You are on page 1of 140

TÀI LIỆU ÔN THI VÀO LỚP 10 KHÔNG CHUYÊN

Họ và tên học sinh:…………………………………..


Lớp: 9A

1
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
PHẦN I. PHÂN TÍCH CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC
BÀI 1. CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG- NGUYỄN DỮ.
CÂU 1: TÁC GIẢ NGUYỄN DỮ.
- Nguyễn Dữ sống vào khoảng thế kỉ 16, ông là học trò của xuất sắc của Nguyễn
Bỉnh Khiêm, là người học rộng, tài cao nhưng ông chỉ làm quan một năm rồi xin
về quê ở ẩn và viết sách.
- Tác phẩm ghi dấu tên tuổi của ông là tập Truyền kì mạn lục - áng “Thiên cổ kì
bút” của văn học nước nhà. Tập truyện gồm 20 câu chuyện, ghi chép những
chuyện kì lạ được lưu truyền.
- “Chuyện người con gái Nam Xương” là chuyện thứ 16 viết về cuộc đời, số
phận của người phụ nữ đức hạnh mà bất hạnh.
CÂU 2: Ý NGHĨA CỦA CHI TIẾT KÌ ẢO HOANG ĐƯỜNG.
- Những yếu tố truyền kỳ tạo cho truyện một kết thúc có hậu, giải oan cho Vũ
Nương.
- Góp phần làm hoàn chỉnh thêm những nét đẹp phẩm giá của nhân vật Vũ
Nương: dù đã ở thế giới khác vẫn thương nhớ chồng con, khao khát được phục
hồi danh dự; là người phụ nữ trọng ân tình.
- Tuy vậy tính bi kịch vẫn tiềm ẩn ở ngay trong các yếu tố hoang đường kỳ ảo
này vì cuối cùng VN không thể trở về đoàn tụ cùng gia đình. Làm cho tiếng nói
tố cáo, lên án xã hội nam quyền thêm sâu sắc.
CÂU 3: Ý NGHĨA CỦA CHI TIẾT CHIẾC BÓNG TRÊN TƯỜNG.
- Cái bóng là điểm thắt nút, mở nút cho bi kịch của VN. Khi xuất hiện gián tiếp,
“cái bóng” trở thành đầu mối, điểm thắt nút của câu chuyện. Mọi nghi ngờ
thực chất khởi sinh từ cái bóng. Lần thứ hai, “cái bóng” giải oan cho VN.
- Mặt khác, chiếc bóng tô đậm thêm nét đẹp phẩm chất của Vũ Nương trong
vai trò làm vợ, làm mẹ. Vũ Nương chỉ bóng mình trên tường bảo đó là cha Đản
để dỗ con và làm nguôi ngoai nỗi nhớ – cả nỗi con nhớ cha, cả nỗi vợ nhớ
chồng. Như thế, cái bóng trở thành biểu tượng của tình chồng vợ gắn bó tuy hai
mà một.
- Chiếc bóng còn tăng sức tố cáo của tác phẩm: vì chiếc bóng vô hình nhưng
cũng có thể dẫn tới bi kịch cái chết thương tâm cho người phụ nữ.
- Cái bóng là chi tiết nghệ thuật đắt giá, góp phần tạo kịch tính và thúc đẩy sự
phát triển của câu chuyện.
CÂU 4. NHỮNG NGUYÊN NHÂN BI KỊCH CỦA VŨ NƯƠNG.
- Nguyên nhân trực tiếp:
+ Lời nói ngây thơ của bé Đản đã vô tình gây nên mối hiểu lầm của Trương
Sinh.
+ Nguyên nhân đáng trách nhất để dẫn đến cái chết oan khuất của Vũ Nương đó
là tính cách đa nghi, ít học của Trương Sinh. Khi nghe lời nói ngây thơ của con
trẻ, chàng chẳng thèm suy xét đúng sai hay lắng nghe những lời phân trần mà
vội vàng kết tội vợ mình. Chính sự hồ đồ, độc đoán, tệ bạc này của Trương Sinh
là nguyên nhân quan trọng nhất đẩy Vũ Nương đến đường cùng không lối thoát.
- Nguyên nhân gián tiếp:

2
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
+ Do chế độ nam quyền độc đoán, một xã hội mà nam nữ không bình đẳng, hôn
nhân không có tình yêu và tự do.
+ Do chiến tranh phong kiến phi nghĩa.
CÂU 5: NHÂN VẬT VŨ NƯƠNG.
Luận điểm 1: Vẻ đẹp phẩm chất của VN- người phụ nữ tâm đức vẹn toàn.
a. Luận cứ 1: VN kết tinh vẻ đẹp tâm đức vẹn toàn của người phụ nữ
truyền thống. Trước hết, vẻ đẹp của nàng được hé lộ qua lời giới thiệu của
nhà văn: “Vũ Thị Thiết người con gái quê ở Nam Xương, tính đã thuỳ mị nết
na lại thêm tư dung tốt đẹp”
- Lời giới thiệu trực tiếp, ngắn gọn nhưng đủ giúp người đọc hình dung về một
người con gái đẹp nết đẹp người theo chuẩn mực phong kiến, rất đáng ngưỡng
mộ.
- Từ đó nhà văn thể hiện thái độ trân trọng đối với nhân vật của mình.
Ngay sau lời giới thiệu, nhà văn đã đi sâu miêu tả vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất
của nhân vật trong các mối quan hệ khác nhau, trong các tình huống khác nhau.
b. Luận cứ 2: Nổi bật nhất trong vẻ đẹp phẩm chất của Vũ Nương là ở vai
trò một người vợ, nàng là người vợ hiền thảo, nết na, đảm đang, chu toàn
và một lòng yêu thương chung thủy với chồng:
- Về làm vợ TS, VN hiểu rõ bản tính của chồng, biết Trương Sinh vốn hay ghen
tuông, nên nàng luôn “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải
đến thất hòa”. Điều đó cho thấy VN là người vợ khéo léo thu vén cho mái ấm
gia đình và rất trân trọng hạnh phúc mà mình đang có, khiến TS ko thể chê trách
nàng điều gì.
- Chiến tranh nổ ra, Trương Sinh phải đi lính đợt đầu. VN lúc này đang mang
thai sắp tới kì sinh nở, lại thêm có mẹ già cần người phụng dưỡng, chăm lo.
Tình cảnh của nàng thật đáng thương, thật đáng lo ngại. Nhưng vượt lên những
khó khăn mà bản thân sẽ phải đối mặt, buổi tiễn chồng đi lính, Vũ Nương rót
chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình nghĩa, đằm thắm, thiết tha: “Chàng
đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở
về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Ước
mong của nàng thật bình dị, lời lẽ dịu dàng chứng tỏ nàng luôn coi trọng hạnh
phúc gia đình mà xem thường mọi công danh phù phiếm. Nàng cảm thông, chia
sẻ với chồng những nỗi vất vả gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng. Nhịp văn
biền ngẫu nhịp nhàng tựa như lời nói dịu dàng của người vợ trẻ. Đúng là lời nói,
cách nói của một người vợ thùy mị, biết chịu đựng, biết hi sinh, lo lắng cho
chồng để làm yên lòng người đi xa, thật đáng trân trọng biết bao!
- Những ngày tháng chồng vắng nhà, Vũ Nương thay chồng gánh vác mọi công
việc gia đình, từ nuôi dạy con thơ đến làm tròn chữ hiếu với mẹ già mà không hề
một lời trách phận, trách người. Người vợ ấy còn ngày ngày chung thủy đợi chờ,
mong ngóng tin chồng, đến cả việc “Tô son điểm phấn” làm đẹp cho bản thân
nàng cũng không màng đến nữa. Với lòng yêu quý, trân trọng vẻ đẹp tâm hồn
của người phụ nữ, Nguyễn Dữ đã diễn tả thật cảm động tấm lòng thủy chung,
son sắt của VN với chồng.

3
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
- Khi chồng trở về, vì hiểu lầm mà hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ, Vũ
Nương ra sức cứu vãn, hàn gắn. Trước những ghen tuông vô lý, những hành
động vũ phu của TS, Vũ Nương không một lời trách giận chồng mà tìm mọi
cách để thanh minh, phân trần mong chồng hiểu tấm lòng mình. Những lời nói
nhún nhường tha thiết của người vợ trẻ cho thấy thái độ trân trọng chồng, cùng
một tấm lòng tha thiết muốn gìn giữ hạnh phúc gia đình.
- Nhưng những cố gắng của VN đã không được đáp đền xứng đáng, nàng đành
lấy cái chết để chứng minh cho tiết giá sạch trong của mình. Được cứu sống
dưới thủy cung nhưng nàng vẫn không nguôi nỗi thương nhớ chồng con. “ Đa tạ
tình chàng nhưng thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Lời nói của
người vợ khi được chồng giải oan vẫn là lời đa tạ cảm kích với chồng. Rõ ràng
trái tim người phụ nữ ấy không hề có chút thù hận, chỉ có sự yêu thương và lòng
vị tha với người chồng.
=> Có thể nói, trong vai trò người vợ, VN xứng đáng là người vợ lý tưởng
theo quan niệm lễ giáo phong kiến hà khắc.
c. Luận cứ 3: Không chỉ làm tròn vai trò người vợ, Vũ Nương còn là người
con dâu hiếu thảo với mẹ chồng.
- Khi chồng vắng nhà, nàng đã thay chồng phụng dưỡng mẹ chu đáo. Lúc mẹ
ốm nàng đã hết lòng thuốc thang lễ bái thần phật. Biết mẹ chồng vì quá thương
nhớ con trai mà sinh tâm bệnh, nàng đã khéo léo khuyên lơn, động viên. Đến khi
bà mất, nàng đã hết lời thương xót, ma chay tế lễ cẩn trọng hệt như với cha mẹ
đẻ của mình. Nàng chăm sóc mẹ chồng không chỉ vì trách nhiệm, bổn phận dâu
con mà bằng tất cả tấm lòng yêu thương, thấu hiểu.
- Cái tình ấy có thể cảm thấu cả trời đất cho nên trước lúc chết người mẹ già đã
trăng trối những lời yêu thương, động viên, trân trọng con dâu “Sau này, trời xét
lòng lành, ban cho phúc đức giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia
quyết chẳng phụ lòng con như con đã chẳng phụ mẹ".
=> Trong xã hội xưa, chữ hiếu là điều vô cùng quan trọng, VN đã làm tròn chữ
hiếu với mẹ già, thay chồng trả nghĩa cho mẹ một cách chu toàn, đẹp đẽ.
d. Luận cứ 4: Trong vai trò người mẹ, VN cũng là người mẹ rất mực yêu
thương con:
- Sau khi xa chồng chưa đầy tuần, nàng sinh bé Đản, một mình gánh vác cả
giang sơn nhà chồng nhưng chưa khi nào nàng chểnh mảng việc con cái.
- Thương con thiếu vắng tình cảm của người cha, đêm đêm, nàng trỏ chiếc bóng
của mình trên vách tường và bảo đó là cha Đản. Có lẽ vì muốn con nhỏ luôn
luôn thấy sự hiện diện của người cha trong ngôi nhà. Bởi vậy mà gia đình lúc
nào cũng cảm thấy xum vầy đông đủ và cũng là cách nàng yêu thương, bù đắp
cho con mình. Có thể nói chi tiết chiếc bóng trên tường xuất phát từ chính lòng
yêu thương con của người mẹ trẻ. Nó không chỉ tô đậm vẻ đẹp đức hạnh của
người con gái Nam Xương mà còn chứng tỏ tài năng, tấm lòng nhân đạo của nhà
văn Nguyễn Dữ. Nó trở thành chi tiết điển hình, neo đậu mãi trong tâm trí người
đọc bao thế hệ về một người mẹ thương con, một người vợ rất mực yêu thương
chồng.

4
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
e. Luận cứ 5: Không chỉ là người vợ hiền, mẹ đảm người con dâu hiếu thảo
mà Vũ Nương còn là người phụ nữ trọng danh dự và ân nghĩa:
- Khi bị chồng nghi ngờ thất tiết, dẫu biết là mình oan ức nhưng VN vẫn sẵn
sàng lấy cái chết để chứng minh, để bảo toàn tiết giá. Với người phụ nữ ấy, thà
chết còn hơn sống mà chịu tiếng oan lừa chồng dối con. Ngay cả khi được sống
sung sướng dưới thủy cung, nàng vẫn đau đáu nỗi oan khuất nơi trần thế, mong
được giải oan, thể hiện qua chi tiết nhờ Phan Lang báo tin cho Trương Sinh.
- Được Linh Phi cứu mạng, VN đã thề sẽ gắn bó với Linh Phi như một cách đền
đáp ân nhân. Do đó, dù rất thương nhớ chồng con, thiết tha với hạnh phúc gia
đình chốn nhân gian nhưng nàng vẫn không trở về đoàn viên: Thiếp cảm ơn đức
của Linh Phi, đã thề sống chết không bỏ.
=> Nguyễn Dữ đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật VN với những vẻ
đẹp điển hình của người phụ nữ Việt Nam truyền thống: yêu chồng, thương con,
hiếu thảo với mẹ già và hết lòng vì mái ấm gia đình. Nàng xứng đáng có được
cuộc sống hạnh phúc.
Luận điểm 2. VN có số phận oan trái, bất hạnh.
a. Luận cứ 1: Mối nhân duyên không xứng đôi vừa lứa
- Nhưng trong xã hội phong kiến vốn đầy rẫy bất công với người phụ nữ, nàng
VN tâm đức vẹn toàn cũng không tránh khỏi số phận oan trái, bất hạnh. Bất
hạnh đầu tiên của VN là mối nhân duyên không xứng đôi vừa lứa với TS.
- Nàng đẹp nết đẹp người mà phải sánh đôi cùng một kẻ “cả ghen vô học”. VN
hoàn toàn không có tiếng nói trong việc quyết định chuyện trăm năm của mình.
Mối nhân duyên không xuất phát tự tình yêu tự do tự nguyện mà mang tính chất
gả bán ấy đã ẩn chứa đầy bất trắc, bất hạnh đối với người con gái Nam Xương.
b. Luận cứ 2: VN là nạn nhân của chiến tranh phong kiến:
- Như bao người phụ nữ trong chiến tranh, VN là nạn nhân của chiến tranh
phong kiến. Lấy chồng không được bao lâu thì niềm vui “nghi gia nghi thất”
của Vũ Nương bị mất bởi chồng phải tòng quân đánh giặc. Nàng thiếu phụ tuổi
xuân còn phơi phới đã phải gánh chịu nỗi buồn “chiếc bóng năm canh” của đời
người chinh phụ, sống trong mòn mỏi đợi chờ và luôn thường trực nỗi buồn li
biệt. Những tháng ngày cô đơn buồn tủi ấy, ngay đến việc tô son điểm phấn làm
đẹp cho bản thân nàng cũng chẳng màng tới nữa. Cũng chính vì chiến tranh gây
xa cách đã dẫn đến bi kịch con chẳng nhận cha, chồng ngờ oan cho vợ dẫn đến
cái chết thương tâm của VN sau này.
- Vắng chồng, gánh nặng gia đình đều đổ dồn lên đôi vai của nàng thiếu phụ.
Hình như số phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa đều có
chung nỗi bất hạnh như thế! Những lời văn thấm đẫm sự cảm thông, thương xót
của nhà văn với số kiếp người phụ nữ.
- Cũng vì chiến tranh khiến vợ xa chồng, con xa cha mới dẫn đến mối nghi ngờ
của Trương Sinh, từ đó gây nên bi kịch đau lòng của Vũ Nương.
c. Luận cứ 3: Nỗi oan khuất bất hạnh của VN khi bị chồng nghi ngờ tiết
hạnh.
- Nhưng bi kịch cuộc đời VN thực sự ập đến khi nàng bị chồng nghi ngờ tiết
hạnh. Ngày Trương Sinh mãn lính trở về cũng là lúc bi kịch cuộc đời nàng xảy

5
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
ra. Một lời nói ngây thơ của con trẻ về “một người đàn ông đêm nào cũng đến”
đã đủ thành cái cớ để người chồng cả ghen nghi ngờ đức hạnh của VN. Với bản
tính hay ghen cộng thêm tính gia trưởng, thất học, Trương Sinh đối xử với vợ
hết sức tàn nhẫn. Giấu biệt lời con nói, Trương Sinh đã “mắng nhiếc và đánh
đuổi nàng đi”. Trong xã hội vốn hà khắc với người phụ nữ thì còn gì đau đớn
hơn với VN khi bị nghi ngờ thất tiết, phản bội chồng con. Nhất là sự nghi ngờ ấy
lại đến từ chính người chồng nàng hết lòng yêu thương chung thủy.
- Trước hành động vũ phu, vô lí của chồng, VN vẫn bình tĩnh lấy lời lẽ chân
thành để phân trần cho chồng hiểu. Nỗi đau đớn bị đẩy đến bi kịch tột cùng của
VN được thể hiện rõ qua những lời thanh minh của nàng.
+ Ở lời thanh minh thứ nhất, khi nhận thấy thái độ khác lạ của chồng, đoán
biết chồng ghen tuông bóng gió, VN đã nói những lời lẽ tha thiết, chân thành.
Nàng mượn những hình ảnh ước lệ tượng trưng tô son điểm phấn từng đã
nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót cùng những lời lẽ khẳng định:
cách biệt ba năm giữ gìn một tiết; chưa hề bén gót; đâu có chuyện mất nết hư
thân… để khẳng định tấm lòng chung thủy, trước sau như một không hề đổi
thay của nàng dành cho chồng và tha thiết mong chồng hiểu cho tấm lòng của
mình. Người vợ ấy mong muốn hàn gắn, giữ gìn hạnh phúc gia đình đang đứng
trước nguy cơ tan vỡ.
+ Đến lời thanh minh thứ hai, khi TS bị ghen tuông làm cho mù quáng, bỏ
ngoài tai mọi lời can ngăn, bảo vệ VN của làng xóm, họ hàng mà đánh đuổi vợ
đi, bất đắc dĩ nàng đành thốt ra những lời chua xót. Nhịp văn biền ngẫu thiết tha
như nỗi lòng đau đớn tột cùng của người vợ bị oan ức. Nàng nhắc tới hàng loạt
những hình ảnh thiên nhiên tượng trưng cho sự chia lìa, đổ vỡ: bình rơi, trâm
gẫy, sen rũ, liễu tàn, hoa rụng cuống, én lìa đàn… để diễn tả nỗi đau trong
lòng mình. Còn đau đớn gì hơn khi tổ ấm nàng hết lòng vun đắp nay đã không
thể hàn gắn, giữ gìn; người chồng mà nàng một lòng yêu thương, chung thủy lại
nghi ngờ tiết hạnh của nàng. Trong lời lẽ, ta đã thấy sự tuyệt vọng, cùng đường
của người vợ trẻ.
+ Để rồi nàng đành thốt lên lời thanh minh thứ ba mà thực chất là lời thề
nguyền trước đấng tối cao của tạo hóa. Nàng mong thần linh chứng giám cho
tấm lòng trong sạch của nàng. Nàng nguyện rằng nếu mình ăn ở hai lòng lừa
chồng dối con thì dẫu có chết cũng bị người đời phỉ nhổ; còn nếu nàng trong
sạch mà bị oan ức thì dẫu chết cũng sẽ hoá thành những thứ cao quý được người
đời kính trọng như cỏ Ngu Mĩ, ngọc Mị Nương… Nói rồi, nàng mượn dòng
nước con sông quê hương để rửa sạch nỗi oan thất tiết.
- Hành động chọn cái chết là đỉnh điểm của bi kịch, cũng là phản ứng cao nhất
của VN để chứng minh cho tiết giá sạch trong của mình. Đó hoàn toàn không
phải là hành động bột phát của tình cảm mù quáng mà là sự lựa chọn của lý trí
tỉnh táo, sự kiên quyết bảo vệ danh dự, phẩm giá của một phụ nữ đức hạnh khi
bị đẩy tới bước đường cùng. Và dù phải chết nàng cũng muốn mình được chết
trong sạch: “nàng tắm gội chay sạch” rồi mới gieo mình xuống sông.
- Bi kịch vẫn đeo bám Vũ Nương vào tận chốn làng mây cung nước. Người đọc
càng cảm thấy xót xa hơn khi nghe câu nói của nàng ở cuối truyện: “thiếp

6
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
chẳng trở về nhân gian được nữa”. Dù có lớp chi tiết kì ảo lung linh bao phủ,
nhưng sự thật vẫn là âm dương cách trở đôi đường. Người con gái NX vẫn
không thể có được cái niềm vui nghi gia nghi thất rất đỗi bình dị mà nàng khao
khát; mẹ con xa cách; vợ chồng biệt ly là có thật. Hạnh phúc gia đình bị tan vỡ
chẳng thể hàn gắn lại được. Đằng sau yếu tố hoang đường, câu chuyện về nàng
Vũ Nương mang đậm tính hiện thực và thấm đẫm tinh thần nhân đạo.
d. Luận cứ 4: Ý nghĩa của những chi tiết kì ảo hoang đường và cách kết
thúc chuyện.
Với tấm lòng nhân đạo, đồng cảm và yêu thương nhân vật, ND đã sáng tạo thêm
những chi tiết kì ảo hoang đường để tạo cho câu chuyện cái kết lung linh và
đầy dụng ý nghệ thuật.
(Câu 2)
e. Luận cứ 5: Nguyên nhân dẫn tới bi kịch của VN.
Không chỉ dừng lại ở việc đồng cảm, bênh vực, tấm lòng nhân đạo của ND còn
thể hiện qua việc tố cáo những nguyên nhân dẫn tới bi kịch của VN.
* ĐÁNH GIÁ.
a. Nghệ thuật:
- Dựa trên cốt truyện cổ tích đơn giản, nhà văn đã sáng tạo thành một câu
chuyện li kì, hấp dẫn; tạo được tình huống đơn giản mà đặc sắc làm nổi số phận
người phụ nữ thời xưa;
- Sáng tạo nên những chi tiết truyện đặc sắc, đắt giá như chi tiết chiếc bóng, chi
tiết kì ảo…
- Việc vận dụng linh hoạt các loại hình ngôn ngữ: đối thoại, độc thoại cùng sự
kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố thực và kỳ ảo cũng góp phần làm nên thành
công cho tác phẩm, tạo ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.
b. Nội dung: Truyện có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc:
- Là bức tranh chân thực về số phận oan trái bất hạnh của người phụ nữ.
- Là sự cảm thương sâu sắc cho thân phận của người phụ nữ đức hạnh.
- Tố cáo, lên án xã hội phong kiến với nhiều bất công.
- Trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp đức hạnh, tấm lòng chung thủy của người phụ nữ.

**************************************************
BÀI 2. CHỊ EM THÚY KIỀU
( Trích Truyện Kiều- Nguyễn Du)
Mở bài:
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới. Tên tuổi của ông
gắn liền với Truyện Kiều- kiệt tác số 1 của nền văn học Việt Nam. Tác phẩm
xứng đáng là “khối đa diện toàn bích; một toà kiến trúc vừa đồ sộ, vừa tinh vi”
bởi nó thành công trên mọi phương diện từ nội dung đến nghệ thuật. Trong đó
đặc sắc nhất là nghệ thuật miêu tả chân dung nhân vật qua đoạn trích “Chị em
Thuý Kiều”. Để lại ấn tượng sâu đậm hơn cả là đoạn thơ gợi tả…
Câu 1: Vị trí đoạn trích:
Đoạn trích Chị em Thúy Kiều nằm ở phần thứ nhất Gặp gỡ và đính ước, ngay
sau những câu thơ giới thiệu về gia cảnh nhà họ Vương. Đoạn trích gợi tả tài sắc

7
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
vẹn toàn của hai cô con gái nhà họ Vương mà đặc biệt là sắc đẹp nghiêng nước
nghiêng thành và tài năng vượt trội của người chị cả TK.
Câu 2: Bố cục của đoạn trích.
Đoạn trích có bố cục bốn phần:
- 4 câu đầu: Giới thiệu chung về chị em Thúy Kiều.
- 4 câu tiếp: vẻ đẹp của Thúy Vân.
- 12 câu tiếp: vẻ đẹp tài sắc vẹn toàn của Thúy Kiều.
- 4 câu cuối: vẻ đẹp đức hạnh của chị en Kiều.
Câu 3: Phân tích đoạn trích.
a. Luận điểm 1: Giới thiệu chung về hai chị em Thúy Kiều.
Đoạn thơ mở ra với những lời giới thiệu đầy ấn tượng về hai chị em Thúy
Kiều(trích 4 câu thơ đầu).
- Câu thơ đầu giới thiệu thứ bậc của chị em Kiều trong gia đình. Họ là hai cô
con gái đầu lòng nhà họ Vương, trong đó Thúy Kiều là chị, Thúy Vân là em.
Ngay trong lời giới thiệu, nhà thơ đã hé lộ về vẻ đẹp của hai cô gái qua cụm từ
hai ả tố nga- những người con gái đẹp.
- Dòng thơ tiếp theo, với hình ảnh ước lệ “Mai cốt cách, tuyết tinh thần” tác giả
đã mượn những hình ảnh thiên nhiên tượng trưng cho sự thanh cao, trong sáng
là mai, là tuyết để gợi tả vẻ đẹp của hai nàng thiếu nữ. “Cốt cách”, “tinh thần”
ngụ ý diễn tả vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách bên trong. Như vậy, hai chị em Kiều có
được vẻ đẹp hài hòa từ dáng vẻ yêu kiều, diễm lệ đến sự cao quý của tâm hồn,
cốt cách.
- Đặc biệt nhà thơ đã lý tưởng hóa vẻ đẹp của hai nàng bằng một thành ngữ:
mười phân vẹn mười. Chị em Kiều, dù mỗi người một vẻ không giống nhau
nhưng cả hai đều có vẻ đẹp hoàn hảo, hoàn mĩ, khó ai sánh bằng.
=> Ngay những câu thơ đầu, nhà thơ đã khiến người đọc có những ấn tượng tốt
đẹp đầu tiên về vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều. Ẩn sau câu chữ là niềm ngưỡng
mộ của thi nhân trước vẻ đẹp tuyệt vời của hai nàng thiếu nữ.
b. Luận điểm 2: Vẻ đẹp của Thúy Vân:
Ngay sau những dòng giới thiệu khái quát, nhà thơ đã khắc họa vẻ đẹp sắc
nước hương trời của cô em gái Thúy Vân.( trích 4 câu thơ tả Vân).
- ND đã khái quát rất ấn tượng vẻ đẹp của Thúy Vân qua cụm từ trang trọng
khác vời. Đó là vẻ đẹp cao sang, quý phái hơn đời, hơn người ít ai sánh kịp.
- Tiếp tục vận dụng linh hoạt, hiệu quả nghệ thuật ước lệ cổ điển, tác giả đã lấy
những hình mẫu cao quý, đẹp đẽ nhất của tự nhiên như: trăng, hoa, ngọc, mây,
tuyết... để khắc họa chân dung của TV. Nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa được xen cài
trong lối ước lệ tượng trưng càng làm cho ngòi bút của thi nhân giàu sức gợi.
+ Hình ảnh ẩn dụ: khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang gợi ra trước mắt người
đọc hình ảnh một thiếu nữ đang độ tuổi trăng tròn với khuôn mặt tròn đầy, tươi
sáng, rạng ngời như ánh trăng rằm. Hài hoà với khuôn trăng là “nét ngài nở
nang” - đôi chân mày đậm nét, rõ ràng. Những từ láy thuần Việt “đầy đặn, nở
nang” tạo sự cân đối, hài hòa cho câu thơ lại có giá trị biểu cảm không ngờ, nó
không chỉ gợi được vẻ đẹp khuôn mặt, nét mày của người con gái mà còn gợi
liên tưởng về số phận viên mãn của nàng.

8
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
+ Những hình ảnh “hoa cười ngọc thốt đoan trang” ẩn dụ gợi tả nụ cười, giọng
nói của TV, nụ cười của nàng tươi thắm như hoa, còn giọng nói thì trong thanh
như ngọc. Từ thốt có thể xem là nhãn tự của đoạn thơ, cho thấy những lời Thúy
Vân thốt ra đều rất có giá trị, rất đúng mực và khéo léo hơn người.
+ Phép nhân hóa thần tình ở câu thơ thứ tư không chỉ thổi hồn sống vào thiên
nhiên vô tri vô giác mà quan trọng là nó đã góp phần hoàn thiện những nét vẽ
cuối cùng cho bức chân dung của một thiếu nữ đẹp như trăng rằm:“Mây thua
nước tóc, tuyết nhường màu da”. Nguyễn Du đã dụng công chăm chút từng nét
vẽ, ông tiếp tục gợi về vẻ đẹp làn da, mái tóc của người thiếu nữ. Nàng có làn da
trắng ngần, nõn nà, ngời sáng như tuyết và mái tóc mền mại, bồng bềnh và suôn
mượt như mây trời. Vẻ đẹp của Vân không chỉ như hoa, như ngọc, mà vẻ đẹp
của nàng còn khiến thiên nhiên phải ngưỡng mộ, ưu ái thua, nhường bởi nàng
sánh ngang với những gì đẹp đẽ nhất của trời đất, khiến thiên nhiên, tạo hóa như
tự nguyện, sẵn sàng nghiêng mình trước vẻ đẹp của nàng, nhường nàng phần
hơn. Cách diễn đạt đó như một dấu hiệu ngầm dự đoán về số phận bình yên, an
nhàn, không hề chông gai, lận đận của cô em TV.
=> Bằng tấm lòng và tài năng của bậc thiên tài, Nguyễn Du đã tạo dựng trước
mắt người đọc bức chân dung Thúy Vân mang vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu. Bức
chân dung ấy còn ngầm dự báo một số phận bình yên, suôn sẻ và hạnh phúc sẽ
đến với nàng.
c. Luận điểm 3: Bức chân dung tài sắc vẹn toàn của Thúy Kiều.
* Luận cứ 1: Sắc đẹp của TK: Đến với những câu thơ tả tài sắc Thuý Kiều,
người đọc mới thấy hết vẻ công phu, điêu luyện cũng như tấm lòng ngưỡng mộ
của thi nhân. Trước hết là vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành của trang tuyệt
sắc giai nhân( trích 6 câu thơ).
- Trật tự giới thiệu chị em Kiều có phần trái với quy luật thường thấy là chị
trước em sau chính là sự sáng tạo đầy ẩn ý của nhà nghệ sĩ. Những câu thơ đầu
tả Thúy Kiều, tác giả sử dụng hàng loạt những từ so sánh hơn: càng, so bề, phần
hơn để góp phần làm nổi bật vẻ đẹp của cô chị so với cô em. Vân đã đẹp tưởng
chẳng ai sánh bằng, thế mà chỉ bằng đôi nét bút, cô em đã hoàn toàn lu mờ trước
sắc tài có một không hai của người chị. Đây chính là bút pháp vẽ mây nảy trăng
hay thủ pháp đòn bẩy trong văn chương. Nhà văn đã mượn vẻ đẹp của Vân làm
nền để tôn lên vẻ đẹp của Kiều. Từ đó, ngòi bút thơ ông đã gây ấn tượng mạnh
trong lòng người đọc về trang tuyệt thế giai nhân.
- ND khái quát vẻ đẹp của TK trong cụm từ: sắc sảo, mặn mà. Kiều có cái sắc
sảo, tinh anh về trí tuệ, lại thêm vẻ đằm thắm, mặn mà về dung nhan. Đó là vẻ
đẹp hài hòa giữa hình thức và tâm hồn rất đáng ngưỡng mộ.
- Dù vẫn là bút pháp ước lệ tượng trưng quen thuộc lấy thiên nhiên làm thước đo
để gợi tả vẻ đẹp của con người, nhưng ngòi bút của bậc đại thi hào không hề lặp
lại một cách sáo mòn, nhàm chán mà đầy sáng tạo, linh hoạt. Nếu với bức chân
dung của TV, ND miêu tả tương đối cụ thể, chi tiết với biện pháp liệt kê: khuôn
trăng, nét ngài, mái tóc, màu da... thì ở đây, nét vẽ của thi nhân thiên về gợi hơn
tả. Chỉ với đôi ba nét chấm phá thông thoáng nhưng cũng đủ gợi ấn tượng không
thể phai mờ về một tuyệt thế giai nhân.

9
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
+ Nhà thơ tập trung bút lực để gợi tả đôi mắt của người đẹp “Làn thu thủy, nét
xuân sơn”, bởi đôi mắt vốn là cửa sổ của tâm hồn, là cái thần của nhan sắc. Đôi
mắt TK được sánh như mặt nước hồ thu vừa trong sáng, vừa long lanh, lại vừa
sâu thăm thẳm. Đôi mắt như có ánh sáng và làn sóng xao động bên trong làm mê
đắm lòng người.
+ Tôn thêm vẻ hút hồn của đôi mắt là nét mày cong cong, mền mại, thanh tú và
tràn đầy sức sống như dáng núi mùa xuân nét xuân sơn. Vẻ đẹp của TK được kết
tinh từ những gì tinh túy nhất của non nước rộng dài “sơn, thủy” và của xuân thu
bất biến. Vẻ đẹp như thách thức cả thời gian, không gian vậy.
- Dòng thơ tiếp theo càng góp phần nhấn mạnh vào vẻ đẹp của K: Hoa ghen
thua thắm, liễu hờn kém xanh. Nghệ thuật nhân hóa tiếp tục thổi hồn sống vào
cảnh vật, làm cho ý thơ thêm sinh động. Thiên nhiên vốn là biểu tượng cho vẻ
đẹp vĩnh cửu mà cũng phải hờn ghen trước vẻ sắc sảo, mặn mà của nàng Kiều.
Hoa vốn là nữ hoàng của sắc đẹp cũng phải ghen vì không tươi thắm bằng dung
nhan diễm lệ của Kiều; liễu vốn là biểu tượng của sự mền mại, thướt tha cũng
phải hờn vì thua kém so với thanh xuân tràn đầy sức sống của Kiều. Nếu tả Vân,
ND dùng hai chữ thua, nhường thể hiện thái độ ngưỡng mộ, ưu ái của thiên
nhiên; thì với Kiều, ông lại dùng những chữ ghen, hờn cho thấy vẻ đẹp của Kiều
vượt lên trên những gì đẹp nhất của thiên nhiên tạo hóa, khiến thiên nhiên phải
hờn ghen, đố kị. Những câu thơ viết về TV thanh thản, nhẹ nhàng bao nhiêu thì
những dòng thơ tả TK, câu chữ của Tố Như lại trăn trở, băn khoăn bấy nhiêu,
tấm lòng nhân đạo, yêu thương con người của bậc đại thi hào được thể hiện kín
đáo mà sâu sắc ở đó.
- Không chỉ dừng ở đó, ND còn tuyệt đối hóa vẻ đẹp của TK:
Một hai nghiêng nước nghiêng thành.
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
Nghệ thuật nói quá kết hợp với thành ngữ nghiêng nước nghiêng thành đã lí
tưởng hóa vẻ đẹp của Thúy Kiều. Người con gái ấy không chỉ khiến thiên nhiên
hờn ghen, đố kị mà còn khiến người ta mê mẩn, có thể đánh đổi cả thành lũy,
giang san. Thi nhân còn khẳng định về sắc đẹp, nàng xứng đáng chiếm vị trí số
một Sắc đành đòi một; còn về tài năng thì họa may mới có người thứ hai sánh
được với nàng: tài đành họa hai.
=> Bằng nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ tài tình, ND đã tạo dựng một bức chân
dung nàng Kiều với vẻ đẹp lộng lẫy, chim sa cá lặn, hoa ghen liễu hờn có một
không hai. Qua đó còn kín đáo bày tỏ tấm lòng nhân đạo của ND khi ngầm dự
báo về tương lai, số phận đầy sóng gió bất hạnh của TK khi nàng sở hữu vẻ đẹp
khiến tạo hoá hờn ghen, đố kị.
* Luận cứ 2: Tài năng của TK:
TK không chỉ hơn TV về nhan sắc, nàng còn hơn hẳn người em về tài năng, trí
tuệ: “Thông minh... não nhân”.
- Từ thông minh đặt ở đầu câu đã nhấn mạnh vào trí tuệ thiên bẩm của nàng.
Tiếp đó là dòng thơ thâu tóm tài năng nhiều mặt của K: “pha nghề thi họa đủ
mùi ca ngâm”. Nàng hội đủ tài năng nhiều mặt của người phụ nữ trong xã hội
xưa là cầm – kì- thi- họa.

10
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
- Nổi bật nhất trong các tài năng ấy là tài chơi đàn hồ cầm. ND đã không tiếc lời
ngợi ca ngón đàn điêu luyện của người tài nữ bằng những từ ngữ khẳng định: đủ
mùi ca ngâm, làu bậc ngũ âm, nghề riêng, ăn đứt hồ cầm... có thể nói tài đánh
đàn của TK đạt mức điêu luyện như một nghề riêng ít ai sánh được.
- Không chỉ chơi đàn giỏi, người con gái ấy còn am hiểu âm luật của tiếng đàn
để tự tay soạn nên thiên bạc mệnh. Đang sống những ngày tháng xuân sắc, đẹp
đẽ nhất trong cuộc đời nhưng TK đã biết cảm thương cho những kiếp người
mỏng manh, bất hạnh quanh mình. Bản đàn ấy là kết tinh của tài năng và cả tấm
lòng giàu yêu thương của người con gái đẹp. Sau này, bản đàn ấy còn trở thành
một hình tượng nghệ thuật vận vào số kiếp của người con gái hồng nhan.
=> Những dòng thơ ngợi ca tài sắc vẹn toàn của TK đã ngầm dự cảm về một
cuộc đời, một tương lai đầy truân chuyên, sóng gió đang đợi chờ người tài nữ họ
Vương. Khắc họa chân dung mà dự báo về số phận con người là một nét riêng,
nét mới thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của ND.
d. Luận điểm 4: Vẻ đẹp đức hạnh của chị em TK.
Đoạn thơ khép lại bằng những câu nói về đức hạnh của chị em TK( THƠ)
- Vẫn với cách nói ước lệ, nhà văn gợi về độ tuổi của hai cô gái: “xuân
xanh...cập kê”. Cả hai đều đã tới tuổi cài trâm- độ tuổi trưởng thành. Nói cách
khác, họ đều đã thành hai nàng thiếu nữ- hai đóa hoa đang độ thắm sắc, khoe
hương nhất trong cuộc đời.
- Mặc dù vậy, họ vẫn sống rất nền nếp, gia phong “rất mực hồng quần”,
“trướng rủ, màn che” e ấp, kín đáo mà tuyệt nhiên chưa nghĩ tới những chuyện
ong bướm lả lơi. Đoạn thơ khép lại trong hai chữ “mặc ai” càng tôn lên phẩm
giá, đức hạnh của hai người con gái đẹp.
3. Bình giá, tổng hợp:
- Đoạn thơ trên thể hiện tài năng khắc họa chân dung nhân vật bậc thầy của ND
với bút pháp ước lệ tượng trưng, lấy thiên nhiên làm chuẩn mực, làm thước đo
cho vẻ đẹp của con người. Thể thơ lục bát nhịp nhàng và cách sử dụng ngôn ngữ
điêu luyện, tài hoa kết hợp nhiều biện pháp tu từ như ẩn dụ, nhân hoá, liệt kê…
góp phần giúp nhà thơ tái hiện thành công hai bức chân dung mĩ nhân đẹp nhất
mọi thời đại.
- Nhưng ND vẽ chân dung không chỉ để người đọc hình dung vẻ đẹp ngoại hình
mà còn gợi được vẻ đẹp tâm hồn, dự báo số phận của nhân vật. Có thể nói việc
thi hào ND cảm nhận, miêu tả đầy đủ cả vẻ đẹp nhan sắc, hình thể và tâm hồn
chị em TK chính là biểu hiện thắng lợi của trào lưu nhân văn, xu thế tìm về con
người, quan tâm đến số phận của con người và khẳng định vẻ đẹp, quyền sống
của con người ngay giữa cõi trần.

***********************************************************
BÀI 3. KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(TRÍCH “TRUYỆN KIỀU”- NGUYỄN DU)
Câu 1. Vị trí, nội dung trước đoạn trích
- Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc).

11
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
- Nội dung: Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn
nhưng không thành, Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng
vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích để đợi thực hiện âm
mưu mới.
Câu 2. Bố cục của đoạn trích: ba phần:
- Sáu câu đầu: cảnh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích.
- Tám câu tiếp: nỗi nhớ Kim trọng và nỗi nhớ cha mẹ của Kiều.
- Tám câu cuối: Nỗi thương mình của TK.
Câu 3: Phân tích đoạn trích.
a. Luận điểm 1: Cảnh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích:
Đoạn trích mở ra bằng bức tranh thiên nhiên trước lầu NB gợi hoàn cảnh
cô đơn tội nghiệp của Kiều( TRÍCH THƠ).
- Dòng thơ đầu tiên đã khái quát tình cảnh của TK qua hình ảnh ẩn dụ “khóa
xuân”- khóa kín tuổi xuân- nàng Kiều xinh đẹp đang bị giam lỏng nơi lầu
Ngưng Bích xa xôi.
- Bức tranh thiên nhiên trước lầu NB được ND gợi tả qua cái nhìn đầy tâm trạng
của TK.
+ Nổi bật giữa bức tranh là hai hình ảnh đối xứng: vẻ non xa/ tấm trăng gần.
Hình ảnh dãy núi xa xa và mảnh trăng trên nền trời như cùng chung trong một
bức tranh. H/a thơ được ND miêu tả có phần trái với quy luật của tự nhiên
nhưng lại phù hợp với quy luật của cảm giác vì trong đêm tối, những gì phát
sáng ta sẽ cảm thấy nó ở gần hơn.
+TK nhìn xung quanh, chỉ thấy bốn bề bát ngát mênh mông với những cát vàng,
bụi hồng kéo dài ngàn dặm: cát vàng cồn nọ/ bụi hồng dặm kia. Đó có thể là
cảnh thực và cũng có thể là h/a mang tính ước lệ để gợi sự mênh mông rợn ngợp
của không gian, qua đó diễn tả tâm trạng cô đơn của Kiều.
+ Các chỉ từ nọ, kia chỉ vị trí không gian không xác định và các tính từ xa, gần,
từ láy “bát ngát” chỉ khoảng cách giữa các vật. Ta thấy cảnh vật tuy đẹp nhưng
không quần tụ mà tách rời nhau càng tôn lên nỗi cô đơn của con người.
- Tâm trạng của Kiều được thể hiện rất rõ qua từ láy “bẽ bàng”- chán ngán, buồn
tủi, hổ thẹn. Kiều chỉ còn biết làm bạn với mây sớm đèn khuya. Nàng rơi vào
hoàn cảnh cô đơn tuyệt đối, chỉ biết gửi nỗi niềm trong cảnh vật: “Nửa tình nửa
cảnh như chia tấm lòng”.
=> Cảnh vật thiên nhiên đẹp mà vắng vẻ, hoang vu càng tôn lên tình cảnh cô
đơn tuyệt đối của TK.
b. Luận điểm 2: Nỗi nhớ của Kiều với người yêu và cha mẹ
Trong tình cảnh bơ vơ nơi đất khách, Nguyễn Du để cho Thuý Kiều nhớ về
những người thân yêu của mình.
* Luận cứ 1: Tại sao K nhớ KT trước nỗi nhớ cha mẹ?
Ở đây, ND đã để TK nhớ người yêu trước nỗi nhớ cha mẹ. Không phải vì K
trọng tình hơn trọng hiếu mà vì với cha mẹ, nàng đã không tiếc cuộc sống, hi
sinh hạnh phúc của mình để “bán mình chuộc cha”. Còn với Kim Trọng, Kiều là
kẻ bội ước sai lời, nên nàng cảm thấy có lỗi nhiều hơn. Đây là một cách xử lí

12
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
tâm lí mạnh bạo và tinh tế của tác giả, nó vượt lên trên khuôn thước đạo đức
phong kiến, nhưng lại hoàn toàn phù hợp với lôgic trái tim của tuổi trẻ.
* Luận cứ 2: Nỗi nhớ người yêu:
Cùng là nỗi nhớ, cùng gợi lại kỉ niệm quá khứ, nhưng với mỗi đối tượng ND
lại có cách miêu tả không giống nhau bằng hệ thống ngôn ngữ độc thoại nội
tâm rất đặc sắc. Trước hết là nỗi nhớ người yêu: “Tưởng người…cho
phai?”
- ND dùng chữ "Tưởng" là nhớ đến mức có thể hình dung một cách cụ thể hình
ảnh của người mình yêu. TK nhớ Kim Trọng- người đã cùng nàng thề bồi hẹn
ước “tưởng người dưới nguyệt chén đồng”.
- Sau thoáng hồi tưởng về kỉ niệm ấy, nàng lại tưởng tượng ra cảnh “tin sương…
chờ.” của chàng Kim mà thương. Nơi quê nhà, chàng đâu hề hay biết việc TK
đã bội ước, đã đi theo kẻ khác, chàng vẫn ngày ngày trông ngóng “rày trông,
mai chờ” tin tức của người thương.
- Câu thơ "Tấm son gột rửa bao giờ cho phai" có thể hiểu theo hia cách là: Tấm
son là ẩn dụ cho tấm lòng thủy chung, son sắt của TK dành cho KT dẫu gột, rửa
cũng không thể mờ phai.
* Luận cứ 3: Nỗi nhớ song thân:
Tạm nguôi nỗi nhớ người yêu, lòng Kiều lại trào lên nỗi xót thương khi
nghĩ về cha mẹ: “Xót người… ôm”.
- Với cha mẹ ND dùng chữ "xót"- là xót thương, là sự đau xót của tình máu mủ.
Kiều xót xa khi nghĩ về cha mẹ cũng là xót cho chính mình khi không được làm
cái việc “quạt nồng ấp lạnh”.
+ Các từ ngữ chỉ thời gian xa cách "hôm mai", "cách mấy nắng mưa"; các thi
liệu, điển cố văn học Trung Hoa như "sân Lai", "gốc tử"; thành ngữ " quạt nồng
ấp lạnh"...tiếp tục tạo thành hệ thống ngôn ngữ độc thoại nội tâm đặc sắc…Tất
cả đã cực tả nỗi nhớ thương cha mẹ của Kiều. Nàng tưởng tượng người mẹ già
kính yêu của mình đang tựa cửa hôm mai ngóng chờ tin con. K đang tự đối thoại
với lòng mình, nàng thầm hỏi ai sẽ là người thay mình chăm sóc phụng dưỡng
cha mẹ già yếu: “ quạt …đó giờ”.
+ Nàng tưởng tượng cảnh nơi quê nhà tất cả đã đổi thay mà sự đổi thay lớn nhất
lá "gốc tử đã vừa người ôm", nghĩa là cha mẹ ngày một thêm già yếu. Câu thơ
hàm chứa nỗi xót xa thương nhớ khôn nguôi của Kiều đối với cha mẹ. Nàng
luôn trong nỗi niềm của người con chưa làm tròn chữ hiếu, tự thấy dằn vặt, đau
khổ khi chẳng thể ở bên phụng dưỡng mẹ cha khi họ già yếu.
=> Đoạn thơ thể hiện tài năng miêu tả tâm lí nhân vật tài tình của ND qua ngôn
ngữ độc thoại nội tâm. Từ đó, tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp phẩm chất, tâm hồn
đáng quý của nàng K là người yêu chung thuỷ, người con hiếu thảo.
c. Luận điểm 3: Nỗi thương mình của Kiều thể hiện qua cách nhìn cảnh
vật.
Tám câu thơ cuối đoạn trích Nỗi thương mình của Kiều thể hiện qua cách nhìn
cảnh vật có thể coi là đoạn đặc sắc nhất cho nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của ND.
( trích thơ)

13
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
- Điệp ngữ buồn trông được lặp lại bốn lần, là điệp khúc của đoạn thơ cũng là
điệp khúc của tâm trạng: hết lớp buồn này đến lớp buồn khác cứ cồn lên trong
lòng người. Bốn cặp lục bát là bốn bức tranh tả cảnh ngụ tình không hề trùng
lặp.
+ Cảnh: “Buồn trông cửa bể…xa” miêu tả hình ảnh cửa bể mênh mông vào lúc
ngày tàn- một khoảng thời gian ước lệ gợi thương gợi nhớ. Nổi bật trong bức
tranh là hình ảnh cánh buồm thấp thoáng đơn độc giữa biển cả bao la. Những từ
láy “thấp thoáng”, “ xa xa’ cho thấy con thuyền không phải đang từ từ cập bến
bình yên mà dường như mỗi lúc nó lại bị đẩy ra xa bờ hơn nữa. Hình ảnh thơ
khiến người đọc bâng khuâng đến nao lòng. Bức tranh thiên nhiên ấy còn gợi cả
nỗi buồn tha hương với nỗi nhớ quê vời vợi, nỗi nhớ thương người yêu, cha mẹ
đến nao lòng bởi Kiều hiểu ngày đoàn viên của mình với gia đình là xa vời, vô
vọng.
+ Cảnh: “Buồn trông ngọn nước…đâu?” lại mở ra trước mắt ta bức tranh một
dòng nước lớn mới từ thượng nguồn đổ về và cánh hoa mỏng manh đang bị gió
dập sóng dồi trở nên tan tác héo tàn. Cảnh thiên nhiên gợi nỗi buồn về một số
phận bị dập vùi tan nát theo dòng đời đen bạc. Ngắm dòng nước với cánh hoa
trôi, Kiều buồn cho thân phận của mình nổi trôi, vô định, không biết cuộc đời
mình rồi đây sẽ ra sao, sẽ bị đẩy đưa, vùi dập đến thế nào.
+ Cảnh: “Buồn trông nội cỏ…xanh” phác hoạ một nền cảnh mênh mông rợn
ngợp. Không còn thấy thảm cỏ non xanh mơn mởn tràn đầy sức sống như trong
tiết thanh minh ngày nào: Cỏ non xanh tận chân trời… mà ở đây là một đồng cỏ
rầu rầu héo úa. Từ láy rầu rầu vừa gợi hình vừa biểu cảm, nó gợi màu cỏ héo
úa, tàn tạ, thiếu sức sồng, nó còn gợi tâm trạng rầu rĩ, thê lương trong lòng
người ngắm cảnh. Thảm cỏ trải dài tới tận chân mây mặt đất một màu xanh ảm
đạm, nhạt nhoà. Cảnh ấy khơi lên ở lòng người nỗi buồn đau tê tái về một tương
lai mịt mờ, vô vọng.
+ Cảnh: “Buồn trông gió cuốn…” xuất hiện âm thanh rất dữ dội, đó là tiếng gió
cuốn mặt duềnh, tiếng sóng “ầm ầm” ghê rợn. Đó phải chăng là tiếng gào thét
điên cuồng của sóng gió biển khơi đang thình lình nổi bão tố phong ba hướng
vào chiếc ghế ngồi bé nhỏ. H/a thiên nhiên gợi sự bàng hoàng lo sợ của TK về
một tương lai đầy sóng gió bão táp có thể ập tới với nàng bất cứ lúc nào. Đoạn
thơ kết lại là sự hòa tấu phức điệu của sóng biển-sóng lòng-sóng đời không chỉ
vang lên tiếng gõ cửa định mệnh, mà rung chuyển tiếng gầm gào của hiểm họa
muốn hất tung người con gái đơn côi yếu đuối trên điểm tựa chiếc ghế đời nhỏ
bé, chông chênh.
- Các từ láy đa số có thanh bằng: thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, xanh
xanh, ầm ầm… đã tạo nên nhịp thơ lan trải trầm buồn càng khắc đậm hơn nỗi
sầu bi thương của nhân vật ẩn chứa trong bức tranh phong cảnh.
=> Như vậy, bốn bức tranh cảnh tựa như bốn bức tường số phận bủa vây
không cho Kiều lối thoát. ND nhìn cảnh vật bằng cái nhìn của Kiều, phủ lên
cảnh vật bằng chính tâm trạng của Kiều. Tất cả những cảnh sắc thiên nhiên ở
đây đều mang ý nghĩa tượng trưng và giàu giá trị thẩm mỹ: cảnh từ xa đến gần,
màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động, nỗi buồn từ man mác

14
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
mông lung đến lo âu kinh sợ. Tất cả đã tạo nên một bức tranh tâm cảnh có ý
nghĩa sâu sắc về cuộc đời và số phận bi kịch của nàng Kiều. Đồng thời thể hiện
tấm lòng đồng cảm, xót thương của nhà văn trước số phận đáng thương của
người con gái đẹp.
*. Bình giá tổng hợp:
- Khái quát giá trị nghệ thuật nội dung: Để thể hiện một tâm trạng phức tạp, một
nỗi buồn ôm trọn ba nỗi buồn(nhớ người yêu, thương cha mẹ, buồn cho chính
mình) của Kiều, Nguyễn Du đã chọn cách thể hiện "tình trong cảnh ấy, cảnh
trong tình này" với bút pháp tả cảnh ngụ tình xen lẫn ước lệ tượng trưng; ngôn
ngữ tài hoa, tinh tế và giàu sức gợi cùng tấm lòng nhân đạo sâu sắc của người
cầm bút… tất cả đã tạo nên một đoạn thơ tuyệt bút, khắc họa hình tượng Thúy
Kiều với thế giới nội tâm sâu thẳm và đầy bi kịch, trên một chặng đường của số
phận nàng, qua đó bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn đáng quý của Kiều. Đoạn thơ cũng thể
hiện cảm hứng nhân văn của tác giả.

***************************************************

BÀI 4.
ĐỒNG CHÍ- CHÍNH HỮU
Quê hương anh nước mặn, đồng Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
chua Sốt run người, vừng trán ướt mồ
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá hôi.
Anh với tôi đôi người xa lạ Áo anh rách vai
Tự phương trời chẳng hẹn quen Quần tôi có vài mảnh vá
nhau. Miệng cười buốt giá
Súng bên súng, đầu sát bên đầu Chân không giày
Đêm rét chung chăn thành đôi tri Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!
kỷ
Đồng chí! Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Đầu súng trăng treo.
Gian nhà không mặc kệ gió lung
lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra
lính.

Câu 1: Tác giả Chính Hữu.


- Chính Hữu, tên khai sinh Trần Đình Đắc, ông là nhà thơ- chiến sĩ thuộc thế hệ
các nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp.
- Thơ ông chủ yếu viết về người lính và chiến tranh với cảm xúc dồn nén, ngôn
ngữ, hình ảnh chọn lọc, hàm súc. Ông viết không nhiều nhưng lại có được
những bài thơ đặc sắc.
- Tác phẩm ghi dấu tên tuổi của CH là tập thơ: Đầu súng trăng treo.
Câu 2: Xuất xứ của bài thơ Đồng chí.

15
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
- Bài thơ “Đồng chí” được sáng tác vào đầu năm 1948 – sau khi tác giả đã cùng
đồng đội tham gia chiến dịch Việt Bắc ( thu đông 1947 ). Bài thơ ca ngợi tình
đồng chí đồng đội thiêng liêng, cao đẹp trong chiến tranh.
- In trong tập “Đầu súng trăng treo”
Câu 3: Bố cục của bài thơ.
+ Bảy câu thơ đầu : Cơ sở hình thành tình đồng chí.
+ Mười câu thơ tiếp: Biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí.
+ Ba câu thơ cuối: Bức tranh đẹp, sự thăng hoa và chất thơ của tình đồng chí..
Câu 5: Phân tích bài thơ.
a. Luận điểm 1: Cơ sở hình thành tình đồng chí:
Những dòng thơ đầu tiên khái quát về cơ sở hình thành tình đồng chí của người
lính. (7 câu thơ đầu).
- Câu thơ mở ra với cấu trúc sóng đôi anh- tôi làm hiện lên hai "gương mặt"
người chiến sĩ rất trẻ, như đang tâm sự cùng nhau, gợi sự gắn bó thân thiết
không tách rời. Giọng điệu tâm tình của một tình bạn thân thiết:
Quê hương …sỏi đá.
+ Nhà thơ đã vận dụng khéo léo thành ngữ dân gian để khái quát đặc điểm
của quê hương mỗi người: Nước mặn đồng chua là những vùng ven biển, đất
đai nhiễm phèn, nhiễm mặn rất khó canh tác; đất cày lên sỏi đá chỉ vùng đất
miền núi trung du cằn cỗi, nhiều sỏi đá khó cày cấy. Mượn lời ăn tiếng nói
dân gian để nói về làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn thân yêu của mình, Chính
Hữu đã làm cho lời thơ bình dị, chất thơ mộc mạc, đáng yêu như tâm hồn
người trai cày ra trận.
+ Như vậy, giữa những người lính đã có chung hoàn cảnh xuất thân. Dù đến
từ những vùng quê khác nhau nhưng đó đều là những vùng quê nghèo khó và
bản thân họ đều là những người nông dân mặc áo lính. Sự đồng cảnh chính là
cơ sở, là cái gốc tạo nên sự đồng cảm ban đầu của các anh.
- Những dòng thơ tiếp theo gợi đến những nét tương đồng về nhiệm vụ, lí
tưởng sống và mục đích chiến đấu của người lính:
Anh với tôi…bên đầu.
+ Từ đôi người xa lạ kẻ miền biển, người vùng núi trung du, cuộc kháng
chiến vĩ đại đã đưa anh và tôi tới cùng một con đường- con đường sẵn sàng
tham gia chiến đấu để bảo vệ quê hương, đất nước mình. Thế nên chẳng hẹn
mà quen nhau, các anh đã gặp nhau tại một điểm là tình yêu tổ quốc. Một
cuộc gặp gỡ tình cờ mà tất yếu của những con người chung lý tưởng, mục
đích sống.
+ Thế rồi nhiệm vụ chiến đấu đã khiến anh với tôi xích lại gần nhau: Súng…
đầu. Hình ảnh hoán dụ rất giàu ý nghĩa: "Súng" biểu tượng cho nhiệm vụ
chiến đấu, "đầu" biểu tượng cho lí trí và tình cảm của người lính. "Súng bên
súng" là chung nhiệm vụ chiến đấu, "đầu sát bên đầu" là chung ý nghĩ, lí
tưởng. "Súng" và "đầu" được tác giả đặt gần nhau khẳng định sự thống nhất
trong lí trí và tình cảm của người chiến sĩ. Những từ ngữ bên, sát bên càng gợi
sự gắn bó, song hành như không tách rời của anh và tôi trong hàng ngũ chiến
đấu cũng như trong suy nghĩ. Như vậy, chính mục đích, lý tưởng và nhiệm vụ

16
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
chiến đấu đã đưa người lính xích lại gần nhau, gắn bó với nhau như hình với
bóng.
- Cuộc sống chiến trường đầy gian khổ, thiếu thốn càng khiến người lính gắn
bó với nhau hơn. Ngày thì Súng…đầu để làm nhiệm vụ, đêm xuống, trong
giấc ngủ nơi núi rừng họ lại đắp chung chăn:
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Vế thơ thứ nhất gợi liên tưởng về hiện thực đầy thiếu thốn nơi chiến trường
mà các anh lính trẻ thời chống Pháp phải đối mặt. Mùa đông nơi núi rừng Việt
Bắc gió lạnh cắt xương da mà chăn chẳng đủ đắp ấm nên họ phải chia sẻ với
nhau tấm chăn mỏng. Hình ảnh đêm rét chung chăn trở thành biểu tượng của
tình thân hữu. Ban ngày, nhiệm vụ chiến đấu khiến họ “Súng bên súng đầu
sát bên đầu”, đêm xuống, để chiến thắng cái lạnh buốt của sương rừng, gió
núi, các anh đắp chung chăn. Và từ đây, đôi người xa lạ đã trở thành đôi tri kỉ
tự lúc nào. Tri kỉ là chỉ tình bạn thân thiết, hiểu bạn như hiểu mình, sẵn sàng
chia sẻ ngọt bùi, đắng cay với bạn. Chính những khó khăn trong cuộc sống
đời thường càng khiến người lính gần gũi, gắn bó với nhau hơn.
- Sự đồng cảnh, đồng cảm là cơ sở, là cái gốc để làm nên tình bạn, tình đồng
chí. Đến đây, nhà thơ hạ xuống một dòng thơ thật đặc biệt với hai tiếng như
một lời kết luận:"Đồng chí!"
Đồng chí là cùng chí hướng, lí tưởng, đây vừa là danh từ chỉ mối quan hệ của
những người lính cụ Hồ trong kháng chiến chống Pháp, vừa là một đại từ mà
các anh xưng hô với nhau. Bởi thế, câu thơ giống như một tiếng gọi thiêng
liêng vang vọng được tác giả cố ý tách thành một dòng thơ như một dụng ý
nghệ thuật vừa tạo ra sự hài hoà, cân đối của bài thơ vừa tạo ra điểm nhấn như
khẳng định sự thiêng liêng cao đẹp của tình cảm đồng chí, đồng đội đồng thời
nó khép lại một ý thơ. Câu thơ chỉ vẻn vẹn có hai chữ như chất chứa, dồn nén
bao cảm xúc sâu xa từ sáu câu thơ trước và khởi đầu cho những suy nghĩ tiếp
theo. Nói về thơ mình, nói về nghề, Chính Hữu từng tâm sự: "Thơ phải ngắn
ở câu chữ, nhưng phải dài ở sự ngân vang". Với những nét đặc biệt ấy, câu
thơ “ Đồng chí” được chọn làm nhan đề của bài thơ, cũng là bản lề khép lại
hành trình trở thành đồng chí của người lính và mở ra những biểu hiện cao
đẹp, thiêng liêng của thứ tình cảm mới mẻ này.
b. Luận điểm 2: Biểu hiện cao đẹp của tình đồng chí:
Những câu thơ tiếp theo là những biểu hiện cao đẹp của tình đồng chí.
* Luận cứ 1: Trở thành đồng chí, thành tri kỉ của nhau, các anh thấu
hiểu mọi tâm tư, nỗi lòng của đồng đội: “Ruộng nương… lính”.
- Đến đây, ý thơ chỉ còn có “anh” mà không thấy “tôi”. Phải chăng anh và tôi
đã hòa làm một, tri kỉ tri âm, tuy hai mà như một. Nỗi niềm của anh cũng
chính là tâm sự của tôi.
- Từ nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương của chính mình, nhà thơ đã diễn tả nên
những hình ảnh thơ tuyệt mĩ. Giếng nước, gốc đa là hình ảnh hoán dụ thân
thuộc của làng quê, được Chính Hữu vận dụng, đưa vào thơ rất đậm đà, nói ít
mà gợi nhiều, thấm thía, ý nghĩa. Người lính ở đây đã hi sinh tất cả những gì

17
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
là riêng tư là cá thể để đi làm nhiệm vụ thiêng liêng và cao cả hơn, họ đã đặt
lợi ích dân tộc lên trên lợi ích cá nhân.
- Họ ra đi mang theo trên vai mình cả trọng trách của cả Tổ quốc, từ "mặc kệ"
vừa dứt khoát vừa quyết tâm. Họ sẵn sàng bỏ lại sau lưng những gì thân yêu
nhất để ra đi phục vụ cho lí tưởng cách mạng. Dù mặc kệ nhưng trong sâu
thẳm trái tim người lính, hình bóng quê hương, gia đình luôn hiện hữu.
- Giếng nước, gốc đa còn được nhân hóa, những vật vô tri vô giác ấy như
đang đêm ngày dõi theo bóng hình anh trai cày ra trận, hay "người ra lính"
cũng đêm ngày ôm ấp hình bóng quê hương? Một ý thơ thôi mà gợi bao cảm
xúc, dường như có nỗi nhớ ở hai phía chân trời, ở cả kẻ đi người ở. Diễn tả
nỗi nhớ quê hương, gia đình như thế vừa mộc mạc, dung dị lại vừa thấm thía,
sâu sắc vô cùng.
* Luận cứ 2: Khi trở thành đồng chí, đồng đội của nhau người lính còn
cùng nhau đồng cam cộng khổ, cùng nhau vượt qua những gian nguy,
thiếu thốn, bệnh tật…của cuộc đời lính chiến.
- Anh và tôi cùng nhau vượt qua những cơn sốt rét rừng đầy ám ảnh:
Anh với tôi …mồ hôi
Thời kì đầu của cuộc kháng chiến, khi những người lính mới đến với vùng
đất Việt Bắc- rừng thiêng, nước độc khiến các anh bị ngã nước, bị sốt rét rừng
hành hạ. Căn bệnh quái ác đó còn ám ảnh trong trang thơ của rất nhiều nhà
thơ chiến sĩ. Chắc hẳn chúng ta không ai quên những câu thơ của nhà thơ Tố
Hữu về hình ảnh anh vệ quốc quân với đôi má vàng nghệ vì sốt rét rừng:
Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Anh vệ quốc quân ơi,
Sao mà yêu anh thế.
( Hay đoàn quân không mọc tóc của Quang Dũng: Tây Tiến đoàn binh
không mọc tóc- quân xanh màu lá dữ oai hùm)
Nhưng nếu các nhà thơ trên chủ yếu nói tới hậu quả mà căn bệnh hiểm ác ấy
gây ra cho người lính, thì Chính Hữu lại diễn tả rất thực cảm giác của các anh
khi cơn sốt hành hạ. Đó là những cơn sốt nóng lạnh liên hồi: người nóng sốt
hầm hập đến ướt cả mồ hôi mà vẫn cứ ớn lạnh đến run người. Phải là người
từng trải, từng chịu đựng những cơn nóng lạnh của cuộc đời lính chiến thì nhà
thơ mới có thể viết nên những dòng thơ cảm động và chân thực đến thế. Sau
này, tâm sự về hoàn cảnh sáng tác bài thơ, CH nói: tôi bị sốt rét rừng hành
hạ, không có thuốc men gì cả, đồng đội vẫn phải hành quân, để lại một đồng
chí chăm sóc tôi. Không có đồng chí ấy tôi đã bỏ mạng. Như vậy, nói tới bệnh
tật, CH muốn khẳng định, ngợi ca sức mạnh của tình đồng chí. Đó chính là
liều thuốc tinh thần quý giá nhất giúp các anh chiến thắng những cơn nóng
lạnh ghê người.
- Anh và tôi cùng nắm tay nhau vượt qua mọi thiếu thốn, khó khăn của cuộc
đời lính chiến:
Áo anh rách vai…

18
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Miệng cười buốt giá
Chân không giày.
+ Hai vế thơ đối xứng, song hành: “áo anh rách vai- quần tôi có vài mảnh
vá” gợi mối quan hệ gắn bó khăng khít, không tách rời. Trong mọi thiếu thốn
các anh đều đồng hành để chia sẻ cùng nhau, cùng đồng cam cộng khổ.
+ Cuộc sống muôn màu nơi chiến trường khốc liệt đã cho nhà thơ những hình
ảnh thơ chân thực tưởng không thể thực hơn: áo rách, quần vá, chân không
giày. Những ngày đầu kháng chiến, quân và dân ta trải qua muôn vàn khó
khăn: thiếu vũ khí, thiếu quân trang, thiếu lương thực, thuốc men,... Người
lính ra trận với "áo vải chân không đi lùng giặc đánh". Những hình ảnh vốn
chẳng thể có thơ lại đi vào thơ CH tự nhiên và cảm động vô cùng.
- Nhưng nói đến khó khăn không phải để kể khổ, nói đến bệnh tật không phải
để bôi nhọ chân dung anh bộ đội Cụ Hồ mà để đề cao vẻ đẹp của tinh thần lạc
quan và sức mạnh của tình đồng chí.
+ Hình ảnh "Miệng cười buốt giá" kia là cái cười lạc quan ngay cả trong gian
khổ để vượt lên gian khổ, cười trong buốt giá để lòng ấm lên, cũng là cái cười
đầy cảm thông giữa những người đồng đội.
+ Tình cảm của họ càng bền chặt hơn qua mỗi thiếu thốn, gian nan. Cuối đoạn
thơ, tác giả hạ một dòng thơ dài giống như một nốt ngân trong bản tình ca về
tình đồng đội:
"Thương nhau tay nắm lấy bàn tay" .
Vốn là người lính nông dân, cách bộc lộ tình cảm của các anh cũng rất đỗi
mộc mạc, chân thành. Hành động thay cho những lời hoa mĩ: thương
nhau- tay nắm bàn tay. Các anh thương nhau vì phải trải qua bệnh tật,
thiếu thốn vật chất, lạnh giá, nên các anh nắm tay nhau để truyền cho nhau
sức mạnh và cổ vũ, động viên nhau cùng hướng tới tương lai tươi sáng.
Cái nắm tay tuy âm thầm, lặng lẽ trong đêm sương giá buốt nhưng hơi ấm
của nó có sức lan toả đến tận trái tim, thấm cả vào lòng người. Nhà thơ đã
phát hiện ra sức mạnh tinh thần ẩn sâu trong trái tim người lính. Hơi ấm ở
bàn tay, ở tấm lòng đã chiến thắng cái lạnh ở "chân không giày" và bệnh
tật. Tình đồng chí đồng đội trở thành nguồn sức mạnh tinh thân vô giá giúp
ngườilinhs chiến thắng hoàn cảnh, chiến đấu với kẻ thù.
- Trong đoạn thơ , "anh" và "tôi" luôn đi với nhau, có khi đứng chung trong
một câu thơ, có khi đi sóng đôi trong từng cặp câu liền nhau. Cấu trúc ấy đã
diễn tả sự gắn bó, chia sẻ của những người đồng đội. Người đọc nhận thấy các
hình ảnh thơ, ngôn từ thật giản dị nhưng lại có sức truyền cảm rất lớn.
 Đọc những câu thơ này ta vừa không khỏi chạnh lòng khi thấu hiểu những
gian nan, vất vả mà thế hệ cha ông đã từng trải qua vừa dâng trào một
niềm khâm phục ý chí và bản lĩnh vững vàng của những người dân vệ
quốc. Người lính càng chịu đựng nhiều gian khổ thì tình đồng chí, đồng
đội càng gắn bó hơn càng bền chặt và thiêng liêng hơn.
c. Luận điểm 3: Sự thăng hoa, chất thơ của tình đồng chí.

19
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Từ những biểu hiện đời thường, cụ thể của tình đồng chí, nhà thơ đã mở
rộng, nâng cao thành nghĩa biểu tượng, mang vẻ đẹp thăng hoa, đầy chất
thơ:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặt tới
Đầu súng trăng treo.”
- Chỉ bằng ba câu thơ ngắn nhưng đẹp như một bức sơn dầu đơn sơ, thi vị về
người lính:
+ Khung cảnh thiên nhiên làm nền cho bức tranh là cảnh đêm trăng nơi
rừng hoang sương muối- Cảnh đẹp, thơ mộng, huyền ảo nhưng cũng chất
chứa đầy hiểm nguy, thách thức với con người.
+ Hiện ra giữa trung tâm của bức sơn dầu đó là hình ảnh những người lính
đang Đứng cạnh bên nhau chờ giặt tới. Cụm từ Đứng cạnh bên nhau gợi
hình ảnh các anh đang kề vai, sát cánh bên nhau như hình với bóng. Đẹp
biết bao tư thế chủ động chờ giặt tới của các anh. Các anh chờ giặc tới là
chờ giây phút hồi hộp căng thẳng khi ranh giới của sự sống cái chết rất
mong manh. Từ "chờ" đã thể hiện được tư thế chủ động của người lính
trong đêm phục kích. Phải chăng vì có đồng đội cạnh bên nên người lính
không hề thấy cái hoang lạnh của đêm sương cũng như không hề run sợ
trước sự nguy hiểm của nhiệm vụ mình đang làm.
- Trong khung cảnh ấy, một tứ thơ đẹp vừa mang nghĩa thực, vừa đầy dụng ý
nghệ thuật bất ngờ xuất hiện: Đầu súng trăng treo
Nét sáng tạo độc đáo thể hiện bản lĩnh nghệ thuật của Chính Hữu qua bài
thơ chính là hình ảnh này. Từ tình đồng chí, trải qua những thử thách khác
nhau, Chính Hữu đã tạo nên cái nhìn đầy chất thơ.
+ Câu thơ gợi từ hiện thực: đêm về khuya, người lính đứng gác trong tư
thế chủ động, súng chĩa lên trời, trăng lên cao, ánh trăng trên đầu súng
khiến các anh tưởng như trăng đang treo trên đầu súng của mình. Những
người lính nông dân giờ đây hiện ra với một tư thế khác hẳn, như những
người nghệ sĩ đầy chất thơ, như đôi tri kỉ đang cùng nhau thưởng ngoạn
cảnh đẹp đêm trăng, tuy bình dị nhưng vẫn đẹp lạ lùng.
+ Súng là biểu tượng của cuộc chiến đấu đầy gian khổ, hi sinh mà người
lính đang trải qua, trăng là biểu tượng của cuộc sống hòa bình trong tương
lai mà người lính đang hướng tới. Súng là biểu tượng của người chiến sĩ,
trăng là biểu tượng của thi sĩ. Súng - trăng là gần và xa, thực tại và mơ
mộng, chất chiến đấu và chất trữ tình, chất chiến sĩ và chất thi sĩ, hiện thực
và lãng mạn cũng tồn tại, bổ sung tô điểm cho vẻ đẹp cuộc đời người chiến
sĩ. Ánh trăng dường như đang ngập tràn khắp núi rừng chiến khu, trên bầu
trời và chiếu cả trong làn sương huyền ảo. Tâm hồn các anh, những người
chiến sĩ cũng như ánh trăng ấy nồng hậu, lấp lánh ánh sáng lạc quan, luôn
hướng về một ngày mai tươi sáng. Đây cũng là biểu tượng đẹp của thơ ca
kháng chiến có sự kết hợp hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn, bay bổng.
Sự hòa quyện nhuần nhuyễn giữa hiện thực và chất thơ lãng mạn, đã làm
cho “ đầu súng trăng treo" trở thành một trong những hình ảnh đẹp nhất

20
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
thơ ca kháng chiến chống Pháp, đã được Chính Hữu lấy làm nhan đề cho
tập thơ để đời- đóa hoa đầu mùa của mình, tập: Đầu súng trăng treo.
- Nhịp 2/2 của câu thơ cuối còn như nhịp lắc lư đều đều của ánh trăng treo
đầu súng hay cũng là nhịp tim chan chứa yêu thương của những người lính.
3. Bình giá tổng hợp:
- Nghệ thuật của bài thơ:
+ Thể thơ tự do, câu thơ dài ngắn không đều, nhịp thơ linh hoạt, cách gieo vần
không cố định góp phần giúp bài thơ trở nên gần gũi, dễ đi vào lòng người.
+ Giọng điệu tâm tình mộc mạc, chân thành với bút pháp hiện thực pha đôi
chút lãng mạn;
+ Ngôn ngữ bình dị, tự nhiên, vận dụng linh hoạt những tục ngữ, thành ngữ
dân gian làm cho lời thơ trở nên thi vị, chạm đến trái tim người đọc.
+ Sử dụng kết hợp nhiều biện pháp nghệ thuật như: liệt kê, hoán dụ, đặc biệt
là những hình ảnh biểu trưng, những câu văn sóng đôi tạo nên nét riêng độc
đáo cho bài thơ.
- Nội dung: Như vậy, "Đồng chí" giống như một lời ca nhẹ nhàng trong trẻo
về tình đồng chí đồng đội. Chính Hữu đã mang đến cho thơ ca cách mạng một
giai điệu mới mẻ, một bức tranh đẹp về người lính chống Pháp.

**********************************************************
BÀI 5.
BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH
-PHẠM TIẾN DUẬT-
Câu 1: Giới thiệu về tác giả Phạm Tiến Duật.
+ Phạm Tiến Duật là gương mặt tiêu biểu cho thế hệ các nhà thơ trưởng thành
trong kc chống Mỹ.
+ Thơ ông có giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc;
ông thường tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống
Mĩ qua hình tượng cô thanh niên xung phong và người lính và lái xe trên tuyến
đường Trường Sơn.
+ Tác phẩm tiêu biểu nhất cho đời thơ PTD là tập: Vầng trăng quầng lửa.
Câu 2: Hoàn cảnh sáng tác bài thơ.
Bài thơ được sáng tác năm 1969, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ đang ở giai
đoạn gay go ác liệt. Cung đường Trường Sơn trở thành tuyến hậu cần huyết
mạch, cũng là trọng điểm bắn phá của kẻ thù. Tác giả cũng là người lính có mặt
trên tuyến đường Trường Sơn khói lửa này. In trong tập Vầng trăng quầng lửa.
Câu 3: bố cục 4 phần:
- Khổ 1, 2: Hình ảnh xe không kính và tư thế của người lính lái xe.
- Khổ 3,4: Tinh thần lạc quan, vượt lên trên thử thách của người lính.
- Khổ 5,6: Những đợt trú quân thắm tình đồng đội.
- Khổ 7: Tình yêu Miền Nam là động lực cho xe lăn bánh.
Câu 4: Ý nghĩa nhan đề

21
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Bài thơ có một nhan đề khá dài, tưởng như có chỗ thừa: từ "bài thơ" không nhất
thiết phải xuất hiện ở nhan đề, bởi chính tác phẩm đã bao hàm ý của "bài thơ"
rồi. Nhưng nhan đề bài thơ rất lạ, rất độc đáo gây sự chú ý cho người đọc, thể
hiện cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả. Tác giả không chỉ viết về
những chiếc xe không kính mà là hiện thực của chiến tranh khốc liệt, là chất thơ
của hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ hiên ngang dũng cảm vượt qua khó khăn
của chiến tranh để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù.
Câu 5: Phân tích bài thơ
a. Luận điểm 1: Hình ảnh những chiếc xe không kính và tư thế của người
lính lái xe( 2 khổ đầu).
* Luận cứ 1: Bài thơ mở đầu bằng lời giới thiệu dí dỏm của người lính về chiếc
xe của mình: (trích 2 câu đầu)
- Lời thơ tự nhiên, ngôn ngữ thơ mộc mạc, nhịp điệu thơ khoan thai mà gợi tả rõ
nét “Không có…kính”. Nó như một lời thanh minh, bào chữa của các chàng lính
trẻ cho chiếc xe của mình. Câu thơ điệp lại liên tiếp 3 lần từ phủ định “không”
để khẳng định một sự thật là có những chiếc xe không còn kính. Mượn không để
nói có là cách nói rất tài tình, rất thơ của anh lính trẻ.
- Dòng thơ đầu gieo vào suy nghĩ của người đọc sự tò mò, thì dòng thơ tiếp theo
lại khéo léo lí giải nguyên nhân khiến cho những chiếc xe biến dạng: Bom giật
bom rung kính vỡ đi rồi. “Bom giật, bom rung” điệp lại hai lần danh từ bom như
để nhấn mạnh, cùng với đó là các động từ mạnh “giật, rung, vỡ” đã hé mở phần
nào tính chất ác liệt của cuộc chiến, bom đạn giội xuống liên hồi khiến những
chiếc xe đều không còn kính. Một nguyên nhân rất đỗi tự hào, những chiếc xe
giống như người chiến sĩ đã từng vượt qua bao chặng đường gió bụi, hứng chịu
bao trận mưa bom bão đạn và giờ đây nó đã mang trên mình đầy thương tích.
Thì ra đây cũng là những “nạn nhân” của chiến tranh. Hình ảnh này vốn không
hiếm trong chiến tranh, nhưng phải có hồn thơ nhạy cảm, thích cái độc đáo như
của Phạm Tiến Duật mới nhận ra và đưa nó trở thành hình tượng thơ độc đáo
của thời kháng chiến chống Mĩ như thế!
- Xưa nay, những hình ảnh xe cộ, tàu thuyền xuất hiện trong thơ thường được
“mĩ lệ hóa” và thường mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả thực. Còn trong thơ
Phạm Tiến Duật lại là một hình ảnh chân thực, thực đến trần trụi: những chiếc
xe bị bom giật, bom rung nên không còn kính.
* Luận cứ 2: Tư thế của các chàng lính lái xe:
Nhưng khắc họa hình ảnh xe không kính, nhà thơ còn muốn làm nổi bật vẻ đẹp
của những người lính lái xe Trường Sơn. Trước tiên là vẻ đẹp của tư thế ung
dung, tự tại.
Ung dung … nhìn thẳng
- Từ láy ung dung được đảo trật tự đưa lên đầu câu thơ đã nhấn mạnh tư thế tự
tin, làm chủ của các anh lính khi điều khiển những chiếc xe không kính. Các anh
lính lái xe vẫn ung dung- rất thoải mái, đường hoàng, đĩnh đạc- khi điểu khiển
những chiếc xe không còn kính.
- Điệp ngữ “ nhìn…” càng làm bật lên thái độ chủ động trước hoàn cảnh của
người lính. Xe không còn kính, các anh được nhìn ngắm thế giới xung quanh

22
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
thật hơn, gần hơn. Con mắt nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng có một vẻ trang
nghiêm, bất khuất như lời thề. Họ không thẹn với đất, với trời. Hay nhất là hai
chữ nhìn thẳng – nhìn thẳng vào gian khổ, nhìn thẳng vào hi sinh, nhìn thẳng về
phía tước không run sợ, không né tránh. Trong cái nhìn bao quát cả đất trời ẩn
chứa niềm kiêu hãnh của người làm chủ tình thế, coi thường mọi khó khăn nguy
hiểm.
- Vì không còn kính che chắn, bảo vệ, giữa cung đường sinh tử, các anh lại có
dịp mở rộng tâm hồn để đón nhận vẻ đẹp của thiên nhiên phóng khoáng và có
những ấn tượng phong phú mạnh mẽ:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đườg chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
+ Điệp từ “nhìn thấy’’ đã diễn tả rõ nét tâm trang ung dung đầy tự tin của các
anh khi lái xe. Cảm giác của người chiến sĩ trong chiếc xe không kính trên
đường ra trận đã được nhà thơ diễn tả cụ thể và sinh động. Đoàn xe chạy tạo nên
những cơn lốc bụi mù trời. Xe không kính, gió lùa mạnh vào buồng lái khiến
người lái xe tưởng như nhìn thấy gió. Gió thốc làm mắt cay đến chảy nước mắt
nhưng biện pháp nhân hóa lại khiến gió vào xoa mắt đắng, gió không còn là tác
nhân làm mắt đắng mà ngược lại gió như đang xoa nhẹ vào đôi mắt các anh.
+ Rồi con đường trước mặt- con đường ra trận, cũng là con đường lý tưởng mà
người lính đang đi như trở nên gần hơn “Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào
tim”. Xe tiến lên phía trước, con đường lùi lại phía sau, người lái xe tưởng như
nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim. Câu thơ chứa đựng ý nghĩa tượng
trưng sâu xa: con đường vào chiến trường miền Nam chính là đích đến của trái
tim người lính.
+ Hai câu thơ tiếp theo xuất hiện tính từ “đột ngột” kết hợp với những động từ “
sa, ùa” diễn tả được cảm giác về tốc độ của những chiếc xe đang lao nhanh. Qua
khung cửa đã không còn kính chắn gió, không chỉ mặt đất mà cả bầu trời với sao
trời, cánh chim cũng như ùa vào buồng lái. Hiện thực chiến tranh không còn
khốc liệt, đan xen vào đó là sự hóm hỉnh, vui tươi của những người lính cách
mạng. Các anh đã liên tưởng đến một không gian lãng mạn, vui tươi giữa cảnh
bom đạn khốc liệt. Những ngôi sao trên trời cao và những cánh chim chao liệng
ở phía ngoài kia khiến người lính cách mạng cứ ngỡ như đang “sa”, đang “ùa”
vào buồng lái.
=>Thơ Phạm Tiến Duật không lôi cuốn người đọc bằng những hình ảnh lãng
mạn hay ngôn ngữ mượt mà, trau chuốt, âm điệu du dương… Ngược lại, người
đọc thích thơ anh bởi sự sống động, tự nhiên, gân guốc, táo bạo và độc đáo.
b. Luận điểm 2: Tinh thần lạc quan, coi thường khó khăn của người lính lái
xe.
Tiếp tục hành trình, xe không kính còn khiến người lính lái xe gặp rất nhiều khó
khăn, trở ngại, nhưng đẹp biết bao tinh thần lạc quan, vượt lên trên khó khăn của
người lính cách mạng.

23
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
* Luận cứ 1: Trước hết là khó khăn do thời tiết đường rừng mang lại, ngày
nắng thì là bụi :
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
- Xe mất kính, mất đi bộ phận che chắn gió bụi, người lái và chiếc xe như đi
giữa làn bụi đất mịt mù. Điệp ngữ “bụi” và động từ mạnh “phun” diễn tả, nhấn
mạnh mức độ ghê gớm đến đáng sợ của bụi đường TS. Xe không kính, cơn bão
bụi đã phun thẳng vào buồng lái, phủ đầy tóc, đầy mặt người lính biến các anh
thành hình tượng ngộ nghĩnh qua cách so sánh “bụi phun tóc trắng như người
già”. Người lính mười tám, đôi mươi, trẻ trung, sôi nổi giờ đây đã được “hóa
trang” thành một con người khác, già đi gấp bội bởi lớp bụi dày bám trên tóc.
Cái gian khổ của anh chiến sĩ lái xe được diễn tả sao mà nhẹ nhàng đến thế. Họ
không kêu ca, than vãn mà lại lấy chính cái gian khổ của mình để khôi hài vui
vẻ.
- Đối lập với thực tế gian khổ vẫn là thái độ của người chiến sĩ lái xe:
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Nếu từ ngữ “ừ thì” thể hiện sự chấp nhận, chịu đựng những cơn bụi thì thái độ
“chưa cần rửa” lại là sự thách thức, bất chấp, xem thường mọi gian khổ. Gian
khổ này dường như không hề tác động, không hề làm lay chuyển ý chí, quyết
tâm của các anh.
- Hình ảnh phì phèo châm điếu thuốc, cái cười ha ha mới thật ngạo nghễ, ngang
tàng làm sao. Gian khổ có hề gì, thậm chí nó còn tạo cho các anh niềm vui quân
ngũ, nhìn nhau lấm lem bụi đất, ai ai cũng phá lên cười. Cái cười ha ha sảng
khoái, như bật lên thành tiếng của anh lính xế ở đây khác hẳn miệng cười buốt
giá gượng gạo, động viên nhau trong giá lạnh của người vệ quốc năm xưa trong
thơ Chính Hữu. Đó cũng là khúc nhạc vui của tuổi trẻ hoà trong những hình ảnh
hóm hỉnh, ý thơ rộn rã, sôi động như sự sôi động hối hả của đoàn xe trên đường
đi tới.
=> Đọc thơ ta tưởng như nhìn thấy mái đầu bụi trắng, bộ mặt lấm lem và nghe
rõ tiếng cười ha ha, sảng khoái của người lính. Nhưng đằng sau những dòng chữ
bông đùa đáng yêu này là một bản lĩnh chiến đấu rất vững vàng của người lính
trẻ.
* Luận cứ 2: Nếu ngày nắng, trở ngại với người lính là bụi thì ngày mưa, chiếc
xe không kính còn khó khăn hơn gấp vạn:
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi
- Cấu trúc khổ thơ được điệp lại gần như trọn vẹn khổ thơ trên: Không có kính,
ừ thì…chưa cần… vừa tạo tính liên kết chặt chẽ cho đoạn thơ, vừa như nhấn
mạnh những gian khổ liên tiếp nối nhau ập đến mà đoàn xe không kính phải đối

24
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
mặt. Ngày nắng cho chí ngày mưa, không lúc nào người lính không gặp thử
thách, khó khăn.
- Tác giả tiếp tục sử dụng thành công động từ mạnh và lối so sánh giàu sức gợi
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời gợi tác động dữ dội của mưa rừng tới đoàn
xe. Ngồi trong buồng lái mà các anh hứng trọn những cơn mưa chợt đến chợt đi,
ào ạt và xối xả, mưa làm đường trơn, tay lái nặng, áo quần sũng ướt, lạnh giá.
- Nhưng chấp nhận thực tế, câu thơ vẫn vút lên tràn đầy niềm lạc quan sôi nổi:
“Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa- Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”.
+ Điệp từ “chưa cần” nhắc lại một lần nữa càng khẳng định tâm thế hiên ngang,
bất chấp mọi gian khó của anh bộ đội cụ Hồ. Mưa ướt có thấm gì, các anh vẫn
lái xe bon bon tiến về phía trước, mưa trời làm ướt áo thì gió trời sẽ làm áo khô
thôi. Nhẹ nhàng như một lẽ tự nhiên mà chất chứa bao sự lạc quan, dũng cảm và
tinh thần bất khuất trước gian khổ, hiểm nguy của người chiến sĩ lái xe.
+ Nhiệt tình cách mạng của người lính không còn là trừu tượng nữa mà được
tính bằng những cung đường "lái trăm cây số nữa". Cung đường ấy trong bom
đạn, mưa tuôn phải trả giá bằng bao mồ hôi, xương máu. Câu thơ 7 tiếng cuối
đoạn có đến 6 thanh bằng “mưa ngừng gió lùa khô mau thôi” gợi cảm giác nhẹ
nhõm, ung dung rất lạc quan, rất thanh thản. Lời thơ nhịp nhàng, trôi chảy như
những chiếc xe vun vút chạy trên đường.
-> Những câu thơ gần gũi với lời nói hàng ngày ấy càng làm nổi bật lên tính
cách ngang tàng của những anh lính trẻ hồn nhiên, yêu đời, trẻ trung.
c. Luận điểm 3: Những đợt trú quân giữa rừng thắm tình đồng đội( khổ
5,6)
Những người lính lái xe đâu chỉ khiến ta ngưỡng mộ bởi tinh thần lạc quan mà
ở họ còn ánh lên thứ tình cảm cao đẹp trong kháng chiến- đó là tình cảm đồng
chí đồng đội.
* Luận cứ 1: Khổ 5
Trên hành trình xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, các anh gặp gỡ với biết bao
đồng chí đồng đội cùng lý tưởng:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
- Đến đây, ta bắt gặp hình ảnh xuất hiện ở nhan đề tác phẩm- tiểu đội xe không
kính. Thì ra đi giữa mưa bom, bão đạn, tất cả những chiếc xe quân sự Trường
Sơn đều có chung một đặc điểm là không còn kính. Người chiến sĩ đang nói về
đồng đội và cũng đang tự nói về mình. “Từ trong bom rơi” có nghĩa là từ trong
ác liệt, từ trong cái chết trở về. Vượt qua tuyến lửa, bom rơi, những chiếc xe
bỗng tụ nhau thành tiểu đội thật kỳ khôi, thú vị. Tiểu đội những chiếc xe không
kính. Những con người đã qua thử thách trên con đường đi tới bỗng trở thành
bạn bè, đồng chí của nhau. Thú vị làm sao khi những mất mát của chiến tranh lại
tạo thành một đặc điểm, một tên gọi riêng của đoàn xe. Đồng thời cũng gợi liên
tưởng tới tiểu đội của những chàng lái xe dũng cảm, đội bom đạn mà tiến tới
chiến trường.

25
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
- Qua ô kính vỡ các anh lính có thể trao nhau những cái bắt tay thay lời chào
hỏi. Đây là một hành động đẹp, chứa chan tình cảm đồng chí đồng đội. Có biết
bao nhiêu điều muốn nói trong cái bắt tay ấy. Đó là niềm vui khi họ vừa thoát
khỏi chặng đường hiểm nguy gian khó, niềm vui khi thấy đồng đội vẫn an toàn.
Họ động viên nhau dù trong hoàn cảnh nào cũng vẫn quyết tâm cầm chắc vô
lăng để đưa xe về đến đích. Chỉ một cái bắt tay qua cửa kính vỡ rồi cũng đủ để
họ san sẻ cho nhau, cảm hiểu lẫn nhau giữa những người đồng chí, đồng đội
chung một chiến hào, chung một nhiệm vụ thiêng liêng cao cả mà Tổ quốc và
nhân dân giao phó. Cái bắt tay qua ô cửa kính là sự bù đắp tinh thần cho sự thiếu
thốn về vật chất. Nếu chiếc xe không kính là hiện thực tàn khốc, ác liệt thì cái
bắt tay lại là biểu tượng của tình người, tình đời nảy nở và bất diệt trong chiến
tranh.
* Luận cứ 2: Khổ 6:
Khổ thơ tiếp theo tình cảm đồng chí được nâng lên thành tình thân:
Bếp Hoàng Cầm … xanh thêm
- Hình ảnh bếp Hoàng Cầm gợi về những bữa cơm dã chiến giữa rừng của người
lính chiến. Bếp HC là sáng chế tuyệt vời của anh hùng nuôi quân Hoàng Cầm,
chiếc bếp đảm bảo yếu tố tuyệt mật trong chiến tranh là đi không dấu, nấu
không khói, giúp bộ đội ta có những bữa cơm nóng dọc đường hành quân vất vả.
- Đến đây, ta bắt gặp cách định nghĩa rất riêng của các anh về gia đình - đó là:
“chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Chỉ cần cùng ngồi ăn với nhau một bữa
cơm đạm bạc bên bếp Hoàng Cầm, từ những người vốn xa lạ, đến từ nhiều vùng
miền khác nhau, các anh đã coi nhau như người thân ruột thịt, để rồi có thể sẵn
sàng sống chết cùng nhau. Chiến tranh là huỷ diệt, nhưng chính hoàn cảnh chiến
tranh khốc liệt lại làm nảy sinh thứ tình người đặc biệt và cao quý đến vậy.
- Những bữa ăn, giấc ngủ của đời lính chiến được nhà thơ tái hiện thật chân thực
cảm động: Bếp HC dựng giữa trời, võng mắc chông chênh… tất cả đều tạm bợ,
chóng vánh đúng với nhịp sống khẩn trương nơi chiến trường. Những bữa cơm
đạm bạc bên bếp Hoàng Cầm ấm tình đồng đội; chỉ cần một chiếc võng dù mắc
ngang hai thân cây, các anh đã có những giây phút nghỉ ngơi thư thái. Từ láy
“chông chênh” gợi về một cái gì rất đỗi tạm bợ nhưng cũng vô cùng thi vị của
đời lính.
- Câu thơ cuối với việc điệp lại hai lần cụm từ “Lại đi” giống như một khẩu lệnh
lên đường vừa giục giã, vừa quyết tâm mà không một sức mạnh đạn bom nào có
thể ngăn cản nổi. Hành trình lại tiếp tục, đoàn xe lại lăn bánh. Hình ảnh ẩn dụ
"Trời xanh thêm" là để nói tới bầu trời lý tưởng mà các anh đang đi tới, trời xanh
thêm vì lòng người phơi phới say mê trước những chặng đường đã đi và đang
đến. Câu thơ phơi phới niềm tin. Sự sống không chỉ tồn tại mà còn tồn tại trong
một tư thế kiêu hãnh, hiên ngang – tư thế của người chiến thắng.
-> Bài thơ dù không trọng tâm ca ngợi tình đồng chí, đồng đội nhưng khi khắc
họa vẻ đẹp tâm hồn của người lính lái xe, PTD đã làm nổi bật vẻ đẹp của thứ
tình cảm thiêng liêng, cao cả ấy.
d. Luận điểm 4: Tình yêu miền Nam là động lực cho xe lăn bánh.

26
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Những người lính lái xe đã bất chấp mọi gian khổ, hiểm nguy đưa xe ra tiền
tuyến bởi ở họ có một sức mạnh vô hình mà cũng vô cùng mãnh liệt, đó là tình
yêu Tổ quốc:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
- Bốn dòng thơ dựng hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, bất ngờ thú vị. Hai câu
đầu dồn dập những mất mát khó khăn do quân thù gieo xuống. Điệp ngữ "không
có" nhắc lại ba lần như nhân lên những thử thách khốc liệt. Hai dòng thơ mà như
ngắt làm bốn khúc "không có kính/ rồi xe không có đèn / Không có mui xe /
thùng xe có xước" như bốn chặng gập ghềnh, khúc khuỷu, đầy chông gai bom
đạn. Chiếc xe như bị biến dạng hoàn toàn vì bom đạn: không kính, không mui,
không đèn, thùng xe thì trầy xước, ọp ẹp, thiếu đi mọi hệ số an toàn cần thiết.
Nếu chỉ mới thiếu kính thôi, người lính đã phải đối mặt với bao thử thách, thì
giờ đây họ phải đương đầu với nguy hiểm, bom đạn có thể rơi thẳng vào ca bin
và cướp đi sinh mạng của các anh bất cứ lúc nào.
- Vậy điều gì đã làm nên sức mạnh giúp họ coi thường gian khổ, bất chấp nguy
nan như vậy? Đó chính là ý chí giải phóng miền Nam, là tình yêu nước nồng
nhiệt ở tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mĩ:
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
+ Hai câu cuối âm điệu trôi chảy, hình ảnh đậm nét. Đoàn xe đã vượt lên bom
đạn, hăm hở hướng ra tiền tuyến lớn với tình cảm thiêng liêng "vì miền Nam".
Nhà thơ dùng chữ vì mà không phải chữ về, vì là để nói đến nguyên nhân, nói
đến cội rễ sâu xa. Hình ảnh "miền Nam phía trước" vừa nói lên được nhiệm vụ
nặng nề là tiếp viện cho chiến trường miền Nam của "tiểu đội xe không kính"
vừa gợi lên tình cảm thiêng liêng của người chiến sĩ lái xe đối với miền Nam
ruột thịt.
+ Và tứ thơ cuối cùng đã cân bằng lại tất cả những gian khổ, những tàn phá của
chiến tranh. Sức mạnh của tình yêu nước đã chiến thắng kẻ thù hung bạo: “Chỉ
cần…tim”... Hình ảnh trái tim là một hình ảnh hoán dụ tuyệt đẹp tượng trưng
cho người lính lái xe. Trái tim là hình ảnh hội tụ vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất
của người chiến sĩ lái xe. Trái tim nồng cháy một lẽ sống cao đẹp và thiêng
liêng: tất cả vì Miền Nam thân yêu, trái tim chứa đựng bản lĩnh hiên ngang, lòng
dũng cảm tuyệt vời. Trái tim mang tinh thần lạc quan và một niềm tin mãnh liệt
vào ngày thống nhất Bắc Nam. Thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc
rễ anh hùng của mỗi người cầm lái tích tụ, kết đọng ở "trái tim" gan góc, kiên
cường, chứa chan tình yêu nước này. Ẩn sau ý nghĩa câu thơ "chỉ cần trong xe
có một trái tim" là chân lý của thời đại chúng ta: sức mạnh quyết định, chiến
thắng không phải là vũ khí, công cụ mà là con người giàu ý chí, anh hùng, lạc
quan, quyết thắng. Có thể nói cả bài thơ hay nhất là câu cuối, "con mắt thơ" làm
bật lên chủ đề, toả sáng vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trong bài thơ.

27
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
- Điệp ngữ “không có”, các từ ngữ tương ứng, đối lập “vẫn … chỉ cần ... có” đã
làm cho giọng thơ, ý thơ trở nên mạnh mẽ, hào hùng. Vẫn là cách nói thản nhiên
ngang tàng của lính nhưng câu thơ lại lắng sâu một tinh thần trách nhiệm và có ý
nghĩa như một lời thề thiêng liêng. Quyết tâm chiến đấu và chí khí anh hùng của
người lính không có đạn bom nào của kẻ thù có thể làm lay chuyển được.
3. Bình giá tổng hợp:
NT: - Thể thơ tự do, ngôn ngữ thơ đậm chất khẩu ngữ.
- Chất giọng htrẻ trung, đầy lín tráng của bài thơ bắt nguồn từ tâm hồn phơi phới
của thế hệ chiến sĩ Việt Nam thời chống Mỹ mà chính nhà thơ đã sống, đã trải
nghiệm.
- Hình ảnh thơ giàu tính hiện thực mà cũng giàu sức gợi hình, biểu cảm.
- Sử dụng kết hợp nhiều biện pháp nghệ thuật: điệp, liệt kê, so sánh, hoán dụ...
ND: Tất cả đã góp phần khắc họa thành công bức tượng đài bất tử về tuổi trẻ
VN trong thời kì: "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước - Mà lòng phơi phới dậy
tương lai"(Tố Hữu).
******************************************************
BÀI 4. ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ - HUY CẬN
Câu 1: Tác giả:
- Huy Cận là cây đại thụ của làng thơ hiện đại Việt Nam. Ông nổi danh từ phong
trào thơ mới.
- Phong cách thơ:
+ Trước CM: Nhắc đến Huy Cận, người ta liên tưởng ngay đến nhà thơ của vũ
trụ, của thiên nhiên với nỗi sầu nhân thế.
+ Sau CM: Bắt nhịp với cuộc đời mới, thơ ông thấm đẫm hơi thở của cuộc sống
đang lên: sôi nổi, vui tươi, yêu đời. Cảm hứng chính trong thơ ông lúc này vẫn
là cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ nhưng hòa hợp với cảm hứng về con người
lao động mới.
CÂU 2. HOÀN CẢNH RA ĐỜI:
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được Huy Cận sáng tác năm 1958 trong một
chuyến đi thực tế Hòn Gai, Quảng Ninh. Đây là thời kì miền Bắc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, thiên nhiên và con người lao động nơi đây đã khơi nguồn cảm
hứng để tg viết bài thơ.
- In trong tập “ Trời mỗi ngày lại sáng”.
CÂU 3. BỐ CỤC:
3 PHẦN: - Khổ 1,2: Cảnh đoàn thuyền chuẩn bị ra khơi.
- Khổ 3,4,5,6: Cảnh đoàn thuyền đánh bắt trên biển.
- Khổ 7: Cảnh đoàn thuyền trở về.
CÂU 4. PHÂN TÍCH BÀI THƠ
a. Luận điểm 1: Cảnh đoàn thuyền ra khơi. (khổ 1,2).
Những khổ thơ đầu tiên đã mở ra với khung cảnh đoàn thuyền chuẩn bị ra khơi
đẹp lộng lẫy.
* Luận cứ 1 (Khổ 1): Bài thơ mở ra là khung cảnh hoàng hôn nguy nga,
tráng lệ:
“Mặt trời…gió khơi”.

28
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
- Hai câu thơ đầu là bức tranh hoàng hôn trên biển với hình ảnh nhân hoá kết
hợp so sánh độc đáo, mới lạ: Mặt trời xuống biển như hòn lửa. Vầng dương lúc
cuối ngày được ví như một hòn lửa khổng lồ đang từ từ chìm xuống biển sâu.
Hình ảnh ấy khiến cả một vùng trời biển mênh mông như bừng sáng, huy hoàng.
- Nghệ thuật nhân hóa tài tình tiếp tục biến sóng nước vô tri thành những tấm
then cài chắc chắn “sóng đã cài then” và màn đêm vô thức lại trở thành cánh
cửa khổng lồ “đêm sập cửa”. Cách diễn đạt ấy gợi một liên tưởng rất kì diệu: vũ
trụ bao la giống như một ngôi nhà lớn có cửa đóng then cài, gần gũi và ấm áp vô
cùng.
- Những động từ liên tiếp như: xuống, cài, sập cho thấy sự vận động không
ngừng của vũ trụ. Màn đêm buông xuống, một ngày đã khép lại, vạn vật dường
như đi vào trạng thái nghỉ ngơi sau cả ngày dài. Khung cảnh hoàng hôn vốn rất
quen thuộc với thi ca kim cổ, nhưng bao hoàng hôn xưa thường gắn với sự lụi
tàn, với nỗi buồn man mác, thì hoàng hôn trong thơ HC lại trở nên rất rực rỡ, ấm
áp vì nó gắn với công việc của con người: “Đoàn thuyền…khơi”
- Khi vị chủ nhân thứ nhất của thiên nhiên là mặt trời đi ngủ thì vị chủ nhân thứ
hai - những người dân chài lại bắt đầu ngày lao động mới. Công việc của họ
diễn ra đều đặn trở thành quen thuộc, thường nhật “lại ra khơi”. Chữ lại ở đây
được dùng vừa gợi tả một hoạt động lặp đi, lặp lại nhiều lần; vừa gợi liên tưởng
đến không khí lao động khẩn trương, bất kể thời gian của người lao động mới.
Nếu sự sống của thiên nhiên như tạm ngưng lại khi hoàng hôn buông xuống thì
sự có mặt của con người như nối tiếp nhịp sống đó.
- Khung cảnh càng trở nên nhộn nhịp, tươi vui nhờ câu hát ra khơi: Câu hát
căng buồm cùng gió khơi. Câu thơ xuất hiện ba sự vật, hiện tượng câu hát, cánh
buồm và gió khơi được gắn kết, hoà quyện với nhau. Biện pháp nhân hóa khiến
tiếng hát khoẻ khoắn cùng với gió khơi thổi căng cánh buồm đưa thuyền vượt
sóng. Câu hát là niềm tin, sự phấn chấn của người lao động, nó vừa có sức mạnh
tinh thần, vừa có sức mạnh vật chất siêu hình như thế.
* Luận cứ 2: Khổ 2
Câu hát của người đi biển đã được cụ thể hóa ở khổ thơ tiếp theo: “Hát …
đoàn cá ơi”
- HC đã nói hộ tâm tư của người chài lưới gửi gắm trong câu hát ra khơi. Trước
tiên, ngư dân mong muốn có được một ngày ra khơi sóng yên biển lặng “biển
đông lặng”. Bởi đây là công việc phụ thuộc nhiều vào thời tiết, trời yên biển
lặng thì đoàn thuyền mới được bình an, sóng êm thì mới có thể đánh bắt được
nhiều cá tôm.
- Biện pháp điệp từ cá kết hợp với nghệ thuật so sánh Cá thu biển Đông như
đoàn thoi cùng lối ẩn dụ dệt biển muôn luồng sáng đã ngợi ca sự giàu có và hào
phóng của biển cả cùng vẻ đẹp lung linh, diệu kỳ của nó trong đêm. Giữa biển
đêm, những đoàn cá lao đi trên mặt biển tạo ra luồng sáng mà tựa như những
con thoi đang dệt trên khung cửi vậy. Qua đó gửi gắm ước mong về một ngày ra
khơ gặp luồng cá lớn, cá như đan, như dệt trên mặt biển.
- Khổ thơ khép lại bằng câu hát gọi cá thân thương, trìu mến: Đến dệt lưới ta
đoàn cá ơi, cá được nhân hóa như có thể lắng nghe tiếng gọi của con người để

29
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
đến dệt trên lưới của họ. Thật vậy, những lời thơ ngân nga vang vọng khiến ta
say sưa nhưng ẩn sau đó ta vẫn nhận thấy ý tình của người lao động, điều mà họ
mong muốn hơn cả là có một ngày đánh bắt bội thu.
-> Có lẽ chưa bao giờ ta bắt gặp trong thi ca một hoàng hôn lộng lẫy, nguy nga
đến thế. Và cũng chưa bao giờ ta bắt gặp những con người lao động bắt tay vào
một ngày làm việc vất vả, hiểm nguy mà lại hân hoan, phơi phới tin yêu đến
vậy.
b. Luận điểm 2: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển.
Bức rèm hoàng hôn được buông xuống, cánh buồm căng gió được cất lên, đoàn
thuyền chính thức bắt tay vào một ngày lao động mới. Từ đây, nhà thơ như một
thợ quay phim tài ba đang ngồi trên một con thuyền giữa đoàn thuyền đánh cá
để thu trọn vào ống kính của mình một ngày lao động trên biển.
* Luận cứ 1: Khổ 3
Hiện ra trước ống kính của nhà quay phim là cảnh đoàn thuyền vượt sóng ra ngư
trường(khổ 3).
- Với trí tưởng tượng lãng mạn, bay bổng, tác giả tái hiện hình ảnh một con
thuyền thực mà đẹp như mơ. Nghệ thuật nhân hóa biến con thuyền trở nên lớn
lao, như sánh ngang với thiên nhiên, vũ trụ có gió làm lái “lái gió”, có trăng làm
buồm “buồm trăng”, chạy trên biển mà như lướt, như bay giữa mây cao biển
bằng “lướt giữa mây cao với biển bằng”. Động từ lướt diễn tả trạng thái nhẹ lướt
băng băng như không hề có gì cản trở của đoàn thuyền.
- Nhà thơ còn khéo léo sử dụng trường từ vựng về thiên nhiên, vũ trụ: “gió”
“trăng”, “mây”, “biển” làm cho bức tranh cảnh vừa phảng phất phong vị cổ
điển nhưng vẫn đậm chất hiện thực; vừa gợi một không gian bao la, khoáng đạt
mở rộng tận mây cao, trải dài ngút ngát với biển bằng. Nhưng giữa khung cảnh
ấy, đoàn thuyền không hề nhỏ bé, đơn độc mà nó được thiên nhiên trợ sức vươn
mình sánh ngang với trời biển mênh mông. Đó cũng chính là vẻ đẹp của những
con người ở tư thế làm chủ, họ làm chủ cuộc đời, làm chủ công việc và làm chủ
cả thiên nhiên khác hẳn với hình ảnh con người đơn độc, lẻ loi trước thiên nhiên
trong thơ HC trước CM. Hình ảnh thơ gợi ta liên tưởng đến vẻ đẹp đầy lãng mạn
của con thuyền chiến mã trong thơ Tế Hanh một thuở: “Chiếc thuyền nhẹ hăng
như con tuấn mã- Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang”.
- Tiếp tục trí tưởng tượng bay bổng, lãng mạn, thi nhân đã tái dựng cảnh buông
lưới vô cùng ấn tượng: “Ra…giăng”. Công việc tưởng đơn giản, quen thuộc mà
khác gì một trận chiến, cũng “dò bụng biển”, cũng “dàn đan thế trận”, để “vây
giăng” cá. Hình ảnh thơ vừa cho ta hình dung phần nào sự vất vả, thậm chí là
hiểm nguy của công việc, vừa gợi liên tưởng thú vị về một cuộc chiến chinh
phục thiên nhiên của con người.
* Luận cứ 2: Khổ 4
Thuyền đã ra ngư trường, lưới đã vây giăng để chờ đón cá vào. Lúc này, ngư
dân có những phút giây thư thái ngắm cảnh biển về đêm. Hiện ra trước mắt họ là
một bức tranh cá tuyệt đẹp của biển cả quê hương(khổ 4).
- Lời thơ mà như giọng kể, đã bao đời, người ngư dân có mối quan hệ chặt chẽ
với biển cả. Họ thuộc biển như thuộc lòng bàn tay. Bao loài cá họ thuộc tên,

30
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
thuộc dáng, thuộc cả thói quen của chúng nào những chim, thu, nhụ, đé… những
loài cá quý giá của biển khơi như tụ cả về đây qua lối nói liệt kê khéo léo, tài
hoa: “cá nhụ, cá chim cùng cá đé- Cá song lấp lánh…”
- Biện pháp ẩn dụ với hình ảnh Cá song lấp lánh đuốc đen hồng rất sáng tạo,
trên mình chú cá song có những chấm đen hồng, phản chiếu ánh sáng của trăng
sao mà nhà thơ tưởng như những ngọn đuốc rực sáng trong đêm. Liên tưởng
nước với lửa như thế chỉ có ở một hồn thơ lãng mạn, hào hoa và giàu trí tưởng
tưởng của thi sĩ Lửa thiêng. Biển đêm giát đầy ánh trăng, cá quẫy nước khiến
mặt nước sóng sánh mà như quẫy trăng vàng “cái đuôi em quẫy trăng vàng
chóe” biến cả mặt biển đêm thành biển trăng long lanh dậy sóng, đẹp đến nao
lòng.
- Thiên nhiên đã gợi cho thi nhân những ý thơ thực sự sáng tạo, độc đáo Đêm
thở: sao lùa nước Hạ Long. Nhịp thủy triều lên xuống làm mặt nước dập dềnh
khiến thi nhân liên tưởng rất tài tình đến nhịp thở của màn đêm. Mỗi nhịp thở ấy
lại đem trăng sao lùa sâu vào lòng nước. Thật là một cảnh thần tiên kì vĩ, trời
biển như hòa làm một. Đặc biệt, khổ thơ xuất hiện một loạt những từ ngữ chỉ
màu sắc, ánh sáng: “lấp lánh, đuốc, đen hồng, vàng chóe” càng làm cho bức
tranh biển về đêm thêm lung linh, kì ảo.
* Luận cứ 3: Khổ 5
Trong cảm xúc ngất ngây trước vẻ đẹp của biển cả, ngư dân cất lời ca gọi cá
ngân nga cùng sóng nước: (khổ 5).
- Tiếng hát theo những người dân chài từ khi khởi hành và giờ đây lại cất lên là
để gọi cá vào lưới: Ta hát ... trăng cao.
Trong cuộc chiến chinh phục biển cả, ngư dân luôn luôn có sự trợ giúp đắc lực
của thiên nhiên. Trăng thức cùng ngư dân, trăng cùng sóng dập dờn bên mạn
thuyền, như “gõ nhịp” phụ họa cho tiếng hát gọi cá. Cả không gian như tràn
ngập tiếng hát ngân nga, vang vọng. Thiên nhiên và con người như hòa hợp
cùng nhau trong công cuộc lao động. Công việc đánh bắt cá vốn nặng nhọc bỗng
trở nên thi vị, lãng mạn vô cùng.
- Trước sự giàu đẹp của biển, con người về suy ngẫm về ân tình của biển khơi.
Biển cho ta cá như lòng mẹ là lối so sánh giàu ý nghĩa. Còn gì lớn lao, ý nghĩa
hơn tấm lòng của mẹ đối với con! Lòng mẹ luôn dành trọn cho con, cho con tất
cả mà không bao giờ toan tính, yêu thương con vô điều kiện. Biển với người
cũng vậy, sẵn sàng dành cho con người tất cả những gì mình có, cho đi mà
không đòi nhận lại. Biển đã nuôi sống con người từ thuở ấu thơ cho tới lúc về
già. Ví biển khơi như mẹ, con người sẽ có cảm giác mênh mông bên mình một
sự chở che, bao bọc; lao động giữa biển đêm mênh mông mà con người có cảm
giác như đang ở trong vòng tay mẹ, bình yên và ấm áp vô cùng. Phải là những
người gắn bó và sống đời với biển thì mới thấu hiểu rõ ân tình của biển đến
nhường ấy.
* Luận cứ 4: Khổ 6
Bóng đêm dần tàn, nhịp độ công việc càng sôi nổi, khẩn trương khi ngư dân kéo
lưới: ( khổ 6).

31
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
- Thật khéo làm sao một chữ kịp giữa câu thơ. Nó như tạo ra một tư thế chạy đua
của con người với thời gian. Trời dần về sáng, họ nhanh chóng thu lưới để kịp
đón chào bình minh.
- Giữa rất nhiều hình ảnh bay bổng, lãng mạn, nhà thơ đã thu vào ống kính của
mình một hình ảnh, một tư thế rất thực của người ngư dân khi kéo lưới: Ta kéo
xoăn tay chùm cá nặng. Hình ảnh tạc dựng trước mắt ta bóng dáng người ngư
dân đang choãi chân, nghiêng người, dồn tất cả sức mạnh vào đôi cánh tay khiến
cơ bắp nổi lên cuồn cuộn để kéo những mẻ lưới nặng trĩu cá tôm như những
chùm trái cây trĩu quả! Bóng dáng họ in trên nền trời ửng hồng của buổi bình
minh tựa như bức tượng đài về ngư dân trên biển cả. Bằng ngôn ngữ, nhà thơ đã
cho người đọc chiêm ngưỡng một bức tượng đài bất tử về con người lao động
mới có một không hai.
- Bao công lao vất vả đã được đền bù. Những chú cá muôn màu sắc đã phơi
mình trên những khoang thuyền đầy ăm ắp, tia nắng sớm rọi chiếu làm lấp lánh
thêm “vẩy bạc, đuôi vàng” cũng khiến cho cảnh rạng đông thêm rực rỡ. Những
sắc bạc, sắc vàng còn gợi liên tưởng tới cuộc sống no đủ của ngư dân nhờ những
chuyến ra khơi thắng lợi như thế này.
- Nhịp điệu câu thơ cuối thêm dồn dập với nhịp 2/2/3 kết hợp đồng thời những
cụm động từ liên tiếp: lưới xếp- buồm lên- đón nắng hồng vừa gợi tâm trạng vui
tươi, thoải mái của ngư dân trước kết quả tốt đẹp của chuyến ra khơi, vừa cho
thấy không khí lao động cuối ngày nhưng vẫn rất khẩn trương, hối hả. Ngư dân
nhanh chóng thu lưới, căng buồm để đưa thuyền cập bến kịp phiên chợ sớm mai.
-> Bằng tình yêu thiên nhiên tha thiết, bằng sự thâm nhập, quan sát thực tế lao
động, HC đã tái hiện vừa chân thực vừa rất đỗi tài hoa một ngày lao động biển
của ngư dân vùng mỏ. Cảnh lao động của đoàn thuyền đánh cá diễn ra trong một
đêm ròng. Thế nhưng, bài thơ là một bức tranh với những đường nét khoẻ
khoắn, màu sắc tươi sáng lạ thường. Đánh cá trên biển mênh mông thực chất là
một công việc lao động nặng nhọc, đầy nguy hiểm. Vậy mà cả bài thơ là một
khúc ca sảng khoái, tràn đầy niềm vui, phối hợp nhạc điệu với những động tác
khoẻ mạnh, dồn dập.
c. Luận điểm 3: Cảnh đoàn thuyền trở về.
Khổ thơ cuối cùng miêu tả cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá trong câu hát
khải hoàn náo nức, vui say.(K7).
- Vẫn là tiếng hát khỏe khoắn của người ngư dân dạn dày sóng nước đang vươn
lên làm chủ cuộc đời. Câu thơ gần như được lặp lại ý thơ ở khổ đầu tiên. Tiếng
hát hòa trong gió, thổi căng cánh buồm đưa đoàn thuyền ra khơi đêm trước, nay
lại cùng đoàn thuyền đầy ắp cá hân hoan về bến. Việc lặp lại nhiều lần chữ “hát”
trong bài thơ khiến cho nó đã thực sự trở thành âm thanh chủ đạo của cả bài. Vì
thế mà có thể coi ĐTĐC là bài ca về con người lao động mới trên biển.
- Hòa cùng niềm vui to lớn của mọi người, nhà thơ chắp cánh cho trí tưởng
tượng của mình bay bổng. Đoàn thuyền lao vun vút trên mặt biển. Hình ảnh
“Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” rất hiện thực mà cũng rất hào hùng. Con
thuyền như đang chạy đua nước rút cùng thời gian, tầm vóc của nó sánh ngang
với thiên nhiên vũ trụ. Điều đó phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là

32
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
đưa cá về bến trước khi trời sáng, đồng thời cũng hàm ý nói lên khí thế đi lên
mạnh mẽ của họ trong công cuộc dựng xây đất nước sau giải phóng.
- Bài thơ mở ra với cảnh hoàng hôn buông xuống, mặt trời xuống biển, nhưng
khép lại là lúc “Mặt trời đội biển nhô màu mới”, một màu hồng rạng rỡ, tinh
khôi, và ánh mặt trời phản chiếu trong muôn ngàn mắt cá trên thuyền, khiến nhà
thơ liên tưởng tới hàng ngàn mặt trời nhỏ xíu đang tỏa sáng niềm vui. Thời gian
đã có sự vận động hướng từ bóng tối đến ánh sáng. Đến đây, bức tranh biển cả
ngập tràn sắc màu tươi sáng và ấm áp chất sống trong từng dáng hình, đường nét
của cảnh, của người. Hành trình một ngày lao động của ngư dân đã khép lại
trong khúc khải hoàn ca hân hoan trước thành quả lao động viên mãn và lạc
quan tin tưởng vào một tương lai tươi đẹp đang đón chờ. Việc lặp lại những hình
ảnh: Câu hát- cánh buồm- mặt trời ở khổ thơ đầu và khổ thơ cuối đã tạo cho bài
thơ một cấu trúc đầu cuối tương ứng độc đáo và đặc sắc.
=> Đọc thơ HC, ta như bị cuốn theo từng câu chữ, hồi hộp dõi theo mạch thơ từ
dòng đầu cho tới những dòng cuối cùng. Để rồi khi trang sách gấp lại, lòng ta
vẫn còn ngân vang mãi những lời ca của giai điệu gọi cá- giai điệu của tình yêu
lao động của những người ngư dân.
3. Bình giá tổng hợp:
- Nghệ thuật:
+ Bài thơ kết hợp giữa hai nguồn cảm hứng quen thuộc trong thơ Huy Cận là
cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ và con người nhưng được viết bằng bút pháp
lãng mạn và trí tưởng tượng bay bổng nên tạo ra những hình ảnh thơ đẹp về
thiên nhiên và con người lao động mới.
+ Thể thơ bảy chữ với cách gieo vần linh hoạt, vần chân pha lẫn vần lưng, vần
liền xen vần cách vừa tạo được sức dội, sức mạnh, vừa có độ ngân vang, bay
bổng.
+ Đặc biệt, bài thơ có âm hưởng vừa khỏe khoắn sôi nổi, vừa phơi phới bay
bổng, lời thơ dõng dạc, điệu thơ như khúc hát mê say.
+ Sử dụng kết hợp nhiều biện pháp nghệ thuật: so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, điệp
ngữ…
- ND: Cùng với Bài ca vỡ đất của Hoàng Trung Thông, Tiếng chổi tre của Tố
Hữu, ĐTĐC của HC đã góp phần hoàn thiện bức tượng đài về con người lao
động mới trong thời kì miền Bắc dựng xây CNXH- thời kì của những con người:
Tập làm chủ tập làm người xây dựng- Dám vươn mình cai quản lại thiên nhiên.
********************************************

BÀI 7: BẾP LỬA- BẰNG VIỆT.


Câu 1: Tác giả Bằng Việt
- Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến chống
Mĩ.
- Thơ BV có giọng điệu trong sáng, mượt mà, thường khai thác những kỉ
niệm tuổi thơ và khát khao tuổi trẻ nên dễ chạm tới cảm xúc của mọi người.
Nói về sự xuất hiện của Bằng Việt trong làng thơ, có ý kiến rằng: “Bằng

33
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Việt xuất hiện giữa làng thơ Việt Nam như một ánh đèn nê-ông kỳ ảo, tỏa
sáng trí tuệ, sự mát mẻ của tuổi xuân và cái dịu dàng của hồn thơ anh.”
- Tác phẩm chính: Hương cây- Bếp lửa( in chung với người bạn thơ Lưu
Quang Vũ).
Câu 2: Hoàn cảnh sáng tác bài thơ.
- Bếp lửa được sáng tác năm 1963, khi nhà thơ đang là sinh viên học đại học tại
nước Liên Xô. Bài thơ gợi lại kí ức tuổi thơ và kỉ niệm đẹp về bà qua hình tượng
bếp lửa. Qua đó BV ca ngợi đức hi sinh, sự tần tảo và tình thương bao la của bà,
đồng thời nói lên lòng biết ơn, nỗi thương nhớ bà khôn nguôi của cháu.
- In trong Hương cây- Bếp lửa.
Câu 3: Bố cục của bài thơ.
Bố cục 4 phần:
- Bếp lửa khơi nỗi nhớ về bà: khổ 1.
- Những kỉ niệm tuổi thơ bên bà và bếp lửa: khổ 2->5
- Suy ngẫm của cháu về cuộc đời bà và bếp lửa: khổ 6
- Tình cảm của cháu với bà trong thực tại: khổ 7
Câu 4: Phân tích bài thơ "Bếp lửa" của Bằng Việt.
a. Luận điểm 1: Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cảm xúc về bà:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm…Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
- Những hình ảnh mở đầu vừa thực vừa hư ảo như trong truyện cổ tích. Ngọn
lửa nhỏ mờ trong sương sớm lúc ẩn lúc hiện … tạo nên một khung cảnh trữ tình
làm lay động cảm xúc của tác giả. Một bếp lửa được điệp lại hai lần như nhấn
mạnh hình ảnh khơi nguồn cảm hứng. Với mỗi người VN, bếp lửa vốn là hình
ảnh rất đỗi thân thuộc, đó là hơi ấm, đó là đoàn viên!
- Hình ảnh bếp lửa từ trong sâu thẳm tiềm thức khi ẩn khi hiện trong nỗi nhớ
nôn nao của đứa cháu xa cách lâu ngày được tái hiện đầy sức gợi:
+ Khi là bếp lửa chờn vờn sương sớm gợi hình ảnh một ngọn lửa lúc thấp, lúc
cao, lúc mờ lúc tỏ trong căn bếp nhỏ còn giăng đầy sương mai. Sử dụng hình
ảnh ấy rất thích hợp với trạng thái tâm lý hồi tưởng những gì đã qua, đã rời xa
nhưng lại có sức ám ảnh day dứt.
+ Lúc lại là bếp lửa ấp iu nồng đượm. Từ "ấp iu" được dùng rất sáng tạo, đó là
sự kết hợp khéo léo giữa các từ "ấp ủ, nâng niu ". Đi với động từ này là tính từ
"nồng đượm " vừa gợi hơi ấm tỏa ra từ ngọn lửa bếp, vừa gợi đôi tay kiên nhẫn
và tấm lòng chi chút, nâng niu của người nhóm bếp.
- Từ hình ảnh bếp lửa, người cháu đã liên tưởng thật tự nhiên đến người nhóm
lửa, đó là người bà kính yêu Cháu thương bà biết mấy nắng mưa. Bà trực tiếp
hiện ra trong tình thương yêu của cháu. Chữ "thương" khiến những dòng thơ trĩu
nặng cảm xúc. Hình ảnh ẩn dụ biết mấy nắng mưa gợi những nhọc nhằn, gian
khó bà phải trải qua trong cuộc đời, đồng thời là sự thấu hiểu của cháu về những
vất vả, hi sinh của bà.
-> Như vậy, nơi đất khách quê người, chính ngọn lửa bếp đã khơi nguồn cảm
xúc của cháu về bà và những kỉ niệm ấu thơ.
b. Luận điểm 2: Những kỉ niệm tuổi thơ bên bà và bếp lửa quê hương.

34
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Nếu nhà văn tài năng Nguyễn Nhật Ánh đưa ta về tuổi thơ với bao tinh nghịch
của những cô cậu học trò bằng một tấm vé đặc biệt trong cuốn truyện “Cho tôi
xin một vé đi tuổi thơ”, thì ở đây, Bằng Việt lại làm sống dậy trong mỗi chúng ta
miền kí ức ân tình trong vòng tay yêu thương của bà, của mẹ. Sau hình ảnh khơi
nguồn, những kỉ niệm ấu thơ bên bà và bếp lửa quê hương cứ lần lượt ùa về theo
dòng thời gian như những thước phim quay chậm.
* Luận cứ 1 (Khổ 2): Trước tiên là kỉ niệm năm cháu lên bốn tuổi:
"Lên 4 tuổi....
...còn cay !"
- Lẽ thường, vui thì người ta dễ nhớ, buồn lại rất khó quên. Tuổi thơ lên bốn tuổi
của người cháu có bóng đen ghê rợn, đau buồn của nạn đói năm 1945. Đó là
năm "đói mòn đói mỏi" cái đói triền miên, dai dẳng như vắt kiệt sức lực của con
người. Cái đói ám ảnh lên vạn vật với hình ảnh con ngựa khô rạc cùng người bố
đánh xe chắc cũng gầy khô.
- Trong tình cảnh ấy, dù mới lên 4 tuổi nhưng người cháu đã sớm sống xa cha
mẹ và sống trong sự cưu mang của người bà. Khói bếp đã bao trùm suốt khung
trời tuổi thơ của cháu. "Mùi khói" rồi lại "khói hun nhèm", có thể nói nhà thơ đã
chọn đc một chi tiết thật chính xác, vừa miêu tả chân thực cuộc sống tuổi thơ,
vừa biểu hiện những tình cảm da diết, bâng khuâng, xót xa. Hình ảnh "khói hun
nhèm mắt" cũng gợi cho ta nghĩ đến sự cay cực, vất vả tỏa ra từ 1 bếp lửa của
gia đình nghèo khổ. Câu thơ "nghĩ lại .... cay" tô đậm nỗi niềm thổn thức của tác
giả. Ấn tượng về cuộc sống đói khổ và khói bếp nhà nghèo đã hằn sâu trong kí
ức của nhà thơ "nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay". Tuổi thơ cơ cực đã qua rồi
mà dư vị vẫn ám ảnh Bằng Việt. Thơ BV có sức truyền cảm mạnh mẽ nhờ
những chi tiết, ngôn từ chân thật, giản dị như thế. Cái bếp lửa kỷ niệm của nhà
thơ chỉ mới khơi lên, thoang thoảng mùi khói, mờ mờ sắc khói ... mà đã đầy ắp
những hình ảnh hiện thưc, thấm đẫm biết bao nghĩa tình sâu nặng.
* Luận cứ 2 (Khổ 3): Từ sau sương khói mịt mùng, bếp lửa còn thổi bùng
lên trong cháu những kỷ niệm của tuổi thiếu niên suốt tám năm cùng bà
nhóm lửa.
"Tám năm ròng....trên những cánh đồng xa."
- Ngôn ngữ, hình ảnh thơ rõ dần. Giọng thơ như giọng kể trong một câu chuyện
cổ tích, có thời gian, không gian, có sự việc và các nhân vật cụ thể. Nếu trong
hồi ức, lúc lên bốn tuổi, ấn tượng đậm nét nhất của đứa cháu là "mùi khói", thì
đến đây, xuất hiện một ấn tượng khác là "tiếng tu hú". Âm thanh ấy được lặp đi
lặp lại trong suốt khổ thơ với nhiều cung bậc khác nhau: Lúc mơ hồ, văng vẳng
"trên những cánh đồng xa", lúc gần gũi, da diết "sao mà tha thiết thế", tiếng tu
hú như than thở, sẻ chia, như tiếng đồng vọng của đất trời cùng những kiếp
người nghèo khổ. Tiếng tu hú- một âm thanh rất đồng nội, rất quen thuộc trong
thi ca hiện đại. Nhưng nếu trong thơ TH, đó là âm thanh gọi mùa màng no đủ
với: “Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần” với “Bắp rây vàng hạt đầy sân
nắng đào”, thì trong thơ BV tiếng chim quê hương ấy lại vọng về đầy khắc
khoải nhớ thương.

35
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
- Trong khổ thơ ấy, ta thấy đại từ "bà" đc lặp lại nhiều lần cùng với cấu trúc "bà
- cháu" sóng đôi gợi tình cảm gắn bó, ấm áp của tình bà cháu. Nhận xét về thơ
BV, có người đã rất tinh tế nhận ra: “thơ Bằng Việt thường nghiêng về suy nghĩ,
có dáng một lời tâm sự”. Thật vậy, trong đoạn thơ, dường như có lúc tác giả tách
khỏi dòng hoài niệm để trò chuyện với người bà kính yêu, chất tự sự hoà quyện
trong dòng cảm xúc trữ tình khiến lời thơ đầy ám ảnh:
“Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế”.
Bên bếp lửa, bao chuyện gần chuyện xa đã được bà gợi ra và dường như người
cháu đã khắc ghi tất cả trong tâm khảm, để chỉ cần nhớ về âm thanh tu hú, bao
chuyện cũ bên bà lại ùa về như thể mới hôm qua.
- Hình ảnh người bà hiện ra mỗi lúc một đẹp đẽ, lung linh hơn qua dòng hồi ức
của cháu. Những lời thơ gần gũi, mộc mạc như lời kể cùng lối liệt kê tăng tiến:
“Cháu ở cùng bà", "bà bảo cháu nghe", "bà dạy cháu làm", "bà chăm cháu
học"… đã nhấn mạnh vai trò của bà đối với sự trưởng thành của cháu. Cha mẹ
công tác xa, bà là người sớm hôm bên cháu, bà nuôi cháu lớn khôn cả về thể
chất, tâm hồn và trí tuệ, bà kể cháu nghe bao câu chuyện tâm tình bên bếp lửa,
bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học... Bởi thế, với cháu bà không chỉ là bà, bà
còn như cha như mẹ cưu mang, đùm bọc, nuôi dưỡng cháu; bà như người thầy
đầu tiên của cháu dạy cháu lên người bằng tất cả yêu thương, chi chút.
- Đoạn thơ khép lại với một câu hỏi tu từ đầy khắc khoải: Tu hú ơi…cánh đồng
xa. Tác giả trách móc loài chim tu hú vô tình chỉ gợi sự cô đơn đến vắng vẻ mà
ko đến san sẻ với bà hay đó cũng là lời tự trách chính mình khi để bà phải lủi
thủi lúc tuổi cao. Cách nói này đã bộc lộ kín đáo, ý nhị tình cảm của tác giả đối
với bà.
-> Tiếng chim tu hú trong khổ thơ làm cho không gian kỷ niệm có chiều sâu.
Nỗi nhớ của cháu về bà bỗng trở nên thăm thẳm vời vợi. Ẩn chứa đằng sau
những câu chữ ấy là tình cảm thương yêu, xót xa của nhà thơ trc nỗi cô đơn và
sự vất vả của bà.
* Luận cứ 3 (Khổ 4): Kỉ niệm năm giặc đốt làng:
Trong kí ức cháu còn có kỉ niệm những năm chiến tranh khói lửa.
"Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi…Cứ bảo nhà vẫn được bình yên.
- Lời thơ mộc mạc, giản dị như giọng kể: "Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy
rụi”. Thành ngữ cháy tàn cháy rụi đã diễn tả chính xác sự tàn phá ngọn lửa kẻ
thù- ngọn lửa đã thiêu rụi bao ngôi nhà, tàn phá xóm làng tan hoang, xơ xác.
Ngôi nhà nhỏ của hai bà cháu cũng chung số phận với dân làng. Nhưng chính
trong hoạn nạn lại ánh lên tình người, tình xóm giềng keo sơn, gắn bó: Hàng
xóm bốn bên trở về lầm lụi- Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh.
Cuộc sống của hai bà cháu vốn đã thiếu thốn, giờ càng thêm khó khăn, tạm bợ
khi chỉ có túp lều tranh che nắng che mưa.
- Thật đẹp biết bao hình ảnh người bà, người mẹ VN trong chiến tranh! Mất mát,
đau thương là vậy nhưng bà vẫn vững lòng tin, vẫn là chỗ dựa tinh thần của con
cháu: Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh. Những tính từ vững lòng, đinh ninh
đã diễn tả chính xác bản lĩnh và tấm lòng của bà.

36
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
- Lời dặn của bà ngày nào được nhà thơ trang trọng đặt trong dấu ngoặc kép tựa
như lời nói trực tiếp:“Bố…bình yên”. Bà đã nhận về mình mọi hi sinh vất vả để
cho các con nơi chiến trường được yên tâm công tác. Bà luôn là hậu phương
vững chắc cho các con nơi tiền tuyến. Dù đã bao năm tháng trôi qua, cháu vẫn
ghi nhớ đinh ninh trong lòng lời dạy ấy. Đến đây, hình ảnh người bà tỏa sáng
thêm một vẻ đẹp là đức hi sinh thầm lặng mà cao cả của người phụ nữ VN.
* Luận cứ 4 (Khổ 5): Suy ngẫm về ngọn lửa trong trái tim bà- cội nguồn sức
mạnh của bà:
Qua tất cả những hoài niệm chan chứa yêu thương, người cháu đã có những suy
ngẫm về cội nguồn sức mạnh giúp bà vượt lên mọi mất mát, đau thương.
"Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng..."
- Trạng ngữ thời gian ở đầu dòng thơ gợi ra một vòng tuần hoàn bất biến. Ngày
này qua ngày khác, sớm sớm lại chiều chiều, bà vẫn nhóm hồng lửa bếp bất kể
đói nghèo hay chiến tranh gian khổ. Cách dùng từ của thi nhân thật tinh tế biết
bao, nếu ở những khổ thơ trên, ông dùng chữ nhóm để gợi hành động nhóm bếp
bằng củi rơm, nhiên liệu bên ngoài của bà đã rất chính xác thì đến đây lại là
động từ nhen. Chỉ một từ ấy thôi cũng đủ gợi sự nâng niu, nhọc nhằn của bà
trong công việc tưởng rất đỗi bình thường, giản đơn ấy. Nhen được ngọn lửa
trong suốt những ngày đói mòn đói mỏi, bà còn nhen được ngọn lửa ngay cả
trong mất mát, đau thương của của chiến tranh tàn khốc.
- Từ đây "bếp lửa” đã biến thành "ngọn lửa" trong ý nghĩa tượng trưng, khái
quát. "Bếp lửa bà nhen" mỗi sớm mỗi chiều đã biến thành ngọn lửa "lòng bà
luôn ủ sẵn", ngọn lửa của "niềm tin dai dẳng". Hình ảnh ngọn lửa trở thành biểu
tượng ẩn dụ cho tình yêu thương vô bờ bà dành cho con cháu
"lòng bà luôn ủ sẵn"; ẩn dụ cho niềm tin "dai dẳng" bất diệt, đó là sự lạc quan,
tin tưởng vào tương lai hòa bình, no ấm được bà nhen lên, ấp ủ và luôn chứa sẵn
trong lòng. Nghệ thuật sử dụng điệp ngữ: "rồi sớm rồi chiều", "bà nhen... bà ủ
sẵn", "một ngọn lửa... một ngọn lửa..." có giá trị thẩm mĩ đặc sắc thể hiện niềm
tự hào, lòng biết ơn đối với đức hi sinh, tần tảo của người bà kính yêu. Thì ra cội
nguồn sức mạnh giúp bà nhóm hồng lửa bếp trong mọi đau thương chính là tình
yêu thương và niềm tin bất biệt. Nó là nguồn nhiên liệu vô tận làm bừng sáng
ngọn lửa vĩnh cửu ấy. Như vậy, bà không chỉ là người thắp lửa mà bà còn là
người giữ lửa và truyền lửa- ngọn lửa của niềm tin, của tình người mãi tỏa sáng,
bất tử, trường tồn qua bao tháng năm, qua bao thế hệ.
c. Luận điểm 3: Những suy ngẫm của cháu về bà và bếp lửa quê hương:
Từ những kỉ niệm ấu thơ, người cháu nhỏ đã có những suy ngẫm thật sâu sắc về
cuộc đời bà và bếp lửa quê hương.
"Lận đận ...bếp lửa!"
- Nghệ thuật đảo ngữ đưa từ láy lận đận lên đầu câu thơ kết hợp với việc nhắc
lại hình ảnh ẩn dụ biết mấy nắng mưa đã làm nổi bật nỗi vất vả, cơ cực của bà,
cả cuộc đời bà là những nắng mưa gian nan, thử thách; đồng thời là sự thấu hiểu,
yêu thương của cháu dành cho bà.

37
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
- Chiến tranh đã đi qua, những gian khổ đã vơi bớt, cuộc sống đã đổi thay nhưng
bà vẫn giữ thói quen dậy sớm, bếp lửa của bà vẫn "ấp iu nồng đượm" như ngày
nào.
- Điệp từ nhóm đc nhắc đi nhắc lại 4 lần mang bốn ý nghĩa khác nhau, tỏa sáng
dần nét "kỳ lạ, thiêng liêng” và nhất là tình nghĩa của bà. Nếu trc đây, đó là
ngọn lửa nồng đượm nhóm lên niềm tin trong những ngày gian khó thì bây giờ
ngọn lửa ấy còn nhóm lên trong lòng tác giả bao vẻ đẹp diệu kì.
+ "Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm" ấy là bếp lửa có thật, có ánh sáng và hơi ấm,
để sưởi ấm hai bà cháu qua đói nghèo.
+ "Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi" ngọn lửa bà nhóm lên đã mang
tới cho người cháu những bữa cơm dù chỉ là khoai, là sắn nhưng vẫn ngọt bùi
tình nghĩa, nuôi cháu lớn khôn qua nghèo đói, chiến tranh.
+ "Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui" là những nồi xôi gạo mới đầu mùa được
nhóm lên từ lửa bếp của bà để chia sẻ, chung vui cùng xóm giềng, hay cũng
chính là bà mở rộng tấm lòng đoàn kết, gắn bó với làng xóm quê hương, dạy
cháu bài học về nhường cơm sẻ áo, về nghĩa xóm tình làng tối lửa tắt đèn có
nhau.
+ Và cuối cùng, người bà vĩ đại ấy đã "nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ",
có lẽ đây là điều kì diệu nhất của ngọn lửa tình bà. Nghệ thuật ẩn dụ được sử
dụng thật tài tình, những tâm tình tuổi nhỏ của cháu đã thực sự được khơi
nguồn, được nhóm nên từ bếp lửa của bà. Bên bếp hồng, bà đã kể cháu nghe, bà
đã dạy cháu làm, bà chăm cháu học… Chính bà đã khơi dậy và bồi đắp cho đứa
cháu thơ dại về tâm hồn và cách sống để cháu trưởng thành đúng nghĩa một con
người. Để dù trong nghèo khó cơ hàn, cháu vẫn mơ về một ngày mai tươi sáng.
Có lẽ vì vậy mà có người nói bếp lửa sưởi ấm một đời- sưởi ấm tuổi thơ để thắp
lên ước mơ khát vọng cho người cháu bay cao bay xa.
- Âm điệu câu thơ dạt dào, lan tỏa như lửa ấm hay đó chính là cảm xúc đang
dâng trào trong trái tim để rồi nhà thơ phải thốt lên:"Ôi kì lạ và thiêng liêng -
bếp lửa!". Câu thơ chỉ có tám chữ mà có sức khái quát cả suy nghĩ lẫn tình cảm
của tác giả dành cho hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà. Bếp lửa
củi rơm thân thuộc, bình dị là thế nhưng với cháu, nó trở nên kì lạ và thiêng
liêng bởi nó gắn với bà- người giữ lửa, nhóm lửa, truyền lửa, người xây đắp nên
tuổi thơ cho cháu. Bà và bếp lửa đã trở thành một mảnh tâm hồn, một phần
không thể thiếu trong đời sống tinh thần của tác giả dù cho lúc này, hai bà cháu
đang chia xa. Bếp lửa ấy đã sưởi ấm suốt một đời người cháu, chắp cánh cho
cháu bay cao, bay xa trong cuộc đời dài rộng.
d. Luận điểm 4 (khổ 7): Tình cảm của cháu với bà trong hiện tại:
Qua thời gian, cậu bé năm xưa sớm hôm quấn quýt bên bà giờ đã trưởng thành,
đã rời vòng tay bà để vươn xa trong cuộc đời dài rộng, nhưng tình cảm cháu
dành cho bà vẫn luôn đong đầy, thường trực trong tim cháu.
"Giờ cháu đã ...bếp lửa lên chưa?..."
- Dòng thơ đầu ngắt thành hai vế với đầy dụng ý nghệ thuật, vế thơ đầu khẳng
định khoảng cách không gian của cháu với bà trong thực tại “Giờ cháu đã đi

38
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
xa”, vế thứ hai gợi mở về những điều cháu được mắt thấy tai nghe trong hành
trình dài rộng của đời mình.
- Điệp từ trăm mở ra trước mắt cháu cả một chân trời rộng lớn. Cuộc sống đi
nhiều biết rộng, cháu đã thấy "khói trăm tàu" , "lửa trăm nhà", "niềm vui trăm
ngả". Nhưng có lẽ chẳng ngọn khói nào khiến cháu “nghĩ lại đến giờ sống mũi
còn cay” như khói bếp của bà năm đói; chẳng có ngọn lửa nào nồng ấm, kì diệu
và thiêng liêng bằng lửa bếp của bà và đặc biệt cũng sẽ chẳng niềm vui nào đắp
đổi được niềm vui khi cháu ở bên bà. Bởi vậy, càng đi, càng xa cháu lại càng
nhớ bà tha thiết. Tình cảm ấy đã trở thành nỗi nhớ thường trực trong tâm hồn tác
giả.
- Câu hỏi tu từ khép lại bài thơ thật khéo, thật hay, có sức ám ảnh day dứt tâm trí
người đọc. Mỗi sớm mai thức giấc, câu hỏi đầu tiên hiện về trong tâm trí cháu là
nơi quê nhà: “Sớm… chưa?”. Nhà thơ hỏi nhưng cũng là để nhắc nhở chính
mình phải luôn nhớ tới ngọn lửa quê hương, nhớ tới người bà đã trở thành chỗ
dựa tinh thần của đứa cháu ở phương xa.
3. Bình giá tổng hợp:
a. Nghệ thuật: Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài và BL chính là một
bài thơ như vậy, nội dung sâu sắc, thấm thía đã được thể hiện trong một hình
thức nghệ thuật đặc sắc:
- Đó sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa phương thức biểu cảm với tự sự, miêu tả.
- Tác giả xây dựng thành công hai hình tượng nghệ thuật là hình tượng bếp lửa
và hình ảnh người bà kính yêu. Hai hình tượng này sóng đôi cùng nhau, tỏa sáng
cho nhau trong suốt cả bài thơ.
- Thể thơ tự do, giọng thơ thủ thỉ, nhẹ nhàng như những lời tâm tình của người
cháu xa quê với người bà kính yêu nơi quê nhà.
- Sử dụng kết hợp nhiều biên pháp nghệ thuật như: liệt kê, ẩn dụ, hoán dụ…
b. Nội dung:
- Đặt trong hoàn cảnh nhà thơ đang học tập nơi xứ người, nỗi nhớ về bà và bếp
lửa tuổi thơ còn là biểu hiện của tình yêu quê hương đất nước, là đạo lí uống
nước nhớ nguồn có thủy có chung của con người VN. Bài thơ thể hiện một triết
lý thầm kín: “những gì là thân thiết nhất của tuổi thơmỗi người, đều có sức tỏa
sáng, nâng đỡ con người trên hành trình dài rộng củacuộc đời”.
- Liên hệ: Cùng viết về người bà kính yêu, nhưng nếu với Bằng Việt là nỗi nhớ
tha thiết, khắc khoải về bà khi phải học tập nơi xứ người, thì với nhà thơ Xuân
Quỳnh lại là nỗi nhớ về bà và ổ trứng hồng tuổi thơ khi hành quân xa.
************************************************************
BÀI 8: ÁNH TRĂNG- NGUYỄN DUY
Câu 1: Giới thiệu nét chính về tác giả Nguyên Duy.
- Nguyễn Duy thuộc lớp nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ.
- Phong cách: thơ ND gần với văn hóa dân gian rất giàu triết lí.
Câu 2: Giới thiệu hoàn cảnh sáng tác của bài thơ:
Bài thơ “Ánh trăng” ra đời vào năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh- ba năm
sau ngày miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất. Bài thơ này như một lời

39
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
tâm sự, một lời nhắn nhủ chân tình với chính mình và với mọi người về lẽ sống
nghĩa tình thủy chung.
- In trong tập: Ánh trăng.
Câu 3: Bố cục của bài thơ
Bài thơ có bố cục 3 phần:
- Phần 1(khổ 1-3): Mối quan hệ giữa con người và vầng trăng.
- Phần 2 (khổ 4): Tình huống bất ngờ gặp lại vầng trăng.
- Phần 3 (khổ 5, 6): Những cảm xúc, suy ngẫm của con người khi gặp lại vầng
trăng.
Câu 5: Phân tích bài thơ Ánh trăng.
a. Luận điểm 1: Mối quan hệ giữa con người và vầng trăng (khổ 1,2,3)
* Luận cứ 1: Trước hết là mqh trong quá khứ:
Với sự kết hợp khéo léo giữa trữ tình và tự sự, bài thơ mang dáng dấp một câu
chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian. Câu chuyện bắt đầu từ mqh của con
người và vầng trăng trong quá khứ, khi con người còn trong tuổi ấu thơ.(khổ 1)
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
- Điệp từ hồi...hồi mở đầu cho dòng hoài niệm của con người để rồi cả một miền
kí ức đẹp đẽ, ân tình đã ùa về sau hình ảnh khơi nguồn ấy. Ở đó có kỉ niệm tuổi
thơ khi con người con sống gắn bó chan hòa với đồng, sông, bể quê hương.
“Câu thơ hay là câu thơ có khả năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên
trong kí ức của con người”. (Chu Văn Sơn). Những câu thơ của Nguyễn Duy đã
làm được điều ấy, nó đã gọi về cả một miền kí ức của biết bao con người. Ai ai
sinh ra và lớn lên có nhiều thứ để gắn bó. Đó có thể là đồng lúa thẳng cánh cò
bay, là dòng sông mênh mang sóng nước tuổi thơ ta tắm mát, hay là bãi bể quê
hương nơi cất giữ bao trò chơi con trẻ. Cũng chính nơi đó, con người bắt gặp
hình ảnh vầng trăng. Trăng như đang được trải rộng ra trong cái không gian êm
đềm và trong sáng của tuổi thơ. Với cách gieo vần lưng “đồng”, “sông” và điệp
từ “với” đã diễn tả những tháng ngày thơ bé được sống chan hòa với thiên
nhiên, với ánh trăng của tác giả.
- Khi lớn lên, cậu bé năm xưa trở thành anh lính chiến, sống cuộc sống ở rừng
đầy vất vả, gian nguy. Một câu thơ hay là một câu thơ có sức gợi. (Lưu Trọng
Lư). Thật vậy, chỉ cần một vài con chữ thôi mà gọi về cả một miền liên tưởng.
Cuộc sống ở rừng gian khổ mà nghĩa tình từng là nguồn thi hứng của biết bao
thi sĩ được ND gợi nhắc khéo léo. Những năm tháng ấy, vầng trăng vẫn không
bỏ rơi con người, trăng đã vượt không gian, thời gian để theo con người vào
chiến trường. Trăng luôn sát cách bên người lính, cùng họ trải sương gió, vượt
qua những đau thương và khốc liệt của bom đạn kẻ thù. Người lính hành quân
dưới ánh trăng, ngủ dưới ánh trăng, và cũng dưới ánh trăng sáng đó, tâm sự của
những người lính lại mở ra để vơi bớt nỗi cô đơn, nỗi nhớ nhà. Trăng đã thật sự
trở thành “tri kỉ” của người lính trong nhưng năm tháng máu lửa. Nghệ thuật
nhân hóa đã biến vầng trăng vô tri vô giác của thiên nhiên thành tri kỉ, tri âm của

40
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
con người. Câu thơ gợi nhắc ta nhớ về tứ thơ của Chính Hữu: Đầu súng trăng
treo hay những câu thơ nói về nỗi nhớ rừng của anh lính lái xe trong thơ Phạm
Tiến Duật sau này:
Nằm ngửa nhớ trăng
Nằm nghiêng nhớ bến.
Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo.
- Khổ thơ tiếp theo như một lời nhắc nhở về những năm tháng đã qua của cuộc
đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước hiền hậu, bình dị. Thơ trước hết
là cuộc đời, sau mới là nghệ thuật, đọc vần thơ Nguyễn Duy ta như cảm nhận
được sự chân thành, mộc mạc như chính cuộc sống thường ngày. Vầng trăng-
người bạn tri kỉ ngày nào ngỡ như sẽ không bao giờ quên được: ( khổ 2)
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
- Những tính từ trần trụi, hồn nhiên kết hợp với lối so sánh hồn nhiên như cây
cỏ gợi người đọc liên tưởng tới vầng trăng hoang sơ, mộc mạc của thiên nhiên
muôn đời. Nhưng nó còn gợi đến suy nghĩ, lối sống của con người. Trần trụi là
sự thành thực không tô vẽ, là sự chan hòa với thiên nhiên không chút ngần ngại;
hồn nhiên là sự vô tư, không toan tính thiệt hơn, thuận lẽ tự nhiên. Đó chính là
tâm hồn người lính trong những năm tháng ở rừng, khi ấy con người sống chan
hòa, gắn bó với thiên nhiên. Những năm tháng ấy thật đẹp biết bao nhiêu.
- Con người như muốn khắc cốt ghi tâm: không bao giờ quên – cái vầng trăng
tình nghĩa. Nhưng nhà thơ lại đặt ở đầu câu thơ tình thái từ ngỡ như ngầm dự
báo về một sự đổi thay dâu bể nào đó sẽ xảy ra.
- Cách gieo vần lưng một lần nữa lại xuất hiện: “trần trụi”, “hồn nhiên”, “thiên
nhiên” làm cho âm điệu câu thơ thêm liền mạch, cảm xúc tràn đầy như chẳng
thể nào ngăn được.
-> Những dòng thơ hoài niệm với nhịp thơ trầm lắng, chậm rãi, giọng điệu tâm
tình, con người đã gợi nhắc lại những năm tháng đẹp đẽ nhất trong cuộc đời. Ở
đó,vầng trăng không chỉ là biểu tượng của thiên nhiên, là hình ảnh của quê
hương mà nó còn là người bạn tri âm, tri kỷ, là quá khứ nghĩa tình, chan chứa
yêu thương của con người.
* Luận cứ 2: MQH của người với trăng trong thực tại.
Nhưng quá khứ đã qua đi, chiến tranh cũng kết thúc, con người phải làm quen
với một hoàn cảnh sống hoàn toàn mới mẻ:
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
- Ba năm sau kháng chiến, hòa bình được lập lại trên đất nước, người lính ngày
nào giờ về sống giữa thành phố hoa lệ. Cái thiên nhiên vĩ đại nguyên sơ ngày
xưa: “đồng”; “bể”; “sông”; “rừng” biến mất, thay vào đó là một cuộc sống
với những tiện nghi sang trọng “ánh điện cửa

41
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
gương” và những phòng “buyn-đinh”- những tòa nhà cao chót vót. Con người
sống đủ đầy với những nguồn ánh sáng nhân tạo do ánh điện cửa gương mang
lại, không còn cần đến ánh sáng giản dị và chan hòa của vầng trăng.
- Vầng trăng vẫn như xưa, vẫn lặng lẽ tìm đến bên con người bất kể không gian,
thời gian xa cách, trăng lặng lẽ “đi qua ngõ” như có ý tìm đến bên con người.
Phép nhân hoá trong câu thơ thật sự có cái gì đó làm rung động lòng người bởi
vì vầng trăng ấy chính là hiện thân của thiên nhiên, của quá khứ ân tình, tròn
vẹn, luôn thủy chung như nhất với con người.
- Nghệ thuật so sánh trong dòng thơ cuối khổ mới thật xót xa.. Trăng tri kỉ,
trăng tình nghĩa một thời nay thành “người dưng qua đường”, người hoàn toàn
xa lạ không quen không biết, không có bất cứ liên hệ gì với con người. Cuộc đời
đổi thay đã khiến lòng người thay đổi. Điều mà người lính năm nào ngỡ không
bao giờ quên thì giờ lại lãng quên. Người lính năm xưa trở thành kẻ quay lưng,
ngoảnh mặt với thiên nhiên, quá khứ ân tình.
-> Trên đời có những điều chỉ nói được bằng thơ, quả thật không sai. Sự đổi
thay của lòng người là điều khó đoán biết và nắm bắt nhất. Vậy mà Nguyễn Duy
đã trải nó ra thật rõ ràng và cũng thật tinh tế qua những trang thơ. Con người-
chủ thể trữ tình dù không trực tiếp xuất hiện nhưng như đang đứng giữa hôm
nay mà nhìn về quá khứ đã qua của chính mình. Đến đây, câu chuyện không còn
là chuyện của một người mà là câu chuyện của cả thế hệ con người vừa bước
qua chiến tranh. Sống giữa thời bình, đã có lúc con người ngủ quên trong chiến
thắng mà vô tình trở thành kẻ bạc bẽo, vong ân.
b. Luận điểm 2: Tình huống bất ngờ gặp lại vầng trăng:
Nhưng cuộc sống luôn chứa đựng những bất ngờ ngay cả trong những trang thơ,
câu chuyện nhỏ chưa dừng lại ở đó, thi nhân đã tạo ra một tình huống bất ngờ
mà cũng rất hợp lí để đôi tri kỉ năm xưa gặp lại nhau- đó là tình huống thành phố
mất điện.
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn -đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
- Nghệ thuật đảo ngữ đưa từ láy “Thình lình” lên đầu khổ thơ làm nổi bật tâm
trạng bất ngờ, bị động của con người trước tình huống thành phố mất điện. Họ
đang sống thỏa mãn với ánh điện, cửa gương chan hòa ánh sáng, sự cố mất điện
khiến cho căn phòng buyn- đinh hiện đại trở nên tối tăm, ngột ngạt , tù túng.
- Tình huống bất ngờ đẩy dòng tự sự lên cao trào. Trong phút giây thình lình ấy,
con người đã “vội bật tung cửa sổ” như một phản xạ tự nhiên trong bóng tối con
người hướng ra ánh sáng. Cụm động từ mạnh đã diễn tả cái vội vã, cuống quýt
của con người khi tìm đến cứu cánh là thiên nhiên.
- Và hiện ra sau khung cửa hằng ngày khép kín kia là là người bạn trăng: “đột
ngột vầng trăng tròn”. Từ láy đột ngột đặt ở đầu câu thơ đã thể hiện được sự cái
bàng hoàng, sửng sốt của con người trong phút hội ngộ không ngờ ấy. Không
chỉ là trăng tri kỉ ngày nào, mà còn là vầng trăng tròn vẹn nguyên, không hề hao
khuyết, vầng trăng ấy sẵn sàng ban tặng cho con người thứ ánh sáng hiền hòa,

42
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
lung linh nhất. Vầng trăng hay chính là thiên nhiên, là quá khứ tròn đầy, vẹn
nguyên tình nghĩa bất chấp sự đổi thay của lòng người.
-> Chính trong phút giây hội ngộ bất ngờ, trăng đã soi sáng cho căn phòng tối
tăm, ngột ngạt và đánh thức sự lãng quên của con người.
c. Cảm xúc, suy nghĩ của con người khi gặp lại vầng trăng.
* Khổ 5:
Nhưng vầng trăng kia xuất hiện đâu phải chỉ đem đến nguồn ánh sáng cho người
lính mà nó còn thổi bùng lên ở con người nỗi nhớ về một thời máu lửa chưa xa:
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”
- Hai từ “mặt” trong cùng một dòng thơ: mặt trăng và mặt người đang cùng
nhau trò chuyện. Thơ là bức họa để thưởng thức thay vì để ngắm là đây! Đọc
câu thơ mà ta như hình dung trước mặt mình là một bức tranh, ở đó, bên khung
cửa sổ của một ngôi nhà cao tầng đang tối om vì mất điện, một người lính đang
tựa cửa ngửa mặt ngưỡng vọng lên trăng. Và một cuộc đàm tâm đối diện đã diễn
ra. Người lính cảm thấy có cái gì “rưng rưng” tự trong tận đáy lòng và dường
như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc động.
- Hai dòng thơ với biện pháp so sánh trùng điệp như là đồng là bể -như là sông
là rừng, người lính cảm thấy như đang xem một thước phim quay chậm về quá
khứ của chính mình, nơi có đồng, sông, bể quê hương với những đêm trăng sáng
và có cả những tháng năm ở rừng gian lao, vất vả nhưng chan hòa ánh sáng của
vầng trăng tri kỉ, nghĩa tình.
- Cảm xúc dâng trào mạnh mẽ với nhịp thơ gấp gáp dồn dập. Phải chăng đó
chính là xúc cảm của con người với nỗi niềm xót xa ân hận khi vừa chợt nhớ lại
quá khứ và nhận ra sự sai khác của chính mình trong thực tại? Hóa ra kí ức chỉ
tạm lắng xuống do con người quá say mê cuốn theo những thứ vật chất vô danh
và khi có tác động, nó lại sống dậy mạnh mẽ như chưa từng quên đi.
=> Đoạn thơ hay ở chất thơ mộc mạc, chân thành, ngôn ngữ bình dị mà thấm
thía, những hình ảnh gần gũi, không trau chuốt cầu kì nhưng đi vào lòng người.
* Khổ 6:
Vầng trăng trong khổ thơ cuối đã thực sự thức tỉnh con người:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
- Khổ thơ mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư tưởng và triết lí.
Những tính tròn từ vành im phăng phắc đã tuyệt đối hóa tấm lòng bao dung, độ
lượng của vầng trăng. Nó không một lời trách móc con người mặc dù con người
từng coi nó như người dưng qua đường, mà vẫn tặng con người thứ ánh sáng
nồng diệu nhất khi cần đến nó. Nhưng chính sự bao dung đó đủ khiến cho con
người giật mình.
- Nói về công việc chọn chữ trong thơ, có người đúc kết:

43
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
" Phải phí tổn ngàn cân quặng chữ
Để thu về 1 chữ mà thôi
Những chữ ấy làm cho rung động
Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài "
Có lẽ với Nguyễn Duy cũng không ngoại lệ. Xuyên suốt bài thơ ông dùng hình
ảnh vầng trăng, khép lại bài thơ lại thay bằng từ ánh trăng- thứ ánh sáng tỏa
chiếu từ vầng trăng xuống mặt đất. Phải chăng con người sau phút đàm tâm đã
không thể giữ được trạng thái ngửa mặt lên nhìn mặt nữa, mà đang lặng lẽ cúi
đầu, soi mình dưới ánh trăng như lời tạ tội.
- Ánh trăng như một tấm gương để soi vào đó, con người tự giật mình. Đó là sự
giật mình thức tỉnh lương tri, nhận ra sự đổi thay, sai khác của mình. Đến đây,
ánh trăng trở thành biểu tượng thức tỉnh con người trở về với lối sống ân nghĩa
thủy chung, “uống nước nhớ nguồn”.
-> Như vậy, ánh trăng không chỉ thắp sáng cho căn phòng tăm tối, ngột ngạt nó
còn soi rọi vào tận góc khuất trong tâm hồn con người, để con người nhìn nhận
lại bản thân, nhìn nhận lại cách sống của mình. “Ánh trăng” đã đi vào lòng
người đọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở đối với mỗi người: Nếu ai đã lỡ quên
đi, đã lỡ đánh mất những giá trị tinh thần qúy giá thì hãy thức tỉnh và tìm lại
những giá trị đó.
3. Bình giá tổng hợp:
- Bài thơ Ánh trăng không chỉ sâu sắc, thấm thía về mặt nội dung mà còn có
những nét đột phá, mới mẻ trong hình thức nghệ thuật. Thể thơ năm chữ được
vận dụng sáng tạo, các chữ đầu dòng thơ không viết hoa thể hiện những cảm xúc
liền mạch của nhà thơ. Nhịp thơ biến ảo rất nhanh, giọng điệu tâm tình đã gấy
ấn tượng mạnh trong lòng người đọc. Có sự kết hợp hài hòa giữa tự sự, miêu tả
và biểu cảm. Hình ảnh, ngôn ngữ thơ gần gũi, giản dị nhưng có tính triết lí.
- Nội dung: Ánh trăng của Nguyễn Duy đã cho chúng ta một bài học thấm thía
về lối sống uống nước nhớ nguồn.
III. Kết bài:
********************************************************
BÀI 9. MÙA XUÂN NHO NHỎ
- Thanh Hải -
Câu 1: Tác giả.
- Nhà thơ Thanh Hải là người con của xứ Huế- mảnh đất đã sinh ra bao anh tài
tuấn kiệt, bao văn nhân, thi sĩ cho nền thơ ca nước nhà. Phần lớn cuộc đời cầm
súng và cầm bút của Thanh Hải gắn với mảnh đất quê hương và được coi là một
trong những nhà thơ có công xây dựng nền văn nghệ cách mạng ở MN từ những
ngày đầu.
- Phong cách: thơ Thanh Hải hồn nhiên, chân thành, mộc mạc, trong sáng nhưng
thấm đẫm tình yêu quê hương, đất nước.
Câu 2: Hoàn cảnh sáng tác.
- Bài thơ đc viết tháng 11/1980, khi TH đang ốm nặng trên giường bệnh, không
lâu sau ông qua đời.

44
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
- Đây là thời kì đất nước đang tiến hành xây dựng CNXH nhưng hậu quả chiến
tranh còn nặng nề, chiến tranh biên giới Tây Nam. Bài thơ thể hiệm tình yêu
cuộc sống, niềm tin yêu vào tương lai đất nước và khát vọng cống hiến cho cuộc
đời của nhà thơ.
Câu 3: Bố cục.
Bố cục bài thơ có thể chia làm 4 phần:
- Phần 1: Khổ đầu: Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân của thiên nhiên, đất
trời.
- Phần 2: Hai khổ tiếp theo: Cảm xúc về mùa xuân đất nước.
- Phần 3 : Hai khổ thơ tiếp theo: Suy nghĩ và ước nguyện chân thành của nhà thơ
trước mùa xuân đất nước.
- Phần 4 : Khổ thơ cuối: Tình cảm yêu mến thiết tha và lời ngợi ca quê hương,
đất nước.
Câu 4: Phân tích bài thơ
a. Luận điểm 1: Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân của thiên nhiên, đất
trời.
Mở đầu bài thơ là bức tranh mùa xuân của thiên nhiên mang thần thái
riêng của xứ Huế:
(khổ đầu).
Đến với những dòng thơ đầu, người đọc chúng ta như được chiêm ngưỡng một
bức tranh xuân tuyệt đẹp. Chỉ bằng vài nét chấm phá đơn sơ mà đặc sắc, với
những hình ảnh nho nhỏ, thân quen, bình dị: dòng sông xanh, bông hoa tím,
chim chiền chiện…thi nhân đã gợi ra trước mắt ta cả không gian xuân tràn đầy
sức sống.
+ Nổi bật giữa bức tranh xuân là “dòng sông xanh” bình yên trong trẻo, như
một dải lụa mền trời đất trót bỏ quên. Dường như thấp thoáng đâu đó trong câu
thơ là màu xanh của dòng Hương Giang mềm mại- người nhân tình ngàn năm
của xứ Huế cố đô.
+ Điểm trên dòng xanh ấy là “một bông hoa tím biếc”, số từ chỉ số ít “một”
không khiến bông hoa lẻ loi giữa dòng nc mà càng làm nổi bật sắc tím trên nền
xanh trong thăm thẳm. "Bông hoa tím biếc" ấy chỉ có thể là hoa lục bình, hoặc
hoa súng mà ta thường gặp trên ao hồ, sông nước làng quê. Sắc tím ấy còn gợi
liên tưởng đến những tà áo dài tím biếc của những cô gái Huế mộng mơ. Màu
xanh của nước hòa hợp với màu "tím biếc" của hoa đã tạo nên bức tranh xuân
chấm phá mà đằm thắm.
- Đặc biệt, hai hình ảnh thơ còn được gắn kết với nhau qua động từ “mọc” trong
phép đảo ngữ rất tài tình, khéo léo, dòng sông kia là môi trường sống lý tưởng
của bông hoa tím, bông hoa ấy rồi sẽ sinh sôi, nảy nở dệt tím cả dòng xanh.
Cách đảo ngữ còn gợi được sự sinh sôi, nảy nở của vạn vật giữa mùa xuân, cái
tài và cái tình của nhà thơ là ở đó.
- Mùa xuân ko chỉ đc dệt lên bằng hình ảnh, màu sắc mà bằng cả âm thanh rộn
rã, tươi vui của tiếng chim chiền chiện, khiến mùa xuân của cố đô trầm mặc,
chợt trở nên náo nức, rộn ràng.

45
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
+ Chim chiền chiện được coi là chim sơn ca, người bạn nhỏ của nhà nông. Loài
chim này có đặc điểm là mỗi khi cất tiếng hot, chúng thường bay vút lên cao,
nên tiếng chim rất lảnh lót, vang vọng, như làm rộn rã cả bầu trời xuân.
+ Đón nhận âm thanh mùa xuân ấy, thi nhân như thốt lên: ơi con chim chiền
chiện- hót chi mà vang trời. Thán từ ơi, cùng từ để hỏi chi khiến câu thơ mang
chất giọng rất ngọt ngào, đặc trưng của người Huế vừa như tiếng reo vui ngỡ
ngàng của thi nhân khi nghe được âm thanh của mùa xuân qua tiếng hót mê say
ngất trời của chú chim đồng nội.
- Dường như nhà thơ cảm nhận mùa xuân bằng tất cả các giác quan đang thức
nhọn của mình. Bằng thị giác, ông cảm nhận mùa xuân qua dòng sông xanh,
bông hoa tím; bằng thính giác, ông nhận thấy mùa xuân qua âm thanh của chú
chim nhỏ. Và Thanh Hải còn đón nhận những âm thanh trong trẻo ấy bằng cả
trái tim, cả tấm lòng của một con người thiết tha yêu đời, yêu thiên nhiên xứ sở:
Từng…
+ "Giọt long lanh" là sự liên tưởng đầy chất thơ, là giọt sương mai, giọt mưa
xuân hay giọt âm thanh tiếng chim chiền chiện? Bằng cảm nhận, thi nhân ngỡ
tiếng chim vang vọng từ chin tầng mây như đọng lại thành từng giọt hữu hình
long lanh như hạt ngọc, đang từ từ rơi xuống để nhà thơ đưa tay hứng với tất cả
sự đắm say. Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác từ cảm nhận của thính giác (nghe tiếng
chim hót) thành cảm nhận của thị giác (giọt long lanh) và xúc giác (đưa tay
hứng) khiến hình ảnh thơ trở nên lung linh, đa nghĩa góp phần diễn tả trọn vẹn
hơn niềm say sưa, ngây ngất của tác giả trước vẻ đẹp của thiên nhiên.
+ Đến đây, chủ thể trữ tình “ tôi” trực tiếp xuất hiện trong trạng thái “đưa tay
hứng” từng giọt âm thanh mùa xuân cho thấy sự trân trọng, nâng niu của thi
nhân trước vẻ đẹp mùa xuân.
=> Chỉ với sáu dòng thơ năm chữ, TH đã vẽ lên trước mắt ta một bức tranh xuân
mang đậm dấu ấn quê hương tác giả: một mùa xuân căng tràn sức sống, ấm áp,
reo vui, rộn rã, tưng bừng…Phải có một tâm hồn thi sĩ tinh tế, nhạy cảm cùng
một tình yêu tha thiết với quê hương xứ sở, nhà thơ mới có được những vần thơ
đẹp và say long người đến vậy.
b. Luận điểm 2: Mùa xuân của đất nước
* Luận cứ 1- Khổ 2: Từ mùa xuân của thiên nhiên, trời đất nhà thơ đã thể
hiện những cảm xúc, suy tư sâu lắng về mùa xuân của đất nước. Tác giả
hướng tình cảm của mình tới những con người đang làm đẹp mùa xuân
qh( thơ).
- Điệp ngữ mùa xuân được nhắc đi nhắc lại vừa tạo nhịp điệu nhịp nhàng, dồn
dập vừa để nhấn mạnh.
- Những câu thơ tạo ra hình ảnh sóng đôi đẹp như hai vế của câu đối mừng xuân
nói về người cầm súng- người chiến sỹ bảo vệ tổ quốc và người ra đồng- đại
diện cho những người lao động dựng xây đất nước. “Lộc” theo bước chân người
cầm súng ra trận, theo bàn tay người lao động ra đồng và gieo mùa xuân đến
khắp mọi miền đất nước
- Thi nhân cũng chọn được một hình ảnh thơ đặc trưng của mùa xuân, hình ảnh
lộc. Lộc giắt đầy trên lưng… Lộc trải dài nương mạ. Mùa xuân, cây cối đâm

46
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
chồi nẩy lộc. Lộc là chồi non, lá nõn, tượng trưng cho may mắn, thành công và
hạnh phúc.
+ Mùa xuân của người cầm súng bảo vệ Tổ quốc thì lộc là vòng lá ngụy trang
xanh tươi giắt đầy trên lưng. Mùa xuân của người nông dân ra đồng, lộc là
nương mạ mơn mởn trải dài, hứa hẹn một mùa màng bội thu. Mùa xuân của đất
trời hiển hiện trong hình ảnh lộc non theo chân người cầm súng ra trận địa và
cùng người ra đồng gieo sức xuân trên khắp cánh đồng quê còn có ý nghĩa
khẳng định con người Việt Nam đang đem mùa xuân đến khắp mọi miền đất
nước. Phải gắn bó với quê hương, với con người bằng tình cảm máu thịt, nhà thơ
Thanh Hải mới có được những liên tưởng vừa rất chân thực, vừa rất lãng mạn
như vậy.
+ Lộc ở đây còn được hiểu theo nghĩa rộng, chỉ những thành quả, chiến công mà
hai lực lượng chính của cách mạng VN đã giành đc. Với cách viết tài tình đó, tác
giả đã ngợi ca, thể hiện niềm biết ơn đối với những con ngươi đang ngày đêm
âm thầm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Họ chính là những con người đã góp
phần tạo ra mùa xuân, mang về mùa xuân cho quê hương, đất nước.
- Có lẽ bởi vậy mà không khí khẩn trương, rộn ràng, náo nức lan toả khắp tứ
thơ, những câu thơ đọc lên mà như điệp khúc của giai điệu mùa xuân du dương:
Tất cả…xôn xao.
Điệp từ “tất cả”, từ láy “hối hả”, “xôn xao ” tạo nên nhịp điệu mùa xuân hối hả,
hào hùng. NT so sánh đã bộc lộ rõ niềm hân hoan, phấn khởi trong long thi nhân
khi nghĩ về mùa xuân đất nước: Tất cả… Đâu đâu, từ trận địa tới nhưng cánh
đồng xanh cũng bao trùm một không khí hối hả, xôn xao. Những tính từ, đồng
thời cũng là những từ láy tượng hình, tượng thanh giàu giá trị biểu cảm: hối hả
gợi không khí khẩn trương, như chạy đua với thời gian, xôn xao lại gợi được sự
hân hoan, phấn khích trong long người. Cả dân tộc bước vào mùa xuân trong
niềm vui say náo nức như vậy.
* Luận cứ 2- Khổ 3: Cảnh vật mùa xuân tươi đẹp, lòng người mùa xuân
xôn xao phơi phới… Điều đó gợi cho nhà thơ nghĩ tới đất nước với một
niềm vui, niềm tự hào to lớn: ( trích khổ 3)
- Điệp từ đất nước vang lên rất đỗi tự hào. Những năm tháng đó, đất nước chính
là một nguồn cảm hứng dồi dào trong nhiều trang thơ cách mạng.
- Trong nguồn mạch cảm xúc ấy, thi nhân đã khá quát lịch sử rộng dài của bốn
ngàn năm mùa xuân đất nước qua hai tính từ vất vả và gian lao. Đến đây, đất
nước đã được nhân hóa như một người mẹ Vn tảo tần, từng oằn lưng gánh chịu
bao vất vả gian lao. Những câu thơ thấm đẫm cảm xúc tự hào cùng sự cảm
thương, thấu hiểu của nhà thơ vì đất nước phải trải qua nhiều đau thương mất
mát, nhiều thử thách gian nan.
- Dù bốn ngàn năm vất vả và gian lao, nhưng đất nước vẫn như một vì sao- cứ đi
lên phía trước. Hình ảnh so sánh Đất nước như vì sao có ý nghĩa vô cùng sâu xa.
Vì sao ấy trước hết gợi ta nghĩ tới Ngôi sao vàng năm cánh rực rỡ nổi bật trên
nền đỏ thắm của lá cờ Tổ quốc, là linh hồn dân tộc, là khát vọng độc lập, tự do
thiêng liêng ngàn đời. Vì sao còn là biểu tượng cho vẻ đẹp tỏa sáng, vĩnh hằng,
vĩnh cửu. Sánh đất nước mình với một vì sao, nhà thơ muốn khẳng định đất

47
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
nước giờ đây vẫn tiếp tục tỏa sáng, vượt lên mọi gian nan, thử thách trên con
đường đi tới tương lai: “cứ đi lên phía trước”. Đặt trong hoàn cảnh đất nước
ngày ấy, khi chúng ta đang phải đối mặt với biết bao khó khăn, thử thách, thì
mới thấy hết ý nghĩa lớn lao của niềm tin ấy, nó là biểu hiện sâu sắc của tình yêu
quê hương, đất nước.
=> Mùa xuân của đất trời xôn xao, phơi phới, mùa xuân của dân tộc cũng náo
nức, say sưa. Những câu thơ thấm đẫm tình yêu thiết tha cuộc sống, yêu quê
hương đất nước của nhà thơ.
c. Luận điểm 3: Những ước nguyện trước mùa xuân:
* Luận cứ 1- Khổ 4: Mùa xuân còn là mùa của những ước mơ, hoài bão
đẹp. Trước sức xuân căng tràn, Thanh Hải có những ước nguyện đẹp như
chính mùa xuân vậy.(thơ).
- Đến đây, chủ thể trữ tình có sự thay đổi, nếu ở trên là tôi chỉ một cá nhân, cá
thể, thì ở đây là ta chỉ chung mọi người, phải chăng, điều nhà thơ nguyện ước
cũng chính là tâm nguyện của mọi người, của cả thế hệ? Ta nhận thấy sự hài hòa
giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân và tập thể.
- Điệp cấu trúc ta làm…ta nhập… tạo cho đoạn thơ thứ nhịp điệu thiết tha, chân
thành. Nguyện ước như xuất phát tự thẳm sâu trái tim của con người, tha thiết
được biến thành hiện thực.
+ Nếu ở đầu bài thơ tác giả miêu tả những hình ảnh làm nên mùa xuân của quê
hương xứ sở là âm thanh náo nức vang trời của tiếng chim chiền chiện và sắc
màu tím biếc dịu dàng của cánh hoa nhỏ trên sông thì ở đây tứ thơ được lặp lại,
tạo ra sự đối ứng chặt chẽ: Làm con chim hót, làm một cành hoa, làm một nốt
trầm...
+ Không ồn ào, khoa trương, tác giả chỉ xin được làm con chim nhỏ dâng cho
đời tiếng hót say mê, làm một cành hoa điểm tô thêm sắc thắm cho mùa xuân
đất mẹ. Trong bản hòa ca rộn rã, tưng bừng muôn nốt nhạc tươi vui, nhà thơ chỉ
xin được làm Một nốt trầm xao xuyến. Những số từ chỉ số ít “một” được lặp lại
nhiều lần cùng hình ảnh “nốt trầm xao xuyến” đã thể hiện rõ tính chất khiêm
nhường, chân thành của ước nguyện nhà thơ. Đó là khát vọng được hòa nhập
vào cuộc sống của đất nước, được cống hiến phần tốt đẹp – dù nhỏ bé của mình
cho cuộc đời chung.
=> TH ko ước cho riêng mình, càng không ước thành những điều lớn lao vĩ đại,
mà mong được hóa thân trong những điều nhỏ bé, bình dị, đời thường nhưng có
ý nghĩa nhất. Phải chăng, thi nhân đang ước hóa thành một phần mùa xuân của
quê hương, xứ sở?
* Luận cứ 2- Khổ 5: trong niềm hân hoan phơi phới, trong khát vọng dâng
hiến cho đời, thi nhân ước mình thành một mùa xuân nho nhỏ(thơ)
- Sáng tạo đặc sắc nhất của Thanh Hải trong bài thơ này là ở hình ảnh “Mùa
xuân nho nhỏ” bởi mùa xuân vốn là một khái niệm chỉ thời gian vô hình, trừu
tượng thế mà ở đây “ mùa xuân” lại có khối, có hình, một hình hài nho nhỏ thật
xinh xắn nhờ sự kết hợp tự nhiên với tính từ nho nhỏ. Mùa xuân nho nhỏ đã trở
thành một ẩn dụ nói về khát vọng, một lẽ sống cao đẹp, muốn là một mùa xuân
nhỏ, sống với tất cả sức sống tươi trẻ nhất của mình, được cống hiến những gì là

48
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
nhỏ bé, khiêm nhường thôi nhưng lại là những gì đẹp đẽ, tinh túy nhất của mình
cho cuộc đời chung; muốn mang mùa xuân nhỏ của mình để góp phần tạo ra
mùa xuân lớn của cuộc đời. Tác giả đã khéo léo khẳng định: một cuộc đời hữu
ích chính là một mùa xuân nho nhỏ góp phần tạo nên mùa xuân vĩnh hằng của
thiên nhiên, đất nước. Mỗi người là một mùa xuân nhỏ, cả dân tộc sẽ mãi là mùa
xuân vĩnh hằng.
- Điệp từ “dù là” đặt ở đầu hai câu thơ liên tiếp có ý nghĩa khẳng định cho khát
vọng dâng hiến miệt mài, không mệt mỏi của tác giả. Khát khao được dâng cho
đời những gì tốt đẹp nhất của mình không chỉ ở tuổi hai mươi dồi dào sức sống,
mà ngay cả khi tóc bạc, khao khát ấy vẫn luôn cháy bỏng, giục giã lòng người.
Những câu thơ gợi ta nhớ tới tứ Thơ của Viễn Phương: Nửa mái đầu chớm bạc-
còn gì cho quê hương- thân xin làm chiếc lá- thân xin làm giọt sương…
- "Nho nhỏ" và "lặng lẽ" là cách nói khiêm tốn, chân thành. "Dâng cho đời" là lẽ
sống đẹp, cao cả. Bởi lẽ "Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình" (Tố Hữu), sống
hết mình thủy chung cho đất nước, đem cả cuộc đời mình phục vụ đất nước, cả
từ lúc "tuổi hai mươi" trai tráng cho đến khi về già "tóc bạc".
- Đoạn thơ được sử dụng kết hợp nhiều từ ngữ điệp: "Ta làm... ta làm... ta
nhập...", "dù là tuổi... dù là khi..." đã làm cho âm điệu thơ, giọng thơ tha thiết,
sâu lắng, ý thơ được khắc sâu và nhấn mạnh. Người đọc xúc động biết bao trước
một giọng điệu thơ trữ tình, ấm áp tình đời, tình người. như vậy.
-> Một con người sắp phải lìa xa cuộc sống, thế mà vẫn không thôi khát vọng
được dâng hiến cho cuộc đời. Thật đáng quý biết bao.
d. Luận điểm 4: Khúc hát ca ngợi quê hương, đất nước:
Trước sức xuân căng tràn, trước mùa xuân vẫy gọi, nhà thơ đã không ngần ngại
thốt lên những lời ca để ca ngợi quê hương, đất nước. Những câu thơ cuối cùng
mang đậm dấu ấn của những làn điệu dân ca trữ tình xứ Huế, giống như tiếng
lòng sâu lắng, thiết tha của nhà thơ:(thơ).
- Câu thơ "Mùa xuân - ta xin hát" diễn tả niềm khao khát bồi hồi của nhà thơ đối
với quê hương yêu dấu buổi xuân về. Mùa xuân thiên nhiên…đều tươi đẹp quá,
nên th nhân muốn cất lời ca để ca ngợi…
- Khúc hát ấy mang đậm âm huowgr dân ca Huế. Nam ai và Nam bình là hai
điệu dân ca Huế rất nổi tiếng mấy trăm năm nay. Phách tiền là một nhạc cụ dân
tộc để điểm nhịp cho lời ca, tiếng đàn tranh, đàn tam thập lục. Quê hương đất
nước trải dài ngàn dặm, chứa chan tình yêu thương. Đó là "ngàn dặm mình",
"Nghàn dặm tình" đối với non nước và xứ Huế quê mẹ thân thương! Câu thơ của
người con đất Huế quả là "dịu ngọt" vậy.
- Văng vẳng đâu đây câu ca ngân dài trên sóng nước Hương Giang trong những
đêm trăng sáng: Nước non ngàn dặm …, làm xao xuyến lòng người. Việc điệp
lại hình ảnh ấy vừa gợi ta nhớ tới tiếng ca ngọt ngào, da diết của khúc Nam ai,
Nam bình, vừa là tiếng thơ ngợi ca vẻ đẹp quê hương, đất nước. Trên mảnh đất
này, đâu đâu cùng đẹp như gấm như hoa, đâu đâu cũng thấm đượm nghĩa tình.
- Ngoài ra, khổ thơ còn có được còn có được cách gieo vần rất độc đáo: bình-
mình- tình, vừa là vần chân, vừa là thanh bằng, tạo sự ngân vang cho bài ca. Dù
bài thơ đã khép lại nhưng khúc ca xuân vẫn còn văng vẳng trong lòng người.

49
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
3. Bình giá tổng hợp:
Người xưa từng nói thi trung hữu nhạc- thi trung hữu họa điều đó rất đúng với
bài thơ của Thanh Hải.
- Thể thơ năm chữ, giọng thơ lúc mạnh mẽ, lúc tha thiết ngân vang đọc lên mà
như muốn ca muốn hát. Ngôn ngữ thơ trong sáng và biểu cảm, hàm súc và hình
tượng.
- Các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, song hành đối xứng, điệp ngữ... được
vận dụng sắc sảo, tài hoa. Bài thơ khiến người đọc bâng khuâng bởi chất nhạc,
quyến luyến bởi chất họa và say mê bởi cái tình người nghệ sĩ. Tình yêu mùa
xuân gắn liền với tình yêu đất nước, quê hương được Thanh Hải diễn tả một
cách sâu sắc, cảm động.

**********************************
Bài 10: VIẾNG LĂNG BÁC.
- Viễn Phương-
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng. Mà sao nghe nhói ở trong tim.

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Mai về miền Nam thương trào nước
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ mắt
Ngày ngày dòng người đi trong Muốn làm con chim hót quanh lăng
thương nhớ Bác
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
mùa xuân... Muốn làm cây tre trung hiếu chốn
này...
4-
1976

Câu 1: Tác giả.


- Viễn Phương là gương mặt thơ tiêu biểu cho lực lượng sáng tác Nam Bộ. Ông
là người có công xây dựng nền cách mạng miền Nam thời chống Mĩ xâm lược.
- Phong cách nghệ thuật: Thơ Viễn Phương dung dị, cảm xúc sâu lắng thiết tha,
ngôn ngữ thơ đậm đà màu sắc Nam Bộ.
Câu 2: Hoàn cảnh sáng tác.
- Năm 1976, sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước ta được
thống nhất. Tháng 4.1976, Viễn Phương ra thăm miền Bắc, ông đã đến viếng
lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bài thơ “Viếng lăng Bác” được sáng tác trong dịp
đó.
- In trong tập thơ “Như mây mùa xuân".
Câu 3: Bố cục của bài thơ: gồm 3 phần.
- P1( khổ 1): Cảm xúc khi đến thăm lăng Bác.
- P2 (khổ 2, 3): Cảm xúc khi xếp hàng vào thăm lăng Bác.
50
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
- P3( khổ 4): Cảm xúc khi rời lăng Bác.
Câu 4: Phân tích.
Luận điểm 1: Cảm xúc khi đến thăm lăng Bác. ( Khổ 1).
Những dòng thơ đầu chứa chan bao tình cảm của người con NB khi đặt chân tới
lăng Bác: ( thơ- khổ 1).
- Mở đầu bài thơ, ta bắt gặp lối xưng hô gần gũi, mang đậm chất Nam Bộ: "Con-
Bác". Với nhân dân Việt Nam, Bác không chỉ là người lãnh tụ vĩ đại, cao quý,
mà hơn thế, Bác chính là người thân, vị cha già kính yế. Có lẽ không nơi đâu
trên trái đất này, người dân lại gọi vĩ lãnh tụ tối cao của dân tộc mình gần gũi
mà thiêng liêng đến vậy!
- Cách nói giảm, nói tránh dùng từ “thăm” chứ không phải từ viếng vừa để tránh
nhắc tới một sự thật đau lòng, vừa như khẳng định trong trái tim người con NB,
Bác vẫn luôn sống mãi.
- Đến lăng Bác, hình ảnh hàng tre bát ngát hiện lên trong màn sương huyền ảo
trở thành một hình ảnh thơ đầy ý nghĩa:
+ Hàng tre bát ngát, Hàng tre xanh xanh… được điệp lại như để nhấn mạnh vào
hình ảnh gợi nhiều cảm xúc cho người con phương xa. Từ lâu, lũy tre xanh đã
trở thành một nét đẹp của làng quê Việt Nam. Tre trồng nhiều quanh lăng như
để tạo ra một không gian vừa thanh bình, vừa gần gũi như bao xóm làng VN.
+ Nhưng ở đây, hình ảnh hàng tre mang nhiều lớp nghĩa, hàng tre trong sương
sớm là hình ảnh tả thực; nhưng hàng tre xanh xanh, đứng thẳng hàng giữa bão
táp mưa sa còn mang nghĩa biểu tượng rất sâu sắc. Đến đây, tre ẩn dụ cho sức
sống của con người và dân tộc VN luôn đoàn kết, kiên cường thách thức mọi gió
mưa, giông bão. Hàng tre Việt Nam ấy, phải chăng là hình ảnh của những
người con Việt Nam đang quây quần bên vị cha già kính yêu, canh cho giấc ngủ
của Người? Thơ nói ít mà gợi nhiều, ý tại ngôn ngoại chính là như vậy!
- Thán từ “ ôi” kết hợp cùng ngữ điệu cảm thán đã thể hiện rõ niềm xúc động
thành kính của thi nhân khi bắt gặp hình ảnh hàng tre xanh với những tầng nghĩa
sâu xa ấy: ôi…VN -câu thơ thể hiện một sự thán phục, một sự tự hào của tác giả
về một dân tộc anh hùng.
=> Từ miền Nam, những người con lần đầu được về thăm vị cha già sau bao
năm xa cách. Xúc động nghẹn ngào khi bắt gặp hình ảnh rất đỗi thân thương với
mọi xóm làng Việt Nam. Những dòng thơ đầu vừa dạt dào cảm hứng hiện thực
vừa tràn đầy những xúc cảm sâu xa.
b. Luận điểm 2: Cảm xúc khi xếp hàng vào thăm lăng Bác.
Tiếp tục hành trình, những người con phương xa xếp hàng vào lăng viếng Bác.
Nhà thơ đã ghi lại rất cảm động những cảm xúc, suy ngẫm của mình.
* Luận cứ 1- Khổ 2: Trước hết là những suy tư, xúc cảm của thi nhân khi
xếp hàng vào lăng viếng Bác.( trích khổ 1).
Đến với những vần thơ của VP, ta vẫn không khỏi xúc động bồi hồi trước hết
công ơn trời biển của Bác với dân tộc VN qua những suy tư, xúc cảm của thi
nhân khi xếp hàng vào lăng viếng Bác.
- Viễn Phương thật tài hoa khi sử dụng phép tu từ nhân hoá và ẩn dụ.“Mặt trời
trong lăng” chính là Bác Hồ vô cùng kính yêu và vĩ đại. Ngầm so sánh với mặt

51
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
trời, nhà thơ đã thầm ngợi ca sự vĩ đại của Bác. Nếu như mặt trời của tự nhiên
mang ánh sáng đến cho nhân loại thì Bác là người mang ánh sáng tự do đến cho
dân tộc. Không chỉ vậy, nếu như mặt trời bất tử cùng tự nhiên vũ trụ thì Bác Hồ
cũng sẽ bất tử cùng non nước Việt Nam tươi đẹp. Câu thơ thể hiện niềm tin yêu
thành kính vô bờ đối với Bác Hồ của nhà thơ. Đặc biệt, được kết hợp với phép
nhân hoá “Mặt trời đi qua... thấy... mặt trời trong lăng rất đỏ” ta còn có cảm
giác như mặt trời của tự nhiên cũng phải ngắm nhìn, chiêm ngưỡng và kính cẩn
nghiêng mình trước hơi ấm của mặt trời trong lăng. Mặt trời của tự nhiên vốn đã
đẹp, vốn đã rực rỡ chói lóa, ấy vậy mà vẫn phải ngưỡng mộ trước vẻ đẹp tài
năng và nhân cách của Hồ Chí Minh. Đó quả là một hình ảnh đẹp, mang ý nghĩa
sâu sắc mà tinh tế, giản dị mà cảm động dạt dào cảm hứng biết ơn lãnh tụ.
- Trạng ngữ chỉ thời gian “ngày ngày” được lặp lại vừa để khái quát quy luật bất
biến của tự nhiên: ngày qua ngày, vầng dương của vũ trụ vẫn đi qua trên lăng
Bác, vừa khái quát một quy luật cũng bất biến của lòng người: ngày ngày vẫn
không ngớt những dòng người đổ về lăng viếng Bác với tấm lòng thành kính
khôn nguôi. Nói cách khác, chừng nào mặt trời vẫn đi qua trên lăng thì chừng đó
vẫn còn những đoàn người về lăng viếng Bác.
- Ở đây, tác giả cũng sử dụng nghệ thuật ẩn dụ qua hình ảnh "dòng người" rất
đẹp, đầy gợi cảm. Đoàn người vào lăng viếng Bác khiến tác giả liên tưởng giống
như một tràng hoa và mỗi người là một bông hoa kết thành tràng hoa dâng lên
Bác lòng thương nhớ, kính yêu. Đồng thời người đọc còn nhận ra cách sử dụng
từ ngữ của Viễn Phương rất độc đáo, đắc địa.
- Tác giả sử dụng từ " dòng người" chứ không phải là "đoàn người", "hàng
người", điều đó có tác dụng gợi lên sự tiếp nối trải dài tới vô tận của những dòng
người vào lăng. Cụm từ "Đi trong thương nhớ" gợi tả tình yêu thương và nỗi
nhớ mong của nhân dân dành cho Bác, bao trùm lên cả không gian và thời gian
vô tận "ngày ngày". Đặc biệt, hình ảnh "Bảy mươi chín mùa xuân" là hình ảnh
hoán dụ rất đẹp, mang ý nghĩa tượng trưng: Bác Hồ với bảy mươi chín tuổi xuân
đã sống một cuộc đời đẹp như những mùa xuân và đã đem lại mùa xuân lớn cho
quê hương, đất nước.
* Luận cứ: Khổ 3: Từ cảm hứng biết ơn, nhà thơ như nghẹn ngào, đau nhói
khi bước chân vào thăm Bác( trích khổ 3).
- Nghệ thuật nói giảm nói tránh "giấc ngủ bình yên" có tác dụng giảm bớt sự đau
thương, mất mát của cả dân tộc khi Bác đã ra đi. Đồng thời cho thấy sự nhẹ
nhàng, bình yên, thanh thản của Bác trong giấc ngủ ngàn thu. Hay trong tim
người con đất Việt, Bác không phải đã đi xa mãi mãi mà Người chỉ đang an nghỉ
trong một giấc ngủ dài sau cả cuộc đời phấn đấu cho dân, cho nước.
- Hình ảnh vầng trăng sáng dịu hiền là một liên tưởng giàu ý nghĩa của thi nhân:
bước vào trong lăng, khi ngoài kia là ánh sáng mặt trời chói chang, rực rỡ, thì ở
đây, thứ ánh sáng dịu nhẹ, hiền hòa đã gợi liên tưởng tới ánh sáng của vầng
trăng- người bạn tri âm tri kỉ của Bác lúc sinh thời. Bác vốn yêu thiên nhiên, yêu
vầng trăng sáng, coi trăng như tri âm, tri kỉ của mình. Đến hôm nay, vầng trăng
ấy vẫn tiếp tục ở cạnh Người, toả ánh sáng vỗ về cho giấc ngủ an lành của
Người. Cùng với mặt trời, hình ảnh vầng trăng đã hoàn thiện bức chân dung Hồ

52
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Chí Minh trong tâm khảm mỗi người: chói lóa, rực rỡ, trong sáng, thanh cao,
hiền lương, thương mến.
- Trong khoảnh khắc thiêng liêng bên cạnh Bác, một cảm giác đau xót bất chợt
trỗi dậy trong lòng nhà thơ:
"Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim"
+ "Trời xanh" là hình ảnh ẩn dụ ngợi ca lối sống đẹp của Bác. Trong cả bài thơ,
VP đã nhiều lần ngầm ví Bác với những hình ảnh lớn lao, cao đẹp của thiên
nhiên vũ trụ như mặt trời, vầng trăng, trời xanh…hệ thống hình ảnh đã góp phần
bất tử hóa con người vĩ đại ấy.
+ Hai dòng thơ cho thấy rõ sự đối lập trong suy nghĩ và tình cảm của người con
Nam Bộ. Nhà thơ và mọi người vẫn biết rằng Bác luôn sống mãi trong sự nghiệp
giải phóng dân tộc, Người bất tử cùng non sông như mặt trời tỏa sáng, như trời
xanh vĩnh hằng, nhưng sự ra đi của Bác vẫn là một mất mát to lớn không gì bù
đắp được. Nỗi đau quá lớn, vì vậy mà mọi lập luận đều trở nên vô nghĩa. Viễn
Phương đang ở trong một tâm trạng xót xa, thương tiếc đến nghẹn ngào. Nghe
nhói ở trong tim là một nỗi rõ ràng, hiện hữu như thể nghe thấy được.
=> Đoạn thơ là những cảm xúc chân thành của người con phương xa khi được
về thăm vị cha già đáng kính: có tấm lòng biết ơn, thành kính tận đáy lòng khi
nghĩ về những cống hiến và công lao của Bác, có nỗi nhớ thương nghẹn ngào
Nghe nhói ở trong tim khi đứng trước hiện thực đau lòng là Bác đã ra đi mãi
mãi… nhưng bao trùm tất cả là niềm kính yêu vô hạn của con dân đất Việt với
Bác Hồ.
c. Luận điểm 3: Cảm xúc khi rời lăng Bác.
Hành trình viếng thăm lăng đã sắp khép lại, dòng nhật kí thơ cũng ghi tới những
cảm xúc cuối cùng. Mạch cảm xúc dâng trào mãnh liệt trong giờ phút chia ly.
(trích khổ 4).
- Câu thơ thể hiện khoảng cách thời gian ngắn ngủi, khơi gợi trong lòng nhà thơ
những cảm xúc lưu luyến. Cụm từ "thương trào nước mắt" nghe dào dạt mà
thấm sâu, là sự kính yêu cuộc đời cao cả của Bác, là nỗi xót đau khi đối mặt với
giờ phút chia ly cận kề. Thương ở đây bao trùm cả thương yêu, thương kính và
thương xót. Thương đến trào nước mắt là niềm cảm xúc không thể dừng lại,
không thể kềm chế mà tuôn trào nước mắt. Cảm xúc đó cũng chính là cảm xúc
chung của con người Việt Nam, của triệu triệu trái tim luôn hướng về Bác.
- Cảm xúc ấy cũng là nguyên nhân để nhà thơ nói lên ước nguyên sâu thẳm
trong tâm hồn:
"Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác…
+ Điệp ngữ "muốn làm" được điệp lại nhiều lần như để khẳng định ước nguyện
chân thành, tha thiết của nhà thơ. Ông muốn hóa thân thành những hình ảnh đẹp
nhất của thiên nhiên đất nước để dâng lên cho Bác. Nhà thơ muốn làm con chim
cất lên tiếng hót mê say, muốn làm đóa hoa tỏa hương làm đẹp cho lăng Bác. Và
thật cao đẹp biết bao khi nhà thơ muốn hóa thân làm cây tre trung hiếu, trong
muôn ngàn cây tre quanh lăng Bác, để được ở mãi bên Bác. Hình ảnh cây tre ở
khổ thơ thứ nhất được lặp lại trong khổ thơ cuối tạo nên kết cấu đầu cuối tương

53
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
ứng, giúp hoàn thiện biểu tượng cây tre Việt Nam. Nếu ở khổ thơ thứ nhất, tre là
hình ảnh tượng trưng cho phẩm chất kiên cường, bất khuất; thì ở khổ thơ cuối,
hình ảnh cây tre được lặp lại nhưng là để tượng trưng cho phẩm chất trung hiếu.
Cây tre đã trở thành biểu tượng toàn vẹn cho phẩm chất của con người và dân
tộc Việt Nam.
+ Những trạng ngữ chỉ nơi chốn: đâu đây, quanh lăng, chốn này… càng góp
phần làm rõ hơn mục đích của ước nguyện. Thi nhân ước thành những gì gần
gũi, gắn bó bên lăng hay chính là nguyện ước muốn đời đời bên Bác, canh cho
giấc ngủ của Người.
=> Bài thơ khép lại rồi, những người con miền Nam sẽ trở về quê hương xứ sở,
nhưng khoảng cách không gian địa lý dù xa xôi cách trở bao nhiêu cũng không
ngăn cách được tình cảm của con người. Trái tim, tấm lòng của người NB vẫn
đời đời hướng về bên Bác. Đó cũng là lòng thành của cả dân tộc VN đối với
Người.
3. Bình giá:
- VLB là một bài thơ có nhiều thành công về nghệ thuật: ngôn ngữ thơ trong
sáng, đậm dấu ấn ngôn ngữ Nam Bộ; hình ảnh thơ vừa chân thực, vừa giàu ý
nghĩa biểu tượng; giọng thơ chân thành, tha thiết có sự biến hóa linh hoạt phù
hợp với cảm xúc của thi nhân: có xúc động vui mừng khi được về thăm Bác, có
thành kính biết ơn và đau nhói nghẹn ngào khi vào viếng lăng và có cả sự lưu
luyến khôn nguôi cùng những ước nguyện tha thiết, đẹp đẽ khi phải rời lăng
Bác. Thơ ca làm cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trên đời trở thành bất tử.”
(Shelly). Tất cả đã góp phần tạc dựng thành công vẻ đẹp thiêng liêng bất tử của
con người vĩ đại Hồ Chí Minh và tấm lòng kính yêu vô bờ của nhân dân Việt
Nam với Bác
- Với những thành công về nội dung và nghệ thuật, ngay sau khi ra đời, bài thơ
đã được phổ nhạc, trở thành một ca khúc hay viết về Bác Hồ.
******************************************
BÀI 12. SANG THU
- HỮU THỈNH-
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về

Sông được lúc dềnh dàng


Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Vẫn còn bao nhiêu nắng


Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.

54
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Nguồn: Từ chiến hào đến thành phố, NXB Văn học, 1991

Câu 1: Nêu nét chính về tác giả Hữu Thỉnh.


- Hữu Thỉnh là gương mặt thơ tiêu biểu, đại diện cho lớp nhà thơ trẻ trưởng
thành trong kháng chiến chống Mĩ. Cuộc đời cầm súng, cầm bút đã cho ông
nhiều vần thơ đẹp.
- Phong cách thơ: Thơ Hữu Thỉnh trong sáng, mượt mà nhưng cũng đầy triết lý
nhân sinh.
Câu 2: Nêu hoàn cảnh sáng tác của bài thơ:
Sang thu được sáng tác vào mùa thu năm 1977- hai năm sau ngày Miền Nam
giải phóng, đất nước thống nhất. Bài thơ là những cảm nhận rất tinh tế của một
tâm hồn nhà thơ chiến sĩ vừa đi qua những năm tháng chiến tranh, được in trong
tập “Từ chiến hào đến thành phố”.
Câu 3: Đề tài bài thơ.
Nếu mùa xuân là mùa hội tụ của những bàn tay nghệ sĩ tài hoa thì mùa thu bước
vào trong thơ ca cũng tự nhiên và gần gũi. Trước đây, Nguyễn Khuyến nổi tiếng
với chùm thơ thu, sau này Xuân Diệu có Đây mùa thu tới, Lưu Trọng Lư có
Tiếng thu… Nhỏ nhẹ, khiêm nhường, Hữu Thỉnh cũng góp vào cho mùa thu đất
nước một góc quê hương Sang thu.
Câu 4. Phân tích bài thơ.
a. Luận điểm 1: Những tín hiệu mùa thu mong manh, tinh tế(khổ 1).
Bằng tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, Hữu Thỉnh đã nhận ra mùa thu ngay từ những
bước chân đầu tiên nhẹ nhàng, duyên dáng nhất: ( khổ 1).
- Nhà thơ của những mảnh vườn quê BB đã nhận ra tin thu trong hương ổi nồng
nàn. Đó là thứ hương đồng nội mà phải có một tâm hồn thật tinh tế và tha thiết
với quê hương, nhà thơ mới nhận ra nó. Ở đây, HT đã rất tài tình khi dùng một
chữ phả để gợi tả hương thu. "Phả" là động từ mạnh, khác hoàn toàn với những
động từ thường diễn tả làn hương như bay, lan, tỏa… đã cho thấy hương ổi đầu
mùa như quyện hòa, đặc sánh trong từng cơn gió. Hữu Thỉnh không tả mà chỉ
gợi, đem đến cho người đọc những liên tưởng về màu vàng ươm của trái chín
đầu mùa, về hương thơm lừng ngan ngát tỏa ra từ những trái ổi chín nơi vườn
quê trong những ngày cuối hạ, đầu thu. Mùi hương ấy cứ vấn vít trong không
gian, cùng làn gió thu len lỏi khắp ngõ xóm thôn quê.
- Nhận ra những tín hiệu đầu mùa quen thuộc, nhà thơ như ngỡ ngàng thốt lên
“Bỗng nhận ra”. Bỗng là bỗng nhiên, bất ngờ, bất chợt. Đặt chữ Bỗng đầu câu
thơ, đầu bài thơ để tất cả các giác quan của ta được đánh thức, phải giật mình mà
chú ý đón nhận mọi biến đổi của đất trời. Đó là cảm giác reo vui, một sự ngạc
nhiên thú vị như khi khám phá ra một điều gì đó mới mẻ và đẹp đẽ..
- Thu còn đến cùng làn gió se đặc trưng của đất trời miền Bắc. Thu miền bắc có
một “đặc sản” của tạo hóa chính là gió se và HT đã không bỏ qua thứ quà quý
hiếm ấy. Ông đón nhận và diễn tả nó mới thật khéo léo biết bao. Gió thu không
mát rượi như gió mùa hè, càng không lạnh cắt da cắt thịt như gió mùa đông mà
là thứ gió mang theo chút se se lạnh chỉ đủ khiến đất trời và lòng người thêm thư

55
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
thái, nhẹ nhàng. Câu thơ của HT đưa mùa thu đến bên ta êm ái, dịu dàng xiết
bao. Làn gió ấy càng trở lên đáng nhớ hơn khi có mùi hương ổi nồng nàn, sánh
quyện.
- Cánh đồng mùa thu còn gieo vào thơ HT một tứ thơ tuyệt diệu: “Sương chùng
chình qua ngõ”. Nghệ thuật nhân hoá khiến sương thu ở đây chứa đầy tâm trạng
“chùng chình” giăng mắc, làm toát lên thần thái của mùa thu, không vội vàng,
hồ hởi mà luôn tạo nên sự mơ hồ và mông lung nhất, nàng thu bước những bước
chân thật chậm rãi như lưu luyến vấn vương điều gì. Hình ảnh “ngõ” ở đây có
thể là những ngõ xóm thôn quê quen thuộc, cũng có thể gợi liên tưởng tới của
ngõ của thời gian, nơi giao nhau giữa hai mùa hạ- thu, để rồi đi qua ngõ ấy là
mùa thu đã về.
- Đã nhận ra những sứ giả của mùa thu, nhưng HT vẫn không chắc chắn vào
cảm nhận của mình, bởi thế mà nhà thơ kết luận: Hình như thu đã về. Với tình
thái từ Hình như khiến cho ý thơ càng thêm duyên dáng, tinh tế, gợi lên sự mong
manh của giây phút chuyển mùa. Hình như có, hình như không, hình như đúng,
hình như chưa thật đúng… Nhưng thực ra tác giả đã tự nhủ rằng mùa thu đã về
thật rồi.
- Đoạn thơ có cách gieo vần khá linh hoạt, phá cách: Chữ “se” vần với chữ “về"
là vần chân, vần bằng, và vần cách đã góp phần tạo nên sự phong phú về vần
điệu và nhạc điệu, làm cho giọng thơ nhẹ nhàng, mênh mông gợi cảm.
=> Phải có một tâm hồn yêu thiên nhiên tha thiết và gắn bó máu thịt với quê
hương, đất nước, ông mới có được những vần thơ đẹp và say lòng người đến
thế.
b. Luận điểm 2: Bức tranh đất trời lúc sang thu.
Trời đất lúc sang thu vốn không còn xa lạ, nhưng ở đây HT đã vẽ lên bằng một
đôi mắt mới: (thơ khổ 2).
- Thi nhân đã rất tinh tế và khéo léo khi sử dụng nghệ thuật nhân hóa: “Sông
được lúc dềnh dàng”. Dòng sông thu bỗng trở nên rất đỗi con người, như chỉ
chờ thu tới để “đc lúc dềnh dàng” tranh thủ nghỉ ngơi sau cả mùa hè mưa nguồn
suối lũ, lúc này dòng nước như trong xanh, êm đềm hơn.
- Đối lập với sự dềnh dàng của dòng sông, trên bầu trời, những cánh chim bắt
đầu vội vã. Những cánh chim cảm nhận rất rõ bước chuyển mình của đất trời,
sang thu, ngày như ngắn lại, những cánh chim bắt đầu hối hả để về tổ hay để
chuẩn bị cho hành trình trú đông phía trước. Mỗi chữ mỗi câu trong Sang thu
của HT đều như tuyệt bút, các từ láy giàu sức tạo hình lại đặt trong thế đối lập
dềnh dàng- vội vã đã gợi tả vô cùng sống động thần thái của vạn vật trước
khoảnh khắc sang thu.
- Suốt bài thơ, nghệ thuật nhân hóa thực sự đã thổi hồn sống vào vạn vật, khiến
những thứ vô tri cũng trở nên rất con người. Sương thu như người khách ngập
ngừng nơi đầu ngõ, gió se lại bởi chút lạnh xa xăm, dòng sông tranh thủ dềnh
dàng, những cánh chim vội vã tìm về phương ấm áp… và hình ảnh nhân hóa đắt
giá nhất cả bài thơ phải là hình ảnh đám mây:
Có đám mây mùa hạ- Vắt nửa mình sang thu.

56
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
+ Sang thu, bầu trời cũng như cao hơn, trong xanh hơn. Ở đây, HT cũng chọn
để điểm vào thơ mình đám mây thu, nhưng đám mây ấy chưa hẳn đã thuộc về
bầu trời thu. Nó như cây cầu nối duyên dáng, nối không gian và nối cả thời gian,
ở nhịp bên này, là bầu trời cuối hạ, qua nhịp bên kia đã chạm ngõ mùa thu.
+ Diễn tả đám mây, nhà thơ không dùng những từ ngữ như: lơ lửng, bồng bềnh,
... mà lại dùng chữ vắt. Một chữ thơ thôi mà đám mây bỗng rất người, như nàng
thiếu nữ đang duyên dáng vắt tà áo trắng bước qua cửa ngõ hai mùa, nhịp chân
bên này còn vương nơi cuối hạ, nhịp bước bên kia đã chạm ngõ mùa thu. Cách
dùng từ ngữ như vậy thực chỉ có ở một tâm hồn hào hoa, lãng mạn và giàu trí
tưởng tượng.
=> Ngày hạ đi để nhường chỗ cho nàng thu dịu dàng bước tới, sự chuyển mình
giữa hai mùa thật nhẹ nhàng và ngập ngừng như lưu luyến, vấn vương một cái gì
đó của thời đã qua. HT đã có một cái nhìn thật tinh tường, một cảm nhận thật
sắc nét và một cách sống hòa hợp với thiên nhiên nên mới có thể vẽ lại bức
tranh in dấu sự chuyển mình của đất trời như thế.
c. Luận điểm 3: Sang thu của đất trời gợi liên tưởng tới sự sang thu của đời
người.
Khoảnh khắc sang thu ấy thật đẹp, nhưng không phải ai cũng dễ dàng nhận thấy.
Và từ phút giao mùa của đất trời, nhà thơ đã liên tưởng đến sự sang thu của cuộc
đời con người.( thơ).
- Mở đầu khổ thơ ta vẫn gặp lại những nắng và mưa – vốn là dấu hiệu đặc trưng
của mùa hạ, nhưng chỉ là “vẫn còn” và “vơi dần” – bằng quan sát tinh tế, bằng
sự trải nghiệm của mình, người nghệ sĩ nhận ra sự thay đổi về tính chất, mức độ
của những dấu hiệu thời tiết…tất cả ngày một nhạt đi, vợi bớt đi, nắng vẫn còn
nhưng không oi nồng, chói chang, gay gắt như nắng hạ, mưa cũng còn nhưng đã
vơi dần, thưa thớt dần, không còn những cơn mưa rào xối xả chợt đến chợt đi
của một mùa hạ sôi động nữa. Đất trời dường như vẫn còn luyến tiếc lắm,
nhưng cuối cùng hạ vẫn phải chấp nhận rằng đã “sang thu”.
- Bằng nghệ thuật ẩn dụ sâu sắc, Hữu Thỉnh đã kết thúc khổ thơ qua hai câu văn
thấm đẫm triết lý đáng để ta phải suy ngẫm:
“Sấm cũng bớt bất ngờ…Trên hàng câu đừng tuổi.”
+ “Sấm” – đơn thuần là một hiện tượng đặc trưng của mùa hạ đi kèm những cơn
mưa lớn, “cây đứng tuổi” là những hàng cây lâu năm, đã thành cổ thụ. Lúc sang
thu, những hàng cây đứng tuổi ko bị lung lay, bất ngờ trước những tiếng sấm
giao mùa thưa thớt.
+ Từ hình ảnh thực ai cũng có thể nhìn thấy, nhận ra ấy, HT lại liên tưởng tới
những điều rất tinh tế, rất riêng. Tiếng sấm của mùa hạ còn sót lại ẩn dụ cho
những thăng trầm, sóng gió của vòng đời luôn thay đổi và qua những gian nan,
thử thách ấy, tượng trưng cho những vang động bất thường từ ngoại cảnh. Hình
ảnh “hàng cây đứng tuổi” gợi ta nghĩ tới những con người từng trải, từng nếm
đủ phong ba bão táp của cuộc đời, giờ đây đã rất vững vàng, dày dặn kinh
nghiệm. Nên khi đón nhận những tác động bất thường từ ben ngoài, họ vẫn rất
bản lĩnh, chẳng hề bất ngờ hay lung lay, dao động nữa.

57
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
- Nhìn sâu hơn qua hai câu thơ trên, Hữu Thỉnh cũng muốn nói tới phẩm chất
kiên cường và bất khuất của dân tộc VN anh hùng, một dân tộc đã thật dũng
cảm và mạnh mẽ chống lại bao phong ba bão táp. Giờ đây, khi đã sang thu- đã
hòa bình trời yên biển lặng, chẳng còn khó khăn nào có thể khiến dt ta lung lay,
gục ngã.
=> Chỉ là thoáng giao mùa thôi, nhưng qua tấm lòng, tài năng của thi sĩ, Sang
thu thực đã bất tử hóa vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, con người vốn rất đỗi
bình dị, thân quen. Từ bao nỗi suy tư của mình, Hữu Thỉnh đã góp phần làm cho
cả bài thơ và khổ thơ cuối thêm nhiều ý nghĩa sâu sắc, in dấu trong lòng người
đọc một ấn tượng khó phai mờ về một mùa thu tha thiết, nồng hậu. Cũng chính
vì lẽ đó, mà ta cảm thấy yêu thiên nhiên hơn, yếu cái giao mùa và sự chuyển
biến của đất trời trên quên hương mình!
3. Bình giá:
- Bài thơ có hình thức nhỏ nhắn, xinh xắn, thể thơ 5 chữ, ngôn ngữ thơ trong
sáng, giàu ý ngĩa, giọng thơ nhẹ nhàng… góp vào một bong hoa đẹp trong vườn
thơ thu của văn học nước nhà.
- So sánh: Khoảnh khắc giao mùa có lẽ là khoảnh khắc đẹp đẽ nhất của tự nhiên,
nó gieo vào lòng người những rung động nhẹ nhàng khiến ta như giao hoà, đồng
điệu. Nếu Xuân Diệu khiến chúng ta ngỡ ngàng bởi đây mùa thu tới với tâm
trạng “tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì ” của nàng thiếu nữ; Lưu Trọng Lư khiến
chúng ta ngất ngây trước một mùa thu lãng mạn và ẩn chứa một nỗi sầu mênh
mang trong Tiếng thu, thì với “Sang Thu”, Hữu Thỉnh cho người đọc cảm nhận
được khoảnh khắc rất mong manh, tinh tế trước phút giao mùa nên thơ của đất
trời.
****************************************************
BÀI 13. NÓI VỚI CON
- Y PHƯƠNG-
Chân phải bước tới cha Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Chân trái bước tới mẹ Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Một bước chạm tiếng nói Sống trong thung không chê thung
Hai bước tới tiếng cười nghèo đói
Người đồng mình yêu lắm con ơi Sống như sông như suối
Đan lờ cài nan hoa Lên thác xuống ghềnh
Vách nhà ken câu hát Không lo cực nhọc
Rừng cho hoa Người đồng mình thô sơ da thịt
Con đường cho những tấm lòng Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới Người đồng mình tự đục đá kê cao
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời. quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
Người đồng mình thương lắm con ơi Con ơi tuy thô sơ da thịt
Cao đo nỗi buồn Lên đường
Xa nuôi chí lớn Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.

58
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Câu 1. Giới thiệu nét chính về tác giả Y Phương?
- Y Phương là người con của dân tộc Tày sinh ra ở cái nôi của người Tày Trùng
Khánh, Cao Bằng. Ông là nhà thơ chiến sĩ đại diện cho lực lượng sáng tác miền
núi thời kì kháng chiến chống Mỹ.
- Phong cách thơ: Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng,
cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi.
Câu 2. Bố cục của bài thơ:
Gồm 2 phần:
P1( khổ 1): Cội nguồn sinh dưỡng của con.
P2 (khổ 2): Phẩm chất của người đồng mình và lời dặn con.
Câu 3: Phân tích bài thơ.
a. Luận điểm 1: Cội nguồn sinh dưỡng của con.
Y phương đã mượn lời người cha nói với con để gợi về cội nguồn sinh
dưỡng của mỗi con người.
* Luận cứ 1: Trước hết, con được sinh ra và lớn lên trong tình yêu của cha
mẹ, gia đình.
Bài thơ mở đầu với khung cảnh gia đình ấm cúng, đầy ắp niềm vui:
“Chân phải bước tới cha…Hai bước tới tiếng cười”
- Bằng cách nói giàu hình ảnh của người miền núi, nhà thơ đã vẽ ra trước mắt
chúng ta một bức tranh về hạnh phúc gia đình, ở đó có mẹ có cha và trung tâm
của bức họa là đứa con thơ đang tuổi chập chững tập đi, bi bô tập nói. Cha mẹ
luôn dang rộng vòng tay che chở, đón đợi, nâng niu từng bước đi lẫm chẫm đầu
đời của con, hồi hộp dõi theo từng bước đi đầu tiên non nớt và lo lắng sợ con
vấp ngã. Cha mẹ mong chờ, uốn nắn từng tiếng gọi đầu đời bập bẹ của con và
vỡ òa trong niềm vui hạnh phúc khi nghe con gọi tiếng mẹ, tiếng cha!
- Điệp ngữ chân phải… chân trái, tiếng nói... tiếng cười, một bước… hai bước…
vừa tạo cho bài thơ âm điệu ríu rít, quất quýt như hình ảnh đứa con thơ hạnh
phúc bên cha mẹ vừa thể hiện niềm sung sướng và đầy tự hào của cha khi thấy
con đang lớn lên từng ngày. Đọc những câu thơ mà ta như nghe thấy âm điệu
bịn rịn, quấn quýt của những câu hát tuổi thơ: “ba là cây nến vàng, mẹ là cây
nến xanh…ba ngọn nến lung linh, thắp sáng một gia đình”.
- Không chỉ là chỗ dựa cho con, cha mẹ còn tìm thấy niềm vui và lẽ sống của
cuộc đời từ sự trưởng thành của con:
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới,
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.
Chính sự xuất hiện của con đã khiến cho ngày cưới- ngày cha mẹ đến với nhau
để tạo thành một mái ấm- trở nên ngày đẹp nhất trên đời. Con là kết quả tình yêu
của cha mẹ, sự xuất hiện của con làm cho tổ ấm mà cha mẹ dựng xây thêm hoàn
chỉnh và đầy ắp niềm vui, tiếng cười.
=> Y Phương đã khẳng định gia đình chính là cái nôi đầu tiên êm ái nhất để con
được sinh ra và khôn lớn thành người. Nói với con về điều ấy là người cha đang
thầm nhắc nhở con biết trân trọng tình cảm gia đình- thứ tình cảm cội nguồn của
mọi tình yêu chân chính.

59
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
* Luận cứ 2: Nhưng không chỉ có gia đình, con còn lớn lên, trưởng thành
trong cuộc sống lao động của người đồng mình và quê hương sâu nặng
nghĩa tình:
Người đồng mình yêu lắm con ơi….Con đường cho những tấm lòng
- Nhà thơ dùng một cách gọi rất riêng: "người đồng mình", đó là người miền
mình, người vùng mình, là những người cùng sống trên một vùng đất, cùng quê
hương, cùng một dân tộc. Cùng với đó là ngữ điệu cảm thán “ yêu lắm con ơi!”
như tiếng gọi thân thương, trìu mến của người cha với con người trên mảnh đất
quê hương mình.
- Người đồng mình đáng yêu đáng quý bởi: Đan lờ cài nan hoa- vách nhà ken
câu hát. Tác giả khéo léo vận dụng lối diễn đạt giàu hình ảnh của người miền
núi. Những suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc đều được diễn tả trực tiếp bằng hình
ảnh. Cái đáng yêu đáng quý của người đồng mình toát lên từ ngay cuộc sống lao
động hằng ngày. Người đồng mình đan lờ để bắt đánh bắt cá tôm, cải thiện cuộc
sống, nhưng dưới bàn tay tài hoa của người Tày, những nan trúc, nan tre đã trở
thành "nan hoa". Người đồng mình ken vách nhà để che che mưa che nắng, nhà
tranh vách nứa đơn sơ, giản dị nhưng không chỉ ken bằng tre, bằng gỗ mà còn
được ken bằng "câu hát" lạc quan yêu đời, phơi phới tin yêu.
- Các động từ “đan”, “cài” và “ken” vừa diễn tả động tác lao động cụ thể, vừa
nói lên sự gắn bó, quấn quýt của “người đồng mình” trong cuộc sống mưu sinh.
Công việc tuy nặng nhọc nhưng “người đồng mình” luôn lạc quan, yêu cuộc
sống. Tất cả những hình ảnh ấy vừa nói lên vẻ đẹp cao qúy của “người đồng
mình” vừa nhắc nhở con phải biết yêu thương, quý trọng những con người quê
hương. Con thật hạnh phúc vì được sinh ra và lớn lên giữa những con người như
vậy - những con người khéo tay hay làm, yêu thiên nhiên, yêu lao động, lạc
quan và nhân hậu.
- Là người con sinh ra và lớn lên nơi núi rừng, nhà thơ thấm thía vô cùng ân
nghĩa của thiên nhiên: “Rừng cho hoa- con đường cho những tấm lòng”.
“Rừng” và “con đường” là bóng dáng của quê hương luôn dang rộng vòng tay
chở che, bao bọc cho con người, dâng tặng con người những gì đẹp đẽ nhất.
Rừng đâu chỉ cho tre để đan lờ, cho gỗ để làm nhà, mà còn cho hoa để làm đẹp
cuộc đời. Và con đường đâu chỉ để đi mà nó còn cho con được gặp gỡ "những
tấm lòng" nhân hậu, bao dung, nghĩa tình. Động từ “cho” liên tiếp điệp lại trong
hai dòng thơ đã thể hiện rõ sự bao dung, che chở của đồng đất quê hương với
con người.
-> Con đã lớn lên trong nghĩa tình của quê hương như thế. Nếu gia đình là cái
nôi êm ái, thì quê hương lại là bầu sữa tinh thần không thể thiếu trong sự khôn
lớn trưởng thành của con. Những câu thơ hòa quyện giữa hai nguồn cảm hứng là
tình yêu gia đình và tình yêu quê hương, làng bản. Trong đó, tình cảm gia đình
là nền tảng cho tình yêu quê hương. Qua những câu thơ vừa tả thực lại vừa đậm
chất trữ tình, cha mong con hiểu những tình cảm cội nguồn đã sinh dưỡng con,
để con biết trân trọng và yêu hơn cuộc sống của mình.
b. Luận điểm 2: Những phẩm chất cao quý của người đồng mình và lời dặn
con:

60
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Cha không chỉ gợi cho con về cội nguồn sinh dưỡng, cha còn nói với con về
những đức tính cao đẹp của "người đồng mình" để con có hành trang vững
vàng bước vào cuộc sống.
* Luận cứ 1: Trước hết, người đồng mình có ý chí, nghị lực phi thường.
Trong bao gian khổ, khó khăn thử thách với bao niềm vui, nỗi buồn trải dài
theo năm tháng, “người đồng mình” đã rèn luyện bản thân, hun đúc chí
khí:
“Người đồng mình thương lắm con ơi… Xa nuôi chí lớn”
- Ở phần đầu, Y Phương đã viết: "Người đồng mình yêu lắm con ơi", thì đến
đây, mở đầu đoạn thơ ông lại nhấn giọng“Người đồng mình thương lắm con
ơi”. Cách nói mộc mạc mà chứa đựng bao ân tình rất cảm động đó được lặp đi
lặp lại như một điệp khúc trong bài ca.
- Hai câu thơ bốn chữ, đối nhau như tục ngữ, đúc kết một thái độ một phương
châm ứng xử cao quý: Cao đo nỗi buồn- xa nuôi chí lớn. Đúng là có thể tách
con người ra khỏi quê hương, nhưng không thể tách quê hương ra khỏi con
người, bởi một phần quê hương đã ngấm trong lối sống, cách nghĩ, trong lời ăn,
tiếng nói của mỗi người. Y Phương- người con tiêu biểu của dân tộc Tày đã phát
huy cách nói rất riêng của con người miền núi. Lấy chiều “cao”, độ “xa” là
những ước lượng mang tính cụ thể để đo đếm những thứ thuộc về vô hình, trừu
tượng: “cao đo nỗi buồn”, “xa nuôi chí lớn”. Câu thơ thể hiện một bản lĩnh sống
cao đẹp của người dân miền núi, rằng cuộc sống càng gian nan, vất vả, càng
nhiều nỗi buồn đau thì càng khiến cho con người thêm ý chí, nghị lực. Nỗi buồn
càng cao thì chí lớn càng xa. Cách nói bằng hình ảnh vừa mộc mạc giản dị, vừa
gợi hình biểu cảm biết bao!
*Luận cứ 2: Người đồng mình thủy chung, tình nghĩa:
Lời thơ từ tốn, ân cần như lời tâ tình của cha với con: Dẫu làm sao thì cha vẫn
muốn. Trong bất cứ hoàn cảnh nào "cha vẫn muốn" con biết ngẩng cao đầu và
sống đẹp như con người quê hương mình. Cha tự hào về “người đồng mình”
sống vất vả mà mạnh mẽ, phóng khoáng, gắn bó sâu nặng với quê hương dẫu
cực nhọc, đói nghèo và cha muốn truyền cho con niềm tự hào ấy:
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh…Không lo cực nhọc”
- Điệp ngữ “ sống” vang lên ba lần liên tiếp như lời khẳng định tâm thế, bản lĩnh
và dáng đứng dũng mãnh của “người đồng mình”.
- Từ lòng yêu quý, tự hào về con người quê hương, nhà thơ đã thực sự làm cho
ngôn ngữ dân tộc mình nở hoa qua những vần thơ đẹp. Đoạn thơ xuất hiện hàng
loạt những hình ảnh đặc trưng của quê hương miền núi với “đá, thung, sông,
suối, thác, ghềnh” gợi cuộc sống cheo leo ghềnh thác của con người đồng mình.
Quê hương sau những năm dài chiến tranh còn nhiều khó khăn thiếu thốn, chưa
đẹp, chưa giàu. Đường đến các bản làng còn ''gập ghềnh", còn nhà sàn vách nứa,
thung còn "nghèo đói", cơ hàn. Thế nhưng nó được mở đầu bằng từ “ dẫu “ có
nghĩa là dù cho khó khăn cực nhọc đến đâu người cha vẫn muốn con không ngại
gian khổ, không chối bỏ quê hương như con người đồng mình vậy. Cấu trúc “
Sống… không chê”, “ sống… không lo” được lặp lại 2 lần vừa thể hiện ý

61
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
nguyện ấy của cha vừa làm cho vần thơ phong phú âm điệu nhạc điệu, lời cha
dặn con vô cùng thiết tha.
- Ở đây chúng ta còn bắt gặp hình ảnh so sánh sống như sông như suối. Đó là so
sánh giản dị, mộc mạc nhưng vô cùng sâu sắc. Sông suối là những hình ảnh đẹp
của thiên nhiên miền núi, cũng là hình ảnh tượng trưng cho sự chung thủy tình
nghĩa. Bởi sông ngàn đời vẫn chảy, suối ngàn đời vẫn reo. Con phải sống như
con sông, dòng suối quê mình, thủy chung gắn bó, trước sau như một với quê
hương mình. Dẫu có lên thác xuống ghềnh cũng không chê bai, chối bổ quê
hương mình. Cách ví von, cách vận dụng thành ngữ làm cho lời cha dặn vừa cụ
thể mộc mạc, vừa hàm nghĩa, sâu lắng, ân tình.
* Luận cứ 3: Người đồng mình có vẻ đẹp tâm hồn cao quý:
Những câu thơ tiếp theo là lời khẳng định với con tuy người đồng mình mộc
mạc thô sơ nhưng luôn cháy bỏng khát vọng xây dựng quê hương mình:
“ Người đồng mình thô sơ da thịt….Còn quê hương thì làm phong tục”
- Cuộc sống lên thác xuống ghềnh, vào thung, ra suối khiến người đồng mình
“thô sơ da thịt”, chẳng mấy ai nhỏ bé. Ngoại hình, dáng vẻ của người quê ta có
phần thô mộc, kém duyên dáng. Nhưng người đồng mình giống như một viên
ngọc chưa được mài dũa giữa rừng sâu vậy. Ẩn trong dáng vẻ thô sơ ấy là tâm
hồn, ý chí phi thường. Cha say sưa nói với con về quê hương của mình bằng tất
cả niềm tự hào như thế!
- Đặc biệt người đồng mình có khát vọng xây dựng quê hương vô cùng mãnh
liệt. Họ xây dựng quê hương bằng chính sức lực và sự bền bỉ của mình. Với lối
nói độc đáo của người dân tộc miền núi “ người đồng mình tự đục đá kê cao quê
hương”, người cha đã cho con thấy tinh thần tự tôn, ý thức bảo tồn nguồn cội
của “người đồng mình”. Chính những con người ấy bằng sự lao động cần cù đã
tạo nên những truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc và quê
hương. Họ sáng tạo, lưu truyền và bảo vệ phong tục tốt đẹp của quê hương.
-> Những câu thơ thấm đẫm niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Phải yêu và gắn bó
máu thịt lắm với dân tộc mình, quê hương mình, nhà thơ mới có những vần thơ
chân thực và cảm động như vậy. Những câu thơ của Y Phương gợi ta nhớ tới
những câu thơ của Đỗ Trung Quân: Quê hương mỗi người chỉ một…
*Luận điểm 3: Lời dặn con:
Bài thơ khép lại trong những lời dặn dò rất ân cần của cha với con:
Con ơi tuy thô sơ da thịt…Nghe con
- Những dòng thơ cuối bài có nhiều ý thơ lặp lại như một điểm nhấn: “tuy thô sơ
da thịt”; “không bao giờ nhỏ bé”…là cha đang muốn dặn dò con đừng vì cái
nghèo mà cúi đầu hạ mình; đừng vì cái thô sơ của hình hài dáng vóc bên ngoài
mà mặc cảm tự tin. Con hãy ngẩng cao đầu bước tới, phát huy tốt vẻ đẹp của
người đồng mình, của quê hương mình. Lời thơ nhắc con về bài học của lòng tự
trọng, của chí khí con người.
- Hình ảnh “lên đường” vừa mang nghĩa thực là những con đường xuôi ngược
mà con sẽ đi qua vừa ẩn dụ gợi con đường đời dài rộng đang đón đợi con phía
trước.

62
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
- Đoạn thơ cuối bài với nhịp điệu linh hoạt của thơ tự do, những câu dài ngắn
không đều; kết hợp với ngữ điệu cảm thán “nghe con” và lời gọi đáp “con ơi”
nghe thật ngọt ngào nhỏ nhẹ, khiến cho lời dặn của cha càng thêm thấm thía, sâu
sắc. Từ đó ta tưởng tượng ra hình ảnh người cha vỗ về xoa đầu con vừa thương
yêu vừa dạy bảo con về bài học làm người. Điều lớn nhất người cha đã truyền
dạy cho con chính là niềm tự tin vào bản thân và lòng tự hào với sức sống mạnh
mẽ, bền bỉ, với truyền thống của quê hương.
-> Thì ra, đằng sau những lặng lẽ, thâm trầm của cha là biết bao yêu thương,
biết bao mong mỏi, biết bao hi vọng, biết bao đợi chờ ... Con lớn lên như hôm
nay không chỉ nhờ vào cơm ăn và áo mặc mà còn mang nặng ân tình của những
lời dạy dỗ ân cần thấm thía.
3. Bình giá tổng hợp:
- Nghệ thuật: Bài thơ không dài với 28 câu thơ tự do, nhịp thơ dài ngắn không
đều có câu chỉ gồm hai chữ, có câu vươn dài tới mười chữ, tất cả bay theo cảm
xúc tự nhiên, dạt dào của ý thơ. Giọng thơ tha thiết, trìu mến; một phong cách
miền núi với ngôn ngữ “thổ cẩm” rất độc đáo, với cảm xúc, tư duy rất riêng.
Những đặc sắc về nghệ thuật cộng hưởng hài hoà với những cung bậc tình cảm
khác nhau của cha đã tạo nên dư âm sâu lắng cho bài thơ. Tiếng thơ trong "Nói
với con " là tiếng lòng của Y Phương, tiếng lòng về tình yêu và niềm tự hào đối
với quê hương, dân tộc mình. Tiếng cha nói với con hay chính là lời trao gửi thế
hệ vậy !
- Bài thơ là sự hòa quyện giữa hai nguồn cảm hứng lớn: tình cảm gia đình và
tình yêu quê hương, đất nước. Chính điều đó càng làm cho bài thơ thêm giá trị.

********************************
BÀI 14. LÀNG - KIM LÂN
Câu 1: Tác giả Kim Lân.
- Kim Lân là cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam. Ông là nhà
văn của nông thôn Việt Nam, ông đã viết về cuộc sống và con người nông thôn
bằng tình cảm, tâm hồn của một người vốn là con đẻ của đồng ruộng.
- Tác phẩm của ông chủ yếu viết về cảnh ngộ của người nông dân và những sinh
hoạt làng quê.
- Tác phẩm chính: Vợ nhặt, Làng…
Câu 2: Hoàn cảnh sáng tác:
- Làng ra đời đầu thời kì chống Pháp, in lần đầu trên báo Văn nghệ năm 1948.
Câu 3: Tình huống của truyện ngắn Làng:
- Khái niệm tình huống: Tình huống truyện là hoàn cảnh đặc biệt, có vấn đề, nhà
văn đặt nhân vật vào đó để nhân vật tự bộc lộ tính cách, tâm lý, đồng thời thể
hiện tư tưởng, chủ đề tác phẩm. Một truyện ngắn hay thường có được những
tình huống độc đáo.
- Truyện ngắn Làng xoay quanh một tình huống đặc sắc: ông Hai- một người
hay khoe làng, tự hào về tinh thần kháng chiến của làng, nghe được tin đồn làng
mình Việt gian theo Tây.
Câu 4: phân tích truyện ngắn Làng( phân tích nhân vật ông Hai).

63
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
1. Luận Điểm 1. Ông Hai trong những ngày đầu ở nơi tản cư:
a. Luận cứ 1: Ông Hai có một tình yêu làng sâu sắc:
Nét tính cách đầu tiên và dễ nhận thấy nhất ở ông Hai là tình yêu tha thiết đối
với làng quê. Thứ tình cảm thiêng liêng ấy được thể hiện hồn hậu qua tính cách
thích khoe làng của ông lão.
- Chiến tranh lan đến vùng quê, dù không muốn rời làng những với quan điểm
tản cư cũng là kháng chiến, ông Hai đưa gia đình đến vùng quê mới. Ở nơi tản
cư, tối nào ông cũng sang gian bác Thứ để kể chuyện về làng chợ Dầu của mình.
Ông khoe làng ông có tinh thần kháng chiến, là làng cách mạng tuyệt đối trung
thành với Đảng, với cụ Hồ. Hãnh diện và khoe làng trở thành một phần không
thể thiếu trong cuộc sống của ông lão.
- Với nghệ thuật kể chuyện tài tình, KL đã giúp người đọc hình dung được tâm
trạng, tình cảm của ông Hai với làng. Ở đây nhà văn đã hóa thân vào nhân vật
ông Hai một cách tài tình để thể hiện nỗi nhớ làng luôn luôn thường trực, cháy
bỏng, tha thiết trong lòng ông. “Ông lại nghĩ về cái làng của ông”. Những ký ức
về làng trở thành niềm an ủi, động viên ông Hai mỗi khi chán nản, mệt mỏi. Nhớ
làng, ông lão lại tha thiết muốn được trở về nơi đã gắn bó máu thịt ấy: Ông lại
muốn về làng, lại muốn được cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân
đá.” Mỗi lúc như thế, trong ông lại trào dâng một nỗi nhớ khôn nguôi : “Chao
ôi! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá!”
=> Với ông, ngôi làng vốn là một điều gì đó vô cùng thiêng liêng và đẹp đẽ.
Tâm sự của ông Hai là tâm sự của một người gắn bó với làng tha thiết, yêu làng
bằng một niềm tự hào chân chính.
b. Luận cứ 2: Bên cạnh tình yêu làng, ở ông Hai còn có tinh thần kháng
chiến:
- Cuộc sống nơi ở mới dù bộn bề vất vả, nhưng ngày nào ông lão cũng ra phòng
thông tin để theo dõi tin tức k/c.
- Trên đường đến phòng thông tin, ông lão không giấu được niềm vui, sự thích
thú của mình khi nghĩ tới việc lũ giặc đang chịu sự đày đọa ghê gớm dưới cái
nắng vô cùng oi ả. Niềm vui có phần hơi thái quá khiến cho ông lão có những cử
chỉ, hành động khó hiểu “Gặp ai quen ông lão cũng níu lại, cười cười: “Nắng
này là bỏ mẹ chúng nó”. Chi tiết nhỏ ấy đã bộc lộ rất rõ thái độ căm thù của
ông lão đối với lũ giặc cướp nước.
- Đến phòng thông tin, niềm vui của ông lão càng nhân lên gấp bội khi ông được
nghe liên tiếp những tin tức thắng lợi. Đến đây, nhà văn đã kết hợp giữa lời kể
và lời độc thoại nội tâm của nhân vật, từ đó tái hiện rất cụ thể, sinh động những
tình cảm, cảm xúc của ông Hai. Qua những dòng độc thoại ấy ta thấy rõ sự
ngưỡng mộ, thán phục của ông Hai trước những chiến công vang dội của quân
ta. Từ một em bé đến đội nữ du kích Trưng Trắc, đối với ông Hai họ tinh là
những người tài giỏi cả… Những thắng lợi dồn dập ấy làm cho ông lão phấn
khởi, lạc quan, tin tưởng vào tương lai tất thắng của cuộc kháng chiến “gì rồi
mà thằng Tây không bước sớm”. Tâm trạng ông lão phấn chấn vui vẻ hẳn lên
“ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!”

64
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
=> Nếu tình yêu làng quê là thứ tình cảm tự nhiên mang tính truyền thống của
con người Việt Nam thì tinh thần kháng chiến lại là nét tâm lí mới mẻ chỉ có ở
người nông dân sau cách mạng. Ông Hai đã gắn buồn vui của bản thân với thành
bại của kháng chiến. Ông cũng như rất nhiều người nông dân của thời kì đó
không chỉ yêu làng mà còn biết quan tâm đến những vấn đề thời sự, chính trị,
những vấn đề có liên quan mật thiết đến vận mệnh của đất nước. Đó chính là
biểu hiện của tình yêu nước trong hoàn cảnh lịch sử bấy giờ.
2. LĐ 2: Tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu Việt gian theo
Tây
( Khái niệm và vai trò của tình huống truyện) Ngòi bút miêu tả tâm lí của KL
càng tỏ ra sâu sắc khi đặt nhân vật ông Hai vào một tình huống thử thách gay
cấn để làm bộc lộ chiều sâu tâm trạng của nhân vật, từ đó làm nổi rõ tính cách
nhân vật và chủ đề của tác phẩm. Đó là tình huống ông Hai đột ngột nghe tin dữ:
làng chợ Dầu của ông Việt gian theo Tây. Tình huống ấy chính là chìa khóa để
nhà văn mở cánh cửa tâm hồn, tình cảm của nhân vật.
a. Luận cứ 1: Hoàn cảnh, cảm xúc khi nghe tin đồn:
Trước khi để ông Hai nghe tin dữ từ những người tản cư dưới xuôi lên, nhà văn
đặt nhân vật trong một tâm trạng đang rất phấn chấn trước những tin thắng lợi
của kháng chiến: “Bao nhiêu ý nghĩ vui thích chen chúc trong đầu óc”. Cách tạo
ra những mảng tâm lí đối lập nhau như vậy nhằm làm nổi bật tâm trạng của ông
Hai khi nghe tin làng chợ Dầu VG theo Tây.
- Tin đồn đến với ông quá đột ngột, khi ông đang đầy tin tưởng về tinh thần
kháng chiến của làng mình. Nghe đám người tản cư nói giặc vào làng Dầu, ông
lão đã hỏi mà như khẳng định: “Thế ta giết được bao nhiêu thằng?”. Nhưng
câu trả lời lạnh lùng của đám người tản cư như một gáo nước lạnh dội thẳng vào
người ông lão: “Có giết được thằng nào đâu, cả làng chúng nó theo Tây còn
giết gì nữa!” khiến ông bàng hoàng đau đớn đến chết lặng, đến nỗi " Cổ ông
lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như đến
không thở được". ->KL đã tái hiện thật cụ thể chân thực nét tâm lí nổi bật của
nhân vật qua nét mặt, cử chỉ, điệu bộ. Cái tin đồn như sét đánh ngang tai ấy
chẳng khác nào một luồng điện mạnh chi phối khắp cơ thể ông lão khiến ông
đau đớn, uất nghẹn chẳng thể nói được thành lời. Đó là nỗi bàng hoàng đến sững
sờ, tê tái.
- Khi trấn tĩnh lại được phần nào, ông lão cố gặng hỏi “có thật không hở
bác? Hay là chỉ lại…”. Một câu hỏi lửng chất chứa bao nhiêu hi vọng của ông
lão rằng cái tin đồn kia chỉ là thất thiệt. Nhưng những người tản cư đã kể lại
rành rọt quá, khiến ông không thể không tin.
- Sợ người ta phát hiện ra mình là người làng chợ Dầu, ông Hai có hành động
như chạy trốn. Ông trả tiền nước đứng dậy chèm chẹp miệng, cười nhạt một
tiếng, vươn vai nói to " Hà! Nắng gớm, về nào ! "
=> Với cách kể, cách tả sinh động, tác giả đã cụ thể hóa cảm xúc bàng hoàng
của nhân vật khi nghe dữ về làng mình. Cái tiếng rặn è è trong cổ họng, cái
giọng lạc hẳn đi, cái chèm chẹp miệng cười nhạt... tất cả đã vô tình làm lộ rõ

65
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
tâm trạng của ông, con người thực của ông. Đọc đến đây người đọc cũng thấy
hồi hộp, lo lắng cùng với nhân vật...
b. Luận cứ 2: Diễn biến tâm trạng ông Hai sau khi nghe tin đồn.
Nếu Nghệ thuật miêu tả tâm lí con người là thước đo tài năng người nghệ sĩ thì
Kim Lân xứng đáng là bậc thầy. Từ tình huống độc đáo, nhà văn đi sâu khám
phá tâm lý của nhân vật một cách tài tình, tinh tế và độc đáo.
- Trên đường về tâm trạng ông lão như nặng nề, u ám hẳn:“Ông Hai cúi gằm
mặt xuống mà đi”, điệu bộ như chạy trốn ấy khác hẳn dáng vẻ nghênh ngang,
vui vẻ lúc ra đi của ông lão. Dường như ông không muốn ai bắt gặp mình lúc
này. Trong suy nghĩ của ông, thoáng xuất hiện hình ảnh mụ chủ nhà lắm điều
nhiều chuyện như thêm một mối lo chất chồng lên tâm can ông lão.
- Về đến nhà ông chán nản nằm vật ra giường, nhìn lũ con, tủi thân, “nước mắt
ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó
cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?” Ông lão thương con, hay cũng tủi
thân cho chính mình, thương cho niềm tin tưởng, tự hào bấy lâu của mình về
làng sụp đổ.
+ Càng thương con, ông càng căm thù lũ người làng bán nước, lời độc thoại của
ông chất chứa bao căm hờn: “ Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồn
mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này!” Nhưng chửi rồi,
ông lão lại thấy lời mình chưa đúng, vì người làng “đều là những người có tinh
thần cả mà”. Lại một tia hi vọng lóe lên trong tâm trí ông. Nhưng trong đầu ông
nảy ra bao nhiêu câu hỏi đau đớn, nghi hoặc, phân vân: Không có lửa làm sao
có khói?... Hi vọng để rồi thất vọng, tuyệt vọng, đau đớn khổ sở hơn.
=> Nhà văn đã để cho ông Hai lặng lẽ suy nghĩ, phân tích, lí giải, khẳng định rồi
phủ định về cái tin đồn ấy, về hậu họa của của nó với chính ông, với bà con, với
tương lai làng chợ Dầu. Không yêu làng với tình yêu máu thịt thì ông lão đâu
phải đau đớn, dằn vặt đến như vậy.
- Đến đây nhà văn lại dụng công tạo dựng cuộc đối thoại không bình thường
giữa hai nhân vật. Bà Hai gợi chuyện nhưng ông Hai không muốn bắt lời. Khi
nghe vợ nhắc đến chuyện tin đồn, ông lão đã chặn ngang lời bà: “Biết rồi!”. Tái
hiện lại cuộc đối thoại này tác giả KL đã làm nổi bật được tâm trạng chán
chường, buồn bã, đau khổ và thất vọng của ông Hai nó biến thành thái độ bực
tức vô lý của ông lão với người vợ tội nghiệp.
- Tin đồn ám ảnh tâm trí ông suốt đêm hôm ấy: Ông lão trằn trọc không sao
ngủ được, trở mình bên này, trở mình bên kia, thở dài… Cái tin sét đánh ấy
cứ ám ảnh day dứt trong tâm trí ông, khiến ông trăn trở vô cùng. Ông lão như
gặp ác mộng khi nghe tiếng mụ chủ: Chợt ông lặng hẳn đi, chân tay nhủn ra
tưởng chừng như không cất lên được… trống ngực đập thình thịch, nín thở,
lắng tai nghe…. Ông sợ mụ đang bàn tán, mỉa mai chế giễu chuyện làng ông
theo giặc. Ông lão nín thở nghe ngóng, nơm nớp lo lắng không yên…
c. Luận cứ 3: Diễn biến tâm trạng ông Hai mấy ngày sau đó:
Tin đồn dữ về làng như biến ông Hai thành con người hoàn toàn khác. Mấy
hôm sau, ông lão chỉ ru rú ở xó nhà, chẳng dám đi đâu, suốt ngày ở một xó mà

66
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
nghe ngóng binh tình bên ngoài. Ông trốn tránh thực tế. Lúc nào ông cũng ở
trong tâm trạng lo sợ, tủi hổ.
=> Nỗi ám ảnh nặng nề đã biến thành sự sợ hãi thường trực trong ông Hai.
Phải yêu làng mình biết bao nhiêu thì ông lão mới khổ tâm đến như vậy.
- Câu chuyện được đẩy đến cao trào khi gia đình ông bị mụ chủ nhà đuổi đi. Đến
đây nhà văn đã thật khéo léo khi diễn tả một cuộc xung đột nội tâm trong lòng
ông lão. Ông đau đớn nhận ra thật là đã tuyệt đường sinh sống, ông đã có ý
nghĩ: hay là quay về làng ? Song vừa chớm nghĩ như vậy ông lão đã lập tức
phản đối ngay. Ông đã dứt khoát lựa chọn theo cách của mình: Làng thì yêu
thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù. Suy nghĩ của người nông dân
thuần phác ấy thật chân thành, cảm động.
-> Như vậy ở ông Hai tình yêu nước đã rộng lớn hơn, bao trùm lên tình cảm với
làng quê. Nhưng dù đã xác định như thế, ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm với
làng quê, vì thế mà càng đau xót, dằn vặt, giằng xé.
- Và những buồn khổ, bế tắc ấy, ông Hai chỉ biết chia sẻ với đứa con út.
+ Đó là cuộc đối thoại nhưng thực chất lại là cuộc độc thoại nội tâm: ông Hai
thủ thỉ tâm sự với đứa con nhưng cũng là ông đang tự nói với chính mình trong
tâm tưởng.
+ Trong những lời chuyện trò đầu tiên của ông Hai với con, ông muốn con ghi
nhớ một điều đối với ông là rất sâu sắc, thiêng liêng : nhà ta ở làng chợ Dầu.
Ta cảm nhận được ẩn sau câu chữ là tình yêu sâu nặng của ông Hai với cái làng
chợ Dầu yêu quý. Thì ra, tình yêu làng quê ở ông trước sau vẫn son sắt dù có lúc
ông đã tức giận và đau đớn tự nhủ phải thù.
+ Người đọc càng xúc động hơn nữa khi dõi theo đoạn đối thoại của hai bố con
ông. Khi thằng bé ngây thơ giơ tay lên mạnh bạo và rành rọt: ủng hộ cụ HCM
muôn năm thì nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông khóc
vì quá cảm động, vì thấy đứa con đã vô tình nói đúng vào nỗi lòng gan ruột của
ông. Lời con như khiến ông lão nhẹ nhõm hơn, hay như một lời minh oan của
ông lão cho chính mình. Đó chính là những lời độc thoại nội tâm tự đáy lòng sâu
thẳm của ông Hai: Anh em đồng chí biết cho bố con ông, cụ Hồ trên đầu trên
cổ xét soi cho bố con ông. Cái lòng của bố con ông là như thế, chết thì chết có
bao giờ dám đơn sai. Ta cảm nhận được tấm lòng thủy chung, sự trung thành
tuyệt đối của ông Hai với cách mạng, kháng chiến, với cụ Hồ. Tình cảm ấy rất
bền vững, sâu nặng và thiêng liêng.
=> Ở ông Hai, tình yêu làng quê gắn bó chặt chẽ với tình yêu nước với tinh thần
kháng chiến đang lên cao của cả dân tộc. Qua đó ta thấy được tài năng miêu tả
tâm lý bậc thầy của Kim Lân.
3. Luận điểm 3: Tâm trạng của ông Hai khi nghe tin cải chính
- Tin cải chính như liều thuốc hồi sinh với ông Hai:"Cái mặt buồn thiu mọi
ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên".
- Ông khoe khắp nơi: "Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn". Nhà ông- thứ tài
sản lớn nhất của cả một đời người nông dân- bị đốt nhẵn, đáng lẽ ra ông phải
buồn, phải đau khổ lắm chứ. Nhưng ông đang tràn ngập trong niềm vui vì thoát
khỏi cái ách "người làng Việt gian". Cái tin nhà ông bị đốt là minh chứng xác

67
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
nhận làng ông không theo Tây. Vì thế mà ông lão vui mừng đến phấn khích, lật
đật đi khắp nơi mà khoe về nó. Mâu thuẫn mà vẫn hết sức hợp lí, điểm này cũng
là sự sắc sảo, độc đáo của ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn Kim
Lân.
=> Cách tháo gỡ tình huống của nhà văn rất tự nhiên, hợp lí. Qua đó càng tô
đậm tình yêu làng quê, yêu đất nước của người nông dân trong kháng chiến.
4. Bình giá:
a. Nghệ thuật:
- Tạo tình huống truyện độc đáo để nhân vật bộ lộ nội tâm một cách tự nhiên và
làm sáng lên tư tưởng chủ đề của tác phẩm
- Truyện đặc biệt thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc,
tinh tế, chân thực và sinh động.
- Đặc biệt nhà văn đã rất khéo léo trong việc sử dụng ngôn ngữ đối thoại và độc
thoại nội tâm để thể hiện tâm lí nhân vật. Ngôn ngữ mang đậm dấu ấn lời ăn
tiếng nói của người nông dân BB.
b. Nội dung: viết về tình yêu làng quê, yêu đất nước- nguồn cảm hứng quen
thuộc của văn học đông tây, kim cổ. Đây là mảnh đất màu mỡ nhưng rất đỗi
quen thuộc,tưởng như đã được cày sâu cuốc bẫm bởi những tên tuổi lớn như
Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao… , song trên mảnh đất xưa cũ ấy
nhà văn Kim Lân đã gieo trồng lên một cây đại thụ rất vững giữa lòng người và
thách thức với thời gian.
**************************************
BÀI 15. LẶNG LẼ SA PA- NGUYỄN THÀNH LONG.
Câu 1: Tác giả.
- Nguyễn Thành Long là cây bút chuyên viết về truyện ngắn và ký.
- Phong cách: Thế giới nghệ thuật của ông không nằm ở những phát hiện mới
mẻ, độc đáo mà chủ yếu khai thác vẻ đẹp trong trẻo, đầy chất thơ của thiên
nhiên và con người.
- Tác phẩm chính: tập truyện: “Giữa trong xanh”…
Câu 2: Hoàn cảnh sáng tác:
- Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa viết năm 1970, là kết quả chuyến đi thực tế Lào
Cai của nhà văn, được in trong tập Giữa trong xanh.
Câu 3: Ý nghĩa nhan Lặng lẽ Sa Pa
“Lặng lẽ” được đưa lên đầu câu để nhấn mạnh vẻ đẹp thầm lặng, bình dị của
thiên nhiên Sa Pa- mảnh đất được thiên nhiên ưu ái; Nhưng điều quan trọng là
nhấn mạnh vào những con người lao động mới- những con người vô danh, đang
lặng lẽ cống hiến hết mình cho quê hương, đất nước. Nhan đề “Lặng lẽ Sa Pa”
hàm chứa cả đề tài, chủ đề và cả tình cảm của tác giả gửi gắm vào tác phẩm. Nó
là nét đặc sắc của Nguyễn Thành Long khi đặt tên cho tác phẩm của mình.
Câu 4: Ý nghĩa cách đặt tên nhân vật:
Nhân vật trong truyện không có tên riêng mà được gọi theo nghề nghiệp, lứa
tuổi như: ông họa sĩ, cô kĩ sư, anh thanh niên, bác lái xe… Đây là cách đặt tên
mang đầy dụng ý nghệ thuật của nhà văn:

68
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
- Trước hết, họ đều là những con người lao động bình thường, làm những công
việc bình thường mà ta có thể bắt gặp ở bất cứ đâu trong thời kì miền Bắc xây
dựng CNXH.
- Cách đặt tên như vậy còn góp phần làm nổi bật tư tưởng chủ đề của tác phẩm:
ca ngợi sự cống hiến âm thầm, lặng lẽ mà vô cùng ý nghĩa cho quê hương, đất
nước của những con người lao động vô danh.
Câu 5: Biểu hiện chất thơ của truyện.
Chất thơ của tác phẩm văn xuôi thường biểu hiện qua từ ngữ; bức tranh thiên
nhiên; hình tượng nhân vật vượt lên trên thực tại của đời sống, của hoàn cảnh để
hướng đến vẻ đẹp mang tính chất lý tưởng. LLSP là một truyện ngắn giàu chất
thơ, chất thơ được thể hiện trong nhiều phương diện của tác phẩm:
- Chất thơ toát lên từ vẻ đẹp của thiên nhiên Sa pa thơ mộng, trữ tình.
- Chất thơ toát lên từ cuộc gặp gỡ tình cờ mà để dư vị đẹp đẽ của ba con người
trên đỉnh núi cao.
- Chất thơ còn thể hiện trong những câu chuyện của người thanh niên, trong cảm
xúc, suy ngẫm của hai vị khách từ những câu chuyện đó.
- Đặc biệt, chất thơ thể hiện rất rõ ở hình tượng nhân vật anh thanh niên-một
chàng trai đầy hoài bão lý tưởng đẹp với thái độ sống tích cực và cuộc sống một
mình tuyệt đẹp của anh.
Câu 5: Phân tích nhân vật anh thanh niên.
1. Luận điểm 1: Hoàn cảnh sống và làm việc của anh thanh niên:
- Qua lời giới thiệu của bác lái xe, người đọc có ấn tượng đầu tiên về nhân vật
chính: Một anh thanh niên 27 tuổi... làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa
cầu...một người cô độc nhất thế gian. Anh rất thèm người… Nó khơi gợi trí tò
mò và cũng giúp người đọc hình dung được một phần hoàn cảnh sống và làm
việc của anh.
- Anh thanh niên sống và làm việc một mình suốt bốn năm trên đỉnh núi Yên
Sơn cao 2600m. Nơi đây, anh chỉ biết bầu bạn với cỏ cây, mây núi Sa Pa. Câu
chuyện về khúc cây chắn ngang đường bốn năm trước của bác lái xe càng giúp
hai vị khách và người đọc cảm nhận rõ hơn hoàn cảnh sống cô độc tuyệt đối của
anh.
- Hơn nữa, công việc của anh là làm khí tượng kiêm vật lí địa cầu trong điều
kiện khắc nghiệt của thiên nhiên Sa Pa- nơi có cái lạnh cắt da cắt thịt, có cả mưa
lớn, tuyết rơi.
=> Điều kiện sống và làm việc đã đặt anh trước hai thử thách lớn đó là nỗi cô
đơn thèm người và sự khắc nghiệt của thời tiết ở độ cao 2600m so với mực nước
biển. Vậy điều gì đã giúp anh vượt qua những thử thách ấy? Phải chăng chính là
ý chí, nghị lực, và sức mạnh tinh thần bên trong đã giúp anh vượt lên tất cả để
sống một cuộc đời đầy ý nghĩa
2. Luận điểm 2: Những nét đẹp tâm hồn đáng quý:
a. Luận cứ 1: Anh thanh niên là người sống có lý tưởng, say mê công việc,
lặng lẽ cống hiến hết mình cho công việc:
Theo chân hai vị khách lên thăm nhà anh thanh niên, trò chuyện cùng anh trong
30 phút nghỉ chân ngắn ngủi của chuyến xe đò, người đọc dần thấy được những

69
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
nét phẩm chất rất đáng quý ở người thanh niên trẻ tuổi ấy. Trước hết, anh là
người sống có lý tưởng, có niềm say mê công việc, lặng lẽ cống hiến hết
mình cho công việc mình làm.
- Gặp hai vị khách quý, quỹ thời gian có hạn mà trong câu chuyện của anh, ta
chỉ thấy công việc.
+ Anh kể vắn tắt nhưng cụ thể về công việc tưởng như đơn điệu nhàm chán của
mình bằng một giọng say sưa, chân thành: cháu ở đây có nhiệm vụ đo gió, đo
mưa, đo chấn động mặt đất... Câu văn liệt kê một núi công việc mà giọng kể
của anh cứ nhẹ như không. Anh còn hào hứng giới thiệu với khách về các loại
máy móc phục vụ cho công việc của mình mà anh đã thuộc làu vị trí, tính năng,
công dụng của chúng. Qua lời anh kể, những cỗ máy vô tri như trở thành người
cộng sự đắc lực của anh vậy: “Đây là máy móc của cháu...cái này là máy nhật
quang kí… còn đây là máy Vin…”.
+ Người trai trẻ ấy hiểu rất rõ tính chất của công việc mình đang làm: Công việc
nói chung dễ chỉ cần chính xác. Anh đã lập ra một thời gian biểu cụ thể và thực
hiện nó một cách nghiêm túc, tự giác bất kể mưa lớn hay tuyết rơi: Ghi và báo
về những con số vào các giờ ốp: 1h sáng, 4h sáng, 11h trưa, 7h tối…
+ Anh còn tâm sự với khách về những khó khăn mà anh gặp phải trong công
việc: Gian khổ nhất là lúc ghi và báo về lúc 1h sáng. Nửa đêm chuông đồng
hồ kêu mà chỉ muốn đưa tay tắt đi, một mình với ngọn đèn bão vặn to đến cỡ
nào cũng không đủ sáng. Xách đèn ra vườn, gió tuyết và im lặng ở bên ngoài
như chỉ chực đợi mình ra là ào ào xô tới... Những lời kể rất đỗi giản dị chân
thành của anh đã giúp người đọc hình dung rất rõ hoàn cảnh và công việc mà
anh đang làm. Trong cái lặng im và lạnh cóng của gió tuyết đêm khuya, anh trở
dậy làm nhiệm vụ. Xong việc trở vào không thể nào ngủ lại được nữa. Khó khăn
là vậy, thử thách là vậy, mà anh vẫn luôn hoàn thành tốt công việc của mình
suốt bốn năm trời. Không có niềm say mê, không có lý tưởng sống và cống hiến,
thử hỏi sao người con trai ấy có thể làm được những điều diệu kì như vậy?
+ Có tinh thần trách nhiệm cao với công việc, nên dù rất mến khách, rất thèm
người nhưng anh vẫn không tiễn khách ra về để kịp giờ ốp. Chi tiết nhỏ những
khiến người đọc thực sự cảm động trước tinh thần trách nhiệm và sự tự giác của
người trai trẻ trong công việc.
- Nhà văn tiếp tục để cho nhân vật tự bộc bạch về công việc của mình: Khi ta
làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi công
việc của cháu gắn với công việc của bao anh em đồng chí dưới kia. Công việc
của cháu gian khổ thế đấy chứ cất nó đi cháu buồn đến chết mất. Mình sinh
ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc ... Đáng quý và cảm động biết
bao những suy nghĩ đúng đắn, sâu sắc của anh về cuộc sống, về công việc. Với
anh, công việc tưởng như nhàm tẻ, đơn điệu kia chính là người bạn, là niềm vui,
lẽ sống của anh. Có công việc, anh không thấy mình lẻ loi, đơn độc chút nào.
- Sở dĩ anh yêu và gắn bó với công việc mình làm bởi anh nhận thấy ý nghĩa của
nó :“ dự vào việc báo trước thời tiết hàng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến
đấu”. Anh từng góp phần lập chiến công phát hiện một đám mây khô giúp
không quân ta hạ được bao nhiêu phản lực Mĩ trên cầu Hàm Rồng… Từ đó, anh

70
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
thấy mình thật hạnh phúc bởi anh biết rằng công việc nhỏ bé, thầm lặng của
mình đã góp phần vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc.
=> Anh luôn ý thức được tinh thần trách nhiệm, muốn cống hiến nhiều hơn cho
quê hương đất nước. Chính quan niệm đẹp đẽ ấy đã tạo ra nguồn sức mạnh tuyệt
vời giúp anh vượt qua mọi khó khăn thử thách, vượt qua sự cô đơn trên đỉnh núi
cao heo hút... để luôn hoàn thành tốt công việc của mình. Và cũng chính tình
yêu mãnh liệt với công việc đầy gian khổ, thử thách ấy ở anh đã tiếp thêm lửa
cho người nghệ sĩ già trên con đường nghệ thuật dài ông đã đi và đang tới, tiếp
thêm sức mạnh, niềm tin cho cô kĩ sư trẻ bước tiếp con đường lý tưởng của
mình.
b. Luận cứ 2: Anh là người cởi mở, hiếu khách, luôn yêu quý mọi người
xung quanh
Bức chân dung của người trai trẻ cứ hiện dần ra theo câu chuyện của ba nhân
vật. Không chỉ là người say mê công việc, anh thanh niên còn rất đáng mến ở
sự cởi mở, chân thành với mọi người.
- Sống và làm việc một mình, nên anh luôn khao khát được gặp gỡ, trò chuyện
với mọi người. Bốn năm trước, anh đẩy khúc cây chắn ngang đường để có cơ
hội gặp gỡ với mọi người. Từ đó, anh đã có thêm một người bạn quý là bác lái
xe.
- Với anh, bác lái xe không khác gì một người thân. Biết bác gái mới ốm dậy,
anh biếu bác gói tam thất anh tự đào. Một hành động nhỏ mà thể hiện sự quan
tâm rất chân thành, chu đáo của anh.
- Nhưng tấm lòng hiếu khách của anh còn tỏ rõ trong thái độ, cách thức anh đón
tiếp hai vị khách lạ tình cờ gặp gỡ.
+ Biết khách lên thăm nhà, anh vội vàng chạy về trước để hái hoa tặng cho cô
gái, pha sẵn ấm trà ngon để khách lên có nước uống ngay. Anh sung sướng nói
to lên những điều đáng lẽ người ta chỉ nghĩ: Tôi không biết kỉ niệm thế nào cho
thật long trọng ngày hôm nay. Bác và cô là đoàn khách thứ hai đến thăm nhà
tôi từ Tết. Và cô là cô gái thứ nhất từ Hà Nội lên tới nhà tôi từ bốn năm nay.
Thì ra, sự hiện diện tình cờ của hai vị khách lạ lại là một sự kiện trọng đại đáng
ghi nhớ đối với anh.
+ Anh trân trọng từng phút giây được gặp gỡ, trò chuyệ với mọi người, anh kể
cho khách nghe về cuộc sống, về công việc của mình một cách rất chân thành,
gần gũi như thể họ đã thân quen nhau tự bao giờ. Anh muốn tận dụng từng giây
phút quý giá để được nghe chuyện dưới xuôi. Bởi vậy, khi cuộc gặp gỡ sắp kết
thúc, anh nói to lên đầy tiếc nuối: Trời ơi, chỉ còn có năm phút!
+ Lúc chia tay, anh không quên tặng cho khách làn trứng gà cùng lời dặn dò chu
đáo, ân cần: “cái này để ăn trưa cho bác, cô và bác lái xe.”
=> Dù sống một mình trên đỉnh núi cao heo hút suốt bốn năm ròng, nhưng anh
thanh niên không sống khép mình, quay lưng với thế giới bên ngoài, ngược lại,
anh luôn quí trọng tình cảm của mọi người, biết quan tâm chia sẻ và luôn tìm
được mối dây liên hệ bền chặt với mọi người. Chính vì lẽ đó khi gặp anh, ông
họa sĩ thấy: Người con trai ấy đáng yêu thật, còn cô gái cảm thấy một ấn
tượng hàm ơn khó tả dạt lên trong lòng. Đó chính là những vang âm từ một

71
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
cách sống đẹp của một con người luôn biết sống vì mọi người. Điều ấy càng thôi
thúc người họa sĩ già muốn trở lại thăm anh và muốn hoàn thành bức họa về
anh.
c. Luận cứ 3: Anh là con người khiêm tốn một cách thành thực:
Hình tượng anh thanh niên ở đây đã kết tinh những vẻ đẹp của con người lao
động mới, vừa có những nét mới mang dấu ấn thời đại, vừa có những phẩm chất
mang tính truyền thống của con người VN muôn đời, đó là sự khiêm tốn. Anh
thành thực cảm thấy công việc và những đóng góp của mình chỉ là nhỏ bé, bình
thường so với cống hiến của bao người khác.
- Anh phân chia quỹ thời gian gặp gỡ, chỉ dành 5 phút kể về công việc của mình,
còn 20 phút uống chè và muốn được nghe chuyện dưới xuôi từ hi vị khách quý.
- Nghe ông họa sĩ nhắc lời bác lái xe rằng “anh là người cô độc nhất thế gian”,
anh đã thanh minh thành thực rằng nếu xét về sự gian khổ và đơn độc, anh chưa
thể vất vả bằng người bạn đồng nghiệp trên đỉnh trạm đỉnh Phan xi păng 3142m.
- Nghiêm túc, hết mình vì công việc, anh lập được chiến công và được mọi
người ghi nhận, nhưng anh vẫn thấy đóng góp của mình chưa thể sánh với người
cha đang chiến đấu nơi chiến trường, như lời anh kể: “ chưa hòa đâu bác ạ.
Nhưng từ hôm ấy, cháu sống thật hạnh phúc.”
- Đặc biệt khi người họa sĩ vẽ anh, anh đã từ chối thành thực vì cho rằng mình
không xứng đáng được vẽ. Anh giới thiệu với người họa sĩ những người khác
mà anh cho là xứng đáng được vẽ hơn. Đó là ông kĩ sư vườn rau dưới Sa Pa hay
đồng chí nghiên cứu khoa học dưới cơ quan anh. Theo anh đó mới chính là
những bức chân dung đẹp nhất dành cho tác phẩm hội họa của nhà họa sĩ.
=> Anh sống và làm việc hết mình, nhưng anh không bao giờ đề cao bản thân,
không bao giờ cho những cống hiến của mình là đủ mà luôn khao khát làm được
nhiều điều hơn nữa cho đời. Đồng thời, anh luôn trân trọng, ngưỡng mộ đóng
góp của những người xung quanh. Đó chính là biểu hiện của lối sống khiêm tốn,
khiêm nhường rất đáng ngợi ca, học tập.
d. Luận cứ 4: Anh là người rất yêu đời và luôn biết tạo dựng cho mình một
cuộc sống đầy ý nghĩa:
Qua mỗi trang viết của nhà văn, hình ảnh chàng trai 27 tuổi lại hiện ra rõ hơn.
Anh không chỉ yêu công việc, yêu con người mà anh còn rất yêu đời, luôn tự
tạo cho mình một cuộc sống đầy ý nghĩa.
- Anh biết tổ chức sắp xếp cuộc sống một cách khoa học, ngăn nắp. Theo chân
ông họa sĩ và cô kĩ sư, chúng ta được thấy nơi ở của anh: một căn nhà ba gian
sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm. Cuộc đời riêng
của ATN thu gọn lại trong góc trái gian với một chiếc giường con, một chiếc
bàn học, một giá sách. Căn nhà nhỏ vừa là nơi ở, vừa là nơi làm việc với biết
bao loại sổ sách, máy móc nhưng đều được anh sắp xếp rất ngăn nắp, gọn gàng,
khoa học. Như vậy, anh chạy về trước là để pha trà, để hái hoa tặng khách chứ
không phải để thu dọn nhà cửa khi khách tới thăm bất ngờ như nhà họa sĩ thầm
nghĩ.
+ Anh biết sống cho sự nghiệp chung lớn lao và cũng biết sống cho riêng mình.
Sống một mình nơi heo hút, vắng lặng quanh năm nhưng cuộc sống của anh vẫn

72
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
đầy đủ, phong phú, không nhàm chán, đơn điệu: Anh tự nuôi gà trứng ăn không
xuể, anh trồng hoa, một vườn hoa rực rỡ sắc màu khiến họa sĩ và cô kĩ sư hết
sức bất ngờ.
+ Anh lại có một giá sách để đọc ngoài giờ làm việc... Những cuốn sách đã trở
thành người bạn vô cùng thân thiết của anh. Khi bác lái xe đưa cho anh những
cuốn sách mà bác mua hộ anh, anh mừng quýnh lên. Anh nói với cô gái: “Cô
thấy đấy, lúc nào tôi cũng có người trò chuyện. Nghĩa là sách ấy mà. Mỗi
người viết một vẻ”. Sách không chỉ giúp anh nâng cao hiểu biết mà nó còn giúp
anh khuây khỏa trong những phút giây rảnh rỗi. Sách rọi vào cuộc sống của anh
một nguồn sáng lấp lánh, xua đi trong anh nỗi buồn vắng cô đơn khi anh chỉ có
một mình trên đỉnh núi cao heo hút. Có thể nói say mê đọc sách là một thói
quen, một đức tính đáng quý ở anh.
=> Có thể nói, cuộc sống của anh thanh niên trên đỉnh núi cao là một cuộc sống
phong phú cả về vật chất và tinh thần. Đó là một cuộc sống chủ động, làm chủ
mình và có ích cho đời. Đó cũng là vẻ đẹp chung của những con người lao động
trong thời kì mới, những con người như nhà thơ Tố Hữu ca ngợi:
Tập làm chủ, tập làm người xây dựng
Dám vươn mình cai quản cả thiên nhiên.
III. Bình giá tổng hợp
- Truyện thành công ở nghệ thuật xây dựng nhân vật: Là nhân vật trung tâm
nhưng anh thanh niêm không xuất hiện trực tiếp ngay từ đầu tác phẩm mà xuất
hiện gián tiếp qua lời giới thiệu của bác lái xe. Nhân vật chính được khéo léo soi
chiếu qua góc nhìn, suy nghĩ, cảm xúc của các nhân vật phụ, từ đó làm nổi bật
nhân vật chính và chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Nhờ đó nhân vật anh thanh
niên hiện ra càng rõ nét và đẹp hơn, gợi ra nhiều ý nghĩa như đã được lọc qua
thứ ánh sáng tâm hồn trong trẻo và rực rỡ, làm cho hình ảnh ấy rạng rỡ hơn, ánh
lên nhiều sắc màu hơn.
- Cách xây dựng tình huống truyện nhẹ nhàng và đầy nghệ thuật, đồng thời là vẻ
đẹp chất thơ bàng bạc, dịu nhẹ giăng tơ khắp thiên truyện cũng là một yếu tố tạo
nên sức hấp dẫn của tác phẩm.
- Nhân vật chỉ hiện ra trong thoáng chốc, nhưng đủ để các nhân vật khác kịp ghi
nhận một ấn tượng, một kí họa chân dung về anh rồi dường như anh lại khuất
lấp vào trong mây mù bạt ngàn và cái lặng lẽ muôn thuở của núi cao Sa Pa. Từ
đó làm bật lên tư tưởng chủ đề của tác phẩm: Trong cái lặng im … đất nước.
Câu 6. Phân tích các nhân vật khác trong truyện.
1. Nhân vật ông họa sĩ:
Đây là nhân vật quan trọng trong tác phẩm vì rất gần với quan điểm trần thuật
của tác giả. Có thể nói tác giả đã hóa thân vào nhân vật này để nghĩ về người và
đất Sa Pa.
- Khi nghe người lái xe kể về chàng trai trẻ cô độc nhất thế gian họa sĩ đã bất
ngờ và tò mò muốn gặp. Lúc đến thăm nơi ở của anh, ông lại bị bất ngờ lần nữa.
- Ngay từ phút đầu gặp anh thanh niên, được nghe anh kể lại công việc của
mình, bằng sự từng trải nghề nghiệp và niềm khao khát của người nghệ sĩ đi tìm
đối tượng của nghệ thuật, ông đã vô cùng xúc động và bối rối: Vì họa sĩ đã bắt

73
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
gặp một điều thật ra ông vẫn ao ước được biết, ôi, một nét thôi đủ khẳng định
một tâm hồn, khơi gợi một ý sáng tác. Và chỉ điều đó thôi đã đủ là giá trị một
chuyến đi dài. Ông xúc động và bối rối vì: người con trai ấy đáng yêu thật,
nhưng làm cho ông nhọc quá. Ông muốn ghi lại hình ảnh của anh thanh niên
bằng nét bút kí họa của mình bởi vì anh chính là bức chân dung ông đang khát
khao tìm kiếm.
- Chuyến đi làm cho ông hiểu rằng phía sau cái lặng lẽ kia của Sa pa thơ mộng
là âm vang và hương sắc kì diệu của cuộc sống con người. Có thể nói, chuyến đi
này là một thành công ngoài dự kiến của người họa sĩ.
Như vậy những xúc cảm và suy tư của nhân vật họa sĩ về người thanh niên, về
nghệ thuật... đã làm cho chân dung nhân vật chính thêm sáng đẹp và chứa đựng
những chiều sâu tư
2. Nhân vật cô kĩ sư
- Cô là kĩ sư trẻ mới ra trường tự nguyện nhận công tác ở một vùng đất xa xôi.
Cô chính là người thuộc lớp trẻ sống có lí tưởng, sẵn sàng rời bỏ chốn phồn hoa
đô hội để cống hiến cho TQ.
- Song cuộc sống mở ra trước mắt cô còn nhiều lạ lẫm, mới mẻ khiến cô không
khỏi bâng khuâng lo lắng về con đường mà mình đã lựa chọn. Và cuộc gặp gỡ
bất ngờ với người thanh niên, những điều anh nói, những câu chuyện anh kể...đã
khiến cô bàng hoàng, cô hiểu thêm cuộc sống một mình dũng cảm tuyệt đẹp của
người thanh niên, về cái thế giới những con người như anh, về con đường mà cô
đi tới. Cùng với sự bàng hoàng, một ấn tượng hàm ơn dạt lên trong lòng cô gái,
không phải chỉ vì bó hoa to mà anh đã tặng cô , mà còn vì bó hoa nào khác nữa,
bó hoa của những háo hức và mơ mộng ngẫu nhiên anh cho thêm cô.. Những
điều cô đã thấy, đã nghe làm cô tin hơn vào cuộc sống. Và trên chặng đường đi
tới, cô gái sẽ có đủ nghị lực vượt mọi khó khăn để cống hiến nhiều hơn nữa...
Như vậy có thể nói đó là sự bừng dậy của những tình cảm lớn lao, cao đẹp khi
người ta gặp được những ánh sáng đẹp đẽ tỏa ra từ cuộc sống, từ tâm hồn người
khác.
Những xúc cảm, suy tư của cô gái làm cho nhân vật anh thanh niên hiện ra rõ
nét hơn, đẹp đẽ hơn. Nhân vật cô kĩ sư cũng để lại nhiều cảm mến trong lòng
người đọc.
3. Nhân vật bác lái xe:
- Đây là một người dẫn chuyện dí dỏm, tự nhiên, vui tính. Bác lái xe chính là
cầu nối giữa các nhân vật. những câu chuyện và lời nhận xét của bác cũng góp
phần làm nhân vật chính là anh thanh niên hiện ra rõ nét và ấn tượng hơn.
- Nhân vật này cũng góp phần làm cho bức tranh cuộc sống và con người trong
truyện trở nên phong phú và sinh động hơn, câu chuyện cũng bởi vậy thêm hấp
dẫn, lôi cuốn.
4. Các nhân vật xuất hiện gián tiếp.
- Đây là các nhân vật không xuất hiện trực tiếp mà chỉ được giới thiệu gián tiếp
qua lời kể của anh thanh niên:
+ Anh bạn trên đỉnh trạm Phan xi Păng 3142 mét cũng giống như anh thanh
niên, sống và làm việc một mình trên đỉnh núi cao quanh năm chỉ có cỏ cây mây

74
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
mù lạnh lẽo- một con người mà anh thanh niên khâm phục: “Làm khí tượng, ở
được cao thế mới là lí tưởng chứ”.
+ Đó là ông kĩ sư dưới vườn rau Sa Pa hàng ngày ngồi trong vườn chăm chú
quan sát cách ong thụ phấn cho cây, rồi tự tay thụ phấn cho hàng vạn cây su hào
để tạo ra những giống cây trồng năng suất, chất lượng cao phục vụ nhân dân.
+ Đó là anh cán bộ nghiên cứu sét đã mười một năm ròng túc trực chờ sét để lập
bản đồ tìm tài nguyên làm giàu cho đất nước.
Họ tạo thành cái thế giới những con người như anh thanh niên, những con
người miệt mài lao động, cống hiến lặng thầm cho đất nước. Họ hi sinh cả cuộc
đời riêng vì sự nghiệp chung. Vẻ đẹp của các nhân vật này khiến ông họa sĩ già
cũng phải xúc động và sửng sốt, mà có lẽ cây cọ lão luyện cũng có thể là bất lực.
Nhưng đó lại chính là: một trang đời, một mảng, một nét của cuộc sống chắt
lọc ra. Những nhân vật này đã góp phần làm sáng đẹp hơn hình ảnh anh thanh
niên và chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
**************************************
BÀI 16. CHIẾC LƯỢC NGÀ
- Nguyễn Quang Sáng-
Câu 1: Tác giả:
- Nguyễn Quang Sáng là cây bút truyện ngắn xuất sắc của VHVN thời kì kháng
chiến chống Mĩ. Cảnh vật, con người và hơi thở nhịp sống trong tác phẩm
Nguyễn Quang Sáng đậm đặc màu sắc Nam Bộ.
- Phong cách: Màu sắc bi tráng với bao sự tích anh hùng, những tình huống hấp
dẫn đầy kịch tính và giàu chất thơ tạo nên cốt cách và vẻ đẹp trang văn ông
- Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng có nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết,
kịch bản phim và hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai
cuộc kháng chiến cũng như sau hòa bình.
- Năm 2000, ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học
nghệ thuật.
Câu 2. Hoàn cảnh sáng tác:
- Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được viết năm 1966–khi tác giả hoạt động ở
chiến trường Nam Bộ những năm kháng chiến chống Mĩ và được đưa vào tập
truyện cùng tên.
- Nói về hoàn cảnh viết truyện ngắn “Chiếc lược ngà”, Nguyễn Quang Sáng tâm
sự:
“Năm 1966, tôi từ miền Bắc trở về miền Nam. Vùng Đồng Tháp Mười mênh
mông nước trắng. Tôi đi ghe vào sâu trong rừng và sống ở một nhà sàn treo
trên ngọn cây. Lúc đó, đoàn giao liên dẫn đường toàn là nữ. Tôi rất có ấn tượng
với câu chuyện của một cô gái giao liên có chiếc lược ngà trắng. Sau khi nghe
cô kể chuyện, tôi ngồi viết một ngày, một đêm là hoàn thành tác phẩm này”.
Câu 3. Tình huống truyện: Truyện được xây dựng trên hai tình huống cơ
bản:
- Tình huống 1: Đó là cuộc gặp gỡ của hai cha con ông Sáu sau tám năm xa
cách, nhưng thật trớ trêu là bé Thu không nhận cha, đến lúc em nhận ra và biểu
lộ tình cảm thắm thiết thì ông Sáu lại phải lên đường.

75
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
- Tình huống 2: Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương và lòng mong
nhớ đứa con vào việc làm cây lược ngà để tặng con, nhưng ông đã hi sinh khi
chưa kịp trao món quà ấy cho con gái.
=> Như vậy, nếu ở tình huống thứ nhất bộc lộ tình cảm mãnh liệt của bé Thu với
cha, thì tình huống thứ hai lại biểu lộ tình cảm sâu sắc, thắm thiết của ông Sáu
với con.
Câu 4: Ý nghĩa nhan đề Chiếc lược ngà
- “Chiếc lược ngà” là một nhan đề hay, thể hiện sâu sắc nội dung của tác phẩm.
- Đó là hình tượng nghệ thuật chứa đựng tình cảm cha con sâu nặng, thiêng
liêng.
- Chọn hình ảnh “Chiếc lược ngà” làm nhan đề cho tác phẩm, nhà văn Nguyễn
Quang Sáng đã bộc lộ tài năng của mình trong việc thể hiện tư tưởng, chủ đề tác
phẩm qua một hình ảnh nghệ thuật cô đúc, giàu ý nghĩa:
+ Với bé Thu, chiếc lược ngà là kỷ vật , là tình cảm yêu mến nhớ thương của
người cha chiến sĩ.
+ Với ông Sáu, chiếc lược ngà là một vật quý giá, thiêng liêng bởi nó chứa đựng
tình yêu, nỗi nhớ thương của ông đối với đứa con gái và làm dịu đi nỗi day dứt,
ân hận vì đã đánh con khi nóng giân…
=> Với nhan đề này, nhà văn không chỉ nói tình cảm cha con thắm thiết, sâu
nặng mà còn gợi cho người đọc thấm thía những đau thương mất mát do chiến
tranh gây ra cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình.
Câu 5: Ý nghĩa ngôi kể:
Truyện được trần thuật theo lời của ông Ba- người bạn ông Sáu, nhân vật «Tôi»,
người đã chứng kiến những cảnh ngộ éo le của cha con ông. Cảnh ngộ ấy đã gợi
lên bao nhiêu xúc động ở nhân vật kể chuyện.
=> Chọn nhân vật kể chuyện như vậy khiến cho câu chuyện trở nên đáng tin cậy
hơn. Người kể chuyện lại hoàn toàn chủ động điều khiển nhịp kể theo trạng thái
cảm xúc của mình, chủ động xen vào những ý kiến bình luận, suy nghĩ để dẫn
dắt sự tiếp nhận của người đọc, người nghe.

Câu 6: Phân tích nhân vật ông Sáu.


a. Luận điểm 1: Tình cảm của ông Sáu với con trong ba ngày về phép thăm
nhà.
Truyện bắt đầu qua lời kể của nhân vật ông Ba về người bạn thân của mình là
ông Sáu.
*Luận cứ 1: Trước hết là hoàn cảnh, tâm trạng của ông Sáu khi gặp lại con
gái.
- Ông Sáu xa gia đình đi kháng chiến khi bé Thu- đứa con gái duy nhất của ông
chưa đầy tuổi. Suốt bảy, tám năm xa cách, ông chưa một lần được gặp lại con
mà chỉ biết mặt con qua tấm hình mà vợ mang tới.
- Lúc biết được về phép “ cái tình người cha cứ nôn nao trong lòng anh”. Điều
ông mong đợi nhất trong lần về phép thăm nhà là được gặp lại cô con gái bé
bỏng của mình.

76
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
- Đến đây, nhà văn đã diễn tả thật xúc động cuộc trùng phùng của cha con ông
Sáu. Những hành động của người cha: “nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc
xuồng tạt ra”, bước vội những bước dài về phía con mình; với vòng tay mở
rộng, khuôn mặt đỏ ửng vì xúc động và tiếng gọi con trong lặp bặp run run đã
cho thấy nỗi xúc động tột cùng của người cha khi được gặp lại đứa con máu mủ
gần chục năm trời xa cách. Lời bình của người kể chuyện càng khiến chúng ta
cảm động trước tình cảm của ông Sáu:“ Với lòng mong nhớ của an, chắc anh
nghĩ rằng con gái sẽ chạy xô vào lòng anh, ôm chặt lấy cổ anh…”. Nhưng thật
bất ngờ, bé Thu đã không nhận ra cha mà còn sợ hãi bỏ chạy khiến ông Sáu rơi
vào trạng thái thất vọng, đau khổ vô cùng: “Mặt anh sầm lại buồn rầu trông
thật đáng thương và hai tay anh buông xuống như bị gẫy.” Đôi tay dang rộng
để chờ đón được ôm con vào lòng giờ buông thõng xuống như bị gãy. Chỉ một
chi tiết miêu tả, so sánh nhỏ ấy thôi, ta cũng cảm nhận được hết nỗi đau khổ, hụt
hẫng, bàng hoàng của người cha khi bị con gái khước từ, xa lánh. Đến đây,
người đọc vô cùng xót xa, thương cảm cho người lính chiến chịu nhiều thiệt thòi
ấy.
-> Nhà văn lớn là người có khả năng khám phá miêu tả tinh tế đồng thời có thể
lý giải sâu sắc thế giới nội tâm con người. Nguyễn Quang Sáng đã làm tốt điều
đó khi diễn tả tâm trạng, cảm xúc của ông Sáu trong phút gặp gỡ con gái mình,
từ tâm trạng hồi hộp, mong mỏi, chờ đợi, vui mừng, đến thất vọng, hụt hẫng,
đau khổ. Nhưng tấm lòng của người cha ấy còn phải chịu thêm nhiều giày vò,
đau đớn nữa trong suốt những ngày phép tiếp theo.
* Luận cứ 2: Tâm trạng, tình cảm của ông Sáu khi chưa được con đón
nhận: tiếp tục mạch truyện, người đọc càng cảm thương cho người lính chiến
khi không được con đón nhận.
- Ba ngày phép ít ỏi cho tám năm xa cách, ông Sáu có bao nơi cần đến, bao
người cần gặp, nhưng ông dành phần lớn cho con:“ Suốt ngày anh chẳng đi
đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con” như thể muốn bù đắp cho con, và cũng để thỏa
nỗi nhớ thương con khi xa cách. Điều người cha mong mỏi, chờ đợi nhất là
được nghe con gái gọi mình một tiếng ba. Nhưng mong ước tưởng như rất đỗi tự
nhiên ấy với ông sao quá khó:“ Anh mong một tiếng ba của con bé, nhưng con
bé chẳng bao giờ chịu gọi.”
- Hết lần này tới lần khác, bé Thu nhất định không chịu gọi ông là ba, cũng như
không chịu thừa nhận ông là ba. Khi cần phải nói chuyện hay tiếp xúc với ông,
con gái chỉ nói trổng. Thu còn coi ông là “người ta ” như người dưng xa lạ.
Nhưng người cha ấy không ép lài hay trách giận con mà vẫn bao dung, kiên
nhẫn chờ đợi và tôn trọng cảm xúc của con. Hành động “ anh vừa khe khẽ lắc
đầu, vừa cười” khi con ngang ngạnh, bướng bỉnh đã cho thấy tấm lòng bao
dung vô bờ của người cha. Hay những lần vờ không nghe thấy con gọi mình
trống không là để đợi chờ tiếng con gọi ba. Đến đây, người đọc thấy thật xót xa
cho tình cảnh của ông Sáu, vì chiến tranh ông chẳng thể gần con, để đến nỗi con
không chịu thừa nhận mình. Nhà văn là người thư kí trung thành của thời đại,
Nguyễn Quang Sáng quả là một người thư kí trung thành và tài ba, qua trang
truyện, ta như thấy được phần nào cuộc sống tình cảm đầy thiệt thòi, mất mát

77
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
của con người trong chiến tranh, từ đó lên án tố cáo chiến tranh một cách mạnh
mẽ.
- Sau tất cả thái độ quyết liệt khước từ của con, ông Sáu vẫn chăm chút cho con.
Trong bữa ăn, ông gắp cho con miếng trứng cá to vàng nhưng bé Thu đã lạnh
lùng hất ra khỏi bát khiến cho tình yêu của người cha bị xúc phạm, tổn thương
sâu sắc. Lúc này, không kiềm chế được cảm xúc, ông Sáu đã đánh mắng con.
Đọc từng trang truyện, người đọc vô cùng đồng cảm, xót xa cho người cha giàu
tình yêu thương con ấy. Trong ba ngày phép ngắn ngủi, ông đã phải trải qua một
nỗi đau tinh thần quá lớn. Đứa con gái duy nhất của ông không chịu nhận cha.
Không những thế, con gái còn có phản ứng dữ dội với ông. Ông càng xích lại
gần, nó càng lùi xa. Ông càng chiều thương, nó càng lảng tránh. Ngọn lửa nồng
nàn của tình cha cứ bị những xa lánh, chối bỏ của con gái giội xuống những gáo
nước lạnh. Đó là bi kịch thời chiến tranh. Vì chiến tranh, con người có thể mất
đi những niềm hạnh phúc đơn sơ, giản dị nhất.
* Luận cứ 3: Tâm trạng ông Sáu khi bé Thu nhận ra cha.
Nhà văn của những miền cổ tích An- đéc- xen từng khẳng định: “Không có câu
chuyện cổ tích nào đẹp bằng câu chuyện cổ tích do chính cuộc sống viết ra”.
Đúng vậy, cuộc sống muôn màu đôi khi cũng xảy ra những điều kì diệu hơn cổ
tích. Với ông Sáu, đó chính là phút giây được con gái đón nhận.
- Đến lúc phải lên đường, ông Sáu đưa mắt nhìn con. Được chứng kiến, người
kể chuyện đã như nhìn thấu nỗi lòng người đồng đội: “Anh cũng muốn ôm con,
hôn con nhưng hình như cũng sợ nó giãy lên lại bỏ chạy nên anh chỉ đứng
nhìn nó. Anh nhìn với đôi mắt trìu mến xen lẫn buồn rầu.” Một nỗi buồn tê
tái hiện ra trong đôi mắt của người cha đáng thương, ánh nhìn ấy như thấm vào
trái tim cô con gái nhỏ để đến lúc chẳng ai ngờ, con bé kêu thét lên một tiếng ba
đầy yêu thương xúc động. Hạnh phúc đến bất ngờ giữa lúc ông Sáu tưởng đã
thất vọng hoàn toàn. Rồi sau đó, ông được đón nhận liên tiếp những yêu thương
vồn vã, nồng nhiệt của con gái. Tình cảm của cô con gái như những giọt mưa
làm dịu mát cánh rừng đang khô hạn là tâm trạng khổ đau tưởng đã thất vọng tột
cùng của người cha. Ôm con gái trong lòng, ông Sáu đã khóc: “ Anh Sáu một
tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt.” Khi được con đón nhận, người
cha ấy lại rơi nước mắt. Đây là những giọt nước mắt của hạnh phúc vỡ òa xen
lẫn đắng cay, đau đớn, vì khi được con đón nhận cũng là lúc ông không còn thời
gian ở bên con, chẳng thể làm cho con điều khẩn cầu duy nhất của nó là ở lại với
nó. Điều này một lần nữa chứng tỏ nghệ thuật miêu tả tâm lí rất tinh tế, sắc sảo
của nhà văn.
- Tỉnh cảnh của cha con ông Sáu thật éo le biết chừng nào, giờ phút cha con
nhận nhau cũng chính là lúc họ phải chia tay. Hạnh phúc đoàn viên vừa nhen lên
chưa trọn vẹn đã nhuốm nỗi đau li biệt. Ông Ba- người chứng kiến cảnh ấy,
cũng là người kể lại câu chuyện đã có cảm xúc: “còn tôi bỗng thấy khó thở như
có bàn tay ai nắm lấy trái tim tôi”. Đó cũng là cảm xúc của bao người khi
chứng kiến cảnh chia tay của cha con ông Sáu.
-> Xây dựng tình huống truyện độc đáo là một trong những yếu tố góp phần
đem lại sự thành công cho truyện ngắn, giúp nhà văn khắc họa rõ nét phẩm

78
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
chất, tính cách, khả năng ứng xử của nhân vật đồng thời bộc lộ sâu sắc ý đồ tư
tưởng của mình”. Đây cũng chính là thành công của truyện ngắn CLN. Nghệ
thuật xây dựng tình huống đặc sắc, gay cấn, éo le càng tô đậm thêm tình cảm
cha con sâu nặng của người lính trong chiến tranh, đồng thời lên án phê phán
chiến tranh càng gay gắt.
b. Luận điểm 2: Tình cảm của ông Sáu đối với con trong những ngày ở khu
căn cứ.
Trong chuyến về phép thăm nhà, người đọc chúng ta đã rất xúc động trước tình
cảm của ông Sáu dành cho con gái. Nhưng tình thương bao la, sâu nặng của
người cha ấy còn thể hiện rõ nhất, sâu sắc và cảm động nhất là sau khi ông chia
tay con trở lại chiến trường.
- Nỗi day dứt, ân hận ám ảnh ông suốt những ngày trở lại chiến trường là việc
ông đã trót đánh mắng con trong khi tức giận. Hành động của người cha khi con
vô lễ cũng có thể thông cảm được nhưng chính ông lại ko thể tha thứ được cho
mình. Cùng với niềm ân hận, người cha ấy còn luôn canh cánh trong lòng lời
dặn của con trước lúc lên đường “ Ba về! Ba mua cho con cây lược nghe ba.”
Tưởng chỉ là lời vòi vĩnh của con trẻ phút nhất thời, nhưng với ông Sáu, nó
giống như một mệnh lệnh thiêng liêng mà ông không thể không thực hiện.
Những chi tiết ấy cho thấy nỗi nhớ thương con luôn thường trực, cháy bỏng
trong trái tim người lính xa nhà.
- Lời dặn của con đã thôi thúc ông nghĩ tới việc tự tay làm tặng con chiếc lược.
Cây lược dành cho con gái phải làm từ một chất liệu quý, bởi thế, khi tìm được
khúc ngà voi, người cha ấy “ hớn hở như một đứa trẻ được quà”, niềm vui
sướng, hạnh phúc rất đỗi hồn nhiên hiện ra qua từng điệu bộ, cử chỉ của ông, mà
ông không thể che giấu được.
- Đến đây, nhà văn tập trung bút lực để miêu tả quá trình ông Sáu tự tay làm cây
lược ngà cho con. Một đoạn văn ngắn với thủ pháp ví von giàu ý nghĩa, yếu tố
nghị luận xen lẫn lời kể, lời bình vừa gợi ra thật chi tiết việc làm lược của ông
Sáu, vừa cho thấy sự công phu, tỉ mỉ như đặt cả trái tim của người cha vào việc
làm lược: “ Anh lấy vỏ đạn hai mươi li của Mĩ đập mỏng làm thành một cây
cưa nhỏ”, “ Anh cưa khúc ngà thành từng miếng nhỏ”. Được quan sát quá
trình làm lược, người kể chuyện gợi lại thật hình ảnh “ Anh cưa từng chiếc
răng lược thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc.”, “Một ngày anh
cưa được một vài răng”. Và cây lược hoàn thành, ông Sáu còn gò lưng, tẩm
mẩn khắc lên từng nét chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba!”. Biết bao yêu
thương của tình cha chất chứa trong lời đề tặng ngắn gọn ấy.
- Qua lời kể của nhà văn, ta thấy rõ một điều rằng người cha ấy đã dồn tất cả yêu
thương, nhung nhớ con vào việc làm cây lược ngà. Ông miệt mài, say sưa cưa
giũa như một nghệ nhân chăm chút cho tác phẩm để đời của mình vậy. Chiếc
lược ngà đã trở thành vật quý giá, thiêng liêng luôn nằm trong túi áo, nơi áp gần
trái tim của người cha. Cây lược bé nhỏ ấy đã làm dịu đi trong lòng ông nỗi hối
hận vì đã đánh con. Nó an ủi ông, nuôi dưỡng trong ông tình cha con và sức
mạnh chiến đấu. Tác giả không miêu tả nhiều về cây lược, nhưng chỉ với một
vài chi tiết nhỏ “Cây lược dài độ hơn một tấc, bề ngang độ ba phân rưỡi, cây

79
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
lược cho con gái, cây lược để chải mái tóc dài, cây lược chỉ có một hàng răng
thưa” và mỗi khi nhớ con: “Anh lấy cây lược mài lên tóc cho thêm bóng, thêm
mượt.” đã giúp người đọc hình dung cái kỉ vật nhỏ bé thân thương ấy ngày một
đẹp lên, bóng ngà, tỏa sáng lung linh. Đó cũng là biểu tượng sáng trong, quý giá
và bất diệt của tình cha con giữa ông Sáu và bé Thu.
- Có cây lược, ông Sáu càng mong được gặp lại con và chúng ta cũng sung
sướng hình dung ra giây phút đoàn viên hạnh phúc đến rơi nước mắt của cha con
ông Sáu. Bé Thu sẽ hạnh phúc vô cùng với món quà quý giá của ba. Song chiến
tranh loạn lạc đã khiến cho giây phút đó chỉ còn ở giấc mơ bởi ông Sáu đã hi
sinh trong một trận càn của địch. Tác giả đã miêu tả thật xúc động giây phút
cuối cùng của người cha: “ Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức trăng
trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được, anh đưa
tay vào túi móc cây lược, đưa cho tôi và nhìn tôi một hồi lâu.” Chi tiết truyện
khiến người đọc lặng đi vì xúc động và thương cảm. Ánh nhìn của người cha
cùng hành động trao lại cây lược vào tay đồng đội còn rõ ràng hơn ngàn lời di
trúc. Đó lại cái nhìn trao gửi niềm tin và hi vọng, cái nhìn khắc khoải trong im
lặng đầy sức ám ảnh lòng người. Trao lại cây lược là trao lại cho đồng đội lời
hứa chưa thành với con gái. Như vậy, hình ảnh cuối cùng đọng trong tâm trí
người cha ấy trước lúc nhắm mắt đi xuôi chính là hình ảnh cô con gái nhỏ. Đúng
là chỉ có tình cha con là không thể chết được. Tình cảm ấy sẽ lung linh tỏa sáng
trong kỉ vật thiêng liêng là chiếc lược ngà. Nó sẽ theo Thu đi suốt hành trình dài
rộng của cuộc đời như thể ông Sáu mãi bên con.
->Tạo dựng lên tình huống truyện hết sức éo le, bất ngờ này, một lần nữa nhà
văn đã khắc họa rõ nét tình cảm cha con thiêng liêng, sâu đậm của người lính
đồng thời cũng làm rõ hơn bi kịch của con người trong chiến tranh. Qua nhân
vật ông Sáu, nhà văn gợi cho người đọc thấm thía những mất mát, đau thường
mà chiến tranh đem lại cho con người. Từ đó, ý nghĩa nhân văn của câu chuyện
càng thêm sâu sắc.
3. Bình giá tổng hợp:
- Nghệ thuật: tình huống truyện éo le, kịch tính; Ngôi kể…; Ngôn ngữ đậm màu
sắc NB…
- Đề tài, liên hệ các tác phẩm khác: Lão Hạc; Nói với con.
Câu 7: Phân tích nhân vật bé Thu
a. Luận điểm 1: Bé Thu khi chưa nhận ra cha:
* Luận cứ 1: Hoàn cảnh, cảm xúc của bé Thu khi gặp cha:
- Có ai đó từng nói: “Chiến tranh là kẻ thù của nụ cười và trẻ thơ”. Điều đó thật
chính xác với hoàn cảnh của bé Thu trong câu chuyện. Thu phải xa cha khi em
chưa đầy một tuổi. Bảy tám năm xa cách em chưa một lần được gặp lại ba mình.
Ý niệm của em về ba chỉ là một người đàn ông lành lặn chụp chung trong tấm
hình với má của em. Nếu hạnh phúc của trẻ thơ là được sống trong tình yêu
thương, che chở của cha, của mẹ thì chiến tranh đã cướp đi của em một nửa
niềm hạnh phúc ấy. Suốt những năm tháng ấu thơ, em không được hưởng tình
yêu, sự chăm chút của cha mình.

80
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
- Chính vì lẽ đó chắc hẳn Thu rất mong chờ ngày cha trở về. Nhưng tâm lí, thái
độ của em trong phút giây đầu tiên gặp lại ba lại khiến người đọc chúng ta hết
sức ngạc nhiên, bất ngờ:
+ Khi ông Sáu kêu to: “Thu! Con” thì “Nghe gọi, con bé tròn mắt nhìn, nó
ngơ ngác, lạ lùng”. Ánh mắt tròn xoe ngơ ngác đã diễn tả sự ngạc nhiên quá đỗi
của cô bé, Thu không hiểu vì sao người đàn ông xa lạ kia lại biết tên mình và
gọi mình là con.
+ Thấy ông Sáu chầm chậm bước tới, giọng lặp bặp run run: “Ba đây con!
Ba đây con!” thì “Mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: “Má! Má!”.
Cách tả của tác giả thật cụ thể và hợp lí, giúp người đọc hình dung những diễn
biến tâm lí rất logic của nhân vật: từ sự ngạc nhiên ban đầu đã biến thành sự sợ
hãi. Và cái tâm lí sợ hãi ấy của đứa bé được tả bằng tiếng kêu thét gọi mẹ và
hành động chạy vụt đi như tìm người che chở. Thu đã không nhận ra ba mình
mà thậm chí còn sợ hãi, ác cảm với người đàn ông có vết thẹo dữ dằn trên mặt
kia ngay từ phút đầu gặp gỡ. Điều ấy cũng dễ hiểu bởi thời gian và chiến tranh
đã làm ba em khác đi nhiều quá khiến em chẳng thể nhận ra. Sau câu chữ, người
đọc thấy thương cô bé lạ lùng!
* Luận cứ 2: Tâm trạng, cảm xúc của Thu khi chưa nhận ba:
Dõi theo diễn biến của câu chuyện ta thấy tác giả tiếp tục khéo léo chọn lựa các
chi tiết truyện cụ thể, chân thực để đặc tả thái độ của bé Thu với ba trong những
ngày ông Sáu ở nhà:
- Không nhận ra ông Sáu chính là cha mình, bé Thu kiên quyết không chịu gọi
ông một tiếng “ba”: “Anh càng vỗ về con bé càng đẩy ra. Anh mong được
nghe một tiếng “ba” của con bé, nhưng con bé chẳng bao giờ chịu gọi”. Bé
Thu bị đẩy vào những tình thế tưởng như buộc phải gọi ông Sáu là ba, nhưng hết
lần này tới lần khác cô bé đều tìm cách lảng tránh.
+ Nhà văn đã rất tài tình khi xây dựng đoạn hội thoại giữa Thu và mẹ. Mẹ bảo
em mời ba vào ăn cơm, cô bé đã cãi lời “Thì má cứ kêu đi”. Phải tới khi mẹ dọa
đánh đòn em mới miễn cưỡng cất lời, nhưng không phải tiếng gọi ba như ông
Sáu chờ đợi mà chỉ là lời thông bái trống không “Vô ăn cơm!”, “Cơm chín
rồi!”. Thậm chí khi ông Sáu vờ không nghe thấy, cô bé đã nói với má “Con kêu
rồi mà người ta không nghe”. Hai tiếng “người ta” em thốt ra như để dựng lên
bức tường thành ngăn cách giưa em và ông Sáu, đên lức này, trong mắt em,
người đàn ông có vết thẹo ki vẫn chỉ là một người dưng xa lạ.
+ Chưa dừng lại ở đó, để làm nổi bật tính cách, tình cảm của bé Thu, tác giả đã
tiếp tục tạo ra một tình thế rất hay dường như để thử thách tình cảm của cô bé
đối với ba của mình. Đó là lúc cơm sôi, một mình nó bé nhỏ, không thể tự nhắc
nồi xuống để chắt nước được, nó đã buộc phải cầu cứu đến người lớn. Tình thế
gay cấn khiến người đọc ngỡ rằng nó sẽ phải chịu thua, buộc phải gọi ba để
được giúp đỡ. Chính người kể chuyện phải nghĩ thầm: “chắc thế nào con bé
cũng phải gọi ba thôi”. Đến đây, ta thấy được tài năng trong miêu tả tâm lý trẻ
thơ của nhà văn: “Tiếng cơm sôi như thúc giục nó. Nó nhăn nhó muốn khóc.
Nó nhìn nồi cơm rồi nhìn lên chúng tôi.” Nét mặt nhăn nhó, ánh mắt nhìn lên
như cầu cứu của cô bé cho thấy em thực sự bị đẩy vào thế bí. Chỉ cần một tiếng

81
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
gọi ba thôi, em sẽ lập tực được trợ giúp, sẽ thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn. Thế
nhưng cô bé vẫn nhất định không chịu gọi. Kể cả người trong cuộc và bạn đọc
đều vô cùng bất ngờ trước hành động của em: “Nó loay hoay nhón gót lấy cái
vá múc ra từng vá nước…”. Nó đã tự làm lấy một công việc nguy hiểm và quá
sức với lứa tuổi của nó chứ nhất định không chịu gọi ông Sáu một tiếng “ Ba”.
Chi tiết này đã tô đậm nét cá tính rất mạnh mẽ, ngang ngạnh, đáo để của cô bé.
Đó còn là biểu hiện của sự kiên định, quyết liệt của một người có lập trường và
đó chính là cơ sở làm nên tính cách cứng cỏi, ngoan cường của cô giao liên giải
phóng sau này.
- Không chịu gọi ông Sáu là ba, bé Thu còn không đón nhận cả những yêu
thương, chăm chút của ông dành cho mình. Có lẽ đây là chi tiết đắt giá nhất mà
tác giả đưa ra để làm bật lên thái độ, tâm lí, cá tính của bé Thu là: Trong bữa
cơm khi ông Sáu âu yếm gắp một cái trứng cá to vàng để vào chén nó thì “Nó
liền lấy đũa xoi vào chén, để đó rồi bất thần hất cái trứng ra, cơm văng tung
tóe cả mâm”. Hành động vô lễ của Thu khiến em bị ba đánh mắng. Nhưng khi
bị đánh nó ngồi im, đầu cúi gằm xuống, lặng lẽ gắp lại miếng trứng cá chứ
không thèm khóc hay ăn vạ như những đứa trẻ khác. Phản ứng của Thu như có
phần già dặn hơn so với lứa tuổi. Nhưng rồi ngay sau đó, nét trẻ thơ hồn nhiên
lại được thể hiện rất rõ: Thu lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm, ra bến xuống
xuồng bỏ sang nhà ngoại, “cố làm cho dây lòi tói khua rổn rảng, khua thật to”
như một hành động giận dỗi, vừa như để trêu tức ông Sáu.
=> "Tình huống truyện là 1 lát cắt trên thân cây mà qua đó thấy được trăm năm
đời thảo mộc" (Nguyễn Minh Châu). Nhà văn đã sáng tạo tình huống truyện đặc
sắc để làm bật lên cá tính, tình cảm của nhân vật. Mọi chuyện diễn ra thật éo le.
Đứa con gái hoàn toàn lạnh lùng trước mọi tình cảm nồng nàn, ấm áp của cha.
Qua từng chi tiết truyện ta thấy nét hồn nhiên, ngây thơ, cá tính mạnh mẽ cứng
cỏi, có phần ương ngạnh cùng với thái độ tình cảm dứt khoát, rạch ròi, chân thật
được tỏa sáng qua từng hành vi tự nhiên ngộ nghĩnh của bé Thu. Phản ứng tâm
lí của em là hoàn toàn tự nhiên. Em chỉ yêu ba khi tin chắc đó đúng là ba mình.
Trong cái “cứng đầu” của em có ẩn chứa cả sự kiêu hãnh trẻ thơ về một tình yêu
dành cho người cha trong tâm tưởng của em- người chụp chung trong tấm hình
với má, người không có vết thẹo dữ dằn trên má kia.
b. Luận điểm 2: Bé Thu khi nhận ba:
- Trong buổi sáng cuối cùng, trước lúc ông Sáu phải lên đường, thái độ và hành
động của bé Thu đã đột ngột thay đổi hoàn toàn: “Vẻ mặt của nó có cái gì hơi
khác, nó không bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa, vẻ mặt của nó sầm lại
buồn rầu…Cái nhìn của nó không ngơ ngác lạ lùng, nó nhìn với vẻ nghĩ ngợi
sâu xa”. Một vẻ mặt như thế, một ánh mắt và cái nhìn như thế… ắt phải chuẩn
bị cho một cái gì khác lắm sắp xảy ra. Khi nhìn thẳng, đối diện với người cha
“Đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao”. Cách dẫn dắt khéo léo của
nhà văn khiến người đọc bị lôi cuốn theo mạch truyện một cách rất tự nhiên và
dường như không thể rời trang sách.
- Và điều bất ngờ đã xảy ra: Khi ông Sáu chào Thu để lên đường, giữa lúc không
ai ngờ tới thì cô bé bỗng kêu thét lên: “Ba…a…a…ba!”. Tác giả đã đặc tả tiếng

82
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
kêu của con bé: “Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột
gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng ba mà nó cố đè nén trong bao
nhiêu năm nay, tiếng ba như vỡ tung ra từ đáy lòng nó”. Tiếng gọi ấy như
thoát ra từ tận trái tim của cô bé, nó thể hiện khao khát mãnh liệt của Thu được
gọi ba từ bao lâu nay, tiếng kêu chứa đựng bao yêu thương khiến người đọc xúc
động tận đáy lòng.
- Đến đây tác giả đã tập trung bút lực tiếp tục đặc tả một loạt hành động của bé
Thu. Với một đoạn văn ngắn, nhà văn đã sử dụng kết hợp các phép so sánh, tăng
tiến, liệt kê, các yếu tố miêu tả, nghị luận…cùng tập trung biểu đạt thật ấn
tượng, sinh động và cảm động tâm lí, tình cảm của cô bé trong giờ phút chia tay
với người cha yêu quý: Nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc,
nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó… Nó hôn ba nó cùng
khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó
nữa… Hai tay nó xiết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba
nó, nó dang hai chân câu chặt lấy ba nó.
Nhà văn không tả nhiều, chỉ bằng một số chi tiết nhỏ ấy thôi đã đủ cho chúng
ta xúc động trước những nỗi niềm, tâm trạng của nhân vật. Nếu “Nghệ thuật
miêu tả tâm lí con người là thước đo tài năng người nghệ sĩ”, thì Nguyễn Quang
Sáng đã rất thành công trong việc miêu tả tâm lý bé Thu trong khoảnh khắc chia
tay ba mình. Tình yêu và nỗi mong nhớ với người cha xa cách bị dồn nén bấy
lâu, nay bùng ra thật mạnh mẽ, hối hả, cuống quýt, trong đó có xen cả sự hối hận
vì trước đó đã trót đối xử không phải với ba. Chắc hẳn khi đó trong tâm tưởng
của cô bé tám tuổi, ba cô thật đẹp- vẻ đẹp của một người anh hùng. Bởi thế cô
bé không chỉ yêu ba mà còn thương ba, tự hào về ba. Nụ hôn em đặt lên vết thẹo
của ba giống như một lời xin lỗi vì những vô lễ của em với ba mình. Thái độ
cùng hành động có phần như trái ngược của Thu trong những ngày đầu ông Sáu
về thăm nhà và lúc ông sắp ra đi nhưng thực ra vẫn nhất quán trong tính cách
của nhân vật. Điều đó cho thấy bé Thu là một cô bé có cá tính mạnh mẽ dứt
khoát, yêu ghét rạch ròi và có tình yêu thương cha sâu nặng.
- Cách dẫn dắt, kể chuyện của nhà văn khéo léo ở chỗ đến tận lúc này mới hé lộ
lí do của sự thay đổi đột ngột trong hành động và tình cảm của bé Thu. Thì ra
chỉ vì cái thẹo trên khuôn mặt của ông Sáu khiến bé Thu không nhận ra ba.
Được ngoại giảng giải, em hiểu ra người có vết thẹo gớm ghiếc ấy chính là
người cha em hằng thương nhớ. Hóa ra sự ương ngạnh của em trước đây là hoàn
toàn có lí… Đọng lại trong lòng người đọc lúc này là nỗi đau li biệt với cảnh
tượng bé Thu “ôm chầm lấy ba một lần nữa và mếu máo: Ba về! Ba mua cho
con cây lược nghe ba!” Văn học xét đến cùng vẫn là tiếng nói nhân đạo, vì von
người “Văn học là nhân học”. Đọc truyện, ta không chỉ cảm thương cho tình
cảnh éo le của cha con bé Thu mà còn dấy lên cảm xúc phẫn nộ, phê phán chiến
tranh: bởi chính chiến tranh đã khiến cha phải xa con; bởi chiến tranh mà con
chẳng nhận ra ba của mình; và cũng bởi chiến tranh mà hạnh phúc hội ngộ chưa
trọn vẹn thì cha con đã phải đau nỗi đau li biệt.
- Chứng kiến cảnh bé Thu nhận cha, người kể chuyện đã có những lời bình luận,
đánh giá thật xúc động: “Nhìn cảnh ấy, bà con xung quanh có người không

83
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
cầm được nước mắt, còn tôi bỗng thấy khó thở như có bàn tay ai nắm lấy trái
tim tôi”. Lời bình ấy thể hiện niềm xúc động nghẹn ngào, lòng trắc ẩn, sự thấu
hiểu của người đồng đội thân thiết với cha con ông Sáu. Đồng thời nó dẫn dắt sự
tiếp nhận của bạn đọc, làm cho câu chuyện hay hơn, hấp dẫn hơn.
* Bình giá tổng hợp:
- Bằng sự am hiểu tâm lí và tấm lòng yêu quý trân trọng trẻ thơ, bằng tài hoa
trong nghệ thuật xây dựng tình huống, miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật, nhà văn
NQS đã khắc họa thành công hình ảnh bé Thu, nhân vật chính của truyện. Bé
Thu hiện lên vừa mang những nét hồn nhiên, ngây thơ rất đáng yêu của trẻ thơ,
vừa thể hiện những nét cá tính mạnh mẽ, cứng cỏi, có phần ương ngạnh, vừa thể
hiện thái độ tình cảm chân thật, rạch ròi, sâu sắc đến cảm động. H/a bé Thu gợi
cho người đọc nghĩ đến và thấm thía những đau thương, mất mát, éo le mà chiến
tranh đã gây ra cho bao nhiêu đứa trẻ, bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình.
Đồng thời cũng qua nhân vật này, tác giả đã gợi cho người đọc về giá trị thiêng
liêng của tình cha con, gia đình. Đó chính là giá trị nhân bản sâu sắc của truyện
ngắn CLN.
- H/a bé Thu, h/a cha con ông Sáu cùng với toàn bộ truyện ngắn CLN đã góp
phần làm cho nền văn học kháng chiến thêm đa dạng, phong phú.
*******************************
BÀI 17. NHỮNG NGÔI SAO XA XÔI - LÊ MINH KHUÊ

Câu 1. Tác giả:


- Lê Minh Khuê là cây bút nữ xuất sắc của nền truyện ngắn VN hiện đại. Bà
thuộc thế hệ những nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ.
- Tác phẩm của bà chủ yếu viết về tuổi trẻ VN trên cung đường Trường Sơn
những năm chống Mĩ với ngòi bút giàu nữ tính, tinh tế, đặc biệt là viết về nhân
vật nữ.
Câu 2. Hoàn cảnh sáng tác:
- Truyện "Những ngôi sao xa xôi" là một trong số những tác phẩm đầu tay của
Lê Minh Khuê, viết năm 1971, lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc đang
diễn ra các liệt.
Câu 3. Tóm tắt văn bản:
"Những ngôi sao xa xôi" kể về cuộc sống chiến đấu của ba cô thanh niên xung
phong trong tổ trinh sát mặt đường gồm Phương Định, Nho và chị Thao. Họ
sống trong một cái hang ngay dưới chân cao điểm tại một vùng trọng điểm ở
tuyến đường Trường Sơn. Công việc của họ là quan sát máy bay địch ném bom,
đo khối lượng đất đá cần san lấp hố bom, đánh dấu những quả bom chưa nổ và
phá bom. Công việc nguy hiểm, luôn phải đối mặt với cái chết, nhưng cuộc sống
của họ vẫn không mất đi niềm vui hồn nhiên của tuổi trẻ, những giây phút thảnh
thơi, thơ mộng. Họ rất gắn bó, yêu thương nhau dù mỗi người một cá tính.
Trong một lần phá bom, Nho bị thương, hai người đồng đội hết lòng lo lắng và
chăm sóc cho Nho. Một cơn mưa đá chợt đến chợt đi đã gợi trong lòng Phương
Định bao hoài niệm, khát khao.

84
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Câu 4. Đề tài:
Ca ngợi cuộc sống, chiến đấu của thanh niên xung phong trên tuyến đường
Trường Sơn.
Câu 5. Ngôi kể:
- Truyện kể theo ngôi thứ nhất, qua lời kể của Phương Định.
- Tác dụng:
+ Tạo một điểm nhìn phù hợp dễ dàng tái hiện hiện thực khốc liệt của chiến
tranh.
+ Khắc họa thế giới tâm hồn, cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật một cách chân
thực giàu sức thuyết phục.
+ Làm hiện lên vẻ đẹp của con người trong chiến tranh.
Câu 6: Ý nghĩa nhan đề: Những ngôi sao xa xôi ẩn dụ cho vẻ đẹp hồn nhiên đầy
mơ mộng và lãng mạn của những nữ thanh niên xung phong trẻ tuổi chiến đấu
trên tuyến đường Trường Sơn. Họ như những ngôi sao xa xôi toả ánh sáng lấp
lánh trên bầu trời chiến tranh.
Câu 7: Phân tích vẻ đẹp của tổ trinh sát mặt đường.
a. Luận điểm 1: Hoàn cảnh sống và chiến đấu: Tổ trinh sát mặt đường gồm
ba cô gái trẻ là Nho, Phương Định và chị Thao. Các cô gái sống và chiến
đấu trong một hoàn cảnh rất ác liệt.
- Họ sống trong một cái hang ngay dưới chân cao điểm, giữa một vùng trọng
điểm trên tuyến đường Trường Sơn, nơi tập trung nhiều nhất bom đạn, sự nguy
hiểm và ác liệt, từng ngày từng giờ phải đối mặt với bom rơi, đạn nổ. Cảnh vật
xung quanh dường như không còn dấu vết sự sống vì bom đạn giặc cày xới:
“Đường bị đánh lở loét... Hai bên đường không có lá xanh. Chỉ có những
thân cây bị tước khô cháy”.
- Công việc của các cô đặc biệt nguy hiểm: “ Việc của chúng tôi là ngồi đây.
Khi có bom nổ thì chạy lên, đo khối lượng đất lấp vào hố bom, đếm bom chưa
nổ và nếu cần thì phá bom.” Họ phải chạy trên cao điểm giữa ban ngày, phơi
mình ra giữa vùng trọng điểm đánh phá của máy bay địch. Nhiệm vụ của họ thật
quan trọng nhưng cũng đầy gian khổ, hi sinh, phải mạo hiểm với cái chết, luôn
căng thẳng thần kinh, đòi hỏi sự dũng cảm và bình tĩnh hết sức.
=> Có thể nói, cuộc sống và công việc đã đặt các cô gái trẻ trong hoàn cảnh phải
thường xuyên đối mặt với tử thần, ranh giới giữa sự sống và cái chết vô cùng
mong manh. Nhưng chính trong hoàn cảnh đó, vẻ đẹp của các cô gái trẻ càng tỏa
sáng lung linh như những ngôi sao xa xôi mà lấp lánh giữa bầu trời đêm của
cuộc chiến.
b. Luận điểm 2: Vẻ đẹp tâm hồn của ba cô gái thanh niên xung phong
Luận cứ 1: Nét chung: Các cô gái đều có những nét đẹp chung của thế hệ trẻ
trong những năm kháng chiến chống Mỹ:
* Trước hết, họ đều là những cô gái trẻ, sống có lý tưởng và giàu tình yêu Tổ
quốc.
Các cô gái trong tổ trinh sát tuổi đời mới mười tám đôi mươi, theo tiếng gọi
thiêng liêng của Tổ quốc, họ rời xa gia đình, xa mái trường, tình nguyện vào nơi
mà sự sống chết chỉ diễn ra trong gang tấc. Họ hi sinh tuổi thanh xuân và không

85
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
tiếc máu xương, thực hiện lí tưởng cao đẹp: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”.
* Qua thực tế chiến đấu, cả ba cô gái đều thể hiện là những người có tinh thần
trách nhiệm cao với công việc, lòng dũng cảm, gan dạ không sợ gian khổ hi
sinh:
+ Mặc dù còn rất trẻ, luôn phải đối mặt với bom rơi, đạn nổ, họ có thể hi sinh
bất cứ lúc nào, nhưng để con đường được thông suốt nên các cô luôn sẵn sàng
trong việc ra trận. Có lệnh là lên đường bất kể trong tình huống nào. Họ làm
việc một cách tự nguyện, luôn nhận khó khăn, nguy hiểm về mình: “Tôi một quả
bom trên đồi. Nho hai quả dưới lòng đường. Chị Thao một quả dưới cái chân
hầm ba – ri – e cũ”. Đối mặt với hiểm nguy, các cô cũng nghĩ đến cái chết
nhưng là “một cái chết mờ nhạt không cụ thể” quan trọng là “liệu mìn có nổ,
bom có nổ không?”. Như thế họ đã đặt công việc lên trên cả tính mạng của
mình.
+ Họ bình tĩnh, can trường và có tinh thần dũng cảm. Những lúc căng thẳng
nhất, chị Thao móc cái bánh bích quy trong túi ra nhai. Họ nói đến công việc
phá bom với giọng điệu bình thản: “Quen rồi. Một ngày chúng tôi phá bom đến
năm lần. Ngày nào ít: ba lần”. Khi phá bom, bước tới những quả bom chưa nổ,
họ không đi khom mà cứ đường hoàng, thẳng lưng bước tới. Đối mặt với thần
chết, các cô không hề run sợ mà bình tĩnh làm chủ mọi tình huống: moi đất, đặt
mìn, đặt dây, châm lửa, tính toán sao cho chính xác.
* Ở họ còn có tình đồng đội gắn bó, thân thiết: họ thấu hiểu được tính tình, sở
thích của nhau, quan tâm chăm sóc nhau rất chu đáo. Phương Định bồn chồn, lo
lắng khi chờ chị Thao và Nho đi trinh sát trên cao điểm về. Khi Nho bị thương,
Phương Định và chị Thao đã lo lắng, băng bó chăm sóc Nho cẩn thận với niềm
xót xa như chị em ruột thịt và cảm thấy “đau hơn người bị thương”. Họ đồng
cam cộng khổ, chia sẻ với nhau mọi vui buồn trong cuộc đời quân ngũ. Trong
cơn mưa rừng, PĐ không quên chia sẻ với Nho những viên đá nhỏ để cùng nhau
vui thích cuống cuồng như những đứa trẻ.
- Cuộc sống chiến đấu ở chiến trường thật gian khổ, hiểm nguy nhưng họ luôn
lạc quan, yêu đời và đầy nữ tính. Họ có cuộc sống nội tâm phong phú, đáng
yêu, dễ xúc cảm, nhiều mơ ước. Cuộc sống chiến trường gian khổ là thế nhưng
họ vẫn tìm thấy niềm vui, tiếng cười: “Có khi bò trên cao điểm về chỉ thấy hai
con mắt lấp lánh. Cười thì hàm răng lóa lên khuôn mặt nhem nhuốc. Những lúc
đó, chúng tôi gọi nhau là những con quỷ mắt đen”. Họ thích làm đẹp cho cuộc
sống của mình ngay cả trong hoàn cảnh chiến trường ác liệt. Nho thích thêu
thùa, chị Thao chăm chép bài hát, Phương Định thích ngắm mình trong gương,
ngồi bó gối mộng mơ và hát… Họ hồn nhiên như những đứa trẻ trước cơn mưa
đá. Và trận mưa đã trở thành nỗi nhớ- sự nối dài quá khứ hôm qua và khát vọng
mai sau. Kỉ niệm sống dậy như những khoảng sáng trong tâm hồn, những cảm
xúc hồn nhiên như nguồn sống, điểm tựa, giúp họ thêm vững vàng, thêm sức
mạnh vượt qua những khó khăn, nguy hiểm.

86
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
=> Quả thật, đó là những cô gái mang trong mình những tính cách tưởng như
không thể cùng tồn tại, vô cùng gan dạ, dũng cảm trong chiến đấu mà cũng hồn
nhiên, vô tư trong cuộc sống sinh hoạt.
Luận cứ 2: Nét riêng: Dù có nhiều nét chung, nhưng ba cô gái vẫn là ba cá tính
riêng không trộn lẫn.
* Nhân vật Nho:
Nho là một cô gái trẻ, xinh xắn“trông nó nhẹ, mát mẻ như một que kem trắng”,
cô có “cái cổ tròn và những cúc áo nhỏ nhắn” rất dễ thương khiến Phương Định
“muốn bế nó trên tay”. Nho lại rất hồn nhiên – cái hồn nhiên trẻ thơ: “vừa tắm
dưới suối lên, cứ quần áo ướt, Nho ngồi, đòi ăn kẹo”; khi bị thương nằm trong
hang vẫn nhổm dậy, xòe tay xin mấy viên đá mưa. Nhưng trong chiến đấu thì rất
dũng cảm, hành động thật nhanh gọn: “Nho cuộn tròn cái gối, cất nhanh vào
túi”, “quay lưng lại chúng tôi, chụp cái mũ sắt lên đầu…” Và trong một lần phá
bom, cô đã bị sập hầm, đất phủ kín lên người. Mặc dù bị thương rất đau nhưng
cô không rên la, không muốn cho đồng đội phải lo lắng, khi biết chị Thao có ý
định thông báo về đơn vị, cô đã gạt đi và trấn an đồng đội: “ Không chết đâu!
Đơn vị đang làm đường kia mà. Việc gì phải khiến cho nhiều người lo lắng.”
* Nhân vật Thao:
Chị Thao, tổ trưởng, cũng là người nhiều tuổi nhất trong tổ. Ở cô ít nhiều có nét
từng trải hơn, mơ ước và dự tính về tương lai có vẻ thiết thực hơn, nhưng cũng
không thiếu nhưng khát khao và rung động của tuổi trẻ. “Áo lót của chị cái nào
cũng thêu chỉ màu. Chị lại hay tỉa đôi lông mày của mình, tỉa nhỏ như cái tăm”.
Nhưng trong công việc, ai cũng gờm chị về tính cương quyết, táo bạo. Đặc biệt
là sự “bình tĩnh đến phát bực”: máy bay địch kéo đến, chị chuẩn bị phải chạy lên
cao điểm làm nhiệm vụ nguy hiểm, nhưng chị vẫn “móc bánh quy trong túi,
thong thả nhai”. Nhưng điều đặc biệt làm nên nét riêng không trộn lẫn ở cô tổ
trưởng này là ở chỗ dù dày dạn trước sự sống và cái chết như thế nhưng cô lại
rất sợ máu, sợ vắt: “thấy máu, thấy vắt là chị nhắm mắt lại, mặt tái mét”. Lúc
Nho bị thương, dù rất lo lắng cho đồng đội nhưng cô không dám lại gần khi Nho
còn bê bết máu, cô chỉ biết lo lắng đến luống cuống, định báo về đơn vị để Nho
được điều trị tốt hơn. Và một điểm thú vị nữa cũng là nét riêng của Thao là cô
dù không hát được bài nào đúng nhạc, giọng thì chua loét nhưng lại rất chăm
chép bài hát, có tới ba quyển sổ dày chép bài hát.
* Nhân vật Phương Định:
Phương Định cũng trẻ trung như Nho, là một cô học sinh thành phố, nhạy cảm
và hồn nhiên, thích mơ mộng và hay sống với những kỉ niệm của tuổi thiếu nữ
vô tư bên gia đình và thành phố của mình. Phương Định còn rất mê hát: “ Tôi
mê hát. Thường cứ thuộc một điệu nhạc nào đó rồi bịa ra lời mà hát. Lời tôi bịa
lộn xộn mà ngớ ngẩn đến tôi cũng ngạc nhiên, đôi khi bò ra mà cười một mình.”
Giữa chiến trường bom rơi đạn nổ, sống chết rất mong manh, mà cô gái ấy vẫn
hồn nhiên, đáng yêu đến thế. Ở đoạn cuối truyện, sau khi trận mưa đá, cả một
dòng thác kỉ niệm về gia đình, về thành phố trào lên và xoáy mạnh như sóng
trong tâm trí cô gái. Có thể nói đây là những nét riêng của các cô gái trẻ Hà Nội

87
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
vào chiến trường tham gia đánh giặc, tuy gian khổ nhưng vẫn giữ được cái
phong cách riêng của người Hà Nội, rất trữ tình và đáng yêu.
=> Mỗi người có một cá tính riêng nhưng ở họ đều ngời sáng vẻ đẹp của chủ
nghĩa anh hùng cách mạng của tuổi trẻ Việt Nam. Viết về ba cô thanh niên xung
phong, Lê Minh Khuê đã không tô vẽ, không mĩ lệ mà miêu tả hết sức cụ thể,
chân thực bằng cách cá thể hóa nhân vật với những hình ảnh rất đời thường.
Họ đã từ cuộc đời bước vào trang sách, trở thành những anh hùng – những
ngôi sao trên bầu trời Trường Sơn.
Câu 8: Phân tích nhân vật Phương Định:
a. LĐ 1: Hoàn cảnh sống và chiến đấu: Cùng hai đồng đội trong tổ trinh sát
mặt đường, Phương Định có hoàn cảnh sống và chiến đấu rất khó khăn,
gian khổ.
NHƯ CÂU 7.
b. LĐ 2: Vẻ đẹp ngoại hình: Nổi bật, gây ấn tượng khó phai trong lòng bạn đọc
về nhân vật PĐ trước hết là vẻ đẹp ngoại hình trẻ trung, xinh xắn. Là người kể
chuyện, PĐ không nói quá nhiều về bản thân, nhưng qua vài ba lời kể, ta vẫn
hình dung về một cô gái có vẻ bề ngoài đáng yêu, đầy sức sống.
- Cô có “hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài
hoa lòa kèn”. Đó là vẻ đẹp đặc trưng của các cô gái TNXP nhưng cô còn có nét
kiêu sa, kiều diễm riêng của người con gái Hà Nội.
- Đặc biệt, PĐ khéo léo mượn lời các anh lái xe để nói về đôi mắt của mình: cô
có cái nhìn sao mà xa xăm. Chính cô cũng tự thú nhận: tôi thích ngắm mắt tôi
trong gương. Nó dài dài, màu nâu, hay nheo lại như chói nắng… Đôi mắt là cửa
sổ tâm hồn, một cô gái có ánh nhìn xa xăm ấy phản chiếu một tâm hồn rất tinh tế
và nhạy cảm và mơ mộng. Chẳng phải ngẫu nhiên mà các anh lính trẻ lại hay
hỏi thăm cô, hay “viết những thư dài gửi đường dây”, “mặc dù có thể chào
nhau hằng ngày”. Phương Định cảm nhận được điều đó, cô cảm thấy vui và tự
hào nhưng chưa dành tình cảm cho một ai. Cô chỉ thích ngắm mình trong gương
và làm điệu hoặc có vẻ kiêu kì một cách đáng yêu khi thấy các đồng đội của
mình tiếp xúc với một anh bộ đội nói giỏi nào đó.
-> LMK đúng là một cây bút giàu nữ tính, sự tinh tế trong ngòi bút của bà đã
khiến người đọc không còn phân biệt được đâu và hư cấu, đâu là chuyện thực
nữa.
c. LĐ 3: Những vẻ đẹp tâm hồn của Phương Định: Nhưng điều khiến PĐ
trở nên đáng yêu đáng quý trong mắt mọi người còn ở những vẻ đẹp tâm
hồn rất riêng của cô.
*LC 1: Trước hết, PĐ là cô gái giàu tình yêu Tổ quốc:
Trong kháng chiến chống Mĩ, có hàng vạn, hàng triệu chàng trai lên đường ra
trận với dũng khí và quyết tâm "đánh cho Mĩ cút, đánh cho ngụy nhào" để giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tiền tuyến vẫy gọi, hàng ngàn hàng vạn
cô gái mang chí khí Bà Trưng, Bà Triệu xung phong ra tiền tuyến. Con đường
chiến lược Trường Sơn huyền thoại được làm nên bằng xương máu, mồ hôi và
bao sự tích phi thường của những người con gái Việt Nam anh hùng. Cũng như
bao người trẻ cùng thế hệ, PĐ đã xếp bút nghiên, bỏ lại sau lưng những ngày

88
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
tháng hồn nhiên mơ mộng và bình yên bên gia đình và thành phố thân yêu để
vào chiến trận, trở thành cô thanh niêm xung phong ngày ngày đối mặt với bom
đạn kẻ thù. Chính tình yêu đất nước, tinh thần sẵn sàng quyết tử cho tổ quốc
quyết sinh của thế hệ trẻ đã giúp cô sống và chiến đấu ngoan cường.
*LC 2: Tình đồng chí đồng đội:
Vào chiến trường, cuộc sống và chiến đấu càng gian khổ bao nhiêu, thì tình
người, tình đồng chí đồng đội càng tỏa sáng bấy nhiêu. Ở Định, thứ tình
cảm ấy được bộc lộ thật sâu sắc và nồng ấm.
- Cô dành tình cảm trân trọng, yêu mến của mình cho những người chiến sĩ đang
trực tiếp cầm súng chiến đấu trên chiến trường. Chính cô tâm sự: “Thực tình
trong suy nghĩ của tôi, những người đẹp nhất, thông minh, can đảm và cao
thượng nhất là những người mặc quân phục có ngôi sao trên mũ.”
- PĐ còn rất quan tâm, hiểu rõ về tính cách, thói quen của người đại đội trưởng
đồng hương Hà Nội của mình: Anh nhỏ, người gầy, hay viết ca dao cho báo
tường…anh hay nói “cảm ơn, xin lỗi, chúc may mắn”.
- Nhưng tình cảm đồng đội của PĐ thể hiện rõ nhất trong việc cô yêu thương và
quan tâm đến 2 đồng đội trong tổ trinh sát của mình.
+ PĐ hiểu rõ tính cách, điểm mạnh, điểm yếu của từng người. cô luôn kể về họ
với giọng điệu trìu mến, yêu thương.
+ Khi cô được phân công ở lại hang trực điện thoại trong khi hai đồng đội làm
nhiệm vụ trên cao điểm. Phần mình tạm thời được an toàn nhưng cô lo lắng cho
hai đồng đội của mình đến nỗi “nói như gắt vào máy” khi đại đội trưởng hỏi tình
hình. Với cô, sống còn ý nghĩa gì nếu hai người bạn của mình không trở về. Do
vậy, cô chỉ có thể thở phào an tâm khi thấy Thao và Nho trở về an toàn. Những
suy nghĩ của PĐ trong khoảnh khắc một mình được an toàn dưới hầm đã cho ta
thấy tình cảm thật chân thành, cảm động mà cô dành cho những đồng đội của
mình.
+ Đặc biệt, khi Nho bị thương, PĐ lo lắng, vỗ về và chăm sóc cho Nho tận tình
như một cô y tá: “tôi moi đất, bế Nho đặt lên đùi mình”, “rửa cho Nho bằng
nước đun sôi trên bếp than”, “tiêm cho Nho” rồi “pha sữa trong cái ca sắt”.
Chính sự lo lắng, thương xót cho Nho đã khiến cô gái trẻ ấy như cáu lên khi chị
Thao bảo cô hát, dù cô hiểu vì sao chị lại có đề nghị ấy vào lúc này. Sự chăm
sóc tận tình của PĐ đã giúp Nho khỏe lại nhanh chóng.
+ Không chỉ chia sẻ với nhau mọi gian nguy, vất vả, PĐ còn sẻ chia với đồng
đội cả những niềm vui nho nhỏ nơi chiến trường. Cơn mưa rừng ập tới, đem
theo những viên đá nhỏ, cô đã đặt lên tay Nho những viên đá mát lạnh và không
giấu nổi niềm vui say sưa, tràn đầy.
=> Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời. Ra đời ngay trong những
năm khói lửa, trang viết của LMK thực sự đã diễn tả cảm động thứ tình cảm đẹp
đẽ nhất của con người VN trong chiến tranh- Tình đồng chí, đồng đội. Chính
tình cảm ấy đã tiếp thêm sức mạnh cho các cô gái TNXP để họ làm tốt nhiệm vụ
của mình.
*LC 3: Tinh thần dũng cảm, không sợ gian khổ, hi sinh:

89
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Cũng như bao cô gái thanh niên xung phong khác, ở Phương Định nổi bật
lên tinh thần dũng cảm, thái độ bình tĩnh vượt lên mọi hiểm nguy không sợ
gian khổ, hi sinh.
- Cuộc sống đối mặt với tử thần mỗi ngày mà cô gái ấy vẫn tìm thấy niềm vui:
“Việc nào cũng có cái thú của nó”; bản thân cô cũng từng bị thương, vết thương
còn chưa kín miệng nhưng cô không vào viện mà vẫn bám trụ với công việc
nguy hiểm.
- Hay sự dũng cảm còn thể hiện ở thái độ chấp nhận và đối mặt với khó khăn
một cách rất nhẹ nhàng của cô gái trẻ: “ Quen rồi. Một ngày chúng tôi phá bom
đến năm lần. Ngày nào ít: ba lần”. hơn ai hết, cô hiểu bên trong trái bom là thần
chết- một gã không thích đùa, thế mà các cô làm công việc ấy như chuyện ăn
cơm, uống nước mỗi ngày, bình thản đến ngỡ ngàng.
- Truyện không có những tình huống éo le, độc đáo nhưng việc tạo dựng tình
huống thử thách cũng góp phần bộc lộ nội tâm nhân vật. Đến đây, nhà văn để
nhân vật thể hiện bản lĩnh, lòng quả cảm của của mình qua một lần phá bom trên
cao điểm ở Trường Sơn. Phương Định nhận nhiệm vụ cũng thản nhiên như bao
lần: “ Tôi một quả bom trên đồi…”. Đến đây, lời kể như biến thành dòng độc
thoại nội tâm, với những câu văn ngắn, nhịp nhanh tái hiện rõ không khí căng
thẳng, hồi hộp nơi trận địa. Nếu coi "Nghệ thuật miêu tả tâm lý con người là
thước đo tài năng của nghệ sĩ" thì chỉ với đoạn văn ngắn này thôi, LMK xứng
đáng bậc thầy về phương diện khắc hoạ nội tâm nhân vật.
+ Tiến đến gần gã tử thần, không gian lúc đó vắng lặng đến phát sợ. Cô thoáng
sợ hãi. Nhưng cảm nhận được ánh mắt đồng đội luôn dõi theo, sẵn sàng giúp đỡ
mình, cô quyết định không đi khom, bởi một lý do rất đơn giản “Các anh ấy
không thích cái kiểu đi khom khi có thể cứ đường hoàng mà bước tới.” Cảm
giác ấy vừa thể hiện lòng tự trọng, vừa là ý chí mạnh mẽ giúp cô dũng cảm vượt
qua mọi hiểm nguy.
+ Phương Định bắt tay vào công việc “Tôi dùng xẻng nhỏ đào đất dưới quả
bom. Đất rắn…thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc
đến gai người cứa vào da thịt tôi.” Dường như cô gái đang thức hết mọi giác
quan, căng thẳng đọ trí, thi gan với tử thần, tay đào đất, cảm nhận rõ độ rắn của
đất đồi sỏi đá, tai nghe rõ âm thanh lưỡi xẻng va chạm với quả bom và một cảm
giác như cứa vào da thịt khi nghe âm thanh ấy. Thế nhưng PĐ vẫn làm chủ mọi
tình huống, không để mất bình tĩnh dù biết mình đang rất nguy hiểm “Tôi rùng
mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí. Vỏ quả bom
nóng. Một dấu hiệu chẳng lành” Cách miêu tả của tác giả thật tài tình mà chỉ có
một người trong cuộc mới có thể cảm nhận và viết được như vậy. Đoạn văn
càng cho thấy rõ hơn sự bình tĩnh, gan dạ của cô gái trẻ.
+ Rồi lúc chờ bom nổ, giây phút căng thẳng, lo lắng nhất là đây. PĐ lúc này
cũng có nghĩ đến cái chết. “Nhưng một cái chết rất mờ nhạt, không cụ thể”. Đó
chỉ là một ý nghĩ thoáng qua. Còn điều mà cô quan tâm lúc này là “liệu mìn có
nổ không, bom có nổ không? Không thì làm cách nào để châm mìn lần thứ
hai?”. Trong suy nghĩ của Định, cô luôn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ thật tốt

90
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
dù có phải hi sinh. Cảm xúc, suy nghĩ chân thật ấy của cô đã truyền sang người
đọc niềm đồng cảm, yêu mến, trân trọng và kính phục.
=> Chính nhờ sự gan góc, dũng cảm và tinh thần trách nhiệm cao đã giúp Định
thực hiện tốt công việc của mình. Một cô gái như muôn ngàn cô gái khác trên
tuyến đường Trường Sơn, đang hàng giờ dệt nên những kì tích cho Tổ quốc thân
thương: Những con đường bằng phẳng để các chuyến xe vượt Trường Sơn tiến
vào Nam.
* LC 4: PĐ còn có một tâm hồn rất lãng mạn, hay mơ mộng, lạc quan, yêu
đời:
Cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, hi sinh. Sự đối mặt hàng ngày, hàng giờ
với tử thần cũng không làm mất đi ở PĐ sự lãng mạn, mơ mộng, lạc quan,
yêu đời . Cô mang theo vào tuyến lửa Trường Sơn cả những nét đáng yêu
của một cô gái tuổi mới lớn, mang theo cả một tâm hồn mơ mộng, rất hồn
nhiên, yêu đời.
- Cô mê hát. Sống trong hoàn cảnh ác liệt của bom đạn trên chiến trường, lúc
nào cũng cận kề với cái chết, cô vẫn không bỏ đi sở thích của mình. “Thường
cứ thuộc một điệu nhạc nào đó rồi bịa ra lời mà hát. Lời tôi bịa lộn xộn mà ngớ
ngẩn đến tôi cũng phải ngạc nhiên, đôi khi bò ra mà cười một mình”. Cô thích
rất nhiều bài, “thích Ca-chiu-sa của Hồng quân Liên Xô. Thích ngồi bó gối mơ
màng: “Về đây khi mái tóc còn xanh xanh…Đó là dân ca Ý trữ tình giàu có”. Cô
hát trong những khoảnh khắc “im lặng” khi máy bay trinh sát rè rè trên đầu, khi
cơn bão lửa sắp chụp xuống cao điểm. Hát khi "máy bay rít, bom nổ. Nổ trên
cao điểm, cách cái hầm; này khoảng 300 mét". Hát trong không khí ngột ngạt:
"Khói lên, và cửa hang bị che lấp”. Cô hát để động viên đồng đội và cũng là để
động viên chính bản thân mình, để gửi vào trong tiếng hát nỗi khát khao của tuổi
trẻ, của người chiến sĩ, mong được trở về quê hương yêu dấu, được gặp lại
người thân yêu sau bao nhiêu nhớ nhung, chờ đợi. Đúng là "tiếng hát át tiếng
bom" của những con người "khao khát làm nên những sự tích anh hùng".
- Phương Định còn hay sống với những kỉ niệm của tuổi thiếu nữ vô tư bên gia
đình và thành phố quê hương. Gặp một trận mưa đá, ở cô vui như đứa trẻ được
nhận quà, niềm vui ấy nở tung ra, say sưa, tràn đầy. Cô nhặt những hạt mưa đá
để rồi bâng khuâng khi thấy nó tan biến bất ngờ, cũng nhanh như khi nó ập đến.
“Tôi bỗng thẫn thờ, tiếc không nói nổi… Tôi nhớ một cái gì đấy, hình như mẹ
tôi, cái cửa sổ hoặc những ngôi sao to trên bầu trời thành phố” Tất cả mọi kỉ
niệm đẹp nhất ở thành phố Hà Nội, về mẹ, về tuổi thiếu nữ trong sáng, vô tư như
ùa về, xoáy mạnh trong lòng cô gái. Chính những kỉ niệm đó như dòng suối mát
lành đã làm dịu mát tâm hồn cô trong hoàn cảnh khốc liệt của chiến tranh.
=> Tâm hồn lãng mạn, hồn nhiên và giàu mộng mơ của cô gái trẻ là nét đẹp
rất quý của con người VN trong chiến tranh. Nó giúp họ cân bằng và bình
thản sống giữa đầy rẫy những mất mát, hi sinh. cũng chính điều đó tạo nên
một thế hệ với những tháng năm: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước- Mà
lòng phơi phới dậy tương lai” như PT Duật đã viết.
3. Bình giá:
3. Bình giá mở rộng:

91
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
- Thành công nhất trong truyện là nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật. Truyện
được kể theo ngôi thứ nhất, cũng là nhân vật chính, tạo điều kiện để tác giả tập
trung miêu tả thế giới nội tâm của nhân vật chính, làm cho câu chuyện diễn tả
một cách chân thật, tự nhiên cảm xúc, tâm trạng của những người chiến sĩ.
Nhan đề truyện xuất phát từ ánh nhìn của Phương Định, những ngôi sao xa xăm
trên bầu trời gợi nhiều cảm xúc. Bên cạnh đó, vẻ đẹp tâm hồn của ba cô gái thật
lấp lánh, lãng mạn giữa hiện thực khắc nghiệt như những ngôi sao xa xôi, lấp
lánh trên bầu trời cao rộng.
- Chính những con người như Phương Định, Thao, Nho đã viết nên bài ca tuyệt
đẹp của “những bông hoa trên tuyến lửa” anh hùng. Giữa sự ác liệt của chiến
tranh, vẻ đẹp của họ vẫn tỏa sáng. Sức trẻ, lòng yêu nước, khát vọng hòa bình đã
tạo nên sức mạnh cho cuộc kháng chiến gian khổ mà anh hùng. Họ vốn chỉ là
những con người rất đỗi bình thường nhưng đã góp phần tạo nên những kì tích
anh hùng cho dân tộc.
******************************************

PHẦN II. LUYỆN ĐỀ


ĐỀ 1.
Phần I. Trắc nghiệm (2,0 điểm)
Hãy chọn phương án trả lời đúng nhất và viết chữ cái đứng trước phương án
đó vào bài làm.
Câu 1. Từ nào dưới đây không phải là từ có nghĩa chuyển của từ mắt?
A. Mắt biếc B. Mắt na C. Mắt lưới D. Mắt cây
Câu 2. Câu văn: “Sao chóng thế?” được dùng với mục đích:
A. Khẳng định một sự việc. B. Trình bày một sự việc.
C. Bộc lộ cảm xúc. D. Thể hiện sự cầu khiến.
Câu 3. Từ “xuân” nào dưới đây dùng với nghĩa chỉ “tuổi”?
A. Làm cho đất nước càng ngày càng xuân.
B. Một mùa xuân nho nhỏ.
C. Làn thu thuỷ, nét xuân sơn
D. Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Câu 4. Trong câu “Nói cho đúng, bà hiền như chiếc bóng” cụm từ in đậm là:
A. Thành phần khởi ngữ. B. Thành phần trạng ngữ.
C. Thành phần biệt lập tình thái. D. Thành phần phụ chú.
Câu 5. Từ “nhưng” trong đoạn văn: “Tôi bỗng nảy ra ý nghĩ, muốn bảo anh ở lại vài
hôm. Nhưng thật khó, chúng tôi chưa biết mình sẽ đi tập kết hay ở lại.” (Chiếc lược
ngà - Nguyễn Quang Sáng) chỉ kiểu quan hệ nào giữa hai câu văn trên?
A. Quan hệ bổ sung. B. Quan hệ tương phản.
C. Quan hệ nhượng bộ. D. Quan hệ nguyên nhân.
Câu 6. Câu văn “Không ai nói với ai, nhưng nhìn nhau, chúng tôi đọc thấy trong mắt
nhau điều đó.” (Lê Minh Khuê) có mấy cụm động từ?
A. Hai. B. Ba. C. Bốn. D. Năm.
92
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Câu 7. Các câu “Tôi cắt thêm mấy cành nữa. Rồi cô muốn lấy bao nhiêu nữa, tùy ý.”
(Nguyễn Thành Long) đã sử dụng phép liên kết nào?
A. Phép nối. B. Phép lặp từ ngữ.
C. Phép thế. D. Phép đồng nghĩa, trái nghĩa.
Câu 8. Xét về cấu tạo ngữ pháp, câu “Anh mong được nghe một tiếng “ba” của con
bé, nhưng con bé chẳng bao giờ chịu gọi.” (Nguyễn Quang Sáng) thuộc kiểu câu nào?
A. Câu đơn. B. Câu đặc biệt.
C. Câu rút gọn. D. Câu ghép.
Phần II. Đọc – hiểu văn bản (2,0 điểm)
Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi:
“Lòng nhân ở mỗi con người, luôn tiềm ẩn và nếu nó được dung dưỡng và bồi
đắp thì sẽ tạo ra những nhân cách sống đẹp và giúp ích cho xã hội. Câu chuyện bé gái
Hải An 7 tuổi mất vì bệnh hiểm nghèo để lại giác mạc cho người sống đang tiếp tục
lan tỏa, và đặc biệt là nó đã đánh thức lòng nhân trong nhiều người chúng ta. Những
ngày qua, hàng trăm cuộc gọi điện và email hoặc trực tiếp đến nhờ tư vấn và đăng kí
hiến tặng mô tạng tại Trung tâm Điều phối hiến ghép mô tạng quốc gia. Điều đó không
phải bỗng dưng, nó được bắt đầu từ “đốm lửa nhỏ” mang tên Hải An. Một sự mất mát
dù đau đớn nhưng lan truyền được cái đẹp, thậm chí tạo nên được một nguồn cảm
hứng. Lòng nhân con người trong xã hội đầy bộn bề lo toan cơm áo gạo tiền dễ bị
“ngủ yên”, nếu không được đánh thức thì nó sẽ mãi “ngủ yên”. Đời người trải qua sinh
– bệnh – lão – tử và thường ngẫm rằng chết là hết. Nhưng với y học ngày càng phát
triển, con người chết đi không chỉ để lại tiếng mà còn có thể để lại một phần cơ thể,
giúp ích cho những người khác đang sống. Không chỉ ở Việt Nam mà cả tại những
quốc gia phát triển và văn minh bậc nhất thế giới như ở châu Âu và Bắc Mỹ, không
phải cá nhân nào, gia đình nào cũng dễ dàng chấp nhận một thực tế hiến tặng mô tạng
khi người thân mình mất đi. Các trường hợp hiến tặng chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ nhoi
nhưng cũng chẳng thể trách móc vì đó là quyền của mỗi cá nhân, quyền con người.
Thế mà một bé gái 7 tuổi, trong cơn bệnh hiểm nghèo, đã đồng ý hiến tặng mô tạng,
đó mới là câu chuyện hiếm có. Chính vì thế, nó đã tạo ra được sự xúc động lan truyền
trong xã hội, thúc đẩy sự mạnh dạn trong suy nghĩ của nhiều người về việc đăng kí
hiến tặng mô tạng. Và hơn thế nữa, “đốm lửa nhỏ” Hải An cùng người mẹ của bé đã
gợi cảm hứng về một suy nghĩ khác cho nhiều người: Trong cái chết nghĩ về sự sống,
ta tiếp tục được sống trong một sự sống khác với tình yêu và sự chở che. Sự đánh thức
lòng nhân và gợi cảm hứng về một cách sống đẹp luôn là điều mà mỗi con người
hướng đến, qua đó chúng ta mới tạo được những giá trị sống về mặt tinh thần mạnh
mẽ có thể lay động bao người. ”
(Nguồn Internet)
Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của đoạn trích?
Câu 2. Theo tác giả, vì sao “một bé gái 7 tuổi, trong cơn bệnh hiểm nghèo, đã
đồng ý hiến tặng mô tạng, đó mới là câu chuyện hiếm có”?
Câu 3. Em hiểu như thế nào về ý kiến “Lòng nhân ở mỗi con người, luôn tiềm
ẩn và nếu nó được dung dưỡng và bồi đắp thì sẽ tạo ra những nhân cách sống đẹp và
giúp ích cho xã hội”?
Câu 4. Qua đoạn văn em rút ra được bài học gì cho mình?
Phần III. Tập làm văn (6,0 điểm)
Câu 1:(1,5 điểm) Từ nội dung của phần đọc - hiểu, em hãy viết đoạn văn bàn về ý
nghĩa của cho và nhận trong cuộc sống.
Câu 2. (4,5 điểm)
93
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Raxum Gamzatov cho rằng: “Người ta chỉ có thể tách con người ra khỏi quê
hương chứ không thể tách quê hương ra khỏi con người.”
Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Làm sáng tỏ ý hiểu của bản thân qua việc cảm
nhận nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của tác giả Kim Lân.

ĐỀ 2.
Phần I. Trắc nghiệm
Hãy chọn phương án trả lời đúng nhất và viết chữ cái đứng trước phương
án đó vào bài làm.
Câu 1. Nghĩa gốc của từ "ngọt" là:
A. sự êm tai, dễ nghe của âm thanh (đàn ngọt).
B. sự tác động êm nhẹ nhưng vào sâu, mức độ cao (lưỡi dao ngọt)
C. vị ngọt của thực phẩm(bánh ngọt)
D. sự nhẹ nhàng, dễ nghe, dễ làm xiêu lòng của lời nói (nói ngọt).
Câu 2. Phần in đậm trong câu “Mùa xuân đến, nói đúng hơn là từ tháng
một đến giữa tháng năm, hoa anh đào nở” là
A. thành phần trạng ngữ. B. thành phần phụ chú.
C. thành phần khởi ngữ. D. thành phần tình thái.
Câu 3. Chỉ ra phép liên kết được sử dụng trong đoạn văn sau: Chửi. Kêu.
Đấm. Đá. Thụi. Bịch”( Nguyễn Công Hoan)
A. Phép đồng nghĩa, phép thế. C. Phép liên tưởng, phép đồng
nghĩa.
B. Phép liên tưởng, phép thế. D. Phép lặp, phép đồng nghĩa.
Câu 4. Tìm hàm ý của câu in đậm trong đoạn văn sau:
Tuấn hỏi Nam:
- Cậu thấy đội bóng huyện mình chơi có hay không?
Nam bảo:
- Tớ thấy họ ăn mặc rất đẹp.
A. Họ chỉ ăn mặc đẹp thôi. C. Họ chơi bóng rất hay.
B. Họ chơi bóng không hay. D. Tớ rất thích!
Câu 5. Hàm ý trong câu 4 được tạo ra bằng cách cố ý vi phạm phương châm
hội thoại nào?
A. Phương châm về chất. B. Phương châm về lượng
C. Phương châm quan hệ. D. Phương châm cách
thức.
Câu 6. Chỉ ra biện pháp tu từ trong đoạn thơ sau: Khi gai đời đâm ứa máu
bàn chân/ mấy kẻ đi qua/ mấy người dừng lại?( Đỗ Trung Quân)
A. Nhân hóa. B. So sánh. C. Nói quá. D. Ẩn dụ.
Câu 7. Tổ hợp từ nào dưới đây là tục ngữ?
A. Cá chậu chim lồng . B. Gần mực thì đen, gần đèn thì
rạng.
C. Nước mắt cá sấu. D. Bảy nổi ba chìm.
Câu 8. Từ “xuân” nào dưới đây dung với nghĩa chỉ tuổi?
A. Xuân đến trăm hoa nở.( Mãn Giác Thiền sư.)
B. Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.(Hồ Chí Minh)
94
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
C. Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.( Viễn Phương)
D. Làm cho đất nước càng ngày càng xuân.( Hồ Chí Minh)

Phần II. Đọc – hiểu văn bản (2,0 điểm)


Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi bên dưới:
THỜI GIAN LÀ VÀNG
Ngạn ngữ có câu: Thời gian là vàng. Nhưng vàng thì mua được mà thời
gian không mua được. Thế mới biết vàng có giá mà thời gian là vô giá.
Thật vậy, thời gian là sự sống. Bạn vào bệnh viện mà xem, người bệnh
nặng, nếu kịp thời chạy chữa thì sống, để chậm là chết.
Thời gian là thắng lợi. Bạn hỏi các anh bộ đội mà xem, trong chiến đấu, biết
nắm thời cơ, đánh địch đúng lúc là thắng lợi, để mất thời cơ là thất bại.
Thời gian là tiền. Trong kinh doanh, sản xuất hàng hóa đúng lúc là lãi,
không đúng lúc là lỗ.
Thời gian là tri thức. Phải thường xuyên học tập thì mới giỏi. Học ngoại ngữ
mà bữa đực, bữa cái, thiếu kiên trì, thì học mấy cũng không giỏi được.
Thế mới biết, nếu biết tận dụng thời gian thì làm được bao nhiêu điều cho
bản thân và cho xã hội. Bỏ phí thời gian thì có hại và về sau hối tiếc cũng không
kịp.
(Phương Liên - Ngữ văn 9, Tập hai, NXB Giáo dục)
Câu 1. Theo tác giả, thời gian có những giá trị nào?
Câu 2. Xác định và nêu hiệu quả nghệ thuật của 01 biện pháp tu từ cú pháp
trong văn bản?
Câu 3. Theo em, tại sao tác giả cho rằng: Thời gian là vàng. Nhưng vàng thì
mua được mà thời gian không mua được?
Câu 4. Thông điệp nào của văn bản trên có ý nghĩa nhất với em? Vì sao?
PHẦN III : Làm văn ( 6,0 điểm)
Câu 1 (1,5 điểm)
Viết đoạn văn nêu suy nghĩ của em về quan điểm : Thời gian là vàng.
Câu 2. (4,5 điểm)
“ Nhân vật là linh hồn của truyện ngắn”
Phân tích nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa để
làm sáng tỏ ý kiến trên.

ĐỀ 3.
Phần I: Tiếng Việt (2,0 điểm)
Trả lời các câu hỏi bằng cách ghi chữ cái đầu câu em cho là đúng nhất ra tờ giấy
làm bài.
Câu 1. Trong hai câu thơ “Ngoài thềm rơi chiếc lá đa. Tiếng rơi rất mỏng như
là rơi nghiêng.”, tác giả đã sử dụng phép tu từ nào?
A. So sánh, nhân hóa B. Nhân hóa, ẩn dụ
C. Hoán dụ, so sánh D. Ẩn dụ, so sánh
Câu 2. Các câu văn “Sự im lặng từ sáng đến giờ không bình thường. Cái không
bình thường đó đang đến. Tiếng máy bay trinh sát rè rè. Phản lực gầm gào lao

95
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
theo sau. Hai thứ tiếng đó trộn lẫn vào nhau, rót vào tai con người một cảm
giác khó chịu và căng thẳng” đã sử dụng phép liên kết gì?
A. phép thế và phép lặp B. phép lặp và phép nối
C. phép nối và phép thế D. phép nối và phép đồng nghĩa
Câu 3. Trong câu “Hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh
như đài hoa loa kèn.” có mấy cụm danh từ?
A. Một cụm B. Hai cụm
C. Ba cụm D. Bốn cụm
Câu 4. Thành phần in đậm trong hai câu sau là thành phần gì?
“Trên trời, mấy trắng như bông
Ở giữa cánh đồng, bông trắng như mây”
A. Chủ ngữ. B. Tình thái.
C. Trạng ngữ D. Khởi ngữ.
Câu 5. Bài ca dao: “Kim vàng ai nỡ uốn câu/ Người khôn ai nỡ nói nhau nặng
lời.” liên quan đến phương châm hội thoại nào?
A. Phương châm về lượng. C. Phương châm quan hệ.
B. Phương châm về chất. D. Phương châm lịch sự.
Câu 6. Phần gạch chân trong câu sau là thành phần gì?
“Vũ Thị Thiết – người con gái quê ở Nam Xương, tính tình thùy mị, nết na lại
thêm tư dung tốt đẹp”
A. Tình thái B. Cảm thán C. Gọi - đáp D. Phụ chú
Câu 7: Câu “Từ khi có vịnh Bắc Bộ và từ khi quần đảo Cô Tô mang lấy dấu
hiệu của sự sống con người thì, sau mỗi lần dông bão, bao giờ bầu trời Cô Tô
cũng trong sáng như vậy. ” là:
A. Câu đơn B. Câu ghép C. Câu đặc biệt D. Câu rút gọn
Câu 8. Trong các câu sau, từ “sóng” nào được dùng theo nghĩa gốc?
A. Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng
B. Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
C. Sóng lớp lớp đè lên thềm lục địa
D. Trong hồn người có ngọn sóng nào không?”
Phần II: Đọc hiểu văn bản (2 điểm)
Hãy đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi bên dưới:
Tôi được tặng một chiếc xe đạp leo núi rất đẹp nhân dịp sinh nhật của
mình.Trong một lần tôi đạp xe ra công viên chơi, một cậu bé cứ quẩn quanh
ngắm nhìn chiếc xe với vẻ thích thú và ngưỡng mộ thực sự.
- Chiếc xe này của bạn đấy à?. Cậu bé hỏi.
- Anh mình đã tặng nhân dịp sinh nhật của mình đấy. Tôi trả lời, không giấu vẻ
tự hào và mãn nguyện.
- Ồ, ước gì tôi... Cậu bé ngập ngừng.
Dĩ nhiên là tôi biết cậu bé đang nghĩ gì rồi. Chắc chắn cậu ấy ước ao có được
một người anh như thế. Nhưng câu nói tiếp theo của cậu bé hoàn toàn nằm ngoài
dự đoán của tôi.

96
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
- Ước gì tôi có thể trở thành một người anh như thế! . Cậu ấy nói chậm rãi và
gương mặt lộ rõ vẻ quyết tâm. Sau đó, cậu đi về phía chiếc ghế đá sau lưng tôi,
nơi một đứa em trai nhỏ tật nguyền đang ngồi và nói:
- Đến sinh nhật nào đó của em, anh sẽ mua tặng em chiếc xe lăn lắc tay nhé.
( “Hạt giống tâm hồn”, tập 4, nhiều tác giả. NXB tổng hợp TP Hồ Chí Minh)
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt của văn bản trên?
Câu 2. Cậu bé ước trở thành người anh thế nào?
Câu 3. Theo anh (chị) câu “Cậu ấy nói chậm rãi và gương mặt lộ rõ vẻ quyết
tâm”có ý nghĩa gì ?
Câu 4. Văn bản trên gửi đến chúng ta thông điệp gì?
Phần III. Làm văn(6,0 điểm)
Câu 1: (1,5 điểm). Anh/chị hãy viết đoạn văn trình bày suy nghĩ của bản thân về
vai trò của ước mơ trong cuộc sống.
Câu 2: (4,5 điểm): “Nghệ thuật là tiếng nói của tình cảm”. Hãy phân tích tiếng
nói tình cảm của Thanh Hải trong ba khổ thơ cuối bài thơ Mùa xuân nho nhỏ để
làm sáng tỏ ý kiến trên.

ĐỀ 4.
Phần I. Tiếng Việt (2,0 điểm) Hãy viết chữ cái đứng trước phương án đúng vào bài
làm.
Câu 1: Từ ngữ được điền vào chỗ dấu ba chấm của câu “… được dùng để thể
hiện cách nhìn nhận của người nói đối với sự việc được nói đền trong câu.” là
A. thành phần phụ chú. C. thành phần cảm thán.
B. thành phần tình thái. D. thành phần gọi đáp.
Câu 2: Phần được in đậm trong câu:“Làm khí tượng, ở được cao thế mới là lí
tưởng chứ” .” (Nguyễn Thành Long) là thành phần
A. khởi ngữ. C. vị ngữ.
B. chủ ngữ. D. trạng ngữ.
Câu 3: Các câu văn sau sử dụng phép liên kết nào?
“ Người ta gọi chúng tôi là tổ trinh sát mặt đường. Cái tên gợi sự khao khát
làm nên những sự tích anh hùng.”(Lê Minh Khuê)
A. Phép lặp đồng nghĩa; B. Phép liên tưởng;
C. Phép nối; D. Phép thế.
Câu 4: Câu thơ “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.” sử dụng những biện pháp tu
từ gì?
A. hoán dụ, so sánh. B. hoán dụ, nhân hoá.
C. nhân hoá, ẩn dụ. D. ẩn dụ, hoán dụ.
Câu 5: Phần trung tâm của các cụm từ in đậm trong các câu văn “ Vừa lúc ấy,
tôi đã đến gần anh. Với lòng mong nhớ của anh, chắc anh nghĩ rằng, con anh sẽ
chạy xô vào lòng anh, sẽ ôm chặt lấy cổ anh.”là
A. đến, xô, ôm. C. đến, chạy, ôm.
B. đến, chạy, lấy. D. đến, vào, ôm.
Câu 6: Điểm giống nhau giữa khởi ngữ và trạng ngữ
A. đều là thành phần chính của câu. C. đều là thành phần biệt lập.
97
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
B. đều là thành phần phụ của câu. D. không phải là thành phần
câu.
Câu 7: Câu văn:“Đi bốn năm hôm mới lên đến đây, vất vả quá!” (Kim Lân) có
chứa thành phần biệt lập nào?
A. Gọi- đáp. C. Phụ chú.
B. Tình thái. D. Cảm thán.
Câu 8: Nếu viết thêm vào chố trống (...) để hoàn thiện đoạn đối thoại sau bằng
một câu nói có hàm ý, em chọn phương án nào dưới đây?
- Mai đi xem phim với mình nhé!
- (...)
A. Tiếc quá, tớ không đi được.
B. Ok, mấy giờ.
C. Mai lại đúng ngày sinh nhật của mẹ tớ rồi…
D. Ừ, tớ rủ thêm bạn có được không?
Phần II. Đọc - Hiểu văn bản (2,5 điểm)
Đọc đoạn văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Nhu cầu về khẩu trang y tế tăng vọt, mặt hàng này trở nên khan hiếm. Rất
nhiều cửa hàng dược phẩm đã tăng giá loại hàng này lên gấp nhiều lần để kiếm
lời bất chính. Tình hình “căng” đến mức trong cuộc họp trực tuyến sáng ngày
1/2/2020, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã phải yêu cầu: “Từ giờ phút này trở đi,
nếu người dân có bằng chứng, hình ảnh bất kỳ nhà thuốc nào tăng giá bán (khẩu
trang y tế), thì không cần thanh tra xuống làm việc, Bộ Y tế rút giấy phép ngay
lập tức cửa hiệu đó. Đây là vấn đề kỷ cương và đạo đức”. Kết quả là hơn 1.200
hiệu thuốc trên toàn quốc đã bị xử phạt với số tiền hàng tỷ đồng.
Thế nhưng ngay trong những ngày bị dịch viêm phổi cấp hoành hành, đã
có những việc làm mang đầy ý nghĩa của nhiều tổ chức, cá nhân trên dải đất
hình chữ S: Phát khẩu trang y tế miễn phí cho người dân để phòng bệnh.
Đó là chuỗi cửa hàng dược phẩm số 66 phố Chùa Láng (quận Đống Đa,
TP Hà Nội), … Anh Dương Đại Dũng, đã phát miễn phí hàng ngàn khẩu trang y
tế cho người dân.
Đó là đơn vị chuyển phát nhanh Viettelpost, bỏ tiền ra mua hàng ngàn
khẩu trang để cấp phát cho dân. Đó là ban quản lý chùa Bái Đính (xã Gia Sinh,
huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình) cấp miễn phí hơn 1 vạn khẩu trang y tế cho du
khách đến chùa dịp đầu xuân. Rồi thành phố Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh và rất
nhiều tỉnh, thành phố khác trên cả nước… cũng có hàng chục địa chỉ phát khẩu
trang miễn phí.
Cổ nhân có câu “một miếng khi đói bằng một gói khi no”, chiếc khẩu trang
y tế có giá trị chỉ vài ngàn bạc, không bằng một chén nước chè ở quán nước vỉa
hè. Nhưng trong trận dịch này, những kẻ bất lương đã đội giá lên vài ba chục
lần.
Việc đội giá này không chỉ là hành vi móc túi người dân một cách trái
pháp luật, vô nhân đạo, thậm chí là một tội ác, mà còn gieo rắc tâm lý hoang
mang cho xã hội. Đối nghịch với cảnh đó, việc phát khẩu trang miễn phí cho
người dân của những tổ chức, cá nhân nói trên là một hành động vô cùng đẹp đẽ

98
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
và nhân văn, thể hiện tấm lòng “bầu ơi thương lấy bí cùng”, tấm lòng “lá lành
đùm lá rách”, tấm lòng nhường cơm sẻ áo những lúc hoạn nạn, đã được cha ông
ta xây dựng và dày công vun đắp từ hàng ngàn năm qua.
Những tấm khẩu trang tuy giá trị nhỏ nhoi, nhưng đã làm ấm lòng những
người được nhận, làm giảm nguy cơ lây bệnh, nhiễm bệnh của hàng ngàn người
trên cả nước.
Những việc làm đó rất đáng được tôn vinh.
(Theo Tình người giữa dịch viêm phổi cấp - Vũ Hữu Sự)
Câu 1: Phương thức biểu đạt chính của văn bản trên là gì?.
Câu 2: Tác giả đã phê phán hiện tượng nào và tuyên dương hiện tượng nào
được nêu trong văn bản?
Câu 3: Chỉ ra và nêu tác dụng của các câu tục ngữ được nhắc đến trong văn
bản?
Câu 4: Bản thân em sẽ hành động như thế nào để mọi người cùng chung tay đẩy
lùi đại dịch virus Corona?
Phần III. Tập làm văn
Câu 1: (1,5 điểm )Từ nội dung phần Đọc hiểu, em hãy viết 01 đoạn văn bàn về
ý nghĩa của chân lý “cho đi là còn mãi”.
Câu 2: (4 điểm)
“ Thơ là tiếng lòng” (Tố Hữu).
Phân tích đoạn thơ sau của Thanh Hải để làm sáng tỏ ý kiến trên
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến.

Một mùa xuân nho nhỏ


Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tác bạc.”
(Trích “Mùa xuân nho nhỏ” – Thanh Hải, sgk Ngữ văn 9 – Tập 2- Tr 56- NXBGD -
2017)
ĐỀ 5.

I. PHẦN TIẾNG VIỆT (2,0 điểm)


Trong 8 câu hỏi sau, mỗi câu có 4 phương án trả lời A,B,C,D; trong đó chỉ có một
phương án đúng. Hãy chọn phương án đúng để viết vào tờ giấy làm bài.

Câu 1. Câu "Ông xách cái làn trứng, cô ôm bó hoa to." ( Lặng Lẽ Sa Pa) thuộc kiểu
A. câu đơn B. câu ghép C. câu đặc biệt D. câu rút gọn
Câu 2. Xét theo mục đích nói , những câu sau dùng để làm gì?
“Có loài hoa nào thanh khiết và trong trẻo như đào? Có loài hoa nào trinh trắng và nguyên
sơ như đào?
Có loài hoa nào mang trong mình sứ mệnhthiêng liêng như đào?” ( Vũ Thanh Lịch)
A. hỏi B. kể
C. bộc lộ cảm xúc D. thông báo
99
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Câu 3. Cụm từ nằm trong giấc ngủ bình yên trong câu thơ Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
( Viếng lăng Bác- Viễn Phương) là:
A. cụm chủ vị C. cụm động từ
B. cụm tính từ D. cụm danh từ
Câu 4. Câu nào được sử dụng nhiều nhất trong khi giao tiếp?
A.Câu cầu khiến B.Câu trần thuật
C.Câu cảm thán D.Câu nghi vấn.
Câu 5. Yếu tố “ Phong” trong từ nào sau đây có nghĩa là gió?
A. Phong ba B. Phong cách
C. Phong độ D. Phong cảnh
Câu 6. Câu văn « Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng, những ngón
tay bằng bạc dưới cái nhìn bao che của những cây tử kinhthỉnh thoảng nhô cái đầu
màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng » (Nguyễn Thành long) có mấy cụm danh từ ?
A. ba B. bốn
C năm D. sáu
Câu 7. Trong những cặp từ sau đây, cặp từ nào có quan hệ trái nghĩa?
A. Già-trẻ B. Xanh-đỏ C. Thông minh-lười biếng D. Voi-
chuột
Câu 8. Câu văn “Trước đây bà chưa về với thượng đế chí nhân, bà cháu ta đã
từng sung sướng biết bao!” đã sử dụng biện pháp tu từ gì?
A. Ẩn dụ B. Hoán dụ C. Nói giảm nói tránh D. Nói quá
II. PHẦN ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN (2,5 điểm):
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 4
“Bất cứ ai cũng đã từng thất bại, đã từng vấp ngã ít nhất một lần trong đời như
một quy luật bất biến của tự nhiên. Có nhiều người có khả năng vực dậy, đứng lên rồi
nhẹ nhàng bước tiếp như thể chẳng có chuyện gì xảy ra, nhưng cũng có nhiều người
chỉ có thể ngồi một chỗ và vẫn luôn tự hỏi lí do vì sao bản thân lại có thể dễ dàng
“mắc bẫy” đến như thế…
Bất kì vấp ngã nào trong cuộc sống cũng đều mang lại cho ta một bài học đáng
giá: Về một bài toán đã áp dụng cách giải sai, về lòng tốt đã gửi nhầm chủ nhân hay
về một tình yêu lâu dài bỗng phát hiện đã trao nhầm đối tượng.
(...) Đừng để khi tia nắng ngoài kia đã lên, mà con tim vẫn còn băng lạnh. Đừng để
khi cơn mưa kia đã tạnh, mà những giọt lệ trên mi mắt vẫn còn tuôn rơi. Thời gian
làm tuổi trẻ đi qua nhanh lắm, không gì là mãi mãi, nên hãy sống hết mình để không
nuối tiếc những gì chỉ còn lại trong quá khứ mà thôi...”
(Trích“ Hãy học cách đứng lên sau vấp ngã)
Câu 1 ( 0,5 điểm): Hãy chỉ ra phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên?
Câu 2 ( 0,5 điểm): Tác giả đã đưa ra những dẫn chứng nào để khẳng định“Bất kì vấp
ngã nào trong cuộc sống cũng đều mang lại cho ta một bài học đáng giá”?
Câu 3(1,0 điểm): Tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ gì trong hai câu văn sau: “Đừng
để khi tia nắng ngoài kia đã lên, mà con tim vẫn còn băng lạnh. Đừng để khi cơn mưa
kia đã tạnh, mà những giọt lệ trên mi mắt vẫn còn tuôn rơi”? Hãy phân tích hiệu quả
biểu đạt của biện pháp tu từ đó?
Câu 4(0,5 điểm): Thông điệp rút ra từ đoạn trích trên?
III. PHẦN TẬP LÀM VĂN (5,5 điểm)
Câu 1. (1,5 điểm) Từ nội dung đoạn trích phần Đọc- hiểu, em hãy viết một đoạn văn
(khoảng 12-15 câu ) trình bày suy nghĩ về vai trò của niềm tin trong cuộc sống.

100
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Câu 2.(4,0 điểm) Có ý kiến cho rằng: Những gì thân thiết nhất của tuổi thơ có sức
toả sáng, nâng đỡ con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời.
Hãy phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ “Bếp lửa” ( Bằng Việt) để làm sáng tỏ nhận
định trên:
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Làng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh :
“Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen


Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa


Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới xẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!

ĐỀ 6.
I. Tiếng Việt (2d):Chọn đáp án đúng, viết lại vào bài làm.
Câu 1: Những từ nhà nào dưới đây không được dùng với nghĩa chuyển
A. Năm gian nhà cỏ thấp lè tè
B. Đèn nhà ai nhà nấy rạng
C. Đồn rằng đám cưới cô to
Nhà trai thuê chín chiếc đò rước dâu
D. Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho.
Câu 2: Trong các định nghĩa sau, định nghĩa nào nói đúng phương châm về chất?
A. Khi giao tiếp, cần tế nhị và tôn trọng người khác.
B. Khi giao tiếp, cần nói đúng vào đề tài giao tiếp, tránh nói lạc đề.
C. Khi giao tiếp, đừng nói những điều mà mình không tin là đúng hay không có
bằng chứng xác thực.
D. Khi giao tiếp, cần nói ngắn gọn, rành mạch tránh cách nói mơ hồ.
Câu 3: Trong câu thơ “Đầu súng trăng treo”, từ “Đầu” trong “đầu súng” là nghĩa
chuyển theo phương thức nào?
A. Ẩn dụ tu từ C. Hoán dụ tu từ
B. Ẩn dụ từ vựng D. Hoán dụ từ vựng
Câu 4:Trong các từ sau từ nào có độ tin cậy cao nhất khi dùng để thể hiện sự khẳng
định của người nói
A. Hình như C. Chắc là
B. Có lẽ . D. Chắc chắn
101
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Câu 5:Trong những câu sau câu nào là câu ghép:
A. Thầy giáo gọi nó đọc bài
B. Nó rất thích quyển sách mà thầy cho mượn.
C. Trong lúc thầy giáo giảng bài thì nó lại làm việc riêng.
D. Nó học bài xong rồi nó đi nấu cơm.
Câu 6: Phần in đậm trong câu: “ Những nét hớn hở trên mặt người lái xe chợt duỗi
ra rồi bẵng đi một lúc, bác không nói gì nữa” là loại cụm từ nào?
A.Cụm động từ B. Cụm tính từ
C. Cụm danh từ D. Cả A, B, C đều sai
Câu 7: Xác định đúng tên thành phần biệt lập in đậm trong ví dụ sau:
“Ngẫm ra thì tôi chỉ nói cho sướng miệng tôi.”
(“Dễ mèn phiêu lưu kí”-Tô Hoài)
A.Thành phần cảm thán C. Thành phần gọi đáp
B.Thành phần tình thái D. Thành phần phụ chú
Câu 8: Trong các ví dụ sau, ví dụ nào không phải là nghĩa tường minh?
A. Đêm nay rừng hoang sương muối
B. Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
C. Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
D. Ôi!Hàng tre xanh xanh Việt Nam.
II. Đọc – hiểu văn bản (2,5 đ)
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Những người hùng thầm lặng
Bác sĩ vốn là nghề cao quí và những bác sĩ đang lao mình vào vùng dịch chính là
những người hùng thầm lặng. Ra khỏi khu cách li của khoa bệnh nhiệt đới – Bệnh viện
Chợ Rẫy thành phố Hồ Chí Minh, nơi đang điều trị cho hai bệnh nhân người Trung
Quốc bị nhiễm chủng vi rút Cô rô na mới (nCOV), lời chia sẻ của một bác sĩ cứ ám
ảnh và văng vẳng trong đầu tôi: “Chỗ có dịch bệnh là nơi mọi người chạy đi còn nhân
viên y tế lại chạy vào”.
Nhớ cách đây 17 năm, khi đại dịch SARS tung hoành trên toàn cầu tại Việt nam đã
có 6 bác sĩ hi sinh trong công tác điều trị phòng chống dịch. Đặc biệt thế giới vẫn nhớ
đến vị bác sĩ người Ý Carlo-Urbani, chuyên gia dịch tễ và bệnh truyền nhiễm của tổ
chức y tế thế giới (WHO). Ông là người trực tiếp tham gia điều trị cho bệnh nhân
SARS đầu tiên tại Việt Nam và cũng là bác sĩ đầu tiên trên thế giới xác định hội chứng
SARS. Ông qua đời bởi chính căn bệnh này. Bác sĩ vốn là nghề cao quí và những bác
sĩ đang lao mình vào vùng dịch chính là những người hùng thầm lặng.
(Báo pháp luật và đời sống)
Câu 1: Nêu phương thức biểu đạt chính của đoạn văn bản trên?
Câu 2: Theo em: “Những người hùng thầm lặng” là những người như thế nào?
Câu 3: Em có đồng ý với ý kiến của tác giả: “Những bác sĩ đang lao mình vào vùng
dịch chính là những người hùng thầm lặng”? Vì sao?
Câu 4: Bản thân em đã làm gì để chung tay cùng cộng đồng đẩy lùi đại dịch nCOV?
III. Tập làm văn (5,5 đ)
Câu 1(1,5đ): Viết đoạn văn cảm nhận đoạn thơ sau:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
102
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Tất cả như xôn xao”
(Mùa xuân nho nhỏ-Thanh Hải)
Câu 2 (4,0đ)
Bàn về truyện “Những ngôi sao xa xôi” có ý kiến cho rằng: “Tác phẩm giúp ta
hiểu được sự khốc liệt của chiến tranh và vẻ đẹp sáng ngời của người Việt Nam trong
cuộc chiến đó”. Hãy phân tích nhân vật Phương Định trong truyện ngắn: “Những ngôi
sao xa xôi” để làm sáng tỏ ý kiến trên?

ĐỀ 7.
I. PHẦN TIẾNG VIỆT (2,0 điểm)
Trong 8 câu hỏi sau, mỗi câu có 4 phương án trả lời A,B,C,D; trong đó chỉ
có một phương án đúng. Hãy chọn phương án đúng để viết vào tờ giấy làm bài.
Câu 1. Những cách diễn đạt sau liên quan đế phương châm hội thoại nào?
“như tôi được biết, tôi tin rằng, nếu tôi không lầm thì, tôi nghe nói”
A. Phương châm về lượng B. Phương châm về
chất
C. Phương châm quan hệ D. Phương châm cách
thức
Câu 2. Từ chân trong câu nào được dùng với nghĩa chuyển theo phương thức
hoán dụ?
A. Đề huề lưng túi gió trăng – Sau chân theo một vài thằng con con.
B. Dù ai nói ngả nói nghiêng – Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân.
C. Năm em học lớp 9 em có chân trong đội tuyển bóng đá của trường.
D. Buồn trông nội cỏ rầu rầu – Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Câu 3. Trong những cặp từ sau đây, cặp từ nào có quan hệ trái nghĩa?
B. Già-trẻ B. Xanh-đỏ C. Thông minh-lười biếng D. Voi-
chuột
Câu 4. Câu văn “Trước đây bà chưa về với thượng đế chí nhân, bà cháu ta đã
từng sung sướng biết bao!” đã sử dụng biện pháp tu từ gì?
B. Ẩn dụ B. Hoán dụ C. Nói giảm nói tránh D. Nói quá
Câu 5. Phần được gạch chân trong câu “Thể thao, đó là niềm say mê lớn nhất
của Tiến Minh” là thành phần gì?
A. Trạng ngữ B. Chủ ngữ C. Phụ chú D. Khởi ngữ
Câu 6. Theo tôi, Nam là một người bạn tốt” có thành biệt lập nào?
A. Cảm thán B. Phụ chú C. Tình thái D. Gọi đáp
Câu 7. Câu văn “Con đò ngang mỗi ngày chỉ qua lại một chuyến giữa hai bờ
khúc sông Hồng này vừa mới bắt đầu chống sào ra khỏi chân bãi bồi bên kia,
cánh buồm nâu bạc trắng vẫn còn che lấp gần hết cái miền đất mơ ước” là câu
gì?
A. Câu ghép B.Câu đơn C. Câu đặc biệt D. Câu rút
gọn
Câu 8. Hai câu văn: “Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng
nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư?” được liên kết với nhau bằng
A. Phép lặp C. Phép liên tưởng
B. Phép nối D. Phép thế
103
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
II. PHẦN ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN
Em hãy đọc văn bản sau, rồi trả lời các câu hỏi bên dưới đây:
..”Không hiểu bằng cách nào, một hạt cát lọt vào bên trong cơ thể của con trai,
vị khách không mời mà đến đoa tuy rất nhỏ nhưng gây rất nhiều khó chịu, đau
đớn cho cơ thể mềm mại của con trai. Không thể tống ra ngoài, cuối cùng con
trai đã quyết định tiết ra một chất dẻo bao quanh hạt cát.
Ngày qua ngày, con trai đã biến hạt cát gây nỗi đau cho mình thành một
viên ngọc trai lấp lánh tuyệt đẹp…”.
(Theo Bùi Xuân Lộc – Lớn lên trong trái tim nhỏ bé của
mẹ,
NXB trẻ, TP Hồ Chí Minh, 2005)
Câu 1 (0,5 điểm): Chỉ ra phương thức biểu đạt được sử dụng trong văn bản trên?
Câu 2 (1,0 điểm): Con trai gặp nghịch cảnh gì? Nó đối phó bằng cách nào? Điều
đó có ý nghĩa gì?
Câu 3 (0,5 điểm): Hình ảnh hạt cát tượng trưng cho điều gì?
III. PHẦN TẬP LÀM VĂN
Câu 1 (2 điểm): Bằng một đoạn văn nghị luận hoàn chỉnh, em hãy trình bày suy
nghĩ của em về vấn đề đặt ra từ văn bản trên?
Câu 1 (2 điểm):Phân tích đoạn thơ sau:
“ Quê hương anh nước mặn đồng chua
............................................
Đồng chí!”
(Chính Hữu)

ĐỀ 8.
PHẦN I: TIẾNG VIỆT (2,0 điểm)
Trả lời các câu hỏi sau bằng cách viết vào tờ giấy làm bài chữ cái in hoa đầu dòng
câu trả lời đúng nhất.
Câu 1: Tổ hợp từ ngữ nào dưới đây là tục ngữ?
A. Cá chậu chim lồng B. Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng
C. Nước mắt cá sấu D. Bảy nổi ba chìm
Câu 2: Đoạn văn sau sử dụng phép liên kết nào?
“Nghệ thuật mở rộng khả năng của tâm hồn, làm cho con người vui buồn nhiều
hơn, yêu thương và căm hờn được nhiều hơn, tai mắt biết nhìn, biết nghe thêm tế nhị,
sống được nhiều hơn. Nghệ thuật giải phóng được cho con người khỏi những biến giới
của chính mình, nghệ thuật xây dựng con người, hay nói cho đúng hơn, làm cho con
người tự xây dựng được.”
(Nguyễn Đình Thi)
A. Phép thế B. Phép lặp từ ngữ
C. Phép nối D. Phép dùng từ đồng nghĩa
Câu 3: Phép tu từ nào được sử dụng trong hai dòng thơ sau?
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
(Huy Cận)
A. So sánh và nhân hóa B. Nói quá và liệt kê
C. Ẩn dụ và hoán dụ D. Chơi chữ và điệp ngữ
104
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Câu 4: Dòng thơ nào sau đây chứa từ tượng thanh?
A. Lưng đưa nôi và tim hát thành lời
B. Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long
C. Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
D. Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Câu 5: Trong các từ sau, từ nào không phải là từ láy?
A. thình lình B. rưng rưng
C. vành vạnh D. đèn điện
Câu 6: Từ “có lẽ” trong câu: “Trong những hành trang ấy, có lẽ sự chuẩn bị bản
thân con người là quan trọng nhất.” (Vũ Khoan) là thành phần gì?
A. Thành phần trạng ngữ
B. Thành phần phụ ngữ
C. Thành phần biệt lập tình thái
D. Thành phần biệt lập cảm thán
Câu 7: Đại từ “nó” trong câu sau thay thế cho từ, cụm từ nào?
“Cái im lặng lúc đó mới thật dễ sợ: nó như bị chặt ra từng khúc, mà gió thì giống
như nhát chổi lớn muốn quét đi tất cả, ném vứt lung tung...” (Nguyễn Thành Long)
A. cái im lặng B. lúc đó
C. thật dễ sợ D. cái im lặng lúc đó
Câu 8: Tổ hợp từ nào dưới đây chưa phải là câu?
A. Nguyễn Trãi, nhà thơ lớn của nước ta
B. Trường tôi vừa được xây dựng khang trang
C. Cái quạt đã hỏng
D. Con đường làng rợp mát bóng cây
PHẦN II: ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN (2,0 điểm)
Đọc văn bản sau, rồi trả lời câu hỏi bên dưới.
“ Hãy sống như đời sống để biết yêu nguồn cội
Hãy sống như đồi núi vươn tới những tầm cao
Hãy sống như biển trào, như biển trào để thấy bờ bến rộng
Hãy sống như ước vọng để thấy đời mênh mông.”
(Trích lời bài hát Khát vọng – Phạm Minh Tuấn)
Câu 1 (0,5 điểm): Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích?
Câu 2 (1,0 điểm): Chỉ ra và phân tích tác dụng của biện pháp điệp cấu trúc trong đoạn
trích trên?
Câu 3 (0,5 điểm): Những thông điệp nào được tác giả gửi gắm qua lời đoạn văn bản?
PHẦN III: TẬP LÀM VĂN (6,0 điểm)
Câu 1. (1,5 điểm) Từ nội dung văn bản đọc - hiểu, em hãy viết một đoạn văn nghị luận
(15- 20 dòng) trình bày về ý nghĩa của khát vọng sống đẹp.
Câu 2. (4,5 điểm)
Cảm nhận về vẻ đẹp thiêng liêng và kì lạ của hình ảnh bếp lửa và người bà trong đoạn
thơ:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa


Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm.
105
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi sôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ,
Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa !”
(Bếp lửa, Bằng Việt- SGK Ngữ văn 9, tập I, trang 144)
Từ đó, nêu ý nghĩa triết lý thầm kín mà tác giả gửi gắm trong bài thơ.
----------------HẾT--------------

ĐỀ 9.
Phần I. Tiếng Việt (2,0 điểm)
Hãy chọn phương án trả lời đúng và viết chữ cái đứng trước phương án đó vào
bài làm
Câu 1. Cụm từ nào sau đây không phải là thành ngữ?
A. Quýt làm cam chịu. B. Một mặt người bằng mười mặt của.
C. Da mồi tóc sương. D. Nước mắt cá sấu.
Câu 2. Từ “đầu” trong câu nào sau đây được dùng với nghĩa chuyển theo phương
thức hoán dụ?
A. Con trâu là đầu cơ nghiệp. B. Nam luôn dẫn đầu trong các kì thi.
C. Bạn ấy luôn đứng đầu hàng. D. Đóng thuế theo đầu người.
Câu 3. Trong câu văn: “Tôi hãy còn nhớ buổi chiều hôm đó, buổi chiều sau một ngày
mưa rừng, giọt mưa còn đọng trên lá cây, rừng sáng lấp lánh.” (Nguyễn Quang Sáng)
có sử dụng thành phần biệt lập nào?
A. Thành phần gọi – đáp. B. Thành phần tình thái.
C. Thành phần phụ chú. D. Thành phần cảm thán.
Câu 4. Để đảm bảo phương châm về lượng, người nói thường phải dùng những cách
nói nào sau đây ?
A. Như tôi được biết; tôi tin rằng... B. Cực chẳng đã tôi phải
nói...
C. Như tôi đã trình bày; như mọi người đều biết.... D. Nhân tiện đây xin
hỏi...
Câu 5. Những phép liên kết được sử dụng trong đoạn văn sau là:
“Ngạn ngữ có câu: Thời gian là vàng. Nhưng vàng thì mua được mà thời gian
không mua được. Thế mới biết vàng có giá mà thời gian là vô giá.”
A. Phép thế, phép nối. B. Phép lặp, phép nối.
C. Phép nối, phép đồng nghĩa. D. Phép lặp, phép thế, phép
nối.
Câu 6. Câu nào dưới đây không có khởi ngữ?
A. Đối với chúng mình thì thế là sướng.
B. Với lại, tôi không muốn đọc quyển sách này.
C. Đối với cháu, thật là đột ngột.
D. Với tôi, việc học là quan trọng nhất.
Câu 7. Câu văn: “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa
dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng” sử dụng biện pháp tu từ gì?
A. Ẩn dụ, so sánh. B. Nhân hoá, so sánh.
C. So sánh, nói quá. D. Hoán dụ, so sánh.
Câu 8. Câu “Các cậu ơi, hãy chịu khó đợi một chút!” thuộc kiểu câu
A. Câu cảm thán. B. Câu cầu khiến. C. Câu phủ định. D.
106
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Câu trần thuật.
Phần II. Đọc, hiểu (2,0 điểm)
Đọc đoạn văn bản sau và trả lời các câu hỏi nêu ở dưới:
Tình yêu thương chân thật thường rất vị tha. Người có tình yêu chân thật thường
nghĩ nhiều đến hạnh phúc của người khác hơn là bản thân mình. Tình yêu ấy làm cho
chúng ta thay đổi bản thân và một ngày trưởng thành hơn. Tình yêu thương chân
thành và sâu sắc bao giờ cũng trường tồn ngay cả sau khi người đó đã từ giã cuộc
đời. Tuy nhiên, yêu thương không được bày tỏ thì không bao giờ đạt được ý nghĩa đích
thực của nó (….)
Hãy bày tỏ tình yêu thương với mọi người xung quanh ngay khi chúng ta còn
hiện diện trong cuộc sống này. Hãy nhớ rằng tình yêu thương là ngọn lửa sưởi ấm
cuộc đời của mỗi chúng ta. Bạn đừng ngần ngại khi muốn nói với ai đó rằng bạn rất
yêu quý họ!
(Trích Cho đi là còn mãi, Azim Jamal & Harvey McKinnon, NXB Trẻ, 2010)
Câu 1. (0,25 điểm) Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn
trích?
Câu 2. (0,5 điểm) Theo đoạn trích, người có tình yêu thương chân thật thường nghĩ
gì?
Câu 3. (0,75 điểm) Nêu tác dụng của biện pháp tu từ so sánh được sử dụng trong câu:
Hãy nhớ rằng tình yêu thương là ngọn lửa sưởi ấm cuộc đời của mỗi chúng ta.
Câu 4. (0,5 điểm) Em có đồng tình với nhận định của tác giả: yêu thương không được
bày tỏ thì không bao giờ đạt được ý nghĩa đích thực của nó? Vì sao?
Phần III. Tập làm văn (6,0 điểm)
Câu 1. (1,5 điểm)
Từ nội dung đoạn trích phần Đọc hiểu, em hãy viết đoạn văn (khoảng 200 từ)
trình bày suy nghĩ về sức mạnh của tình yêu thương trong cuộc sống.
Câu 2. (4,5 điểm)
Phân tích nhân vật Phương Định trong truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” của
Lê Minh Khuê. Từ đó nêu suy nghĩ của em về hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam trong thời
kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
ĐỀ 10.

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỀ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT
NAM ĐỊNH NĂM HỌC 2020 – 2021
Bài thi: Ngữ văn
ĐỀ THAM KHẢO Thời gian làm bài: 120 phút.
(Đề thi gồm: 02 trang)
Phần I. Trắc nghiệm (2,0 điểm)
Hãy chọn phương án trả lời đúng và viết chữ cái đứng trước phương án đó vào bài
làm.
Câu 1. Phương châm hội thoại nào được thể hiện trong câu ca dao sau?
Kim vàng ai nỡ uốn câu,
Người khôn ai nỡ nói nhau nặng lời.
(Ca dao)
A. Phương châm quan hệ B. Phương châm về chất
C. Phương châm về lượng D. Phương châm lịch sự
Câu 2. Dòng nào giải thích đúng nghĩa của từ nói móc?
A. Nói chen vào chuyện của người khác khi chưa được hỏi đến
107
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
B. Nói nhằm châm chọc vào điều không hay của người khác một cách cố ý
C. Nói rành mạch, cặn kẽ, có trước có sau
D. Nói trước lời mà người khác chưa kịp nói
Câu 3. Cụm từ in đậm trong câu văn sau là thành phần gì của câu?
“Hồi còn đế quốc, mỗi bận đi đâu xa, khoe làng, ông chỉ khoe cái sinh phần của viên
tổng đốc làng ông.” (Kim Lân)
A. Thành phần khởi ngữ B. Thành phần phụ chú
C. Thành phần chủ ngữ D. Thành phần trạng ngữ
Câu 4. Các câu trong đoạn văn sau đây liên kết với nhau bằng những phép liên kết
nào?
“Trong suốt tuổi thơ, có một ngọn gió không bao giờ ngưng thổi qua cuộc đời
những đứa trẻ thôn quê như tôi – ngọn gió của đói rét. Lúc nào chúng tôi cũng đói,
lúc nào chúng tôi cũng rét như ông bà, cha mẹ chúng tôi. Lúc nào chúng tôi cũng sống
trong ngôi nhà ẩm thấp, mù tối và tiếng chó sủa suốt đêm…” (Nguyễn Quang Thiều).
A. Phép thế, phép liên tưởng B. Phép thế, phép lặp
C. Phép nối, phép thế D. Phép lặp, phép nối
Câu 5. Dòng nào không phải là thành ngữ trong các dòng dưới đây.
A. Lá lành đùm lá rách B. Mắt phượng mày ngài
C. Ruột để ngoài da D. Mẹ tròn con vuông
Câu 6. Câu văn nào sau đây có thành phần khởi ngữ?
A. Nó nhanh nhẹn nhưng hơi bừa bộn.
B. Nó là một người rất nhanh nhẹn.
C. Về sự nhanh nhẹn thì nó là nhất trong số các chị em.
D. Người nhanh nhẹn nhất nhà là nó.
Câu 7. Chỉ ra hiệu quả của phép tu từ nói giảm – nói tránh được sử dụng trong câu thơ
sau:
“Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương” (Nguyễn Du)
A. Giảm đi cảm giác đau thương mất mát
B. Thể hiện thái độ nhã nhặn, lịch sự
C. Giảm đi sự đột ngột, bất ngờ
D. Thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng
Câu 8. Trong các câu thơ dưới đây của Bằng Việt, từ nhóm nào được dùng với nghĩa
chuyển?
A. Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
B. Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
C. Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
D. Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?
Phần II: Đọc – hiểu (2 điểm)
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới.
Một cô bé vừa gầy vừa thấp bị thầy giáo loại ra khỏi dàn đồng ca. Cũng chỉ tại cô
bé ấy lúc nào cũng chỉ mặc mỗi một bộ quần áo vừa bẩn, vừa cũ, lại rộng nữa.
Cô bé buồn tủi khóc một mình trong công viên. Cô bé nghĩ: “Tại sao mình lại
không được hát? Chẳng lẽ mình hát tồi đến thế sao?”. Cô bé nghĩ mãi rồi cô cất giọng
hát khe khẽ. Cô bé cứ hát hết bài này đến bài khác cho đến khi mệt lả mới thôi.
“Cháu hát hay quá!” – Một giọng nói vang lên: “Cảm ơn cháu, cháu gái bé nhỏ,
cháu đã cho ta cả một buổi chiều vui vẻ”. Cô bé ngẩn người. Người vừa khen cô bé là
một ông cụ tóc bạc trắng. Ông cụ nói xong liền đứng dậy và chậm rãi bước đi. Hôm
sau, khi cô bé đến công viên đã thấy cụ già ngồi ở chiếc ghế đá hôm trước, khuôn mặt
108
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
hiền từ, mỉm cười chào cô bé. Cô bé lại hát, cụ già vẫn chăm chú lắng nghe. Cụ vỗ tay
nói lớn: “Cảm ơn cháu, cháu gái bé nhỏ của ta, cháu hát hay quá!”. Nói xong cụ già lại
chậm rãi một mình bước đi.
Cứ như vậy nhiều năm trôi qua, cô bé giờ đây đã trở thành một ca sĩ nổi tiếng. Cô
gái vẫn không quên cụ già ngồi tựa lưng vào thành ghế đá trong công viên nghe cô hát.
Một buổi chiều mùa đông, cô đến công viên tìm cụ nhưng ở đó chỉ còn lại chiếc ghế đá
trống không.
“Cụ già ấy đã qua đời rồi. Cụ ấy điếc đã hơn hai mươi năm nay” – một người
trong công viên nói với cô. Cô gái sững người, bật khóc. Hóa ra, bao nhiêu năm nay,
tiếng hát của cô luôn được khích lệ bởi một đôi tai đặc biệt: Đôi tai của tâm hồn.
(Theo Hoàng Phương – Sống
đẹp)
Câu 1. Phương thức biểu đạt chính của văn bản trên là gì? (0,5 điểm)
Câu 2. Nêu ý nghĩa của tình huống bất ngờ trong văn bản trên? (0,75 điểm)
Câu 3. Bài học mà em tâm đắc nhất khi đọc xong văn bản? (0,75 điểm)
Phần III: Làm văn (6 điểm)
Câu 1. (1,5 điểm)
Từ nội dung của câu chuyện trong phần Đọc – hiểu, em hãy viết một đoạn văn
nghị luận với câu chủ đề: Tình yêu thương là sức mạnh giúp con người vượt qua mọi
hoàn cảnh.
Câu 2. (4,5 điểm)
“Cái cốt lõi của nghệ thuật là tính nhân đạo.” (Nguyên Ngọc). Em hãy phân tích
nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương (Trích Truyền
kì mạn lục) của Nguyễn Dữ (Ngữ văn 9, tập một, NXB Giáo dục, 2005) để làm sáng tỏ
cho nhận định trên.
----------------- HẾT ------------------
ĐỀ 11.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỀ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT
NAM ĐỊNH NĂM HỌC 2021 – 2022
Bài thi: Ngữ văn
ĐỀ THAM KHẢO Thời gian làm bài: 120 phút.
(Đề thi gồm: 02 trang)

Phần I. Trắc nghiệm (2.0 điểm)


Hãy chọn phương án trả lời đúng và viết chữ cái đứng trước phương án đó vào bài
làm.

Câu 1. Từ nào sau đây là từ tượng hình?


A. Móm mém C. Xôn xao
B. Rì rào D. Leng keng
Câu 2. Trong các tổ hợp từ sau, tổ hợp từ nào không phải là thành ngữ?
A. Nước chảy đá mòn C. Mắt phượng mày ngài
B. Ruột để ngoài da D. Lá lành đùm lá rách
Câu 3. Xét về cấu tạo, câu văn “Cái mạnh của con người Việt Nam không chỉ chúng
ta nhận biết mà cả thế giới đều thừa nhận là sự thông minh, nhạy bén với cái mới”
(Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới, Vũ Khoan) thuộc loại câu nào?
A. Câu đặc biệt C. Câu ghép
B. Câu đơn D. Câu rút gọn
109
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Câu 4. Thành ngữ “Nói tràng giang đại hải” liên quan đến phương châm hội thoại
nào?
A. Phương châm quan hệ C. Phương châm về lượng
B. Phương châm cách thức D. Phương châm lịch sự
Câu 5. Trật tự từ của câu nào sau đây thể hiện thứ tự trước sau theo thời gian?
A. Lom khom dưới núi tiều vài chú. (Qua Đèo Ngang, Bà Huyện Thanh Quan)
B. Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập. (Bình Ngô đại cáo, Nguyễn
Trãi)
C. Ông Đồ vẫn ngồi đấy. (Ông Đồ, Vũ Đình Liên)
D. Thân em vừa trắng lại vừa tròn. (Bánh trôi nước, Hồ Xuân Hương)
Câu 6. Hàm ý của câu in đậm trong đoạn văn “Chị Dậu vừa nói vừa mếu: - Thôi u
không ăn, để phần cho con. Con chỉ được ăn ở nhà bữa này nữa thôi. U không muốn
ăn tranh của con. Con cứ ăn thật no, không phải nhường nhịn cho u.” (Tắt đèn, Ngô
Tất Tố) là gì?
A. Đây là bữa cơm cuối cùng con được ăn ở nhà.
B. Ở nhà chỉ còn gạo đủ cho bữa ăn hôm nay.
C. Con bị phạt vì làm việc sai trái.
D. Con có việc phải đi gấp
Câu 7. Biện pháp tu từ nào được sử dụng trong đoạn thơ sau?
“Tỉnh lại em ơi, qua rồi cơn ác mộng
Em đã sống lại rồi, em đã sống!
Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung
Không giết được em, người con gái anh hùng!”
(Trích Người con gái Việt Nam, Tố Hữu)
A. Nhân hóa và liệt kê C. Hoán dụ và ẩn dụ
B. Nói quá và nhân hóa D. Liệt kê và ẩn dụ
Câu 8. Phần in đậm trong câu văn “Nhưng ở trong hang đá suối Son, các đồng chí
đã được nhân dân đưa cơm nước và sửa soạn cho mọi thứ để đi đường.” (Tô Hoài) là
thành phần gì?
A. Thành phần phụ chú C. Thành phần trạng ngữ
B. Thành phần cảm thán D. Thành phần chủ ngữ

Phần II. Đọc – hiểu (2.0 điểm)


Đọc đoạn thơ sau:
“Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng
Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương
Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm
Là người, tôi sẽ chết cho quê hương.”
(Trích Tự nguyện, Trương Quốc
Khánh)
Trả lời các câu hỏi dưới đây:
Câu 1. Liệt kê 03 hình ảnh thiên nhiên xuất hiện trong đoạn thơ trên. (0.5 điểm)
Câu 2. Chỉ ra và nêu hiệu quả của biện pháp tu từ chính trong đoạn thơ. (1.0 điểm)
Câu 3. Câu thơ “Là người, tôi sẽ chết cho quê hương” thức tỉnh trong em những cảm
xúc gì khi hướng về những con người đã hi sinh cho nền độc lập, tự do của đất nước.
(0.5 điểm)

Phần III. Làm văn (6.0 điểm)


110
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Câu 1. (1.5 điểm)
Từ nội dung của câu chuyện trong phần Đọc – hiểu, em hãy viết một đoạn văn
nghị luận (khoảng 200 chữ) về ý nghĩa của khát vọng cống hiến.
Câu 2. (4.5 điểm)
“Thiên hướng của người nghệ sĩ là đưa ánh sáng vào trái tim con người”
(George Sand).
Hãy làm rõ ánh sáng mà nhà văn Kim Lân muốn đưa vào trái tim con người qua
truyện ngắn Làng (SGK Ngữ văn 9, tập 1 - Nhà xuất bản Giáo Dục)

ĐỀ 12.

I. TRẮC NGHIỆM (2,0 điểm)


Trả lời các câu hỏi sau bằng cách ghi vào tờ giấy bài làm chữ cái in hoa đầu
dòng của phương án trả lời đúng nhất:
Câu 1: Tác giả dân gian đã sử dụng biện pháp tu từ nào trong hai câu thơ sau?
“ Còn trời , còn nước, còn non
Còn cô bán rượu, anh còn say sưa”
A. Điệp ngữ, chơi chữ. B. Nói quá, hoán dụ.
C. Nhân hóa, hoán dụ. D. Nó giảm, nói tránh.
Câu 2: Câu thơ : “Mà sao nghe nhói ở trong tim!” ( Viếng lăng Bác - Viễn Phương)
thuộc kiểu câu
A. phủ định . B. cầu khiến.
C. cảm thán. D. nghi vấn.
Câu 3: Câu văn sau có chứa thành phần biệt lập nào?
“Một ngày cuối năm 1958- năm đó ta chưa võ trang- trong một trận càn lớn
của Mĩ ngụy, anh Sáu bị hi sinh.” (Chiếc lược ngà - Nguyễn Quang Sáng)
A. Thành phần cảm thán. B. Thành phần phụ chú.
C. Thành phần gọi đáp . D. Thành phần tình thái .
Câu 4: Từ “băn khoăn” trong câu nào sau đây được sử dụng như danh từ?
A. Cảm giác băn khoăn cứ đeo đẳng anh mãi.
B. Anh cứ băn khoăn không hiểu mình làm đúng hay sai.
C. Cái nhìn của cô gái làm anh không khỏi băn khoăn .
D. Những băn khoăn ấy làm anh nhớ mãi không thôi.
Câu 5: “ Nho gác một tay lên mặt. Nó cũng biết bây giờ không nên uống nước.”
(Những ngôi sao xa xôi – Lê Minh Khuê) được liên kết với nhau bằng
A. phép lặp. C. phép nối.
B. phép thế. D. phép đồng nghĩa .
Câu 6: Việc vận dụng các phương châm hội thoại cần phù hợp với điều gì?
A. Mục đích giao tiếp. B. Nội dung giao tiếp.
C. Đặc điểm của tình huống giao tiếp . D. Đối tượng giao tiếp.
Câu 7: Cách dẫn trực tiếp là
A. thuật lại lời nói hay ý nghĩ của người hoặc nhân vật có sự điều chỉnh
thích hợp.
B. nhắc lại nguyên văn lời nói hay ý nghĩ của người hoặc nhân vật và đặt
lời nói hay ý nghĩ đó trong dấu ngoặc kép.
111
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
C. nhắc lại nguyên văn lời nói hay ý nghĩ của người hoặc nhân vật và đặt
lời nói hay ý nghĩ đó trong dấu ngoặc đơn.
D. thay đổi toàn bộ nội dung và hình thức diễn đạt trong lời nói của một
người hoặc một nhân vật.
Câu 8: Biện pháp tu từ nào được sử dụng trong câu văn: “ Hai bím tóc dày,
tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn.” (Những ngôi
sao xa xôi – Lê Minh Khuê)
A. So sánh. C. Nhân hóa .
B. Ẩn dụ. D. Nói quá.
II. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN (2,0 điểm)
Đọc đoạn trích và trả lời các câu hỏi:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...”
( Trích Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm)
Câu 1. (0,5 điểm) Từ "hóa thân" trong đoạn thơ trên có ý nghĩa gì?
Câu 2. (0.5 điểm) Trình bày ngắn gọn nội dung đoạn thơ trên.
Câu 3. (1,0 điểm) Hãy lí giải ngắn gọn vì sao nhà thơ viết "Đất Nước là máu
xương của mình"?
III. TẬP LÀM VĂN (6 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm) Từ cảm nhận về đoạn thơ, hãy viết một đoạn văn nói về
trách nhiệm của thế hệ trẻ hôm nay với đất nước.
Câu 2. (4,0 điểm) Có ý kiến cho rằng: “Sức hấp dẫn của truyện ngắn Làng của
nhà văn Kim Lân là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật”. Ý kiến của em? Hãy
phân tích diễn biến tâm lí ông Hai khi nghe tin làng Dầu theo Tây để làm sáng tỏ
ý kiến trên?
ĐỀ 13.
Phần I. Tiếng Việt (2,0 điểm)
Hãy khoanh vào chữ cái đứng trước câu trả lời đúng.
Câu 1. Trong câu thơ “Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ” có sử dụng biện
pháp tu từ:
A. ẩn dụ. B. hoán dụ. C. nhân hóa. D. so sánh.
Câu 2. Các câu “Văn nghệ đã làm cho tâm hồn họ thực sự được sống. Lời gửi
của văn nghệ là sự sống” (Nguyễn Đình Thi) có sử dụng phép liên kết:
A. phép đồng nghĩa. B. phép thế. C. phép nối. D. phép
lặp.
Câu 3. Dòng nào sau đây không chứa thành phần tình thái?
A. Hình như ta sắp mở chiến dịch lớn. B. Chắc là mưa đá.
C. Nho, một quả bom trên đồi. D. Nhất định bom sẽ nổ.
Câu 4. Em có hẹn với An lúc 7h30 phút mà 7h45 phút An mới tới. Em sẽ nói
với An như thế nào bằng một câu có nghĩa tường minh?
A. Đồng hồ nhà cậu hôm nay bị hỏng à?
B. Cậu đến muộn 15 phút rồi đấy!

112
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
C. Tớ đứng đây mỏi hết cả chân rồi.
D. Sáng nay cậu ngủ đến mấy giờ mới dậy?
Câu 5. Cụm từ in đậm trong câu văn: “Bánh rán đường đây, chia cho em mỗi
đứa một cái” (Kim Lân) là thành phần gì của câu?
A. Trạng ngữ. B. Khởi ngữ. C. Tình thái. D. Cảm thán.
Câu 6. Hai câu văn: “Thu! Con.” là hai:
A. câu đặc biệt. B. câu đơn. C. câu ghép. D. câu rút gọn.
Câu 7. Cụm từ in đậm trong câu văn “Nói cho đúng, bà hiền như chiếc bóng.”
thuộc thành phần nào của câu?
A. Tình thái B. Khởi ngữ C. Phụ chú D. Gọi-
đáp
Câu 8. Câu văn “Còn anh, anh không ghìm nổi xúc động” có chứa thành phần:
A. trạng ngữ. B. tình thái C. khởi ngữ D. phụ chú
Phần II. Đọc - hiểu văn bản (2,5 điểm)
Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi:
“Đúng thế, Enricô yêu dấu của bố, việc học quả là khó nhọc đối với con, như
mẹ đã nói với con, con vẫn chưa đến trường với thái độ hăm hở và vẻ mặt tươi
cười như bố muốn thấy. Nhưng con hãy nghĩ một tí xem một ngày của con sẽ
trống trải biết bao nếu con không đến trường học; và chắc chắn là sau một tuần
lễ thôi, thế nào con cũng xin trở lại trường. Hiện nay, tất cả thiếu niên đều đi
học, Enricô yêu dấu ạ. Con hãy nghĩ đến những người thợ tối tối đến trường học
sau khi đã lao động suốt cả ngày, hãy nghĩ đến những cô gái đi học ngày chúa
nhật sau cả tuần lễ bận rộn trong các xưởng thợ, đến những người lính ở thao
trường trở về là đã viết viết đọc đọc. Hãy nghĩ đến những cậu bé câm và mù mà
cũng vẫn học. Con hãy nghĩ rằng mỗi buổi sáng khi con bước ra đường thì cũng
giờ ấy, trong thành phố ta ba vạn trẻ em cũng như con, đến khép mình ba giờ
liền trong một lớp để học tập....”
(Những tấm lòng cao cả, Edmondo De, Amicis, NXB Văn học, 2018, tr.41)
Câu 1. (0,5 điểm) Người cha mong con đến trường với thái độ và vẻ mặt như
thế nào?
Câu 2. (1,0 điểm) Chỉ ra và nêu tác dụng của phép điệp ngữ có trong đoạn trích.
Câu 3. (0,5 điểm) Theo em, vì sao trong đoạn trích, người cha lại nhắc đến
những người thợ, những cô gái, những người lính, những cậu bé câm và mù?
Câu 4. (0,5 điểm) Từ đoạn trích, em thấy mình cần có thái độ như thế nào đối
với việc học? (trình bày từ 3 đến 5 câu).
Phần III. Làm văn (5,5 điểm)
Câu 1. (1,5 điểm) Viết một đoạn văn ngắn bàn về ý nghĩa của tinh thần tự học.
Câu 2. (4,0 điểm) Thí sinh được chọn 01 trong 02 đề sau để làm:
Có người cho rằng: “thơ hay là hay cả hồn lẫn xác,”. Hãy phân tích cái hay ở
phần hồn và phần xác của đoạn thơ sau:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
113
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!

Đêm nay rừng hoang sương muối


Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
( Trích Đồng chí- Chính Hữu).

ĐỀ 14.
Phần I: Tiếng việt (2,0 điểm)
Hãy chọn phương án trả lời đúng và viết chữ cái đứng trước phương án đó vào
bài làm.
Câu 1. Đôi khi người nói phải thêm vào trong câu nói của mình các từ ngữ như: Như tôi đã
trình bày; như mọi người đã biết... là để tránh vi phạm phương châm hội thoại nào?
A.Phương châm về lượng. C.Phương châm cách thức.
B.Phương châm về chất. D.Phương châm lịch sự.
Câu 2.Nhận xét nào sau đây không đúng về lời dẫn gián tiếp?
A. Thuật lại lời nói hay ý nghĩ của người hoặc nhân vật.
B. Lời nói hay ý nghĩ của nhân vật được điều chỉnh cho thích hợp.
C. Lời nói của nhận vật được trích dẫn nguyên văn.
D. lời dẫn gián tiếp không đặt trong dấu ngoặc kép.
Câu 3. Nói “một chữ có thể dùng diễn tả nhiều ý ” là nói đến hiện tượng nào trong Tiếng
Việt
A.Hiện tượng nhiều nghĩa của từ. C.Hiện tượng đồng nghĩa của từ.
B.Hiện tượng đồng âm của từ. D.Hiện tượng trái nghĩa của từ.
Câu 4. Trong các phương án sau đây, phương án nào chứa tổ hợp từ là thành ngữ?
A.Tốt gỗ hơn tốt nước sơn C.Có chí thì nên
B.Đánh trống bỏ dùi D.Chó treo mèo đậy
Câu 5. Trong câu văn “Tôi quên thế nào được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong
lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng”.( Tôi đi học-Thanh
Tịnh) sử dụng biện pháp tu từ gì?
A.Ẩn dụ, so sánh C.Nhân hóa, so sánh
B.So sánh, nói quá D.Hoán dụ, so sánh
Câu 6.Trong các câu sau, câu nào là câu đặc biệt?
A.Đất rắn. C. Tôi, một quả bom trên đồi.

114
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
B. Im ắng . D. Mùa xuân đã về trên rẻo cao
Câu 7. Các từ in đậm trong câu văn sau thuộc trường từ vựng nào?
“Vì tôi biết rõ, nhắc đến mẹ tôi, cô tôi chỉ có ý gieo rắc vào đẩu tôi những hoài nghi để tôi
khinh miệt và ruồng rẫy mẹ tôi, một người đàn bà đã bị cái tội là góa chồng, nợ nần cùng
túng quá, phải bỏ con cái đi tha hương cầu thực”. (Trong lòng mẹ - Nguyên Hồng)
A.Hoạt động của con người. C.Cảm xúc của con người.
B.Thái độ của con người. D.Suy nghĩ của con người.
Câu 8. Trong truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân, câu nào sau đây là lời đối thoại?
A. – Sao bảo làng Chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà?
B. – Hà, nắng gớm, về nào...
C. Chúng nó là trẻ con làng Việt gian đấy ư?
D. Ông lão vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác, rồi đi thẳng.
Phần II. Đọc- hiểu văn bản( 2,0điểm):
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Người con trai đưa cha già vào nhà hàng ăn tối. Người cha già nua yếu ớt khi ăn
cứ làm rơi vãi đồ ăn lên quần áo. Khách các bàn chung quanh ai cũng liếc nhìn ông
ta không giấu vẻ ghê tởm, nhưng chàng trai vẫn điềm tĩnh như bình thường.
Ăn xong, anh con trai không một chút lúng túng, lặng lẽ đưa cha mình vào
phòng vệ sinh, lau sạch các mẩu đồ ăn, các vết dơ, chải lại mái tóc bạc cho cha,
sửa lại cặp kính lão cho ngay ngắn trên sống mũi cha. Khi họ trở ra, cả nhà hàng
im phăng phắc nhìn hai cha con họ. Không hiểu sao lại có người có thể làm cho tất
cả mọi người đều ngượng nghịu chung như thế.
Người con trai trả tiền bữa ăn xong, rồi dìu cha về. Lúc ấy, một người đàn ông
lớn tuổi trong số thực khách buột miệng gọi với theo người con, ông ta hỏi: “Anh
bạn trẻ này, anh có nghĩ là anh quên cái gì đó ở đây không vậy?”.Chàng trai liếc
nhanh chỗ ngồi ban nãy rồi trả lời: “Không, thưa ông, cháu đâu có để quên gì ở đây
ạ…”Người đàn ông nhẹ nhàng bảo: “Có, anh có quên, anh đã để quên lại nơi đây
một bài học cho tất cả những ai làm con, và để quên lại niềm hi vọng cho tất cả
những ai làm cha”. Nhà hàng chìm vào yên lặng…
(Từ facebook của Saradha Jitendran/ Bản dịch
của KS. Thái Vũ)
Câu 1. Theo nhân vật trong chuyện, thì anh con trai đã để quên điều gì trong nhà
hàng? (0,5 điểm)
Câu 2. Nêu tác dụng của phép tu từ được sử dụng trong câu văn in đậm ở văn bản
trên (0,75 đ)
Câu 4. Bài học sâu sắc nhất em rút ra từ văn bản là gì? Vì sao (0,75 điểm)
Phần III. Tập làm văn (6,0 điểm)
Câu 1.(1,5điểm) Từ văn bản ở phần đọc hiểu, em hãy viết một đoạn văn (từ 13 đến
15 câu) trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của lòng hiếu thảo trong cuộc sống con người.

115
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Câu 2.(4,5điểm) Bàn về nhân vật Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, có
ý kiến cho rằng: Càng trong đau khổ, Kiều lại càng đẹp hơn rất nhiều.
Em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên qua đoạn trích sau:
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
( Trích “Truyện Kiều” - Nguyễn Du, SGK Ngữ văn 9 tập I, Tr 93-
94, năm 2019).

----------HẾT---------
ĐỀ 15.
PHẦN I: TIẾNG VIỆT (2,0 điểm)
Trả lời các câu hỏi sau bằng cách viết vào tờ giấy làm bài chữ cái in hoa đầu dòng
câu trả lời đúng nhất.
Câu 1: Từ in đậm trong câu: “Những băn khoăn ấy làm cho nhà hội họa không nhận
xét được gì ở cô con gái ngồi trước mặt đằng kia.”( Nguyễn Thành Long) được dùng
như:
A. Tính từ B. Danh từ C. Động từ D. Phó từ
Câu 2: Chọn từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống (...) trong câu sau: Nói trước lời mà
người khác chưa kịp nói là.....
A. nói móc B. nói leo C. nói mát D. nói hớt
Câu 3 : Trong câu văn: “Tôi hãy còn nhớ buổi chiều hôm đó, buổi chiều sau một ngày
mưa rừng, giọt mưa còn đọng trên lá cây, rừng sáng lấp lánh .” (Nguyễn Quang
Sáng) có sử dụng thành phần biệt lập nào?
A. Thành phần gọi - đáp B. Thành phần tình thái
C. Thành phần phụ chú D. Thành phần cảm thán
Câu 4: Các câu văn sau đây sử dụng phép liên kết nào?
Người ta gọi chúng tôi là tổ trinh sát mặt đường. Cái tên gợi sự khát khao làm
nên những sự tích anh hùng.(Những ngôi sao xa xôi –Lê Minh Khuê)
A. Phép lặp từ ngữ. B. Phép thế.
C. Phép nối. D. Phép đồng nghĩa.
Câu 5: Tổ hợp từ nào không phải là thành ngữ?
A. Lên thác xuống ghềnh B. Gan vàng dạ sắt
116
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
C. Mình đồng da sắt D. Người sống đống vàng
Câu 6: .Biện pháp nghệ thuật nào được sử dụng trong hai câu thơ sau?
“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm ke cửa ngắm nhà thơ”
(Ngắm trăng – Hồ Chí Minh)
A. Nhân hóa B. Ẩn dụ C. So sánh D. Nói quá
Câu 7: Xét theo mục đích nói, câu văn: “Tôi phủi áo, căng mắt nhìn qua khói và chạy
theo chị Thao.” (Lê Minh Khuê) thuộc loại câu nào?
A. Câu nghi vấn B. Câu trần thuật
C. Câu cảm thán D. Câu cầu khiến
Câu 8: Hàm ý của câu trả lời trong đoạn sau là gì?
-Ngày mai đi học qua đèo tớ với nhé!
-Xe đạp của tớ bị hỏng mấy ngày nay rồi.
A.Thông báo xe bị hỏng B.Tớ nghỉ học ngày mai
C.Mai tớ phải đi sửa xe D.Tớ không thể đèo cậu được.

PHẦN II: ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN (2,0 điểm)


Đọc văn bản:
Nếu buổi sáng thức dậy, bạn thấy vẫn khỏe mạnh và bệnh tật hiểm nghèo chưa
đến với mình, bạn là người may mắn hơn hàng trăm ngàn người khác có thể sẽ qua
đời trên giường bệnh hay những tai nạn bất ngờ hôm nay.
Nếu bạn vẫn còn một mái nhà để che mưa nắng và một chỗ để nghỉ ngơi trong
hôm nay thì bạn đang là người đầy đủ hơn rất nhiều người khác trên thế giới.
Nếu cha mẹ bạn vẫn còn sống cùng bạn, bạn đang là người may mắn nhất trên
cuộc đời này.
Nếu bạn ngẩng cao đầu với một nụ cười nở trên môi và biết bày tỏ lòng cảm
ơn, mạnh dạn thể hiện tình yêu, biết lắng nghe và dám nói lời xin lỗi, bạn đang là
người hạnh phúc đấy vì đa số mọi người đều có thể làm như vậy nhưng họ lại không
làm.
Nếu bạn còn có thể biết khóc, biết cảm thông với mọi người- chỉ đơn giản là
xiết chặt tay biểu lộ cảm xúc, trao ánh mắt động viên khích lệ, đặt tay mình lên vai,
cùng im lặng sẻ chia, bạn đang là người may mắn vì sở hữu một phương thuốc nhiệm
màu nhất.
Nếu bạn có thể đọc được những dòng chữ này ở đây, hẳn bạn đang cảm nhận
mình đã và đang là một trong những người may mắn nhất. Và bạn sẽ nhận ra ý nghĩa
của cuộc sống, biết nâng niu và quý trọng những gì bạn đang có và cùng chia sẻ với
người khác.
( Theo Hạt giống tâm hồn- Hạnh phúc bình dị)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1:( 0,5điểm ) Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của văn bản?
Câu 2:( 0,75điểm ) Chỉ ra và phân tích tác dụng của biện pháp điệp cấu trúc mà tác giả
sử dụng trong đoạn văn?
Câu 3: ( 0,75điểm )Tác giả cho rằng: “Và bạn sẽ nhận ra ý nghĩa của cuộc sống, biết
nâng niu và quý trọng những gì bạn đang có và cùng chia sẻ với người khác”. Em có
đồng quan điểm với nhận định trên hay không? Vì sao?
PHẦN III .TẬP LÀM VĂN (6,0 điểm):
Câu 1: (1,5 điểm ).
117
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Từ nội dung của phần văn bản trên, em hãy viết một đoạn văn khoảng 15 câu trình
bày những suy nghĩ của em về ý nghĩa của lối sống trách nhiệm trong cuộc sống..
Câu 2: (4,5 điểm) Cảm nhận của em về đoạn thơ sau:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!

Mai về miền Nam thương trào nước mắt


Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
(Viễn Phương, Viếng lăng Bác, Ngữ văn 9, tập 2, NXBGDVN, 2018, tr
58-59)

-------------HẾT-------------
ĐỀ 16.
Phần I: Tiếng việt (2,0 điểm)
Hãy chọn phương án trả lời đúng và viết chữ cái đứng trước phương án đó
vào bài làm.
Câu 1. Đôi khi người nói phải thêm vào trong câu nói của mình các từ ngữ như:
Như tôi đã trình bày; như mọi người đã biết... là để tránh vi phạm phương châm hội
thoại nào?
A. Phương châm về lượng. C. Phương châm cách thức.
B. Phương châm về chất. D. Phương châm lịch sự.
Câu 2. Nhận xét nào sau đây không đúng về lời dẫn gián tiếp?
A. Thuật lại lời nói hay ý nghĩ của người hoặc nhân vật.
B. Lời nói hay ý nghĩ của nhân vật được điều chỉnh cho thích hợp.
C. Lời nói của nhận vật được trích dẫn nguyên văn.
D. lời dẫn gián tiếp không đặt trong dấu ngoặc kép.
Câu 3. Nói “một chữ có thể dùng diễn tả nhiều ý ” là nói đến hiện tượng nào trong
Tiếng Việt
A. Hiện tượng nhiều nghĩa của từ. C. Hiện tượng đồng nghĩa của từ.
B. Hiện tượng đồng âm của từ. D. Hiện tượng trái nghĩa của từ.
Câu 4. Trong các phương án sau đây, phương án nào chứa tổ hợp từ là thành ngữ?
A. Tốt gỗ hơn tốt nước sơn C. Có chí thì nên
B. Đánh trống bỏ dùi D. Chó treo mèo đậy
Câu 5. Trong câu văn “Tôi quên thế nào được những cảm giác trong sáng ấy nảy
nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng”.( Tôi
đi học-Thanh Tịnh) sử dụng biện pháp tu từ gì?
A. Ẩn dụ, so sánh C. Nhân hóa, so sánh
B. So sánh, nói quá D. Hoán dụ, so sánh
Câu 6. Trong các câu sau, câu nào là câu đặc biệt?
A. Đất rắn. C. Tôi, một quả bom trên đồi.
118
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
B. Im ắng . D. Mùa xuân đã về trên rẻo cao
Câu 7. Các từ in đậm trong câu văn sau thuộc trường từ vựng nào?
“Vì tôi biết rõ, nhắc đến mẹ tôi, cô tôi chỉ có ý gieo rắc vào đẩu tôi những hoài nghi
để tôi khinh miệt và ruồng rẫy mẹ tôi, một người đàn bà đã bị cái tội là góa chồng,
nợ nần cùng túng quá, phải bỏ con cái đi tha hương cầu thực”. (Trong lòng mẹ -
Nguyên Hồng)
A. Hoạt động của con người. C. Cảm xúc của con người.
B. Thái độ của con người. D. Suy nghĩ của con người.
Câu 8. Trong truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân, câu nào sau đây là lời đối
thoại?
E. – Sao bảo làng Chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà?
F. – Hà, nắng gớm, về nào...
G. Chúng nó là trẻ con làng Việt gian đấy ư?
H. Ông lão vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác, rồi đi thẳng.
Phần II. Đọc- hiểu văn bản( 2,0điểm):
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Người con trai đưa cha già vào nhà hàng ăn tối. Người cha già nua yếu ớt
khi ăn cứ làm rơi vãi đồ ăn lên quần áo. Khách các bàn chung quanh ai cũng
liếc nhìn ông ta không giấu vẻ ghê tởm, nhưng chàng trai vẫn điềm tĩnh như
bình thường.
Ăn xong, anh con trai không một chút lúng túng, lặng lẽ đưa cha mình
vào phòng vệ sinh, lau sạch các mẩu đồ ăn, các vết dơ, chải lại mái tóc bạc
cho cha, sửa lại cặp kính lão cho ngay ngắn trên sống mũi cha. Khi họ trở
ra, cả nhà hàng im phăng phắc nhìn hai cha con họ. Không hiểu sao lại có
người có thể làm cho tất cả mọi người đều ngượng nghịu chung như thế.
Người con trai trả tiền bữa ăn xong, rồi dìu cha về. Lúc ấy, một người đàn
ông lớn tuổi trong số thực khách buột miệng gọi với theo người con, ông ta
hỏi: “Anh bạn trẻ này, anh có nghĩ là anh quên cái gì đó ở đây không
vậy?”.Chàng trai liếc nhanh chỗ ngồi ban nãy rồi trả lời: “Không, thưa ông,
cháu đâu có để quên gì ở đây ạ…”Người đàn ông nhẹ nhàng bảo: “Có, anh
có quên, anh đã để quên lại nơi đây một bài học cho tất cả những ai làm con,
và để quên lại niềm hi vọng cho tất cả những ai làm cha”. Nhà hàng chìm vào
yên lặng…
(Từ facebook của Saradha Jitendran/ Bản dịch của KS. Thái Vũ)
Câu 1. Theo nhân vật trong chuyện, thì anh con trai đã để quên điều gì trong
nhà hàng? (0,5 điểm)
Câu 2. Nêu tác dụng của phép tu từ được sử dụng trong câu văn in đậm ở văn
bản trên (0,75 đ)
Câu 4. Bài học sâu sắc nhất em rút ra từ văn bản là gì? Vì sao (0,75 điểm)
Phần III. Tập làm văn (6,0 điểm)
Câu 1.(1,5điểm) Từ văn bản ở phần đọc hiểu, em hãy viết một đoạn văn (từ 13
đến 15 câu) trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của lòng hiếu thảo trong cuộc sống
con người.
Câu 2. (4,5 điểm). “Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác”

119
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Hãy phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh để làm sáng tỏ ý kiến trên.
ĐỀ 17.
Phần 1. Trắc nghiệm (2,0 điểm) Hãy viết chữ cái đứng trước phương án đúng
vào bài làm
Câu 1. Các thành ngữ: khua môi múa mép, nói dơi nói chuột, hứa hươu hứa
vượn, liên quan đến phương châm hội thoại nào?
A. Phương châm lịch sự. B. Phương châm về lượng.
C. Phương châm quan hệ. D. Phương châm về chất
Câu 2. Câu văn: “Ơ, bác vẽ cháu đấy ư?” (Nguyễn Thành Long) có mục đích
chính dùng để làm gì?
A. Để hỏi B. Để trần thuật
C. Để bộc lộ cảm xúc D. Để cầu khiến
Câu 3: Có lẽ tiếng Việt của chúng ta đẹp bởi vì tâm hồn của người Việt Nam ta
rất đẹp, bởi vì đời sống, cuộc đấu tranh của nhân dân ta từ trước tới nay là cao
quý, là vĩ đại, nghĩa là rất đẹp. (Phạm Văn Đồng)
Ở câu ghép trên, quan hệ về nghĩa giữa các vế trong câu ghép là quan hệ gì?
A. Quan hệ tăng tiến B. Quan hệ nguyên nhân C. Quan hệ bổ sung
D. Quan hệ tương phản.
Câu 4: Điền từ vào dấu (…) để hoàn thiện khái niệm sau:
Khởi ngữ là thành phần câu đứng trước … để nêu lên đề tài được nói đến trong
câu.
A. Chủ ngữ B. Vị ngữ C. Trạng ngữ
D. Đề ngữ.
Câu 5. Câu văn: “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nằng giòn tan sau kì
mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng!” (Nguyễn Tuân) sử dụng biện
pháp tu từ:
A. ẩn dụ, hoán dụ B. nhân hóa, so sánh
C. so sánh, nói quá D. ẩn dụ, so sánh
Câu 6. Từ “tím” trong câu thơ “Hoa lục bình tím cả bờ sông” (Lê Anh Xuân
thuộc từ loại nào?
A. Danh B. Động từ C. Tính từ D. Phó từ
từ
Câu 7. Câu văn nào chứa khởi ngữ?
A. Làng ta, về cánh nhà ông Trương Huấn ấy, họ đi tất cả (Nam Cao)
B. Chết nỗi, hai ông bị chúng nó đuổi phải không? (Nguyễn Huy Tưởng)
C. Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu
yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp (Thanh Tịnh)
D. Rõ ràng tôi không tiếc những viên đá. (Lê Minh Khuê)
Câu 8. Cháu ở liền trong trạm hàng tháng. Bác lái xe bao lần dừng, bóp còi toe
toe, mặc, cháu gan lì nhất định không xuống. Ấy thế là một hôm, bác lái phải
thân hành lên trạm cháu. Cháu nói: “Đấy, bác cũng chẳng “thèm” người là
gì?”. (Nguyễn Thành Long)
Bộ phận in đậm trong đoạn trên đã:
A. nhắc lại nguyên văn lời nói của nhân vật

120
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
B. nhắc lại nguyên văn ý nghĩ của nhân vật.
C. thuật lại ý nghĩ của nhân vật.
D. thuật lại lời nói của nhân vật.
ĐỀ 18.
I. Phần Tiếng Việt
Trong các câu hỏi dưới đây, mỗi câu có 4 phương án trả lời A, B, C, D, trong
đó chỉ có một phương án trả lời đúng nhất. Hãy chọn phương án đúng nhất và
ghi lại vào bài làm.
Câu 1: Câu thành ngữ “Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” liên quan đến
phương châm hội thoại nào?
A. Phương châm về chất. B. Phương châm quan hệ.
C. Phương châm về lượng. D. Phương châm cách thức.
Câu 2: Phần gạch chân trong câu “Đối với cháu, thật là đột ngột, không ngờ lại
như thế”(Lặng lẽ Sa Pa - Nguyễn Thành Long) là thành phần:
A. chủ ngữ. B. trạng ngữ.
C. khởi ngữ. D. tình thái.
Câu 3: Từ nào sau đây là từ tượng hình?
A. Rì rào. B. Rũ rượi. C. Rì rầm. D. Róc rách.
Câu 4: Từ “đầu” ở câu nào trong số các câu sau đựơc dùng với nghĩa gốc?
A. Đầu súng trăng treo (Đồng Chí - Chính Hữu).
B. Cuối bể đầu non (thành ngữ).
C. Súng bên súng đầu sát bên đầu (Đồng Chí - Chính Hữu).
D. Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông (Truyện Kiều - Nguyễn Du).
Câu 5: Dòng nào không phải là thành ngữ trong các dòng dưới đây.
A. Lá lành đùm lá rách B. Mắt phượng mày ngài
C. Ruột để ngoài da D. Mẹ tròn con vuông
Câu 6: Từ được gạch chân trong câu: “ Thỏ là động vật hằng nhiệt, ăn cỏ, lá
bằng cách gặm nhấm, hoạt động về ban đêm. ” là thuật ngữ của ngành nào dưới
đây?
A. Địa lý B. Sinh học
C. Lịch sử D. Văn học
Câu 7: Trong các câu sau, câu nào là câu cảm thán?
A. Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi! (Thế Lữ, Nhớ rừng)
B. Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đổi! (Lí Công Uẩn, Chiếu
dời đô)
C. Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới. (Tế Hanh, Quê hương)
D. Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu! (Tố Hữu, Khi con tu hú)
Câu 8. Trong các câu sau, câu nào không mắc lỗi diễn đạt?
A. Trên sân ga chỉ còn lại hai người, một người cao gầy, một người mặc áo kẻ
ca rô.
B. Chiều tàn, chợ đã vãn, người ta chen lấn xô đẩy nhau để ra về.
C. Chúng em đã giúp đỡ các bạn học sinh những vùng bị bão lụt giấy bút, sách
vở và nhiều đồ
dùng học tập khác.

121
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
D. Trang không những học giỏi mà bạn còn rất chăm làm việc nhà nên bạn ấy
luôn được điểm
mười.
Phần II. Đọc hiểu (2,5 điểm)
Đọc đoạn trích:
Là cội nguồn. Tổ quốc là một tình yêu bắt nguồn từ mọi tình yêu. Là sự
thân thiết, gần gũi. Tổ quốc là nhà. Người Việt mình dùng từ “nhà" chung cho
cả hai khái niệm “house" và “home". Những người con đi học xa Tổ quốc
thường hỏi nhau không biết tình hình ở nhà thế nào rồi? Là sẻ chia, là sương là
nắng, là sự sống, là rất nhiều chữ “s" trong dải đất hình chữ S này.
Tổ quốc có hương. Mùa hạ hương lúa, mùa thu hương cốm. Mùi lá mùi
già đêm giao thừa. Dù ở đâu xa, nghe hương Tổ quốc, có thể nhận ra dáng hình
một tình yêu. Tổ quốc có màu. Màu xanh của núi, của cây. Màu vàng của rơm
của rạ. Màu đỏ của đất Tây Nguyên. Màu trắng của động cát Quảng Bình, của
đồng muối Năm Căn...Tổ quốc mình còn có vị. Vị của Tổ quốc là vị mặn. Đất
đai này mặn, nước non này mặn. Mặn mồ hôi, mặn nước mắt, mặn cả máu của
bao thế hệ gìn giữ và tưới tắm mảnh đất này. Ngay cả tình yêu cũng mặn nồng.
…Tổ quốc, Đồng bào là tình yêu, là trách nhiệm. Mỗi người hãy mở một ngăn
“thư mục" trong trái tim để chứa rất nhiều file của tình yêu nặng trĩu này. Để
rồi mình tự nghĩ, ngày mai mình sẽ là ai trong đất nước này? Mình sẽ làm gì
cho xứ sở mình yêu thương? Khi chữ S nằm ngang sẽ là một dấu tương đương.
Là trăn trở khi nào thì mới ngang hàng “sánh vai" với nhiều nước khác?
(Trích Yêu Tổ quốc, yêu Đồng bào, từ nhận thức đến hành động –
Đoàn Lê Công Huy)
Trả lời các câu hỏi sau:
Câu 1 (0,5 điểm) Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên.
Câu 2. (1,0 điểm) Việc tác giả sử dụng các câu nghi vấn: Để rồi mình tự nghĩ,
ngày mai mình sẽ là ai trong đất nước này? Mình sẽ làm gì cho xứ sở mình yêu
thương? … Là trăn trở khi nào thì mới ngang hàng “sánh vai" với nhiều nước
khác? có tác dụng gì?
Câu 3 (1,0 điểm) Em hiểu như thế nào về quan niệm của tác giả: Vị của Tổ quốc
là vị mặn…. Mặn mồ hôi, mặn nước mắt, mặn cả máu của bao thế hệ gìn giữ và
tưới tắm mảnh đất này.
Phần III. Làm văn (5,5 điểm)
Câu 1 (1,5 điểm).
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, em hãy viết một đoạn văn (khoảng 15
câu) trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của quê hương đối với mỗi con người.
Câu 2. Cảm thụ bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy.

ĐỀ 19.

122
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
PHẦN III. ĐỀ THI VÀO 10 CÁC NĂM
Đề thi vào 10 các năm
NĂM HỌC 2017 - 2018
Phần I: Tiếng Việt ( 2,0 điểm)
Câu 1: Từ nào dưới đây là từ ghép?
A.Xa xôi. B. Tươi tốt. C. Lấp lánh. D. Lung linh.
Câu 2: Từ nào dưới đây không phải là từ Hán Việt?
A.Viễn khách. B. Vấn danh. C. Mày râu. D. Tứ tuần.
Câu 3: Thành ngữ “ ông nói gà, bà nói vịt” liên quan đến phương châm hội thoại nào?
A.PC về lượng. B. PC về chất. C. PC quan hệ. D. PC cách thức.
Câu 4: Phần in đậm trong câu: “ Đối với cháu, thật là đột ngột, không ngờ lại là như thế.” (
Lặng lẽ sa Pa- Nguyễn Thành Long) là thành phần
A.tình thái. B. gọi – đáp. C. trạng ngữ. D. khởi ngữ.
Câu 5: Câu văn: “ Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt là di sản văn hóa
phi vật thể đại diện của nhân loại.” thuộc câu
A.cảm thán. B. cầu khiến. C.nghi vấn. D. trần thuật.
Câu 6: Trong câu thơ: “ Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”, Viễn Phương đã sử dụng phép
tu từ
A.so sánh. B. ẩn dụ. C.hoán dụ. D.điệp ngữ.
Câu 7: Từ gạch chân trong câu thơ: “ Hình như thu đã về”( Hữu Thỉnh, Sang thu) thuộc thành
phần biệt lập
A.tình thái. B.cảm thán. C.phụ chú. D. gọi- đáp.
Câu 8: Các câu: “ Chị Thao vấp ngã, tôi đỡ chị. Nhưng chị vùng ra, mắt mở to, mở trắng đi
như không còn sự sống”. ( Lê Minh Khuê, Những ngôi sao xa xôi) đã sử dụng phép liên kết
gì?
A.Phép nối. B.Phép thế. C.Phép đồng nghĩa. D. Phép liên tưởng.
Phần II: Đọc- hiểu văn bản ( 3,0 điểm)
Em hãy đọc đoạn văn sau và thực hiện các yêu cầu nêu ở dưới:
(...) Chúng ta nhận rõ cái kì diệu của văn nghệ khi chúng ta nghĩ đến những con người rất
đông, không phan ở trốn trong một cơ quan bí mật, không phải bị giam trong một nhà pha, mà
bị tù chung thân trong cuộc đời u tối, vất vả không mở được mắt. Những người đàn bà nhà
quê lam lũ ngày trước, suốt ngày đầu tắt mặt tối, sống tối tăm, vậy mà biến đổi khác hẳn, khi
họ ru con hay hát ghẹo nhau bằng một câu ca dao, khi họ chen nhau say mê xem một buổi
chèo. Câu ca dao tự bao giờ truyền lại đã gieo vào bóng tối những cuộc đời ấy một ánh sáng,
lay động những tình cảm, ý nghĩ khác thường. Và ánh đèn buổi chèo, những nhân vật ra trò,
những lời nói, những câu hát, làm cho những con người ấy trong một buổi được cười hả dạ
hay rỏ giấu một giọt nước mắt. Văn nghệ đã làm cho tâm hồn họ thực được sống. Lời gửi của
văn nghệ là sự sống.
Câu 1: Đoạn văn trên trích từ văn bản nào, của ai? Đoạn văn sử dụng phương thức biểu
đạt chính nào? (1,0đ)
Câu 2: Xác định nội dung của đoạn văn. ( 0,5đ)
Câu 3: Từ đoạn văn, em có nhận xét gì về cách viết của tác giả? ( 0,5đ)
Câu 4: Viết một đoạn văn trình bày những suy nghĩ của em về những ảnh hưởng tích cực
của ca dao đến em hiện nay ( 1,0đ)
123
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Phần III: Tập làm văn ( 5,0 điểm)
Phân tích diễn biến tâm lí và hành động của bé Thu trong lần gặp cha cuối cùng- khi
ông Sáu được về nghỉ phép trong đoạn trích truyện “ Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang
Sáng ( Sách Ngữ văn 9, tập I- NXB Giáo dục Việ Nam, 2012).

NĂM HỌC 2018 – 2019


Phần I: Tiếng Việt ( 2,0 điểm)
Câu 1: Từ nào sau đây không phải là từ láy?
A.Chùng chình. B. Đưa đón. C. Mong manh. D. Dềnh dàng.
Câu 2: Trong hai câu thơ: “ Gươm mài đá, đá núi cũng mòn/ Voi uống nước, nước sông phải
cạn.”( Bình Ngô đại cáo), Nguyễn Trãi đã sử dụng biện pháp tu từ nào?
A.So sánh. B. Nhân hóa. C. Nói quá. D. Liệt kê.
Câu 3: Thành ngữ “ Ăn ốc nói mò” liên quan đến phương châm hội thoại nào?
A.PC về chất. B. PC quan hệ. C. PC cách thức. D. PC lịch sự.
Câu 4: Trong các câu sau, câu nào có chứa thành phần khởi ngữ?
A.Trời ơi, chỉ còn có năm phút. C.Tôi hiểu rồi nhưng tôi chưa
làm được.
B.Làm khí tượng, ở được cao thế mới là lí tưởng chứ. D. Có lẽ hôm nay trời sẽ mưa anh
ạ.
Câu 5: Trong các câu văn sau: (1) “ Có tiếng nói léo xéo ở gian trên. (2)Tiếng mụ
chủ.”( Kim Lân, “Làng”), câu (2) thuộc kiểu câu nào?
A.Câu đơn. B. Câu rút gọn. C.Câu ghép. D.Câu đặc biệt.
Câu 6: Phần gạch chân trong câu văn: “ Nhưng còn cái này nữa mà ông sợ, có lẽ còn ghê rợn
hơn cả những tiếng kia nhiều.”( Kim Lân, “ Làng”) là thành phần nào của câu?
A.Tp tình thái. B. Tp gọi- đáp. C.Tp cảm than. D.Tp phụ
chú.
Câu 7: Đoạn văn: “ Cô bé bên nhà hàng xóm đã quen với công việc này. Nó lễ phép hỏi Nhĩ:
“ Bác cần nằm xuống phải không ạ?”( Nguyễn Minh Châu, “ Bến quê”), đã sử dụng phép
liên kết nào?
A.Phép nối. B.Phép thế. C.Phép lặp. D. Phép liên tưởng.
Câu 8: Từ in đậm nào trong các câu sau đây là thuật ngữ?
A. Tay nâng chén muối đĩa gừng/ Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.
B.Muối là hợp chất mà phân tử gồm có một hay nhiều nguyên tử kim loại liên kết với một
hay nhiều gốc a-xít.
C.Người là Cha, là Bác, là Anh/ Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ.
D.Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa/ Vui gì hơn làm người lính đi đầu.
Phần II: Đọc- hiểu văn bản ( 2,0 điểm)
Mỗi người đều có vai trò trong cuộc đời này và đáng được ghi nhận. Đó là lí do để chúng
ta không vì thèm khát vị thế cao sang này mà rẻ rúng công việc bình thường khác. Cha mẹ ta,
phần đông đều làm công việc rất đỗi bình thường. Và đó là một thực tế mà chúng ta cần nhìn
thấy. Để trân trọng. Không phải để mặc cảm. Để bình thản tiến bước. Không phải để tự ti.
Nếu tất cả đều là doanh nhân thành đạt thì ai sẽ quét rác trên những đường phố? Nếu tất cả
đều là bắc sĩ nổi tiếng thì ai sẽ là người dọn vệ sinh bệnh viện? Nếu tất cả đều là nhà khoa
học thì ai sẽ là người tưới nước những luống rau? Nếu tất cả đều là kĩ sư phần mềm thì ai sẽ
gắn những con chip vào máy tính? Phần đông chúng ta cũng sẽ là người bình thường. Nhưng
điều đó không thể ngăn cản chúng ta vươn lên từng ngày.”
a)Nêu phương thức biểu đạt chính trong đoạn văn?
b)Chỉ ra và nêu tác dụng của phép lặp cấu trúc được sử dụng trong đoạn văn?
c) Theo em, tại sao “Phần đông chúng ta cũng sẽ là người bình thường. Nhưng điều đó không
thể ngăn cản chúng ta vươn lên từng ngày.”
Phần III: Tập làm văn ( 6,0 điểm)
124
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Câu 1 (1,5 điểm): Có ý kiến cho rằng: Cho đi mà không cần nhận lại là niềm vui lâu dài.
Hãy viết một đoạn văn( khoẳng 15 đến 20 câu) trình bày suy nghĩ của em về ý kiến trên.
Câu 2( 4,5 điểm) Phân tích đoạn thơ:
“ Thơ là tiếng lòng”( Tố Hữu). Hãy lắng nghe “tiếng lòng” của nhà thơ Y Phương qua
việc phân tích đoạn thơ sau:
Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như song như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con. ( Nói với con, Y Phương)

NĂM HỌC 2019 - 2020


Phần I: Tiếng Việt ( 2,0 điểm)
Câu 1: Từ nào dưới đây là từ ghép?
A.Nho nhỏ. B. Bọt bèo. C. Lạnh lùng. D. Xa xôi.
Câu 2: Trong đoạn thơ: “Ơi con chim chiền chiện/ Hót chi mà vang trời” ( Mùa xuân nho
nhỏ, Thanh Hải) có sử dụng thành phần biệt lập nào?
A.Thành phần gọi- đáp. B.Thành phần tình thái. C.Thành phần phụ chú. D.Thành phần
cảm thán.
Câu 3: TXét về cấu tạo ngữ pháp, câu: “ Tác phẩm vừa là kết tinh của tâm hồn người sáng
tác, vừa là sợi dây truyền cho mọi người sự sống mà nghệ sĩ mang trong lòng.” ( Nguyễn
Đình Thi, Tiếng nói của văn nghệ) thuộc kiểu câu nào?
A.Câu đơn. B. Câu ghép. C.Câu đặc biệt. D.Câu rút gọn.
Câu 4: Phần in đậm trong câu: “ Đối với cháu, thật là đột ngột, không ngờ lại là như thế.” (
Lặng lẽ sa Pa- Nguyễn Thành Long) là thành phần
A.tình thái. B. gọi – đáp. C. trạng ngữ. D. khởi ngữ.
Câu 5: Câu văn: “ Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt là di sản văn hóa
phi vật thể đại diện của nhân loại.” thuộc câu
A.cảm thán. B. cầu khiến. C.nghi vấn. D. trần thuật.
Câu 6: Trong câu thơ: “ Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”, Viễn Phương đã sử dụng phép
tu từ
A.so sánh. B. ẩn dụ. C.hoán dụ. D.điệp ngữ.
Câu 7: Từ gạch chân trong câu thơ: “ Hình như thu đã về”( Hữu Thỉnh, Sang thu) thuộc thành
phần biệt lập
A.tình thái. B.cảm thán. C.phụ chú. D. gọi- đáp.
Câu 8: Các câu: “ Chị Thao vấp ngã, tôi đỡ chị. Nhưng chị vùng ra, mắt mở to, mở trắng đi
như không còn sự sống”. ( Lê Minh Khuê, Những ngôi sao xa xôi) đã sử dụng phép liên kết
gì?
A.Phép nối. B.Phép thế. C.Phép đồng nghĩa. D. Phép liên tưởng.
Phần II: Đọc- hiểu văn bản (2,0 điểm)
125
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Một ngày nọ có một con lừa của người nông dân bị rơi xuống đáy giếng. Lừa khóc lóc
thảm thương trong vài giờ đồng hồ trong khi người chủ tìm cách giải thoát cho nó. Cuối cùng
người nông dân quyết định rằng con lừa đã qua già và cái giếng cũng cần được lấp đi, ông
không cần phải cứu con lừa nữa.
Người nông dân kêu hàng xóm của mình đến và giúp một tay.Họ cầm xẻng và bắt đầu xúc
đất đổ xuống giếng. Ban đầu, con lừa biết chuyện gì xảy ra với nó và bắt đầu khóc vì tuyệt
vọng. Nhưng sau đó mọi người ngạc nhiên vì nó bỗng trở nên im lặng.
Một lúc sau, người nông dân nhìn xuống giếng và ông ta không khỏi ngạc nhiên vì những
gì đã xảy ra trước mắt. Với mỗi xẻng đất mà người ta hắt xuống giếng, con lừa đã làm một
việc thông minh, nó lấy người để giũ đất và bùn rơi xuống chân và tiếp tục bước lên trên.
Với mỗi xúc đất của người nông dân hắt xuống, con lừa lại rùng mình và bước một bước
lên trên đống đất. Chỉ một lúc sau mọi người đều kinh ngạc vì con lừa đã lên được miệng
giếng và vui vẻ thoát ra ngoài.
(Lược dịch từ truyện ngụ ngôn Ê-dốp)
a) Con lừa trong văn bản trên bị rơi vào hoàn cảnh nào?
b) Vì sao khi thấy người nông dân và người hàng xóm cầm xẻng và bắt đầu xúc đất đổ
xuống giếng, ban đầu con lừa khóc lóc nhưng sau đó nó bỗng trở nên im lặng?
c) Từ văn bản trên hãy rút ra một thông điệp mà em tâm đắc nhất và lí giải vì sao điều đó
có ý nghĩa với em?
Phần III: Tập làm văn ( 6,0 điểm)
Câu 1 (1,5 điểm): Có ý kiến cho rằng: Hi vọng được tìm thấy trong mỗi chúng ta, và nó có
thể mang ánh sáng vào những nơi tăm tối nhất. Hãy viết một đoạn văn( khoẳng 15 đến 20
câu) trình bày suy nghĩ của em về ý nghĩa của hi vọng.
Câu 2( 4,5 điểm) Cảm nhận của em về đoạn thơ sau:
“Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như long mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.

Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,


Ta kép xoăn tay chum cá nặng.
Vảy bạc đuôi vàng lóe rặng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.

Câu hát căng buồm với gió khơi,


Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mưới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi. ( Đoàn thuyền đánh cá, Huy Cận)
Từ cảm nhận đó hãy chỉ ra nét độc đáo trong cảm hứng của Huy Cận khi sáng tác bài thơ.

NĂM HỌC 2020 - 2021


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO ĐỀ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT
TẠO NĂM HỌC 2020 – 2021
NAM ĐỊNH Bài thi: Ngữ văn.
Thời gian làm bài: 120 phút.
ĐỀ CHÍNH THỨC (Đề thi gồm: 02 trang)
Phần I: Trắc nghiệm (2,0 điểm)
Hãy chọn phương án trả lời đúng và viết chữ cái đứng trước phương án đó vào bài làm
Câu 1. Câu tục ngữ sau liên quan đến phương châm hội thoại nào?
“Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.”
126
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
A. Phương châm quan hệ. B. Phương châm về chất.
C. Phương châm về lượng. D. Phương châm lịch sự.
Câu 2. Từ “Này” trong câu: “Này, bác có biết mấy hôm nay súng nó bắn ở đâu mà
nghe rát thế không?” (Làng - Kim Lân) thuộc thành phần
A. trạng ngữ. B. gọi - đáp.
C. khởi ngữ. D. phụ chú.
Câu 3. Yếu tố “đồng” có nghĩa là trẻ con trong từ
A. đồng dao. B. trống đồng.
C. đồng chí. D. đồng sự.
Câu 4. Từ nào sau đây là từ ghép?
A. Trăng trắng. B. Cỏ cây.
C. Lấp lánh. D. Nhấp nhô.
Câu 5. Chọn phương án đúng khi nói về hiệu quả của phép tu từ nói giảm, nói tránh
được sử dụng trong hai câu thơ:
“Bác Dương thôi đã, thôi rồi
Nước mây man mác, ngậm ngùi lòng ta.”
(Khóc Dương Khuê - Nguyễn Khuyến)
A. Giảm đi sự đau thương, mất mát. B. Giảm bớt đi sự đột ngột, bất ngờ.
C. Thể hiện thái độ nhã nhặn, lịch sự. D. Thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ
ngàng.
Câu 6. Từ “số thập phân” là thuật ngữ thuộc lĩnh vực khoa học nào?
A. Văn học. B. Lịch sử.
C. Vật lý. D. Toán học.
Câu 7. Biện pháp nghệ thuật nào được sử dụng trong hai câu thơ sau?
“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.”
(Ngắm trăng – Hồ Chí Minh)
A. So sánh. B. Nhân hóa.
C. Nói quá. D. Ẩn dụ.
Câu 8. Từ “Đầu” ở phương án nào sau đây dùng theo nghĩa gốc?
A. Đầu bạc răng long. B. Đầu non cuối bể.
C. Đầu súng trăng treo. D. Đầu sóng ngọn gió.
Phần II: Đọc - hiểu văn bản (2,0 điểm)
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi nêu ở dưới
MỘT LY SỮA
Có cậu bé nghèo bán hàng rong để kiếm tiền đi học. Một ngày nọ, cậu rất đói bụng
nhưng chỉ còn mấy đồng tiền ít ỏi. Cậu quyết định xin một bữa ăn tại ngôi nhà gần đó.
Cậu ngại ngùng khi thấy một cô bé dễ thương ra mở cửa. Thay vì xin ăn, cậu đành xin
một ly nước nóng. Cô bé nghĩ cậu đang đói nên đem ra một ly sữa lớn. Cậu uống từ từ,
rồi hỏi: “Tôi nợ bạn bao nhiêu?”. Cô bé đáp: “Bạn không nợ tôi bao nhiêu cả. Mẹ dạy
tôi không bao giờ nhận tiền khi làm một điều tốt”. Sau khi nói lời cảm ơn, cậu bé
Howard Kelly rời ngôi nhà đó và cảm thấy trong người không những khỏe khoắn mà
còn tràn đầy niềm tin vào con người và cuộc sống.
Bao năm sau, cô gái đó bị bệnh hiểm nghèo. Các bác sĩ trong vùng đều bất lực và
chuyển cô lên bệnh viện trung tâm thành phố. Tiến sĩ Howard Kelly được mời làm
chuyên gia. Khi nghe về nơi ở của bệnh nhân, tia sáng lóe lên trong mắt anh. Anh đến
phòng bệnh và nhận ra cô chính là bé gái năm xưa. Anh đã gắng hết sức mình để cứu
sống cô. Cầm tờ hóa đơn thanh toán viện phí, anh viết gì đó bên lề và chuyển lên phòng
127
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
cô gái. Cô gái lo sợ không dám nhìn tờ hóa đơn viện phí, bởi cô nghĩ suốt đời mình
không thể thanh toán hết số tiền đó. Cuối cùng, cô can đảm nhìn, mắt cô nhòa lệ khi
thấy dòng chữ bên lề: “Đã thanh toán bằng một ly sữa”. Ký tên: Tiến sĩ Howard Kelly.
(Theo http://songdep.xitrum.net)
Câu 1. (0,5 điểm)
Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên.
Câu 2. (0,75 điểm).
Vì sao cậu bé Howard Kelly khi rời khỏi ngôi nhà của cô bé lại “tràn đầy niềm tin
vào con người và cuộc sống”?
Câu 3. (0,75 điểm).
Văn bản trên đã cho em những bài học gì?
Phần III: Tập làm văn (6,0 điểm)
Câu 1. (1,5 điểm)
Từ nội dung phần Đọc - hiểu văn bản, em hãy viết một đoạn văn nghị luận (từ 10
đến 15 câu và đánh số thứ tự các câu) để bày tỏ suy nghĩ về ý nghĩa của lối sống trao đi
mà không ghi nhớ, nhận về mà không lãng quên.
Câu 2. (4,5 điểm)
Người nghệ sĩ không chỉ lắng nghe nỗi niềm của con người mà còn biểu đạt nó một
cách nghệ thuật.
Em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên qua việc phân tích đoạn thơ sau:
“Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”
(Trích Kiều ở lầu Ngưng Bích; Truyện Kiều - Nguyễn Du;
Ngữ văn 9, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2018, tr. 94)
Năm học 2021 - 2022
Bài thi môn: Ngữ văn
Thời gian làm bài: phút
(không kể thời gian phát đề)
Phần 1 - Tiếng Việt (2,0 điểm)
Hãy chọn phương án trả lời đúng và viết chữ cái đứng trước phương án đó vào bài
làm.
Câu 1. Từ nào sau đây không phải là từ láy?
A. Long lanh. B. Mong muốn. C. Bát ngát. D. Lao xao.
Câu 2. Xét về cấu tạo ngữ pháp, câu “Mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà.”
(Nguyễn Quang Sáng, Chiếc lược ngà) thuộc kiểu câu
A. rút gọn. B. đặc biệt. C. ghép. D. đơn.

128
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Câu 3. Về hình thức, các câu “Thần chết là một tay không thích đùa. Hắn ta lẩn trong
ruột những quả bom." (Lê Minh Khuê, Những ngôi sao xa xôi) liên kết với nhau bằng
phép
A. lặp. B. nối. C. thế. D. đồng nghĩa.
Câu 4. Tổ hợp từ nào sau đây không phải là thành ngữ?
A. Ăn quả nhớ kẻ trồng cây. B. Mình đồng da sắt.
C. Lên thác xuống ghềnh. D. Cá chậu chim lồng.
Câu 5. Biện pháp tu từ nào được sử dụng trong hai câu thơ sau?
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.”
(Huy Cận, Đoàn thuyền đánh cá).
A. So sánh và nhân hóa. B. Nhân hóa và ẩn dụ.
C. Ẩn dụ và hoán dụ. D. So sánh và điệp ngữ.
Câu 6. Phần in đậm trong câu “Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, tính
đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp.” (Nguyễn Dữ, Chuyện người con gái Nam
Xương) là thành phần
A. tình thái. B. cảm thán. C. phụ chú. D. khởi
ngữ.
Câu 7. Quan hệ ý nghĩa giữa các vế trong câu ghép “Làng thì yêu thật, nhưng làng
theo Tây mất rồi thì phải thù.” (Kim Lân, Làng) là quan hệ.
A. bổ sung. B. tăng tiến. C. tiếp nối. D. tương
phản.
Câu 8. Câu “Nói có sách, mách có chứng” liên quan đến phương châm hội thoại nào?
A. Phương châm về lượng. B. Phương châm về chất.
C. Phương châm quan hệ. D. Phương châm lịch sự.
Phần II - Đọc hiểu văn bản (2,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau:
“Kim Woo Chung, người sáng lập nên tập đoàn Deawoo từng viết trong quyển sách
Thế giới quả là rộng lớn và có rất nhiều việc phải làm rằng: “Lịch sử thuộc về những
người biết ước mơ. Ước mơ là động lực thay đổi thế giới. Tôi cam đoan rằng tất cả
những người đang làm nên lịch sử thế giới ngày hôm nay đều có những ước mơ lớn
khi còn trẻ.” Dù là thay đổi bản thân mình hay là thay đổi thế giới, thì người ta cũng
bắt đầu bằng ước mơ.
Con đường theo đuổi ước mơ không bao giờ là con đường an toàn, cũng không phải là
con đường dễ dàng. Đôi khi ta phải chấp nhận đi đường vòng, làm việc mình không
thích để nuôi dưỡng ước mơ. Đôi khi ta phải đứng lên chống lại định kiến xã hội để đi
theo con đường của mình. Nhiều khi ta phải đối mặt với cô đơn, thất vọng. Dù làm gì,
dù thế nào đi nữa, thì đừng bỏ cuộc. Hãy luyện tập mài giũa hằng ngày. Trái ngọt có
được sau những chặng đường dài thực sự rất xứng đáng. Hãy tin tưởng.”
(Rosie Nguyễn, Tuổi trẻ đáng giá bao nhiêu?, NXB Hội nhà văn 2017 tr 115 116).
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. (0,5 điểm) Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn
trích.
Câu 2. (0,75 điểm) Việc tác giả trích dẫn câu nói của Kim Woo Chung có tác dụng
gì?
Câu 3. (0,75 điểm) Theo em, tại sao “Đôi khi ta phải đứng lên chống lại định kiến xã
hội để đi theo con đường của mình. "?
Phần III - Tập làm văn (6,0 điểm)
129
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Câu 1. (1,5 điểm)
Từ nội dung phần Đọc hiểu văn bản, hãy viết một đoạn văn (từ 10 đến 15 câu) bày tỏ
suy nghĩ của em về vai trò của ước mơ.
Câu 2. (4,5 điểm)
Phân tích đoạn thơ sau:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời


Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.

Không có kinh, rồi xe không có đèn,


Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vận chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
(Phạm Tiến Duật, Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Ngữ văn 9, Tập một, NXB Giáo
dục Việt Nam, 2016, tr.132)

NĂM HỌC 2022-2023


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỀ THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT KHÔNG CHUYÊN
NAM ĐỊNH Môn: Ngữ văn
(Thời gian làm bài: 120 phút)
ĐỀ CHÍNH THỨC Đề thi gồm 02 trang.

Phần I: Tiếng việt (2,0 điểm)


Hãy chọn phương án trả lời đúng và viết chữ cái đứng trước phương án đó vào
bài làm.
Câu 1. Các câu sau phù hợp với phương châm hội thoại nào trong giao tiếp?
- Nói có sách, mách có chứng.
- Ăn ngay nói thật.
- Nói phải củ cải cũng nghe.
A. Phương châm về lượng. B. Phương châm quan hệ.
C. Phương châm về chất. D. Phương châm cách thức.
Câu 2. Những từ tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ được gọi là gì?
A. Từ đơn. B. Từ ghép. C. Tình thái từ. D. Từ láy.
Câu 3. Trong những câu sau, câu nào sử dụng thành ngữ?
A. Đầu lòng hai ả Tố Nga B. Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân. Thềm hoa một bước lệ hoa mấy
hàng.
C. Bên trời góc bể bơ vơ D. Kiến bò miệng chén chưa lâu
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho
vừa.

130
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Câu 4. Từ trà nào trong những trường hợp sau đây dùng với nghĩa chuyển theo
phương thức ẩn dụ?
A. Bố đang pha trà. B. Trà hà thủ ô. C. Hết tuần trà. D. Ấm trà ngon.
Câu 5. Trong các câu sau, câu nào chứa thành phần khởi ngữ?
A. Tôi cũng giàu rồi. B. Lâm học giỏi môn Toán.
C. Giàu, tôi cũng giàu rồi. D. Em là học sinh tiên tiến.
Câu 6. Trong các câu sau đây, câu nào không chứa thành phần tình thái?
A. Nhiều mây đấy, có lẽ trời sắp mưa. B. Trời ơi, chỉ còn năm phút.
C. Đêm khuya, chó sủa nhiều chắc là có trộm. D. Hình như thu đã về.
Câu 7. Trong hai câu thơ sau, nhà thơ Thanh Hải đã sử dụng biện pháp tu từ nào?
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.
A. Liệt kê. B. Hoán dụ. C. Điệp từ. D. So sánh.
Câu 8. Trong đoạn văn sau đây, tác giả dùng các phép liên kết nào?
Một hôm tôi phàn nàn việc ấy với Binh Tư. Binh Tư là một người láng giềng
khác của tôi. Hắn làm nghề ăn trộm…(Lão Hạc - Nam Cao)
A. Phép lặp, phép thế. B. Phép nối, phép lặp.
C. Phép thế, phép đồng nghĩa. D. Phép liên tưởng, phép nối.
Phần II: Đọc hiểu văn bản (2,0 điểm)
Đọc văn bản sau:
(1)Đến bây giờ, khi đã ngồi bao nhiêu giờ chờ các chuyến bay, đã ngủ lê lết
nhiều đêm trong các phi trường để hôm sau quá cảnh, tôi mới nhận ra rằng mình đã
khác xưa. Lúc trước chỉ mơ về cảm giác được ngồi trong máy bay, giờ mới thấy rằng
khoảnh khắc đứng nơi đất bằng nhìn chiếc máy bay lướt trên nền trời cũng thật tuyệt
diệu. Lúc trước mơ về những vùng đất mới, những con người mới, bây giờ mừng rỡ
giữa nơi xa lạ bắt gặp giọng Việt thân thương. Trước mơ về những chuyến đi, giờ còn
mong cả những chuyến về. Bởi sau những giờ bay dài dằng dặc, tôi mới nghiệm ra
rằng hạnh phúc của mình không chỉ nằm ở lúc ngồi trên những chuyến bay, nhìn mây
trắng như bông ngoài cửa sổ, háo hức trước một vùng đất mới, những con người mới,
một văn hóa mới.
(2)Hạnh phúc của tôi còn ở lúc quay về, thảnh thơi ngắm dòng Cửu Long đục
màu phù sa uốn lượn trên bạt ngàn ruộng lúa xanh non, ngó dải rừng Cát Tiên trải
một màu xanh thẫm, nhìn những mái nhà lô nhô phía dưới, thấy có đâu đó nơi gọi là
nhà mình. Hạnh phúc của tôi còn là lúc ngồi trên chuyến bay trở về, nghe người ngồi
ghế kế bên thì thào giọng miền Tây: “Đi đâu về rồi cũng thấy nước Việt mình thật
đẹp”.
(Trích Tuổi trẻ đáng giá bao nhiêu, Rosie
Nguyễn,
NXB Hội nhà văn, 2018, tr.143-144)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 (0,5 điểm). Trong đoạn (1), sau khi ngồi bao nhiêu giờ chờ các chuyến bay,
nhân vật tôi nhận ra rằng mình đã khác xưa như thế nào?
Câu 2 (0,75 điểm). Hãy chỉ ra và nêu tác dụng của một biện pháp tu từ trong đoạn văn
(2).
Câu 3 (0,75 điểm). Bài học ý nghĩa nhất mà em rút ra sau khi đọc văn bản là gì? Vì
sao?
Phần III: Tập làm văn (6,0 điểm)
Câu 1 (1,5 điểm).
131
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Từ nội dung văn bản ở phần Đọc hiểu hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 15 câu)
trình bày suy nghĩ của em về sự cần thiết phải gắn bó với quê hương xứ sở.
Câu 2 (4,5 điểm).
Phân tích nhân vật ông Hai trong đoạn trích Làng (SGK Ngữ văn 9, tập một,
NXB Giáo dục Việt Nam, 2018, trích truyện ngắn Làng) của nhà văn Kim Lân.
---------- HẾT-----------

HƯỚNG DẪN CHẤM

ĐỀ 1.

Phần I. Trắc nghiệm (2,0 điểm)

132
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Câu 1 2 3 4 5 6 7 8
Đáp B C D C B B A D
án

Mỗi câu trả lời đúng được 0.25 điểm.

Phần II: Đọc – hiểu văn bản (2,0 điểm)


Câu 1. (0,5 điểm)
* Yêu cầu trả lời: Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận
* Cách cho điểm:
- Tối đa: như đáp án.
- Mức chưa tối đa: 0,25 học sinh xác định được phương thức nghị luận kết hợp với
phương thức khác có trong đoạn trích (tự sự...)
- Điểm 0: Thiếu hoặc sai hoàn toàn.
Câu 2( 0,5 điểm)
* Yêu cầu trả lời: Học sinh lí giải theo tác giả “một bé gái 7 tuổi, trong cơn bệnh
hiểm nghèo, đã đồng ý hiến tặng mô tạng, đó mới là câu chuyện hiếm có” vì:
“Không chỉ ở Việt Nam mà cả những quốc gia phát triển và văn minh bậc nhất
thế giới như ở Châu Âu và Bắc Mỹ, không phải cá nhân nào, gia đình nào cũng dễ
dàng chấp nhận một thực tế hiến tặng mô tạng khi người thân mình mất đi. Các trường
hợp hiến tặng chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ nhoi nhưng cũng chẳng thể trách móc vì đó là
quyền của mỗi cá nhân, quyền con người”.
* Cách cho điểm:
- Tối đa 0,5 điểm: như đáp án.
- Mức chưa tối đa 0,25 điểm: Học sinh chỉ nêu được một ý trong hai ý như đáp án.
- Điểm 0: Thiếu hoặc sai hoàn toàn.
Câu 3 (0,75 điểm)
* Yêu cầu trả lời: HS nêu được ý hiểu của bản thân về ý kiến “Lòng nhân ở mỗi con
người, luôn tiềm ẩn và nếu nó được dung dưỡng và bồi đắp thì sẽ tạo ra những nhân
cách sống đẹp và giúp ích cho xã hội”
- Lòng nhân – tình yêu thương con người là cái bản chất, cái vốn có trong mỗi con
người.
- Lòng nhân không phải lúc nào cũng được biểu lộ rõ ràng, dễ thấy mà đôi khi nó bị
khuất lấp bởi những bộn bề cuộc sống, bởi vậy cần có những hành động cụ thể để đem
tình yêu thương đó vào thực tiễn.
- Khi cả xã hội đối xử với nhau tràn ngập tình yêu thương cuộc sống sẽ trở nên đẹp đẽ
hơn, hạnh phúc hơn.
* Cách cho điểm:
- Tối đa 0,75 điểm: như đáp án.
- Mức chưa tối đa 0,5 điểm: Học sinh chỉ nêu được một 2 ý như đáp án.
Hoặc nêu đủ 3 ý nhưng chưa sâu sắc.
- Mức chưa tối đa 0,25 điểm: Chỉ nêu được 1 ý trong 3 ý của đáp án, hoặc chạm đến 2
ý trong đáp án.
- Điểm 0: Thiếu hoặc sai hoàn toàn
Câu 4 (0,5 điểm )

133
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
* Yêu cầu trả lời: Mỗi học sinh có thể tự rút ra cho mình những bài học khác nhau từ
nội dung đoạn trích. Gồm bài học nhận thức và hành động liên quan đến tình yêu
thương, việc tử tế của con người trong cuộc sống...
Sau đây là một vài gợi ý:
- Tình yêu thương khi được lan tỏa sẽ đem lại những tác động tích cực cho cộng đồng
xã hội.
- Mỗi chúng ta cần sống một cách tử tế, luôn yêu thương, sẵn sàng giúp đỡ những
người xung quanh bằng sự chân thành.
- Cần thiết lan tỏa việc tử tế trong xã hội hiện nay...
Cách cho điểm
+ Tối đa 0,5 điểm: Học sinh nêu được 2 bài học trở lên.
+ Mức chưa tối đa 0,25 điểm: Học sinh chỉ nêu được một bài học.
+ Điểm 0: Thiếu hoặc sai hoàn toàn.

Phần III. Tập làm văn (6,0 điểm)


Câu 1.(1,5 điểm)
Yêu cầu về hình thức:
- Đảm bảo hình thức một đoạn văn nghị luận (thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo
cách diễn dịch, quy nạp, tổng - phân - hợp, móc xích hoặc song hành).
- Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp tiếng Việt. (0,25đ)

Yêu cầu về nội dung: Thí sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai
vấn đề nghị luận theo nhiều cách nhưng phải làm rõ ý nghĩa của cho và nhận trong
cuộc sống hiện nay. (1,25đ)
Có thể theo hướng sau:
- Ý nghĩa của “cho”: giúp những người gặp khó khăn, hoạn nạn vượt qua nỗi đau về
tinh thần, vật chất để tạo dựng cuộc sống tốt đẹp; giúp cho tâm hồn người “cho”
tìm được sự bình yên, hạnh phúc, tạo nên nhân cách tốt đẹp; được mọi người yêu
quý. (dẫn chứng…)
- Ý nghĩa của “nhận”: giúp cuộc sống của mỗi người vượt qua những trở ngại; để
con người hiểu ra cuộc đời thật ấm áp, tràn đầy tình yêu. (dẫn chứng…)
Cách cho điểm:
- Điểm 1,25- 1,5: Đảm bảo được tốt các yêu cầu về hình thức và nội dung, triển khai
ý thuyết phục, có sáng tạo, diễn đạt trôi chảy.
- Điểm 0,75- 1,0: Đảm bảo tương đối đầy đủ yêu cầu về hình thức và nội dung,
nhưng các ý triển khai còn sơ lược, mắc một số lỗi về diễn đạt.
- Điểm 02,5- 0,5: Chưa đi đúng yêu cầu về hình thức, các ý triển khai thiếu, mắc
nhiều lỗi về diễn đạt.
- Điểm 0: Không làm bài hoặc làm lạc nội dung.
Câu 2. (4,5 điểm)
* Yêu cầu về kĩ năng:
- Học sinh có kĩ năng làm bài văn nghị luận chứng minh về một nhận định qua phân
tích biểu hiện ở nhân vật trong tác phẩm văn học cụ thể.
- Trình bày diễn đạt tốt với bố cục rõ ràng, logic. Chữ đúng chính tả, trình bày sạch
đẹp, văn viết có cảm xúc.
* Yêu cầu về kiến thức: Đảm bảo các yêu cầu sau:
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận (0,25 điểm): HS giới thiệu được vấn đề cần nghị luận;
dẫn ý kiến của Gamzatov và giới thiệu về nhân vật, tác phẩm.
134
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
2. Giải thích ý kiến: (0,5 điểm)
- “Người ta chỉ có thể tách con người ra khỏi quê hương”: Con người có thể phải rời
xa quê hương vì nhiều lí do.
- “không ai có thể tách quê hương ra khỏi con người”: Quê hương đã trở thành máu
thịt, là điều không thể thiếu đối với con người.
=> Ý kiến của Gamzatov khẳng định mạnh mẽ sợi dây liên kết giữa quê hương
và con người; hình ảnh quê hương, tình yêu quê hương luôn thường trực trong lòng
mỗi con người...
3. Chứng minh qua việc cảm nhận nhân vật ông Hai trong Làng của Kim Lân
(3,25 điểm)
Chấp nhận các cách triển khai khác nhau xong thí sinh cần đạt những yêu cầu sau:
3.1. Ý 1: (0,25 điểm) Khái quát chung:
- Kim Lân là nhà văn có sở trưởng truyện ngắn, viết nhiều và hay về con người và
cuộc sống nông thôn, mỗi nhân vật của Kim Lân như được bứng ra từ đồng ruộng, từ
đất quê, từ giọt mồ hôi mặn chát của người lao động.
- Truyện ngắn "Làng" được Kim Lân viết trong thời kì đầu kháng chiến chống Pháp;
tác giả đã xây dựng thành công nhân vật ông Hai với tình yêu làng thiêng liêng, sâu
nặng hòa trong tình yêu đất nước.
3.2. Ý 2: (3,0 điểm) Cảm nhận nhân vật ông Hai để làm sáng tỏ ý kiến
* Chứng minh người ta chỉ có thể tách con người ra khỏi quê hương (1,0 điểm)
- Là người nông dân hiền lành, cần cù người làng chợ Dầu, ông Hai rất yêu làng, luôn
tự hào, hãnh diện về sự giàu có; về phong trào kháng chiến của làng; bản thân ông
cũng từng tham gia kháng chiến bảo vệ làng...
- Dù yêu làng nhưng vì điều kiện gia đình, cũng là bởi thực hiện chính sách thời chiến
"tản cư cũng là kháng chiến" ông phải cùng với vợ con đi tản cư, phải dời ngôi làng
thân yêu mà ông rất yêu mến, tự hào…
* Chứng minh người ta không thể tách quê hương ra khỏi con người (1,5 điểm)
Phải dời làng đi tản cư nhưng hình ảnh làng Dầu vẫn in đậm trong lòng ông Hai, tình
yêu làng của ông vẫn nguyên vẹn; mọi buồn vui, sướng khổ trong ông đều gắn với
làng:
- Ở nơi tản cư, trước khi nghe tin dữ về làng: ông Hai nhớ làng, mong được trở về
làng; đi tìm nghe tin tức về làng; tự hào khi nghe tin chiến thắng. (HS đưa dẫn chứng,
phân tích)
- Từ lúc nghe tin dữ về làng: Khi kẻ thù li gián, muốn tách tình yêu quê hương ra khỏi
mỗi con người nên đã tung tin làng Dầu theo giặc thế nhưng hình ảnh làng chợ Dầu,
tình cảm trong lòng ông Hai với làng vẫn thắm thiết, thiêng liêng sâu nặng hòa trong
tình yêu đất nước và tinh thần kháng chiến; mọi thái độ, suy nghĩ cử chỉ của ông đều
và luôn hướng về làng:
+ Hỏi thăm tin tức biết tin dữ thì đau đớn, sững sờ cảm thấy xấu hổ, tủi nhục vì làng
chợ Dầu theo giặc.
+ Luôn ám ảnh bởi tin dữ về làng; hoài nghi không muốn tin vì làng theo giặc.
+ Luôn sống trong tâm trạng nặng nề, đau khổ, bế tắc, có lúc quyết định thù làng, gạt
phắt chuyện về làng nhưng thực ra vẫn yêu làng, vẫn muốn về làng nên đã tâm sự với
con...
- Tình yêu làng của ông Hai thể hiện rõ qua niềm vui sướng tự hào khi nghe tin cải
chính.
=> Dù bị tách khỏi quê hương nhưng ở ông Hai, tình yêu làng vẫn vẹn nguyên
với những cung bậc cảm xúc phong phú: buồn - vui, hi vọng - tuyệt vọng, vui sướng -
135
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
khổ đau… Tình yêu làng hòa trong tình yêu đất nước, cách mạng và tinh thần kháng
chiến.
* Nghệ thuật: (0,5 điểm)
- Cốt truyện tâm lí, tình huống căng thẳng, bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí.
- Miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế.
- Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc như lời nói hàng ngày của người nông dân.
Lưu ý: Ở ý 2, nếu HS chỉ phân tích nhân vật ông Hai thì cho 2/3 số điểm.
4. Đánh giá, mở rộng (0,5 điểm)
- Ý kiến của Gamzatov là ý kiến đúng đắn, chính xác khi khẳng định mối quan hệ tình
cảm sâu sắc, bền chặt của con người với quê hương.
- Chính tình cảm nồng ấm thường trực ấy đã khiến cho mỗi chúng ta sẵn sàng làm tất
cả để bảo vệ quê hương, bảo vệ cội nguồn yêu thương của chính mình. Đó cũng là lí
do góp phần làm nên những chiến thắng vĩ đại của toàn dân tộc (HS liên hệ tình cảm
làng quê trong các tác thơ ca và biểu hiện ở các nhân vật khác....) (Khuyến khích
những học sinh biết so sánh, liên hệ mở rộng)
- HS tự rút ra bài học nhận thức, tình cảm từ lời bàn (cách thể hiện tình yêu, trách
nhiệm với quê hương...)
Cách chấm điểm:
- Điểm từ 4,0 -> 4,5: Đáp ứng tốt các yêu cầu trên; có kĩ năng giải thích tốt; phân tích
tác phẩm có định hướng, có chiều sâu; văn viết có giọng điệu; làm chủ được bài viết.
- Điểm từ 3,0 -> dưới 4,0: Đáp ứng khá tốt các yêu cầu trên; có kĩ năng giải thích; hiểu
và phân tích tác phẩm có định hướng; diễn đạt mạch lạc.
- Điểm 2,0 -> dưới 3,0: Đảm bảo các yêu cầu trên ở mức độ sơ sài, chưa biết phân tích
định hướng nhân vật ông Hai; chưa biết đánh giá; văn còn lủng củng, nhiều lỗi chính
tả, dùng từ đặt câu.
- Điểm 1,0 -> 1,75: Không hiểu ý kiến; không phân tích nhân vật, văn mắc nhiều lỗi về
diễn đạt, chính tả.
- Điểm dưới 1,0: Không làm bài hoặc lạc đề.
Lưu ý chung:
- Sau khi chấm điểm từng câu, giám khảo cân nhắc để cho điểm toàn bài một cách
hợp lí, đảm bảo đánh giá đúng trình độ thí sinh, khuyến khích sự sáng tạo.
- Điểm toàn bài lẻ đến 0,25 điểm, không làm tròn.
Đề 2.

Phần I: Tiếng Việt ( 2,0 điểm). Mỗi câu trả lời đúng được 0,25 điểm

Câu 1 2 3 4 5 6 7 8
Đáp D B C B C D B C
án

Phần II: Đọc – hiểu văn bản( 2,0 điểm)


Câu 1: Theo tác giả, thời gian có những giá trị đó là: (0,5 điểm)
Thời gian là sự sống,
Thời gian là thắng lợi,
136
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
Thời gian là tiền bạc,

Thời gian là tri thức.


HS nêu thiếu 1 ý cho 0,25 điểm.
Câu 2:0, 5 điểm
- Biện pháp tu từ cú pháp trong văn bản là: Điệp cú pháp ( Thời gian là…):( 0,25
điểm)
- Hiệu quả nghệ thuật là:
+ Tạo sự liên kết chặt chẽ giữa các đoạn văn.
+ Nhấn mạnh vào giá trị của thời gian đối với con người và cuộc sống.
HS nêu được cả 2 ý hoặc ý 2: 0,25 điểm
Câu 3: 0,5 điểm
- Theo em, thời gian là vàng vì thời gian quý như vàng
- Vàng mua được: vàng là thứ vật chất hữu hình, dù có đẹp, có giá trị đến đâu
vẫn có thể trao đổi, mua bán được.
- Thời gian không mua được: thời gian là thứ vô hình không thể nắm bắt, đã đi
là không trở lại.
HS nêu thiếu 1 trong 3 ý cho 0,25 điểm.
Câu 4: 0,5 điểm
Học sinh có thể trình bày quan điểm cá nhân, đưa ra lý lẽ giải thích hợp lý,
và lưu ý nhấn mạnh vào giá trị và cách sử dụng quỹ thời gian của con người.
- HS rút ra 1 thông điệp hợp lý: 0,25 điểm
VD: Hãy biết quý trọng thời gian.
- Lí giải thuyết phục: 0,25 điểm

Phần III: Làm văn (6,0 điểm)

Câu 1: (1,5 điểm)


*Yêu cầu về kỹ năng
Hình thức trình bày : một đoạn văn nghị luận, ý rõ ràng, lập luận chặt chẽ.
(0,25 điểm)
*Yêu cầu về kiến thức:
Học sinh có thể có nhiều cách lập luận khác nhau, song phải làm sáng tỏ
được vấn đề nghị luận
+ Giải thích: ( 0,25 điểm)
- Thời gian là vàng: Nhấn mạnh tầm quan trọng của thời gian, sự quý báu của
việc trân trọng thời gian, giá trị của thời gian là không có gì sánh bằng.
+ Phân tích, chứng minh: (0,75 điểm)
- Thời gian là vàng: thời gian được tính bằng giây, phút, giờ, ngày, tháng,
năm… Nó luôn chảy trôi theo dòng tuần hoàn của cuộc sống. Thời gian là vô giá
137
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
bởi nó có tính chất một đi không trở lại, như mũi tên đã bắn đi nên không lấy lại
được.
- Thời gian giúp con người ta khôn lớn, trưởng thành, lao động, làm mọi thứ cần
thiết trong cuộc sống. Nó tạo ra giá trị tiền bạc dưới bàn tay lao động của con
người.
- Thời gian là vô giá bởi nó sẽ đem lại cho người biết trân trọng nó, sử dụng nó
hợp lí vinh quang, niềm vui và hạnh phúc. Thời gian là báu vật của cuộc sống.
- Lãng phí thời gian, không biết trân trọng nó khiến con người sẽ có cảm giác
nuối tiếc, hụt hẫng về những giá trị đã qua.
+ Bàn luận mở rộng.
- Phê phán những con người không biết quý trọng thời gian…
+ Bài học nhận thức và hành động:
- Quý trọng thời gian là quý trọng giáu trị cuộc sống. Mỗi con người phải ý thức
được giá trị của thời gian, sống đẹp trong từng ngày của hiện tại, trân trọng từng
phút giây.
- Quý trọng thời gian không có nghĩa là sống vội, sống gấp, sống chỉ biết tận
hưởng mà cần sống, học tập, lao động và cống hiến cho xã hội.
- Bài học hành động, nhất là tuổi trẻ.
Câu 2: (4,5 điểm)
*Yêu cầu chung:
- Về kiến thức: Học sinh cần có năng lực cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của
nhân vật theo đúng định hướng của nhận định.
- Về kỹ năng: Học sinh biết vận dụng các kiến thức đọc hiểu truyện để làm bài
văn nghị luận nhân vật có định hướng, lập luận thuyết phục, bố cục đủ 3 phần…
*Yêu cầu cụ thể: Học sinh có thể trình bày theo cách riêng. Dưới đây là một số
gợi ý mang tính định hướng:
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận( 0,5 điểm)
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm, trích dẫn ý kiến, nêu vấn đề cần phân tích.
2. Giải thích ý kiến:( 0,25 điểm)
- “ Nhân vật là linh hồn của truyện ngắn”: Muốn nói vai trò quan trọng của
nhân vật trong truyện ngắn: qua nhân vật, nhà văn thể hiện tư tưởng chủ
đề của tác phẩm, bằng nhân vật sống động , cụ thể tác giả phản ánh hiện
thực cuộc sống con người.
- Và nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn có thể coi chính là linh hồn
của truyện ngắn “ Lặng lẽ Sa Pa”

3. Phân tích, chứng minh (3,0 điểm)


a. Hoàn cảnh sống và công việc.
- Anh thanh niên là người có phong cách sống đẹp: cởi mở, hiếu khách, tâm
lí tế nhị, gọn gàng, ngăn nắp khoa học và đặc biệt là sự khiêm tốn, luôn lấy
người khác làm tấm gương để noi theo.

138
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
- Anh thanh niên là người lao động trẻ tuổi nhiệt tình, hăng say trong công
việc; luôn biết vượt qua hoàn cảnh khó khăn về thời tiết và thời gian để
hoàn thành xuất sắc công việc được giao, lập được thành tích cao góp phần
cùng bộ đội không quân bắn rơi máy bay Mĩ trên cầu Hàm Rồng.

- Anh thanh niên luôn có những suy nghĩ đúng đắn về công việc, cuộc sống
và tuổi trẻ: Anh yêu thích công việc mà mình đang làm, coi công việc là
nguồn vui và là người bạn không thể thiếu. anh yêu cuộc sống, luôn trăn trở
về lẽ sống cống hiến cho quê hương đất nước. Anh nghĩ rằng là thanh niên
mà chỉ nhớ phồn hoa đô hội thì xoàng

- Khái quát vấn đề (0,75 điểm)

+ Nhân vật anh thanh niên với những phẩm chất tốt đẹp đã tập trung làm nổi bật
chủ đề tư tưởng của truyện ngắn thực sự thở thành linh hồn của truyện ngắn
Lặng lẽ Sa Pa. Điều ấy được thể hiện rõ qua nghệ thuật tạo tình huống truyện
độc đáo, cách miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật tinh tế, cách khắc họa chân
dung nhân vật thông qua lời nói, cử chỉ, hành động… phù hợp.

+ Anh và những người lao động cống hiến thầm lặng đã góp phần làm cho cuộc
sống thêm đẹp, đất nước thêm giàu mạnh .

+ Anh thanh niên là đại diện cho những người lao động trẻ tuổi trong công cuộc
xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.

+ Có thể nói nhân vật anh thanh niên xứng đáng là tấm gương sáng cho thế hệ
trẻ noi theo.( HS liên hệ với những nhân vật , những tác phẩm khác cùng đề tài.)

*Khung điểm phần bài văn:

- Từ 4,0 – 4,5 điểm: Hiểu nhận định, hiểu nhân vật, có kỹ năng nghị luận, đủ ý.
Bố cục rõ, diễn đạt trôi chảy.

- Từ 3,0 – 3,75 điểm: Hiểu nhận định, hiểu nhân vật, có kỹ năng nghị luận
nhưng đôi chỗ còn lúng túng.

- Từ 2,0 – 2,75 điểm: Hiểu nhân vật, nhưng chưa có ý thức bám vào nhận định,
phân tích còn máy móc.

- Dưới 2,0 điểm: Chưa hiểu thấu đáo nhận định, nhân vật, phân tích sơ sài, diễn
đạt kém.

* Lưu ý chung:

139
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O
- Sau khi chấm điểm từng câu, giám khảo cân nhắc để cho điểm toàn bài một
cách hợp lí, đảm bảo đánh giá đúng năng lực học sinh.

- Điểm toàn bài lẻ 0,25 điểm, không làm tròn.

140
TÀI LIỆU ÔN THI VÀO 1O

You might also like