You are on page 1of 9

Tài liệu: LT vào Lớp 10 môn Ngữ văn- Thầy Phạm Hữu Cường Làng

“LÀNG” CỦA KIM LÂN

I. TRỌNG TÂM KIẾN THỨC


1. Tình huống truyện và diễn biến tâm trạng của ông Hai
2. Tình yêu làng quê, lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến của người nông dân.
3. Đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm.

II. VỀ NHÀ VĂN KIM LÂN


1. Con người, cuộc đời
Kim Lân sinh 1 tháng 8 năm 1920, mất 20 tháng 7 năm 2007, tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở
làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
2. Sự nghiệp sáng tác
a. Đóng góp chủ yếu
- Kim Lân bắt đầu viết truyện ngắn từ năm 1941. Tác phẩm của ông được đăng trên các báo Tiểu
thuyết thứ bảy và Trung Bắc chủ nhật. Một số truyện (“Vợ nhặt”, “Đứa con người vợ lẽ”, “Đứa con người
cô đầu”, “Cô Vịa”,...) mang tính chất tự truyện nhưng đã thể hiện được không khí tiêu điều, ảm đạm của
nông thôn Việt Nam và cuộc sống lam lũ, vất vả của người nông dân thời kỳ đó.
- Ông được dư luận chú ý nhiều hơn khi đi vào những đề tài độc đáo như tái hiện sinh hoạt văn
hóa phong phú ở thôn quê (đánh vật, chọi gà, thả chim...). Các truyện: “Đôi chim thành”, “Con mã mái”,
“Chó săn”... kể lại một cách sinh động những thú chơi kể trên, qua đó biểu hiện một phần vẻ đẹp tâm
hồn của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám- những người sống cực nhọc, khổ nghèo nhưng
vẫn yêu đời, trong sáng, tài hoa.
- Sau Cách Mạng tháng Tám, Kim Lân tiếp tục làm báo, viết văn. Ông vẫn chuyên về truyện ngắn
và vẫn viết về làng quê Việt Nam- mảng hiện thực mà từ lâu ông đã hiểu biết sâu sắc.
- Trong cả hai giai đoạn sáng tác, tuy viết không nhiều nhưng giai đoạn nào Kim Lân cũng có
những tác phẩm hay. Là một cây bút truyện ngắn vững vàng, ông đã viết về cuộc sống và con người ở
nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một người vốn là con đẻ của đồng ruộng.
- Nǎm 2001, Kim Lân được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
b. Những tác phẩm chính:
“Nên vợ nên chồng” (tập truyện ngắn, 1955).
“Con chó xấu xí” (tập truyện ngắn, 1962).

III. HƯỚNG DẪN ĐỌC HIỂU VĂN BẢN


Tài liệu: LT vào Lớp 10 môn Ngữ văn- Thầy Phạm Hữu Cường Làng

A.Tác giả, tác phẩm


1.Tác giả
- Kim Lân tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920, quê ở Bắc Ninh.
- Kim Lân bắt đầu viết truyện ngắn từ năm 1941.
- Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của Kim Lân tập trung ở khung cảnh nông thôn và hình
tượng người nông dân, thể hiện không khí tiêu điều, ảm đạm của nông thôn Việt Nam và cuộc sống vất
vả lam lũ của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.
- Ngòi bút của Kim Lân đặc biệt hấp dẫn khi viết về sinh hoạt phong phú ở thôn quê vớinhững thú
chơi lành mạnh như đánh vật, chọi gà, thả chim…, qua đó thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân
trước Cách mạng sống cực nhọc, khổ nghèo nhưng vẫn yêu đời, trong sáng, tài hoa.
- Sau cách mạng Kim Lân vẫn tiếp tục viết về làng quê Việt Nam và gặt hái những thành công mới
ở đề tài sở trường của mình.
- Tác phẩm chính: “Nên vợ nên chồng” ( 1955 ), “Con chó xấu xí” (1962).
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác
Truyện ngắn "Làng" được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng lần đầu
trên tạp chí Văn nghệ ( 1948 ).
b. Đặc điểm nội dung – nghệ thuật
- Truyện thuộc loại có cốt truyện tâm lí, không xây dựng trên các biến cố lớn, sự kiện bên ngoài
mà chú trọng đến các tình huống bên trong nội tâm nhân vật, miêu tả các diễn biến tâm lí, từ đó làm
nổi rõ tính cách nhân vật và chủ đề tác phẩm.
- Truyện “Làng” khai thác một tình cảm bao trùm và phổ biến trong con người thời kì kháng
chiến: tình cảm quê hương đất nước. Đây là một tình cảm mang tính cộg đồng. Nhưng thành công của
Kim Lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lí chung ấy trong sự thể hiện cụ thể sinh động ở một con người, trở
thành một nét tâm lí sâu sắc ở nhân vật ông Hai, vì thế nó là tình cảm chung mà lại mang rõ màu sắc
riêng, cá nhân, in rõ cá tính nhân vật.
B. Phân tích
1.Tình yêu làng ở nhân vật ông Hai
- Ông Hai yêu cái làng Chợ Dầu của mình bằng một tình cảm thật đặc biệt. Những biểu hiện của
tình ấy ở ông Hai cũng rất đặc biệt: ông say mê kể về làng, luôn khoe làng mình, tự hào với cái làng chợ
Dầu của mình về nhiều mặt. Tình cảm ấy càng được bộc lộ tha thiết, nhiệt thành khi ông phải xa làng đi
tản cư.
Tài liệu: LT vào Lớp 10 môn Ngữ văn- Thầy Phạm Hữu Cường Làng

- Ông tự hào về làng mình giàu đẹp: “nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh. Đường trong làng lát
toàn đá xanh, trời mưa trời gió tha hồ đi khắp đầu làng, cuối xóm, bùn không dính đến gót chân”.
- Hồi trước Cách mạng, ông còn khoe về cái sinh phần của viên tổng đốc người làng ông.
- Sau Cách mạng, ông lại tự hào về những cái khác, đó là phong trào cách mạng của làng rất sôi
nổi, rất có khí thế, lôi cuốn mọi tầng lớp nhân dân vào các đoàn thể cứu quốc. Ông còn khoe về “cái
phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa, rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh cao bằng ngọn tre, chiều
chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy”.
- Ông nói chuyện về cái làng của mình một cách say mê náo nức lạ thường: “ Hai con mắt ông sáng
hẳn lên, cái mặt biến chuyển, hoạt động”.
- Ông tình nguyện hăng hái ở lại làng cùng đội du kích chiến đấu. Đến khi vì hoàn cảnh gia đình
phải đi tản cư, ông khổ tâm, day dứt, nhớ làng, nhớ anh em đồng chí ở lại làng.
Tác giả đã diễn tả một tình cảm, một nét tâm lí quen thuộc và truyền thống của người nông dân:
tình cảm gắn bó với làng quê và tự hào về quê hương mình. Cái tâm lí tự hào về làng quê ở người nông
dân có lúc đẩy lên thành một thứ tâm lí địa phương hẹp hòi, ở ông Hai phần nào nhiễm cái tâm lí ấy.
Nhưng chính cách mạng và kháng chiến đã khơi dậy ở những người nông dân tình cảm yêu nước rộng
lớn , hoà nhập thống nhất tình cảm làng quê vào tình cảm rộng lớn ấy. Ở ông Hai, tình cảm yêu làng là
thống nhất với lòng yêu nước, với tinh thần kháng chiến.
2. Diễn biến tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng mình theo giặc
a. Tình huống bộc lộ tâm trạng
Tác giả đã đặt nhân vật ông Hai vào một tình huống gay gắt để làm bộc lộ sâu sắc tình cảm yêu
làng, yêu nước của ông. Tình huống ấy là cái tin làng ông theo giặc, lập tề mà chính ông nghe được từ
miệng những người mới tản cư qua vùng ông.
- Khi nghe tin quá đột ngột ấy, ông Hai sững sờ: “ Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân.
Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được”. Khi trấn tĩnh lại được phần nào, ông còn cố chưa tin cái
tin ấy. Nhưng rồi những người tản cư đã kể rành rọt quá, lại khẳng định họ vừa ở dưới ấy lên, làm ông
không thể không tin.
- Từ lúc ấy trong tâm trí ông Hai chỉ còn có cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành một nỗi ám ảnh day
dứt. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông cúi gằm mặt mà đi. Về đến nhà, ông nằm vật ra giường, rồi tủi
thân nhìn đàn con “nước mắt ông lão cứ tràn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng
nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?”.
- Suốt mấy ngày sau, ông Hai không dám đi đâu. Ông chỉ quanh quẩn ở nhà, nghe ngóng binh tình
bên ngoài. “Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc
nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến cái chuyện ấy”,
Tài liệu: LT vào Lớp 10 môn Ngữ văn- Thầy Phạm Hữu Cường Làng

“thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam nhông…là ông lủi ra một góc nhà, nín thít, thôi lại chuyện
ấy rồi”.
Tác giả đã diễn tả rất cụ thể nỗi ám ảnh nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông Hai
cùng với nỗi đau xót, tủi hổ của ông trước cái tin làng mình theo giặc.
b. Xung đột nội tâm của ông Hai
Tác giả thể hiện sâu sắc tình yêu làng quê và tinh thần yêu nước ở ông Hai qua một mâu thuẫn:
khi nghe tin làng mình theo giặc, hai tình cảm ấy đã dẫn đến một cuộc xung đột nội tâm ở ông Hai. Ông
đã dứt khoát lựa chọn theo cách của ông: làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù, tình yêu
nước đã rộng lớn hơn, bao trùm lên tình cảm với làng quê. Nhưng dù đã xác định như thế, ông vẫn
không thể dứt bỏ tình cảm với làng quê, vì thế mà ông càng đau xót tủi hổ.
- Ông Hai đã bị đẩy vào tình thế bế tắc tuyệt vọng khi mà mụ chủ nhà muốn đuổi gia đình ông đi.
Đi đâu bây giờ? Không ai chứa chấp dân của cái làng Việt gian, cũng không thể quay về làng, “ Về làng
tức là chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây”. Mối mâu thuẫn trong nội tâm và tình thế của nhân vật
dường như đã thành sự bế tắc, đòi hỏi phải được giải quyết.
- Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy, ông chỉ còn biết trút nỗi lòng của mình vào những lời
thủ thỉ tâm sự với đứa con nhỏ còn rất thơ ngây: “ Ông lão ôm thằng con út …cũng vợi đi được đôi phần”.
Đây là một đoạn văn diễn tả rất cảm động và sinh động nỗi lòng sâu xa, bền chặt, chân thành của ông
Hai- một người nông dân- với quê hương, đất nước, với cách mạng và kháng chiến. Qua những lời tâm
sự với đứa con nhỏ, thực chất là lời tự nhủ với mình, ta thấy rõ ở ông Hai:
+ Tình yêu sâu nặng với cái làng Chợ Dầu của ông, ông muốn đứa con nhỏ ghi nhớ câu “Nhà ta ở
làng Chợ Dầu”.
+ Tấm lòng chung thuỷ với kháng chiến, với cách mạng mà biểu tượng là Cụ Hồ “Anh em đồng chí
biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông”. Tình cảm ấy là sâu nặng, bền vững
và thiêng liêng “Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám
đơn sai”.
c.Nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm trạng ông Hai
- Tác giả đặt nhân vật vào tình huống thử thách bên trong để bộc lộ chiều sâu tâm trạng.
- Tác giả miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biến nội tâm qua các ý nghĩ, cảm giác, hành vi, ngôn
ngữ…Đặc biệt, tác giả đã diễn tả rất đúng và gây ấn tượng mạnh mẽ về sự ám ảnh, day dứt trong tâm
trạng nhân vật. Điều đó chứng tỏ Kim Lân am hiểu sâu sắc con người nông dân và thế giới tinh thần của
họ.
3.Nghệ thuật của truyện ngắn “Làng”
Tài liệu: LT vào Lớp 10 môn Ngữ văn- Thầy Phạm Hữu Cường Làng

- Truyện xây dựng theo cốt truyện tâm lí. Tác giả đã sáng tạo tình huống truyện có tính căng
thẳng, thử thách ở nội tâm nhân vật, từ đó bộc lộ đời sống bên trong, tình cảm tư tưởng của nhân vật.
Đặt vào trong thời điểm ra đời của tác phẩm càng thấy được thành công của Kim Lân.
- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc, tinh tế.
- Ngôn ngữ nhân vật sinh động, giàu tính khẩu ngữ và thể hiện cá tính của từng nhân vật ( cũng là
ngôn ngữ nông dân nhưng lời nói của ông Hai và mụ chủ nhà rất khác nhau ). Qua ngôn ngữ mà làm rõ
tính cách nhân vật, đồng thời phản ánh tâm lí ham thích các sinh hoạt chính trị của quần chúng hồi đầu
cách mạng và kháng chiến.
- Cách trần thuật của tác giả linh hoạt, tự nhiên, có nhiều chi tiết sinh hoạt, đời sống hàng ngày
xen vào với mạch tâm trạng khiến cho truyện sinh động hơn (qua truyện có thể thấy cụ thể về đời sống
người tản cư, mối quan hệ giữa chủ nhà và dân tản cư, những nét sinh hoạt hàng ngày trong vùng
kháng chiến).

IV. LỜI BÌNH TÁC PHẨM


A. TÌNH YÊU LÀNG CỦA ÔNG HAI
Kim Lân là nhà văn có vốn sống vô cùng phong phú và sâu sắc về nông thôn Việt Nam . Các sáng
tác của ông đều xoay quanh cảnh ngộ và sinh hoạt của người nông dân. Truyện ngắn “Làng” đươc sáng
tác vào thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, với nhân vật chính là ông Hai, một lão
nông hiền lành, yêu làng, yêu nước và gắn bó với kháng chiến .
Ông Hai cũng như bao người nông dân quê từ xưa luôn gắn bó với làng quê của mình. Ông yêu quí
và tự hào về làng Chợ Dầu và hay khoe về nó một cách nhiệt tình, hào hứng. Ở nơi tản cư ông luôn nhớ
về làng, theo dõi tin tức kháng chiến và hỏi thăm về Chợ Dầu. Tình yêu làng của ông càng được bộc lộ
một cách sâu sắc và cảm động trong hoàn cảnh thử thách. Kim Lân đã đặt nhân vật vào tình huống gay
gắt để bộc lộ chiều sâu tình cảm của nhân vật. Đó là tin làng Chợ Dầu lập tề theo giặc.Từ phòng thông
tin ra, đang phấn chấn, náo nức vì những tin vui của kháng chiến thì gặp những người tản cư, nghe nhắc
đến tên làng, ông Hai quay phắt lại, lắp bắp hỏi, hy vọng được nghe những tin tốt lành, nào ngờ biết tin
dữ: “Cả làng Việt gian theo Tây”. Tin bất ngờ ấy vừa lọt vào tai đã khiến ông bàng hoàng, đau đớn :“Cổ
ông lão nghẹn ắng hẳn lại,da mặt tê rân rân, ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được, một lúc lâu
ông mới rặn è è nuốt một cái gì vướng ở cổ. Ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi nhằm hy vọng điều vừa
nghe không phải là sự thật. Trước lời khẳng định chắc chắn của những người tản cư, ông tìm cách lảng
về. Tiếng văng vẳng của người đàn bà cho con bú khiến ông tê tái :“cha mẹ tiên sư nhà chúng nó , đói khổ
ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương,cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một
nhát”.Về đến nhà ông chán chường “nằm vật ra giường”, nhìn đàn con nước mắt ông cứ giàn ra “chúng
Tài liệu: LT vào Lớp 10 môn Ngữ văn- Thầy Phạm Hữu Cường Làng

nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?”. Ông căm thù
những kẻ theo Tây, phản bội làng, ông nắm chặt hai tay lại mà rít lên: “chúng bay ăn miếng cơm hay
miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Niềm tin, nỗi ngờ giằng
xé trong ông. Ông kiểm điểm lại từng người trong óc, thấy họ đều có tinh thần cả “có đời nào lại cam
tâm làm cái điều nhục nhã ấy”. Ông đau xót nghĩ đến cảnh “người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống
Việt gian bán nước”. Suốt mấy ngày liền ông chẳng dám đi đâu,“chỉ ở nhà nghe ngóng binh tình”, lúc
nào cũng nơm nớp tưởng người ta đang để ý, đang bàn tán đến cái chuyện làng mình. Nỗi ám ảnh,day
dứt,nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông. Ông đau đớn, tủi hổ như chính ông là người
có lỗi...
Tình thế của ông càng trở nên bế tắc, tuyệt vọng khi bà chủ nhà có ý đuổi gia đình ông với lý do
không chứa người của làng Việt gian. Trong lúc tưởng tuyệt đường sinh sống ấy, ông thoáng có ý nghĩ
quay về làng nhưng rồi lại gạt phắt ngay bởi “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”, là “cam chịu quay
trở lại làm nô lệ cho thằng Tây”. Tình yêu làng lúc này đã lớn rộng thành tình yêu nước bởi dẫu tình
yêu, niềm tin và tự hào về làng Dầu có bị lung lay nhưng niềm tin và Cụ Hồ và cuộc kháng chiến không
hề phai nhạt. Ông Hai đã lựa chọn một cách đau đớn và dứt khoát: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo
Tây mất rồi thì phải thù!”. Dù đã xác định thế nhưng ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm của mình đối
với quê hương. Bởi thế mà ông càng xót xa, đau đớn.... Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy, ông chỉ
còn biết tìm niềm an ủi trong lời tâm sự với đứa con trai nhỏ. Nói với con mà thực ra là đang trút nỗi
lòng mình. Ông hỏi con những điều đã biết trước câu trả lời: “Thế nhà con ở đâu?”, “thế con ủng hộ ai
?”…Lời đứa con vang lên trong ông thiêng liêng mà giản dị:“Nhà ta ở làng Chợ Dầu”, “ủng hộ Cụ Hồ Chí
Minh muôn năm !”…. Những điều ấy ông đã biết, vẫn muốn cùng con khắc cốt ghi tâm. Ông mong “anh
em đồng chí biết cho bố con ông, tấm lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai, chết thì
chết có bao giờ dám đơn sai”. Những suy nghĩ của ông như những lời nguyện thề son sắt. Ông xúc động,
nước mắt “chảy ròng ròng trên hai má”. Tấm lòng của ông với làng, với nước thật sâu nặng, thiêng liêng.
Dẫu cả làng Việt gian thì ông vẫn một lòng trung thành với kháng chiến,với Cụ Hồ …
May thay, tin đồn thất thiệt về làng Chợ Dầu được cải chính. Ông Hai sung sướng như được sống
lại. Ông đóng khăn áo chỉnh tề đi với người báo tin và khi trở về “cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi
vui rạng rỡ hẳn lên”. Ông mua cho con bánh rán đường rồi vội vã, lật đật đi khoe với mọi người. Đến
đâu cũng chỉ mấy câu“Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ! Đốt sạch! Đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới
lên trên này cải chính. Cải chính cái tin làng Chợ Dầu chúng tôi Việt gian theo Tây ấy mà. Láo! Láo hết!
Toàn là sai sự mục đích cả .” “Ông cứ múa tay lên mà khoe với mọi người”. Ông khoe nhà mình bị đốt
sạch, đốt nhẵn như là minh chứng khẳng định làng ông không theo giặc. Mất hết cả cơ nghiệp mà ông
không hề buồn tiếc, thậm chí còn rất sung sướng, hạnh phúc. Bởi lẽ, trong sự cháy rụi ngôi nhà của
Tài liệu: LT vào Lớp 10 môn Ngữ văn- Thầy Phạm Hữu Cường Làng

riêng ông là sự hồi sinh về danh dự của làng Chợ Dầu anh dũng kháng chiến. Đó là một niềm vui kỳ
lạ,thể hiện một cách đau xót và cảm động tình yêu làng,yêu nước,tinh thần hy sinh vì cách mạng của
người dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược .
Cách miêu tả chân thực, sinh động, ngôn ngữ đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm đa dạng, tự
nhiên như cuộc sống cùng với những mâu thuẫn căng thẳng, dồn đẩy, bức bối đã góp phần không nhỏ
tạo nên thành công của câu chuyện, đồng thời còn thể hiện sự am hiểu và gắn bó sâu sắc của nhà văn
với người nông dân và công cuộc kháng chiến của đất nước.
Qua nhân vật ông Hai ta hiểu thêm về vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam thời kỳ
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược :Yêu làng, yêu nước và gắn bó với kháng chiến. Có lẽ vì thế
mà tác phẩm “Làng” xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện
đại.
B. TRUYỆN NGẮN “LÀNG”
Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài sinh năm 1921, quê ở Hà Bắc. Là nhà văn chuyên viết truyện
ngắn, ông đã có sáng tác đăng báo từ trước cách mạng tháng 8. Là nhà văn am hiểu sâu sắc, gắn bó với
nông dân và nông thôn, Kim Lân hầu như chỉ viết về sinh hoạt nông thôn và cảnh ngộ của người nông
dân. Truyện ngắn “Làng” là một trong những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân được viết trong thời kì
đầu của cuộc khánh chiến chống Pháp (1948). Đây là một tác phẩm độc đáo viết về lòng yêu nước của
ông Hai Thu, lòng yêu nước này xuất phát từ tình yêu quê hương, yêu làng sâu sắc của ông. Tình cảm và
ý nghĩa này đã trở thành phổ biến ở mỗi người nông dân Việt Nam ta trong những ngày đầu chống
Pháp.
Ông Hai yêu cái làng Chợ Dầu của ông thật đậm đà, tha thiết , yêu đến nỗi đi đâu ông cũng khoe
về cái làng của ông. Kể về làng Chợ Dầu, ông nói một cách say sưa mà không cần biết người nghe có chú
ý hay không. Ông khoe làng ông có nhà ngói san sát, sầm uất, đường trong làng lát toàn bằng đá xanh,
trời mưa đi từ đầu làng đến cuối xóm bùn không dính đến gót chân. Tháng 5 ngày 10 phơi rơm và thóc
tốt thượng hạng, không có lấy một hạt thóc đất. Ông còn tự hào về cái sinh phần của tổng đốc làng ông.
Ông tự hào, vinh dự vì làng mình có cái nét độc đáo, có bề dày lịch sử. Nhưng khi cách mạng thành
công, nó đã giúp ông hiểu dc sự sai lầm của mình. Và từ đó, mỗi khi khoe về làng là ông khoe về những
ngày khởi nghĩa dồn dập, những buổi tập quân sự có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập. Ông còn
khoe cả những hố , những ụ, những hào,... lắm công trình không để đâu hết.
Chính cái tình huống ngặt nghèo khi giặc tràn vào làng, ông buộc phải xa làng. Xa làng ông mang
theo tất cả nỗi niền thương nhớ. Vì vậy, nên lúc tản cư, ông khổ tâm day dứt khôn nguôi. Quả thật, cuộc
đời và số phận của ông Hai thật sự gắn bó với buồn vui của làng. Tự hào và yêu nơi “chôn rau cắt rốn”
của mình trở thành một truyền thống và tâm lý chung của mọi người nông dân thời bấy giờ. Có thể tình
Tài liệu: LT vào Lớp 10 môn Ngữ văn- Thầy Phạm Hữu Cường Làng

yêu nước của họ bắt nguồn từ cái đơn giản, nhỏ : cây đa, giếng nướ, sân đình… và nâng cao lên đó chính
là : tình yêu đất nước. Tới đây, là chợt nhớ đến câu nói bất hủ của nhà văn I-li-a Ê-ren-bua : “lòng yêu
nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc “. Những ngày ở làng Thắng, ông Hai suốt
ngày ra trụ sở để nghe ngóng tin tức về làng Chợ Dầu và ông nghe tin cả làng ông Việt gian theo Tây. Cổ
ông lão “nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân” ông lão lặng đi, tưởng như không thể thở được. Ông cảm thấy
đâu đớn và nhục nhã vì cái làng Chợ Dầu yêu quý của mình theo giặc. Ông nguyền rủa bọn theo Tây :
“chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã
thế này”. Cũng chình từ lúc ấy, ông không dám đi đâu hết, suốt ngày ru rú trong nhà và nghe ngóng tin
tức. Đến khi mụ chủ nhà đến báo không cho gia đình ông ở nữa, ông thấy tuyệt đường sinh sống và ông
nảy ra ý định: “hay là quay về làng ?” nhưng rồi ý nghĩ đó lập tức bị ông lão phản đối ngay vì : “làng thì
yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù.” Có thể nói với ông Hai, làng và nước bay giờ đã trở thành
đối địch. Hai tình cảm này đã dẫn đến cuộc xung đột nội tâm trong lòng ông. Nhưng trong đó, tình yêu
đất nước được ông Hai đặt lên trên hết.
Phải thực sự am hiểu sâu sắc về con người, nhất là tâm lí của người dân thì Kim Lân mới diễn tả
đúng tâm trang nhân vật như vậy. Trong những ngày này, nỗi niềm và tâm sự của ông được thể hiện
trong những lời trò chuyện của ông với đứa con út. Trò chuyện với con như là để thanh minh cho làng
mình. Ông hỏi con: “con ủng hộ ai?” Thằng bá giơ tay mạnh bạo và rành rọt: “Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh
muôn năm”. Cái lòng của bố con ông là thế đấy “chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”.
Thế rồi, một tin khác lại đính chính rằng làng ông không theo giặc. Những nỗi lo âu, xấu hổ tan
biến. Thay vào đó là nỗi vui mừng, sung sướng. Ông đi từ đầu làng đến cuối xóm khoe cái tin làng mình
không theo giặc, khoe cả cái việc nhà ông bị đốt cháy một cách sung sướng, hả hê: “bác Thứ đâu rồi !
Bác Thứ làm gì đấy ? Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn ! ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này
cải chính, ông ấy cho biết… cái tin, cái tin làng chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo ! Láo hết ! toàn
là sai sự mục đích cả”. Qua lời khoe của ông Hai, điều làm ta cảm động đó là ông không hề tiếc hay buồn
khi ngôi nhà của ông bị đốt . Niềm vui vì làng không theo giặc đã choáng hết tâm trí ông. Mọi đau khổ,
buồn tủi đã được rũ sạch.
Quả thật, Kim Lân rất thành công trong việc khắc họa hình ảnh của ông Hai, một trong những
người dân bấy giờ, đơn giản, chất phác, tiêu biểu cho tầng lớp nông dân Việt Nam sau Cách Mạng tháng
Tám. Họ đã đặt tình yêu đất nước lên trên tình yêu làng. Kim Lân thật thành công trong nghệ thuật xây
xựng truyện, nhất là nghệ thật sử dụng ngôn ngữ nhân vật mà ông Hai là điển hình. Lời nói của ông hai
đúng là lời nói của những người nông dân thời bấy giờ, kể cả những từ dung sai: “bác Thứ đâu rồi… Láo
! Láo hết ! toàn là sai sự mục đích cả”. Bên cạnh đó Kim Lân còn thành công trong việc miêu tả tâm lý
nhân vật. Diễn biến tâm lý của ông Hai từ đầu đến cuối truyện thật cảm đông. Yêu làng đến nỗi đi đâu
Tài liệu: LT vào Lớp 10 môn Ngữ văn- Thầy Phạm Hữu Cường Làng

cũng khoe về làng. Khi biết làng bị tình nghi theo giặc thì ông đau khổ, tủi nhục, và khi biết làng mình
không theo giặc, ông sung sướng, thậm chí còn khoe cả tin nhà mình bị đố cháy một cách vui sướng, hả
hê. Xây dựng được những chi tiết ấy, miêu tả sự phát triển tâm lý nhân vật như vậy, Kim Lân đã chứng
tỏ được tài nghệ của mình.
Truyện “Làng” là một tác phẩm khá thành công khi viết về lòng yêu nước, yêu làng của người
nông dân VN thời kháng chiến chống Pháp. Kim Lân đã thể hiện được tài năng của mình qua tác phẩm
này. Đọc tác phẩm giúp ta hình dung được một thời kỳ chống Pháp sôi nổi của nhân dân, mọi người
một lòng theo Bác, theo Đảng kháng chiến đến cùng, có lẽ vì vậy mà cuộc chiến của ta đã dành được
thắng lợi vẻ vang.
IV. ĐỀ LUYỆN TẬP
1. Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai kể từ khi nghe tin làng mình theo giặc.
2. Phân tích tình huống truyện cơ bản của tác phẩm.
3. Nét chung và riêng của tình cảm với đất nước, quê hương qua “Làng” và “Lặng lẽ Sa Pa”.

You might also like