giả liên tưởng thật thú vị “ánh trăng”. (5) Hình ảnh này cho thấy nhà thơ am
hiểu Bác, những vần thơ của bác tràn đầy ánh trăng, trăng với Bác đã từng vào thơ Bác,
trong nhà lao, trên chiến trận, giờ đây cũng đến để ru giấc ngủ ngàn thu cho Người, hình ảnh
ẩn dụ “vầng trăng sáng dịu hiền” còn gọi cho ta nghĩ đến tâm hồn cao đẹp, trong sáng của
Bác, Người có lúc như mặt trời ấm áp, có lúc dịu hiền như ánh trăng rằm, tâm trạng xúc
động của nhà thơ còn được biểu hiện bằng một hình ảnh ẩn dụ sâu xa “Vẫn biết trời xanh là
mãi mãi”, Bác ra đi nhưng hóa thân vào thiên nhiên đất trời của dân tộc, sống mãi trong sự
nghiệp và tâm trí cả nhân dân như bầu trời xanh vĩnh viễn trên trời cao. (6) Dù vẫn tin là thế
nhưng nhà thơ khoong thể không đau xót trước sự ra đi của Người, nỗi đau xót xa đã được
nhà thơ biểu hiện cụ thể, trực tiếp: “Mà sao nghe nhói ở trong tim!”, động từ mạnh “nhói”
kết hợp với biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “nghe nhói ở trong tim” đã diễn tả chân
thành và cảm động nỗi đau quặn thắt, tê tái trong đáy sâu tâm hồn như hàng nghìn mũi kim
đâm vào trái tim thổn thức khi đứng trước thi hài của Người, khổ thơ chính là sự đối lập giữa
lí trí và tình cảm. (7) Chao ôi, cảm xúc của Viễn Phương khi ở trong lăng Bác thật xúc động
làm sao! (8) Chắc hẳn ông phải là người có tâm hồn nhạy cảm mới viết được những câu thơ
hay đến như vậy. (9) Còn nghệ thuật thì sao? (10) Về nghệ thuật, tác giả sử dụng thể thơ tự
do, giọng thơ tự hào, thành kính, trang nghiêm, ngô ngữ thơ giàu giá trị biểu cảm, hình ảnh
thơ mang tính biểu tượng cao, tác giả còn sử dụng biện pháp nói giảm nói tránh “giấc ngủ
bình yên”, ẩn dụ “vầng trăng sáng dịu hiền”, “trời xanh là mãi mãi”, ẩn dụ chuyển đổi cảm
giác “nghe nhói ở trong tim”. (11) Tóm lại, tác giả Viễn Phương đã khắc họa rõ nét cảm xúc
của nhà thơ khi ở trong lăng Bác qua khổ thơ trên khiến em rất xúc động.
*Chú thích: - Câu nghi vấn
= Khỏi ngữ
BT4: Viết đoạn văn diễn dịch (8 – 10 câu) có sử dụng câu đặc biệt, câu ghép (gạch chân
chú thích) làm rõ khổ 4 bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương.
Bài làm
(1)Cảm xúc của nhà thơ khi rời lăng Bác được tác giả Viễn Phương khắc họa rõ nét qua khổ
4 bài thơ “Viếng lăng Bác”. (2)Trong bài thơ, tác giả có viết:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”
(3)Nghĩ đến giây phút phải rời xa lăng Bác, Viễn Phương đau đớn vô cùng, nước mắt tuôn
trào rồi mơ ước bùng cháy mãnh liệt:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm cho chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
(4) Nhà thơ muốn được làm con chim để đem đến cho Bác niềm vui, muốn làm cành hoa để
tỏa hương làm đẹp cho lăng Người, cao cả hơn ông muốn được làm cây tre trung hiếu để hòa
vào hàng tre bao quanh lăng Bác vĩnh viễn không phải rời xa. (5) Đây là hình ảnh đã xuất
hiện ở khổ đầu giờ được lặp lại ở khổ cuối tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng nhưng mang
nét nghĩa bổ sung “trung hiếu”. (6) Từ hình ảnh “hàng tre” biểu tượng cho nhân dân, cho đất
nước, nó đã trở thành ước nguyện sống cao đẹp, trung thành với lí tưởng Bác đã lựa chọn,
trung với Đảng, hiếu với dân. (7) Ước nguyện ấy càng trở nên tha thiết, cháy bỏng hơn bởi
điệp từ “muốn làm” được lặp đi lặp lại ở đầu các câu thơ kết hợp liệt kê, ẩn dụ “con chim,
cành hoa, cây tre”, ba câu thơ, ba ước nguyện sống đều được Viễn Phương viết dưới dạng
câu rút gọn, phải chăng đây không chỉ là ước nguyện của riêng Viễn Phương mà là của cả
đất nước, dân tộc Việt Nam và biết bao người khác nữa. (8) Chao ôi! (9) Tác giả là người
thật tinh tế. (10) Chắc hẳn ông phải là người có tâm hồn nhạy cảm mới viết được những câu
thơ hay đến như vậy. (11) Về nghệ thuật, tác giả sử dụng thể thơ tự do, giọng thơ tự hào,
thành kính, trang nghiêm, ngô ngữ thơ giàu giá trị biểu cảm, hình ảnh thơ mang tính biểu
tượng cao, tác giả còn sử dụng biện pháp điệp từ “muốn làm”, liệt kê kết hợp ẩn dụ “con
chim, cành hoa, cây tre”, kết cấu đầu cuối tương ứng.
*Chú thích: - Câu ghép
= Câu đặc biệt
SANG THU
-Hữu Thỉnh-
1 Tác giả
 Hữu Thỉnh sinh năm 1942, tên thật Nguyễn Hữu Thỉnh, quê ở Vĩnh Phúc.
 Năm 1963, ông nhập ngũ hoạt động trong binh chủng tăng thiết giáp rồi thành cán bộ
văn hóa tuyên huấn quân đội. Ông tham gia ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam các
khóa III, IV, V. Ông từng là tổng thư kí Hội nhà văn Việt Nam.
 Tác phẩm chính: “Sang thu”.
2 Hoàn cảnh sáng tác
 Bài thơ sáng tác vào mùa thu năm 1977, khi tác giả tham dự sáng tác do quân đội tổ
chức ở làng Khương Thượng – Khương Hạ – Đống Đa – Hà Nội. Khi đất nước thống
nhất được 2 năm còn gặp nhiều khó khăn. In trong tập: Từ chiến hào đến thành phố.
3 Mạch cảm xúc
 Từ những chuyển biến còn mơ hồ trong khoảnh khắc giao mùa từ hạ sang thu, đến sự
chuyển biến ngày càng rõ rệt và cuối cùng gợi sự triết lí của nhà thơ về con người,
cuộc đời, đất nước.
4 Ý nghĩa nhan đề
 Đây là một nhan đề đặc biệt, vị ngữ “sang” được đảo lên đứng trước chủ ngữ, nó nhấn
mạnh sự chuyển giao của thiên nhiên đất trời từ cuối hạ sang thu, đồng thời cho ta
thấy được những rung chuyển tinh tế của nhà thơ trong thời khắc chuyển giao.
BT1: Viết đoạn văn diễn dịch (10-12 câu) có sử dụng câu ghép đẳng lập, lời dẫn trực
tiếp (gạch chân, chú thích) làm rõ khổ 1 bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh.
(1) Mùa thu đến với làng quê Việt Nam được tác giả Hữu Thỉnh khắc họa rõ nét qua khổ
một bài thơ “Sang thu”. (2) Trong bài thơ, tác giả có viết:
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”
(3) Khổ thơ trên là những cảm nhận rất đỗi tinh tế ban đầu của nhà thơ trước tín hiệu thu về,
sự chuyển biến của sự vật cùng với nét đặc trưng của thu về, đã đánh thức những giác quan
tinh tế của nhà thơ. (4) Bắt gặp bằng hương ổi náo nức “phả” vào trong gió se – cơn gió đặc
trưng của mùa thu đất Bắc, động từ “phả” gợi hương thơm như sánh lại, đậm đà luồn vào
trong gió làm thức dậy cả không gian, vườn ngõ. (5) Từ “Bỗng” thể hiện sự bất ngờ, đột
ngột, có phần ngỡ ngàng, ngạc nhiên của tác giả trước sự thay đổi của thời tiết, thiên nhiên.
(6) và tín hiệu thu về, không chỉ là gió, là hương ổi mà là “Sương chùng chình qua ngõ”,
“chùng chình” là cố tình đi chậm lại, giăng mắc nhẹ nhàng nơi đường thôn ngõ xóm, biện
pháp tu từ nhân hóa là cho sương trở lên có tâm trạng buâng khuân, bịn rịn, ngập ngừng, lưu
luyến làm cho cảnh vật thêm hữu tình. (7) Nó cũng thể hiện sự dao động nhẹ nhàng của
sương thu, đồng thời diễn tả những bước đi chậm rãi của thời gian, một sự lưu luyến đầy tiếc
nuối của con người. (8) Cái ngõ mà sương chùm chình đi qua không chỉ là ngõ thực mà còn
là ngõ giao giữa hai mùa, bước chân mùa thu thật mềm mại, thu đến thật nhẹ nhàng, khiến
cho tác giả bố rối “Hình như thu đã về”. (9) Thành phần tình thái “hình như” là mơ hồ chưa
rõ ràng, ngỡ ngàng, thảng thốt, bối rối, xao xuyến của nhà thơ trước sự thoáng đi bất chợt
của màn đêm, quả thật trong khổ thơ thứ nhất tâm hồn Hữu Thỉnh đã di chuyển biến nhịp
nhàng cùng phút giao mùa, nhà thơ đã mở rộng các giác quan để cảm nhận thu về, bắt đầu
bằng khướu giác “hương ổi” rồi đầy xúc giác “gió se”, thính giác “sương chùng chình”, cuối
cùng là tâm hồn và lí trí “Hình như thu đã về”. (10) Chao ôi, tác giả mới tinh tế làm sao! (11)
Chắc hẳn ông là người có tâm hồn nhạy cảm mới viết được những câu thơ hay đến như vậy.
(12) Về nghệ thuật, tác giả sử dụng thể thơ 5 chữ, giọng thơ nhẹ nhàng chữ tình, ngôn ngữ
giàu giá trị biểu cảm, hình ảnh thơ mang tính biểu tượng cao và ông còn sử dụng biện pháp
tu từ nhân hóa “sương chùng chình qua ngõ”, thành phần tình thái “hình như”.
 Chú thích: - lời dẫn trực tiếp
= câu ghép đẳng lập
BT2: Viết đoạn văn quy nạp (8-10 câu) có sử dụng câu hỏi tu từ, phép lặp (gạch chân,
chú thích) làm rõ khổ 2 bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh.
(1) Trong bài thơ “Sang thu”, tác giả Hữu Thỉnh có viết:
“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”
(2) Chưa thật tin mùa thu đã về tác giả tiếp tục phóng tầm mắt bao quát toàn bộ thế giới từ
tầng thấp đến tầng cao: “sông được lúc dềnh dàng/ chim bắt đầu vội”. (3) Cũng giống
“chùng chình”, “dềnh dàng” là cố tình chậm lại, cách sử dụng từ láy kết hợp biện pháp tu từ
nhân hóa khiến dòng sông giống như một thi nhân đang thả hồn mình để chìm để chìm vào
vạn vật, trái lại những cách chim đang mải miết đi về phương tây tránh rét, gợi một nhịp
sống hối hả, khẩn trương. (4) Đặc sắc nhất là hình ảnh “Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình
sang thu”, hình ảnh “Đám mây mùa hạ” được nhà thơ cảm nhận đầy thú vị qua sự liên tưởng
độc đáo “Vắt nửa mình sang thu”. (5) Hình ảnh nhân hóa có tính tạo hình trong không gian
nhưng lại có nghĩa diễn tả sự vận động của thời gian, nó gợi hình ảnh một làn mây mỏng,
nhẹ, kéo dài của mình, hạ còn sót những lưu luyến, đó vẻ đẹp của bầu trời sang thu. (6) Cảm
giác gieo mùa được diễn tả cụ thể và tinh tế bằng hình ảnh đám mây mùa hạ như đang bước
vào ngưỡng cửa của mùa thu, đường giữa mùa thu có một ranh giới cụ thể, hữu hình, biểu
hiện, liên tưởng điều thú vị, không chỉ cảm nhận bằng thị giác mà còn cảm nhận bằng tâm
hồn, nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết của Hữu Thỉnh. (7) chao ôi, tác giả mới tinh tế làm
sao! (8) Chẳng phải ông là người có tâm hồn nhạy cảm mới viết được những câu thơ hay đến
như vậy. (9) Tóm lại, bằng nghệ thuật, tác giả sử dụng thể thơ năm chữ, giọng thơ nhẹ nhàng
chữ tình, ngôn ngữ giàu giá trị biểu cảm, hình ảnh thơ mang tính biểu tượng cao và ông còn
sử dụng biện pháp tu từ đối lập tương phản “Sông dềnh dàng – chim vội vã”, nhân hóa, tác
giả Hữu Thỉnh miêu tả tinh tế mùa thu đến với đất nước Việt Nam qua khổ thơ trên, khiến
em rất xúc động.
 Chú thích: - Câu hỏi tu từ
= Phép lặp
BT3: Viết đoạn văn T-P-H (8-10 câu) có sử dụng (gạch chân, chú thích), làm rõ khổ 3
bài thơ “Sang thu” của tác giả Hữu Thỉnh.
(1) Cảm xúc và suy nghĩa của nhà thơ được tác giả Hữu Thỉnh khắc họa rõ nét qua khổ 3
bài thơ “Sang thu”. (2) Trong bài thơ, tác giả có viết:
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”
(3) Ở khổ thơ này Hữu Thỉnh tiếp tục đưa ra những tín hiệu của mùa thu đồng thời gửi gắm
những trải niệm về cuộc sống con người “Vẫn còn bao nhiêu nắng/ Đã vơ dần cơ mưa”. (4)
Với nghệ thuật đối lập tương phản, đảo ngữ quả hình ảnh “vẫn còn”, “vơi dần”, “nắng mưa”
cho thấy thu vẫn mang trong mình cái nắng rực rỡ chói chang của mùa hạ ngược lại những
cơn mưa đã vơi dần, bớt dần, và chuyển sang mưa, cơn mưa của mùa thu, thiên nhiên vẫn
trong trạng thái giao mùa, quả những cảm nhận rất dỗi tinh tế của thời gian. (5) Song hay
nhất trong bài thơ phải kể đến hai câu thơ cuối với những hình ảnh đặc sắc: “Sấm cũng bớt
bất ngờ/ Trên hàng cây đứng tuổi” hai câu thơ vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa mang tính biểu
tượng. (6) Sang thu sấm thưa và nhỏ dần không còn đủ sức vang động hàng cây đã bao mùa
thay lá, nhưng cái tinh tế của nhà Hữu Thỉnh là ông đã xây dựng hình ảnh thơ bằng biện
pháp tu từ ẩn dụ, nhân hóa liên tưởng, “sấm” biểu tượng cho những khó khăn, vất vả của
cuộc đời, “hàng cây đứng tuổi” biểu tượng cho những con người từng trải nenn họ vững
vàng, bình tĩnh trước những bất thời của ngoại cảnh của cuộc đời, mặt khác đất trời sang thu
khiến cho lòng người bâng khuâng cảm xúc, gợi bao suy nghĩa sâu xa, kín đáo về đời lúc
sang thu. (7) Chao ôi, tác giả mới tinh tế làm sao! (8) Chẳng phải ông là người có tâm hồn
nhạy cảm mới viết được những câu thơ hay đến như vậy. (9) Tóm lại, bằng nghệ thuật, tác
giả sử dụng thể thơ 5 chữ, giọng thơ nhẹ nhàng chữ tình, ngôn ngữ giàu giá trị biểu cảm,
hình ảnh thơ mang tính biểu tượng cao và ông còn sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa, tóm lại
tác giả Hữu Thỉnh đã miêu tả tinh tế cảm xúc và suy nghĩa của nhà thơ qua khổ thơ trên,
khiến em rất xúc động.
 Chú thích: - thành phần biệt lập (câm cảm thán)
= phép liên kết
NÓI VỚI CON
-Y Phương-
1 Tác giả
 Y Phương (1948-2022) tên thật là Hứa Vĩnh Sước, là người dân tộc Tày, quê ở Cao
Bằng.
 Năm 1968, ông nhập ngũ hoạt động trong quân đội. Năm 1981, ông chuyển về công
tác tại Sở văn hóa Thông tin tỉnh Cao Bằng. Ông là chủ tịch Hội văn học nghệ thuật
Cao Bằng, Ủy viên Ban chấp hành hội Văn học Việt Nam khóa VI.
 Thơ ông chân thật mạng mẽ với tuy duy của người miền núi.
 Năm 2007, ông được nhận giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
 Tác phẩm chính: “Nói với con”
2 Hoàn cảnh sáng tác
 Bài thơ được sáng tác vào năm 1980, là lời của Y Phương nói với người con khi con
tròn một tuổi, đất nước thống nhất được 5 năm còn gặp nhiều khó khăn.
 In trong tập: “Thơ Việt Nam 1945 – 1985”
3 Mạch cảm xúc
 Từ tình cảm gia đình mở rộng ra là tình cảm quê hương, từ kỉ niệm gần gũi, tha thiết
mà nâng niu thành lẽ sống.
BT1: Viết đoạn văn diễn dịch (8-10 câu) có sử dụng câu bị động, khởi ngữ (gạch chân,
chú thích) làm rõ khổ một bài thơ "Nói với con" của Y Phương.
(1) Lời của cha nói với con về cội nguồn sinh dưỡng được tác giả Y Phương miêu tả tinh tế
qua khổ một bài thơ "Nói với con". (2) Trong bài thơ, tác giả có viết:
"Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười".
(3) Bốn câu mở đầu với cách miêu tả tỉ mỉ kết hợp với biện pháp tu từ điệp ngữ "chân phải,
chân trái, một bước, hai bước", điệp cấu trúc tác giả đã vẽ ra cảnh một đứa trẻ đang ở độ tuổi
tập nói, tập đi, xung quanh nó là bàn tay chăm bẵm chờ đón và ánh mắt nâng niu của cha và
mẹ. (4) Biện pháp tu từ liệt kê kết hợp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác "chạm tiếng nói, tới tiếng
cười" đã diễn tả tiếng nói cười vang lên rộn rã, một gia đình hạnh phúc, đầm ấm, đứa trẻ lúc
sà vào lòng mẹ, lúc lại đến bên cha, người đọc như nhìn thấy ánh mắt hồi hộp, tiếng đếm thì
thầm "một bước, hai bước", mỗi bước chân chập chững của con là niềm hạnh phúc lại vỡ òa,
con là tất cả những gì tuyệt vời nhất của cả cha lẫn mẹ. (5) Không những thế con còn được
sinh ra và lớn lên giữa một quê hương tuyệt vời "Người đồng mình yêu lắm con ơi", cách
dùng từ dân dã "người đồng mình" là người vùng miền, người miền mình, những người cùng
sống trên quê hương, cùng một dân tộc kết hợp lời mời gọi "yêu lắm con ơi" khiến cho câu
thơ trở nên thật ngọt ngào da diết. (6) Người đồng mình rất đáng yêu hay đó là tình yêu của
cha với người đồng mình? (7) Người đồng mình vừa cần cù, khéo léo, tài hoa, lại có một tâm
hồn lạc quan luôn hướng tới cái đẹp, "đan lờ" để đánh bắt cá, ken vách để dựng nhà, những
công việc đơn điệu, vất vả nhưng lại được họ làm bằng tất cả sự sáng tạo say mê, công cụ
đánh bắt cá phút chốc trở thành một tác phẩm nghệ thuật với những bông hoa được cài, ken
vách những tiếng hát lại cất lên đầy lạc quan con người quê hương thật tuyệt vời, thiên nhiên
lại thơ mộng, nghĩa tình "Rừng cho hoa/ Con đường cho những tấm lòng", biện pháp nhân
hóa kết hợp ẩn dụ đã tả thực vẻ đẹp của rừng hoa gợi sự giàu có của thiên nhiên, thiên nhiên
đã dâng tặng cho con người tất cả mọi thứ, những gì đẹp nhất mà mình đang có: "Cha mẹ
mãi nhớ về ngày cưới/ Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời", cho đến tận bây giờ, cha vẫn mãi
ghi nhớ về ngày cưới của mình, đó là ngày đánh dấu sự ra đời của một gia đình hạnh phúc
của cha, của mẹ, của con, như vậy con đang được tận hưởng những gì đẹp nhất của cả gia
đình và quê hương. (8) Chao ôi, tác giả mới tinh tế làm sao! (9) Chắc hẳn ông phải là người
có tâm hồn nhạy cảm mới viết được những câu thơ hay đến như vậy. (10) Về nghệ thuật, tác
giả sử dụng thể thơ tự do, giọng thơ thay đổi theo mạch cảm xúc, ngôn ngữ thơ giàu giá trị
biểu cảm, hình ảnh thơ mang tính biểu tượng cao, tác giả còn sử dụng biệp pháp tu từ điệp
ngữ "chân phải, chân trái, một bước, hai bước", ẩn dụ chuyển đổi cảm giác "chạm tiếng nói,
tới tiếng cười", nhân hoá kết hợp ẩn dụ "rừng cho hoa, con đường cho những tấm lòng".
 Chú thích : - Câu bị động
= Khởi ngữ
BT2: Viết đoạn văn quy nạp (10-12 câu) có sử dụng thành phần tình thái từ, phép thế
(gạch chân, chú thích), làm rõ khổ 2 bài thơ “Nói với con” của Y Phương.
(1) Trong bài thơ “Nói với con”, tác giả Y Phương có viết:
“Người đồng mình yêu lắm cho ơi”
(2) Đây là câu thơ đã xuất hiện ở khổ một với nghệ thuật điệp cấu trúc nhưng được tác giả
thay từ “yêu” bằng từ “thương”, đó cũng là lời nhắn nhủ hết sức chân thành để rồi từ đó
phẩm chất cao đẹp của người đồng mình cứ hiện dần lên qua lời tâm tình của người cha. (3)
Người đồng mình sống trên đá, cuộc sống ấy còn rất khó khăn nhưng ý chí nghị lực giúp họ
vượt lên tất cả, người cha cho rằng nơi vất vả như thế là nơi thử thách con người: “Cao đo
nỗi buồn/ Xa nuôi chí lớn”. (4) Người đồng mình gắn bó, thủy chung với vẻ đẹp quê hương
“Sống trên đá không chê đá gập ghềnh/ Sống trong thung không chê thung nghèo đói” điệp
ngữ “sống”, “không chê” và điệp cấu trúc là nhấn mạnh cuộc sống gắn bó tha thiết của người
đồng mình với quê hương, họ không chê bai, chối bỏ quê hương của mình dù nó còn nghèo
đói, lam lũ. (5) Không chỉ vậy người đồng mình còn có một cuộc sống khoáng đạt mạnh mẽ
“Sống như sông như suối/ Lên thác xuống ghềnh/ Không lo cực nhọc”, tác giả dùng hình ảnh
“sông, suối” là cách nói quen thuộc của con người miền núi, con sông, dòng suối nào cũng
có thác ghềnh nhưng chúng luôn vượt qua để chảy ra biển lớn, “thác gềnh” ẩn dụ cho những
khó khăn, trở ngại nào người đồng mình luôn vượt qua để sống một cách lạc quan. (6) Bằng
điệp từ, điệp ngữ, cách sử dụng thành ngữ “lên thác xuống ghềnh” cách so sánh cụ thể kết
hợp kiểu câu dài ngắn khác nhau, lời tâm tình của người cha đã góp phần khẳng định người
đồng mình tuy cuộc sống còn vất vả, khó nhọc nhưng họ vẫn sống mạnh mẽ, khoáng đạt gắn
bó tha thiết với quê hương, từ đó người cha muốn dặn dò con lòng chung thuỷ với quê
hương, biết chấp nhận và vượt qua những khó khăn thử thách bằng ý chí, nghị lực và niềm
tin của mình. (7) Bên cạnh đó phẩm chất của người đồng mình còn được ca ngợi qua cách
nói đối lập giữa hình thức bên ngoài và giá trị bên trong: “Người đồng mình tuy thô sơ da
thịt/ Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”. (8) Người đồng mình mộc mạc, chân chất, bình dị
nhưng không hề “nhỏ bé” về tâm hồn và ý chí họ biết tự lực tự cường xây dựng quê hương,
duy trì truyền thống với những tập quán tốt đẹp: “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê
hương/ Còn quê hương thì làm phong tục”, câu thơ vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa mang tính
biểu tượng “đục đá kê cao” là hành động có thực, thường thấy ở miền núi, “quê hương” là
nơi sinh thành của mỗi con người, còn lớp nghĩa biểu tượng muốn khái quát về tinh thần tự
tôn, ý thức bảo tồn cội nguồn. (9) Chao ôi, tác gải mới tinh tế làm sao! (10) Chắc hẳn ông
phải là người có tâm hồn nhạy cảm mới viết được những câu thơ hay đến như vậy. (11) Tóm
lại, bằng nghệ thuật đặc sắc thể thơ tự do, giọng thơ thay đổi theo mạch cảm xúc, ngôn ngữ
thơ giàu giá trị biểu cảm hình ảnh thơ mang tính biểu tượng cao, biện pháp tu từ điệp từ
“không chê”, so sánh “như sông như suối” ẩn dụ “thác ghềnh”, tác giả Y Phương đã miêu tả
tinh tế lời cha nói với con về phẩm chất cao đẹp của người đồng mình qua đoạn thơ trên
khiến em rất xúc động.
 Chú thích: - phép thế.
= thành phần tình thái.
BT3: viết đoạn văn T-P-H (5-7 câu) có sử dụng câu cảm thán, phép nối (gạch chân,
chú thích), làm rõ khổ 3 bài thơ “Nói với con” của Y Phương.
(1) Lời nhắn của người cha dành cho con được tác giả Y Phương khắc họa rõ nét qua khổ
3 bài thơ “Nói với con”. (2) Trong bài thơ, tác giả có viết:
“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường”
(3) Bốn câu thơ khép lại và những thay đổi khác đặc biệt, các câu 7 tiếng, 6 tiếng đan xen
với những câu 2 tiếng, kết hợp thành phần gọi đáp “con ơi”, “nghe con” cùng kết hợp câu
đối lập tương phản “thô sơ da thịt – không bao giờ nhỏ bé được” khiến cho câu thơ trong khổ
thơ thật trìu mến, thiết tha đó là những lời nói đầy yêu thương, những lời dặn dò, chân thành
tha thiết, sau lúc khi con lớn lên dù ở đâu, làm gì con hãy luôn nhớ mình là người con của
quê hương và hãy sống thật xứng đáng, không chỉ là người cha nói với con, bài thơ thành
một bức thông điệp mà Y Phương muốn gửi gắm tới tất cả mọi người dù bạn là ai, dù sống ở
đâu bạn cũng có một quê hương đáng để tự hào và hãy sống cho thật xứng đáng để tự hào và
hãy sống cho thật xứng đáng với nó, đúng là:
“Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người”
(Quê hương – Đỗ Trung Quân)
(4) Chao ôi, tác giả mới tinh tế làm sao! (5) Chắc hẳn ông là người có tâm hồn nhạy cảm thì
mới viết được những câu thơ hay đến như vậy.(6) Về nghệ thuật, tác giả sử dụng thể thơ tự
do, giọng thơ thay đổi thay mạch cảm xúc, ngôn ngữ thơ giàu giá trị biểu cảm, hình ảnh thơ
mang tính biểu tượng cao. (7) Tóm lại, tác giả Y Phương đã miêu tả tinh tế lời nhắn người
cha dành cho con qua khổ thơ trên, khiến em rất xúc động.
 Chú thích: - câu cảm thán
= phép nối
LÀNG
-Kim Lân-
BT1: Viết bài giới thiệu về về tác giả Kim Lân và tác phẩm “làng”.
“Làng” của Kim Lân là một tác phẩm hay.
Kim Lân (1920-2007), tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở Bắc Ninh, ông chuyên viết về
truyện ngắn, ông am hiểu cuộc sống sinh hoạt con người ở nông thôn nên ông chuyên viết về
họ. Năm 2001 ông được nhận giải thưởng nhà nước về Văn học nghệ thuật. Tác phẩm chính
“làng”. “Làng” của Kim Lân được sáng tác vào thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp và
đăng lần đầu trên báo Văn nghệ năm 1948, tác phẩm thuộc thể loại truyện ngắn, ngôi kể số
3, tác phẩm chia làm 3 phần đi theo trình tự thời gian, không gian, mạnh cảm xúc : ông Hai
trước khi nghe tin làng chợ Dầu việt gian, ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu việt gian, ông
Hai khi nghe tin làng chợ Dầu việt gian được cải chính.
“Làng” của Kim Lân kể về ông Hai (Hai Thu) sinh ra và lớn lên ở làng Dầu, ông thường
khoe về làng mình, khánh chiến bùng nổi, ông buộc phải cùng gia đình đi tản cư tại nơi ở
mới ông rất nhớ làng mình, ông khoe những ngày cùng anh em đi đảo đường, đắp ụ, một lần
từ phòng thông tin ra, ông vô cùng vô sướng khi biết quân ta đang giành chiến thắng, đúng
lúc ấy ông nhận được tin làng chợ Dầu việt gian, ông vô cùng đau đớn về đến nhà cuộc đấu
tranh nội tâm dai dẳng diễn ra, ông bỏ ý định quay trở về làng, nhưng ông vẫn khẳng định:
“Làng thì yêu thật nhưng làng đi theo Tây thì phải thù” ông nói chuyện với thường Húc như
để cởi bỏ nỗi lòng, mấy ngày sau ông không dám đi đâu, cứ nhìn chỗ đông người túm tụi lại,
ông lại chột dạ nghe tin việt gian ông lại sợ hãi. Một buổi chiều ông chủ tịch làng ông lên cải
chính tin đồn làng chợ Dầu việt gian, ông Hai vô cùng vô cùng vui sướng, ông đi khắp nơi
để khoe nhà ông bị Tây đốt.
“Làng” của Kim Lân rất thành công về mặt nghệ thuật, tác phẩm thuộc thể loại truyện ngắn,
ngôi kể số 3, xây dựng thành công nhân vật ông Hai, nội tâm nhân vật được miêu tả tinh tế,
nhất là lúc ông Hai nghe tin làng chợ Dầu việt gian, tình huống truyện bất ngờ, ngôn ngữ
truyện có sự kết hợp giữa đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm, Kim Lân còn khéo léo kết
hợp nhiều kiểu câu, câu ngắn, câu hỏi tu từ, câu cảm thán. Tác phẩm giúp ta hiểu hơn tình
yêu làng hòa quyện với tình yêu quê hương đất nước của người dân trong buổi đầu của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp.
Quả thật “Làng” là một tác phẩm hay, bao nhiêu năm trôi qua tác phẩm vẫn sống mãi trong
lòng người đọc.
BT2: Phân tích nhân vật ông Hai.
A, ông Hai là người yêu làng, yêu nước
- Ông Hai rất tự hào về làng chợ Dầu, ông thường đi khoe về làng
- Trước cách mạng (kháng chiến bùng nổ) ông khoe về những ngày kháng chiến mà ông
cùng anh em đi đào đường, đắp ụ, ông khoe làng ông có đài phát thanh cả làng nghe thấy.
- Cách khoe của ông thật đặc biệt. Trước đây, ai đến chơi, ông cũng dẫn tới cái dinh của cụ
tổng Đốc, kể từ lúc đi đến lúc về, kể không cần biết người ta có nghe hay không, mỗi lần
khoe về làng thì mắt ông sáng hẳn lên.
- Ông không muốn rời làng để đi tản cư, mãi tới lúc vợ con khóc lóc van xin thì ông mới
buộc phải đi.
- Ở nơi ở mới, lúc nào ông cũng nhớ về làng: “Chao ôi ,ông lão nhớ làng quá”. Mỗi lần nhớ
về làng, lòng ông háo hức hẳn lên, ông thường xuyên theo dõi.
- Ông thường theo dõi tình hình chiến sự của làng, và tình hình đất nước, nghe tin quân ta
đang dành chiến thắng, từ trẻ em đến người phụ nữ đều lặp chiến công thì ruột gan ông lão
cứ múa cả lên.
B, Diễn biến tâm trạng ông Hai
- Nghe tin làng chợ Dầu việt gian vô cùng đâu đớn, một cuộc đấu tranh nội tâm diễn ra dai
dẳng trong ông
- Đây là tình huống bất ngờ làm cho câu chuyện trở nên hay hơn, hấp dẫn hơn đồng thời cho
đây là chìa khóa để mở cách cửa tâm hồn của ông Hai để giúp người đọc hiểu hơn tình yêu
làng hòa quyện với tình yêu nước.
 Vừa mới nghe tin
- Cổ họng ông lão nghẹn ắng hẳn, da mặt tê rân rân, ông lão lặng hẳn đi, tưởng như đến
không thở được, một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ. Một lúc sau, ông
cất tiếng, giọng lạc hẳn đi, một nỗi đau quá bất ngờ khiến ông choáng váng. Cách miêu tả
nột tâm tinh tế kết hợp với những từ láy diễn tả nỗi đau lên đến tận cùng những ông vẫn nuôi
cho mình hy vọng và niềm tin bất diệt về làng chợ Dầu. Câu nói bỏ dở: “liệu có thật không
hở bác? Hay là chỉ lại …?” chính niềm tin ông dành cho làng, ông vẫn tin rằng làng ông là
làng kháng chiến, không quan tâm đến lời nói của người khác.
- Đáp lại sự hy vọng của ông là những bằng chứng quá xác thực, cụ thể, của người phụ nữ
tản cư: làng chợ Dầu việt gian. Từ thằng Chính Bện đến lão Chủ Tịch đều đi theo giặc. Ông
quá xấu hổ, nhục nhã, ông đánh trống lảng: “Hà, nắng gớm, về nào” để cố che giấu một sự
thật phũ phàng: ông là người làng chợ Dầu, người đàn ông đó không nhìn ai, cúi gằm mặt
xuống để đi (nghệ thuật đối lặp tương phản)
 Khi về đến nhà
- Ông lão mệt mỏi, chán trường, thất vọng, ông nằm vật lên gường khiến những đứa con sợ
hãi dắt nau ra chơi sập chơi sụi.
- Nhìn những đứa con, ông lão trở thêm, ước nước mắt và thương và lo lắng cho tương lai
của đứa con, ông sợ sau này không ai chứa chúng vì chúng là trẻ con làng việt gian.
- Càng thương con bao nhiêu, thì ông lại càng căm giận người làng chợ Dầu bấy nhiêu. Ông
nắm chặt tay và rít lên: “Chúng mày ăn miếng cơm hay gì miếng gì vào mồm mà đi làm cái
giống việt gian bán nước nhục nhã thế này”. Ngay sau đó ông dừng lại, ngờ ngợ kiểm điểm
lại từng người trong làng để rồi ông khẳng định họ toàn người có tinh thần cả.
- Lời nói của người đàn bà tản cư lại vang lên, đến lúc ông lão hoàn toàn tuyệt vọng. Một
loạt câu hỏi diễn ra trong đầu ông: “ai người ta chứa?”, “ai người ta buôn bán mấy?”… Một
loạt những câu vắn ngắn kết hợp với câu hỏi tu từ, câu cảm thán, ông Hai rơi vào tận cùng sự
đau khổ.
 Cuộc trò chuyện giữa ông Hai và bà Hai
- Tin làng chợ Dầu việt gian không chỉ tác động tới ông Hai và còn tác động tới bà Hai, bà
cũng hoàn toàn khác, hôm ấy trở về bà bần thần cả người, lặng lẽ xếp đồ, đến tiền rồi ra
trước hiên ngồi ôm má nghĩ ngợi. Cuộc trò chuyện giữa ông Hai và Bà Hai gần như mang
tính chất của một cuộc đối thoại. Ông Hai im lặng gần như không nói chỉ bằng những câu
văn rút gọn. Cả hai ông bà đều đau khổ, không dám đả động đến tin làng chợ Dầu việt gian.
Đúng lúc ấy, hình ảnh mụ chủ nhà chợt hiện lên trong tâm trí ông. Ông sợ nhất là mụ chủ
nhà khinh bỉ, chỉ mới thoát nghe thấy tiếng léo xéo thì tiếng trống ngực ông đập thình thịch,
tây chân ông nhủn ra tưởng như không thể cất lên được, cả đêm ông lo lắng, sợ hãi đến nỗi
không thể ngủ được.
 Mấy ngày sau đó
- Ông không dám đi đâu, không thiết làm gì, thấy đám đông túm tụm lại, nghe thấy tiếng
“việt gian” ông lại giật mình, sợ hãi, ông rơi vào sự tận cùng của nhục nhã, đau đớn, ê chề.
Ông nảy ra ý nghĩa quay trở về làng nhưng cuối cùng ông lại quyết định “làng thì yêu thật
nhưng làng đi theo Tây thì thì phải thù”. Yêu làng mà ông không mù quáng mà rất rạch ròi
và luôn đặt đất nước lên trên hết.
 Cuộc trò chuyện của ông Hai với thằng Húc
- Ông nói chuyện với thằng con trai để cởi bỏ nỗi lòng và giãi bày tình tình cảm của ông
dành cho quê hương đất nước. Ông muốn đứa con khắc cốt ghi tâm nó sinh ra ở làng chợ
Dầu, ông muốn nó luôn hướng về cụ Hồ, về kháng chiến, ông rơi vào tận cùng sự xúc động,
nước mắt ông cứ tràn ra rồi ông tự độc thoại nội tâm với chính mình, cả đời ông luôn hi sinh
vì đất nước không bao giờ thay đổi.
 Lúc nghe tin làng ông làng là làng kháng chiến
- Ông lão dường như lột xác, ông chia quà cho các con, cặp nước mắt rưng rưng đỏ , hấp
háy, miệng bỏm bẻm nhai trầu, ông vui sướng, hạnh phúc đến tận cùng, ông đi khắp nơi để
khoe tin nhà mình bị Tây đốt với một niềm hạnh phúc đến tột độ, ông khoe hết với người
người này rồi đến người kia, ông dùng sai từ mà cũng không biết.
- Chao ôi tác giả mới tinh tế làm sao! Chắc hẳn ông là người có tâm hồn nhạy cảm mới viết
được những câu văn hay đến nhưng vậy. Về nghệ thuật, tác giả sự dụng thể loại truyện ngắn,
ngôi kể sô 3, thành công trong việc xây dựng tình huống truyện, miêu tả tâm lí và cách kể
chuyện, ngôn ngữ truyện mộc mạc, tác giả còn sự dụng độc thoại, đối thoại, độc thoại nội
tâm.
BT3: Vì sao tác giả không đặt tên là “Làng chợ Dầu” mà đặt tên là “Làng”.
- Tác giả đặt tên cho tác phẩm là “Làng” mà không phải dặt tên là “Làng chợ Dầu”. Nếu đặt
tên là “Làng chợ Dầu” thì câu chuyện kể về cuộc sống con người ở một làng quê cụ thể
 Ý nghĩa tác phẩm bị hạn hẹp.
- Đặt tên là “Làng”. Đây là một nhan đề hay giàu ý nghĩa. “Làng” là một danh từ chung chỉ
mọi miền quê ở Việt Nam. “Làng” gần gũi, thân mật, cụ thể với bất kì ai
 Ý nghĩa nhan đề có sức khái quát cao giúp ta hiểu rõ giá trị của truyện ngắn: Tình yêu
làng, yêu nước không chỉ là tình cảm của ông Hai mà là chung của những người dân
Việt Nam thời kì ấy.
- Nhan đề đã thể hiện chủ đề của tác phẩm: Ca ngợi tình yêu làng, yêu đất nước của người
nông dân, trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
BT4: Có ý kiến cho rằng “có lẽ chưa ai trên đời lại đi khoe cái sự Tây nó đốt nhẵn nhà
tôi rồi, đất nước một cách hả hê, sung sướng thực sự như ông Hai”
- Em có suy nghĩ gì về việc làm đó của ông Hai? Để cho nhân vật cứ “hả hê vui sướng”
trước sự lẽ ra phải đau khổ có phải Kim Lân đã đi ngược lại với tâm lí thông thường của
người đời không? Vì sao?
- Ông Hai hả hê sung sướng khi khoe với mọi người việc Tây nó đốt nhà mình bởi lẽ: Nỗi
mừng vui khi biết làng mình vẫn là làng yêu nước, làng kháng chiến tài sản bị phá huỷ làm
sao sánh được với danh dự thiêng liêng của làng mình. Ông mất đi căn nhà, cơ nghiệp của cả
đời nhưng bù vào đó ông lại có niềm tự hào về làng Chợ Dầu mà ông hằng yêu quý. Để nhân
vật có những việc làm như vậy Kim Lân đã thể hiện sâu sắc tấm lòng yêu nước và sự đổi
thay trong nhận thức của người nông dân với Cách mạng, với kháng chiến.
BT5: Qua nhân vật ông Hai, em hiểu biết gì về tinh thần yêu nước của con người Việt
Nam.
- Nhân vật ông Hai cho thấy khi đất nước phải đấu tranh chống giặc ngoại xâm thì tinh thần
yêu nước bao trùm chi phối mọi thứ tình cảm khác trở thành thước đo phẩm giá (lòng tự
trọng và danh dự của con người) kể cả những tình cảm sâu nặng nhất như tình cảm của ông
Hai với làng quê thì cũng phải nắm tay trong tình yêu nước không thể đi ngược lại quyền lợi
dân tộc.
LẶNG LẼ SA PA
-Nguyễn Thành Long-
Bài 1: Viết bài giới thiệu về tác giả Nguyễn Thành Long và tác phẩm “Lặng lẽ Sa Pa”
“Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long là một tác phẩm hay trong dòng văn học Việt
Nam.
Nguyễn Thành Long (1925-1991) quê ở Quảng Nam. Ông viết văn vào thời kì kháng chiến
chống Pháp, ông chuyên viết về truyện ngắn và kí. Phong cách sáng tác của ông nhẹ nhàng,
trong trẻo mang đậm chất thơ. Tác phẩm chính “Lặng lẽ Sa Pa”.
“Lặng lẽ Sa Pa” là kết quả của chuyến đi lên Lào Cai vào mùa hè năm 1970 thời kì miền Bắc
đang đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội và đấu tranh giải phóng miền Nam. In trong tập
“Giữa trong xanh” (1972)
Tác phẩm thuộc thể loại truyện ngắn, ngôi kể số 3, bố cục 3 phần đi theo trình tự thời gian
và không gian: Cuộc nói chuyện giữa bác lái xe, ông hoạ sĩ và cô kĩ sư; cuộc nói chuyện giữa
anh thanh niên, ông hoạ sĩ và cô kĩ sư; cuộc chia tay.
Chuyến đi xe khách đi từ Hà Nội lên Lào Cai phải đi qua Sa Pa, bác lái xe trò chuyện thân
mật với một ông hoạ sĩ sắp về hưu và một cô kĩ sư trẻ vừa mới ra trường. Bác lái xe đã giới
thiệu họ về thiên nhiên Sa Pa và về một chàng trai 27 tuổi làm công tác khí tượng kiêm vật lí
địa cầu trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600m. Ông hoạ sĩ cùng cô kĩ sư thực sự xúc động khi
thấy một chàng trai có vóc dáng nhỏ bé chạy từ trên đồi xuống, ông hoạ sĩ cùng cô kĩ sư
được lên nhà anh thanh niên trong vòng 30 phút, tại đây họ đã chứng kiến cuộc sống của anh
ở và nghe những lời tâm sự của anh, ông hoạ sĩ thực sự xúc động mạnh ông quyết định vẽ
chân dung anh nhưng anh từ chối, giới thiệu cho ông hoạ sĩ những người khác mà theo anh
là xứng đáng hơn. Cô kĩ sư hiện lên một cảm xúc hàm ơn khó tả vì anh đã làm cho cô thấy
cuộc sống thật ý nghĩa. 30 phút kết thúc, họ chia tay, anh tặng cho họ giỏ trứng để ăn lúc đi
đường, mỗi người có một cảm xúc khác nhau.
“Lặng lẽ Sa Pa” rất thành công về mặt nghệ thuật. Tác phẩm thuộc thể loại truyện ngắn,
ngôi kể số 3, xây dựng thành công nhân vật anh thanh niên, tình huống truyện bất ngờ: cuộc
gặp gỡ giữa 3 người xa lạ (anh thanh niên, ông hoạ sĩ, cô kĩ sư) trên đỉnh núi Yên Sơn trong
vòng 30 phút, ngôn ngữ truyện sử dụng nhiều ngôn ngữ đối thoại. Văn bản cho ta thấy
những con người lao động đang âm thầm làm việc, cống hiến cho quê hương đất nước, họ
đều có lí tưởng sống cao đẹp đều có trách nhiệm với công việc của mình.
Quả thật, “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long là một tác phẩm hay. Bao nhiêu năm
trôi qua tác phẩm vẫn sống mãi trong lòng người đọc.
Bài 2: Phân tích nhân vật anh thanh niên
A- Lý tưởng sống cao đẹp
Anh là một chàng trai 27 tuổi đến từ Lào Cai, lẽ ra anh có một cuộc sống hạnh hạnh phúc
vun vầy bên gia đình, người thân thế nhưng anh đã hi sinh tất cả để sống và làm việc trên
đỉnh núi Yên Sơn cao 2600m, xung quanh chỉ có mây mù bao phủ. Ngày ngày anh phải đối
diện với sự cô đơn và nỗi thèm người vậy mà anh đã sống và làm việc ở đây tới 4 năm và
chưa hề có ý định từ bỏ nó. Anh khao khát được cống hiến cho cuộc đời, cho con người, dự
báo thời tiết để để phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu.
B- Anh là người có ý thức tạo dựng cho mình một cuộc sống đẹp và ý nghĩa
Dù chỉ sống một mình trên đỉnh núi cao cách biệt hoàn toàn với cuộc sống của con người
nhưng chàng trai ấy không sống tạm bợ, qua loa mà luôn chăm lo cho cuộc sống của mình.
Anh có cả một vườn hoa rực rỡ sắc màu khiến cô kĩ sư trẻ đến từ Hà Nội phải ồ lên kinh
ngạc. Nơi anh ở là một căn nhà ba gian sạch sẽ, gọn gàng, ngăn nắp với một tủ đựng đầy
sách và trên bàn làm việc lúc nào cũng có một quyển sách đang đọc dở, anh nuôi cả một đàn
gà ăn không hết trứng.

C- Anh là chàng trai nhân hậu hiếu khách và yêu thương tất cả mọi người 
Nghe tin vợ bác lái xe bị ốm, dù chưa gặp lần nào nhưng anh vẫn không ngại khó khăn vào
tận rừng sâu, tự tay đào củ tam thất, anh đem chúng đưa cho bác lái xe với lời dặn bác gái
đem ngâm rượu uống cho đỡ mệt, anh đem niềm vui cho tất cả mọi người. Bó hoa rực rỡ sắc
màu mà anh để để tặng cô kĩ sư khiến cô phải ồ lên kinh ngạc, cốc nước chè nóng hổi anh
mời ông họa sĩ để ông vơi đi những mệt mỏi sau một chặng đường dài, anh còn biếu họ cả
một giò trứng để ăn lúc đi đường. Mặc dù anh chỉ có thể gặp họ được một lần vậy mà anh đã
chia sẻ với họ về cuộc sống, công việc, nơi ở.

D- Anh là người yêu công việc và co trách nhiệm với công việc
Vì công việc mà chàng trai 27 tuổi đã đi lên sống trên đỉnh núi cao, ngày ngày đối mặt với
sự cô đơn và nỗi thèm người, xung quanh chỉ có vài chiếc máy đều đặn ngày ngày báo về 4
lần: 4 giờ, 11 giờ, 7 giờ tối, 1 giờ sáng, khổ nhất là lúc 1 giờ sáng đang nằm phải trở dậy, rét,
gió tuyết như những nhát chổi quật thẳng vào mặt, xong việc trở vào anh không tài nào ngủ
được, gian khổ là vậy nhưng anh chưa bao giờ có y định từu bỏ nó, anh coi công việc là niềm
vui, lẽ sống. Hãy nghe lời tâm sự của anh “Khi ta làm việc ta với công việc là đôi, sao có thể
gọi là một mình được”, “gian khổ thế đấy nhưng cất nó đi cháu buồn chết mất”.

E, Anh là người có những quan niệm đúng đắn về cuộc sống con người và công việc 
 Quan niệm về công việc 
Nếu người đời coi công việc là cái để kiếm sống thì anh lại coi công việc là niềm tin là người
bạn thân thiết gắn bó không thể tách rời “Khi ta làm việc ta với công việc là đôi sao gọi là
một mình được”, “Gian khổ thế đấy nhưng cất nó đi cháu buồn chết mất”. Anh hiểu công
việc của mình là một mắc xích nhỏ trong chuỗi các công việc. Nó gắn liền với bao anh em
đồng chí ở dưới kia. Công việc của anh tuy nhỏ nhưng nó lại góp phần phục vụ sản xuất,
phục vụ chiến đấu.
 Quan niệm về cuộc đời con người sự cống hiến 
Chàng trai ấy lúc nào cũng băn khoăn trắc trở về trách nhiệm của bản thân và một thái độ
sống đúng. Anh luôn tự hỏi hỏi mình “Mình sinh ra là gì? Mình đẻ ở đâu? Mình vì ai mà làm
việc?” theo anh phải sống cho đúng nghĩa của một con người, phải xứng đáng với quê
hương, phải sẵn sàng hi sinh, cống hiến cho người khác. Đây là một quan niệm sống đáng
trân trọng, nhất là với một chàng trai trẻ 27 tuổi.
 Quan niệm về hạnh phúc 
Với mỗi người đây là một quan niệm rất đa dạng. Hạnh phúc có thể là một bữa cơm no, là
một cái áo đẹp, được đi học, có sức khỏe. Nhưng với chàng trai 27 tuổi này hạnh phúc với
anh thật đơn giản, chỉ cần được cống hiến và làm những công việc có ích với cuộc sống, với
con người, với xã hội thì đó đã là hạnh phúc. Biết tin nhờ mình phát hiện một đám mây khô
trên cầu Hàm Rồng mà không quân ta đã bắn rơi rất nhiều máy bay Mỹ. Chàng trai ấy thấy
mình thật hạnh phúc.
 Quan niệm về sự cô đơn 
Bác lái xe gọi anh thanh niên là người cô độc nhất thế gian bởi anh chỉ sống có một mình
trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600m xung quanh chỉ có mây mù bao phủ. Ngày ngày anh phải
đối diện với sự cô đơn và nỗi thèm người nhưng anh thanh niên lại cho rằng mình là người
không cô độc. Anh coi công việc là bạn “khi ta làm việc ta với công việc là đôi sao gọi là
một mình được”. Anh vẫn tìm thấy niềm vui trong công việc, trong cuộc sống “Gian khổ thế
đấy nhưng cất nó đi cháu buồn chết mất”. Anh tự trồng hoa, tự nuôi gà, anh còn có một tủ
đựng đầy sách, trên bàn làm việc lúc nào cũng có một quyển sách đang đọc dở. Anh biết
công việc của mình gắn liền với bao anh em đồng chí dưới kia, anh được tất cả mọi người
yêu quý dù chỉ mới gặp một lần. Bác lái xe coi anh như người thân trong nhà. Mỗi lần đi qua
chỗ đấy, bác đều dừng xe lại để anh có thể trò chuyện với mọi người. Một lần không thấy
anh xuống bác đã lên tận nơi, bác còn mua hộ anh sách. Ông họa sĩ dù mới gặp anh lần đầu,
nghe những lời tâm sự của anh, ông đã khẳng định chắc chắn sẽ quay lại để sống cùng anh
mấy ngày. Còn cô kĩ sư thì thấy bàng hoàng và dấy lên một cảm xúc bồi hồi kho tả. Với anh
cô độc không phải là hoàn cảnh sống mà là ở cách sống.

G- Anh là người khiêm tốn


Qua tất cả những gì mà anh thể hiện, những cảm nhận của bác lái xe, cô kĩ sư, ông hoạ sĩ
nhận ra anh là một con người tuyệt vời. trong anh hội tụ những phẩm chất cao quý, dù chỉ
gặp có một lần nhưng ông hoạ sĩ đã nhận thấy anh là hình mẫu lí tưởng mà ông đang tìm
kiếm. Ông quyết định vẽ chân dung anh, khi thấy ông hoạ sĩ vẽ mình anh đã từ chối, giới
thiệu với ông những người mà anh cho là xứng đáng hơn như ông kĩ sư vườn rau su hào, nhà
nghiên cứu bản đồ sét. Chao ôi, phẩm chất của anh thanh niên mới cao đẹp làm sao! Chắc
hẳn tác giả phải là người có tâm hồn nhạy cảm mới viết được những câu văn hay đến như
vậy. Về nghệ thuật tác giả sử dụng thể loại truyện ngắn, ngôi kể số 3, xây dựng thành công
nhân vật anh thanh niên, tình huống truyện hợp lí, cách kể chuyện tự nhiên có sự kết hợp tự
sự với trữ tình, bình luận, ngôn ngữ truyện nhẹ nhàng trong trẻo mang đậm chất thơ.
Bài 3: Giải thích ý nghĩa nhan đề
- “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long là một nhan đề đặc biệt.
- Tác giả đảo vị ngữ, tính từ “lặng lẽ” lên trước chủ ngữ danh từ “Sa Pa”. Nó đã nhấn mạnh
sự lặng của Sa Pa. Trước hết là sự lặng lẽ của thiên nhiên Sa Pa, Sa Pa với những dinh thư cũ
kĩ, những bò lang có chuông đeo ở cổ, nơi chỉ nghe tên người ta đã muốn nghỉ ngơi, không
chỉ là sự lặng lẽ của thiên nhiên mà còn là sự ầm thầm lặng lẽ cống hiến của những con
người lao động nơi đây, anh thanh niên, ông kĩ sư vườn rau su hào, nhà nghiên cứu bản đồ
sét đều lặng lẽ cống hiến cho đất nước mà không cần người khác biết tên tuổi. Nhan đề đã
thể hiện chủ đề của tác phẩm ca ngời những người lao động âm thầm lặng lẽ cống hiến cho
đất nước.
Bài 4: Em có nhận xét gì về cách đặt tên của các nhân vật trong truyện.
Các nhân vật trong truyện đều không có tên riêng mà được gọi theo giới tính, tuổi tác nghề
nghiệp. Điều đó góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm, họ là những con người vô danh có
tuổi tác, nghề nghiệp khác nhau nhưng đều có lẽ sống cao đẹp (âm thầm lặng lẽ cống hiến
cho đất nước). Cách đặt như vậy là nhà văn muốn người đọc liên tưởng tới những nhân vật
tốt đẹp trong truyện không phải là những cá nhân riêng lẽ mà là số đông đại diện cho những
người. Điều này làm tăng tính khái quát cho chủ đề của câu chuyện.
Bài 5: Truyện ngắn này gợi cho em suy nghĩa gì về công việc thầm lặng?
Đó là những công việc bình dị những người có ích. Những công việc đó không ít khó khăn
nhưng khi ta có những người say mê, tính tự giác và nhiệt huyết thì nhận được những niềm
vui và sự trân trọng.
Bài 6: Phân tích nhân vật ông họa sĩ
Ông họa sĩ là người yêu công việc và có trách nhiệm với công việc. cả đời ông cống hiến cho
nghệ thuật vậy mà đến tuổi nghỉ hưu ông vẫn khao khát có một bức vẽ để đời. Ông trăn trở
đi tìm cho mình một người hình mẫu lí tưởng vì nó mà ông hoãn cả bữa tiệc chung tay với
anh em trong cơ quan. Gặp anh thanh niên trên đỉnh núi Yên Sơn – một con người lao động
bình thường nhưng lại có những quan điểm, suy nghĩa thật đúng đắn, tiến bộ, ông chợt hiểu
đây là một hình mẫu mà ông vẫn luôn tìm kiếm bấy lâu nay. Không cần giá vẽ, không cần
phòng tranh, chỉ cần một giá sổ nhỏ tì lên đầu gối với vài nét phác hoạn, ông đã vẽ xong
gương mặt của chành trai ấy nhưng làm cho ông nhọc quá. Ông bối rối ngỡ ngàng khi phát ra
những vẻ đẹp tiềm ẩn trong anh. Người họa sĩ đang trăn trở làm thế nào để người xem cảm
nhận được những điểm tuyệt vời ẩn chứa đằng sau con người trời ấy. Ông trân trọng những
suy nghĩ sắc của anh, nói đã làm thay đổi suy nghĩ, cảm xúc của ông về mảnh đất Sa Pa, nơi
có những con người làm việc hết mình ngày đêm sống cho đất nước.
Bài 7: Em có nhận xét gì về ông kĩ sư vườn rau su hào và anh nghiên cứu bản đồ sét?
- Ông kỹ sư vườn rau su hào ngồi một mình hàng ngày để nghiên cứu cách thụ phấn, để cốt
tìm ra cái giống su hào ngọt và to hơn.
- Anh nghiên cứu bản đồ sét: 11 năm ròng không một ngày rời cơ quan, không về thăm gia
đình, không nghĩ đến chuyện vợ con, chỉ cốt nghiên cứu xét để tìm tài nguyên cho quê
hương đất nước.
 Anh thanh niên, ông kỹ sư vườn rau su hào, anh cán bộ nghiên cứu sét chính là những
con người Sa Pa, lao động hết mình với tinh thần tự giác. Họ đều là những con người
cống hiến âm thầm lặng lẽ cho vùng đất Sa Pa, làm cho Sa Pa không hề lặng lẽ như tên
gọi của nó mà luôn luôn sôi động với một nhịp sống khẩn trương của những con người
hết mình hăng say lao động, cống hiến cho đất nước.
Bài 8: Em có nhận xét gì về bác lái xe và cô kỹ sư?
- Bác lái xe là người nhân hậu, luôn quan tâm yêu thương, đem niềm vui đến cho mọi người.
Bác muốn truyền cho mọi người ngọn lửa đam mê và tình yêu với thiên nhiên đất nước. Bác
am hiểu về nghệ thuật.
- Cô kỹ sư là người có ý thức cống hiến cho đất nước, biết nhận ra cái đúng cái sai, biết từ bỏ
cái đớn hèn nhục nhã. Cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa cô với anh thanh niên giúp cô hiểu thêm về
lẽ sống, về công việc mà cô đang định làm và cô yên tâm hơn với công việc của mình. Đó là
từ bỏ cuộc sống phồn hoa để lên miền núi nơi heo hút.
Bài 9: Nhận xét về điểm nhìn trần thuật trong truyện?
- Điểm nhìn trần thuật là ông họa sĩ
 Tác dụng: 
 Làm cho câu chuyện chân thực, khách quan, hay hơn, hấp dẫn hơn.
 Ông họa sĩ có thể đưa ra những lời bình, lời nhận xét đánh giá về thiên nhiên, con
người, công việc.
 Góp phần thể hiện chủ đề tác phẩm.
Bài 10: Qua văn bản trên, nhà văn đã nhắn nhủ gì với người đọc?
- Sống cống hiến cho dân tộc, cho nhân dân, sống có ý nghĩa sẽ mang đến cho con người
niềm vui và hạnh phúc.
-Cuộc sống lao động giản dị nhưng cao đẹp sẽ làm nên vẻ đẹp đích thực của mỗi con người
có sức thuyết phục lan tỏa với những người xung quanh.
CHIẾC LƯỢC NGÀ
-Nguyễn Quang Sáng-
BT1: Viết bài giới thiệu về tác giả Nguyễn Quang Sáng
“Chiếc lược ngà” của là tác phẩm hay trong dòng văn học Việt Nam.
Nguyễn Quang Sáng (1932-2014), quê ở An Giang, trong thời kháng chiến chống Pháp,
ông gia nhập quân đội vào hoạt động ở Nam Bộ. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc vào bắt đầu
sáng tác. Trong thời kì kháng chiến chống Mĩ, ông quay lại Nam Bộ, tham gia kháng chiến.
Ông thành công với thể loại với nhiều thể loại như tiểu thuyết, kí, truyện ngắn, kịch bản
phim, ông chuyên viết về cuộc sống và con người ở Nam Bộ, ông giữa chức vụ tổng thư kí
hội nhà văn thành phố Hồ Chí Minh và là phó tổng thư kí Việt Nam khóa IV. Năm 2000, ông
nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật, tác phẩm chính “Chiếc lược ngà”.
“Chiếc lược ngà” được sáng tác năm 1966, khi chiếc chống Pháp đang diễn ra vô cùng ác
liệt, tác giả đang công tác tại Nam Bộ và được in trong tập truyện ngắn cùng tên, tác phẩm
thuộc thể loại truyện ngắn, ngôi kể thứ nhất qua lời kể của bác Ba , có bố cục chia làm 3
phần: ông Sáu trước khi nghỉ phép, 3 ngày nghỉ phép của ông Sáu, ông Sáu khi trở về căn
cứ, đi theo trình tự thời gian, không gian.
Ông Sáu xa con khi con ông chưa đầy 1 tuổi, 8 năm sau khi ông nhận được tin được nghỉ
phép 3 ngày để chuẩn bị vào trận chiến mới, ông vô cùng vui sướng, tưởng tượng ra cảnh
con ông sẽ gọi 1 tiếng “ba”, ông sẽ ôm đứa con vào lòng, xuồng chưa cập bến, ông nhìn thấy
1 đứa trẻ tầm 8-9 tuổi, mặc áo bông đỏ, chơi trước nhà tròi, ông khẳng định đây chính là con
ông, ông nhảy lên bờ, bước những bước dài dang rộng vòng tay chạy đến nhưng bé Thu sợ
hãi bỏ chạy, ông vô cùng đau khổ. Trong 3 ngày nghỉ phép, ông không đi đâu, không làm gì,
chỉ ở bên vỗ về đứa con mong nó gọi tiếng “ba” nhưng bé Thu nhất quyết không gọi, ngày
cuối cùng, ông Sáu gắp cho bé Thu một miếng trứng cá ngon nhất, nhưng nó hất văng ra,
không kìm chế được, ông Sáu đánh bé Thu vào mông, bé Thu chạy sang nhà bà ngoại, tại
đây nó đã hiểu ra đó là ba nó, nó xin ngoại về sớm, cũng là lúc ông Sáu phải lên đường, bé
Thu bộc lộ một tình cảm mãnh liệt rồi mới đồng ý để cho ba nó đi với một lời dặm khi nào
về ba nhớ mua cho nó một chiếc lược, ở khu căn cứ ông vô cùng hối hận, ông dồn hết tình
yêu thương vào cây lược làm cho bé Thu, cây lược hoàn thành đúng lúc ông Sáu hi sinh,
trong giây phút cuối cùng ông dồn hết sức đưa cây lược cho ba Ba và chỉ ngắm mặt khi bác
Ba đồng ý cho sẽ trao lại cho bé Thu.
Tác phẩm rất thành công về mặt nghệ thuật, tác phẩm thuộc thể loại truyện ngắn, ngôi kể
thứ nhất qua lời kể của bác Ba, tác phẩm xây dựng thàng công nhân vật ông Sáu, bé Thu, nội
tâm nhân vật được miêu tả tinh tế, tình huống truyện bất ngờ, ngôn ngữ truyện dùng nhiều từ
ngữ Nam Bộ, làm cho câu truyện mang đậm màu sắc của địa phương Nam Bộ, tác giả còn sử
dụng biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ (chiếc lược ngà là kỉ vật duy nhất của người lính), tác
phẩm tố cáo tội ác của chiến tranh, ca ngời tình phụ tử thiêng liêng, sâu nặng trong hoàn
cảnh éo le của chiến tranh.
Quả thật “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một tác phẩm hay, bao nhiêu năm trôi
qua tác phẩm vẫn sống mãi trong lòng người đọc.

BT 2: Viết đoạn văn quy nạp (10-12 câu), có sử dụng thành phần tình biệt lập, phép
lặp (gạch chân, chú thích), làm rõ tình cảm sâu nặng của bé Thu đối với ông Sáu.
(1) Bé Thu là nhân vật chính trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng.
(2) Tám năm xa ba lúc nào cũng ngắn nhìn ảnh ba chụp với má đến độ nó thuộc lòng từng
nét trên khuôn mặt ba. (3) Tiếng ba với bé Thu trở thành một tiếng gọi thiêng liêng cao quý
mà nó chỉ dùng để gọi cho người ba đích thực của mình, mặc cho ông Sáu vỗ về, mặc dù đầy
vào những tình huống khó khăn nhất, nó chỉ nhận một người cha duy nhất. (4) Mở đầu là
thái độ ngạc nhiên khi có một người đàn ông lạ mặt lại nhận mình làm con, tiếp đến là sự sợ
hãi, mặt tái mét bỏ chạy và kêu thất thanh “Má! Má! Má!”, mẹ bảo gọi ba nó vào ăn cơm,
con bé chỉ nó trống không, nồi cơm như giục giã, con bé sợ hãi nhìn lên, nhìn xuống, ông
Sáu cứ ngồi im, bác Ba thì dọa vậy mà nó vẫn quyết không gọi tiếng “ba”. (5) Đỉnh cao của
sự ương bướng là hành động hất tung miếng trứng cá ra ngoài, tất cả thể hiện tình yêu cha
mãnh liệt. (6) Được ngoài lí giải về vết thẹo, con bé rất ân hận, đêm hôm ấy nó lăn lộn, trằn
trọc, thở dài như người lớn, có lẽ đây là lúc con bé hối hận nhất, day dứt, đau khổ, vì làm cho
ba mình buồn. (7) Sáng hôm sau, nó xin ngoại về sớm để chuộc lỗi với người ba thì cùng lúc
ba nó phải lên đường, con bé đứng từ xa quan sát để ghi nhớ về một người cha bằng sương,
bằng thịt, đúng lúc người ba lên đường, con bé chạy xô đến nhanh như một con sóc ôm chặt
lấy ba, nó thét một tiếng “ba” mà nó ấp ủ suốt tám năm trời, bao kìm nén chờ đợi như vỡ òa
như dòng thác, em bé hôn ba cùng khắp, hôn cả vào vết thẹo dài, nó nói trong tiếng nấc
nghẹn ngào “ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con”. (8) Biết không thể giữa được ba,
con bé đã để cho ba nó đi với lời dặn khi nào về mua cho nó một cây lược ngà, nó khao khát
hòa bình được lập lại, ba trở về yêu thương chăm sóc nó (biết tin cha nó hi sinh, bé Thu đã
kìm nén nỗi đau lên đường làm cô giao liên trả thù cho ba và làm tiếp tục con đường mà ba
đang dang dở, tình yêu ba đã tiếp thêm cho nó nghị lực, sức mạnh để trở thành một cô giao
liên dũng cảm). (9) Chao ôi, tình cảm của bé Thu giành cho ông Sáu mới xúc động làm sao!
(10) Chắc hẳn, Nguyễn Quang Sáng là người có tâm hồn nhạy cảm với viết được những câu
văn hay đến như vậy. (11) Tóm lại, bằng nghệ thuật đặc sắc , tác giả sử dụng thể loại truyện
ngắn, ngôi kể số một qua lời kể của bác Ba, xây dựng thành công nhân vật ông Sáu, bé Thu,
nội tâm nhân vật được miêu tả tinh tế, tình huống truyện bất ngờ, ngôn ngữ truyện sự dụng
nhiều từ Nam Bộ, Nguyễn Quang Sáng đã miêu tả tinh tế tình cảm của bé Thu dành cho ông
Sáu qua truyện ngắn trên khiến em rất xúc động.

Bài 3: Nêu ý nghĩa nhan đề văn bản.


- “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một nhan đề hay và giàu ý nghĩa.
- “Chiếc lược ngà” là cầu nối tình cảm giữa hai cha con ông Sáu, nó là kỉ vật của người cha
vô cùng yêu con để lại trước khi hy sinh, là tiếng nói tố cáo tội ác của chiến tranh đã khiến
những ước mơ của hai cha con không thể thành hiện thực, nó còn là niềm khao khát của đứa
con mong muốn cho cha ở bên chăm sóc, vỗ về khi chiến tranh kết thúc.
- Nhan đề đã thể hiện chủ đề của tác phẩm: Ca ngợi tình phụ tử thiêng liêng, sâu sắc trong
hoàn cảnh éo le của chiến tranh.

Bài 4: Hãy nêu tình huống truyện? Tác dụng của tình huống đó?
- Tình huống truyện: bất ngờ
- Ông sáu xa nhà tới tám năm, nhìn thấy đứa con, ông đã dang rộng vòng tay bước những
bước dài những tưởng con bé sẽ chạy lại gọi ông một tiếng “ba” thì con bé lại sợ hãi bỏ chạy.
Lúc ông sáu lên đường, ông không dám lại gần bé Thu, chỉ đứng nhìn khẽ gọi “Thôi! Ba đi
nghe con” thì bé Thu lại ôm lấy của ông và bày tỏ một tình cảm mãnh liệt.
 Tác dụng:
 Tình huống bất ngờ trên giúp cho câu chuyện hay hơn, hấp dẫn hơn.
 Giúp ta hiểu hơn về tính cách của nhân vật, về tình yêu của ông Sáu dành cho bé Thu
và tình yêu thiêng liêng của bé Thu dành cho người cha.
 Góp phần thể hiện chủ đề văn bản: Tình cha con sâu nặng, tố cáo tội ác chiến tranh,
chiến tranh không chỉ gây ra nỗi đau ở chiến trường mà còn để lại nỗi đau ở hậu
phương, đó không chỉ gây ra nỗi đau về thể xác mà còn gây ra nỗi đau về tinh thần.

Bài 5: Viết doạn văn T-P-H (10-12 câu) có sử dụng khởi ngữ, lời dẫn trực tiếp (gạch
chân, chú thích), làm rõ tình cảm của ông Sáu dành cho bé Thu qua truyện ngắn
“Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng.
(1) Tình cảm ông Sáu dành cho bé Thu được tác giả Nguyễn Quang Sáng khắc họa rõ nét
qua truyện ngắn “Chiếc lược ngà”. (2) Xa con tám năm trời lúc nào ông Sáu cũng nhớ về mà
không được gặp con, mỗi lần được vợ đến thăm, ông trách vợ sao không đưa con đi cùng. (3)
Lúc nhận được tin nghỉ phép ba ngày, tình cảm cha con cú nôn nao trong lòng ông, thoáng
nhìn đứa trẻ khoảng 8-9 tuổi thì ông đã khẳng định đó là con gái của mình, đây là một tình
cảm chỉ có người cha yêu con mới có. (4) Lúc đó thời gian và không gian trở nên dài vô tận,
ông không thể chờ xuồng cập bến mà ông nhảy thót lên bờ, đẩy chiếc thuyền ra xa khiến
người bạn đi cùng anh phải chớ với. (5) Ông bước nhưng bước dài, dang rộng vòng tay
miệng khe gọi “Thu!con”, ông chờ đợi giây phút hạnh phúc được con gọi một tiếng “ba” và
được ôm con vào lòng để thỏa mãn những ngày xa cách, nhưng thật bất ngờ đứa con gái lại
bỏ chạy và đẩy ông vào tận cùng của nỗi đau đớn và sự thất vọng “Mặt ông tối sầm lại trông
thật đáng thương, hai tay buông thõng ra như bị gãy, vết thẹo trên mặt đỏ ửng giần giật trông
thật đáng sợ”. (6) Nội tâm nhân vật được miêu tả một cách tinh tế kết hợp với biện pháp so
sánh, Nguyễn Quang Sáng đã lột tả được nỗi đau tái tê câm lặng của người lính ngay tại hậu
phương, 3 ngày nghỉ phép ít ỏi, người lính không đi đâu, không làm gì chỉ ở bên cạnh để vỗ
về đứa con với mong muốn con gái gọi dù chỉ là một tiếng “ba”, trước sự ương bướng con
đứa con gái nhỏ, người lính im lặng cười, đây là cái cười của tình yêu thương. (7) Bữa cơm
cuối cùng, người cha đã gắp cho con một miếng trứng cá to vàng nhưng đứa con lại hất tung
ra ngoài, không kiềm chế được lòng mình, ông đã đánh con, phát 1 cái vào mông và quát lên
“Sao mày cứng đầu quá vậy hả?”(câu nghi dùng để bộc lộ cảm xúc), lúc chuẩn bị lên đường,
ông được gọi một tiếng “ba” mà ông hằng ao ước, người lính đã bật khóc đây là giọt mắt của
niềm vui sướng, hạnh phúc. (8) Ở khu căn cứ, lúc nào ông cũng ân hận vì đã lỡ đánh con,
ông dồn toàn bộ tình yêu vào chiếc lược để thực hiện lời nói với con nhỏ, tìm được khúc ngà
voi, ông mừng như đứa trẻ được quà, ông làm lược một cách khổ công, tỉ như 1 người thơ
bạc, mỗi ngày người lính chỉ làm được vài chiếc răng lược, cây lược hoàn thành, ông còn
khắc lên đó dòng chữ “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”, cây lược hiện thân của tình phụ tử,
mỗi lần ngắn nó, giúp ông vơi đi nỗi nhớ con, cây lược hoàn thành niềm khao khát của ông
lớn dần, ông mơ về một lần hội ngộ được tận tay trao cây lược cho con gái nhưng ông Sáu đã
hi sinh nằm giữa ranh giới giữa sự sống và cái chết người lính đã nghĩ đến đứa con gái nhỏ,
ông dồn hết sức để đưa cây lược cho bác Ba và nhìn bác Ba với một ánh mắt thật khó tả, ông
chỉ ngắm mắt khi bác Ba hứa sẽ trao tận tay cây lược cho con, như vậy chiến tranh đã giết
chết thể xác, họ có thể giết chết được tình yêu con người, tình cảm ông Sáu giành cho con
mình sẽ bất tử với thời gian và không gian. (9) Chao ôi, tình cảm của ông Sáu dùng cho bé
Thu mới xúc động làm sao! (10) Chắc hẳn, tác giả là người có tâm hồn nhạy cảm với viết
được những câu văn hay đến như vậy. (11) Về nghệ thuật, tác giả sử dụng thể loại truyện
ngắn, ngôi kể số một qua lời kể của bác Ba, xây dựng thành công nhân vật ông Sáu, bé Thu,
nội tâm nhân vật được miêu tả tinh tế, tình huống truyện bất ngờ, ngôn ngữ truyện sự dụng
nhiều từ Nam Bộ, biện pháp tu từ so sánh, Nguyễn Quang Sáng đã miêu tả tinh tế tình cảm
của ông Sáu dành cho bé Thu qua truyện ngắn trên khiến em rất xúc động.
NHỮNG NGÔI SAO XA XÔI
-Lê Minh Khuê-
BT1: Viết bài giới thiệu về tác giả Lê Minh Khuê.
“Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê là một tác phẩm hay.
Lê Minh Khuê sinh năm 1949, quê ở Thanh Hóa, bà gia nhập Thanh niên xung phong và bắt
đầu viết văn vào đầu năm 70, là câu bút nữ chuyên viết về truyện ngắn với ngòi bút miêu tả
tâm lí nhân vật, đặc biệt là phụ nữ. Trước năm 1975, bà viết về nữ thanh niên và tuổi trẻ ở
chiến trường. Sau năm 1975, bà viết về những biến chuyển của xã hội trên tinh thần đổi mới.
Tác phẩm chính “Những ngôi sao xa xôi”.
“Những ngôi sao xa xôi” được sáng tác vào năm 1971, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ
đang diễn ra vô cùng khốc liệt nhất, khi Lê Minh Khuê đang là nữ thanh niên xung phong
hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn, trích truyện ngắn cùng tên.
Tác phẩm thuộc thể loại truyện ngắn, ngôi kể thứ nhất qua lời kể nhân vật Phương Định,
lúc xưng hô “tôi” và “chúng tôi”. Tác dụng là Phương Định có thể kể tất cả những gì liên
quan đến ba người và bày tỏ cảm xúc nên tác phẩm vừa mang tính chân thực vừa mang tính
khác quan. Bố cục chia làm ba phần, đi theo mạch cảm xúc: Cuộc sống và chiến đấu của ba
nữ thanh niên xung phong; một lần phá bom; cảm xúc của mỗi người trước cơn mưa đá.
“Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê kể về cuộc sống và chiến đấu của ba nữ thanh
niên xung phong: Nho, Thao, Phương Định. Nơi họ ở là một cái hang dưới chân cao điểm;
hàng ngày, họ phải đo khối lượng đất đá phải san lấp, đánh dấu những quả bom chưa nổ và
phá bom. Ngày ngày, họ phải đối mặt với thần chết nhưng họ vẫn sống hồn nhiên, yêu đời,
kiên cường, vượt qua mọi khó khăn, ba gái rất yêu thương nhau, luôn coi nhau như chị em
trong gia đình. Trong một lần phá bom, Nho bị thương, Phương Định và chị Thoa chăm sóc
cho Nho rất chu đáo, đúng lúc ấy một cơn mưa đá chợt đến rồi lại đi chợt đi để cho họ những
cảm xúc thật khó tả.
“Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê rất thành công về mặt nghệ thuật, tác phẩm
thuộc thể loài truyện ngắn, ngôi kể thứ nhất qua lời kể của Phương Định, dễ dành đan xen
hai khoảng thời gian, xây dựng thành công nhân vật Nho, Thoa, Phương Định; nội tâm nhân
vật Phương Định được miêu tả tinh tế, tình huống truyện căng khốc liệt nơi chiến trường,
ngôn ngữ truyện trẻ trung đậm chất nữ tính, sử dụng một loài câu văn ngắn, nhịp nhanh tạo
không khí khẩn trương nơi chiến trường, sử dụng nhiều hình ảnh mang tính ẩn dụ, đặc biệt là
ngôi sao.
Tác phẩm đã tái hiện, hiện thực khốc liệt nơi chiến trường, và ca ngợi phẩm chất cao đẹp
của ba nữ thanh niên xung phong.
Quả thật, “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê là tác phẩm hay, qua bao nhiêu năm
trôi qua tác phẩm vẫn mãi trong lòng người đọc.
BT2: Phân tích những nét chung của 3 nữ thanh niên xung phong.
A, Chung hoàn cảnh sống và chiến tranh.
 Nơi ở:
Trước hết là hoàn cảnh sống và chiến đấu, nơi họ ở là một cái hang dưới chân cao điểm giữa
vùng trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn, là nơi tập trung bom đạn khốc liệt, sự khốc
lốc liệt ấy là hiện lên qua ngòi bút miêu tả tỉ mỉ của Lê Minh Khuê: “Đường bị đánh lở loét,
màu đất đỏ trắng lẫn lộn, cây không còn lá xanh, thân cây tước khô cháy, có những cây bị
bật rễ, cảnh vật sau trận bom còn lại sơ xác, khói đen vật vờ, từng cụm trong không trung,
đất trời có cảm giác như không thở được nữa”, chỉ với vài chi tiết miêu tả cũng chỉ đủ khiến
người đọc hình dung được cuộc sống ở nơi đây đang bị hủy diệt tàn khốc.
 Công việc:
Nơi ở đã nguy hiểm nhưng công việc của họ lại càng nguy hiểm hơn, ba nữ thanh niên xung
phong có nhiệm vụ quan sát địch ném bom, đếm những quả bom chưa nổ, đo khối lượng đất
nấp vào hố bom, đánh dấu vị trí những quả bom chưa nổ nếu cần thì phá bom. Đó là một
công việc nguy hiểm cận kề với cái chết, họ phải ở trên cao điểm cả 3 ngày, cả khi máy bay
đang gầm rít ở trên đầu, ở dưới là những quả bom chưa nổ, có thể nổ ngay bây giờ, có thể nổ
chốc nữa, nhất định sẽ nổ.
Nguy hiểm nhất là một lần họ trực tiếp tham gia phá bom. Giữa không gian vắng lặng đến
rợn người, Phương Định phải đối mặt với quả bom, một loạt những câu văn ngắn được sử
dụng càng làm cho không khí nơi đây căng thẳng, ngột ngạt và đáng sợ hơn, Phương Định
phải đối mặt với thần chết, chỉ một giây sơ sảy nhỏ thôi, cô có thể chả cả bằng chính mạng
sống của mình.
B, Phẩm chất cao đẹp.
 Lí tưởng sống cao đẹp:
Tuy phải sống và chiến đấu ở một nơi cực kì nguy hiểm nhưng ba nữ thanh niên xung
phong vẫn mang trong mình những phẩm chất cao đẹp. Trước hết là một lí tưởng sống đáng
để trân trọng. Ba cô gái tuổi đời còn rất trẻ, lẽ ra họ đều có cho mình một tương lai tương
sáng, một cuộc sống hạnh phúc bên gia đình và người thân, thế nhưng họ đã từ bỏ tất cả đều
đến với chiến trường, sống và việc ở một nơi cực kì nguy hiểm, với niềm khao khát giải
phóng miền Nam thống nhất đất nước, lí tưởng sống của họ là lí tưởng sống của một dân tộc
Việt Nam anh hùng: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai”.
 Họ là những con người kiên cường, dũng cảm và có tinh thần trách nhiệm với công
việc:
- Đẹp nhất phải kể đến sự kiên cường, dũng cảm vượt qua sự khó khăn, gian khổ và tinh thần
trách nghiệm cao đối với công việc của ba nữ thanh niên xung phong. họ phải sống và làm
việc ở trên tuyến đường Trường Sơn - những ngày tháng chiến tranh đã diễn ra khốc liệt
nhất, ngày này họ phải đối mặt với cái chết nhưng họ vẫn kiên cường vượt qua, những vết
thương chi tiết trên cơ thể họ nhưng họ sợ nhất là vào bệnh viện Quân Y.
- Thần chết - nỗi khiếp sợ của tất cả mọi người nhưng họ lại nói về một cách đầy hóm hỉnh:
“Thần chết là một tay không thích đùa. Hắn ta lẩn trong ruột những quả bom”. Họ chia nhau
việc phá bom như người ta chia nhau một món quà vậy. Công việc phải mạo hiểm với cái
chết, căng thẳng về thần kinh nhưng với họ nó trở thành một phần không thể thiếu trong
cuộc sống hằng ngày.

- Đến với một lần phá bom của Phương Định, ta mới thấy hết được sự kiên cường, dũng
cảm của những con người nơi đây. Mặc dù rất quen với công việc nguy hiểm này. Một ngày
họ cần phải phá tới năm quả bom nhưng mỗi lần như vậy là một thử thách đầy gay go. Cả
không gian rộng lớn bị bao trùm bởi sự vắng lặng đến rợn người, Phương Định cảm nhận
được những dấu hiệu chẳng lành thế nhưng cô vẫn không đi khom mà đứng thẳng, đàng
hoàng bước tới để rồi lòng dũng cảm của cô đã được phấn khích - sự tự trọng ở bên quả
bom, kề sát với cái chết, từng cảm giác của con người cũng trở nên sắc nhọn hơn “Thỉnh
thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người cứa vào da thịt tôi”.
Tiếp đó là sự căng thẳng chờ đợi quả bom nổ. Trong giây phút ngột ngạt ấy, Phương Định có
nghĩ đến cái chết nhưng chỉ là một cái chết mờ nhạt, không cụ thể, còn toàn bộ tâm trí cô tập
trung vào việc liệu mìn có nổ, bom có nổ không? Nếu không thì làm cách nào cho nó nổ lần
2. Bom nổ cũng là lúc Phương Định hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Sau một lần
phá bom, Nho bị thương vừa trải qua ranh giới của sự sống và cái chết, vậy mà ba cô gái trẻ
lại vui thích cuống cuồng khi đón nhận một cơn mưa đá.

 Tình đồng chí, đồng đội keo sơn.

- Ba nữ thanh niên xung phong trong “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê còn có 1
tình đồng chí, đồng đội keo sơn. Khi chị Thao và Nho đi phá bom, Phương Định ở lại trong
hang và cô vô cùng lo lắng, sợ hãi cho tính mạng của 2 người đồng đội. Thời gian càng lên,
trí não cô cũng không thua, cô đi ra rồi lại đi vào, cô gắt vào máy mà không hiểu vì sao mình
gắt nữa. Vắng lặng đến rợn người, cô khao khát được nghe tiếng súng 12 li 7 của các anh cao
xạ thông minh, để rồi lúc nghe thấy nó cô thật sự hạnh phúc khi đồng đội đã được hỗ trợ, họ
trở về bình yên, cô thở phào nhẹ nhõm như vừa trút gánh nặng. Diễn biến tâm lí của cô được
Lê Minh Khuê miêu tả tận tình và là bằng chứng đầy thuyết phục về tình đồng chí, đồng đội
keo sơn.
- Nho bị thương, cái kiên cường của chị Thao hoàn toàn biến mất. Mắt chị mở to như không
còn sự sống, chị nghẹn ngào không nước mắt, khi Nho được đưa vào trong hang để băng bó.
Tình yêu với người đã khiến chị trở nên thật luống cuống. Chị còn nghĩ cả tới việc gọi điện
về đơn vị để báo cáo.
- Phương Định moi đất để bế Nho lên, cô băng bó vết thương, pha sữa, đây là cách chăm sóc
của 1 người mẹ, 1 người chị với người con, người em đầy yêu thương của mình.
- “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê kể bằng ngôi kể thứ nhất qua lời kể của
Phương Định vậy mà cô thấu hiểu cặn kẽ sở thích của từng người. Chị Thao kiên cường
nhưng sợ máu, sợ vắt, thích tỉa lông mày nhỏ như que tăm, thích chép lời bài hát. Còn nho
thích vòi vĩnh, thích ăn kẹo, thích tắm suối, kể cả nơi đó có bom. Rõ ràng giữa họ không hề
có một chút khoảng cách, họ thấu hiểu cả những tâm tư sâu kín nhất của lòng nhau.
 Họ là những con người lạc quan, yêu đời và có một tâm hồn trong sáng.
- Chiến trường đầy bom đạn nhưng vẫn không giết chết được những trái tim mộng mơ, 3 cô
gái trẻ vẫn sống thật hồn nhiên, lạc quan và yêu đời và đầy ước mơ về tương lai. Phương
Định vẫn ý được về vẻ đẹp của mình, kiêu hãnh, tự hào, chăm lo cho nó, hãy nghe lời cô
nói :“Nói một cách khiêm tốn, tôi là 1 cô gái khá, 2 bím tóc dày tương đối mềm, một cái cổ
cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn. Còn mắt tôi thì các anh lái xe bảo “cô có cái nhìn sao mà
xa xăm””. Ý thức được về vẻ đẹp của mình, Phương Định hay ngắm mình trong gương, mỗi
lần như vậy đôi mắt cô nheo lại như chói nắng. Cách thể hiện của Phương Định giữa đám
đông cũng thật đặc biệt. Mỗi lần các anh lái xe, hoặc cánh pháo thủ trong khi các cô gái khác
vồn vã vây quanh thì Phương Định đứng từ xa nhìn đi nơi khác, 2 tay khoanh trước ngực.
Trong mắt cô, người đẹp nhất vẫn là những người có ngôi sao trên mũ.
- Chiến trường đầy bom đạn nhưng các cô gái trẻ vẫn cất cao tiếng hát. Đây là sở thích của
Phương Định từ khi còn nhỏ nay được cô mang vào chiến trường. Ở thế giới đầy chết chóc
ấy, tiếng hát của cô như 1 phương thuốc màu nhiệm xoa dịu những nỗi đau và tiếp thêm sức
mạnh để vượt qua những tháng ngày gian khổ nơi chiến trường. Họ có thể hát ngay cả khi
máy bay đang ầm ĩ trên đầu, dù giọng hát chua lòm nhưng chị Thao cũng có tới 3 quyển sổ
ghi chép đầy lời bài hát.
- Giữa chiến trường ấy họ vẫn mơ mộng về tương lai. Bước chân vào trong hang cách cao
điểm 300m người đọc như đến với 1 thế giới hoàn toàn khá. Tại đây ta mới cảm nhận hết
được vẻ đẹp tâm hồn của 3 nữ thanh niên xung phong, Phương Định nhạy cảm, hồn nhiên và
đầy mơ mộng. Hình ảnh quê hương luôn in đậm trong tâm trí cô. Ngày ngày phải đối mặt với
thần chết nhưng cô luôn nhớ về khung cửa sổ yên tĩnh nép mình giữa lòng thủ đô, nhớ mẹ,
nhớ những ngôi sao to trên bầu trời thành phố, nhớ bà bán xôi sáng. Đây là hình ảnh của
cuộc sống thanh bình, hạnh phúc mà cô luôn khao khát. Hóa ra chiến tranh chỉ có thể giết
chết được thể xác con người chứ không thể giết chết được tình yêu mộng mơ và mơ ước về
tương lai của họ.
- Chao ôi, phẩm chất của 3 nữ thanh niên xung phong mới cao đẹp làm sao! Chắc hẳn tác
giả phải là người có tâm hồn nhạy cảm mới viết được những câu văn hay đến như vậy. Về
nghệ thuật, tác giả sử dụng thể loại truyện ngắn, ngooi kể thứ nhất qua lời kể của nhân vật
Phương Định, xây dựng thành công nhân vật Nho, Thao, Phương Định, tâm lí nhân vật được
miêu tả tinh tế đặc biệt là Phương Định, tình huống truyện căng thẳng, khốc liệt nơi chiến
trường, ngôn ngữ truyện trẻ trung, hồn nhiên, đầy nữ tính, tác giả còn sử dụng một loạt các
câu văn ngắn, nhịp nhanh tạo không khí khẩn trương nơi chiến trường, sử dụng những hình
ảnh mang tính ẩn dụ, đặc biệt là hình ảnh ngôi sao.
BT3: phân tích nét riêng của 3 nữ thanh niên xung phong
- Ba cô gái trẻ sống trong cùng một tập thể, họ có những điểm chung nhưng không ai trộn
lẫn vào nhau. Nho là em út trong tổ trinh sát tính nết trẻ con, thích ăn kẹo, có dáng người bé
nhỏ, nhẹ nhàng. Cứ mỗi lần đi trinh sát về lại đi tắm khiến Phương Định liên tưởng đến một
que kem mát mẻ. Thế nhưng khi bị thương, Nho lại rất rắn rỏi, bản lĩnh. Thao là một người
chị cả, nhưng chị hay làm dáng nhất, lông mày tỉa nhỏ như que tăm, áo lót cái nào cũng thêu
chỉ màu. Ở nhân vật này có những nét tính cách tưởng như mâu thuẫn nhau, rất thích chép
lời bài hát thậm chí chép cả những lời Phương Định bịa ra nhưng chẳng bao giờ hát đúng
nhạc. Trong công việc rất dũng cảm, táo bạo, quyết đoán nhưng lại sợ máu, sợ vắt. Phương
Định vốn là một cô học sinh thành phố nhạy cảm, hồn nhiên, thích mơ mộng và hay sống với
kỉ niệm của tuổi thiếu nữ hồn nhiên, vô tư giữa gia đình và thành phố của mình.
 Cả 3 cô gái đều có những nét tính cách đẹp đẽ, đáng yêu, họ là những con người sinh
động từ cuộc sống thực bước vào tác phẩm một cách tự nhiên. Ở họ có sự kết hợp hài
hòa giữa nét chung và nét riêng. Lê Minh Khuê miêu tả những nữ anh hùng phá bom
nhưng họ không mang cái vẻ gân guốc, cứng nhắc, ngược lại họ là những cô gái bình dị
có cá tính và vô cùng đáng yêu. Tổ quốc cần, họ sẵn sàng đón nhận những hiểm nguy và
cuộc sống ác liệt nơi chiến trường đã biến họ thành những anh hùng

BT4: Nêu ý nghĩa nhân đề “Những ngôi sao xa xôi”?

- Nhan đề “Những ngôi sao xa xôi” là một nhan đề hay và độc đáo.
- Hình ảnh “Những ngôi sao xa xôi” xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm, đó là những ngôi
sao trên mũ những người chiến sĩ, là những ngôi sao trên bầu trời thành phố quê hương,
những ngôi sao trong câu chuyện cổ tích, những ngôi sao của hoài niệm, khao khát, hi
vọng… Nhưng trên hết, những ngôi sao ấy là hình ảnh ẩn dụ về những cô gái thanh niên
xung phong trên tuyến đường Trường Sơn và những phẩm chất cao đẹp. Họ như những ngôi
sao tỏa sáng trên bầu trời. Nó còn ước muốn một cuộc sống hòa bình và biểu tượng cho sự
lạc quan, yêu đời của ba nữ thanh niên xung phong.

- Nhan đề đã thể hiện chủ đề tác phẩm.


BT5: Phân tích nhân vật Phương Định
A, Lí tưởng sống cao đẹp.
- Phương Định tuổi đời còn rất trẻ lẽ ra cô có một cuộc sống hạnh phúc bên gia đình và
người thân một tương lai tươi sáng thế nhưng cô đã từ bỏ tất cả để đến với chiến trường sống
và làm việc ở một nơi cực kì nguy hiểm với niềm khao khát giải phóng miền Nam thống nhất
đất nước.
B, Hoàn cảnh sống và chiến đấu.
- Cũng như các cô gái thanh niên xung phông khác, Phương Định sống và làm việc trên một
cao điểm giữa một vùng trọng điểm – nơi tập trung nhiều bom đạn nhất.
- Công việc cùng với các nữ thanh niên xung phong hằng ngày quan sát địch ném bom, đo
khối lượng đất đá cần san lấp đánh dấu những quả bom chưa nổ và phá bom, mỗi ngày phải
phá từ 3-5 lần. Hoàn cảnh sống khắc nghiệt ấy Phương Định vẫn thể hiện được nét tâm hồn
đáng quý.
C, Có tâm hồn trong sáng.
- Phương Định là một cô gái trẻ người Hà Nội vào chiến trường đã 3 năm, từng có một thời
học sinh hồn nhiên vô tư bên người mẹ trong một căn phòng nhỏ, ở một đường phố yên tĩnh
trong những ngày thanh bình trước chiến tranh ở thành phố của mình. Những kỉ niệm ấy
luôn sống trong cô ngay giữa chiến trường ác liệt, nó vừa là niềm khao khát, vừa làm dịu mát
tâm hồn trong hoàn cảnh khốc liệt nơi chiến trường. Thích hát, thuộc rất nhiều lời bài hát,
thậm chí bịa ra lời bài hát. Hay mơ mộng, tìm thấy sự thú vị trong cuộc sống, trong cả công
việc đầy nguy hiểm. Dưới cơn mưa đá, cô vui thích cuống cuồng, say sưa tận hưởng như
chưa hề nghe thấy tiếng mưa rơi, đạn nổ.
D, Phương Định là người có phẩm chất anh hùng.
- Có tinh thần trách nhiệm với công việc: đến với một lần phá bom của Phương Định ta mới
thấy hết được sự kiên cường dũng cảm của những con người nơi đây mặc dù rất quen với
công việc nguy hiểm này, một ngày có thể phải phá tới 5 quả bom, nhưng mỗi lần vẫn là một
thử thách đầy gay go. Cả không gian rộng lớn bị bao trùm bởi sự vắng lặng đến rợn người
Phương Định cảm nhận được sự vắng lặng đến rợn người Phương Định cảm nhận được
những dấu hiệu chẳng lành thế nhưng cô không đi khom mà đứng thẳng đàng hoàng bước tới
mà để rồi lòng dũng cảm của cô đã được kích thích bằng sự tự trọng ở bên quả bom kề sát
với cái chết từng cảm giác của con người cũng trở nên sắc nhọn hơn “thỉnh thoảng lưỡi xẻng
chạm vào quả bom một tiếng động sắc đến gai người cứa vào da thịt tôi”. Tiếp đó là sự căng
thẳng chờ đợi quả bom nổ trong giây phút ngột ngạt ấy Phương Định nghĩ đến cái chết
nhưng chỉ là cái chết mờ nhoà không cụ thể còn toàn bộ tâm trí cô tập trung vào việc liệu
mìn có nổ, bom có nổ không nếu không thì làm cách nào để nó nổ lần hai, bom nổ cũng là
lúc Phương Định hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình.
E, Tình đồng chí, đồng đội.
- Thương yêu những người đồng đội của mình.
- Chăm sóc Nho chu đáo.
- Hiểu rõ tâm trạng lo lắng của chị Thao khi Nho bị thương, mặc dù chị đã cố che dấu bằng
việc bảo cô hát.
- Với đại đội trưởng, chỉ tiếp xúc qua điện thoại những biết rõ từ cách ăn nói đến đặc điểm
riêng.
- Cô quý trọng và cảm phúc tất cả những chiến sĩ mà cô đã gặp trên tuyến đường Trường
Sơn.
G, Lê Minh Khuê tỏ ra rất am hiểu và miêu tả sinh động của những cô gái thanh niên xung
phong, đặc biệt là Phương Định.
- Giống như những cô gái mới lớn, Phương Định nhạy cảm quan tâm đến hình thức của
mình.
- Cô biết mình được nhiều người để ý, nhất là các anh lính có rất nhiều thiện cảm với cô.
Điều đó làm cô vui và tự hào nhưng chưa dành tình cảm cho ai.
- Nhạy cảm nhưng cô lại không hay biểu lộ tình cảm của mình, tỏ ra kín đáo giữa đám đông,
tưởng như kiêu kì nhưng tạo nên một sức hút tự nhiên khiến nhiều anh lính trẻ phải tìm cách
làm quen với cô qua cánh thư.
- Nhân vật Phương Định là hình ảnh của tuổi trẻ Việt Nam anh hùng thời kì kháng chiến
chống Mĩ. Qua nhân vật, ta thêm yêu mến, tự hào, chân trọng hơn quá khứ hào hùng của dân
tộc. Được sống trong thời kì hòa bình hiên nay, chúng ta sẽ tiếp nối và phát huy những lí
tưởng sống cao đẹp của thế hệ cha ông, gìn giữ và xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp,
văn minh. Chao ôi, phẩm chất của Phương Đinh mới cao đẹp làm sao! Chắc hẳn tác giả phải
là người có tâm hồn nhạy cảm mới viết được những câu thơ hay đến như vậy. Về nghệ thuật,
tác giả sử dụng thể loại truyện ngắn, ngôi kể thứ nhất qua lời kể của Phương Định, xây dựng
thành công nhân vật, nội tâm nhân vật được miêu tả tinh tế, tình huống truyện căng thẳng,
khốc liệt nơi chiến trường, ngôn ngữ truyện trẻ trung, hồn nhiên, đầy chất nữ tính, tác giả
còn sử dụng một loạt câu văn ngắn, nhịp nhanh tọa không khí khuẩn trương nơi chiến
trường, sử dụng nhiều hình ảnh mang tính ẩn dụ, đặc biệt là hình ảnh ngôi sao.
BT6: Qua ba nhân vật trong truyện, em cảm nhận như thế nào về tuổi trẻ Việt Nam
trong thời kì kháng chiến chống Mĩ?
- Cảm phục trước lòng yêu nước, sự gan dạ, dũng cảm, dám đối mặt với khó khăn của họ.
- Yêu mến bởi họ lạc quan, yêu đời ngay trong hoàn cảnh khói lửa đạn bom.
- Tự hào về tuổi trẻ Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ. Biết hơn những con người đã
đem cả tuổi thanh xuân và tính mạng của mình để đổi lấy độc lập, tự do cho Tổ quốc. Sự hy
sinh của họ đã góp một phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc.
- Bộc lộ ý thức kế thừa và phát huy truyền thống cách mạng của thế hệ đi trước.

You might also like