You are on page 1of 227

CÁC GIAI ĐOẠN VĂN HỌC VIỆT NAM

I.VĂN HỌC TRUNG ĐẠI:


1.Các tác phẩm, đoạn trích:
-Chuyện người con gái Nam Xương.
-Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh.
-Hoàng Lê NHất Thống Chí.
-truyện kiều.
-Truyện Lục Vân Tiên.
2. CÁC CHỦ ĐỀ CHÍNH:
-Người phụ nữ.
-Bộ mặt XHPK
-Người anh hùng.
3.GÍA TRỊ NỘI DUNG:
-Gía trị hiện thực.
- Gía trị nhân đạo.
II.VĂN HỌC HIỆN ĐẠI:
1.Chống pháp:(1945-1954)
-Đồng chí.
-Làng
-Bếp lửa.
2. Chống Mỹ:(1954-1975)
*Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội.(1954-1964) con người lao động mới.)
-Đoàn thuyền đánh cá.
-bếp lửa.
-Lặng lẽ Sa Pa.
*Miền Nam chống Mỹ.(1954-1975).
-Chiếc lược ngà.
-Lặng lẽ Sa Pa
-Bài thơ về tiểu đội xe không kính.
-Những ngôi sao xa xôi
3.SAU 1975 ĐẾN NAY: Hòa bình, Xây dựng, phát triển và hội nhập.
-Ánh trăng.
-Viếng lăng Bác.
-Mùa xuân nho nhỏ.
-Nói với con.
GỒM CÁC CHỦ ĐỀ
I. ĐẤT NƯỚC_ CON NGƯỜI
1.Người Lính: Chống Pháp-Chống Mỹ.
2.Tuổi Trẻ Việt Nam. (thế hệ trẻ)
-Trong kháng chiến; Phương Định, Người lái xe.
-Trong lao động: anh thanh niên ,cô kĩ sư….
3.Con người lao động mới: Lặng lẽ Sapa, đoàn thuyền đánh cá.
4. Tình yêu quê hương đất nước.(Niềm tự hào)
-Trong kháng chiến:
1
Ông Sáu ,ông Hai,anh thanh niên, Phương Định.
Đồng chí, bài thơ về tiểu đội xe không kính.
-Trong lao động:
+Nói với con
+Lặng lẽ Sa pa.
+Đoàn thuyền đánh cá.
+Mùa xuân nho nhỏ( khổ 2,3, khổ cuối.)
5.Gia đình:
+Bà cháu: Bếp lửa, tiếng gà trưa.
+Phụ tử:Nói với con, chiếc lược ngà.
->Liên hệ những bài khác cùng chủ đề.
6.Truyền Thống Đạo Lí: Uống Nước Nhớ Nguồn
+Ánh trăng
+Nói với con.
+Viếng lăng Bác.
+Bếp lửa. (khổ cuối)
7. Cống Hiến, Hiến Dâng.
+Lặng lẽ Sa Pa.
+ Viếng lăng Bác(khổ cuối)
+Mùa xuân nho nhỏ.
8.Tình Cảm Với Lãnh Tụ:
+Viếng lăng Bác, Làng.
9. Người Phụ Nữ Trong Xhpk:
Thúy Kiều, Vũ Nương.
II.THIÊN NHIÊN:
-Mùa thu (sang thu)
-Mùa xuân(Khổ 1. Mùa xuân nho nhỏ-Cảnh ngày xuân)
-Hình tượng ánh trăng:
+Đoàn thuyền đánh cá.
+Đồng chí.
+Ánh trăng

PHẦN VĂN HỌC


CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
2
Nguyễn Dữ
I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả:
- Nguyễn Dữ người huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.
- Ông là học trò giỏi của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
- Sống trong cảnh chế độ phong kiến mục nát, “dông bão nổ trăm miền”, xã hội
là cái “vực thẳm đời nhân loại” chỉ thấy “bóng tối đùn ra trận gió đen”, nên sau khi đỗ
hương cống, Nguyễn Dữ chỉ làm quan một năm rồi lui về ở ẩn. Đó là hình thức bày tỏ
thái độ chán nản trước thời cuộc của một trí thức tâm huyết nhưng sinh ra không gặp
thời.
2. Tác phẩm:
a. “Truyền kì mạn lục”:
- Là ghi chép tản mạn về những điều kì lạ vẫn được lưu truyền.
- Viết bằng chữ Hán, được xem là “Thiên cổ kì bút” ( áng văn hay ngàn đời ).
- Gồm 20 truyện, đề tài phong phú.
- Nhân vật:
+ Nhân vật chính thường là những người phụ nữ đức hạnh, khao khát sống cuộc
sống yên bình , hạnh phúc, nhưng lại bị những thế lực tàn bạo và lễ giáo phong kiến
nghiệt ngã đẩy họ vào những cảnh ngộ éo le, bi thương, bất hạnh vì oan khuất.
+ Hoặc một kiểu nhân vật khác, những trí thức tâm huyết với cuộc đời nhưng bất
mãn với thời cuộc, không chịu trói mình trong vòng danh lợi,sống ẩn dật để giữ được
cốt cách thanh cao.
b. Văn bản:
- “Chuyện người con gái Nam Xương” là truyền thứ 16, có nguồn gốc từ một
truyện cổ tích Việt Nam có tên là “Vợ chàng Trương”.
- So với truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, “Chuyện người con gái Nam
Xương” phức tạp hơn về tình tiết và sâu sắc hơn về cảm hứng nhân văn.
3. Tóm tắt văn bản:
“Chuyện người con gái Nam Xương” viết về một cuộc đời, một số phận đầy oan
khuất của một thiếu phụ tên là Vũ Thị Thiết. Đó là người con gái thùy mị, nết na, đức
hạnh và xinh đẹp. Lấy chồng là Trương Sinh chưa được bao lâu thì chàng phải đi lính,
nàng ở nhà phụng dưỡng mẹ già và nuôi con nhỏ.Để dỗ con, tối tối, nàng thường chỉ
bóng mình trên tường mà bảo đó là cha nó.Khi Trương Sinh về, lúc đó mẹ già đã mất,
đứa con bấy giờ đang tập nói, ngây thơ kể với chàng về người đêm đêm vẫn đến nhà
chàng. Sẵn có tính hay ghen, nay thêm hiểu lầm, Trương Sinh mắng nhiếc đuổi vợ đi.
Phẫn uất, Vũ Nương chạy ra bến Hoàng Giang tự vẫn. Khi Trương Sinh hiểu ra nỗi
oan của vợ thì đã muộn,chàng lập đàn giải oan cho nàng.
4. Bố cục: 3 phần:
- Phần 1: Từ đầu đến…”lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”:Cuộc hôn nhân giữa
Trương Sinh và Vũ Nương, những phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương.
- Phần 2: Tiếp đến …”nhưng việc trót đã qua rồi!” : Nỗi oan của Vũ Nương.
- Phần 3: Còn lại : Vũ Nương được giải oan.

II. Đọc – hiểu văn bản:


1. Nhân vật Vũ Nương:
a. Vẻ đẹp phẩm chất:

3
- Mở đầu tác phẩm, tác giả đã có lời giới thiệu bao quát về Vũ Nương “Tính đã
thuỳ mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp” tạo ấn tượng về một chân dung phụ nữ hoàn
hảo.
- Sau đó ông đi sâu miêu tả vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của nhân vật trong các
mối quan hệ khác nhau, trong các tình huống khác nhau.
* Trước hết Vũ Nương là người phụ nữ thuỷ chung, son sắc trong tình nghĩa
vợ chồng:
- Trong cuộc sống vợ chồng, biết Trương Sinh vốn có tính đa nghi, nên nàng
luôn “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”. Nàng
luôn giữ cho tình cảm gia đình đầm ấm, yên vui.Nàng là một người vợ hiền thục, khôn
khéo, nết na đúng mực!
- Hạnh phúc êm ấm tưởng bền lâu, không ngờ đất nước xảy ra binh biến, Trương
Sinh phải đầu quân ra trận ở biên ải xa xôi. Buổi tiễn chồng đi lính, Vũ Nương rót
chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình nghĩa, đằm thắm, thiết tha: “ Chàng đi
chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ
xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Ước mong của nàng thật
bình dị, lời lẽ dịu dàng ấy, chứng tỏ nàng luôn coi trọng hạnh phúc gia đình mà xem
thường mọi công danh phù phiếm. Nàng cảm thông trước những nỗi vất vả gian lao
mà chồng sẽ phải chịu đựng: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường.Giặc
cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín
quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng.”.Qua lời nói dịu
dàng,nàng cũng bộc lộ nỗi khắc khoải nhớ chồng của mình: “Nhìn trăng soi thành cũ,
lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình,
thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng,cũng sợ không có cánh hồng bay
bổng”. Đúng là lời nói, cách nói của một người vợ hết mực thùy mị, dịu dàng. Trái tim
ấy giàu lòng yêu thương, biết chịu đựng những thử thách, biết đợi chờ để yên lòng
người đi xa, thật đáng trân trọng biết bao!
- Khi xa chồng, Vũ Nương ngày ngày đợi chờ, ngóng trông đến thổn thức “Giữ
trọn tấm lòng thủy chung, son sắt”, “tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liêu
tường hoa chưa hề bén gót”. Nỗi nhớ thương dài theo năm tháng “Mỗi khi thấy bướm
lượn đầy vườn,mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn
được”. Nàng vừa thương chồng, vừa nhớ chồng, vừa thương xót cho chính mình đêm
ngày phải đối mặt với nỗi cô đơn vò võ. Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy của
VũNương cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong mọi thời loạn
lạcxưa nay:
"… Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong…"
(Chinh phụ ngâm)
-> Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của
Vũ Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung, thương nhớ đợi chờ chồng của
nàng.
- Khi hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ: Vũ Nương ra sức cứu vãn, hàn gắn.
Khi người chồng trút cơn ghen bóng gió lên đầu, Vũ Nương đã ra sức thanh minh,
phân trần. Nàng đã viện đến cả thân phận và tấm lòng của mình để thuyết phục chồng
“Thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu.....cách biệt ba năm giữ gìn một
tiết.....” Những lời nói nhún nhường tha thiết đó cho thấy thái độ trân trọng chồng,
trân trọng gia đình nhà chồng, niềm tha thiết gìn giữ gia đình nhất mực của Vũ Nương.
4
- Rồi những năm tháng sống ở chốn làng mây cung nước sungsướng nàng vẫn
không nguôi nỗi thương nhớ chồng con.
Vừa gặp lại Phan Lang, nghe Lang kể về tình cảnh gia đình nàng đã ứa
nước mắt xót thương. Mặc dù đã nặng lời thề sống chết với Linh Phi nhưng nàng
vẫn tìm cách trở về với chồng con trong giây lát để nói lời đa tạ tấm lòng chồng. Rõ
ràng trong trái tim ngườ iphụ nữ ấy, không bợn chút thù hận, chỉ có sự yêu thương và
lòng vị tha.
* Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo với mẹ chồng, một người mẹ
hiền đầy tình yêu thương con.
- Trong ba năm chồng đi chiến trận, một mình nàng vừa làm con vừa làm cha
vừa làm mẹ để chăm sóc phụng dưỡng mẹ chồng, nuôi dạy con thơ.
- Với mẹ chồng, nàng là một cô con dâu hiếu thảo.Chồng xa nhà, nàng đã thay
chồng phụng dưỡng mẹ chu đáo. Khi bà ốm nàng đã thuốc thang lễ bái thần phật và
lấy những lời khôn khéo để khuyên răn để bà vơi bớt nỗi nhớ thương con. Đến khi bà
mất, nàng đã hết lời thương xót, ma chay tế lễ cẩn trọng hệt như với cha mẹ đẻ của
mình. Cái tình ấy quả có thể cảm thấu cả trời đất cho nên trước lúc chết người mẹ già
ấy đã trăng trối những lời yêu thương, độngviên, trân trọng con dâu “Sau này, trời xét
lòng lành, ban cho phúc đức giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết
chẳng phụ lòng con như con đã chẳng phụ mẹ".
- Với con thơ nàng hết sức yêu thương, chăm chút. Sau khi xa chồng đầy tuần,
nàng sinh bé Đản, một mình gánh vác cả giang sơn nhà chồng nhưng chưa khi nào
nàng chểnh mảng việc con cái. Chi tiết nàng chỉ bóng mình trên vách và bảo đó là cha
Đản cũng xuất phát từ tấm lòng của người mẹ: để con trai mình bớt đi cảm giác thiếu
vắng tình cảm của người cha.
=> Nguyễn Dữ đã dành cho nhân vật một thái độ yêu mến, trân trọng qua
từng trang truyện, từ đó khắc họa thành công hình tượng người phụ nữ với đầy
đủ phẩm chất tốt đẹp.

b. Số phận oan nghiệt, bất hạnh:


* Là nạn nhân của chế độ nam quyền, một xã hội mà hôn nhân không có
tình yêu và tự do.
- Cái thua thiệt đầu tiên làm nên bất hạnh của Vũ Nương là thua thiệt về vị thế.
Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh có phần không bình đẳng. Vũ Nương
“vốn con kẻ khó” còn Trương Sinh lại là “nhà giàu” đến độ khi muốn Sinh có thể xin
mẹ trăm lạng vàng để cưới Vũ Nương về. Sự cách bức giàu nghèo ấy khiến Vũ Nương
sinh mặc cảm và cũng là cái thế khiến Trương Sinh có thể đối xử thô bạo, gia trưởng
với nàng.
* Là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa:
- Nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm không chỉ là nạn nhân của chế độ phụ
quyền phong kiến mà còn là nạn nhân của chiến tranh phong kiến, của cuộc nội chiến
huynh đệ tương tàn. Nàng lấy Trương Sinh, cuộc sống hạnh phúc, cuộc sống vợ chồng
kéo dài chưa được bao lâu thì chàng phải đi lính để lại mìnhVũ Nương với mẹ già và
đứa con còn chưa ra đời. Suốt ba năm, nàng phải gánh vác trọng trách gia đình, thay
chồng phụng dưỡng mẹ già, chăm sóc con thơ, phải sống trong nỗi nhớ chồng triền
miên theo năm tháng.
- Chiến tranh đã làm xa cách, tạo điều kiện cho sự hiểu lầm trở thành nguyên
nhân gây bất hạnh. Đó cũng là ngòi nổ cho thói hay ghen, đa nghi của Trương Sinh
nảy nở, phát triển, dẫn đến cái chết oan uổng của Vũ Nương.
5
* Đỉnh điểm của bi kịch là khi gia đình tan vỡ, bản thân phải tìm đến cái
chết.
- Là người vợ thuỷ chung nhưng nàng lại bị chồng nghi oan và đối xử bất công,
tàn nhẫn.
- Nghe lời ngây thơ của con trẻ Trương sinh đã nghi oan cho vợ, mắng nhiếc,
đánh đuổi nàng đi bất chấp lời van xin khóc lóc của nàng và lời biện bạch của hàng
xóm.
- Vũ Nương đau đớn vô cùng vì tiết giá của mình bị nghi kị,bôi bẩn bởi chính
người chồng mà mình yêu thương.
- Bế tắc, Vũ Nương đã phải tìm đến cái chết để giải nỗi oan ức, thoát khỏi cuộc
đời đầy đau khổ, oan nghiệt.
* Cái kết thúc tưởng là có hậu hoá ra cũng chỉ đậm tô thêm tính chất bi kịch
trong thân phận Vũ Nương.
- Lược thuật lại kết thúc tác phẩm.
- Phân tích:
+ Có thể coi đây là một kết thúc có hậu, thể hiện niềm mơ ước của tác giả về một
kết thúc tốt lành cho người lương thiện, niềm khát khao một cuộc sống công bằng với
cái thiện cái đẹp sẽ chiến thắng cái xấu, cái ác.
+ Nhưng sâu xa, cái kết thúc ấy không hề làm giảm đi tính chất bi kịch của tác
phẩm. Vũ Nương hiện về uy nghi, rực rỡ nhưng đó chỉ là sự hiển linh trong thoáng
chốc, là ảo ảnh ngắn ngủi và xa xôi. Sau giây phút đó nàng vẫn phải về chốn làng mây
cung nước, vợ chồng con cái vẫn âm dương đôi ngả. Hạnh phúc lớn nhất đời người
đàn bà ấy là được sum họp bên chồng bên con cuối cùng vẫn không đạt được. Sự trở
về trong thoáng chốc và lời từ biệt của nàng đã hé ra cái sự thực cay đắng là cái nhân
gian đầy oan nghiệt, khổ đau này không có chốn dung thân cho người phụ nữ vì thế
mà “Thiếp chẳng thể trở lại chốn nhân gian được nữa”
=> Tuy có những phẩm chất tâm hồn đáng quý nhưng Vũ Nương đã phải
chịu một số phận cay đắng,oan nghiệt. Nghịch lí ấy tự nó đã là tiếng nói tố cáo xã
hội phong kiến bấtcông phi lí đương thời chà đạp lên hạnh phúc của con người.
=> Xây dựng hình tượng Vũ Nương, một mặt nhà văn ngợi ca những phẩm
chất tâm hồn đáng quý của người phụ nữ, mặt khác thể hiện thái độ cảm thông
thương xót cho số phận bất hạnh của họ và cực lực lên án xã hội phong kiến
đương thời bất công, phi lí chà đạp, rẻ rúng con người đặc biệt là người phụ nữ.
Có lẽ chưa cần nhiều, chỉ cần khai thác chân dung Vũ Nương đã đủ thấy chiều
sâu hiện thực và nhân đạo của ngòi bút Nguyễn Dữ.
? Câu hỏi: Theo em, những lí do nào đã dẫn đến bi kịch oan khuất mà Vũ
Nương phải chịu?
=> Gợi ý:
- Gây nên nỗi oan nghiệt trong cuộc đời Vũ Nương trước hết là lời nói ngây thơ
của con trẻ nhưng sau đó là là tính ghen tuông của người chồng đa nghi vũ phu. Lời
con trẻ thì ngây thơ vô tội nhưng lòng ghen tuông của người lớn thì cố vin theo để hắt
hủi, ruồng rẫy cho hả dạ. ( Trực tiếp )
- Nhưng nói cho cùng Trương Sinh phũ phàng với vợ là do bản tính anh ta vốn
vậy và còn vì đằng sau anh ta có sự hậu thuẫn của cả mọt chế độ nam quyền trọng nam
khinh nữ. Lễ giáo phong kiến hà khắc cho người đàn ôngquyền hành vô độ với gia
đình mình đặc biệt là với người phụ nữ cho nên không phảingẫu nhiên Hồ Xuân
Hương đã so sánh phụ nữ với chiếc bánh trôi nước “rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn” bởi lẽ
trong xã hội nam quyền ấy thì đàn ông quả thực là thượng đế có thể "nặn" ra hình dáng
6
cuộc đời của người phụ nữ. TrươngSinh đã là một tội nhân bức tử Vũ Nương nhưng
cuối cùng y vẫn vô can ngay cả khi nỗi oan khiên cuả Vũ Nương đã được làm sáng tỏ.
( Gián tiếp )
- Ngoài ra cũng còn phải tính đến nhân tố khác cấu thành bi kịch Vũ Nương đó là
chiến tranh phong kiến, chính chiến tranh phong kiến đã gây nên cảnh sinh li và sau đó
góp phần tạo nên cảnh tử biệt. Nếu không có cảnh chiến tranh loạn li thì sẽ không xảy
ra tình huống chia cách để rồi dẫn đến bi kịch oan khuất trên.(Gián tiếp )
- Liên hệ với thời điểm ra đời của tác phẩm là thế kỉ XVI khi chiến tranh phi
nghĩa giữa các tập đoàn phong kiến Trịnh - Mạc, Lê - Trịnh kéo dài liên miên gây nên
bao thảm cảnh sẽ thấy ý nghĩa hiện thực và hàm ý tố cáo của tác phẩm rất sâu sắc.
2. Các chi tiết kì ảo:
a. Những chi tiết kì ảo:
- Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa.
- Phan Lang lạc vào động rùa của Linh Phi, được đãi yến vàgặp, trò chuyện với
Vũ Nương; được trở về dương thế.
- Vũ Nương hiện về sau khi Trương Sinh lập đàn giải oan cho nàng ở bến Hoàng
Giang.
b. Ý nghĩa:
- Tăng sức hấp dẫn bằng sự li kì và trí tượng tượng phong phú.
- Hoàn chỉnh thêm những nét đẹp vốn có của Vũ Nương, một người dù đã ở thế
giới khác, vẫn quan tâm đến chồng con, nhà cửa, phần mộ tổ tiên, khao khát được
phục hồi danh dự.
- Tạo nên một kết thúc phần nào có hậu, thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân
ta về sự công bằng: người tốt dù có phải trải qua bao oan khuất, cuối cùng sẽ được
minh oan.
- Khẳng định niềm cảm thương của tác giả đối với sự bi thảmcủa người phụ nữ
trong xã hội phong kiến.

3. Ý nghĩa chi tiết cái bóng:


a. Cách kể chuyện:
- Cái bóng là một chi tiết đặc sắc, là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo làm cho câu
chuyện hấp dẫn hơn so với truyện cổ tích.
- Cái bóng là đầu mối, điểm nút của câu chuyện. Thắt nút là nó, mà mở nút cũng
là nó.
b. Góp phần thể hiện tính cách nhân vật:
- Bé Đản ngây thơ
- Trương Sinh hồ đồ, đa nghi.
- Vũ Nương yêu thương chồng con.
III. Tổng kết:
1. Nội dung:
Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, “Chuyện
người con gái Nam Xương” thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của
người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền
thống của họ.
2. Nghệ thuật:
Tác phẩm là một áng văn hay, thành công về nghệ thuật xây dựng truyện, miêu tả
nhân vật, kết hợp tự sự với trữ tình.

7
BÀI THAM KHẢO
Suy nghĩ của em về thân phận người phụ nữa qua nhân vật Vũ Nương ở Chuyện
người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ
I. Mở bài
Người phụ nữ là đề tài quen thuộc được thể hiện trong vãn học thời trung đại.
Viết về họ, Hồ Xuân Hương đã rất thành công với bài thơ "Bánh trôi nước", đại thi
hào Nguyền Du với kiệt tác "Truyện Kiều" và Nguyễn Dữ - học trò của Nguyền Bỉnh
Khiêm với "Chuyện người con gái Nam xương" - thiên thứ 16 của "Truyền kì mạn
lục". Qua nhân vật Vũ Nương, câu chuyện đem đến bao suy tư, trăn trở cho người đọc
về thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy bất công.
II. Thân Bài
1. Khái quát (Dẫn dắt vào bài)
Chuyện người con gái Nam Xương xoay quanh về cuộc đời và số phận của Vũ
Nương, một người con gái nhan sắc, đức hạnh. Nàng được gả cho Trương Sinh, con
nhà hào phú ít học lại hay ghen. Cuộc sống gia đình đang êm ấm thì Trương Sinh phải
đi lính. Chàng đi rồi, Vũ Nương ở nhà một mình sinh và nuôi con, chăm sóc và lo ma
chay cho mẹ chồng chu đáo. Nàng luôn một lòng chung thuỷ đợi Trương Sinh trở về.
Đêm đêm, nàng thường chỉ tay trên vách nói bóng của mình là cha của bé. Trớ trêu
thay, giặc tan Trương Sinh trở về, niềm vui chưa được bao lâu, tin lời con nhỏ, nghi
ngờ vợ thất tiết, nhục mạ, đánh đuổi nàng đi. Phẫn uất vì mối oan nói không nên lời,
Vũ Nương nhảy sông Hoàng Giang tự vẫn. Qua câu chuyện, ta thấy rằng phụ nữ là nạn
nhân của chế độ phong kiến bất công, chế độ nam, nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa.
Cuộc đời họ là chuỗi dài những khổ đau và bất hạnh.
2. Phân tích:
a, Người phụ nữ nạn nhân của chế độ nam quyền
Số phận của Vũ Nương cùng là số phận của biết bao phụ nữ trong xã hội phong
kiến. Nàng phải chịu bao hủ tục, lề giáo khắt khe, ngặt nghèo. Biết nàng "tính tình
thuỳ mị, tư dung lại tốt đẹp" nên Trương Sinh mến vì dung hạnh mới xin mẹ trăm lạng
vàng cưới về. Đày là cuộc hôn nhân không bình đẳng, nói đúng hơn là mua bán, bởi lẽ
nó không có tình yêu, không có sự rung động, không có sự đồng thuận từ hai trái tim.
Sự sắp đật của con nhà giàu, lắm tiền nhiều của, muốn gì được nấy, sắp đật cho con
nhà nghèo khó "cha, mẹ đật đâu con ngồi đó" không thể tự mình quyết định hạnh phúc
của mình. Dù là Vũ Nương luôn giữ khuôn phép thì cuộc sống vợ chồng vẫn có nguy
cơ tan vờ và cũng là cái thế để Trương Sinh phô trương tính tình độc đoán, gia trưởng,
đối xử với vợ vũ phu, thô bạo.
- Trương Sinh vốn ít học, lại có tính đa nghi và hay ghen, do vậy sự nghi kị, ngờ
vực làm mầm mong của sự bất hòa đã ủ sẵn trong gia đình. Để rồi, sau ba năm xa
cách, khi trở về tưởng Trương Sinh sẽ mang lại hanh phúc cho gia đình thì cũng lại là
lúc tại họa ập xuống cuộc đời Vũ Nương. Chỉ vì lời nói ngây thơ của bé Đản: “Ô hay!
Ông cũng là cha tôi ư? Mà ông lại biêt nói chứ không giống như cha tôi trước kia...”,
làm cho Trương Sinh ngờ vực, hiểu lầm vợ hư hỏng. Dù Vũ Nương có tha thiết giải
bày, có hết lời phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình, dù họ hàng làng xóm có hết
lòng khuyên can và biện hộ cho nàng thì Trương Sinh cũng không hề đếm xỉa tới, mà
chỉ một mực nghi oan cho vợ. Rồi từ chỗ “la um lên cho hả giận”, Trương Sinh đã
mắng nhiếc, đuổi vợ đi. Phải chăng, xã hội phong kiến với chế độ nam quyền độc
đoán, với thói “trọng nam khinh nữ” bám chặt vào huyết quản đã dung túng, cho phép
người đàn ông được quyền coi thường, rẻ rúng và đối xử thô bạo với người phụ nữ?
Thương nhớ chồng là thế, lại bị chồng ruồng rẫy, gạt bỏ. Giữ gìn khuôn phép, rất mực
8
thủy chung lại bị coi là thất tiết, chịu tiếng nhuốc nhơ...Nàng không hiểu vì sao bị đối
xử bất công, bị mắng nhiếc và đuổi đi, không có quyền được tự bảo vệ ngay cả khi có
họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho. Hanh phúc gia đình, thú vui nghi gia
nghi thất, niềm khao khát của cả đời nàng đã tan vỡ, tình yêu không còn “bình rơi trâm
gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió”, cả nỗi đau khổ chờ chồng
đến hóa đá trước đây,cũng không còn có thể có lại được nữa. Thất vọng đến tột cùng,
cuộc hôn nhân đã không có cách nào hàn gắn nổi, Vũ Nương đành mượn sông Hoàng
Giang rửa sạch nỗi oan nhục, giãi bày tấm lòng trong trắng của mình. Lời than của
nàng như lời nguyền xin thần sông chứng giãm nỗi oan khuất và đức hạnh của nàng:
“Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng
chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ
tiết, trinh bạch gìn lòng vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương, xuống đất xin làm cỏ ngu
mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chống dối con, dưới xin làm cho cá tôm, trên xin
làm cơ cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”.
-> Qua tác phẩm, ta thấy Vũ Nương đã nhiều lần gắng gượng để vượt lên số
phận nhưng cuộc đời nàng không thoát khỏi là nạn nhân cùa chê độ nam quyên độc
đoán, chà đạp và ức hiêp con người.
-> Cái chết của Vũ Nương thực chất là do bị chồng bức tử - một cái chết đầy oan
ức. Vậy mà, Trương Sinh thấy nàng tự tận chỉ một chút động lòng mà không hề ân
hận, day dứt. Ngay cả khi, đứa con trỏ ta) vào bóng chàng trên vách nói là cha, chàng
hiểu rõ nỗi oan của vợ thì cũng coi là việc đã qua rồi. Như thế, chuyện danh dự,
chuyện sinh mệnh của người phụ nữ bị tùy tiện định đoạt bời người chồng, người đàn
ông mà không có hành lang đạo lí, không được dư luận xã hội bảo vệ, chở che. Nỗi
oan của Vù Nương đã vượt ra ngoài phạm vi gia đình, là một trong muôn vàn oan
khuất của cái xã hội vùi dập thân phận con người, nhất là người phụ nữ sống trong xã
hội đầy rẫy những oan trái, bất công, quyền sông của con người không được đảm bảo,
người phụ nữ với thân phận “bèo dạt mây trôi” có thể gặp bao nhiêu tai họa giáng
xuông bât kì lúc nào, vì những nguyên cớ vu vơ không thể tưởng tượng. Rõ ràng, xã
hội phong kiên đã sinh ra bao Trương Sinh với đầu óc gia trưởng, độc đoán, là nguyên
nhân sâu xa cùa những đau khổ mà người phụ nữ phải chịu.
b. Người phụ nữ là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa:
Không chỉ là nạn nhân của chế độ nam quyền độc đoán, người phụ nữ còn là nạn
nhân của chiến tranh phong kiến. Cả cuộc đời Vũ Nương, chỉ vui thú nghi gia nghi
thất vậy mà về làm vợ Trương Sinh, cuộc sông vợ chông “sum họp chưa thỏa tình
chăn gôi,chia phôi vì động việc lửa binh”. Buổi Trương Sinh ra đi, mẹ già bịn rịn, vợ
trẻ đương bụng mang dạ chửa chưa khuyến luyến sự thể rồi sẽ ra sao đã khiến mọi
người có mặt ở đó đêu phải ứa hai hàm lệ: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám
mong được đeo ân hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ,chỉ xin ngày về mang theo được hai
chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chi e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng
còn lẩn lút, quân triều còn gian lao,rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì,
khiến thiếp ôm nỗi quan hoài,mẹ già triền miên lo lắng.”
Những câu văn biền ngẫu, sóng đôi như trái tim người vợ trẻ phập phồng lo sợ
cho người chồng phải đi lính thú. Chiến tranh xa cách, mẹ già cũng vì thương nhớ con
mà sinh bệnh rồi qua đời. Con thơ đươc sinh ra không biết mặt cha, vợ trẻ nhớ chồng
chỉ còn biết trỏ vào bóng mình trên vách, bảo là cha cua bé...Chính chiến tranh làm
cho gia đình li tán, vợ chồng xa cách dẫn đến hiểu lầm. Cũng chính cái mối nghi ngờ
không thể gỡ ra ấy của Trương Sinh đã trở thành nguyên nhân gây bất hạnh cho cuộc
đời Vũ Nương. Nếu không có chiến tranh, Trương Sinh không bị bắt đi lính,thì đâu bé
9
Đản không chịu nhận cha, thì đâu Vũ Nương phải chịu nỗi oan tày trời dẫn đến cái
chết thương tâm. Rõ ràng, chiến tranh phong kiến đã gây ra cảnh sinh li và cũng góp
phần dẫn đến cảnh từ biệt, làm tan nát bao nhiêu gia đình.
=> Có thể nói,sống trong xã hội phong kiến bất công, Vũ Nương cũng như bao
người phụ nữ khác - người con gái bình dân trong “Bánh trôi nước”, Thúy Kiều, Đạm
Tiên trong “Truyện Kiều” đều phải song long đong, trôi dạt, phải tìm đến cái chết giải
nỗi oan ức, phải thoát khỏi cuộc đời đầy khổ đâu ở chốn nhân gian. Đại thi hào
Nguyễn Du đã khái quát về cuộc đời, thân phận người phụ nữ bằng tiếng kêu đầy ai
oán:
“ Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung"'.
c. Tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Dữ:
- Viết về cuộc đời và số phận bi thảm của Vũ Nương, của người phụ nữ trong xã
hội phong kiến, tác giả Nguyễn Dữ đã tố cáo, lên án xã hội bất công, vô nhân đạo, chà
đạp lên quyền sống của con người. Đây cũng là tiếng kêu thương đầy nước mắt, là sự
xót xa thương cảm của tác giả trước nôi oan khiên mà người phụ nữ phải gánh chịu.
III. Kết bài:
Qua “Chuyện người con gái Nam Xương”, ta xót xa thương cảm cho người phụ
nữ bất hạnh trong xã hội xưa bao nhiêu, ta càng căm giận cái xã hội thối nát, bất công
đã đẩy người phụ nữ vào vòng oan trái bấy nhiêu. Đọc tác phẩm, ta lại càng thêm nâng
niu, trân trọng cái tài, cái tâm của người con huvện Thanh Miện, Hải Dương dành cho
những thân phận bọt bèo trong xã hội phong kiến đương thời.

HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ


(Hồi thứ mười bốn – Trích)
I.Tìm hiểu chung:
1. Tác giả:
- Ngô gia văn phái là một nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì, ở làng Tả Thanh
Oai, Hà Nội.
- Hai tác giả chính:
+Ngô Thì Chí (1753-1788), em ruột Ngô Thì Nhậm, làm quan dưới thời Lê
Chiêu Thống, tuyệt đối trung thành với nhà Lê, từng chạy theo Lê Chiêu Tống khi
Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh.Dâng “Trung hưng
sách” bàn kế khôi phục nhà Lê. Sau đó, được Lê Chiêu Thống cử đi Lạng Sơn chiêu
tập những kẻ lưu vong lập nghĩa binh chống lại Tây Sơn. Trên đường đi, ông bị bệnh
mất tại Bắc Ninh.Nhiều tài liệu nói, ông viết 7 hồi đầu của tác phẩm.
+Ngô Thì Du (1772-1840) anh em chú bác ruột với Ngô Thì Chí, học giỏi nhưng
không đỗ đạt. Dưới triều Tây Sơn, ông sống ẩn ở Hà Nam.Thời nhà Nguyễn ông làm
quan đến năm 1827 thì về nghỉ. Ông là tác giả của 7 hồi tiếp theo.
- Ba hồi cuối có thể do 1 người khác viết đầu thời Nguyễn.
2. Tác phẩm:
- "Chí" là thể văn ghi chép sự vật, sự việc.
- Trong văn học Việt Nam thời trung đại, "Hoàng lê nhất thống chí" là một tác
phẩm văn xuôi chữ Hán có quy mô lớn nhất và đạt được những thành công xuất sắc cả
về nội dung cũng như nghệ thuật.
- Với nội dung viết về những sự kiện lịch sử diễn ra trong khoảng ba mươi năm
cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX (cuối Lê đầu Nguyễn),tác phẩm chịu ảnh hưởng lối

10
viết tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc cũng như quan niệm văn sử bất phân - nét
đặc thù của văn học trung đại Việt Nam.
- Nếu xét về tính chân thực lịch sử, tác phẩm có thể được xếp vào loại kí sự lịch
sử. Nhưng xét về hình thức kết cấu, nghệ thuật khắc họa nhân vật, cách miêu tả, tự
sự... thì tác phẩm lại mang đậm chất tiểu thuyết. Có lẽ vì thế mà "Hoàng Lê nhất thống
chí" được xếp vào loại tiểu thuyết lịch sử.
- Tác phẩm gồm có tất cả 17 hồi, trên đây trích phần lớn hồi thứ mười bốn, viết
về sự kiện vua Quang Trung đại phá quân Thanh.
*Câu hỏi 1, sách giáo khoa, trang 72: Tìm đại ý và bố cục đoạn trích:
=> Trả lời:
- Đại ý:
+ Đoạn trích tái hiện một sự kiện lịch sử trọng đại: cuộc tiến quân thần tốc ra
Thăng Long và chiến thắng vĩ đại của quân ta dưới sự chỉ huy của Quang Trung.
+ Đồng thời, đoạn trích còn thể hiện sự thảm bại của quan quân nhà Thanh và
vua tôi Lê Chiêu Thống.
- Bố cục: 3 đoạn
+Đoạn 1:(từ đầu đến “hôm ấy nhằm vào ngày 25 tháng chạp năm Mậu Thân
(1788)): Được tin báo quân Thanh chiếm Thăng Long, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ
lên ngôi hoàng đế và thân chinh cầm quân dẹp giặc.
+Đoạn 2 (tiếp đến “rồi kéo vào thành”) : Cuộc hành quân thần tốc và chiến
thắng lẫy lừng của vua Quang Trung.
+Đoạn 3: Đoạn còn lại : Sự đại bại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát
của vua tôi Lê Chiêu Thống.
3. Tóm tắt hồi thứ 14:
- Nguyễn Huệ nghe tin quân Thanh đến Thăng Long giận lắm liền họp các tướng
sĩ định thân chinh cầm quân đi ngay. Tướng sĩ xin Bắc Bình Vương lên ngôi để làm
yên lòng người.Nguyễn Huệ cho đắp đàn trên núi tế cáo trời đất lên ngôi Hoàng đế lấy
niên hiệu là Quang Trung. Ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân hạ lệnh xuất quân.
-Đến Nghệ An, Quang Trung cho tuyển thêm hơn 1 vạn lính mở cuộc duyệt
binh.Đến Tam Điệp mở tiệc khao quân, chia quân sĩ làm 5 đạo. Đúng tối 30 tết lập tức
lên đường.
-Trên đường tiến quân ra Bắc, những toán quân Thanh do thám bị bắt sống. Ngày
03 tháng giêng năm Kỉ Dậu, đồn Hà Hồi bị hạ. Mờ sáng ngày 05 tiến đánh đồn Ngọc
Hồi. Quân Thanh đại bại. Thái thú Sầm Nghi Đống thắt cổ tự vẫn. Tôn Sĩ Nghị hoảng
hốt cuống cuồng chạy mất mật. Quân Thanh tranh nhau qua cầu tháo chạy rơi xuống
nước nhiều không kể xiết. Vua tôi Lê Chiêu Thống dìu dắt nhau chạy trốn sang đất
Bắc.
II. Đọc - hiểu văn bản:
Câu hỏi 2, sgk,trang 72: Qua đoạn trích tác phẩm, em cảm nhận hình ảnh người
anh hùng dân tộc Quang Trung – Nguyễn Huệ như thế nào? Theo em, nguồn cảm
hứng nào đã chi phối ngòi bút tác giả khi tạo dựng hình ảnh người anh hùng dân tộc
này?
1. Hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ:
a. Con người hành động với tính cách mạnh mẽ, quyết đoán:
* Trong mọi tình huống, Nguyễn Huệ luôn thể hiện là con người hành động với
tính cách mạnh mẽ, quyết đoán. Ông luôn xông xáo, giải quyết nhanh gọn và có chủ
đích. Điều đó thể hiện qua từng thái độ, từng hành động của nhân vật:

11
- Nhận được tin giặc chiếm Thăng Long thì “giận lắm”,”định thân chinh cầm
quân đi ngay”.
- Chỉ trong vòng hơn một tháng, Nguyễn Huệ đã làm rất nhiều việc lớn:
+ Tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế để “chính vị hiệu”,”giữ lấy lòng người”.
+ Tự mình “đốc suất đạo binh” ra Bắc.
+ Tìm gặp người cống sĩ ở huyện La Sơn là Nguyễn Thiếp để hỏi kế sách.
+ Tuyển mộ quân sĩ và “mở cuộc duyệt binh lớn” ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ.
b. Con người có trí tuệ sáng suốt, nhạy bén trước thời cuộc:
- Sáng suốt trong việc phân tích tình hình thời cuộc, thế tương quan giữa ta và
địch. Trong lời phủ dụ quân sĩ ở Nghệ An:
+ Nguyễn Huệ đã khẳng định chủ quyền của dân tộc(“đất nào sao ấy, đều đã
phân biệt rõ ràng”) và lên án hành động xâm lăng phi nghĩa, trái đạo trời của quân
Thanh, nêu bật dã tâm của chúng(“bụng dạ ắt khác…cướp bóc nước ta, giết hại nhân
dân, vơ vét của cải”)
+ Nhắc lại truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta.
+ Kêu gọi quân lính đồng tâm hiệp lực, ra kỉ luật nghiêm.
=> Lời phủ dụ có thể xem như một bài hịch ngắn gọn mà ý tứ phong phú, sâu xa,
nó tác động, kích thích lòng yêu nước, ý chí quật cường của dân tộc.
- Sáng suốt trong việc xét đoán và dùng người: Thể hiện qua cách xử trí vừa có
lí vừa có tình với các tướng sĩ tại Tam Điệp.Ông rất hiểu tướng sĩ, hiểu tường tận
năng lực của bề tôi, khen chê đúng người đúng việc.
c. Con người có ý chí quết thắng và tầm nhìn xa trông rộng:
- Mới khởi binh, chưa lấy được tấc đất nào, vậy mà Quang Trung đã tuyên bố
chắc nịch “phương lược tiến đánh đã có sẵn”, “Chẳng qua mươi ngay có thể đuổi
được người Thanh”.
- Biết trước kẻ thù “lớn gấp mười nước mình”, bị thua một trận “ắt lấy làm thẹn
mà lo mưu báo thù” khiến việc binh đao không bao giờ dứt nên Nguyễn Huệ còn tính
sẵn cả kế hoạch ngoại giao sau chiến thắng để có thời gian “yên ổn mà nuôi dưỡng lực
lượng”, làm cho nước giàu quân mạnh.
d. Con người có tài dụng binh như thần:
- Cuộc hành quân thần tốc của nghĩa quân Tây Sơn do vua Quang Trung chỉ huy:
Ngày 25 tháng Chạp xuất quân từ Phú Xuân(Huế),ngày 29 đã tới Nghệ An, vượt
khoảng 350km qua núi, qua đèo. Đến Nghệ An, vừa tuyển quân, tổ chức đội ngũ, vừa
duyệt binh, chỉ trong vòng một ngày. Hôm sau, tiến quân ra Tam Điệp(cách khoảng
150km). Và đêm 30 tháng Chạp đã “lập tức lên đường”, tiến quân ra Thăng Long. Mà
tất cả đều là đi bộ. Có sách còn nói vua Quang Trung sử dụng cả biện pháp dùng võng
khiêng, cứ hai người khiêng thì một người được nằm nghỉ, luân phiên nhau suốt đêm
ngày. Từ Tam Điệp ra Thăng Long (khoảng hơn 150km), vừa hành quân, vừa đánh
giặc mà vua Quang Trung định kế hoạch chỉ trong vòng 7 ngày, mồng 7 tháng Giêng
sẽ vào ăn Tết ở Thăng Long. Trên thực tế, đã thực hiện kế hoạch sớm hai ngày: trưa
mồng 5 đã vào Thăng Long.
- Hành quân xa liên tục như vậy, thường quân đội sẽ mệt mỏi,rã rời, nhưng nghĩa
binh Tây Sơn “cơ nào đội ấy vẫn chỉnh tề”,”từ quân đến tướng, hết thảy cả năm đạo
quân đều vâng mệnh lệnh, một lòng một chí quyết chiến quyết thắng”. Đó là nhờ tài
năng quân sự lỗi lạc ở người cầm quân: hơn một vạn quân mới tuyển đặt ở trung quân,
còn quân tinh nhuệ từ đất Thuận Quảng ra thì bao bọc ở bốn doanh tiền, hậu, tả, hữu.
- Tổ chức các trận đánh hợp lí, ít hao tổn binh lực:
+ Trận Hà Hồi …không cần đánh.
12
+ Trận Ngọc Hồi…được thành.
e. Hình ảnh vị anh hùng lẫm liệt trong chiến trận:
- Là một tổng chỉ huy chiến dịch thực sự: thân chinh cầm quân ra trận, vừa hoạch
định chiến lược, sách lược, vừa trực tiếp tổ chức quân sĩ, bài binh bố trận, vừa tự mình
thống lĩnh một mũi tiến công, cưỡi voi đi đốc thúc, xông pha nơi trận tiền.
- Hình ảnh người thủ lĩnh ấy đã làm quân sĩ nức lòng, tạo niềm tin quyết chiến
quyết thắng, đồng thời khiến kẻ thù kinh hồn bạt vía, rơi vào cảnh đại bại nhanh
chóng.
- Ngòi bút trần thuật như thần làm hình ảnh vị vua xung trận giữa làn đạn, cưỡi
voi tả đột hữu xung, áo bào đỏ đã sạm đen khói súng thực là lẫm liệt.
2. Chân dung bọn cướp nước và bán nước:
- Đối lập với hình ảnh nghĩa quân Tây Sơn là chân dung của kẻ thù xâm lược.
Kéo quân vào Thăng Long rất dễ dàng, như "đi trên đất bằng", quân Thanh đã quá chủ
quan, cho là vô sự, không đề phòng gì. Lính thì rời doanh trại để đi kiếm củi, buôn bán
ở chợ;tướng thì suốt ngày lo yến tiệc, cờ bạc. Vì vậy, khi bị quân Tây Sơn tiến công
bất ngờ đúng vào thời điểm Tết Âm lịch, quân Thanh ở các thành đã không kịp trở
tay, "rụng rời sợ hãi",chống không nổi "bỏ chạy toán loạn,giày xéo lên nhau mà
chết","thây chất đầy đồng, máu chảy thành suối" đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà
tắc nghẽn không chảy được nữa. Nhục nhã nhất là hình ảnh Tôn Sĩ Nghị "sợ mất mật,
ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, dẫn bọn lính kị mã của mình
chuồn trước qua cầu phao, rồi nhằm hướng bắc mà chạy"...
- Số phận những kẻ bán nước là Lê Chiêu Thống và những kẻ bề tôi của hắn
cũng không kém phần thảm hại. Vì mưu lợi ích riêng của dòng họ, vua Lê Chiêu
Thống đã làm cái trò bỉ ổi "cõng rắn cắn gà nhà", "rước voi giày mả tổ", cúi đầu chịu
đựng nỗi nhục của kẻ đi cầu cạnh, van xin. Để rồi khi quân Thanh tan rã, cả bọn vội vã
chạy bán sống, bán chết, chịu đói, chịu nhục, chỉ biết "nhìn nhau than thở, oán giận
chảy nước mắt".
=> Có thể thấy rõ chất hiện thực trong bức tranh miêu tả của các tác giả. Dù là
những kẻ tôi trung với nhà Lê, và trong cách miêu tả cảnh khốn quẫn của vua Lê
Chiêu Thống, các tác giả vẫn thể hiện sự ngậm ngùi,thương cảm, nhưng quan
điểm tôn trọng lịch sử và ý thức dân tộc của những trí thức đã giúp họ phản ánh
đúng diễn biến lịch sử, làm nổi bật hành động "cõng rắn cắn gà nhà" của ông vua
phản nước Lê Chiêu Thống cũng như tô đậm chiến công lẫy lừng của người anh hùng
áo vải Nguyễn Huệ và nghĩa quân Tây Sơn.Đó chính là một trong những yếu tố tạo
nên giá trị tác phẩm.
Câu hỏi 4, sách giáo khoa, trang 72: Ngòi bút của tác giả khi miêu tả hai cuộc
tháo chạy (một của quân tướng nhà Thanh và một của vua tôi Lê Chiêu Thống) có gì
khác biệt? Hãy giải thích vì sao có sự khác biệt đó.
=> Trả lời:
- Tất cả đều tả thực, với những chi tiết cụ thể, nhưng âm hưởng lại khác nhau:
+ Đoạn văn trên nhịp điệu nhanh, mạnh, hối hả, ngòi bút miêu tả khách quan
nhưng vẫn hả hê sung sướng của người thắng trận trước sự thảm bại của lũ cướp nước.
+ Đoạn văn dưới nhịp điệu chậm hơn, miêu tả tỉ mỉ giọt nước mắt của người thổ
hào, nước mắt tủi hổ của vua tôi nhà Lê… Âm hưởng có phần ngậm ngùi, chua xót.
- Vì các tác giả đều là những cựu thần của nhà Lê, nên không thể không có sự
thương xót, ngậm ngùi cho tình cảnh của vua tôi Lê Chiêu Thống.Đấy là điều tạo nên
sự khác biệt trong thái độ và cách miêu tả hai cuộc tháo chạy.
III. Tổng kết:
13
1. Nội dung:
- Với quan điểm lịch sử đúng đắn và niềm tự hào dân tộc, các tác giả “Hoàng lê
nhất thống chí” đã tái hiện chân thực hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ
qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh, sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh
và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống.
2. Nghệ thuật:
- Cách trần thuật đặc sắc.
- Ghi lại những sự kiện lịch sử diễn biến gấp gáp, khẩn trương qua từng mốc thời
gian.
- Miêu tả cụ thể từng hành động, lời nói của nhân vật chính,từng trận đánh và
những mưu lược tính toán, thế đối lập giữa hai đội quân ( một bên thì xộc xệch, trễ nải,
nhát gan; một bên thì xông xáo dũng mãnh, nghiêm minh).
- Hình ảnh người anh hùng Nguyễn Huệ được khắc họa khá đậm nét, có tính
cách quả cảm, mạnh mẽ, có trí tuệ sáng suốt, có tài dụng binh như thần, là người có tổ
chức và là linh hồn của những chiến công vĩ đại.
- Một sự mâu thuẫn: Nhan đề mang ý nghĩa ca ngợi nhà Lê, nhưng nội dung tác
phẩm lại vạch rõ sự thối nát, mục ruỗng của triều đình nhà Lê, và ca ngợi người anh
hùng áo vải Tây Sơn Nguyễn Huệ.
IV. Bài tập vận dụng:
1. Theo cách tổng phân hợp viết đoạn văn (7-10 câu) phân tích hình ảnh người
anh hùng áo vải – Quang Trung trong hồi thứ 14 của HLNTC.
2. Lời dụ của vua Quang Trung với quân lính ở Nghệ An trước khi tiến quân ra
Bắc có những ý trùng hợp với bài “Sông núi nước Nam” và “Bình Ngô đại cáo”. Hãy
chỉ ra những sự gặp gỡ ấy và tìm hiểu ý nghĩa của việc đó.

BÀI THAM KHẢO


Nguyễn Huệ - người anh hùng áo vải ở đất Tây Sơn là niềm tự hào của dân tộc
Việt Nam. Người anh hùng áo vải ấy với thiên tài quân sự của mình đã đánh tan ba
mươi vạn quân Thanh xâm lược, khiến cho lũ bán nước cầu vinh ê chề nhục nhã. Có
thể nói hồi thứ mười bốn trong tác phẩm "Hoàng Lê nhất thống chí” của nhóm Ngô gia
văn phái đã phản ánh khá đầy đủ chân dung người anh hùng Nguyễn Huệ. Càng đọc
chúng ta càng khâm phục tài năng xuất chúng của người anh hùng áo vải đất Tây Sơn
ấy.
Chân dung người anh hùng Nguyễn Huệ, trước hết được miêu tả gián tiếp qua lời
người con gái hầu hạ trong cung vua, tâu với bà Hoàng Thái Hậu. Mặc dù vẫn xem
Nguyễn Huệ là “giặc", gọi Nguyễn Huệ bằng “hắn" nhưng người cung nhân ấy cũng
không giấu được sự thán phục của mình trước tài năng xuất chúng của Nguyễn Huệ.
Đây là một đoạn trong lời tâu của cung nhân: Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão
luyện dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam ẩn hiện như quỷ thần
không ai có thể lường hết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như
giết con lợn...". Trong khi nói những lời ấy, chắc người cung nhân đã chọn lời lẽ vừa
phải, thích hợp chưa dám bộc lộ hết ý nghĩ của mình về Nguyễn Huệ, nhưng một
người vốn xem Nguyễn Huệ là "giặc" thán phục đến như thế đủ biết Nguyễn Huệ tài
năng đến mức nào.
Ngay những người thuộc nhóm Ngô gia văn phái vốn theo "chính thống”, phần
nào bị quan điểm "chính thống" chi phối, trước thiên tài của Nguyễn Huệ vẫn phải ca
ngợi Nguyễn Huệ một cách trung thực, khách quan. Qua việc miêu tả trực tiếp cuộc

14
hành quân thần tốc, tác giả đã cho mọi người thấy tài năng quân sự xuất chúng của
người anh hùng áo vải Tây Sơn.
Được tin quân Thanh kéo vào Thăng Long, Nguyễn Huệ giận lắm, định cầm
quân đi ngay. Nhưng Nguyễn Huệ đã biết nghe theo lời khuyên của mọi người, cho
đắp đàn ở núi Bân tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi, lên ngôi hoàng đế lấy
niên hiệu Quang Trung. Lễ xong mới hạ lệnh xuất quân. Điều này chứng tỏ mặc dù tài
năng hơn người nhưng Nguyễn Huệ rất biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến người khác.
Riêng phẩm chất ấy của ông cũng đáng để chúng ta kính nể, học tập. Việc Nguyễn
Huệ tự mình đốc xuất đại binh tiến ra Thăng Long vào đúng thời điểm Tết Nguyên đán
cũng chứng tỏ phần nào tài năng quân sự của ông. Bởi vì đó là thời điểm kẻ thù ít đề
phòng nhất, dễ lơ là cảnh giác nhất. Nguyễn Huệ rất hiểu sức mạnh tinh thần, ông
không chỉ có tài cầm quân mà còn có tài hùng biện. Trong lời dụ của mình, ông đã
khích lệ được lòng yêu nước, căm thù giặc, truyền thống chống ngoại xâm cho tướng
sĩ: Quân Thanh sang xâm lược nước ta, hiện ở Thăng Long các ngươi đã biết chưa? ...
Người phương Bắc không phải giống nòi nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán
đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân ta, vơ vét của cải
người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ
Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo,
đời Minh có Lê Thái Tổ, các Ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo nên đã
thuận lòng người, dấy nghĩa quân đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng
về phương Bắc”. Lời dụ của Quang Trung có sức thuyết phục không kém "Hịch tướng
sĩ” của Trần Quốc Tuấn. Một điều mà các tác giả "Hoàng Lê nhất thống chí” hết sức
khâm phục Nguyễn Huệ là tài dùng người. Tiêu biểu là việc cử Ngô Thời Nhậm ở lại
làm việc với các tướng Sở và Lân. Sự việc diễn ra đúng như dự đoán của Nguyễn Huệ.
Ngô Thời Nhậm đã phát huy vai trò của mình “Biết nín nhịn để tránh mũi nhọn", "bên
trong thì kích thích lòng quân, bên ngoài thì làm cho giặc kiêu căng" ... Nguyễn Huệ
còn dự đoán chính xác những sự việc sắp xảy ra. Ông là một người đầy tự tin: "Lần
này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn, chẳng qua mười
ngày có thể đuổi được người Thanh. Nhưng ông cũng luôn luôn đề phòng hậu hoạ:
"Quân Thanh thua trận ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế việc binh đao
không bao giờ dứt". Và ông đã dự định chọn người “khéo lời lẽ” để “dẹp việc binh
dao” đó cũng là Ngô Thời Nhậm. Qua cách nghĩ của vua Quang Trung, ta thấy ông
không chỉ nhìn xa trông rộng mà còn hết lòng vì dân. Ông không muốn dân phải luôn
luôn chịu cảnh binh đao xương rơi máu chảy. Trong khi tiến quân ông cũng chọn cách
tránh cho quân sĩ đỡ phải tổn thất: ''Vua truyền lấy sáu chục tấm ván, cử ghép liền ba
tấm làm một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín. Quân Thanh nổ súng bắn ra
chẳng trúng người nào cả. Đó là cái giỏi, cũng là cái tâm của người cầm quân.
Đoạn thuật lại việc Quang Trung đại phá quân Thanh trong hồi mười bốn
“Hoàng Lê nhất thống chí” của nhóm Ngô gia văn phái hết sức sinh động. Qua đó,
người đọc có thể hình dung được chân dung của nguời anh hùng áo vải. Quang Trung
không chỉ là nhà quân sự thiên tài “xuất quỷ, nhập thần" mà còn là một vị tướng giàu
lòng yêu nước, có ý thức dân tộc hết sức sâu sắc. Ông là hình ảnh đối lập với những
tên vua bán nước, hèn nhát. Quang Trung mãi mãi được mọi người kính phục, yêu
mến.

TRUYỀN KIỀU CỦA NGUYỄN DU


15
I. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ:
1. Cuộc đời:
- Nguyễn Du (1765 – 1820) tên chữ là Tố Như, Quê ở Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà
Tĩnh
- Sinh trưởng trong gia đình qúy tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống văn
học.
- Sống trong thời đại có nhiều biến động: chế độ phong kiến Việt Nam rơi vào
khủng hoảng và phong trào nông dân khởi nghĩa nổi lên khắp nơi, đỉnh cao là khởi
nghĩa Tây Sơn.
- Cuộc đời Nguyễn Du có nhiều biến động thăng trầm: sớm mồ côi cha mẹ, phiêu
bạt mười năm trên đất Bắc rồi về ở ẩn tại quê nội Hà Tĩnh, từ 1802 bất đắc dĩ ra làm
quan dưới triều Nguyễn. Năm 1813-1814 được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc.
Năm 1820 được cử làm chánh sứ sang Trung Quổc lần 2 nhưng chưa kịp đi thì bị bệnh
mất tại Huế.
Là người hiểu biết sâu rộng, có vốn sổng phong phú, có trái tim nhân hậu, cảm
thông sâu sắc.
-> Là một thiên tài văn học, nhà nhân đạo chủ nghĩa, danh nhân văn hóa thế
giới
2. Sự nghiệp:
- Thơ chữ Hán (gồm 2043 bài: Thanh Hiên Thi Tập, Bắc Hành tạp lục, Nam
trung tập ngâm.
- Thơ chữ Nôm: Văn Chiêu Hồn, truyện Kiều
II. GIỚI THIỆU TÁC PHẨM:
1. Nguồn gốc: Dựa theo cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài
Nhân (Trung Quốc).
2. Tóm tắt: gồm 3 phần (3254 câu thơ):
- Gặp gỡ và đính ước
- Gia biến và lưu lạc
- Đoàn tụ
3. Giá trị nôi dung và nghê thuât của truyện Kiều:
a. Về nôi dung:
- Giá trị hiện thực:
+ Phản ánh xã hội bất công tàn bạo của tầng lớp thống trị chà đạp lên quyền sống
của con người.
+ Thê hiện sô phận con người bị áp bức đau khô, đặc biệt là sô phận người phụ
nữ.
- Giá trị nhân đạo:
+ Thương cảm trước số phận bi kịch của con người.
+ Lên án, tố cáo thế lực xấu xa, tàn bạo
+ Khẳng định, đề cao tài năng, nhân phẩm và những khát vọng chân chính của
con người.
b. Về nghệ thuât:
+ Ngôn ngữ văn học dân tộc và thể thơ lục bát đã đạt đỉnh cao rực rỡ.
+ Nghệ thuật tự sự đã có bước phát triển vượt bậc; nghệ thuật dẫn chuyện, nghệ
thuật miêu tả thièn nhiên, khắc họa tính cách và miêu tả tâm lý con người.

CHỊ EM THÚY KIỀU


16
(Trích "Truyện Kiều", Nguyễn Du)
I. Tầm hiểu chung:
1. Vi trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh
của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc
Thúy Vân và Thúy Kiều
2. Kểt cấu ( bố cục) đoan trích:
Câu hỏi l, sgk, trang 83: Hãy tìm hiểu kết cấu của đoạn trích và nhận xét kết cấu
ẩy có liên quan như thế nào với trình tự miêu tả nhân vật cùa tác giả.
=> Trả lời:
Đoạn "Chị em Thúy Kiều" có kết cấu:
Bốn câu đầu: giới thiệu khái quát hai chị em Thúy Kiều.
Bốn câu tiếp: gợi tả vẻ đẹp Thúy Vân.
Mười hai câu tiếp: gợi tả vẻ đẹp Thúy Kiều
Bốn câu cuối: khái quát chung về cuộc sống hai chị em Thúy Kiều.
Kết cấu của đoạn trích cho thấy trình tự miêu tả nhân vật của tác giả:
+ Bốn câu đầu khái quát được vẻ đẹp chung ( mai cốt cách, tuyết tinh thần, mười
phân vẹn mười) và vẻ đẹp riêng ( moi người một vé ) cùa từng người. Sau đó, tác giả
mới đi sâu gợi tả vé đẹp cùa từng nhân vật.
+ Bốn tiếp khắc họa rõ hơn vẻ đẹp của Thúy Vân, từ khuôn mặt, đôi mày, mái
tóc, làn da, nụ cười, giọng nói, đều nhằm thể hiện vẻ đẹp đầy đặn, phúc hậu mà quý
phái của người thiếu nữ.
Bức chân dung Thúy Vân được gợi tả trước, có tác dụng làm nền để nổi bật lên
vẻ đẹp cùa bức chân dung Thúy Kiều trong mười hai câu thơ tiếp theo.
+ Mười hai câu thơ tiếp khắc họa vẻ đẹp Thúy Kiều với cả sắc, tài, tình. Kiều là
một tuyệt thế giai nhân "nghiêng nước nghiêng thành". Kiều "sắc sảo" về trí tuệ và
"mặn mà" về tâm hồn. vẻ đẹp ấy thể hiện tập trung ở đôi mắt: "Làn thu thúy nét xuân
sơn". Tài năng của Kiều đạt tới mức lí tưởng, gồm cả cầm (đàn), kì (cờ), thi (thơ), họa
(vẽ).
+ Bốn câu cuối khái quát cuộc sống phong lưu, nền nếp. đức hạnh, trẻ trung của
hai chị em Thúy Kiều.
Một kết cấu như trên vừa chặt chẽ, hợp lí, vừa góp phần làm nổi bật vẻ đẹp
chung và nhất là vẻ đẹp riêng của hai chị em Thúy Kiều.
II. ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN:
1. Chân dung Thúy Vân, Thúv Kiều:
a. Giới thiệu khái quát nhân vât:
Trước hết, Nguyễn Du giới thiệu chung về hai chị em trong gia đình, lời giới
thiệu cô điển, trang trọng rằng họ là “tố nga”, đẹp và trong sáng:
“Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.”
Tiếp đến, tác giả miêu tả chung vẻ đẹp của hai chị em trong một nhận xét mang
tính chât lí tưởng hóa, tuyệt đối hóa (đẹp một cách hoàn thiện):
Mai cốt cách tuyết tinh thân
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
+ Với bút pháp ước lệ tượng trưng, tác giả đã gợi tả vẻ đẹp duyên dáng, thanh
tao, trong trắng của người thiếu nữ ở hai chị em Thúy Kiều:“Mai cốt cách, tuyết tinh
thần ”. Vóc dáng mảnh mai, tao nhã như mai; tâm hồn trắng trong như tuyết. => Đó là
vẻ đẹp hài hòa đến độ hoàn mĩ cả hình thức lần tâm hồn, cả dung nhan và đức hạnh.
+ Hai chị em đều tuyệt đẹp, không tì vết “mười phân vẹn mười ”, song mỗi người
17
lại mang nét đẹp riêng khác nhau “moi người một vẻ ”.
-> Bốn câu thơ đầu là bức tranh nền để từ đó tác giả dẫn người đọc lần lượt
chiêm ngưỡng sắc đẹp cùa từng người.
b. Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân:
Câu thơ mở đầu: “Vân xem trang trọng khác vời” đã giới thiệu khái quát vẻ đẹp
của Thúy Vân: một vẻ đẹp cao sang. quí phái
Bút pháp ước lệ tượng trưng, phép ân dụ, nhân hoá: “khuôn trăng”, “nét ngài ”,
“hoa cười ngọc thốt, “Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da ”
-> Vẻ đẹp của Thúy Vân là vẻ đẹp đầy đặn, phúc hậu; tính cách thì đoan trang,
thùy mị: khuôn mặt đây đặn, tươi sáng như trăng đêm rằm;lông mày sắc nét như mày
ngài; miệng cười tươi thăm như hoa; giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngọc ngà
là những lời đoan trang, thùy mị. Mái tóc của nàng đen mượt hơn mây, da trắng mịn
màng hơn tuyết.
-> Vân đẹp hơn những gì mỹ lệ của thiên nhiên - một vẻ đẹp tạo sự hòa hợp, êm
đềm với xung quanh. Cùng là hương sắc của tạo hóa, báu vật của nhân gian. -> Dự báo
vê một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ.
c. Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Kiều:
* Sắc:
- Nguyễn Du đã miêu tả Thúy Vân trước để làm nổi bật Thúy Kiều theo thủ pháp
nghệ thuật đòn bẩy. Tả kỹ, tả đẹp để Vân trở thành tuyệt thế giai nhân, để khẳng định
Kiều hơn hẳn: “Kiều càng sắc sảo mặn mà”. Từ “càng” đứng trước 2 từ lý liên tiếp
“Sắc sảo” “mặn mà” làm nổi bật vẻ đẹp của Kiều sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm
hồn.
- Vẻ đẹp của Kiều khiển “hoa ghen", "liễu hờn”, nước phải nghiêng, thành phải
đô. Thi nhân không tả trực tiếp vẻ đẹp mà tả sự đổ kị, ghen ghét với vẻ đẹp ấy; tả sự
ngưỡng mộ, mê say trước vé đẹp ẩy. “Nghiêng nước nghiêng thành " là cách nói sáng
tạo điển cố để cực tả giai nhân. Rõ ràng, cái đẹp của Kiều có chiều sâu, có sức quyến
rủ làm mê mẩn lòng người, vẻ đẹp ấy như tiềm ẩn phẩm chất bên trong cao quý - tài và
tình rất đặc biệt của nàng.
* Tài:
- Trí tuệ thông minh tuyệt đối
- Kiều là người con gái đa tài mà tài nào cũng đạt đến độ hoàn thiện, xuất chúng:
đủ cả cầm, kì, thi, họa.
- Đặc biệt, tài đàn của nàng vượt trội hơn cả. Nàng đã soạn riêng một khúc bạc
mệnh mà ai nghe cũng não lòng. Khúc nhạc thể hiện tâm hồn.tài năng, trái tim đa sầu
đa cảm.
=> Chân dung Thúy Kiều mang tính cách sổ phận. Ngòi bút Nguvễn Du nhuốm
màu định mệnh. Sắc đẹp và tài năng của Kiều nổi trội quá mà thiên nhiên, tạo hóa thì:
Lạ gì bi sắc tư phong
Trời xanh quen thổi má hòng đánh ghen
-> Cuôc đời của nàng sẽ găp nhiều éo le, đau khổ.
d. Nhân xét chung về cuôc sống hai chi em Thúy Kiều.
Thúy Vân, Thúy Kiều dưới ngòi bút của Nguyễn Du không chì nhan sắc tuyệt
vời mà còn đức hạnh khuôn phép. Dù đã đến tuổi “Cài trâm, búi tóc" nhưng hai chị
em vẫn giữ gìn nề nếp, gia phong :
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
2. Cảm hứng nhân văn cùa Nguyễn Du qua đoan trích:
18
Ngợi ca vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã trân trọng, đề cao giá trị,
phẩm giá của con người như nhan sắc, tài hoa, phẩm hạnh;qua đó, dự cảm về kiếp
người tài hoa bạc mệnh. Sự ngưỡng mộ, ngợi ca người phụ nữ trong xã hội “trọng
nam khinh nữ” chính là biểu hiện sâu sác của cảm hứng nhân văn trong ngòi bút
Nguyễn Du.

Đề bài: Cảm nhận vẻ đẹp hai chị em Thúy Kiều – Thúy Vân
trong trích đoạn” chị em Thúy Kiều”( Truyện Kiều- Nguyễn Du)
Hướng dẫn dàn ý:
Mở bài: - Giới thiệu tác giả: Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc,
danh nhân văn hóa thế giới, là nhà chủ nghĩa nhân đạo, là bậc thầy
ngôn ngữ dân tộc.
- Giới thiệu đoạn trích

BÀI THAM KHẢO


Văn bản “ Chị em Thuý Kiều” trong thi phẩm vĩ đại “ Đoạn trường tân thanh”
của thi hào Nguyễn Du là những vần thơ tuyệt bút, là bức tranh con người được vẽ
bằng ngôn ngữ Tiếng Việt đạt đến mức hoàn chỉnh. Chỉ 24 câu thơ lục bát Tố Như đã
miêu tả tài, sắc, đức hạnh của chị em Thuý Kiều, Thuý Vân - hai tuyệt thế giai nhân -
bằng tất cả tấm lòng và sự nâng niu, trân trọng.
Nói đoạn thơ là bức tranh, bởi lẽ ngôn từ trong văn bản không chỉ tác động đến
cảm xúc, mà nó còn gợi nên hình ảnh sống động về con người một cách rõ nét. Gấp
trang sách lại, người đọc hình dung được Thuý Kiều, Thuý Vân từ dáng vẻ bên ngoài
đến tâm hồn bên trong.
Trong họa pháp cổ, chuẩn mực của nghệ thuật cốt ở cái tình. Cho nên nhà họa sĩ
thường chú trọng đến cái thần của tác phẩm. Khi vẽ ông nhất định chú ý đến đôi mắt,
vẽ mùa thu nhất thiết phải có lá vàng... Để diễn tả sức sống của mùa xuân, trong một
cuộc thi lớn nhà họa sĩ Trung Quốc Bạch An vẽ con ngựa lao nhanh về phía trước,
xung quanh tràn đầy những hoa là hoa. Không tả nhiều nhưng gợi cho người xem biết
bao cảm xúc thẩm mĩ.
Nguyễn Du tả Thúy Kiều, Thúy Vân trên cơ sở họa pháp cổ nhưng được soi
chiếu và trình diễn đạt đến độ vi diệu. Chất liệu của nó không phải màu sắc và âm
thanh mà bằng ngôn từ. Qua tay của Nguyễn Du ta có cảm giác các con chữ vừa đi vừa
khiêu vũ.
Bốn câu thơ đầu là lời giới thiệu, khái quát chung về hai cô gái đầu lòng của nhi
Viên ngoại họ Vương
Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn người
Hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng, kết hợp với phép ẩn dụ: “cốt cách” thanh
cao như mai, “tinh thần" trong trắng như tuyết cho thấy sự nâng niu, quý trọng của nhà
thơ với các nhân vật. Họ đẹp một cách lộng lẫy, đẹp “ mười phân vẹn mười”, Thật khó
để nói được vẻ đẹp riêng của hai ả tố nga nhà họ Vương. Nếu quan niệm đoạn trích là
một bức tranh, thì đây là phần nền cùa hai bức chân dung chị em Thuý Kiều, chưa tả
19
nhưng hai nàng hiện lên thật nổi bật. Đó lả cái tài đặc biệt cùa Nguyễn Du: giới thiệu
nhưng mang yếu tố tả, kể như vẽ. Trong cái phông nền ấy đại thi hào lần lượt cho các
nhân vật cùa mình xuất hiện hết sức tự nhiên, đầy thần thái.
Sau lời giới thiệu chung, là bức chân dung của Thuý Vân :
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Vẫn bút pháp ước lệ kết hợp với hệ thống từ ngữ chọn lọc, Thuý Vân hiện lên
với những gì đẹp đẽ nhất, đặc sắc nhất, thiêng liêng nhất của tinh hoa đất trời: Hoa,
trăng, ngọc, mây, tuyết. Đó là sự quy tụ của vẻ đẹp trời đất, cùa thiên nhiên. Đó cũng
là chuẩn của vẻ đẹp con người cần hướng đến trong thi pháp văn học trung đại. Mỗi
câu thơ, là một nét vẻ tái họa bức chân dung giai nhân. Cử chi, dáng đi đứng rất trang
trọng, quý phái. Cách xử sự rất đúng mực, đoan trang. Đây là vẻ đẹp toàn bích cùa một
thiếu nữ trong sáng, dịu hiển, không vướng một chút bụi trần.
Tác giả miêu tả khuôn mặt của Thuý Vân đầy đặn, sáng trong như khuôn trăng
tròn vành vạnh. Tiếng nói trong như ngọc. Miệng cười tươi như hoa. Tóc mềm bóng
mượt đến nỗi “mây thua”. Da trắng làm cho tuyết phải “ nhường”. Rõ ràng, ở nàng
Vân là cái đẹp phúc hậu, đoan trang, cái đẹp chinh phục được xung quanh.
Nhưng nhà họa sĩ hình như không dụng công nhiều trong miêu tả Thuý Vân . Bút
lực của ông chủ yếu khắc họa cho nhân vật Thuý Kiều . Tưởng Vân lả một trang quốc
sác thiên hương không ai sánh kịp nữa, nào ngờ đâu, sau đó Thuý Kiều xuất hiện thì
Thuý Vân chỉ làm nền tôn thêm vẻ đẹp của Kiều. Bằng cách tạo dựng tinh huống theo
kiểu đòn bẫy, Nguyền Du chứng tỏ mình là bậc thầy trong việc miêu tả nhân vật. Thuý
Vân đã đẹp đến mức thiên nhiên cũng nhường bước nhưng Kiều còn hơn. Thế thì vẻ
đẹp đó như thế nào? Nhà thơ tiếp tục giới thiệu:
Kiểu càng sác sảo mặn mà,
So bể tài sắc lợi là phẩn hơn.
Làn thu thuỳ, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Nếu vẻ đẹp cùa Vân là thuần phác, dịu hiển, đằm thắm, thỉ Kiều hiện lên với sự
sắc sảo, mặn mà hiếm có. Vẻ đẹp này rất đài các, kiêu sa. Nó không thuộc về đời
thường, chỉ để dành chiêm ngưỡng, ngước nhìn mà thôi. Khi miêu tả Thuý Kiều, theo
tôi tác giả đã đặc tả đôi mắt. Người ta thường nói : đôi mát là cửa sổ của tâm hồn là
vì nói đến đôi mắt là nói đến thế giới quan, nhãn sinh quan của con người. Mắt đẹp là
tự thân mang vẻ đẹp cùa tâm hồn. Cái thần của bức chân dung Thúy Kiều nằm ở chỗ
nảy. Người đọc truyện Kiều tinh ý sẽ thấy dược, Nguyễn Du không chú ý tả vẻ đẹp
hỉnh thức của Thuý Kiều. Ông chỉ dùng hai hỉnh ảnh có giá trị biểu trưng : lản thu
thuỷ, nét xuân sơn. Mắt nàng Kiều xanh trong như nước mùa thu, lông màv thanh tú
như nét núi mùa xuân. Thế là đủ cho một tuyệt sắc.Trong nhân tướng học Trung Hoa,
phàm ai có đôí mắt vậy thì rất đa đoan và nặng tình. Chính “làn thu thủy” ấy đã dự
cảm cho số phận nghiệt ngã của nàng Kiều trong suốt 15 năm trời lưu lạc sau này.
Mắt đẹp xanh trong như nước hồ thu, lông mày thanh tú như nét núi mùa xuân.
Môi hồng má thắm làm cho hoa ghen nước da trắng xinh làm cho liễu phải "hờn". Vẫn
lấy vẻ đẹp thiên nhiên (thu thủy, xuân sơn, hoa, liễu) làm chuẩn mực cho cái đẹp giai
nhân, đó là bút pháp ước lệ trong thơ cổ. Tuy nhiên, nét vẽ của Nguyễn Du tài hoa
quá, nét vẽ nào cũng có thần rất đẹp, một vẻ đẹp nhân văn.
20
Kiều "thông minh vốn sẵn tính trời" nghĩa là thông minh bẩm sinh, cho nên các
môn nghệ thuật như thi, họa, ca ngâm chỉ là các thú tao nhã nhưng nàng rất sành điệu,
điêu luyện: "lầu bậc", "ăn đứt" hơn hẳn thiên hạ:
"Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.
Cung thương lầu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trưong."
Kiều giỏi về âm luật, giỏi đến mức "lầu bậc". Cây đàn mà nàng chơi là cây đàn
hồ cầm; tiếng đàn cùa nàng thật hay "ăn đứt "bất cứ nghệ sĩ nào. Kiều còn biết sáng
tác âm nhạc, tên khúc đàn của nàng sáng tác ra là một "thiên bạc mệnh "nghe buồn thê
thiết "não nhân", làm cho lòng người sầu não, đau khổ. Các từ ngữ: sắc sảo, mặn mà,
phần hơn, ghen, hờn, nghiêng nước nghiêng thành, đòi một, họa hai, vốn sẵn, pha
nghề, đủ mùi, lầu bậc, ăn đứt, bạc mệnh, não nhân - tạo nên một hệ thống ngôn ngữ
cực tả tài sắc và hé lộ dự báo số phận bạc mệnh của Kiều, như ca dao lưu truyền:
"Một vừa hai phải ai ơi!
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen."
Bốn câu cuối đoạn nói về đức hạnh hai ả tố nga: Tuy là khách hồng quần đẹp
thế, tài thế, lại "phong lưu rất mực", đã tới tuần "cập kê "nhưng " hai ả tố nga" đã và
đang sống một cuộc đời nền nếp, gia giáo:
"Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai."
Câu thơ "Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê" là một câu thơ độc đáo về thanh
điệu, về sử dụng phụ âm "x" (xuân xanh xấp xỉ), phụ âm "t" (tới tuần), phụ âm"c-k"
(cập kê) tạo nên âm điệu nhẹ nhàng, êm đềm của cuộc sống yên vui.,êm ấm của thiếu
nữ phòng khuê.
Đoạn thơ nói về Chị em Thúy Kiều là một trong những đoạn thơ hay nhất, đẹp
nhất trong Truyện Kiều được nhiều người yêu thích và thuộc. Ngôn ngữ thơ tinh
luyện, giàu cảm xúc. Nét vẽ hàm súc, gợi cảm, nét vẽ nào cũng có thần. Các bịên pháp
tu từ ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được thi hào vận dụng thần tình tạo nên những vần thơ
ước lệ mà trữ tình, đầy chất thơ. Hàm ẩn sau bức chân dung mĩ nhân là cả một tấm
lòng quý mến trân trọng. Đó là nghệ thuật tả người điêu luyện của thi hào Nguyễn Du
mà ta cảm nhận được.

CẢNH NGÀY XUÂN


Trích “Truyện Kiều” – Nguyễn Du)
I. Tìm hiểu chung:
1. Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần đầu “Truyện Kiều”. Sau khi giới
thiệu gia cảnh và tài sắc chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du trình bày bối cảnh Thúy Kiều
gặp nấm mồ Đạm Tiên và gặp Kim Trọng. Đó là cảnh ngày xuân trong tiết Thanh
minh,chị em Kiều đi chơi xuân. Cảnh ngày xuân cứ hiện dần ra theo trình tự cuộc “bộ
hành chơi xuân” của chị em Thúy Kiều.
2. Bố cục đoạn trích:
21
- Bốn câu đầu: Khung cảnh mùa xuân
- Tám câu tiếp: Khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh
- Sáu câu cuối: Cảnh chị em Kiều du xuân trở về.
II. Đọc – hiểu văn bản:
1. Khung cảnh mùa xuân:
- Hai câu thơ đầu vừa gợi tả thời gian, vừa gợi tả không gian mùa xuân:
+ Câu thơ thứ nhất “Ngày xuân con én đưa thoi” vừa tả không gian: ngày xuân,
chim én bay đi bay lại,chao liệng như thoi đưa; vừa gợi thời gian: ngày xuân trôi
nhanh quá, tựa như những cánh én vụt bay trên bầu trời.
+ Câu thơ thứ hai “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi” vừa gợi thời
gian: chín chục ngày xuân mà nay đã ngoài sáu mươi ngày (tức là đã qua tháng giêng,
tháng hai và đã bước sang tháng ba); vừa gợi không gian: ngày xuân với ánh sáng đẹp,
trong lành (thiều quang)
- Hai câu thơ sau là một bức họa tuyệt đẹp về mùa xuân với hai sắc màu xanh và
trắng:
+ Chữ “tận” mở ra một không gian bát ngát, thảm cỏ non trải rộng đến tận chân
trời làm nền cho bức tranh xuân.
+ Trên nền màu xanh non ấy điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng . Không gian
như thoáng đạt hơn, trong trẻo, nhẹ nhàng và thanh khiết hơn. Chỉ bằng một từ "điểm",
nhà thơ đã tạo nên 1 bức tranh sinh động hơn, cảnh vật có hồn hơn, chứ không tĩnh tại,
chết đứng.Cách thay đổi trật tự từ trong câu thơ làm cho màu trắng hoa lê càng thêm
sống động và nổi bật trên cái nền màu xanh bất tận của đất trời cuối xuân.
=> Mùa xanh của cỏ non và sắc trắng của hoa lê làm cho màu sắc có sự hài hòa
tới mức tuyệt diệu. Tất cả đều gợi lên vẻ đẹp riêng của mùa xuân: mới mẻ, tinh khôi,
tràn trề sức sống (cỏ non); khoáng đạt, trong trẻo (xanh tận chân trời); nhẹ nhàng,
thanh khiết (trắng điểm một vài bông hoa).
=> Bằng một vài nét chấm phá, Nguyễn Du đã phác họa nên 1 bức tranh xuân
sinh động, tươi tắn và hấp dẫn lòng người.
2. Khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh:
- Trong tiết Thanh minh có hai hoạt động diễn ra cùng một lúc: đi tảo mộ ( lễ) và
đi chơi xuân ở chốn đồng quê (hội).
- Tác giả sử dụng một loạt các từ hai âm tiết ( cả từ ghép và từ láy) để gợi lên
không khí lễ hội thật tưng bừng, rộn rã:
+ Các danh từ: “yến anh”,”chị em”,”tài tử”,”giai nhân”,”ngựa xe”,”áo
quần”… -> Gợi tả sự đông vui, nhiều người cùng đến hội.
+ Các động từ: “sắm sửa”,”dập dìu”,… -> Gợi tả sự rộn ràng, náo nhiệt của
ngày hội.
+ Các tính từ: “gần xa”,”nô nức”… -> Tâm trạng của người đi hội.
- Cách nói ẩn dụ: “Gần xa nô nức yến anh” gợi lên hình ảnh những nam thanh
nữ tú, những tài tử giai nhân, từng đoàn người nhộn nhịp đi chơi xuân như chim én,
chim oanh bay ríu rít.
- Qua cuộc du xuân của chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã gợi lên một tập tục,
một nét đẹp truyền thống của văn hóa lễ hội xa xưa. Các trang tài tử giai nhân vui
xuân mở hội nhưng không quên những người đã mất:
Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.
c. Cảnh chị em Kiều du xuân trở về:

22
- Cuộc vui rồi cũng đến hồi kết thúc. Sáu câu thơ cuối là cảnh chị em Thúy Kiều
ra về khi trời đã xế chiều và hội đã tan.
- Cảnh vẫn mang cái thanh, cái dịu của mùa xuân: nắng nhạt, khe nước nhỏ, một
nhịp cầu nhỏ bắc ngang. Mọi chuyển động đều nhẹ nhàng: mặt trời từ từ ngả bóng về
tây, bước chân người thơ thẩn, dòng nước uốn quanh. Tuy nhiên, không khí nhộn nhịp,
rộn ràng của lễ hội không còn nữa, tất cả đang nhạt dần, lặng dần.
- Những từ láy “tà tà”, “thanh thanh”,”nao nao”… không chỉ biểu đạt sắc thái
cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người. Cảm giác bâng khuâng, xao xuyến về
một ngày vui xuân đang còn mà sự linh cảm về điều sắp xảy ra đã xuất hiện. “Nao
nao dòng nước uốn quanh” báo trước ngay sau lúc này, Kiều sẽ gặp nấm mồ Đạm
Tiên và chàng thư sinh Kim Trọng.
III. Tổng kết:
1.Nội dung:
- Đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên lễ hội, mùa xuân tươi đẹp trong sáng, là một
trong những bức tranh thiên nhiên tươi đẹp nhất trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du.
2.Nghệ thuật:
- Đoạn trích đã thể hiện bút pháp tả cảnh giàu chất tạo hình, chuyển từ miêu tả
sang tả cảnh ngụ tình trong nghệ thuật miêu tả và ngôn ngữ trong sáng giàu chất thơ
của Nguyễn Du.
IV. Luyện tập:
Câu hỏi : Phân tích, so sánh cảnh mùa xuân trong câu thơ cổ Trung Quốc:
“Phương thảo liên thiên bích – Lê chi sổ điểm hoa” ( Cỏ thơm liền với trời xanh –
Trên cành lê có mấy bông hoa) với cảnh mùa xuân trong câu thơ Kiều của Nguyễn
Du: “Cỏ non xanh tận chân trời – Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”.
Tham khảo câu trả lời sau:
Với bút pháp gợi tả, câu thơ cổ Trung Quốc đã vẽ lên được vẻ đẹp riêng của mùa
xuân, có hương vị, màu sắc, đường nét. Đó là hương thơm của cỏ non (phương thảo).
Đó là màu xanh mướt của cỏ tiếp nối với màu xanh ngọc của trời, cả chân trời, mặt đất
đều “một màu xanh xanh” (liên thiên bích). Đó còn là đường nét của cành lê thanh
nhẹ điểm vài bông hoa (sổ điểm hoa). Cảnh đẹp mà dường như tĩnh tại.
Hai câu thơ trong “Truyện Kiều”: “Cỏ non xanh tận chân trời – Cành lê trắng
điểm một vài bông hoa” là bức họa tuyệt đẹp về mùa xuân. Gam màu làm nền cho bức
tranh xuân là thảm cỏ non trải rộng tới chân trời. Trên nền màu xanh non ấy điểm
xuyết một vài bông hoa lê trắng. Câu thơ cổ Trung Quốc chỉ nói cành lê điểm một vài
bông hoa mà không nói tới màu sắc của hoa lê. Nguyễn Du chỉ thêm một
chữ “trắng” cho cành lê mà bức tranh mùa xuân đã khác. Trong câu thơ của Nguyễn
Du, chữ “trắng” trở thành điểm nhấn, làm nổi bật thần sắc của hoa lê. Mùa xuân của
cỏ non và sắc trắng của hoa lê làm cho màu sắc có sự hài hòa tới mức tuyệt diệu. Tất
cả đều gợi lên vẻ đẹp riêng của mùa xuân: mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống ( cỏ non);
khoáng đạt, trong trẻo (xanh tận chân trời); nhẹ nhàng, thanh khiết (trắng điểm một
vài bông hoa)
BÀI THAM KHẢO 1
Trang thơ của Nguyễn Du đang mở rộng trước mắt chúng ta. Có phải không, sau
bức chân dung giai nhân là bức họa về cảnh sắc mùa xuân trong tiết Thanh minh và
cảnh du xuân của trai tài gái sắc, của chị em Thúy Kiều? Đoạn thơ Cảnh ngày xuân
gồm có 18 câu, từ câu 39 đến câu 56 của Truyện Kiều tiêu biểu cho bút pháp nghệ
thuật tả cảnh và tả tình của thi hào Nguyễn Du. Một vẻ đẹp thanh xuân, một niềm vui

23
xôn xao, náo nức cứ dâng lên, cứ lan tỏa, rồi lắng dịu mãi trong lòng ta khi đọc đoạn
thơ này.
Bốn câu thơ đầu, mở ra một không gian nghệ thuật hữu sắc, hữu hương, hữu tình,
nên thơ. Giữa bầu trời bao la mênh mông là những cánh én bay qua hay lại như "đưa
thoi". Cánh én mùa xuân thân mật biết hao. Hai chữ ''đưa thoi" rất gợi hình, gợi cảm.
Cánh én như con thoi vút qua, vút lại, chao liệng; thời gian đang trôi nhanh, mùa xuân
đang trôi nhanh. Câu thành ngữ - tục ngữ: "Thời gian thấm thoắt thoi đưa, như ngựa
chạy, như nước chảy qua cầu" đã nhập vào hồn thơ Tố Như tự bao giờ ?
Sau cánh én "đưa thoi" là ánh xuân, là "thiều quang” của mùa xuân khi "chín
chục đã ngoài sáu mươi". Cách tính thời gian và miêu tả vẻ đẹp mùa xuân của các thi
sĩ xưa nay thật là hay và ý vị. Nào là "xuân hướng lão" (ức Trai), nào cảnh mưa bụi,
tiếng chim kêu trong Đường thi. Nào là cánh bướm rối rít bay trong thư Trần Nhân
Tông. Còn là "xuân hồng" (Xuân Diệu), "mùa xuân chín" (Hàn Mặc Tử), v.v.. Với
Nguyễn Du là mùa xuân đã bước sang tháng ba, "Thiều quang chín chục đã ngoài sáu
mươi". Hai chữ "thiều quang" gợi lên cái màu hồng của ánh xuân, cái ấm áp của khí
xuân, cái mênh mông bao la của đất trời "Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên"
(Nguyên tiêu - Hồ Chí Minh).
Còn là sắc "xanh" mơn mởn, ngọt ngào của cỏ non trải dài, trải rộng như tấm
thảm "tận chân trời". Là sắc "trắng" tinh khôi, thanh khiết của hoa lê nở lác đác, chỉ
mới hé lộ, khoe sắc khoe hương "một vài bông hoa":
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Vần cổ thi Trung Hoa được Tố Như vận dụng một cách sáng tạo: "Phương thảo
liên thiên bích , Lê chi sổ điểm hoa”. Hai chữ "trắng điểm" là nhãn tự, cách chấm phá
điểm xuyết của thi pháp cổ gợi lên vẻ đẹp thanh xuân trinh trắng của thiên nhiên cỏ
hoa; hút pháp nghệ thuật phối sắc tài tình: trên cái nền xanh của cỏ non là một vài
bông lê "trắng điểm". Giữa diện và điểm, giữa nền xanh và sắc trắng của cảnh vật mùa
xuân là những cánh én ''đưa thoi", là màu hồng của ánh thiều quang, là "khát vọng mùa
xuân" ngây ngất, say đắm lòng người:
Nhìn hoa đang hé tưng bừng,
Khao khát mùa xuân yên vui lụi đến.
(Ca khúc Khát Vọng mùa xuân Mô-da)
Cảnh mùa xuân là bức tranh xuân hoa lệ, là vần thơ tuyệt bút của Nguyễn Du để
lại cho đời, điểm tô cho cuộc sống mỗi chúng ta. Phải chăng, thi sĩ Chế Lan Viên đã
học tập Tố Như để viết nên vần thơ xuân đẹp này:
Tháng giêng hai xanh mướt cỏ đồi,
Tháng giêng hai vút trời bay cánh én...
(Ý nghĩ mùa xuân)
Tám câu thơ tiếp theo là cảnh trẩy hội mùa xuân: "Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh"
trong tiết tháng ba. Điệp ngữ: "lễ là... hội là..." gợi lên những cảnh lễ hội dân gian cứ
liên tiếp diễn ra đã bao đời nay: "Tháng giêng là tháng ăn chơi - Tháng hai cờ bạc,
tháng ba hội hè"(Ca dao). Cảnh trẩy hội đông vui, lưng bừng, náo nhiệt. Trên các nẻo
đường "gần xa" những dòng người cuồn cuộn trẩy hội. Có biết bao "yến anh" trẩy hội
trong niềm vui "nô nức", hồ hởi, giục giã. Có biết bao tài tử, giai nhân "dập dìu" vai
sánh vai, chân nối chân nhịp bước. Dòng người trẩy hội tấp nập ngựa xe cuồn cuộn
"như nước", áo quần đẹp đẽ, tươi thắm sắc màu, nghìn nghịt, đông vui trên các nẻo
đường "như nêm". Các từ ngữ: "nô nức", "dập dìu", các ẩn dụ so sánh (như nước, như

24
nêm) đã gợi tả lễ hội mùa xuân tưng bừng náo nhiệt đang diễn ra khắp mọi miền quê
đất nước. Trẻ trung và xinh đẹp, sang trọng và phong lưu:
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.
Trong đám tài tử, giai nhân "gần xa” ấy, có 3 chị em Kiều. Câu thơ "Chị em sắm
sửa bộ hành chơi xuân" mới đọc qua tưởng như chỉ là một thông báo. Nhưng sâu xa
hơn, nó ẩn chứa bao nỗi niềm: chờ trông mong đợi, ngày lễ tảo mộ, ngày hội đạp thanh
đến để du xuân trong những bộ quần áo đẹp đã chuẩn bị, đã "sắm sửa". Có biết bao
"bóng hồng" xuất hiện trong đám tài tử, giai nhân ấy? Ai đã từng đi hội chùa Hương,
hội Lim, hội Yên Tử mới cảm thấy cái đẹp, cái vui, cái tưng bừng, tươi trẻ trong hội
đạp thanh mà Nguyễn Du đã nói đến.
Thơ là nghệ thuật của ngôn từ. Các từ ghép: "yến/anh", "chị/em", "tài / tử",
"giai / nhân", "ngựa / xe", "áo /quần" (danh từ); "gần / xa" , "nô / nức", 'sắm /sửa",
"dập / dìu" (tính từ, động từ) được thi hào sử dụng chọn lọc tinh tế, làm sống lại cái
không khí lễ hội mùa xuân, một nét đẹp của nền văn hóa lâu đời của phương Đông,
của Trung Hoa, của Việt Nam chúng ta, và nếp sống "phong lưu" của chị em Kiều.
Ngổn ngang /gò đông kéo lên,
Thoi vàng vó rắc/tro tiền giấy bay.
Đời sống lâm linh, phong lục dân gian cổ truyền trong lễ tảo mộ được Nguyễn
Du nói đến với nhiều cảm thông, san sẻ. Cõi âm và cõi dương, người đang sống và kẻ
đã khuất, hiện tại và quá khứ đồng hiện trên những gò đống "ngổn ngang" trong lễ tảo
mộ. Cái tâm thánh thiện, niềm tin phác thực dân gian đầy ắp nghĩa tình. Các tài tử, giai
nhân, và 3 chị em Kiều không chỉ nguyện cầu cho những vong linh mà còn gửi gắm
bao niềm tin, bao ao ước về tương lai hạnh phúc cho tuổi xuân khi mùa xuân về. Có
thể sau hai trăm năm, ý nghĩ của mỗi chúng ta có ít nhiều đổi thay trước cảnh "Thoi
vàng vó rắc, tro tiền giấy bay", nhưng giá trị nhân bản của vần thơ Nguyễn Du vẫn làm
ta xúc động!
Sáu câu thơ cuối đoạn ghi lại cảnh chị em Kiều đi tảo mộ đang dần bước trở về
nhà. Mặt trời đã "tà tà" gác núi. Ngày hội, ngày vui đã trôi qua nhanh:
Tà tà, bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tuy ra về.
Hội tan sao chẳng buồn? Ngày tàn sao chẳng buồn? Nhịp thơ chậm rãi. Nhịp
sống như ngừng trôi. Tâm tình thì "thơ thẩn", cử chỉ thì "dan tay", nhịp chân thì "bước
dần". Một cái nhìn man mác, bâng khuâng: "lần xem” đối với mọi cảnh vật. Tất cả đều
nhỏ bé. Khe suối chỉ là "ngọn tiểu khê". Phong cảnh "thanh thanh". Dòng nước thì
"nao nao" uốn quanh. Dịp cầu thì "nho nhỏ" bắc ngang ở cuối ghềnh. Cả một không
gian êm đềm, vắng lặng. Tâm tình của chị em Kiều như dịu lại trong bóng tà dương.
Như đang đợi chờ một cái gì sẽ đốn, sẽ nhìn thấy? Cặp mắt cứ "lần xem" gần xa:
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Các từ láy tượng hình: "thanh thanh", "nao nao", "nho nhỏ" gợi lên sự nhạt nhòa
của cảnh vật và sự rung động của tâm hồn giai nhân khi hội tan, ngày tàn. Nỗi niềm
man mác bâng khuâng thấm sâu, lan tỏa trong tâm hồn của giai nhân đa tình, đa cảm.
Cảnh vật và thời gian được miêu tả bằng bút pháp ước lệ tượng trưng nhưng rất
sống động, gần gũi, thân quen đối với bất cứ người Việt Nam nào. Không còn xa lạ
nữa, vì ngọn tiểu khê ấy, nhịp cầu nho nhỏ ấy là màu sắc đồng quê, là cảnh quê hương
đất nước mình. Tính dân tộc là một nét đẹp đậm đà trong thơ Nguyễn Du, nhất là
những vần thơ lả cảnh ngụ tình tuyệt tác.
25
Thi sĩ Xuân Diệu từng viết: "Hỡi xuân hồng, ta muôn cắn vào ngươi". Trong
“Thương nhớ mười hai”, Vũ Bằng không nén nổi cảm xúc của mình mà phải thốt lên:
"Mùa xuân của tôi. Cái mùa xuân thần thánh của tôi. Đẹp quá đi, mùa xuân ơi, mùa
xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến". Và chúng ta muốn nói thêm:
Đẹp quá đi mùa xuân của đất nước thân yêu! Vui quá đi, trẻ đẹp quá đi cảnh mùa
xuân, cảnh trẩy hội xuân trong Truyện Kiều. Mùa xuân đem đến cho ta bao ước vọng,
sắc xuân, tình xuân như nở hoa, ướp hương trong lòng ta.

BÀI THAM KHẢO 2


Một cuộc du xuân – đây là sự kiện mở màn cho cuộc đời thiếu nữ phong lưu và
xuân sắc của Thúy Kiều. Cuộc du xuân mở đầu cho phần thứ nhất trong hệ thống ba
biến cố thông thường của cốt truyện cổ điển: “Gặp gỡ – Tai biến – Đòan tụ”. Chúng ta
sẽ bắt gặp ở đoạn thơ này một bức tranh thiên nhiên sáng tươi xinh đẹp và hội đạp
thanh tưng bừng náo nhiệt. Nhưng cũng chính ở phần “Gặp gỡ” mà thông thường sẽ
chưa có bóng dáng của tai họa – lại đã xuất hiện một nấm mồ, một cuộc đời và một nét
cảm xưa có màu sắc bi kịch về số phận của hồng nhan.
Một bức tranh thiên nhiên và một khung cảnh lễ hội.
Mặc đầu câu thơ thứ hai trong đoạn có thể đưa đến một liên tưởng, một ấn tượng
nào đó về thời gian tuổi thọ. nhưng chủ yếu toàn bộ sáu câu thơ đầu tiên là một bức
tranh thiên nhiên rực rỡ ánh sáng và màu sắc trong trẻo của bầu trời “thanh minh”, của
hình ảnh đàn chim én bay qua bay lại linh hoạt, nhịp nhàng, của nội cỏ mênh mông
một màu tươi sáng pha hòa giữa màu xanh lá cây và màu xanh cỏ non và của một cành
lê thanh tú “trắng điểm một vài bông hoa”…
Con người trong tiết thanh minh đi sửa sang phần mộ và tìm đến những bóng
hình của quá khứ – đó là lễ nghi truyền thống. Nguyễn Du đã chứng tỏ tài nâng bậc
thầy về ngôn ngữ ngay ở câu thơ tự sự ngắn gọn về một sinh hoạt thông thường: Lễ là
tảo mộ, hội là đạp thanh. Nghi lễ vào hội hè có thể có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ,
nhưng đó vẫn là hai hình thức sinh hoạt văn hóa có khác biệt: Hội đạp thanh là cuộc
vui chơi trên dặm cỏ xanh của lứa tuổi xuân xanh… Hội đạp thanh là một cuộc sống
hiện tại và có thể tìm đến những sợi tơ hồng của mai sau… Trong tiết thanh minh, có
hồi ức và tưởng niệm quá khứ( lễ là tảo mộ) nhưng cũng có khát khao và hoài vọng
nhìn về phía trước của cuộc đời (“hội là đạp thanh”).
Sau câu thơ mở đầu là một bức tranh “đượm vẻ thiên nhiên” diễm lệ và tươi
sáng, vẫn chỉ là ngòi bút phác họa, chấm phá nhưng chủ yếu nhà thơ đã sử dụng từ ngữ
dân tộc (trong đó có những câu thơ có thể gọi là “thuần Nôm”), đã lựa chọn những
đường nét, những hình ảnh, những màu sắc đưa vào một tổng thể cấu trúc hội họa hài
hòa giữa bức phông màu thiên thanh và những cánh chim én đậm màu sắc, sắc nét,
giữa cành lê trong trắng trên nền cỏ mùa xuân tươi xinh.
Tiếp theo hình tượng thiên nhiên là ngôn ngữ tự sự về cảnh lễ hội. Một hệ thống
danh từ và động từ kép: gần xa, yến anh, chị em, tài tử, giai nhân… nô nức, sắm sửa,
dập dìu, ngổn ngang biểu hiện những hoạt động nhộn nhịp, náo nhiệt, tươi vui của mọi
26
người và đây lại là một dòng những con người trẻ tuổi “nam thanh nữ tú” với ngựa xe,
trang phục đông đúc, chen chúc… Lễ viếng thăm phần mộ tưng bừng, náo nhiệt, xen
kẽ ngày hội ngộ của tuổi thanh xuân đã hoàn chỉnh bức tranh mùa xuân khi cỏ cây hoa
lá vẫn đang độ tươi xanh rực rỡ, khi không trung và ánh sáng đã trở nên trong trẻo và
ấm áp hơn.
Dường như ánh sáng mùa xuân, niềm vui lễ hội đang bao trùm tất cả nhân gian
(trong đó có ba chị em họ Vương). Thông qua sinh hoạt du xuân của chị em Thúy
Kiều, Nguyễn Du đã khắc họa hình ảnh một truyền thống văn hóa lễ hội xa xưa và một
cung cách sống của gia đình viên ngoại họ Vựơng.
2.Một nấm mồ vô chủ và một kiếp hồng nhan.
Thời gian đã chuyển qua, bóng dương chênh chếch xế chiều. “Tà tà bóng ngả về
tây”. Nhưng đây không chỉ là hoàng hôn của cảnh vật, dường như con người cũng
chìm trong một cảm xúc bâng khuâng khó tả. Trong văn học trung đại, chiều tà thường
gợi” lên ý niệm nhớ nhung, hoài niệm hoặc tàn tạ thê lương. Cuộc du xuân ngoạn cảnh
đã xong, đã chấm dứt lễ hội tưng bừng náo nhiệt… Tâm hồn con người dường như
cũng “chuyển điệu” theo sự thay đổi của thời gian và tàn cuộc thanh minh để mang
chút bâng khuâng thơ thẩn trên dặm đường về… Thời gian và tâm trạng đó báo hiệu
sự biến đổi trong không gian, ở dây chỉ có ba hình ảnh để tả phong cảnh: một dòng
suối nhỏ, chiếc cầu nhỏ và một nấm mồ nhỏ… Cũng vẫn chỉ là ngòi bút phác hoạ qua
sáu câu thơ. Đối lập với” cảnh đông đúc ổn ào của lễ hội ở trên là một không gian cô
tịch với dòng suối nhỏ uốn khúc ,nao nao” nhẹ nhàng, dòng suối bé nhỏ tội nghiệp đến
mức chỉ cần một “nhịp cầu nho nhỏ” bắc ngang là đủ để con người đi qua… Miêu tả
dòng suối hay là miêu tả nỗi niềm nao nao xao động của lòng người ? Giữa cảnh vật
và lòng người dường như không có đường viền… Cũng như vậy, Nguyễn Du dùng
những trạng từ kép: “sè sè, ràu ràu…” nấm đất thấp bé gợi hình ảnh một số phận nhỏ
nhoi. Và riêng ngọn cỏ ở đây không hề mang một màu “xanh tận chân trời” như trên,
mà lại chen màu vàng úa và “ràu ràu” héo hon, ủ rũ… Những từ ngữ “thanh thanh, nao
nao…” biểu đạt sắc thái cảnh vật nhưng đồng thời cũng bộc lộ tâm trạng của con
người.
Một khung cảnh hoàng hôn báo hiệu ngày tàn đối lập với thiên nhiên trong tiết
thanh minh tươi sáng, một nấm mồ cô quạnh thê lương đối lập với lễ tảo mộ đông đúc
náo nhiệt… Một bức tranh đối lập khiến con người đa cảm phải thốt lên một câu hỏi
ngạc nhiên (Rằng: “Sao trong tiết thanh minh, Mà đây hương khói vắng tanh thế này)
Khung cảnh hoang vắng thê lương ấy minh chứng một câu chuyện thương tâm về một
con người, một cuộc đời và một kết thúc đã bị cuộc đời lãng quên…

KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH


(Trích “Truyện Kiều” – Nguyễn Du)
I. Tìm hiểu chung:
1. Vị trí đoạn trích:

27
- Nằm ở phần thứ hai “Gia biến và lưu lạc”. Sau khi biết mình bị lừa vào chốn
lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tứ Bà sợ mất vốn, bèn lựa lời khuyên giải, dụ dỗ.
Mụ vờ chăm sóc, thuốc thang, hứa hẹn khi nàng bình phục,sẽ gả cho người tử tế; rồi
đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới. Sau đoạn này là
việc Kiều bị Sở Khanh lừa và phải chấp nhận làm gái lầu xanh. Đoạn trích nằm giữa
hai biến cố đau xót. Đây là những biến cố giúp ta hiểu những bàng hoàng tê tái và sự
lo âu về tương lại của nàng Kiều.
2. Bố cục đoạn trích:
- Sáu câu đầu: Hoàn cảnh cô đơn, cay đắng xót xa của Kiều
- Tám câu tiếp: Nỗi thương nhớ Kim Trọng và cha mẹ của Kiều
- Tám câu cuối: Tâm trạng đau buồn, âu lo của Kiều qua cách nhìn cảnh vật.
II. Đọc – hiểu văn bản:
1. Hoàn cảnh cô đơn, cay đắng xót xa của Kiều.
- Sáu câu thơ đầu gợi tả cảnh thiên nhiên nơi lầu Ngưng Bích với không gian,
thời gian.
- Không gian nghệ thuật được miêu tả dưới con mắt nhìn của Thúy Kiều:
+ Lầu Ngưng Bích là nơi Kiều bị giam lỏng. Hai chữ “khóa xuân” đã nói lên
điều đó.
+ Cảnh đẹp nhưng mênh mông, hoang vắng và lạnh lẽo:
_ Ngước nhìn xa xa, chỉ thấy dãy núi mờ nhạt.
_ Nhìn lên trời cao chỉ có “tấm trăng gần”. -> Thời gian chiều tối, gợi buồn.
_ Xa hơn nữa, nhìn ra “bốn bề bát ngát xa trông” là những cát vàng cồn nọ nối
tiếp nhau cùng với bụi hồng trên dặm dài thăm thẳm.
=>Nghệ thuật liệt kê, đối lập tương phản “non xa”/”trăng gần”, đảo ngữ, từ
láy “bát ngát” -> gợi không gian rợn ngợp, vắng lặng không một bóng người. Đối
diện với cảnh ấy, Kiều cảm thấy trống trải cô đơn.
- Nàng đau đớn, tủi nhục cho thân phận của mình:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng
+ Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn khép kín, quanh đi quẩn
lại hết “mây sớm” lại “đèn khuya”. Thời gian cứ thế trôi đi, rồi lặp lại, Kiều thấy
tuyệt vọng với tâm trạng cô đơn, buồn tủi, hổ thẹn đến “bẽ bàng”.
+ Bốn chữ “như chia tấm lòng” diễn tả nỗi niềm chua xót, nỗi lòng tan nát của
Kiều.
=> Bút pháp chấm phá đặc sắc, khung cảnh làm nền cho Kiều thổ lộ tâm tình.
Thiên nhiên rộng lớn mà con người nhỏ bé, đơn côi.
2. Nỗi thương nhớ Kim Trọng và cha mẹ của Kiều.
*Chính trong hoàn cảnh cô đơn nơi đất khách quê người, tâm trạng của Kiều
chuyển từ buồn sang nhớ. Kiều nhớ người yêu, nhớ cha mẹ. Nỗi nhớ ấy được Nguyễn
Du miêu tả xúc động bằng những lời độc thoại nội tâm của chính nhân vật.
- Trước hết, Kiều nhớ đến Kim Trọng bởi trong cơn gia biến, Kiều đã phải
hi sinh mối tình đầu đẹp đẽ để cứu gia đình, Kiều đã phần nào “đền ơn sinh
thành” cho cha mẹ. Vì thế trong lòng Kiều, Kim Trọng là người mất mát nhiều
nhất, nỗi đau ấy cứ vò xé tâm can Kiều khiến Kiều luôn nghĩ đến Kim Trọng.
+ Nàng nhớ đến cảnh mình cùng Kim Trọng uống rượu thề nguyền dưới ánh
trăng. Chữ “tưởng” ở đây có thể xem là một nhãn tự. Nguyễn Du không dùng
chữ “nhớ” mà dùng chữ “tưởng”.“Tưởng” vừa là nhớ, vừa là hình dung, tưởng
tượng ra người mình yêu.
28
+ Thúy Kiều như tưởng tượng thấy, ở nơi xa kia, người yêu cũng đang hướng về
mình, đang ngày đêm đau đáu chờ tin nàng: “Tin sương luống những rày trông mai
chờ”.
+ Rồi bất chợt, nàng liên tưởng đến thân phận “bên trời góc biển bơ vơ” của
mình. Kiều băn khoăn tự hỏi: “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”:
_ Câu thơ muốn nói tới tấm lòng son của Kiều, tấm lòng nhớ thương Kim Trọng
sẽ không bao giờ phai mờ, nguôi quên dù cho có gặp nhiều trắc trở trong đường đời.
_ Câu thơ còn gợi ra một cách hiểu nữa: Tấm lòng son trong trắng của Kiều bị
những kẻ như Tú Bà, Mã Giám Sinh làm cho dập vùi, hoen ố,biết bao giờ mới gột rửa
được?
-> Trong bi kịch tình yêu, Thúy Kiều có nỗi đau về nhân phẩm.
- Nhớ người yêu, Kiều cũng xót xa nghĩ đến cha mẹ:
+ Chữ “xót” diễn tả tấm lòng Kiều dành cho đấng sinh thành:
_ Nàng lo lắng xót xa nghĩ đến hình bóng tội nghiệp của cha mẹ, khi sáng sớm,
lúc chiều hôm tựa cửa ngóng tin con, hay mong chờ con đến đỡ đần
_ Nàng lo lắng không biết giờ đây ai là người chăm sóc cha mẹ khi thời tiết đổi
thay.
_ Nàng xót xa khi cha mẹ ngày một thêm già yêu mà mình không được ở bên
cạnh để phụng dưỡng.
-> Tác giả đã sử dụng các thành ngữ “rày trông mai chờ”, “quạt nồng ấp lạnh”,
“cách mấy nắng mưa” và các điển tích, điển cố “sân Lai,gốc Tử”để nói lên tâm trạng
nhớ thương, lo lắng và tấm lòng hiếu thảo của Kiều dành cho cha mẹ.
=> Ở đây, Nguyễn Du đã miêu tả khách quan tâm trạng của Thúy Kiều vượt qua
những định kiến của tư tưởng phong kiến: đặt chữ tình trước chữ hiếu.
Trong cảnh ngộ khi ở lầu Ngưng Bích, Kiều là người đáng thương nhất nhưng
nàng vẫn quên mình để nghĩ đến người yêu, nghĩ đến cha mẹ.Qua đó chứng tỏ Kiều là
con người thủy chung hiếu nghĩa, đáng trân trọng.
3. Tâm trạng đau buồn, lo âu của Kiều qua cách nhìn cảnh vật.
- Điệp ngữ “buồn trông” được lặp lại 4 lần tạo âm hưởng trầm buồn, trở thành
điệp khúc diễn tả nỗi buồn đang dâng lên lớp lớp trong lòng Kiều. Cảnh vật thiên
nhiên qua con mắt của Kiều gợi nỗi buồn da diết:
+ Cánh buồm thấp thoáng lúc ẩn lúc hiện nơi cửa bể chiều hôm gợi hành trình
lưu lạc mờ mịt không biết đâu là bến bờ.
+ Cánh hoa trôi man mác trên ngọn nước mới sa gợi thân phận nhỏ bé, mỏng
manh, lênh đênh trôi dạt trên dòng đời vô định không biết đi đâu về đâu.
+ Nội cỏ rầu rầu trải rộng nơi chân mây mặt đất gợi cuộc sống úa tàn, bi thương,
vô vọng kéo dài không biết đến bao giờ.
+ Hình ảnh “gió cuốn mặt duềnh” và âm thanh ầm ầm của tiếng sóng “kêu
quanh ghế ngồi”gợi tâm trạng lo sợ hãi hùng như báo trước,chỉ ngay sau lúc này, dông
bão của số phận sẽ nổi lên, xô đẩy, vùi dập cuộc đời Kiều.
=> Bằng nghệ thuật ẩn dụ, hệ thống câu hỏi tu từ, các từ láy “thấp thoáng”, “xa
xa”, “man mác”,“rầu rầu”,”xanh xanh”,”ầm ầm”… góp phần làm nổi bật nỗi buồn
nhiều bề trong tâm trạng Kiều. Tác giả lấy ngoại cảnh để bộc lộ tâm cảnh. Cảnh được
miêu tả từ xa đến gần; màu sắc từ nhạt đến đậm; âm thanh từ tĩnh đến động; nỗi buồn
từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ, dồn đến cơn bão táp của nội tâm, cực điểm
của cảm xúc trong lòng Kiều. Toàn là hình ảnh về sự vô định, mong manh, sự dạt trôi,
bế tắc, sự chao đảo nghiêng đổ dữ dội. Lúc này, Kiều trở nên tuyệt vọng,yếu đuối nhất,
vì thế nàng đã mắc lừa Sở Khanh để rồi dấn thân vào cuộc đời ô nhục.
29
III. Tổng kết:
* Ghi nhớ, sách giáo khoa, trang 96.
IV. Luyện tập
1. Viết một đoạn văn phân tích 8 câu thơ cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng
Bích".
2. Tâm trạng nhớ thương của Kiều khi ở lầu Ngưng Bích được thể hiện như thế
nào? Trình tự như thế có hợp lí không? Hãy phân tích để làm sáng tỏ.

BÀI THAM KHẢO 1


Nguyễn Du là bậc thầy về tả cảnh. Nhiều câu thơ tả cảnh của ông có thể coi là
chuẩn mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển. Nhưng Nguyễn Du không chỉ giỏi về tả
cảnh mà còn giỏi về tả tình cảm, tả tâm trạng. Trong quan niệm của ông, hai yếu tố
tình và cảnh không tách rời nhau mà luôn đi liền nhau, bổ sung cho nhau.
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Bằng
bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã miêu tả tâm trạng nhân vật một cách xuất
sắc. Đoạn thơ cho thấy nhiều cung bậc tâm trạng của Kiều. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi,
là tấm lòng thủy chung, nhân hậu dành cho Kim Trọng và cha mẹ.
Kết cấu của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích rất hợp lí: Phần đầu tác giả giới
thiệu cảnh Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích; phần thứ hai: trong nỗi cô đơn buồn
tủi, nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; phần thứ ba: tâm trạng đau buồn của Kiều và
những dự cảm về những bão tô cuộc đời sẽ giáng xuống đời Kiều.
Thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu được miêu tả hoang vắng, bao la đến rợn
ngợp. Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là
vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô
tận, lác đác như bụi hồng nhỏ bé như càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của
nàng lúc này:
Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
Có thể hình dung rất rõ một không gian mênh mông đang trải rộng ra trước mắt
Kiều. Không gian ấy càng khiến Kiều xót xa, đau đớn:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Một chữ bẽ bàng mà lột tả thật sâu sắc tâm trạng của Kiều lúc bấy giờ: vừa chán
ngán, buồn tủi cho thân phận mình, vừa xấu hổ, sượng sùng trước mây sớm, đèn
khuya. Và cảnh vật như cũng chia sẻ, đồng cảm với nàng: nửa tình nửa cảnh như chia
tấm lòng. Bức tranh thiên nhiên không khách quan, mà có hồn, đó chính là bức tranh
tâm cảnh của Kiều những ngày cô đơn ở lầu Ngưng Bích.
Trong tâm trạng cô đơn, buồn tủi nơi đất khách quê người, Kiều tìm về với
những người thân của mình. Nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ được Nguvễn Du miêu tả
rất xúc động trong những lời độc thoại nội tâm của nhân vật. Nỗi nhớ thương được
chia đều: bốn câu đầu dành cho người yêu, bốn câu sau dành cho cha mẹ. Nhưng nỗi
nhớ với chàng Kim được nói đến trước vì đây là nồi nhớ nồng nàn và sâu thẳm nhất.
Nồi nhớ đó được xoáy sâu và đêm thề nguyền dưới ánh trăng và nỗi đau cũng trào lên
từ đó:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
30
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai.
Lời thơ như chứa đựng nhịp thổn thức của một trái tim yêu đương đang chảy
máu! Nỗi nhớ của Kiều thật tha thiết, mãnh liệt! Kiều tưởng tượng ra cảnh chàng Kim
đang ngày đêm chờ mong tin mình một cách đau khổ và tuyệt vọng. Mới ngày nào
nàng cùng với chàng Kim nặng lời ước hẹn trăm năm mà bỗng dưng, nay trở thành kẻ
phụ bạc, lỗi hẹn với chàng. Chén rượu thề nguyền vẫn còn chưa ráo, vầng trăng vằng
vặc giữa trời chứng giám lời thề nguyền vẫn còn kia, vậy mà bây giờ mỗi người mỗi
ngả. Rồi bất chợt Kiều liên tưởng đên thân phận Bên trời góc bể bơ vơ của mình và tự
dằn vặt: Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Kiều nuối tiếc mối tình đầu trong trắng của
mình, nàng thấm thía tình cảnh cô đơn của mình, và cũng hơn ai hết, nàng hiểu rằng sẽ
không bao giờ có thể gột rửa được tấm lòng son sắt, thủy chung của mình với chàng
Kim. Và thực sự, bóng chàng Kim cũng sẽ không bao giờ phai nhạt trong tâm trí Kiều
trong suốt mười lăm năm lưu lạc.
Nhớ người yêu, Kiều càng xót xa nghĩ đến cha mẹ. Mặc dầu nàng đã liều đem tấc
có, quyết đền ba xuân, cứu được cha và em thoát khỏi vòng tù tội, nhưng nghĩ về cha
mẹ, bao trùm trong nàng là một nỗi xót xa lo lắng. Kiều đau lòng khi nghĩ đến cảnh
cha mẹ già tựa cửa trông con. Nàng lo lắng không biết khi thời tiết thay đổi ai là người
chăm sóc cha mẹ. Nguyễn Du đã rất thành công khi sử dụng thành ngữ, điển cố (tựa
cửa hôm mai, quạt nồng ấp lạnh, gốc tử) để thể hiện tình cảm nhớ nhung sâu nặng
cũng như những băn khoăn, trăn trở của Kiều khi nghĩ đến cha mẹ, nghĩ đến bổn phận
làm con của mình. Trong hoàn cảnh của Kiều, những suy nghĩ, tâm trạng đó càng
chứng tỏ Kiều là một người con rất mực hiếu thảo.
Nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng rồi cuổì cùng nàng Kiều lại quay về với cảnh
ngộ của mình, sống với tâm trạng và thân phận hiện tại của chính mình. Mỗi cảnh vật
qua con mắt, cái nhìn của Kiều lại gợi lên trong tâm trí nàng một nét buồn. Và nàng
Kiều mỗi lúc lại càng chìm sâu vào nỗi buồn của mình. Nỗi buồn sâu sắc của Kiều
được ngòi bút bậc thầy Nguyễn Du mỗi lúc càng tô đậm thêm bằng cách dùng điệp
ngữ liên hoàn rất độc đáo trong tám câu thơ tả cảnh ngụ tình:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Nguyễn Du quan niệm: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu... Mỗi cảnh vật hiện ra qua
con mắt của Kiều ở lầu Ngưng Bích đều nhuốm nỗi buồn sâu sắc. Mỗi cặp câu gợi ra
một nỗi buồn. Buồn trông là buồn mà nhìn ra xa, nhưng cũng là buồn mà trông ngóng
một cái gì đó mơ hồ sẽ đến làm đổi thay tình trạng hiện tại. Hình như Kiều mong cánh
buồm, nhưng cánh buồm chỉ thấp thoáng,xa xa không rõ, như một ước vọng mơ hồ,
mỗi lúc mỗi xa. Kiều lại trông ngọn nước mới từ cửa sông chảy ra biển, ngọn sóng xô
đẩy cánh hoa phiêu bạt, không biết về đâu như thân phận của mình. Rồi màu xanh
xanh bất tận của nội cỏ rầu rầu càng khiến cho nỗi buồn thêm mênh mang trong không
gian; để rồi cuối cùng, nỗi buồn đó bỗng dội lên thành một nỗi kinh hoàng khi ầm ầm
tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Đây là một hình ảnh vừa thực, vừa ảo, cảm thấy như
sóng vỗ dưới chân, đầy hiểm họa, như muốn nhấn chìm Kiều xuống vực.
31
Tám câu thơ tuyệt bút với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình kết hợp với nghệ thuật điệp
ngữ liên hoàn đầu mỗi câu lục và nghệ thuật ước lệ tượng trưng cùng với việc sử dụng
nhiều từ láy tượng hình, tượng thanh (thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, ầm ầm) đã
khắc họa rõ cảm giác u uất, nặng nề, bế tắc, buồn lo về thân phận của Thúy Kiều khi ở
lầu Ngưng Bích.
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh thiên nhiên đồng thời cũng là
một bức tranh tâm trạng có bố cục chặt chẽ và khéo léo. Thiên nhiên ở đây liên tục
thay đổi theo diễn biến tâm trạng của con người. Mỗi nét tưởng tượng của Nguyễn Du
đều phản ánh một mức độ khác nhau trong sự đau đớn của Kiều. Qua đó, cho thấy
Nguyễn Du đã thực sự hiểu nỗi lòng nhân vật trong cảnh đời bất hạnh để ca ngợi tấm
lòng cao đẹp của nhân vật, để giúp ta hiểu thêm tâm hồn của những người phụ nữ tài
sắc mà bạc mệnh.

BÀI THAM KHẢO 2


Nhà nghiên cứu Phạm Quỳnh từng khẳng định: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn,
tiếng ta còn, nước ta còn”, còn nhà thơ Chế Lan Viên lắng sâu và tinh tế khi cất lên lời
thơ: “Nguyễn Du viết Kiều đất nước hoá thành văn”. Bao thế kỉ qua, Truyện Kiều đã
trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu với mỗi người dân Việt Nam. Những trang
thơ có sức cuốn hút diệu kì, vương vấn mãi tâm hồn ta, mang đến cho ta niềm cảm
thương sâu sắc với “tấm gương oan khổ” Thúy Kiều, đem lại cho ta những khoái cảm
thẩm mĩ đặc biệt trước những lời thơ như hoa, như gấm:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Tám câu thơ trích trong đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích. Đây là những vần thơ có
sức ám ảnh nhất của đoạn trích, diễn tả thành công “nỗi lòng tê tái” của Kiều trong
những ngày đầu tiên của kiếp đoạn trường.
Hai tiếng “buồn trông” được lặp lại bốn lần trong đoạn trích, vừa như gói trọn
tâm thế của Kiều “trước lầu Ngưng Bích”, vừa tạo nhịp điệu đều đều, buồn thương cho
đoạn thơ. Ở nơi “khoá xuân”, Kiều chỉ biết lấy thiên nhiên làm điểm tựa, và từ điểm
tựa đó nàng nhận thức về số kiếp của mình. Tầm nhìn của nàng trước hết hướng ra xa,
vì nơi xa đó là nhà nàng, là nơi có những người thân yêu nhất:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Không gian xa rộng, quạnh hiu nơi cửa bể như càng làm nổi rõ hơn thân phận
nhỏ bé, cô đơn của Kiều. Không gian ấy cộng hưởng cùng thời gian “chiều hôm” -
thời khắc gợi nhớ, gợi buồn - khiến như thấm sâu hơn vào tâm hồn người con gái nơi
xứ lạ nỗi niềm xót xa. Giữa khung cảnh ấy, trái tim cô đơn, tâm hồn trống vắng cần
lắm một hơi ấm, một sự hiện diện của sự sống:
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa ?
“Thuyền” chính là hình ảnh biểu tượng cho sự sống con người. Nhưng đó là sự
hiện hữu mờ mờ, như có như không, được diễn tả qua hai từ “thấp thoáng”, “xa xa”.
Sự xuất hiện mờ ảo của cánh buồm không làm cho khung cảnh thêm thân mật, ấm áp
32
mà càng gợi sầu, gợi cảm giác cô liêu cho con người. Không tìm thấy sự sẻ chia từ nơi
cửa biển xa xăm, Kiều hướng tầm mắt về “ngọn nước” gần mình hơn:
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Giữa dòng nước, cánh hoa trôi man mác như gợi nhắc thân phận cảnh bèo trôi dạt
của người trong cảnh. Câu hỏi tu từ như xoáy vào tâm hồn người đọc. Thân phận cánh
hoa hay chính là những trăn trở, xót xa cho số kiếp mỏng manh, phiêu bạt của Kiều?
Hai tiếng “về đâu” cuối câu thơ với thanh không càng tạo cảm giác xa vắng, vô định,
như tương hợp với tâm thế hiện thời của Kiều. Tìm đến với thiên nhiên đó mong sao
vơi bớt mối sầu chất chứa trong lòng nhưng càng nhìn cảnh, tâm trạng lại càng rối bời.
Dường như nước gợi lên sự lạnh lẽo, bất định, chảy trôi nên Kiều tìm về với bờ cỏ
xanh, với mặt đất:
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Nhưng cỏ cũng mang tâm trạng buồn thương của người: “rầu rầu”. Đâu còn là
“cỏ non” xanh tận chân trời trong tiết thanh minh khi Kiều còn sống những ngày tháng
“Êm đềm trướng rủ màn che”. Cảnh nơi xứ lạ như thấu cảm nỗi niềm của Kiều nên
nhuốm màu tâm tư của kiếp người phiêu bạt. Nỗi “rầu rầu” ấy tràn ngập, lan toả khắp
không gian
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Cái nhìn bao quát từ “chân mây” xa xăm đến “mặt đất” gần gũi, tất cả đều “một
màu xanh xanh”. Nó khác lắm cái sắc xanh tràn ngập nhựa sống của tiết trời mùa
xuân:Cỏ non xanh tận chân trời và cũng không giống màu áo xanh tinh khôi của chàng
Kim trong ngày đầu gặp gỡ:
Tuyết in sắt ngựa câu giòn.
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.
Màu xanh của không gian nơi lầu Ngưng Bích là màu xanh gợi buồn. Nỗi buồn
của người pha vào cảnh vật, mang theo bao tái tê. Không gian trở nên rợn ngợp, cô
liêu. Sự vắng lặng bao trùm cảnh vật càng tô đậm tiếng lòng thổn thức của người trong
cảnh. Kiều cảm thấy cần một tiếng vọng của sự sống con người nhưng đáp lại nàng chỉ
có những thanh âm hào hùng của thiên nhiên:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh.
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Gió thổi, nước trôi... tất cả đều gợi sự chảy trôi, như thân phận “Bên trời góc bể
bơ vơ” của nàng Kiều. Âm thanh của tiếng sóng ầm ầm như tiếng gào thét của lòng
người trong cảnh ngộ bẽ bàng, tê tái. Tầm nhìn của Kiều hướng từ xa về gần, từ cao
đến thấp, mong mỏi kiếm tìm một sự đáp vọng. Thanh âm duy nhất đáp lại nàng là
tiếng sóng "ầm ầm” “kêu quanh ghế ngồi”. Nó không làm cho không gian vang động
hơn mà càng khắc sâu thêm tâm trạng đau đớn lẫn dự cảm lo âu về tương lai của Kiều.
Xót xa biết bao, đớn đau biết bao! Chỉ có thiên nhiên bên nàng, sẻ chia “tấm lòng’' với
nàng. Đó chính là thời khắc Kiều thấm thía nhất nỗi niềm tự thương thân.
Thơ ca chỉ tìm được bến neo đậu nơi lòng người khi đó là tiếng lòng tha thiết,
được tạo tác bởi tài năng nghệ thuật chân chính. Đoạn thơ này của Nguyễn Du đã làm
được điều đó. Nó không chỉ khắc họa thành công nỗi lòng xót xa, tâm trạng bẽ bàng
của Kiều mà còn cho ta thấy nghệ thuật tả cảnh ngụ tình bậc thầy của đại thi hào dân
tộc. Âm hưởng cùa những câu thơ này đã, đang và sẽ vang đọng mãi trong tâm trí
người đọc

33
LỤC VÂN TIÊN CỨU KIỀU NGUYỆT NGA
Trích “Truyện Lục Vân Tiên” – Nguyễn Đình Chiều

I. Tìm hiểu chung:


1. Tác giả:
a. Cuộc đời:
- Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), tục gọi là Đồ Chiểu.
- Quê cha ở ThừaThiên – Huế, ông được sinh tại quê mẹ ở Gia Định.
- Cuộc đời Nguyễn Ðình Chiểu gặp nhiều khổ đau, bất hạnh:
+ Ngay từ nhỏ, Nguyễn Ðình Chiểu đã theo cha chạy giặc. Từ một cậu ấm con
quan, bỗng chốc trở thành một đứa trẻ thường dân sống trong cảnh chạy loạn, trả thù,
chém giết.
+ Năm 1843, Nguyễn Đình Chiểu đỗ tú tài tại trường Gia Định.Năm 1846, ông ra
Huế học, chuẩn bị thi tiếp tại quê cha, nhưng lúc sắp vào trường thi thì nhận được tin
mẹ mất, phải bỏ thi trở về Nam chịu tang mẹ (1849). Dọc đường về, Nguyễn Đình
Chiểu bị đau mắt nặng rồi bị mù. Ông bị người yêu bội ước, công danh dang dở.
- Không khuất phục trước số phận oan nghiệt, Nguyễn Đình Chiểu đã ngẩng cao
đầu sống một cuộc sống có ích: mở trường dạy học, bốc thuốc chữ bệnh cho dân, và
tiếng thơ Đồ Chiểu cũng bắt đầu vang khắp miền Lục tỉnh:
+ Là một thầy giáo, ông đặt việc dạy người cao hơn dạy chữ, được nhiều thế hệ
học trò kính yêu.
+ Là thầy thuốc, ông xem trọng y đức, lấy việc cứu người làm trọng.
+ Là nhà thơ, Nguyễn Đình Chiểu quan tâm đến việc dùng văn chương để hướng
con người đến cái thiện, đến một lối sống cao đẹp, đúng đạo lí làm người. Khi quê
hương bị thực dân Pháp xâm lược, ông dùng thơ văn để khích lệ tinh thần chiến đấu
của nhân dân.
- Nguyễn Đình Chiểu còn là tấm gương sáng ngời lòng yêu nước và tinh thần bất
khuất chống ngoại xâm:
+ Ông là lá cờ đầu trong nền thơ ca yêu nước chống Pháp. (Lên lớp 11, các em sẽ
được học hai tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Đình Chiểu viết về nội dung yêu nước.
Đó là “Chạy giặc” và “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”).
+ Ngay từ những ngày đầu giặc Pháp xâm lược Nam Bộ (1858),Nguyễn Đình
Chiểu đã nêu cao tinh thần bất khuất chống giặc ngoại xâm; kiên quyết giữ vững lập
trường kháng chiến; cùng các lãnh tụ nghĩa quân bàn bạc việc chống giặc và sáng tác
thơ văn để khích lệ tinh thần chiến đầu của các nghĩa sĩ. Thơ văn của Nguyễn Đình
Chiểu có tác động tích cực đối với cuộc chiến đấu của nhân ta đương thời. Bởi vậy, mà
ông được mệnh danh là “Thư sinh giết giặc bằng ngòi bút” (ý thơ Tùng Thiện
Vương).
+ Khi triều đình nhà Nguyễn bại nhược, bất lực đến mức phải dâng cả Nam Kì
lục tỉnh cho giặc Pháp, Nguyễn Đình Chiểu đã nêu cao khí tiết, giữ gìn lối sống trong
sạch, cao cả, từ chối mọi cám dỗ của thực dân, không chịu hợp tác với kẻ thù.
b. Sự nghiệp văn chương:
- Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ lớn của dân tộc. Ông đã để lại nhiều áng
văn chương có giá trị nhằm:

34
+ Truyền bá đạo lí làm người như “Truyện Lục Vân Tiên”, “Dương Từ - Hà
Mậu” …
+ Cổ vũ lòng yêu nước, ý chí cứu nước như “Chạy giặc”, “Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc”,“Thơ điếu Trương Định”…
*Trong một bàiviết của mình, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có những lời so
sánh, ví von diệu vợi để tưởng nhớ tới nhà thơ, người chiến sĩ yêu nước đầy tự hào của
dân tộc ta ở thế kỷ 19 – Nguyễn Đình Chiểu:
“Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường, thoạt nhìn thì chưa thấy
sáng, song càng nhìn thì càng thấy sáng. Nguyễn Đình Chiểu – nhà thơ yêu nước vĩ
đại của nhân dân Nam Bộ thế kỉ XIX là một trong những ngôi sao như thế!”.
* “Một con người tật nguyền như vậy, nếu chỉ sống bình thường, trong sạch
cũng là quý, không ai nỡ đòi hỏi phải gánh vác việc đời. Ấy mà cụ đã sống và đã
làm việc với ba cương vị trí thức, luôn luôn có mặt ở phía trước, luôn luôn
gương mẫu, cống hiến không kể mình, và như vậy cho đến ngày từ giã cõi đời. Còn có
tấm gương người mù nào đáng soi hơn cho người có đủ hai mắt”.
2. Tác phẩm:
- “Truyện Lục Vân Tiên” là truyện thơ Nôm, được viết vào khoảng đầu những
năm 50 của thế kỉ XIX. “Truyện Lục Vân Tiên” là sách gối đầu giườngcủa người Nam
Bộ, là tiếng lòng của người miền Nam.
- Truyện có kết cấu theo kiểu truyền thống của truyện phương Đông, theo
chương hồi, xoay quanh diễn biến cuộc đời của nhân vật chính.
- Nội dung của truyện là truyền dạy đạo lí làm người, cụ thể là:
+ Ca ngợi tình nghĩa giữa con người với con người trong xã hội: tình nghĩa vợ
chồng, tình cha con, mẹ con, tình cảm bạn bè, lòng yêu thương sẵn sàng cưu mang,
đùm bọc những người gặp cơn hoạn nạn.
+ Đề cao tinh thần nghĩa hiệp, sẵn sàng cứu khốn phò nguy.
+ Thể hiện khát vọng của nhân dân hướng tới lẽ công bằng và những điều tốt đẹp
trong cuộc đời: thiện thắng ác, chính nghĩa thắng gian tà.
- Đoạn trích “LụcVân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” nằm ở phần đầu của truyện:
Vân Tiên trên đường lên Kinh Đô dự thi, chàng gặp bọn cướp Phong Lai đang
hoành hành. Chàng đã bẻ cây bên đường làm gậy. Xông thẳng vào những kẻ trong tay
có vũ khí. Chàng đã đánh tan chúng, cứu được Kiều Nguyệt Nga và cô hầu Kim Liên.
II – Đọc hiểu vănbản:
1. Tính chất tự truyện của tác phẩm:
- Tác phẩm có tính chất một thiên tự truyện. Đọc tác phẩm, ta thấy có nhiều chi
tiết trùng hợp giữa cuộc đời tác giả Nguyễn Đình Chiểu và nhân vật Lục Vân Tiên:
như việc bỏ thi về chịu tang mẹ, bị mù, bị bội hôn ước, và sau này họ đều có được
cuộc hôn nhân tốt đẹp. Lục Vân Tiên là nhân vật tự truyện của Nguyễn Đình Chiểu.
- Nhưng Nguyễn Đình Chiểu không được như Lục Vân Tiên: được gặp tiên ông
cứu cho sáng mắt để sau đó lại tiếp tục đi thi đỗ Trạng nguyên, được vua cử đi dẹp
giặc Ô Qua thắng lợi. Những gì chưa làm được trong cuộc đời mình, Nguyễn Đình
Chiểu gửi gắm vào nhân vật Lục Vân Tiên. Cho nên Lục Vân Tiên cũng là nhân vật lí
tưởng của Đồ Chiểu, là nơi nhà thơ gửi gắm ước mơ và khát vọng của mình.
2. Nhân vật LụcVân Tiên:
- Hình ảnh Lục Vân Tiên được khắc họa theo mô típ quen thuộc của truyện Nôm
truyền thống: một chàng trai tài giỏi cứu một cô gái thoát khỏi tình huống hiểm nghèo,
rồi từ ân nghĩa đến tình yêu… như chàng Thạch Sang đánh đại bàng, cứu công chúa
Quỳnh Nga (“Thạch Sanh”). Mô-típ này thể hiện niềm mong ước của tác giả và cũng
35
làcủa nhân dân. Trong thời buổi nhiễu nhương hỗn loạn này, người ta trông mong ở
những người tài đức, dám ra tay cứu nạn giúp đời.
a. Lục Vân Tiên đánh cướp:
- Lục Vân Tiên là nhân vật lí tưởng của tác phẩm (thể hiện lí tưởng thẩm mĩ của
tác giả về con người trong cuộc sống đường thời…). Đây là một chàng trai vừa rời
trường học, bước vào đời lòng đầy hăm hở, muốn lập công danh, thi thố tài năng, cứu
người giúp đời. Trận đụng độ với bọn cướp Phong Lai hung dữ là thử thách đầu tiên,
cũng là cơ hội hành động dành cho chàng.
Vân Tiên ghé lại bên đàng
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô.
Kêu rằng: "Bớ đảng hung đồ!
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân.
Phong Lai mặt đỏ phừng phừng:
Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây.
Trước gây việc dữ tại mầy,
Truyền quân bốn phía phủ vây bịt bùng.
Bốn câu thơ làm hiện lên hình ảnh một chàng trai giàu lòng nghĩa hiệp, giữa
đường gặp chuyện bất bình thì sẵn sàng xả thân ra tay cứu giúp, không cần phải so đo
tính toán. Vân Tiên chỉ có một mình với tay không đánh giặc, trong khi bọn cướp đông
đảo, gươm giáo đầy đủ, thanh thế lẫy lừng: “Người đều sợ nó cò tài khôn
đương”. Vậy mà chàng không hề run sợ, vẫn “bẻ cây làm gậy” xông vào đánh cướp.
Hành động mau lẹ đến thế phải của một người gan góc, quả cảm, coi việc cứu dân là
trách nhiệm của bản thân.
- Hình ảnh Vân Tiên trong trận đánh được miêu tả thật đẹp, thật oai hùng. Bọn
cướp “bốn phía bủa vây bịt bùng” nhưng Vân Tiên không chút nao núng:
Vân Tiên tả đột hữu xông,
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang.
-> Không tả tỉ mỉ trận chiến, chỉ bằng mấy dòng thơ ngắn gọn mà đặc sắc cùng
nghệ thuật so sánh, tác giả đã làm nổibật một dũng tướng đánh nhanh, kín võ, sánh
ngang Triệu Tử Long thời Tam Quốctrong trận phá vòng vây quân Tào bảo vệ ấu
chúa. Sức mạnh của chàng là kết tinhsức mạnh của nhân dân , của điều thiện nên nó vô
địch:
Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Phong Lai trở chẳng kịp tay,
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.
-> Lời thơ chân chất, mộc mạc song hồn thơ thì chan chứa dạt dào. Nó nêu bật
một chân lý: kẻ bất nhân độc ác thì thảm bại, người anh hùng làm việc nghĩa tất yếu sẽ
chiến thắng. Vân Tiên đã chiến thắng bởi sức mạnh của nhân nghĩa, của lẽ phải, sức
mạnh của tình yêu thương và lòng dũng cảm kiên cường. Chàng chính là hiện thân của
người anh hùng thượng võ, sẵn sàng cứu khốn phò nguy, dám bênh vực kẻ yếu, tiêu
diệt mọi thế lực bạo tàn.
b. Lục Vân Tiên gặp Kiều Nguyệt Nga:
- Cách cư xử của Lục Vân Tiên với Kiều Nguyệt Nga sau khi đánh cướp bộc lộ
tư cách con người chính trực, hào hiệp, trọng nghĩa khinh tài cũng rất từ tâm nhân hậu.
- Thấy hai cô gái còn chưa hết sợ hãi, Vân Tiên “động lòng” thương xót, ân cần
hỏi han, an ủi họ:
Vân Tiên nghe nói động lòng
36
Đáp rằng: “Ta đã trừ dòng lâu la.
- Khi nghe trong kiệu vọng ra tiếng nói muốn được tạ ơn, Vân Tiên vội gạt đi
ngay:
Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
Nàng là phận gái, ta là phận trai.
Câu thơ này vừa chứa đựng sự câu nệ của lễ giáo phong kiến “nam nữ thụ thụ
bất thân”, vừa thể hiện suy nghĩ trong sáng của Vân Tiên: “Làm ơn há dễ trông người
trả ơn”. Chàng không muốn nhận những cái lạy tạ của hai cô gái và từ chối lời mời về
thăm nhà của Nguyệt Nga. Sau đó, chàng không nhận chiếc trâm vàng nàng tặng mà
chỉ cùng nàng xướng họa một bài thơ rồi thanh thản ra đi, không hề vương vấn. Dường
như đối với Vân Tiên, làm việc nghĩa là bổn phận, là lẽ tự nhiên. Con người trọng
nghĩa khinh tài ấy không coi đó là công trạng. Đó là cách cư xử mang tinh thần nghĩa
hiệp của các bậc anh hùng hảo hán:
Vân Tiên nghe nóiliền cười:
“Làm ơn há dễ trông người trả ơn.
Nay đà rõ đặng nguồn cơn,
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.
Nhớ câu kiến nghĩa bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.
=> Với phẩm chất cao đẹp, Lục Vân Tiên đã trở thành một hình tượng lí
tưởng để Nguyễn Đình Chiểu gửi gắm vào đó niềm tin và ước vọng của mình.

2. Nhân vật Kiều Nguyệt Nga: hiện lên qua ngôn ngữ đối thoại với Vân Tiên.
a. Phẩm chất tốt đẹp của nhân vật Kiều Nguyệt Nga được tác giả thể hiện
qua lời lẽ chân thành mà nàng giãi bày với Lục Vân Tiên. Đó là lời lẽ của một tiểu
thu khuê các, thùy mị, nết na và có học thức:
- Cách xưng hô của nàng vừa trân trọng, vừa khiêm nhường:
Trước xe quân tử tạm ngồi,
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa.
- Nói năng dịu dàng, mực thước:
+ Làm con đâu dám cãi cha,
Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành.
+ Chút tôi liễu yếu đào thơ,
Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần.
- Trình bày rõ ràng, khúc chiết, vừa đáp ứng đầy đủ những điều thăm hỏi ân cần
của Lục Vân Tiên, vừa thể hiện niềm cảm kích chân thành đối với ân nhân cứu mạng:
Thưa rằng: “Tôi Kiều Nguyệt Nga,
….
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi”.
b. Nguyệt Nga là người chịu ơn. Lục Vân Tiên không chỉ cứu mạng, mà còn
cứu cả cuộc đời trong trắng của nàng. Đối với người con gái, điều đó còn quý hơn
tính mạng:
Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,
Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.
Nàng băn khoăn tìm cách trả ơn chàng, dù hiểu rằng đền đáp bao nhiêu cũng là
không đủ:
Gẫm câu báo đức thù công
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng người”.
37
Bởi thế, nàng đã tự nguyện gắn bó cuộc đời mình với chàng trai khảng khái, hào
hiệp và sau này dám liều mình quyên sinh để giữ trọn ân nghĩa thủy chung.

=> Nhân vật Kiều Nguyệt Nga đã chinh phục được tình cảm yêu mến của
nhân dân, những con người luôn đặt ân nghĩa lên hàng đầu, coi ân nghĩa là gốc rễ
của đạo đức.
III – Tổng kết:
1. Nghệ thuật:
- Nguyễn Đình Chiểu sáng tác “Truyện Lục Vân Tiên” chủ yếu để kể, truyền
miệng nên nhân vật được miêu tả thiên về lời nói, hành động hơn là ngoại hình, diễn
biến nội tâm, qua đó nhân vật tự bộc lộ tính cách, phẩm chất.
- Bên cạnh đó là ngôn ngữ bình dị, mộc mạc gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày,
đậm màu sắc Nam Bộ. Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ kể chuyện tự nhiên, ít trau chuốt,
uyển chuyểnnhưng lại dễ đi sâu vào tâm hồn quần chúng nhân dân.
2. Nội dung:
Đoạn thơ trích thểhiện khát vọng hành động hành đạo giúp đời của tác giả và
khắc hoạ những phẩm chất tốt đẹp của hai nhân vật chính: Lục Vân Tiên tài ba, dũng
cảm, trọng nghĩa khinh tài; Kiều Nguyệt Nga hiền hậu, nết na, ân tình chung thủy.

Phần văn học hiện đại


ĐỒNG CHÍ
Chính Hữu
I – Tìm hiểu chung:
1. Tác giả:
- Chính Hữu, tên khai sinh Trần Đình Đắc (1926-2007), quê: Can Lộc, Hà Tĩnh.
- 1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ đô và hoạt động trong quân đội suốt hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ.
- 1947, ông bắt đầu sáng tác thơ và thơ ông chủ yếu viết về người lính và chiến
tranh với cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ cô đọng.
- 2000, ông được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học –
nghệ thuật.
- Tác phẩm chính: Đầu súng trăng treo (1966), Ngọn đèn đứng gác….
2. Tác phẩm:
- “Đồng chí” là một trong số những bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Chính
Hữu và cũng là của nền thơ kháng chiến.
- Bài thơ đã đi qua một hành trình hơn nửa thế kỉ làm đẹp mãi cho một hồn thơ
chiến sĩ – hồn thơ Chính Hữu.
a. Hoàn cảnh sáng tác:
- Bài thơ “Đồng chí” được sáng tác vào đầu năm 1948 – sau chiến dịch Việt Bắc
(thu đông 1947 ).Trong chiến dịch này, Chính Hữu là chính trị viên đại đội, ông có
nhiều nhiệm vụ nhất là việc chăm sóc anh em thương binh và chôn cất một số tử sĩ.
Sau chiến dịch, vì là rất vất vả, nên ông bị ốm nặng, phải nằm lại điều trị. Đơn vị đã
cử một đồng chí ở lại để chăm sóc cho Chính Hữu và người đồng đội ấy rất tận tâm
giúp ông vượt qua những khó khăn, ngặt nghèo của bệnh tật. Cảm động trước tấm lòng
của người bạn, ông đã viết bài thơ “Đồng chí” như một lời cảm ơn chân thành nhất
gửi tới người đồng đội, người bạn nông dân của mình.
38
- Bài thơ được in trong tập “Đầu súng trăng treo” (1966) – tập thơ phần lớn viết
về người lính trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
b. Bố cục: 3 phần.
+ Bảy câu thơ đầu: Cơ sở hình thành tình đồng chí.
+ Mười câu thơ tiếp: Biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí.
+ Ba câu thơ cuối: Bức tranh đẹp về tình đồng chí, biểu tượng cao cả của cuộc
đời người chiến sĩ.
c. Chủ đề: Ngợi ca tình đồng đội, đồng chí cao cả, thiêng liêng của các anh bộ
đội Cụ Hồ -những người nông dân yêu nước mặc áo lính trong những năm đầu của
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
II – Đọc – hiểu văn bản:
* Câu hỏi 2, sgk, trang 130:
Sáu dòng đầu bài thơ đã nói về cơ sở hình thành tình đồng chí của những người
lính cách mạng. Cơ sở ấy là:
+ Cùng chung cảnh ngộ.
+ Cùng chung nhiệm vụ, lí tưởng chiến đấu.
+ Cùng chia sẻ mọi gian lao, thiếu thốn.
1. Cơ sở hình thành tình đồng chí:
a. Hai câu đầu:
- Hai câu thơ mở đầu bằng lối cấu trúc song hành, đối xứng như làm hiện lên hai
gương mặt người chiến sĩ. Họ như đang tâm sự cùng nhau. Giọng điệu tự nhiên, mộc
mạc, đầy thân tình. “Quê anh” và “làng tôi” đều là những vùng đất nghèo, cằn cỗi,
xác xơ, là nơi “nước mặn đồng chua” – vùng đồng bằng ven biển, là xứ sở của “đất
cày lên sỏi đá” – vùng đồi núi trung du.
- Tác giả đã mượn thành ngữ, tục ngữ để nói về làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn
thân yêu của những người chiến sĩ. Điều ấy đã làm cho lời thơ mang đậm chất chân
quê, dân dã đúng như con người vậy – những chàng trai dân cày chân đất, áo nâu lần
đầu mặc áo lính lên đường ra trận! Như vậy, sự đồng cảnh, cùng chung giai cấp chính
là cơ sở, là cái gốc hình thành nên tình đồng chí.
b. 5 câu thơ tiếp: Nói về quá trình hình thành tình đồng chí: Xa lạ -> Cùng
chung mục đích -> Tri kỉ -> Đồng chí.
Năm câu thơ tiếp nói lên một quá trình thương mến: từ chỗ “đôi người xa lạ” rồi
thành “đôi tri kỉ” để kết thành “đồng chí”. Câu thơ có độ dài ngắn khác nhau, cảm
xúc thơ như dồn tụ, nén chặt lại. Những ngày đầu, đứng dưới lá quân kì, những chàng
trai ấy còn là “đôi người xa lạ”, mỗi người một phương trời “chẳng hẹn quen
nhau”. Nhưng rồi cùng với thời gian kháng chiến, đôi bạn ấy gắn bó với nhau bằng
biết bao kỉ niệm: “Súng bên súng, đầu sát bên đầu – Đêm rét chung chăn thành đôi tri
kỉ”. “Súng bên súng” là cách nói hàm súc, giàu hình tượng, đó là những con người
cùng chung lí tưởng chiến đấu. Họ cùng nhau ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước,
quê hương, giữ gìn nền độc lập, tự do, sự sống còn của dân tộc – “Quyết tử cho Tổ
quốc quyết sinh”. Còn hình ảnh “đầu sát bên đầu” lại diễn tả sự đồng ý, đồng tâm,
đồng lòng của hai con người đó. Và câu thơ “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” lại
là câu thơ ắp đầy kỉ niệm về một thời gian khổ, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi “Bát cơm
sẻ nửa – Chăn sui đắp cùng”. Và như thế mới thành “đôi tri kỉ” để rồi đọng kết lại
là “Đồng chí!”. “Đồng chí”– hai tiếng ấy mới thiêng liêng làm sao! Nó diễn tả niềm
tự hào, xúc động, cứ ngân vang lên mãi. Xúc động bởi đó là biểu hiện cao nhất của
một tình bạn thắm thiết, đẹp đẽ. Còn tự hào bởi đó là tình cảm thiêng liêng, cao cả của

39
những con người cùng chung chí hướng, cùng một ý nguyện, cùng một lí tưởng, ước
mơ.
=> Ở đây, trong những câu thơ này, tác giả đã sử dụng những từ ngữ rất giản dị,
nhưng rất chân xác: “bên”, “sát”, “chung”,”thành” đã thể hiện được sự gắn bó tha
thiết của mối tình tri kỉ, của tình cảm đồng chí. Cái tấm chăn mỏng, hẹp mà ấm nóng
tình đồng đội ấy mãi mãi là kỉ niệm đẹp của người lính không bao giờ quên.
Câu hỏi 1: Dòng thứ bảy của bài thơ có gì đặc biệt? Mạch cảm xúc và suy
nghĩ trong bài thơ được triển khai như thế nào trước và sau dòng thơ đó?
=> Trả lời:
- Dòng thơ thứ bảy trong bài thơ “Đồng chí” là một điểm sáng tạo, một nét độc
đáo qua ngòi bút của Chính Hữu. Dòng thơ được tác riêng độc lập, là một câu đặc biệt
gồm từ hai âm tiết đi cùng dấu chấm than, tạo nốt nhấn vang lên như một sự phát hiện,
một lời khẳng định đồng thời như một bản lề gắn kết đoạn thơ đầu với đoạn thơ sau.
Sáu câu thơ đầu là cội nguồn, là cơ sở hình thành tình đồng chí; mười câu thơ tiếp theo
là biểu hiện, sức mạnh của tình đồng chí. “Đồng chí” - ấy là điểm hội tụ, là nơi kết
tinh bao tình cảm đẹp: tình giai cấp, tình bạn, tình người trong chiến tranh. Hai
tiếng “đồng chí” bởi vậy mà giản dị, đẹp đẽ, sáng ngời và thiêng liêng.
2. Biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí:
a. Trước hết, đồng chí là sự thấu hiểu, chia sẻ những tâm tư, nỗi lòng của
nhau:
“Ruộn gnương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lunglay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”.
Vì nghĩa lớn, các anh sẵn sàng từ giã những gì gắn bó thân thương nhất: “ruộng
nương”, “gian nhà”, “giếng nước”, “gốc đa” … Họ ra đi để lại sau lưng những băn
khoăn, trăn trở, những bộn bề, lo toan của cuộc sống đời thường. Hai chữ “mặc kệ” đã
diễn tả sâu sắc vẻ đẹp và chiều sâu đời sống tâm hồn người lính. Vì nghĩa lớn, họ sẵn
sàng ra đi khi lí tưởng đã rõ ràng, mục đích đã chọn lựa. Song dù có dứt khoát thì vẫn
nặng lòng với quê hương. Gác tình tiêng ra đi vì nghĩa lớn, vẻ đẹp ấy thật đáng trân
trọng và tự hào. Trong bài thơ “Đất nước”, ta bắt gặp điểm tương đồng trong tâm hồn
những người lính:
“Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”.
Mặc dù đầu không ngoảnh lại nhưng các anh vẫn cảm nhận được “Sau lưng
thềm năng lá rơi đầy”, cũng như người lính trong thơ của Chính Hữu, nói “mặc
kệ” nhưng tấm lòng luôn hướng về quê hương. “Giếng nước gốc đa” là hình ảnh hoán
dụ mang tính chất nhân hóa diễn tả một cách tinh tế tâm hồn người chiến sĩ, tô đậm sự
gắn bó của người lính với quê nhà. “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” hay chính
là tấm lòng của người ra đi không nguôi nhớ về quê hương. Quả thật, giữa người chiến
sĩ và quê hương có mỗi giao cảm vô cùng sâu sắc,đậm đà. Người đọc cảm nhận từ
hình ảnh thơ một tình quê ăm ắp và đây cũng là nguồn động viên, an ủi, là sức mạnh
tinh thần giúp người chiến sĩ vượt qua mọi gian lao, thử thách suốt một thời máu lửa,
đạn bom.
b. Tình đồng chí còn là sự đồng cam cộng khổ, chia sẻ những khó khăn thiếu
thốn của cuộc đời người lính:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
40
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.
Bằng những hình ảnh tả thực, hình ảnh sóng đôi, tác giả đã tái hiện chân thực
những khó khăn thiếu thốn trong buổi đầu kháng chiến: thiếu lương thực, thiếu vũ khí,
quân trang, thiếu thuốc men…Người lính phải chịu “từng cơn ớn lạnh”, những cơn
sốt rét rừng hành hạ, sức khỏe giảm sút, song sức mạnh của tình đồng chí đã giúp họ
vượt qua tất cả. Nếu như hình ảnh “Miệng cười buốt giá” làm ấm lên, sáng lên tinh
thần lạc quan của người chiến sĩ trong gian khổ thì cái nắm tay lại thể hiện tình đồng
chí, đồng đội thật sâu sắc! Cách biểu lộ chân thực, không ồn ào mà thấm thía. Những
cái bắt tay truyền cho nhau hơi ấm, niềm tin và sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn,
gian khổ. Cái nắm tay nhau ấy còn là lời hứa hẹn lập công.
3. Biểu tượng đẹp của tình đồng chí:
- Bài thơ khép lại với bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội,là biểu tượng cao
đẹp về cuộc đời người chiến sĩ:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”.
+ Nổi lên trên cảnh rừng đêm hoang vắng, lạnh lẽo là hình ảnh người lính “đứng
cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Đó là hình ảnh cụ thể của tình đồng chí sát cánh bên
nhau trong chiến đấu. Họ đã đứng cạnh bên nhau giữa cái giá rét của rừng đêm, giữa
cái căng thẳng của những giây phút “chờ giặc tới”. Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ,
giúp họ vượt lên tất cả…
+ Câu kết là một hình ảnh thơ rất đẹp: “Đầu súng trăng treo”. Cảnh vừa thực,
vừa mộng. Về ý nghĩa của hình ảnh này có thể hiểu: Đêm khuya, trăng tà, cả cánh
rừng ngập chìm trong sương muối. Trăng lơ lửng trên không, chiếu ánh sáng qua lớp
sương mờ trắng, đục. Bầu trời như thấp xuống, trăng như sà xuống theo. Trong khi đó,
người chiến sĩ khoác súng trên vai, đầu súng hướng lên trời cao như chạm vào vầng
trăng và trăng như treo trên đầu súng. “Trăng” là biểu tượng cho vẻ đẹp thiên nhiên,
đất nước, là sự sống thanh bình. “Súng” là hiện thân cho cuộc chiến đấu gian khổ, hi
sinh. Súng và trăng, cứng rắn và dịu hiền. Súng và trăng, chiến sĩ và thi sĩ. Hai hình
ảnh đó trong thực tế vốn xa nhau vời vợi nay lại gắn kết bên nhau trong cảm nhận của
người chiến sĩ: trăng treo trên đầu súng. Như vậy, sự kết hợp hai yếu tố, hiện thực và
lãng mạn đã tạo nên cái vẻ đẹp độc đáo cho hình tượng thơ. Và phải chăng, cũng chính
vì lẽ đó, Chính Hữu đã lấy hình ảnh làm nhan đề cho cả tập thơ của mình – tập “Đầu
súng trăng treo” – như một bông hoa đầu mùa trong vườn thơ cách mạng.
III. Tổng kết:
- Bài thơ kết thúc nhưng lại mở ra những suy nghĩ mới trong lòng người đọc. Bài
thơ đã làm sống lại một thời khổ cực của cha anh ta, làm sống lại chiến tranh ác liệt.
Bài thơ khơi gợi lại những kỉ niệm đẹp, những tình cảm tha thiết gắn bó yêu thương
mà chỉ có những người đã từng là lính mới có thể hiểu và cảm nhận hết được.
- Với nhiều hình ảnh chọn lọc, từ ngữ gợi cảm mà lại gần gũi thân thuộc, với
biện pháp sóng đôi, đối ngữ được sử dụng rất thành công, Chính Hữu đã viết nên một
bài ca với những ngôn từ chọn lọc, bình dị mà có sức ngân vang. Bài thơ đã ca ngợi
tình đồng chí hết sức thiêng liêng, như là một ngọn lửa vẫn cháy mãi, bập bùng không
bao giờ tắt, ngọn lửa thắp sáng đêm đen của chiến tranh.

41
Đề bài: Viết bài văn cảm nhận vẻ đẹp tình đồng chí của người lính trong bài
thơ “ Đồng chí” của tác giả Chính Hữu.

BÀI THAM KHẢO


Đồng chí là một bài thơ cô đúc, “tiết kiệm” trong từng hình ảnh, từng câu chữ.
Bằng những chi tiết, những hình ảnh hết sức chân thật, cụ thể mà đầy tính chắt lọc,
khái quát, bài thơ đã thể hiện một cách cảm động tình đồng chí gắn bó giữa những
người nông dân mặc áo lính, cùng chiến đấu giữ gìn độc lập tự do của Tổ quốc.

Toàn bộ tứ thơ của Đồng chí phát triển xoay quanh mối quan hệ giữa các nhân
vật tôi và anh. Ở đây, nhà thơ đã hóa thân vào các nhân vật trữ tình – cũng là những
đồng đội thân thiết với mình - để nói lên những hoàn cảnh, biểu hiện những tâm trạng,
tình cảm của họ.
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Mối quan hệ anh – tôi được giới thiệu ngay từ lúc mở đầu. Họ đều là những
người nông dân mặc áo lính ra đi từ các làng quê nghèo, làm ăn vất vả, gian nan.
Những con người khổ nghèo ấy vừa được Cách mạng giải phóng và giờ đây gắn bó
thắm thiết vì mục đích của cuộc chiến đấu. Sự gắn bó trong quân đội cách mạng giữa
những người nông dân “tứ xứ” này cũng được Hồng Nguyên thể hiện một cách hồn
nhiên trong phần mở đầu bài Nhớ:
Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi một, hai
Súng bắn chưa quen
Quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến…
Từ “đôi người xa lạ” đến “thành đôi tri kỉ”, từ “chẳng hẹn quen nhau” đến “đêm
rét chung chăn”- đó dường như là sự gặp gỡ, gắn bó tình cờ nhưng thực lại rất tự nhiên
và tất nhiên bởi những con người này cùng chiến đấu, hi sinh vì một lí tưởng cao cả.
Hai câu thơ mà chứa đựng, liên kết được nhiều hình ảnh sinh động:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn, thành đôi tri kỉ
Chính Hữu đã dùng một từ “cũ”, từ Hán Việt để diễn tả một tình cảm rất mới.
Chữ “tri kỉ” đã tô đậm thêm sự sâu đằm, bền chặt của tình cảm ở đây. Thực chất của
mối tri kỉ này là tình đồng chí. Chính vì thế, từ “đồng chí” được tác giả được tác giả
tách riêng thành một dòng thơ. Đây là chi tiết nghệ thuật quan trọng. Nó chính là cái
bản lề khép mở, nối kết hai phần của bài thơ.
Có thể xem dòng thơ hết sức ngắn này là một tiếng gọi tha thiết, trang nghiêm từ
đáy lòng những người nông dân mặc áo lính vừa được gắn bó với nhau trong một quan
hệ mới (Sau chữ “đồng chí” có dấu cảm thán). Muốn hiểu hết ý nghĩa của tiếng gọi đó,
cần trả nó về hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Trước Cách mạng thành công – ở thời kì giác
ngộ lí tưởng cộng sản, theo Đảng đoàn kết hi sinh giành quyền độc lập tự do; trong
những năm đầu kháng chiến gian nan – khi toàn dân đang nhất tề đứng lên theo lời kêu
gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “thà quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” – ở
những năm tháng, những thời đIểm ấy, nghĩa đồng bào, đồng chí thật thiêng liêng và
hết sức được trân trọng (Chữ “đồng chí” chúng ta dùng bây giờ hẳn khác). Tính chất
42
thiêng liêng, niềm trân trọng này lại càng được nhân lên gấp bội đối với những người
nông dân – vốn là những con người lam lũ, làm ăn cá thể, nay được Cách mạng giải
phóng và cuộc đời được rọi chiếu trong ánh sáng thời đại mới. Vì thế, chúng ta thêm
hiểu vì sao Chính Hữu lại đặt tên bài thơ của mình là Đồng chí mà không lấy một cái
tên khác, chẳng hạn “đồng đội”. Quả thật, chữ “đồng chí” hàm nghĩa cao rộng hơn, mà
cũng sâu hơn. Nghĩa đồng chí, một mặt, là cơ sở, là nền tảng; mặt khác, cũng là cốt lõi,
là bản chất của tình đồng đội. Về cuối cuộc kháng chiến chín năm, khi chứng kiến chủ
nghĩa anh hùng cao cả của quân đội ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, Chính
Hữu như nhận thức được rõ thêm, cụ thể thêm tình đồng đội:

Năm mươi sáu ngày đêm bom gầm pháo dội


Ta mới hiểu thế nào là đồng đội
Đồng đội ta
Là hớp nước uống chung
Nắm cơm bẻ nửa
Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa
Chia khắp anh em một mẩu tin nhà
Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết…
(Giá từng thước đất)
Đó là một bước cụ thể hóa tình đồng chí. Còn lúc này (1948) - ở buổi đầu kháng
chiến – cái cần nhấn mạnh là sự tập hợp, là sự cùng chí hướng trong thử thách gian
nan. Cái tên của bài thơ, sự tách riêng thành một dòng thơ của từ “đồng chí” mang ý
nghĩa ấy.
Vừa dồn tụ cảm xúc ở sáu dòng thơ trước, dòng thơ chỉ một từ này đồng thời
đóng vai trò mở chuyển cho cả phần sau. Đối với các nhân vật trữ tình (tôi và anh) từ
“đồng chí” còn như khắc ấn một khái niệm mới mẻ mà cả phần sau của bài thơ là sự
vỡ lẽ, sự nhận thức nhau rõ hơn để cảm thông, gắn bó với nhau máu thịt hơn. Đồng chí
– ấy là gửi lại ruộng nương, từ biệt giếng nước gốc đa để cùng “ra lính” giữ gìn độc
lập tự do của đất nước. Đồng chí– ấy là chịu chung “từng cơn ớn lạnh”, từng trận “sốt
run người vừng trán ướt mồ hôi”. Đồng chí – ấy là sự sẻ chia và động viên nhau trong
thiếu thốn của cuộc sống kháng chiến:

Áo anh rách vai


Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
Tình đồng chí thắm thiết khiến cho các anh nhìn thấu và thương nhau từ những
chi tiết nhỏ nhất của đời sống. Điều đáng chú ý là bao giờ họ cũng nhìn bạn, nghĩ về
bạn trước rồi sau dó mới nhìn mình, nghĩ về mình. Từ đầu đến cuối bài Đồng chí,
trong cặp nhân vật trữ tình, bao giờ anh cũng xuất hiện trước, cũng đứng trước tôi (Lần
1: “Quê hương anh… Làng tôi”. Lần 2: “Anh với tôi đôi người xa lạ”. Lần 3: “Anh với
tôi biết từng cơn ớn lạnh…”. Lần 4: “áo anh… Quần tôi…”). Cái “qui luật” trên bề
mặt ngôn ngữ ấy phải chăng phản ánh một nét đẹp trong chiều sâu tình cảm: thương
người như thể thương thân, trọng người hơn trọng mình. Nó trái hẳn với lối sống “tự kỉ
trung tâm” của con người tư sản. Nó chứng tỏ niềm đồng cảm sâu sắc giữa những
người cùng cảnh ngộ, cùng nghĩa vụ.
43
Nếu đầy đủ thương nhau đã quí. Nhưng càng gian khổ, càng thiếu thốn lại càng
thương nhau, ấy mới là điều đáng quí hơn ở những người chiến sĩ cách mạng. Nhịp
ngắt của đoạn thơ trên ngắn, chậm. Từng câu thơ gọn. Mỗi câu nêu một chi tiết hết sức
cụ thể. Từng chi tiết cô gọn ấy cứ lần lượt khắc sâu vào lòng người đọc. Khắc sâu ấn
tượng rồi để mở ra – mở ra biết mấy tâm tình, xúc cảm ở câu thơ cuối đoạn được trải
dài hơn:
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
Dường như đây là cao trào của cảm xúc yêu thương trong người chiến sĩ.
Thương nhau vô cùng trong cử chỉ “tay nắm lấy bàn tay”. Nhưng cũng cứng rắn, nghị
lực vô cùng bởi cử chỉ ấy chỉ có khi những người chiến sĩ đã ý thức đầy đủ về hoàn
cảnh của đất nước kháng chiến, về nghĩa vụ cao cả của mình. Cử chỉ ấy dường như
chứa đựng sự tự ý thức, tự nhận thức, bao hàm lời tự dặn mình và dặn dò nhau. Tình
cảm không bồng bột mà đằm sâu.
Chính quá trình nhận thức rõ về tình đồng chí, chính bước phát triển cao của tình
yêu thương lẫn nhau như trên đã dẫn đến đoạn kết thúc độc đáo:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Ba câu thơ mà nói được rất nhiều điều. Đó là hoàn cảnh chuẩn bị chiến đấu - đặc
điểm không gian và thời gian: đêm nay– rừng hoang – sương muối. Đó là tình đồng
chí keo sơn trong gian khổ, là tinh thần sẵn sàng vào trận: “đứng cạnh bên nhau chờ
giặc tới”. Đó là tâm hồn đầy chất thơ của anh Vệ quốc quân và ý nghĩa cao đẹp của
cuộc chiến đấu của chúng ta: “đầu súng trăng treo”.
Không phải ngẫu nhiên mà sau này Chính Hữu đặt tên cho một tập thơ của mình
là Đầu súng trăng treo. Cũng không phải tự nhiên mà trên nhiều bìa sách, nhiều bức
họa sách của Nhà xuất bản Quân đội nhân dân thường xuất hiện hình ảnh này. Nhà thơ
đã sáng tạo được một hình ảnh thật độc đáo, giàu sức khái quát. Đầu súng – thể hiện
của chiến tranh, của khói lửa; trăng treo – hình ảnh của thiên nhiên trong mát, của cuộc
sống thanh bình. Sự kết hợp tự nhiên giữa đầu súng và trăng treo làm toát lên tâm hồn
trong sáng, bay bổng của người chiến sĩ, làm toát lên ý nghĩa chân chính, cao cả của
cuộc chiến tranh yêu nước. Chúng ta bền gan chiến đấu, gian khổ hi sinh chính vì vầng
trăng ấy, vì cuộc sống thanh bình. Hình ảnh và nhịp điệu thơ này lơ lửng, sóng sánh,
vừa tạo hình vừa thật gợi cảm. “Đầu súng trăng treo” có gian khổ nhưng cũng có niềm
vui, vừa là thực vừa mang tính biểu tượng. Nó toát lên chất lãng mạn cách mạng đậm
đà thật khó phân tích hết bằng lời.
Nhanh chóng vượt ra khỏi những cảm xúc lạc lõng buổi đầu, đến Đồng chí,
Chính Hữu đã đóng góp cho nền thơ kháng chiến chống Pháp một bài thơ xuất sắc về
người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam. Nếu như trước đó chưa đầy một năm, anh
bộ đội kháng chiến còn bước vào thơ Chính Hữu với “đôi giầy vạn dặm”, chiếc “áo
hào hoa” thì giờ đây anh xuất hiện trong Đồng chí với chiếc áo rách vai, chiếc quần có
vài mảnh vá, với đôi chân không giày và với tâm hồn mộc mạc, đằm thắm, đầy mến
thương trong gian khổ. Đồng chí cũng thể hiện rõ phong cách thơ độc đáo của Chính
Hữu: ít lời để gợi nhiều ý, ngòi bút biết tinh lọc, cô đúc trong từng chi tiết, từng hình
ảnh để vừa cụ thể, vừa giàu tính khái quát, câu thơ chắc gọn bên ngoài lại ẩn chứa một
tâm hồn thiết tha, da diết tự bên trong.

BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH


Phạm Tiến Duật
44
I – Tìm hiểu chung:
1. Tác giả:
- Phạm Tiến Duật (1941-2007), quê Thanh Ba, Phú Thọ.
- 1964, sau khi tốt nghiệp khoa Ngữ văn của trường Đại học Sư phạm Hà Nội,
ông gia nhập binh đoàn vận tải Trường Sơn và hoạt động trên tuyến đường Trường
Sơn trong những năm chống Mỹ.
- Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng
thành từ cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
- Với quan niệm “chủ yếu đi tìm cái đẹp từ trong những diễn biến sôi động của
cuộc sống”, Phạm Tiến Duật đưa tất cả những chất liệu hiện thực của cuộc sống chiến
trường vào trong thơ. Cách tiếp cận hiện thực ấy đã đem lại cho thơ Phạm Tiến Duật
một giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, hóm hỉnh, tinh nghịch mà sâu sắc.
- Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng
chiến chống Mĩ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến
đường Trường Sơn.
- Tác phẩm chính: Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, Gửi em cô thanh niên
xung phong, Lửa đèn, Bài thơ về tiểu đội xe không kính…
- Năm 2001, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
2. Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác.
- Bài thơ về tiểu đội xe không kính nằm trong chùm thơ của Phạm Tiến Duật
được tặng giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969. Chùm thơ đã khẳng
định giọng thơ riêng của của ông. Sau này bài thơ được đưa vào tập thơ “ Vầng trăng
quầng lửa” (1970) của tác giả.
-Bài thơ được sáng tác trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra rất
gay go, ác liệt. Từ khắp các giảng đường đại học, hàng ngàn sinh viên đã gác bút
nghiên để lên đường đánh giặc, và điểm nóng lúc đó là tuyến đường Trường Sơn – con
đường huyết mạch nối liền hậu phương với tiền tuyến. Ở đó, không lực Hoa Kì ngày
đêm trút bom, vãi đạn hòng ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho chiến trường
miền Nam.Vượt qua mưa bom bão đạn của kẻ thù, đoàn xe vận tải vẫn ngày đêm bất
chấp gian khổ và hi sinh để ra trận. Phạm Tiến Duật đã ghi lại những hình ảnh tiêu
biểu của nơi khói lửa Trường Sơn. Có thể nói, hiện thực đã đi thẳng vào trang thơ của
tác giả và mang nguyên vẹn hơi thở của cuộc chiến. Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ
với âm điệu hào hùng, khỏe khoắn đã thực sự trở thành hồi kèn xung trận, trở thành
tiếng hát quyết thắng của tuổi trẻ Việt Nam thời kì chống Mĩ. Cảm hứng từ những
chiếc xe không kính đã làm nền để nhà thơ chiến sĩ khắc họa thành công chân dung
người chiến sĩ lái xe: ung dung tự tại, lạc quan sôi nổi, bất chấp mọi khó khăn gian khổ
, tình đồng chí đồng đội gắn bó tình yêu đất nước thiết tha…
b. Chủ đề: Vẻ đẹp hình ảnh người lính lái xe ở Trường Sơn trong những năm
chống Mĩ.
II – Đọc – hiểu văn bản:
1. Ý nghĩa nhan đề bài thơ:
Câu hỏi 1,sgk,trang 133: Nhan đề bài thơ có gì khác lạ? Một hình ảnh nổi
bật trong bài thơ là những chiếc xe không kính.Vì sao có thể nói hình ảnh ấy là
độc đáo?
-Bài thơ có cách đặt đầu đề hơi lạ. Bởi hai lẽ:
+Rõ ràng đây là một bài thơ, vậy mà tác giả lại ghi là “Bài thơ” – cách ghi như
thế có vẻ hơi thừa.
45
+Lẽ thứ hai là hình ảnh tiểu đội xe không kính. Xe không kính tức là xe
hỏng,không hoàn hảo, là những chiếc xe không đẹp, vậy thì có gì là thơ. Vì đã nói đến
thơ, tức là nói đến một cái gì đó đẹp đẽ, lãng mạn, bay bổng.
=>Vậy, đây rõ ràng là một dụng ý nghệ thuật của Phạm Tiến Duật. Dường như,
tác giả đã tìm thấy, phát hiện, khẳng định cái chất thơ, cái đẹp nằm ngay trong hiện
thực đời sống bình thường nhất, thậm chí trần trụi, khốc liệt nhất, ngay cả trong sự tàn
phá dữ dội, ác liệt của chiến tranh.
* Ý nghĩa nhan đề bài thơ:
Bài thơ có một nhan đề khá dài, tưởng như có chỗ thừa nhưng chính nhan đề ấy
lại thu hút người đọc ở cái vẻ lạ, độc đáo của nó. Nhan đề bài thơ đã làm nổi bật rõ
hình ảnh của toàn bài: những chiếc xe không kính. Hình ảnh này là một sự phát hiện
thú vị của tác giả, thể hiện sự gắn bó và am hiểu của nhà thơ về hiện thực đời sống
chiến tranh trên tuyến đường Trường Sơn.Nhưng vì sao tác giả còn thêm vào nhan đề
hai chữ “Bài thơ”? Hai chữ “bài thơ”nói lên cách nhìn, cách khai thác hiện thực của
tác giả: không phải chỉ viết về những chiếc xe không kính hay là cái hiện thực khốc
liệt của chiến tranh, mà chủ yếu là Phạm Tiến Duật muốn nói về chất thơ của hiện thực
ấy, chất thơ của tuổi trẻ Việt Nam dũng cảm, hiên ngang, vượt lên những thiếu thốn,
gian khổ,khắc nghiệt của chiến tranh.
2. Hình ảnh những chiếc xe không kính:
- Xưa nay, những hình ảnh xe cộ, tàu thuyền đưa vào thơ thì đều được “mĩ lệ
hóa”, “lãng mạn hóa” và thường mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả thực. Người đọc
đã bắt gặp chiếc xe tam mã trong thơ Pus-kin, con tàu trong “Tiếng hát con tàu” của
Chế Lan Viên, đoàn thuyền đánh cá trong bài thơ cùng tên của Huy Cận.
- Ở bài thơ này, hình ảnh những chiếc xe không kính được miêu tả cụ thể, chi tiết
rất thực. Lẽ thường, để đảm bảo an toàn cho tính mạng con người, cho hàng hoá nhất
là trong địa hình hiểm trở Trường Sơn thì xe phải có kính mới đúng. Ấy thế mà
chuyện “xe không kính” lại là môt thực tế, là hình ảnh thường gặp trên tuyến đường
Trường Sơn
- Hai câu thơ mở đầu có thể coi là lời giải thích cho “sự cố” có phần không bình
thường ấy:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi.
+ Lời thơ tự nhiên đến mức buộc người ta phải tin ngay vào sự phân bua của các
chàng trai lái xe dũng cảm. Chất thơ của câu thơ này hiện ra chính trong vẻ tự nhiên
đến mức khó ngờ của ngôn từ.
+ Bằng những câu thơ rất thực, đậm chất văn xuôi, điệp ngữ “không”, cùng với
động từ mạnh “giật”, “rung”
-> Tác giả đã lí giải nguyên nhân không có kính của những chiếc xe. Bom đạn
chiến tranh đã làm cho những chiếc xe trở nên biến dạng “không có kính”, “không có
đèn”, “không có mui xe”, “thùng xe có xước”. Từ đó, tác giả đã tạo ấn tượng cho
người đọc một cách cụ thể và sâu sắc về hiện thực chiến tranh khốc liệt, dữ dội, về
cuộc chiến đấu gian khổ mà người lính phải trải qua.
=> Hình ảnh những chiếc xe không kính vốn chẳng hiếm trong chiến tranh, song
phải có một hồn thơ nhạy cảm, có nét tinh nghịch, ngang tàn như Phạm Tiến Duật mới
phát hiện ra được, đưa nó vào thơ và trở thành biểu tượng độc đáo của thơ ca thời
chống Mĩ.
3. Hình ảnh người lính lái xe:

46
* Hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi rõ hình ảnh những chiến sĩ lái
xe ở Trường Sơn. Thiếu đi những điều kiện, phương tiện vật chất tối thiểu lại là một
cơ hội để người lính lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn
lao của họ, đặc biệt là lòng dũng cảm, tinh thần bất chấp gian khổ khó khăn.
a. Vẻ đẹp của người lính lái xe trước hết thể hiện ở tư thế hiên ngang, ung
dung, đường hoàng, tự tin, và tâm hồn lãng mạn, lạc quan, yêu đời:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
+ Nghệ thuật đảo ngữ với từ láy “ung dung” được đảo lên đầu câu thứ nhất và
nghệ thuật điệp ngữ với từ “nhìn” được nhắc đi nhắc lại trong câu thơ thứ hai -> nhấn
mạnh tư thế ung dung, bình tĩnh, tự tin của người lính lái xe.
+ Cái nhìn của các anh là cái nhìn bao quát, rộng mở “nhìn đất”, “nhìn trời”, vừa
trực diện, tập trung cao độ “nhìn thẳng”. Các anh nhìn vào khó khăn, gian khổ, hi sinh
mà không hề run sợ, né tránh – một bản lĩnh vững vàng.
- Trong tư thế ung dung ấy, người lính lái xe có những cảm nhận rất riêng khi
được tiếp xúc trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
+ Sau tay lái của chiếc xe không có kính chắn gió nên các yếu tố về thiên nhiên,
chướng ngại vật rơi rụng, quăng ném, va đạp vào trong buồng lái. Song, quan trọng
hơn là các anh có được cảm giác như bay lên, hòa mình với thiên nhiên rồi được tự do
giao cảm, chiêm ngưỡng thế giới bên ngoài. Điều này được thể hiện ở nhịp thơ đều
đặn, trôi chảy như xe lăn với việc vận dụng linh hoạt điệp ngữ “thấy” và phép liệt kê.
Có rất nhiều cảm giác thú vị đến với người lính trên những chiếc xe không có kính.
+ Các hình ảnh “con đường”, “sao trời”, “cánh chim”… diễn tả rất cụ thể cảm
giác của những người lính khi được lái những chiếc xe không kính. Khi xe chạy trên
đường bằng, tốc độ xe chạy đi nhanh, giữa các anh với con đường dường như không
còn khoảng cách, chính vì thế, các anh mới có cảm giác con đường đang chạy thẳng
vào tim. Và cái cảm giác thú vị khi xe chạy vào ban đêm, được “thấy sao trời” và khi
đi qua những đoạn đường cua dốc thì những cánh chim như đột ngột “ùa vào buồng
lái”. Thiên nhiên, vạn vật dường như cũng bay theo ra chiến trường. Tất cả điều này đã
giúp người đọc cảm nhận được ở các anh nét hào hoa, kiêu bạc, lãng mạn và yêu đời
của những người trẻ tuổi. Tất cảlà hiện thực nhưng qua cảm nhận của nhà thơ đã trở
thành những hình ảnh lãng mạn.
b. Một vẻ đẹp nữa làm nên bức chân dung tinh thần của người lính trong
bài thơ chính là tinh thần lạc quan, sôi nổi, bất chấp khó khăn, nguy hiểm:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Những câu thơ giản dị như lời nói thường, với giọng điệuthản nhiên, ngang tàn
hóm hỉnh, cấu trúc: “không có…”;”ừ thì…”, “chưa cần” được lặp đi lặp lại, các từ ngữ
“phì phèo”,”cười ha ha”,”mau khô thôi”… làm nổi bật niềm vui, tiếng cười của người
lính cất lên một cách tự nhiên giữa gian khổ,hiểm nguy của cuộc chiến đấu. Cài tài của
Phạm Tiến Duật trong đoạn thơ này là cứ hai câu đầu nói về hiện thực nghiệt ngã phải
chấp nhận thì hai câu sau nói lên tinh thần vượt lên để chiến thắng hoàn cảnh của
người lính lái xe trong chiến tranh ác liệt. Xe không kính nên “bụi phun tóc trắng như
người già” là lẽ đương nhiên, xe không có kính nên “ướt áo”, “mưa tuôn, mưa xối như
47
ngoài trời” là lẽ tất nhiên. Trước mọi khó khăn, nguy hiểm, các anh vẫn “cười” rồi
chẳng cần bận tâm, lo lắng, các anh sẵn sàng chấp nhận thử thách, gian lao như thể đó
là điều tất yếu. Các anh lấy cái bất biến của lòng dũng cảm, của thái độ hiên ngang để
thắng lại cái vạn biến của chiến trường sinh tử gian khổ, ác liệt. Đọc những câu thơ
này giúp ta hiểu được phần nào cuộc sống của người lính ngoài chiến trường những
năm tháng đánh Mỹ. Đó là cuộc sống gian khổ trong bom đạn ác liệt nhưng tràn đầy
tinh thần lạc quan, niêm vui sôi nổi, yêu đời. Thật đáng yêu và đáng tự hào biết bao!
c. Sâu sắc hơn, bằng ống kính điện ảnh của người nghệ sĩ, nhà thơ đã ghi lại
những khoảnh khắc đẹp đẽ thể hiện tình đồng chí đồng đội của những người lính
lái xe không kính:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Chính sự khốc liệt của chiến tranh đã tạo nên tiểu đội xe không kính. Những
chiếc xe từ khắp mọi miền Tổ quốc về đây họp thành tiểu đội. Cái “bắt tay” thật đặc
biệt “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”. Xe không kính lại trở thành điều kiện thuận lợi để
các anh thể hiện tình cảm. Cái bắt tay thể hiện niềm tin, truyền cho nhau sức mạnh, bù
đắp tinh thần cho những thiếu thốn về vật chất mà họ phải chịu đựng. Có sự gặp gỡ
với ý thơ của Chính Hữu trong bài thơ “Đồng chí” : “Thương nhau tay nắm lấy bàn
tay” nhưng hồn nhiên hơn, trẻ trung hơn. Đó là quá trình trưởng thành của thơ ca, của
quân đội Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. Tình đồng chí,
đồng đội còn được thể hiện một cách ấm áp, giản dị qua những giờ phút sinh hoạt của
họ:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi lại đi trời xanh thêm.
+ Gắn bó trong chiến đấu, họ càng gắn bó trong đời thường. Sau những phút nghỉ
ngơi thoáng chốc và bữa cơm hội ngộ, những người lính lái xe đã xích lại thành gia
đình: “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Cách định nghĩa về gia đình thật lính,
thật tếu hóm mà thật chân tình sâu sắc. Đó là gia đình của những người lính cùng
chung nhiệm vụ, lí tưởng chiến đấu.
+ Điệp ngữ “lại đi” và hình ảnh “trời xanh thêm” tạo âm hưởng thanh thản, nhẹ
nhàng, thể hiện niềm lạc quan, tin tưởng của người lính về sự tất thắng của cuộc kháng
chiến chống Mỹ. Câu thơ trong vắt như tâm hồn người chiến sĩ, như khát vọng, tình
yêu họ gửi lại cho cuộc đời.
=> Chính tình đồng chí, đồng đội đã biến thành động lực giúp các anh vượt qua
khó khăn, nguy hiểm, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thân yêu. Sức mạnh của người lính
thời đại Hồ Chí Minh là vẻ đẹp kết hợp truyền thống và hiện đại. Họ là hiện thân của
chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là hình tượng đẹp nhất của thế kỷ “Như Thạch Sanh
của thế kỷ hai mươi” (Tố Hữu).
d. Khổ thơ cuối đã hoàn thiện vẻ đẹp của người lính, đó là lòng yêu nước, ý
chí chiến đấu giải phòng miền Nam:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chủ cần trong xe có một trái tim.
48
- Giờ đây những chiếc xe không chỉ mất kính mà lại không đèn, không mui,
thùng xe có xước. Chiếc xe đã biến dạng hoàn toàn. Người lính xế lại chất chồng khó
khăn. Sự gian khổ nơi chiến trường ngày càng nâng lên gấp bội lần nhưng không thể
làm chùn bước những đoàn xe nối đuôi nhau ngày đêm tiến về phía trước.
- Nguyên nhân nào mà những chiếc xe tàn dạng ấy vẫn băng băng chạy như vũ
bào? Nhà thơ đã lí giải: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”.
+ Câu thơ dồn dập cứng cáp hẳn lên như nhịp chạy của những chiếc xe không
kính. Từ hàng loạt những cái “không có” ở trên, nhà thơ khẳng định một cái có, đó là
“một trái tim”.
+ “Trái tim” là một hoán dụ nghệ thuật tu từ chỉ người chiến sĩ lái xe Trường Sơn
năm xưa. Trái tim của họ đau xót trước cảnh nhân dân miền Nam sống trong khói bom
thuốc súng, đất nước bị chia cắt thành hai miền.
+ Trái tim ấy dào dạt tình yêu Tổ quốc như máu thịt, như mẹcha, như vợ như
chồng… Trái tim ấy luôn luôn sục sôi căm thù giặc Mỹ bạo tàn.
=> Yêu thương, căm thù chính là động lực thôi thúc những người chiến sĩ lái xe
khát khao giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Để ước mơ này trở thành hiện
thực,chỉ có một cách duy nhất: vững vàng tay lái, cầm chắc vô lăng. Vì thế thử thách
ngày càng tăng nhưng tốc độ và hướng đi không hề thay đổi.
=> Đằng sau những ý nghĩa ấy, câu thơ còn muốn hướng con người về chân lý
thời đại của chúng ta: sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí mà là con
người giàu ý chí, anh hùng, lạc quan, quyết thắng.
=> Có thể coi câu thơ cuối là câu thơ hay nhất của bài thơ. Nó là nhãn tự, là con
mắt thơ, bật sáng chủ đề, tỏa sáng vẻ đẹp hình tượng người lính lái xe thời chống Mỹ.
III – Tổng kết:
- Giọng thơ ngang tàn, có cả chất nghịch ngợm, rất phù hợp với những đối tượng
miêu tả (những chàng trai lái xe trên những chiếc xe không kính). Giọng điệu ấy làm
cho lời thơ gần với lời văn xuôi, lời đối thoại, lời nói thường ngày nhưng vẫn thú vị và
giàu chất thơ (Chất thơ ở đây là từ những hình ảnh độc đáo, từ cảm hứng về vẻ hiên
ngang, dũng cảm, sự sôi nổi trẻ trung của những người lính lái xe, từ ấn tượng cảm
giác được miêu tả cụ thể, sống động và gợi cảm…
- Thể thơ: Kết hợp linh hoạt thể thơ 7 chữ và 8 chữ, tạo cho bài thơ có điệu thơ
gần với lời nói tự nhiên, sinh động. Những yếu tố về ngôn ngữ và giọng điệu bài thơ
đã góp phần trong việc khắc họa hình ảnh người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường
Trường Sơn một cách chân thực và sinh động.
- Cả bài thơ là lời nói, cảm xúc của người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường
Trường Sơn. Thử thách ngày càng tăng, nhưng mức độ và hướng đi không thay đổi.
Vẫn là khẳng định tinh thần bất khuất, quyết thắng của quân đội ta, nhưng Phạm Tiến
Duật đã đem lại nhiều hình ảnh mới và giọng điệu mới: trẻ trung, tinh nghịch, ngang
tàn mà kiên định. Bài thơ đâu chỉ nói về tiểu đội xe không kính, nó phản ánh cả khí thế
quyết tâm giải phóng miền Nam của toàn quân và toàn dân ta, khẳng định rằng ý chí
của con người mạnh hơn cả sắt thép.
Đề bài: Cảm nhận vẻ đẹp hình ảnh người lính lái xe trong bài thơ “ Bài thơ
về tiểu đội xe không kính” của tác giả Phạm Tiến Duật.
BÀI THAM KHẢO 1
Là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm chống
Mỹ "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước - Mà lòng phơi phới dậy tương lai"(Tố Hữu),
Phạm Tiến Duật có giọng thơ mang chất lính, khoẻ, dạt dào sức sống, tinh nghịch vui
tươi, giàu suy tưởng. "Bài thơ về tiểu đội không kính" (trong chùm thơ được giải nhất
49
cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969-1970) được Phạm Tiến Duật viết năm 1969 là
bài thơ tự do mang phong cách đó.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh những chiếc xe không kính chắn gió - hình ảnh có
sức hấp dẫn đặc biệt vì nó chân thực, độc đáo, mới lạ. Xưa nay, hình ảnh xe cộ trong
chiến tranh đi vào thơ ca thường được mỹ lệ hoá, tượng trưng ước lệ chứ không được
miêu tả cụ thể, thực tế đến trần trụi như cách tả của Phạm Tiến Duật. Với bút pháp
hiện thực như bút pháp miêu tả "anh bộ đội cụ Hồ thời p" của Chính Hữu trong bài
Đồng chí (1948), Phạm Tiến Duật đã ghi nhận, giải thích về "những chiếc xe không
kính" thật đơn giản, tự nhiên :
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Bom đạn ác liệt của chiến tranh đã tàn phá làm những chiếc xe ban đầu vốn tốt,
mới trở thành hư hỏng: không còn kính chắn gió, không mui không đèn, thùng xe bị
xước. Hìmh ảnh những chiếc xe không kính không hiếm trong chiến tranh chống Mỹ
trên đường Trường Sơn lửa đạn nhưng phải là một chiến sĩ, một nghệ sĩ tâm hồn nhạy
cảm, trực tiếp sẵn sàng chiến đấu cùng những người lính lái xe thì nhà thơ mới phát
hiện được chất thơ của hình ảnh ấy để đưa vào thơ ca một cách sáng tạo, nghệ thuật.
Không tô vẽ, không cường điệu mà tả thực, nhưng chính cái thực đã làm người
suy nghĩ, hình dung mức độ ác liệt của chiến tranh, bom đạn giặc Mỹ.
Mục đích miêu tả những chiếc xe không kính là nhằm ca ngợi những chiến sĩ lái
xe. Đó là những con người trẻ trung, tư thế ung dung, coi thường gian khổ, hy sinh.
Trong buồng lái không kính chắn gió, họ có cảm giác mạnh mẽ khi phải đối mặt
trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài. Những cảm giác ấy được nhà thơ ghi nhận tinh tế
sống động qua những hình ảnh thơ nhân hoá, so sánh và điệp ngữ:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chimNhư sa như ùa vào buồng lái.
Những câu thơ nhịp điệu nhanh mà vẫn nhịp nhàng đều đặn khiến người đọc liên
tưởng đến nhịp bánh xe trên đường ra trận. Tất cả sự vật, hình ảnh, cảm xúc mà các
chiến sĩ lái xe trực tiếp nhìn thấy, cảm nhận đã biểu hiện thái độ bình tĩnh thản nhiên
trước những nguy hiểm của chiến tranh, vì có ung dung thì mới thấy đầy đủ như thế.
Các anh nhìn thấy từ "gió","con đường" đến cả "sao trời", "cánh chim". Thế giới bên
ngoài ùa vào buồng lái với tốc độ chóng mặt tạo những cảm giác đột ngột cho người
lái. Hình ảnh "những cánh chim sa, ùa vào buồng lái" thật sinh động, gợi cảm. Hình
ảnh "con đường chạy thẳng vào tim" gợi liên tưởng về con đường ra mặt trận, con
đường chiến đấu, con đường cách mạng.
Hiên ngang, bất chấp gian khổ, những người lính lái xe luôn lạc quan tin tưởng
chiến thắng. Những câu thơ lặp cấu trúc tự nhiên như văn xuôi, lời nói thường ngày
thể hiện hình ảnh đẹp, tự tin, có tính cách ngang tàng:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
50
Mưa ngừng, gió lùa khô, mau thôi.
Phạm Tiến Duật từng là thành viên của đoàn 559 vận tải chiến đấu ở Trường Sơn
nên chất lính, tính ngang tàng thể hiện rõ nét trong thơ. Các chiến sĩ lái xe không hề lùi
bước trước gian khổ, trước kẻ thù mà trái lại "tiếng hát át tiếng bom", họ xem đây là
cơ hội để thử thách sức mạnh ý chí. Yêu đời, tiếng cười sảng khoái của họ làm quên đi
những nguy hiểm. Câu thơ "nhìn nhau mặt lấm cười ha ha" biểu lộ sâu sắc sự lạc quan
ấy.
Tình đồng chí, đồng đội keo sơn gắn bó là phẩm chất của người lính. Những
khoảnh khắc của chiến tranh, giữa sống chết, những người lính trẻ từ những miền quê
khác nhau nhưng cùng một nhiệm vụ, lý tưởng đã gắn bó nhau như ruột thịt, gia đình:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
"Trời xanh thêm" vì lòng người phơi phới say mê trước những chặng đường đã đi
và đang đến. "Trời xanh thêm" vì lòng người luôn có niềm tin về một ngày mai chiến
thắng. Những người lính lái xe hiên ngang, dũng cảm, lạc quan, trẻ trung sôi nổi, giàu
tình đồng chí đồng đội, có lòng yêu nước sâu sắc. Lòng yêu nước là một động lực tạo
cho họ ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam, đánh bại giặc Mỹ và tay sai để thống
nhất Tổ quốc :
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Khổ thơ cuối cùng vẫn giọng thơ mộc mạc, mà nhạc điệu hình ảnh rất đẹp, rất
thơ, cảm hứng và suy tưởng vừa bay bổng vừa sâu sắc để hoàn thiện bức chân dung
tuyệt vời của những chiến sĩ vận tải Trường Sơn. Bốn dòng thơ dựng hai hình ảnh đối
lập đầy kịch tính, bất ngờ thú vị. Hai câu đầu dồn dập những mất mát khó khăn do
quân thù gieo xuống, do đường trường gây ra: xe không kính, không đèn, không mui,
thùng xe bị xước ...
Điệp ngữ "không có" nhắc lại ba lần như nhân lên những thử thách khốc liệt. Hai
dòng thơ ngắt làm bốn khúc "không có kính/ rồi xe không có đèn / Không có mui xe /
thùng xe có xước" như bốn chặng gập ghềnh, khúc khuỷu, đầy chông gai bom đạn. Hai
câu cuối âm điệu đối chọi lại, trôi chảy, hình ảnh đậm nét. Đoàn xe đã chiến thắng,
vượt lên bom đạn, hăm hở hướng ra tiền tuyến lớn với tình cảm thiêng liêng "vì miền
Nam", vì cuộc chiến đấu giành độc lập, thống nhất cho cả nước. Chói ngời, toả sáng
khổ thơ, cả bài thơ là hình ảnh "trong xe có một trái tim" .
Cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ anh hùng của mỗi người cầm lái tích
tụ, kết đọng ở "trái tim" gan góc, kiên cường, chứa chan tình yêu nước này. Ẩn sau ý
nghĩa câu thơ "chỉ cần trong xe có một trái tim" là chân lý của thời đại chúng ta :sức
mạnh quyết định, chiến thắng không phải là vũ khí, công cụ mà là con người giàu ý
chí, anh hùng, lạc quan, quyết thắng. Có thể cả bài thơ hay nhất là câu cuối, "con mắt
của thơ", làm bật lên chủ đề, toả sáng vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trong bài thơ.
Thiếu phương tiện vật chất nhưng những chiến sĩ vận tải Đoàn 559 vẫn hoàn thành vẻ
51
vang nhiệm vụ, nêu cao phẩm chất con người Việt Nam anh hùng như Tố Hữu đã ca
ngợi :
Thiếu tất cả, ta rất giàu dũng khí
Sống chẳng cúi đầu, chết vẫn ung dung
Giặc muốn ta nô lệ, ta lại hoá anh hùng
Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo
"Bài thơ về tiểu đội xe không kính" là một bài thơ đặc sắc tiêu biểu cho phong
cách thơ Phạm Tiến Duật cũng như một số tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Lửa đèn,
Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, Nhớ,...Chất giọng trẻ, chất lính của bài thơ bắt
nguồn từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam thời chống Mỹ mà chính nhà
thơ đã sống, đã trải nghiệm. Từ sự giản dị của ngôn từ, sự sáng tạo của hình ảnh chi
tiết, sự linh hoạt của nhạc điệu, bài thơ đã khắc hoạ, tôn vính vẻ đẹp phẩm giá con
người, hoà nhập với cảm hứng lãng mạn cách mạng và âm hưởng sử thi hào hùng của
văn học Việt Nam trong ba mươi năm chống xâm lược 1945 - 1975.

BÀI THAM KHẢO 2


Trong chùm thơ bốn bài của Phạm Tiến Duật đoạt giải nhất cuộc thi thơ Tuần
báo Văn nghệ năm 1969, có ba bài viết về đường Trường Sơn, cụ thể là những chiến sĩ
lái xe, thanh niên xung phong trên con đường huyền thoại ấy. "Bài thơ về tiểu đội xe
không kính" là một trong ba bài ấy. Khi in lại bài thơ này, có nhà biên tập có ý muốn
bỏ đi ba chữ đầu tiên, chỉ để lại "Tiểu đội xe không kính", với lý luận rằng “ba chữ bài
thơ về là thừa ra, vì ai đọc lên chẳng biết đây là bài thơ”. Như vậy là chưa hiểu được ý
của tác giả. Ở bài thơ này, để nói sự lạc quan của lính vận tải trên đường Trường Sơn,
tác giả nhìn thực tế bằng con mắt chiến sĩ lái xe: Mọi gian khổ, khó khăn chỉ là chuyện
vặt, xe không có kính có cái hay, cái được mà xe có kính không có! Hay nói một cách
khác, tác giả viết bài thơ này để ngợi ca tiểu đội xe không kính mà nội dung sự ngợi ca
đó đã báo trước trong ba chữ bài thơ về nằm ở đầu đề. Để hiểu được hoàn cảnh ra đời
của bài thơ này, chúng ta cùng nhắc lại một thực tế: Trong 16 năm, từ 1959 đến 1975,
qua đường Trường Sơn chúng ta đã chở vào chiến trường miền Nam hơn một triệu tấn
hàng và vũ khí nhưng cũng bị máy bay Mỹ đốt cháy và phá hủy mất 90 nghìn tấn hàng
và 14.500 xe, máy. Chính Phạm Tiến Duật từng viết: “Mỗi trọng điểm là một nghĩa
địa ô tô. Xác xe cháy ngổn ngang lưng đèo, đỉnh núi”. Biết bao chiếc xe đã được thu
gom, chắp nhặt từ các nghĩa địa ô tô đó. Chỉ cần có bánh xe, máy nổ là coi như còn xe.
Và tất nhiên, người ta phải chắp nhặt những bộ phận sót lại ở những chiếc xe khác
nhau để làm nên một chiếc xe có thể chạy được. Đã có biết bao tiểu đội xe vận tải có
những chiếc xe như thế chạy, chở hàng đã hoạt động trên đường Trường Sơn, thế thì
mất kính có thấm tháp gì đâu ngoài việc tạo sự phóng túng cho lính lái:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời, nhìn thẳng.
Thì ra chiến sĩ lái xe không hề bận tâm về việc xe mình không có kính, ngược lại,
chính xe không có kính càng tạo cho anh cái thế ung dung ngồi trong buồng lái mà
không có gì ngăn cách với thiên nhiên:
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
Sao trời và cánh chim là biểu tượng của ban đêm và ban ngày. Xe chạy không
phân biệt ngày đêm, nhưng thực tế những năm tháng ấy, xe chạy đêm là chính để tránh
máy bay Mỹ. Lòng yêu những con đường của người lái xe được tác giả mô tả bằng
52
cảm giác khi xe chạy nhanh: “con đường chạy thẳng vào tim”, chạy thẳng được vì
không có kính ngăn lại!
Thế thì không có kính không đem lại những khó khăn gì hay sao? Có chứ, nhưng
khó khăn xoàng không mảy may ảnh hưởng đến tinh thần người lính:
Không có kính, ừ thì có bụi…
Không có kính, ừ thì ướt áo…
Điệp ngữ ừ thì thể hiện sự tất yếu đã biết, là một lẽ tất nhiên đã lường trước. Bụi
chỉ làm trắng tóc lính trẻ, chỉ gây chuyện vui, chuyện buồn cười:
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Còn mưa ướt áo, ừ thì chuyện xoàng:
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi.
Chúng ta lưu ý rằng, cái gió lùa hong khô áo đó chính do xe không có kính mang
lại!
Qua hai khổ thơ coi chuyện khó khăn do việc xe không có kính mang lại là
chuyện vặt, tác giả trở lại khai thác cái thuận lợi, cái được sinh ra từ xe không có kính,
đó là việc thể hiện tình đồng đội, đồng chí, tình những người lính lái xe trên tuyến lửa:
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Động tác bắt tay nhau vồn vã này không thể làm được khi xe có kính!
Phạm Tiến Duật là nhà thơ tiêu biểu thế hệ nhà thơ thời chiến tranh chống Mỹ, những
người luôn khai thác ở lính tinh thần lạc quan, coi thường gian khổ, chắt lọc ngọt ngào
từ cay đắng, tìm kiếm thuận lợi từ khó khăn. Bên cạnh đó, ý thức trách nhiệm của thế
hệ nhà thơ này cũng luôn thường trực: Tất cả vì công cuộc giải phóng miền Nam. Đọc
khổ cuối bài thơ này, chúng ta không chỉ biết được rằng tiểu đội xe không kính chỉ là
một ví dụ, còn bao chiếc xe nữa thiếu nhiều thứ khác, mặc dù vũ khí và phương tiện là
quan trọng, nhưng con người mới quyết định:
Không có kính rồi không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Trong khổ thơ này có một chữ mà tác giả và bạn đọc đều chưa ưng ý, đó là chữ
xước, bởi từ đó quá nhẹ, nên dùng cho những chiếc xe con sang trọng bị va quệt nhẹ
tróc sơn, hơn là dùng cho những chiếc xe tải đã đi qua bom đạn mà có khi thùng xe chỉ
còn lại vài thanh xơ tướp hoặc gẫy gập, cháy sém. Đã có lần chính tác giả muốn sửa lại
từ này, nhưng lại thôi vì nghĩ nó đã nhập tâm vào bạn đọc rồi.
Nói về ngôn ngữ của bài thơ này, nhà thơ Phạm Tiến Duật tâm sự: “Tôi không tự
cho tôi cái quyền quy định phạm vi ngôn ngữ cho từng bài thơ. Mỗi bài thơ có một văn
hóa riêng, ngôn ngữ riêng”. Và theo tôi, ngôn ngữ trong bài thơ này là ngôn ngữ của
lính, chính xác hơn là ngôn ngữ của cánh lính lái xe rất phù hợp với nội dung coi
thường gian khổ, hy sinh… trong hoàn cảnh thiếu thốn mọi thứ và cái chết luôn cận kề
khi thực thi nhiệm vụ của mình.

BẾP LỬA
Bằng Việt
I – Tìm hiểu chung:

53
1. Tác giả:
- Bằng Việt, tên khai sinh Nguyễn Việt Bằng, sinh năm 1941.
- Quê: Thạch Thất, Hà Tây (Hà Nội)
- Làm thơ từ đầu những năm 60 của TK XX và thuộc lớp nhà thơ trẻ trưởng
thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ.
- Thơ Bằng Việt trong trẻo, mượt mà, tràn đầy cảm xúc, đề tài thơ thường đi vào
khai thác những kỉ niệm, những kí ức thời thơ ấu và gợi những ước mơ tuổi trẻ.
- Tác phẩm tiêu biểu: Hương cây bếp lửa (thơ in chung với Lưu Quang Vũ),
Những gương mặt, những khoảng trời(1973),Cát sáng(1983)…
2. Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác:
- Sáng tác năm 1963, khi nhà thơ đang là sinh viên theo học ngành Luật tại nước
Nga
- In trong tập “Hương cây – bếp lửa” – tập thơ đầu tay của Bằng Việt in chung
với Lưu Quang Vũ.
- Nhà thơ kể lại: “Những năm đầu theo học luật tại đây tôi nhớ nhà kinh khủng.
Tháng 9 ở bên đó trời se se lạnh, buổi sáng sương khói thường bay mờ mờ mặt đất,
ngoài cửa sổ, trên các vòm cây, gợi nhớ cảnh mùa đông ở quê nhà. Mỗi buổi dạy sớm
đi học, tôi hay nhớ đến khung cảnh một bếp lửa thân quen, nhớ lại hình ảnh bà nội lụi
cụi dạy sớm nấu nồi xôi, luộc củ khoai, củ sắn cho cả nhà”.
b. Bố cục:
- Bài thơ mở ra hình ảnh bếp lửa, gợi những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà. Từ kỉ
niệm, đứa cháu nay đã trưởng thành suy ngẫm, thấu hiểu cuộc đời bà, về lẽ sống của
bà. Cuối cùng, trong hoàn cảnh xa cách, đứa cháu gửi nỗi nhớ mong được gặp bà.
- Bố cục bài thơ đi theo mạch cảm xúc: hồi tưởng =>hiện tại, kỉ niệm =>suy
ngẫm. Lựa chọn bố cục như thế là thích hợp với việc khắc hoạ kỉ niệm tuổi thơ. Bố
cục đó còn cho thấy hình ảnh của bà khắc sâu vào tâm khảm của người cháu, thành
chỗ dựa tinh thần để người cháu trưởng thành.
- Bố cục chia 4 phần:
+ Khổ thơ đầu: Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng hồi tưởng, cảm xúc về bà.
+ Ba khổ thơ tiếp: ( Tiếp…đến…”niềm tin dai dẳng): Hồi tưởng những kỉ niệm
tuổi thơ sống bên bà.
+ Khổ tiếp: ( Tiếp…đến…”bếp lửa!”): Suy ngẫm của người cháu về bà, về hình
ảnh bếp lửa.
+ Khổ cuối: Nỗi nhớ bà, nhớ quê hương khôn nguôi, da diết.
c. Hình ảnh trong bài thơ:
Trong bài thơ có hai hình ảnh nổi bật, gắn bó mật thiết với nhau, vừa tách bạch,
vừa nhòe lẫn trong nhau, tỏa sáng bên nhau. Đó là hình ảnh người bà và bếp lửa. Vì
sao trong dòng hồi tưởng và suy nghĩ của nhà thơ, hai hình ảnh ấy lại luôn gắn bó,
song hành, đồng hiện. Vì bà luôn hiện diện cùng bếp lửa. Bên bếp lửa là bóng hình bà.
Bà nhóm bếp lửa mỗi sáng, mỗi chiều và suốt cả cuộc đời trong từng cảnh ngộ: từ
những ngày khó khăn gian khổ đến lúc bình yên. Bếp lửa còn là biểu tượng giàu ý
nghĩa: nó là biểu hiện cụ thể và đầy gợi cảm về sự tảo tần, chăm sóc, và yêu thương
của người bà dành cho cháu con. Bếp lửa là tình bà ấm nồng. Bếp lửa là tay bà chăm
chút. Bếp lửa gắn với bao vất vả, cực nhọc đời bà. Ngày ngày bà nhóm bếp lửa là
nhóm lên sự sống niềm vui, tình yêu thương, niềm tin, và hi vọng cho cháu con, cho
mọi người.
II – Đọc – hiểu văn bản:
54
1. Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng hồi tưởng, cảm xúc về bà.
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
- Ba tiếng “một bếp lửa” được nhắc lại hai lần, trở thành điệp khúc mở đầu bài
thơ với giọng điệu sâu lắng, khẳng định hình ảnh “bếp lửa” như một dấu ấn không bao
giờ phai mờ trong tâm tưởng của nhà thơ.
- “Bếp lửa chờn vờn sương sớm” là hình ảnh quen thuộc đối với mỗi gia đình
Việt Nam trước đây mỗi buổi sớm mai. Hình ảnh bếp lửa thật ấm áp giữa cái lạnh
chờn vờn “sương sớm”, thật thân thương với bao tình cảm “ấp iu nồng đượm”.
+ Từ láy “chờn vờn” rất thực như gợi nhớ, gợi thương đến dáng hình bập bùng,
chập chờn của ngọn lửa trong kí ức
+ Từ láy “ấp iu” gợi bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút của người
nhóm lửa, lại rất chính xác với công việc nhóm bếp cụ thể.
- Rất tự nhiên, hình ảnh bếp lửa đã làm trỗi dậy tình yêu thương: “Cháu thương
bà biết mấy nắng mưa”. Tình thương tràn đầy của cháu đã được bộc lộ một cách trực
tiếp và giản dị. Đằng sau sự giản dị ấy là cả một tấm lòng, một sự thấu hiểu đến tận
cùng những vất vả, nhọc nhằn, lam lũ của đời bà.
=>Ba câu thơ mở đầu đã diễn tả cảm xúc đang dâng lên cùng với những kí ức,
hồi tưởng của tác giả về bếp lửa, về bà, là sự khái quát tình cảm của người cháu với
cuộc đời lam lũ của người bà.
2. Hồi tưởng những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà:
*Bốn khổ thơ tương ứng với ba kỉ niệm của khoảng thời thơ ấu của nhà thơ sống
bên bà. Đó là những kỉ niệm bên bếp lửa và bên người bà kính yêu. Đoạn thơ thấm
thía bởi sự kết hợp hài hòa giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự với trữ tình.
a. Kỉ niệm tuổi thơ bên cạnh bà là cuộc sống có nhiều gian khổ, thiếu thốn
nhọc nhằn:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.
- Tuổi thơ ấy có bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945. Hơn hai triệu người
dân Việt Nam chết đói vì chính sách cai trị dã man của giặc Nhật, giặc Pháp. Người
sống thì “dật dờ như những bóng ma”. Cái đói cơ hồ đã ám ảnh trong văn chương Việt
Nam một thời, đói đến nỗi phải ăn đất sét (trong văn Ngô Tất Tố), những trăn trở về
miếng ăn luôn dằn vặt trang viết của Nam Cao… Đến nỗi nhà thơ Chế Lan Viên đã
từng tổng kết trong một câu thơ đau đớn: “Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ”.
- Hình ảnh “bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy” cũng phần nào diễn tả được hoàn
cảnh khó khăn, thiếu thốn của gia đình tác giả trong cái khốn khó chung của những
người lao động
- “Đói mòn đói mỏi”, “khô rạc ngựa gầy”- những chi tiết thơ đậm chất hiện thực
đã tái hiện lại hình ảnh xóm làng xơ xác,tiêu điều cùng những con người tiều tụy, vật
lộn mưu sinh. Không trải qua cái đói quay, đói quắt thì Bằng Việt chẳng thể viết được
những câu thơ chân thực đến thế!
- Ấn tượng nhất đối với cháu trong những năm đói khổ là mùi khói bếp của bà –
mùi khói đã hun nhèm mắt cháu để đến bây giờ nghĩ lại “sống mũi còn cay”. Cái cay
vì khói bếp của cậu bé bốn tuổi và cái cay bởi xúc động của người cháu đã trưởng
55
thành khi nhớ về bà hòa quyện. Quá khứ và hiện tại đồng hiện trên những dòng thơ.
Điều này cho thấy, mùi khói bếp của bà có sức ám ảnh, làm lay động cả thế chất và
tâm hồn cháu.
b. Nhớ về những kỉ niệm là nhớ về bếp lửa, nhớ về tình bà trong suốt tám
năm bên bà:
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Tu hú kêu bà con nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
- “Tám năm ròng cháu sống cùng bà” – tám năm cháu nhận được sự yêu thương,
che chở, dưỡng nuôi tâm hồn từ tấm lòng của bà. Tám năm ấy, cháu sống cùng bà vất
vả, khó khăn nhưng đầy tình yêu thương.
- Kháng chiến bùng nổ, “Mẹ cùng cha công tác bận không về”,bà vừa là cha, lại
vừa là mẹ: “bà bảo cháu nghe - Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”. Chính bà là
người đã nuôi dưỡng, dạy dỗ cháu nên người. Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế để
nhắc nhở cháu về truyền thống gia đình, về những đau thương mất mát và cả những
chiến công của dân tộc. Bà luôn bên cháu, dạy dỗ, chăm sóc cho cháu lớn lên.
-> Một loạt các từ ngữ “bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm” vừa diễn tả một cách sâu
sắc tình thương bao la, sự chăm chút hết mình của người bà dành cho cháu, vừa thể
hiện được lòng biết ơn của cháu đối với bà. Tình yêu và kính trọng bà của tác giả được
thể hiện thật chân thành, sâu sắc: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”.
- Bà và bếp lửa là chỗ dựa tinh thần, là sự chăm chút, đùm bọc dành cho cháu.
Bếp lửa của quê hương, bếp lửa của tình bà lại gợi thêm một kỉ niệm tuổi thơ – kỉ
niệm gắn với tiếng chim tu hú trên đồng quê mỗi độ hè về:
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trênnhững cánh đồng xa?
Đoạn thơ khiến ta chạnh nhớ về “tiếng chim tu hú” của nữ sĩ Anh Thơ: tiếng
chim tu hú gắn liền với hình ảnh cha già với những kỉ niệm về một thời thiếu nữ hoa
niên, tiếng chim tu hú len lỏi khắp bài thơ như một âm thanh u ẩn, không buồn mà
tiếc. Còn ở đây, tiếng chim tu hú bước vào thơ Bằng Việt như một chi tiết để gợi nhắc
nhà thơ về những kỉ niệm ấu thơ được sống bên bà. Tiếng chim tu hú – âm thanh quen
thuộc của làng quê Việt Nam mỗi độ hè về, báo hiệu mùa lúa chín vàng đồng, vải chín
đỏ cây. Tiếng chim như giục giã, như khắc khoải một điều gì da diết khiến lòng người
trỗi dậy những hòa niệm, nhớ mong. Phải chăng đó chính là tiếng đồng vọng của đất
trời để an ủi, sẻ chia với cuộc đời lam lũ của bà? Câu hỏi tu từ “Tu hú ơi chẳng đến ở
cùng bà – Kêu chi hòa trên những cánh đồng xa” mới thấm thía làm sao, xót xa làm
sao! Nó diễn tả nỗi lòng da diết của tác giả khi nhớ về tuổi thơ, nhớ về bà.
=> Những câu thơ như lời đối thoại tâm tình, cháu trò chuyện với bà trong tâm
tưởng, cháu trò chuyện với chim tu hú trong tình yêu thương. Và tất cả đều là sự bộc
bạch của cháu dành cho người bà kính yêu. Hình ảnh của bà, hình ảnh của bếp lửa và
âm thanh của chim tu hú vang vọng trong một không gian mênh mông khiến cả bài thơ
56
nhuốm phủ sắc bàng bạc của không gian hoài niệm, của tình bà cháu đẹp như trong
chuyện cổ tích.
c. Đọng lại trong kỉ niệm của người cháu là:
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Chi tiết thơ đậm chất hiện thực, thành ngữ “cháy tàn cháy rụi” đem đến cảm nhận
về hình ảnh làng quê hoang tàn trong khói lửa của chiến tranh. Trên cái nền của sự tàn
phá hủy diệt ấy là sự cưu mang, đùm bọc của xóm làng đối với hai bà cháu. Điều
khiến cháu xúc động nhất là một mình bà già nua, nhỏ bé đã chống chọi để trải qua
những năm tháng gian nan, đau khổ mà không hề kêu ca, phàn nàn. Bà mạnh mẽ, kiên
cường trước hiện thực ác liệt. Đặc biệt là lời dặn cháu của bà đã làm ngời sáng vẻ đẹp
tâm hồn của người phụ nữ giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh:
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên
Vậy là bà đã gồng mình gánh vác mọi lo toan để các con yên tâm công tác. Bà
không chỉ là chỗ dựa cho đứa cháu thơ, là điểm tựa cho các con đang chiến đấu mà
còn là hậu phương vững chắc cho cả tiền tuyến, góp phần không nhỏ vào cuộc kháng
chiến chung của dân tộc. Tình cảm bà cháu hòa quyện trong tình yêu quê hương, Tổ
quốc.
d. Hình ảnh người bà và những kỷ niệm năm tháng tuổi thơ luôn gắn với
hình ảnh bếp lửa:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
- Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể ở câu trên, tác giả chuyển thành hình ảnh ngọn lửa
trong lòng bà. Như thế, bếp lửa không chỉ được nhen lên bằng nhiên liệu củi rơm mà
còn được nhen lên từ ngọn lửa của sức sống, lòng yêu thương “luôn ủ sẵn” trong lòng
bà, của niềm tin vô cùng “dai dẳng”, bền bỉ và bất diệt. Ngọn lửa là những kỉ niệm ấm
lòng, là niềm tin thiêng liêng kì diệu nâng bước cháu trên suốt chặng đường dài. Ngọn
lửa là sức sống, lòng yêu thương, niềm tin mà bà truyền cho cháu.
- Cùng với hình tượng “ngọn lửa”, các từ ngữ chỉ thời gian: “rồi sớm rồi chiều”,
các động từ “nhen”, “ủ sẵn”, “chứa” đã khẳng định ý chí,bản lĩnh sống của bà, cũng là
của người phụ nữ Việt Nam giữa thời chiến. Điệp ngữ - ẩn dụ “một ngọn lửa” cùng kết
cấu song hành đã làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động tự hào.
=> Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể, bài thơ đã gợi đến ngọn lửa với ý nghĩa trừu
tượng, khái quát. Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa
– ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp.
3. Suy ngẫm của người cháu về bà và hình ảnh bếp lửa:
Từ những hồi tưởng về kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà, người cháu đã suy ngẫm về
bà, về hình ảnh bếp lửa:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
57
- Nếu từ đầu bài thơ, hình ảnh bà và bếp lửa song hành thì đến đây hoà vào làm
một, nhòe lẫn, tỏa sáng bên nhau
- Cụm từ chỉ thời gian “đời bà”, “Mấy chục năm”, từ láy tượng hình “lận đận”,
hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa” -> diễn tả cảm nhận của nhà thơ về cuộc đời gian nan, vất
vả và sự tần tảo, đức hi sinh, chịu thương, chịu khó của bà. Tình thương yêu tác giả
dành cho bà được thể hiện trong từng câu chữ. Tình cảm ấy giản dị, chân thành mà
thật sâu nặng thiết tha.
- Suốt cuộc đời, bà luôn chăm chút cho cháu cả về vật chất và tinh thần để cháu
lớn lên. Bà là người nhóm lửa, cũng là người luôn giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng, tỏa
sáng trong gia đình.
- Điệp ngữ “nhóm” được nhắc lại bốn lần với những ý nghĩa phong phú, gợi
nhiều liên tưởng. Từ hành động, bà đã nhóm dậy những gì thiêng liêng, cao quý nhất
của con người. Bà nhóm bếp lửa mỗi sớm mai là nhóm lên:
+ Tình yêu thương
+ Niềm vui sưởi ấm
+ Sự san sẻ tình làng nghĩa xóm.
+ Những tâm tình, ước vọng của tuổi thơ
-> Nhờ ngọn lửa mà bà “ủ”, bà “nhen”, bà “giữ”, cháu biết cách sống ân nghĩa,
thủy chung, biết mở lòng ra với mọi người xung quanh, biết sẻ chia, gắn bó với xóm
làng. Người cháu yêu bà, nhờ hiểu bà mà thêm hiểu, thêm yêu dân tộc mình, nhân dân
mình.
- Trong tâm trí nhà thơ, bếp lửa và bà là những gì tuy thật bình dị, song ẩn giấu
điều cao quý thiêng liêng. Cảm xúc dâng trào, tác giả đã phải thốt lên:
“Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”.
Hình ảnh bà và hình ảnh bếp lửa sáng đẹp lung linh trong tâm hồn nhà thơ.
4. Nỗi nhớ bà, nhớ quê hương khôn nguôi, da diết.
Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng bao giờ quên nhắc nhở:
- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ?
Điệp từ “trăm” mở ra một thế giới rộng lớn với bao điều mới mẻ. Tuổi thơ đã lùi
xa, đứa cháu nhỏ năm xưa giờ đã lớn khôn, đã được chắp cánh bay cao, bay xa đến
những chân trời cao rộng có “ khói trăm tàu”,”lửa trăm nhà”,”niềm vui trăm ngả”. Tuy
thế, cháu vẫn khôn nguôi nhớ về bà và bếp lửa quê hương, nhớ về góc bếp, nơi nắng
mưa hai bà cháu có nhau. Cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được vì
đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ của cháu được nuôi dưỡng để lớn lên từ đó.
Bà và quê hương yêu dấu là điểm tựa, là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cháu trên
mỗi bước đường đời.
=> Từ những suy ngẫm của người cháu, bài thơ biểu hiện một triết lí sâu
sắc: Những gì thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng
bước con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu đất nước
bắt nguồn từ lòng yêu quý ông bà, cha mẹ, từ những gì gần gũi và bình dị nhất.
III – Tổng kết:
1. Nội dung:
“Bếp lửa” của Bằng Việt là những hồi tưởng và suy ngẫm củangười cháu đã
trưởng thành, nhớ lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà vàtình bà cháu. Qua đó,
bộc lộ những tình cảm sâu nặng đối với gia đình, quêhương, đất nước.
2. Nghệ thuật:
58
-Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm và miêu tả, tự sự và bình luận.
-Thể thơ tám chữ kết hợp với 7 chữ,9 chữ phù hợp với việc diễn tả dòng cảm xúc
và suy ngẫm về bà.
-Giọng điệu tâm tình, thiết tha, tự nhiên, chân thành.
-Sáng tạo hình ảnh bếp lửa – hình ảnh vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng

BÀI THAM KHẢO


Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ
hồn nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất, nó
có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời.
Bằng Việt cũng có riêng ông một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà,
cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí
của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm nhận
điều đó qua bài thơ “Bếp lửa” của ông.
Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ
hồn nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất, nó
có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời.
Bằng Việt cũng có riêng ông một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà,
cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí
của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm nhận
điều đó qua bài thơ “Bếp lửa” của ông.
Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trương thành trong kháng chiến chống Mĩ. Bài
thơ “Bếp lưả” được ông sáng tác năm 1963 lúc 19 tuổi và đang đi du học ở Liên Xô.
Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời
thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê
hương, đất nước.
Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. Ở nơi đất
khách quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”
Hình ảnh “chờn vờn” gợi lên những mảnh kí ức hiện về trong tác giả một cách
chập chờn như khói bếp. Bếp lửa được thắp lên, nó hắt ánh sáng lên mọi vật và toả
sáng tâm hồn đứa cháu thơ ngây. Bếp lửa được thắp lên đó cũng là bếp lửa của cuộc
đời bà đã trải qua “biết mấy nắng mưa”. Từ đó, hình ảnh người bà hiện lên. Dù đã cách
xa nữa vòng trái đất nhưng dường như Bằng Việt vẫn cảm nhận được sự vỗ về, yêu
thương, chăm chút từ đôi tay kiên nhẫn và khéo léo của bà. Trong cái khoảnh khắc ấy,
trong lòng nhà thơ lại trào dâng một tình yêu thương bà vô hạn. Tình cảm bà cháu
thiêng liêng ấy cứ như một dòng sông với con thuyền nhỏ chở đầy ắp những kỉ niệm
mà suốt cuộc đời này chắc người cháu không bao giờ quên được vàcung chính từ đó,
sức ấm và ánh sáng của tình bà cháu cũng như của bếp lửa lan toả toàn bài thơ.
Khổ thơ tiếp theo là dòng hồi tưởng cùa tác giả về những kỉ niệm của những năm
tháng sống bên cạnh bà. Lời thơ giản dị như lời kể, như những câu văn xuôi, như thủ
thỉ, tâm tình, tác giả như đang kể lại cho người đọc nghe về câu chuyện cổ tích tuổi thơ
mình. Nếu như trong câu chuyện cồ tích của những bạn cùng lứa khác có bá tiên, có
phép màu thí trong câu chuyện của băng Việt có bà và bếp lửa. Trong những năm đói
khổ, người bà đã gắn bó bên tác giả, chính bà là người xua tan bớt đi cái không khí ghê
rợn của nạn đói 1945 trong tâm trí đứa cháu. Cháu lúc nào cũng được bà chở che, bà
59
dẫu có đói cũng để cháu thiếu bữa ăn nào, bà đi mót từng củ khoai, đào từng củ sắn để
cháu ăn cho khỏi đói:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Chính “mùi khói” đã xua đi cái mùi tử khí trên khắp các ngõ ngách. Cũng chính
cái mùi khói ấy đã quện lại và bám lấy tâm hồn đứa trẻ. Dù cho tháng năm có trôi qua,
những kí ức ấy cũng sẽ để lại ít nhiều ấn tượng trong lòng đứa cháu để rồi khi nghĩ lại
lại thấy “sống mũi còn cay”. Là mùi khói làm cay mắt người người cháu hay chính là
tấm lòng của người bà làm đứa cháu không cầm được nước mắt?
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm bếp
Tu hú kêu trên những cách đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”
“Cháu cùng bà nhóm lửa”, nhóm lên ngọn lửa củasự sống và của tìng yêu bà
cháy bỏng của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng như một trang giấy. Chính hình ảnh
bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một
hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ. Đó là tiếng chim tu hú kêu. Tiếng tu hú kêu
như giục giã lúa mau chín, người nông dân mau thoát khỏi cái đói, và dường như đó
cũng là một chiếc đồng hồ của đứa cháu để nhắc bà rằng: “Bà ơi, đến giờ bà kể chuyện
cho cháu nghe rồi đấy!”. Từ “tu hú” được điệp lại ba lấn làm cho âm điệu cấu thơ
thêm bồi hồi tha thiết, làm cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa vọng về
trong tiềm thức của tác giả. Tiếng “tu hú” lúc mơ hà, lúc văng vẳng từ nững cánh đồng
xa lâng lâng lòng người cháu xa xứ. Tiiếng chim tu hú khắc khoải làm cho dòng kỉ
niệm của đứa cháu trải dài hơ, rộng hơn trong cái không gian xa thẳng của nỗi nhớ
thương.
Nếu như trong những năm đói kém của nạn đói 1945, bà là người gắn bó với tác
giả nhất, yêu thương tác giả nhất thì trong tám năm ròng của cuộc kháng chiến chống
Mĩ, tình cảm bà cháu ấy lại càng sâu đậm:
“Mẹ cùng cha bận công tác không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cách đồng xa”
Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải rời làng đi tản cư,
bố mẹ phải đi công tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy, nhưng
dường như đối với đứa cháu như thế lại là một niềm hạnh phúc vô bờ.? cùng bà, ngày
nào cháu cũng cùng bà nhóm bếp. Và trong cái khói bếp chập chờn, mờ mờ ảo ảo ấy,
người bà như một bà tiên hiện ra trong câu truyện cổ huyền ảo của cháu. Nếu như đối
với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim để nâng ước mơ của con vào một khung trời
mới, mẹ sẽ là cành hoa tươi thắm nhất để con cài lên ngực áo thì đoiá với Bằng Việt,
người bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là cách chim, là một cành hoa của riêng ông. Cho
nên, tình bà cháu là vô cùng thiêng liêng và quý giá đối với ông. Trong những tháng
năm sống bên cạnh bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà
60
còn là người thầy đầu tiên của cháu. Bà dạy cho cháu những chữ cái, những phép tính
đầu tiên. Không chỉ thế, bà còn dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm
người. Nững bài học đó sẽ là hành trang mang theo suốt quãng đời còn lại của cháu.
Người bà và tình cảm mà bà dành cho cháu đã thất sự một chỗ dựa vững chắc về cả
vật chất lẫn tinh thần cho đứa cháu be ùbỏng. Cho nên khi bây giờ nghĩ về bà, nhà thơ
càng thương bà hơn vì cháu đã đi rồi, bà sẽ ở với ai, ai sẽ người cùng bà nhóm lửa, ai
sẽ cùng bà chia sẻ những câu chuyện những ngày ở Huế, ... Thi sĩ bổng tự hỏi lòng
mình: “Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà?”. Một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà
sâu sắc của đứa cháu nơi xứ ngươi. Chỉ trong một khổ thơ mà hai từ “bà”, “cháu” đã
được nhắc đi nhắc lại nhiều lấn gợi lên hình ảnh hai bà cháu sóng đôi, gắn bó, quấn
qúit không rời.
Chiến tranh, một danh từ bình thườnh nhưng sức lột tả của nó thì khốc liệt vô
cùng, nó đã gây ra đau khổ cho bao người, bao nhà. Và hai bà cháu trong bài thơ cũng
trở thành một nạn nhân của chiến tranh: gia đình bị chia cắt, nhà bị giặc đốt cháy rụi...
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở vế lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lếu tranh
Vẫng vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Cuộc sống càng khó khăn, cảnh ngộ càng ngặt ngèo, nghị lứccủa bà càng bền
vững, tấm lòng ủa bà càng mênh mông. Qua đó, ta thấy hiện lên một người bà cần cù,
nhẫn nại và giàu đức hi sinh. Dù cho ngôi nhà, túp lều tranh của hai bà cháu đã bị đốt
nhẵn, nơi nương thân của hai bà cháu nay đã khong còn, bà dù có đau khổ thế nào
cũng không dám nói ra vì sợ làm đứa cháu bé bong của mình lo buồn. Bà cứng rắn, dắt
cháu vượt qua mọi khó khăn, bà không đứa con đang bận việc nước phải lo lắng
chuyện nhà. Điều đó ta có thể thấy rõ qua lới dặn của bà: “Mày có viết thư chớ kể này
kể nọ / Cứ bảo nhà vẫn đươc bình yên!”. Lới dăn của bà nôm na giản dị nhưng chất
chứa biết bao tình. Gian khổ, thiếu thốn, bao nỗi nhớ thương con bà đều phải nén vào
trong lòng để yên lòng người nơi tiền tuyến. Hình ảnh người bà không chỉ còn là
người bà của riêng cháu mà còn là một biểu tượng rõ nét cho nhữnh người phụ nữa
Việt Nam giàu đức hi sinh, thương con qúy cháu.
Kết thúc khổ thơ, Bằng Việt đã nâng hình ảnh bếp lửa trở thành hình ảnh ngọn,
một ngọn lửa:
“Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”.
Hình ảnh ngọn lửa toả sáng trong câu thơ, nó có sức truyền cảm mạnh mẽ. Ngọn
lửa của tình yên thương, ngọn lửa của niềm tin, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu,
ngọn lửa đỏ hồng si sáng cho con đường đứa cháu. Bà luôn nhắc cháu rằng: nơi nào có
ngọn lửa, nơi đó có bà, bà sẽ luôn ở cạnh cháu.
Những dòng thơ cuối bài cũng chính là những suy ngẫm về bà và bếp lửa mà nhà
thớ muốn gởi tới bạn đọc, qua đó cũng là nh74ngbài học sâu sắc từ công việc nhó, lửa
tưởng chừng đơn giản:
“Nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm”
Một lấn nữa, hình ảnh bếp lửa “ấp iu”, “nồng đượm” đã được nhắc lại ở cuối bài
thơ như một lần nữa khẳng định lại cái tình cảm sâu sắc của hai bà cháu.
“Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi”
61
Nhóm lên bếp lửa ấy, người bà đã truyền cho đứa cháu một tình yêu thương
những người ruột thịt và nhắc cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm tháng
nghĩ tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã sống vơi nhau, những năm
tháng mà hai bà cháu mình cùng chia nhau từng củ sắn, củ mì.
“Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui”
“Nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” của bà hay là lời răng dạy cháu luôn phải mở
lòng ra với mọi người xung quanh, phải gắn bó với xóm làng, đừng bao giờ có một lối
sống ích kỉ.
“Nhóm dậy cả những tâm tinh tuổi nhỏ”.
Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đấy đủ về vật chất mà c2n là người làm
cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp. th6m huyền ảo như trong truyện. Người bà có trái tim
nhân hậu, người bà kì diệu đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm hồn đứa
cháu để mai này cháu khôn lớn thành người. Người bà kì diệu như vậy ấy, rất giản dị
nhưng có một sức mạnh kì diệu tứ trái tim, ta có thể bắt gặp người bà như vậy trong
“Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh:
“Tiếng gà trưa
Mang bao nhiêu hạnh phúc
Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng sắc trứng.”
Suốt dọc bài thơ, mười lấn xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới
bà. Âm điệu những dòng thơ nhanh mạnh như tình cảm dâng trào lớp lớp sóng vỗ vao
bãi biễn xanh thẳm lòng bà. Người bà đã là, đang là và sẽ mãi mãi là người quan trọng
nhất đối với cháu dù ở bất kì phương trời nào. Bà đã trờ thành một người không thể
thiếu trong trái tim cháu.
Giờ đây, khi đang ở xa bà nửa vòng trái đất, Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng
mình về bà:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lưả trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
Xa vòng tay chăm chút cuả bà để đến vơí chân trơì mới, chính tình cảm cuả hai
bà chaú đã sươỉ ấm lòng tác giả trong cái muà đông lạnh giá cuả nước Nga. Đứa cháu
nhỏ cuả bà ngàu xưa giờ đã trưởng thành nhưng trong lòng vần luôn đinh ninh nhớ về
góc bếp, nới nắng mưa hai bà cháu có nhau. Đưá cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng
thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ cuả đưá chaú đã được
nuôi dưỡng để lớn lên từ đó.
“Đọc xong bài thơ, nhắm mắt laị tưởng tưởng, bạn sẽ hình dung thấy ngay hình
ảnh bếp lưả hồng và dáng ngươì bà lặng lẽ ngồi bê. Hình ảnh có tính sóng đôi này hiện
lên thật sống động, rõ ràng như thể nét khắc, nét chạm vậy...” (Văn Giá). Bài thơ Bếp
lưả sẽ sống maĩ trong lòng bạn đọc nhờ sưc truyền cảm sâu sắc cuả nó. Bài thơ đã khơi
dạy trong lòng chúng ta một tình cảm cao đẹp đối với gia đình, với những ngươì đã tô
màu lên tuổi thơ trong sáng của ta.

ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ


Huy Cận
I – Tìm hiểu chung:
1. Tác giả:
-Huy Cận (1919-2005), tên đầy đủ là Cù Huy Cận, quê: tỉnh Hà Tĩnh.
62
-Là nhà thơ nổi tiếng từ phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng(1940).
-Là nhà thơ tiêu biểu cho nền thơ hiện đại Việt Nam từ sau năm 1945:
+ Trước Cách mạng tháng Tám,thơ ông giàu chất triết lí, thấm thía bao nỗi buồn,
tràn ngập cái sầu nhân thế.
+ Sau Cách mạng, thơ Huy Cận dạt dào niềm vui, là bài ca vui về cuộc đời, là bài
thơ yêu thiên nhiên, con người và cuộc sống.
-1996,ông được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học-nghệ
thuật.
-Tác phẩm tiêu biểu:Lửa thiêng(1940);Vũ trụ ca(1942);Trời mỗi ngày lại
sáng(1958);Đất nở hoa(1960);Bài thơ cuộc đời(1963);Hai bàn tay em(1967)…
2. Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác:
- Bài thơ được viết vào giữa năm 1958, khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết
thúc thắng lợi, miền Bắc được giải phóng và bắt tay vào công cuộc xây dựng cuộc
sống mới. Niềm vui dạt dào tin yêu trước cuộc sống mới đang hình thành, đang thay
da đổi thịt đã trở thành nguồn cảm hứng lớn của thơ ca lúc bấy giờ. Nhiều nhà thơ đã
đi tới các miền đất xa xôi của Tổ quốc để sống và để viết: miền núi, hải đảo, nhà máy,
nông trường…Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ
chuyến đi ấy, hồn thơ của ông mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào cảm hứng về
thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới.
- Bài “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập
thơ “Trời mỗi ngày lại sáng”(1958).
b. Bố cục: 3 phần:
Bài thơ có 7 khổ, được kết cấu theo sự vận động của thời gian và hành trình của
một chuyến ra khơi đánh cá:
- Hai khổ đầu: Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi lúc hoàng hôn buông xuống.
- Bốn khổ tiếp: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong một đêm trăng rất đẹp.
- Khổi cuối: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về khi bình minh đã rạng ngời trên
biển.
c. Cảm hứng chủ đạo:
- Bài thơ có hai nguồn cảm hứng lớn, song hành, hài hòa và trộn lẫn vào nhau.
Đó là cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ và cảm hứng về con người lao động trong cuộc
sống mới. Sự thống nhất của hai nguồn cảm hứng ấy được thể hiện qua kết cấu và hệ
thống thi ảnh trong bài. Về kết cấu, thời gian của bài thơ là nhịp tuần hoàn của vũ trụ
( từ lúc hoàng hôn đến lúc bình minh) cũng là thời gian hoạt động của đoàn thuyền
đánh cá ( từ lúc ra khơi đến khi trở về). Không gian của bài thơ là một không gian lớn
lao, kỳ vĩ với trời,biển, trăng, sao, sóng, gió; cũng là không gian của cảnh lao động.
d. Chủ đề tư tưởng: Thông qua việc miêu tả cảnh lao động đánh cá của người
ngư dân vùng biển Hạ Long, bài thơ ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, sự giàu có
của biển khơi; ngợi ca khí thế lao động hăng say, yêu đời của người lao động mới đã
được giải phóng, đang làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời và đất nước:
Tập làm chủ, tập làm người xây dựng
Dám vươn mình cai quản lại thiên nhiên!

Yêu biết mấy, những con người đi tới
Hai cánh tay như hai cánh bay lên
Ngực dám đón những phong ba dữ dội
Chân đạp bùn không sợ các loài sên!
63
( “Mùa thu mới” – Tố Hữu ).
II – Đọc – hiểu văn bản:
1. Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi lúc hoàng hôn buông xuống. ( Khúc
hát ra khơi ):
- Mở đầu bài thơ là cảnh đoàn thuyền ra khơi lúc hoàng hôn:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then,đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”
Bốn câu thơ có kết cấu gọn gàng, cân đối như một bài tứ tuyệt: hai câu đầu tả
cảnh, hai câu sau nói về con người. Cảnh và người tưởng như đối lập song lại hòa hợp,
cảnh làm nền để cho hình ảnh con người nổi bật lên như tâm điểm của một bức tranh –
bức tranh lao động khỏe khoắn, vui tươi tràn ngập âm thanh và rực rỡ sắc màu.
+ Hai câu thơ đầu tả cảnh hoàng hôn trên biển, cũng là thời điểm đoàn thuyền
đánh cá ra khơi:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa”.
_Nếu chỉ căn cứ vào thực tế sẽ thấy câu thơ có vẻ vô lí, bởi trên vịnh Hạ Long- ở
hướng Đông, không thể thấy cảnh mặt trời xuống biển như thế, mà chỉ có thấy mặt trời
mọc được thôi. Vậy thì ở đây, khi viết “Mặt trời xuống biển” tức là nhà thơ đã lấy
điểm nhìn từ trên con thuyền đang ra khơi, giữa biển khơi nhìn về hướng Tây nơi bờ
bãi. Lúc đó, xung quanh con thuyền chỉ là mênh mông sóng nước, mặt trời chỉ còn
cách lặn xuống biển. Mặt trời xuống biển nhưng dường như không tàn lụi, không tắt.
Nó như hòn lửa – một quả cầu lửa– đỏ rực, khổng lồ chìm vào đáy nước đại dương.
Biển cả bao la như nồng ấm hẳn lên. -> Phép tu từ so sánh: mặt trời được ví với hòn
lửa đem đến cho bức bức tranh hoàng hôn một vẻ đẹp rực rỡ, tráng lệ, và ấm áp chứ
không hiu hắt, ảm đạm như trong thơ cổ.
_ Phép nhân hóa, ẩn dụ “Sóng đã cài then đêm sập cửa” -> người đọc cảm nhận
thiên nhiên, vũ trụ,biển cả như đi vào trạng thái tĩnh lặng, nghỉ ngơi, thư giãn. Vũ trụ
giờ đây như một ngôi nhà khổng lồ. Những lượn sóng dài như chiếc then cài, còn màn
đêm đang buông xuống là cánh cửa.-> Hình ảnh thơ cho thấy thiên nhiên vũ trụ bao la
mà gần gũi với con người – biển cả hay đó cũng chính là ngôi nhà thân thuộc của mỗi
ngư dân. Có thể nói, hai câu thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên và lòng yêu mến cuộc
đời của nhà thơ Huy Cận.
+ Thiên nhiên vũ trụ là cái phông, cái nền cho con người xuất hiện:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
_ Hình ảnh, nhạc điệu trong câu thơ diễn tả khí thế khỏe khoắn, phấn chấn của
những người lao động: khẩn trương làm việc bất kể ngày đêm.
_ Đoàn thuyền lại ra khơi, tuần tự, nhịp nhàng như cái nhịp sống không bao giờ
ngừng nghỉ. Chữ “lại” trong câu thơ đã diễn tả điều đó, cho ta hiểu đây là công việc, là
hoạt động hàng ngày, thường xuyên, trở thành một nếp sống quen thuộc của những
người ngư dân vùng biển.
“Câu hát căng buồm cùng gió khơi” là hình ảnh ẩn dụ mang tính chất khoa
trương. Tiếng hát khỏe khoắn tiếp sức cho gió làm căng cánh buồm. Tiếng hát ấy, làm
nổi bật khí thế hồ hởi của người lao động trong buổi xuất quân chinh phục biển cả…

64
- Tiếng hát ấy còn thể hiện niềm mong ước của người đánh cá: mong ước một
chuyến ra khơi đánh bắt được thật nhiều hải sản, nhiều cá tôm giữa sự giàu đẹp của
biển khơi:
“ Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng,
Đến dệt lưới ta,đoàn cá ơi!”
2. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong một đêm trăng rất đẹp:
- Cảm hứng lãng mạn giúp nhà thơ phát hiện vẻ đẹp của cảnh đoàn thuyền đánh
cá trên biển trong đêm trăng với niềm vui phơi phới, khỏe khoắn khi con người làm
chủ cuộc đời, làm chủ biển trời quê hương.
- Cảnh đoàn thuyền lướt sóng ra khơi, từng luồng cá bủa lưới vây giăng mang vẻ
đẹp vừa hoành tráng, vừa thơ mộng:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng”
“Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”.
+ Con thuyền vốn nhỏ bé trước biển trời bao la đã trở thành con thuyền kì vĩ
mang tầm vóc vũ trụ. Thuyền có gió làm bánh lái, có trăng làm cánh buồm, lướt giữa
mây cao với biển bằng, giữa mây trời và sóng nước.
+ Chủ nhân con thuyền – những người lao động cũng trở nên lồng lộng giữa biển
trời trong tư thế làm chủ. Hình ảnh con người đã hòa nhập với kích thước rộng lớn của
thiên nhiên vũ trụ. Không chỉ vậy, họ còn nổi bật ở vị trí trung tâm – ra tận khơi xa dò
bụng biển, tìm luồng cá, dàn đan thế trận,bủa lưới vây giăng.
-> Đoàn thuyền đánh cá băng băng lướt sóng, bủa vây điệp trùng. Công việc lao
động trên biển như là một cuộc chiến đấu chinh phục thiên nhiên. Người lao động làm
việc với tất cả lòng dũng cảm, sự hăng say, trí tuệ nghề nghiệp, tâm hồn phơi phới.
- Bức tranh lao động được điểm tô bằng vẻ đẹp của thiên nhiên. Cái nhìn của nhà
thơ đối với biển và cá cũng có những sáng tạo bất ngờ,độc đáo:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Thủ pháp liệt kê kết hợp với sự phối sắc tài tình qua việc sử dụng các tính từ chỉ
màu sắc “đen hồng”,”vàng chóe”… đã tạo nên một bức tranh sơn mài nhiều màu sắc,
ánh sáng, lung linh huyền ảo như trong câu chuyện cổ tích nói về xứ sở thần tiên. Mỗi
loài cá là một kiểu dáng, một màu sắc: “Cá nhụ cá chim cùng cá đé/Cá song lấp lánh
đuốc đen hồng” làm nên sự giàu đẹp của biển cả quê hương. Như có một hội rước
đuốc trong lòng biển đêm sâu thẳm. Mỗi khi: “Cái đuôi em quẫy”, trăng như vàng hơn,
rực rỡ hơn, biển cả như sống động hẳn lên. Người xưa thường nói: “Thi trung hữu
họa” – nghĩa là trong thơ có hình có ảnh. Quả đúng như thế, mỗi loài cá ở đây là bức
kí họa thần tình. Chúng đâu chỉ là sản phẩm vô tri được đánh bắt bởi bàn tay con
người. Với họ - những người ngư dân này – cá là bạn, là “em”, là niềm cảm hứng cho
con người trong lao động, và cũng chính là đối tượng thẩm mĩ cho thi ca.
+ Cảnh đẹp không chỉ ở màu sắc, ánh sáng, mà còn ở âm thanh.Nhìn bầy cá bơi
lội, nhà thơ lắng nghe tiếng sóng vỗ rì rầm:
"Đêm thở :sao lùa nước Hạ long"
Bằng nghệ thuật ẩn dụ kết hợp nhân hóa, biển cả như một sinh thể sống động.
Tiếng sóng vỗ dạt dào dâng cao hạ thấp là nhịp thở trong đêm của biển. Thế nhưng
65
nhà thơ lại viết “Đêm thở:sao lùa nước Hạ Long”. Thật ra, là sóng biển đu đưa rì rào
va đập vào mạn thuyền. Trăng, sao phản chiếu ánh sáng xuống nước biển, mỗi khi
sóng vỗ nhịp tưởng như có bàn tay của sao trời đang “lùa nước Hạ Long”. Đó là sự
độc đáo, mới lạ trong sáng tạo nghệ thuật. Có thể nói, bằng tâm hồn hết sức tinh tế, tác
giả đã cảm nhận được hơi thở của thiên nhiên, vũ trụ. Chính không khí say sưa xây
dựng đất nước của những năm đầu khôi phục và phát triển kinh tế là cơ sở hiện thực
của những hình ảnh lãng mạn trên.
- Bút pháp lãng mạn, trí tưởng tượng phong phú của tác giả đã sáng tạo nên
những hình ảnh đẹp khiến công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá trở thành
bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên:
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá nhưl òng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
+ “Gõ thuyền” là công việc thực của người đánh cá, nhưng cái độc đáo ở đây là
vầng trăng được nhân hóa, tham gia lao động cùng con người.
+ Người dân chài hát bài ca gọi cá, bài ca về lòng biết ơn mẹ biển giàu có, nhân
hậu.
- Sao mờ, đêm tàn cũng là lúc người dân chài kéo lưới kịp trời sáng. Cảnh kéo
lưới, bắt cá được miêu tả vừa chân thực, vừa đầy chất thơ với không khí khẩn trương,
gấp gáp:
Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
Có thể nói, cảnh lao động đánh cá trên biển như bức tranh sơn mài rực rỡ. Người
kéo lưới là trung tâm của cảnh được khắc họa rất độc đáo với thân hình gân guốc, chắc
khỏe cùng thành quả thu về “vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông”. Màu hồng của bình
minh làm ấm sáng bức tranh lao động. Thiên nhiên và con người cùng nhịp nhàng
trong sự vận hành của vũ trụ.
3. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về khi bình minh đã rạng ngời trên biển.
( Khúc hát trở về).
- Đoàn thuyền đánh cá thắng lợi trở về trong bình minh rực rỡ, tráng lệ.
- Câu đầu của khổ thơ lặp lại gần như nguyên vẹn câu cuối của khổ thứ nhất, chỉ
thay có một từ ( từ “với”) đem đến kết cấu đầu – cuối tương ứng, tạo sự hài hòa cân
đối. Cấu trúc lặp lại ấy trở thành điệp khúc ngân nga, nhấn mạnh niềm vui lao động
làm giàu đẹp quê hương và khắc họa đậm nét vẻ đẹp khỏe khoắn cùng niềm vui phấn
khởi của người ngư dân.
- Phép tu từ nhân hóa: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”cho thấy tư thế chủ
động chinh phục biển trời, vũ trụ của người ngư dân. Đúng như lời bình của chính tác
giả: “Bài thơ là cuộc chạy đua giữa con người với thiên nhiên và con người đã chiến
thắng”.
- Nếu khổ thơ đầu, mặt trời xuống biển báo hiệu hoàng hôn thì ở khổ cuối lại là
mặt trời đội biển – là ngày mới bắt đầu – ngày mới với thành quả lao động bội thu và
niềm tin yêu phấn chấn.
- Câu thơ kết bài vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa khiến người đọc liên tưởng tới
một tương lai tươi sáng, huy hoàng: “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. Ngày mới

66
bắt đầu – thành quả lao động trải dài muôn dặm phơi – một cuộc đời mới đang sinh
sôi, phát triển…
III – Tổng kết:
1. Nội dung:
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” đã khắc họa nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ thể hiện
sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của
nhà thơ trước đất nước và cuộc sống.
2. Nghệ thuật:
Bài thơ có nhiều sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh bằng liên tưởng, tưởng
tượng phong phú, độc đáo; có âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng, lạc quan.

BÀI THAM KHẢO


Viết về đề tài lao động, bài thơ Bài ca vỡ đất của Hoàng Trung Thông và bài
Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận, ... được người đọc yêu thích nhất. Huy Cận viết
Đoàn thuyền đánh cá vào năm 1958, tại vùng biển Quảng Ninh phản ánh không khí
lao động sôi nổi của nhân dân miền Bắc trong xây dựng hòa bình. Nhà thơ ca ngợi tinh
thần lao động phấn khởi và hăng say của những người dân chài trên biển quê hương.
Cảm hứng trữ tình được diễn tả theo mạch thời gian: hoàng hôn - đêm trăng - và
bình minh. Cảnh bình minh như một biểu tượng mang ý nghĩa: một thời đại huy hoàng
đang mở ra phía trước, cuộc sống cần lao của nhân dân ta đang nở hoa.
Hai khổ thơ đầu nói về cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá. cảnh biển vô cùng
tráng lệ lúc hoàng hôn. Mặt trời được ví von với hòn than đỏ rực "hồn lửa" từ lừ lặn
xuống biển. Bầu trời và mặt biển bao la như ngôi nhà vũ trụ trong khoảnh khắc phủ
bóng tối mịt mùng. Những con sóng, như những chiếc "then cửa" của ngôi nhà vĩ đại
ấy. Cảm hứng vũ trụ, biện pháp tu từ so sánh ẩn dụ (hòn lửa, cài then) đã tạo nên
những vần thơ đẹp, cho người đọc nhiều ấn tượng:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Ngày đã chuyển sang đêm. Vừa lúc đó, đoàn thuyền ra khơi:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Không phải từng chiếc thuyền lẻ tẻ đi biển mà là cả một "đoàn thuyền", một sức
mạnh mới của cuộc đời đổi thay. Chữ trong ý thơ "lại ra khơi" là sự khẳng định nhịp
điệu lao động của dân chài đã ổn định, đi vào nề nếp trong hòa bình. Khúc hát lên
đường vang động. Gió biển thổi mạnh. Cánh buồm no gió "cũng" lên. Tiếng hát, gió
khơi, buồm căng là ba chi tiết nghệ thuật mang tính chất tượng trưng diễn tả tinh thần
phấn khởi, hăng say và khí thế ra khơi của ngư dân vùng biển.
Bốn câu thơ tiếp theo nói rõ về câu hát để làm nổi bật một nét tâm hồn của người
dân chài. Tiếng hát cầu mong đi biển gặp nhiều may mắn:
Hát rằng: cá bạc, biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Chuyện làm ăn thường có nhiều may rủi. Ra khơi đánh cá, họ cầu mong biển
lặng sóng êm, gặp luồng cá, đánh bắt được nhiều. Niềm ước mong ấy phản ánh tấm
lòng hồn hậu của ngư dân từng trải qua nhiều nắng, gió, bão tố trên biển. Giọng điệu
thơ ngọt ngào, ngân dài và vang xa: "Cá bạc", "đoàn thoi", "dệt biển", "luồng sáng",

67
"dệt lưới" là những hình ảnh so sánh ẩn dụ rất sáng tạo đem đến cho người đọc bao
liên tưởng thú vị về vẻ đẹp thơ ca viết về lao động.
Bốn khổ thơ tiếp nói về cảnh đánh cá một đêm trăng trên vịnh Hạ Long. Mỗi khổ
thơ là một nét vẽ về biển trời sóng nước trăng sao, trong đó con người hiện lên trong
dáng vẻ khỏe mạnh, trẻ trung và yêu đời.
Hạ Long là một thắng cảnh bậc nhất của đất nước ta. Hạ Long một đêm trăng
mang vỏ đẹp thần tiên. Huy Cận, với bút pháp lãng mạn tả cảnh đánh cá trên Hạ Long
một đêm trăng bằng bao hình ảnh tuyệt vời.
Đoàn thuyền có gió làm lái, có trăng làm buồm phóng như bay trên mặt biển.
Đến ngư trường "dò bụng biển", ngư dân khẩn trương lao vào công việc "dàn đan
thế trận lưới vây giăng". Cuộc đánh cá thực sự là một trận đánh. Mỗi thủy thủ là một
"chiến sĩ". Con thuyền, mái chèo, lưới, ngư cụ khác đều trở thành vũ khí của họ. Chữ
"lướt" đặc tả đoàn thuyền ra khơi với vận tốc phi thường; thiên nhiên cùng góp sức với
con người trên con đường lao động và khám phá. Nhịp thơ hối hả lôi cuốn:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Những câu thơ tả đàn cá là đặc sắc nhất. Biển quê ta giàu có với nhiều loại cá
quý, cá ngon nổi tiếng như tục ngữ đã nói: "Chim, thu, nhụ, đé". Vận dụng sáng tạo
cách nói của dân gian, ở phần trên, nhà thơ đã viết: "Cá thu biển đông như đoàn thoi",
ở đây lại miêu tả: "Cá nhụ cú chim cùng cá đé". Con cá song là một nét vẽ tài hoa. vẩy
cá đen, hồng, lấp lánh trên biển nước lân tinh chan hòa ánh trăng "vàng chóe". Cái
đuôi cá quẫy được so sánh với ngọn đuốc rực cháy. Nghệ thuật phối sắc tài tình làm
cho vần thơ đẹp như một bức tranh sơn mài rực rỡ. Bầy cá như những nàng tiên vũ
hội:
Cá nhụ cú chim cùng củ đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Nhìn bầy cá bơi lượn, nhà thơ lắng nghe tiếng sóng vỗ rì rầm, mắt nhìn về xa.
Câu thơ huyền ảo lung linh: "Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long", như đưa người đọc đi
vào cõi mộng. Phải có một tình yêu biển sâu nặng mới viết nên những vần thơ tuyệt
bút như vậy.
Sung sướng nhìn đàn cá "dệt lưới", những người dân chài cất lên tiếng hát ngọt
ngào. Lần thứ hai tiếng hát vang lên trên biển. Tiếng gõ thuyền đuổi cá hòa cùng sóng
biển, vầng trăng soi xuống mặt biển, muôn ngàn ánh vàng tan ra theo làn sóng, vỗ vào
mạn thuyền. "Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao". Biển hào phóng cho nhân dân nhiều
tôm cá, muối và hải sản... Biển "như lòng mẹ" đã nuôi sống nhân dân ta từ bao đời
nay. So sánh biển với lòng mẹ để nói lên lòng tự hào của dân chài đối với biển quê
hương. Giọng thơ ấm áp, chứa chan nghĩa tình:
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Một đêm trôi nhanh trong nhịp điệu lao động hào hứng, hăng say. Trên bầu trời
sao đã thưa và mờ. Cảnh kéo lưới được miêu tả đầy ấn tượng. Những cánh tay rắn
chắc kéo lưới "xoăn tay". "Kéo xoăn tay" là một hình ảnh đặc tả động tác kéo lưới rất
căng, khỏe và đẹp. Cơ may nào là cá mắc vào lưới như những chùm trái cây treo lủng
lẳng. "Chùm cá nặng" là một hình ảnh ẩn dụ gợi tả được mùa cá. Khoang thuyền đầy
ắp cá. Màu bạc của vẩy cá, màu vàng của đuôi cá "lóe rạng đông". Một lần nữa cho
68
thấy nghệ thuật sử dụng màu sắc của nhà thơ rất điêu luyện, sắc cá dưới ánh trăng và
sắc cá dưới ánh rạng đông đều được miêu tả tuyệt đẹp:
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông.
Khổ thơ cuối nói về cảnh đoàn thuyền trở về bến lúc rạng đông. Lần thứ ba, ngư
dân trên đoàn thuyền lại cất cao tiếng hát - tiếng hát thắng lợi hân hoan. Con thuyền và
mặt trời được nhân hóa. Thơ được cấu trúc song hành diễn tả nhịp sống khẩn trương:
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới.
Cảnh rạng đông với hình ảnh "mặt trời đội biển..." nhô lên, tỏa ánh sáng chan
hòa, một "màu mới!' bao trùm biển khơi. Đoàn thuyền phóng như bay về bến như
cướp lấy thời gian, giành lấy thời gian. Biện pháp thậm xưng kết hợp với nghệ thuật
hoán dụ trong việc tả "mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi" đã vẽ lên cảnh được mùa cá
và cuộc sống hạnh phúc ấm no của nhân dân vùng biển. Bằng lao động và mồ hôi, họ
đã viết nên bài ca cuộc đời.
Đoàn thuyền đánh cá là bài thơ tiêu biểu của Huy Cận sau Cách mạng tháng
Tám. Nếu như trước đây, thơ Huy Cận thấm một nỗi buồn "vạn cổ sầu" vào vũ trụ và
lòng người thì những bài thơ của ông từ sau năm 1945, đặc biệt là bài Đoàn thuyền
đánh cá mang âm điệu ngọt ngào, niềm vui say mê và phấn chấn của nhân dân lao
động đang làm chủ cuộc đời.
Qua thơ Huy Cận, chúng ta như được sống những đêm trăng đẹp trên Hạ Long,
ta tự hào đất nước ta có trên ba nghìn cây số bờ biển; biển ta giàu có, bao la tiềm năng,
dồi dào hải sản.
Cảnh đánh cá trên biển được miêu tả với cảm hứng lãng mạn. Lao động thật sự là
niềm vui cuộc đời. Trong xã hội ta, cái đáng quý nhất là lao động, người đáng quý
nhất là người lao động. Hình ảnh người dân chài trong bài thơ là hiện thân của sức
sống cần lao. Họ cần cù, dũng cảm và chịu khó. Cuộc đời của họ đã gắn liền với sóng
gió mưa nắng biển khơi, khai thác nhiều hải sản. Chính họ đã đem lại muối mặn và
hương vị biển cho mọi gia đình gần xa, bữa cơm trở nên đậm đà với con tôm con cá.
Cùng với nhà nông "một nắng hai sương", những người dân chài đã cho ta bài học về
đức tính cần cù, tinh thần lạc quan trong lao động.
Thật vậy, Đoàn thuyền đánh cá là một bài thơ hay. Những nét vẽ về đàn cá biển,
về người dân chài đánh cá, kéo lưới, ca hát... cho thấy một hồn thơ đẹp.

ÁNH TRĂNG
Nguyễn Duy
I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả:
- Nguyễn Duy sinh năm 1948, tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ, quê ở thành
phố Thanh Hóa.
- 1966, ông gia nhập quân đội, vào binh chủng Thông tin,tham gia chiến đấu ở
nhiều chiến trường.
- Sau năm 1975, ông chuyển về làm báo Văn nghệ giải phóng. Từ năm 1977,
Nguyễn Duy là đại diện thường trú báo Văn nghệ tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Duy thuộc thế hệ các nhà thơ quân đội trưởng thành trong kháng chiến
chống Mỹ cứu nước của dân tộc và trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu.
69
- Thơ ông gần gũi với văn hóa dân gian, nhưng sâu sắc mà rất đỗi tài hoa, đi sâu
vào cái nghĩa, cái tình muôn đời của con người Việt Nam.
“ Thơ Nguyễn Duy sâu lắng, thắm thiết cái hồn cái vía của ca dao, dân ca Việt
Nam.Những bài thơ của ông không cố gắng tìm kiếm những hình thức mới mà đi sâu
vào cái nghĩa cái tình muôn đời của con người Việt Nam. Ngôn ngữ thơ Nguyễn Duy
cũng không bóng bẩy mà gần gũi, dân dã, đôi khi hơi “bụi”, phù hợp với ngôn ngữ
thường nhật”. ( Theo “Văn lớp 9 không khó như bạn nghĩ”).
- Năm 2007, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
- Tác phẩm tiêu biểu: Cát trắng (1973), Mẹ và em ( 1987), Đường xa (1990), Về
(1994)…
2. Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác:
-Nguyễn Duy viết bài thơ “Ánh trăng” vào năm 1978 ,tại thành phố Hồ Chí Minh
-nơi đô thị của cuộc sống tiện nghi hiện đại, nơi những người từ trận đánh trở về đã để
lại sau lưng cuộc chiến gian khổ mà nghĩa tình.
- In trong tập thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy –tập thơ đạt giải A của Hội nhà
Văn Việt Nam năm 1984.
b. Bố cục: 3phần:
- Hai khổ đầu: Vầng trăng trong quá khứ.
- Hai khổ tiếp: Vầng trăng trong hiện tại.
- Hai khổ cuối: Cảm xúc và suy ngẫm của tác giả trước vầng trăng.
c. Mạch cảm xúc:
Bài thơ là câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian từ quá khứ đến hiện tại
gắn với các mốc sự kiện trong cuộc đời con người. Theo dòng tự sự ấy mạch cảm xúc
đi từ quá khứ đến hiện tại và lắng kết trong cái "giật mình" cuối bài thơ.
c. Chủ đề:
Thông qua hình tượng nghệ thuật "Ánh trăng" và cảm xúc của nhà thơ, bài thơ đã
diễn tả những suy ngẫm sâu sắc về thái độ của con người đối với quá khứ gian lao,
tình nghĩa.
II – Đọc – hiểu văn bản:
1. Vầng trăng trong quá khứ:
- Hồi nhỏ sống:
+ với đồng.
+ với sông.
+ với bể.
-> Điệp từ “với” được lặp lại ba lần càng tô đậm thêm sự gắn bó chan hòa của
con người với thiên nhiên, với những tươi đẹp của tuổi thơ.
-“Hồi chiến tranh ở rừng” – những năm tháng gian khổ, ác liệt thời chiến
tranh,“vầng trăng thành tri kỉ” -> Nghệ thuật nhân hóa -> trăng là người bạn thân thiết,
tri âm tri kỉ, là đồng chí cùng chia sẻ những vui buồn trong chiến trận với người lính –
nhà thơ -> Hành quân giữa đêm, trên những nẻo đường chông gai ra mặt trận, những
phiên gác giữa rừng khuya lạnh lẽo, những tối nằm yên giấc dưới màn trời đen đặc,
người lính đều có vầng trăng bên cạnh. Trăng ở bên, bầu bạn, cùng cảm nhận cái giá
buốt nơi “Rừng hoang sương muối” (Đồng chí), cùng trải qua bao gian khổ của cuộc
sống chiến đấu, cùng chia ngọt sẻ bùi,đồng cam cộng khổ; cùng hân hoan trong niềm
vui thắng trận, cung xao xuyến, bồn chồn, khắc khoải mỗi khi người lính nhớ nhà, nhớ
quê…

70
-“Trần trụi với thiên nhiên/ hồn nhiên như cây cỏ” -> Vầng trăng trong quá khứ
mới đẹp làm sao!
->phép liên tưởng đầy tính nghệ thuật “trần trụi với thiên nhiên”, so sánh độc đáo
“hồn thiên như cây cỏ” -> cho ta thấy rõ hơn vẻ đẹp bình dị,mộc mạc,trong sáng, rất
đỗi vô tư, hồn nhiên của vầng trăng. Đó cũng chính là hình ảnh con người lúc bấy giờ:
vô tư, hồn nhiên, trong sáng.
-“không…quên…vầng trăng tình nghĩa” -> thể hiện tình cảm thắm thiết với vầng
trăng.
=>Vầng trăng đã gắn bó thân thiết với con người từ lúc nhỏ đến lúc trưởng
thành,cả trong hạnh phúc và gian lao.
=>Trăng là vẻ đẹp của đất nước bình dị, hiền hậu; của thiên nhiên vĩnh hằng, tươi
mát, thơ mộng.
=>Vầng trăng không những trở thành người bạn tri kỉ, mà đã trở thành “vầng
trăng tình nghĩa” biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình.
2. Vầng trăng trong hiện tại:
-Hoàn cảnh sống:
+ Đất nước hòa bình.
+ Hoàn cảnh sống thay đổi: xa rời cuộc sống giản dị của quá khứ, con người
được sống sung túc trong “ánh điện cửa gương” - cuộc sống đầy đủ, tiện nghi, khép
kín trong những căn phòng hiện đại,xa rời thiên nhiên.
- “Vầng trăng đi qua ngõ – như người dưng qua đường”:
+ Vầng trăng bây giờ đối với người lính năm xưa giờ chỉ là dĩ vãng, dĩ vãng nhạt
nhòa của quãng thời gian xa xôi nào đó.
+ Biện pháp nhân hóa, so sánh-> “Vầng trăng tình nghĩa” trở thành “người dưng
qua đường”. Vầng trăng vẫn “đi qua ngõ”, vẫn tròn đầy, vẫn thủy chung tình nghĩa,
nhưng con người đã quên trăng, hờ hững, lạnh nhạt, dửng dưng đến vô tình. Vầng
trăng giờ đây bỗng trở thành người xa lạ, chẳng còn ai nhớ, chẳng còn ai hay biết.
-> Rõ ràng, khi thay đổi hoàn cảnh, con người có thể dễ dàng quên đi quá khứ, có
thể thay đổi về tình cảm.Nói chuyện quên nhớ ấy, nhà thơ đã phản ánh một sự thực
trong xã hội thời hiện đại.
- Con người gặp lại vầng trăng trong một tình huống bất ngờ:
+ Tình huống: mất điện, phòng tối om.
+ “Vội bật tung”: vội vàng, khẩntrương -> bắt gặp vầng trăng
-> Đây là khổ thơ quan trọng trong cấu tứ toàn bài. Chính cái khoảnh khắc bất
ngờ ấy đã tạo nên bước ngoặt trong mạch cảm xúc của nhà thơ-> Sự xuất hiện bất ngờ
của vầng trăng khiến nhà thơ ngỡ ngàng, bối rối, gợi cho nhà thơ bao kỉ niệm nghĩa
tình.
3. Cảm xúc và suy ngẫm của tác giả trước vầng trăng.
- Từ “mặt” được dùng với nghĩa gốc và nghĩa chuyển – mặt trăng, mặt người –
trăng và người cùng đối diện đàm tâm.
- Với tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” người đọc cảm nhận sự lặng im, thành kính
và trong phút chốc cảm xúc dâng trào khi gặp lại vầng trăng: “có cái gì rưng rưng”.
Rưng rưng của những niềm thương nỗi nhớ, của những lãng quên lạnh nhạt với người
bạn cố tri; của một lương tri đang thức tỉnh sau những ngày đắm chìm trong cõi u mê
mộng mị; rưng rưng của nỗi ân hận ăn năn về thái độ của chính mình trong suốt thời
gian qua. Một chút áy náy, một chút tiếc nuối, một chút xót xa đau lòng, tất cả đã làm
nên cái “rưng rưng”,cái thổn thức trong sâu thẳm trái tim người lính.

71
- Và trong phút giây nhân vật trữ tình nhìn thẳng vào trăng- biểu tượng đẹp đẽ
của một thời xa vắng, nhìn thẳng vào tâm hồn của mình, bao kỉ niệm chợt ùa về chiếm
trọn tâm tư. Kí ức về quãng đời ấu thơ trong sáng, về lúc chiến tranh máu lửa, về cái
ngày xưa hồn hậu hiện lên rõ dần theo dòng cảm nhận trào dâng, “như là đồng là bể,
như là sông là rừng”. Đồng, bể, sông, rừng,những hình ảnh gắn bó nơi khoảng trời kỉ
niệm.
-> Cấu trúc song hành của hai câu thơ, nhịp điệu dồn dập cùng biện pháp tu từ so
sánh, điệp ngữ và liệt kê như muốn khắc họa rõ hơn kí ức về thời gian gắn bó chan hòa
với thiên nhiên, với vầng trăng lớn lao sâu nặng, nghĩa tình, tri kỉ. Chính thứ ánh sáng
dung dị đôn hậu đó của trăng đã chiếu tỏ nhiều kỉ niệm thân thương, đánh thức bao
tâm tình vốn tưởng chừng ngủ quên trong góc tối tâm hồn người lính. Chất thơ mộc
mạc chân thành như vầng trăng hiền hòa, ngôn ngữ hàm súc, giàu tính biểu cảm như
“có cái gì rưng rưng”,đoạn thơ đã đánh động tình cảm nơi người đọc.
- Hình ảnh “trăng cứ tròn vành vạnh” là tượng trưng cho quá khứ nghĩa tình, thủy
chung, đầy đặn, bao dung, nhân hậu.
- Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” mang ý nghĩa nghiêm khắc nhắc nhở, là sự
trách móc trong lặng im. Chính cái im phăng phắc của vầng trăng đã đánh thức con
người, làm xáo động tâm hồn người lính năm xưa. Con người “giật mình” trước ánh
trăng là sự bừng tỉnh của nhân cách, là sự trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp. Đó
là lời ân hận, ăn năn day dứt, làm đẹp con người.
III – Tổng kết:
1. Nội dung:
- Bài thơ là một lời tự nhắc nhở của tác giả về những năm tháng gian lao của
cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu.
- Gợi nhắc, củng cố ở người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa
thủy chung cùng quá khứ.
2. Nghệ thuật:
- Thể thơ 5 chữ, phương thức biểu đạt tự sự kết hợp với trữ tình.
- Giọng thơ mang tính tự bạch, chân thành sâu sắc.
- Hình ảnh vầng trăng – “ánh trăng” mang nhiều tầng ý nghĩa.

LÀNG
Kim Lân
I.Tìm hiểu chung:
1. Tác giả: Kim Lân
-Tên khai sinh Nguyễn Văn Tài (1920-2007),quê Từ Sơn - Bắc Ninh.
- Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, Kim Lân chỉ được học hết bậc tiểu học rồi
phải đi làm. Kim Lân bắt đầu viết văn từ năm 1941.
- Ông là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Vốn am hiểu và gắn bó sâu sắc cuộc
sống nông thôn, Kim Lân hầu như chỉ viết về đề tài sinh hoạt ở làng quê và cảnh ngộ
của người nông dân.
- Một số truyện đã thể hiện được không khí tiêu điều, ảm đạm của nông thôn Việt
Nam và cuộc sống lam lũ, vất vả của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám.

72
- Ông được dư luận chú ý nhiều hơn khi đi vào những đề tài độc đáo như tái hiện
sinh hoạt văn hóa phong phú ở thôn quê, qua đó góp phần biểu hiện vẻ đẹp tâm hồn
của người nông dân.
- Sau cách mạng tháng Tám, Kim Lân tiếp tục làm báo, viết văn và vẫn viết về
làng quê Việt Nam – mảng hiện thực mà từ lâu ông đã hiểu biết sâu sắc
-Ngoài hoạt động sáng tác, nhà văn Kim Lân còn tham gia sân khấu và điện ảnh,
ông kịch, đóng phim. (Tiêu biểu là vai Lão Hạc trong bộ phim “Làng Vũ Đại ngày
ấy”)
- Năm 2001, Kim Lân được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ
thuật. Ông mất năm 2007, sau một thời gian dài chống chọi với căn bệnh hen suyễn.
- Các tác phẩm tiêu biểu: Nên vợ nên chồng, Vợ nhặt, Con chó xấu xí, Làng,…
2. Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác:
- “Làng” được viết và đăng báo trên tạp chí Văn nghệ năm 1948 – giai đoạn đầu
của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong thời kì này thì người dân nghe theo chính
sách của chính phủ: kêu gọi nhân dân ta tản cư, những người dân ở vùng địch tạm
chiếm đi lên vùng chiến khu để chúng ta cùng kháng chiến lâu dài.
- Kim Lân kể lại: “Hồi ấy gia đình tôi cũng đi sơ tán. Trên khu ở mới, có tin đồn
làng tôi là làng Việt gian. Mọi người đều nhìn những người dân làng với con mắt chế
giễu, khinh thường. Tôi yêu ngôi làng của tôi và không tin làng tôi lại có thể đi theo
giặc Pháp. Tôi viết truyện ngắn “Làng” như thể để khẳng định niềm tin của mình và
minh oan cho làng tôi”. ( Theo “Văn lớp 9 không khó như bạn nghĩ”).
b. Bố cục: 3 đoạn:
- Đoạn 1: Từ đầu…đến… “ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!”: Ông Hai
trước khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc.
- Đoạn 2: Tiếp…đến…”cũng vợi được đi đôi phần”: Tâm trạng của ông Hai khi
nghe tin làng mình theo giặc.
- Đoạn 3: Còn lại: Tâm trạng của ông Hai khi tin làng mình theo giặc được cải
chính.
c. Chủ đề:Tình yêu quê hương, đất nước.
d. Tóm tắt văn bản:
Ông Hai là người làng Chợ Dầu. Trong kháng chiến chống Pháp, ông phải đưa
gia đình đi tản cư. Ở đây, lúc nào ông cũng nhớ làng và luôn dõi theo tin tức cách
mạng. Khi nghe tin đồn làng Chợ Dầu theo giặc, ông vô cùng đau khổ, cảm thấy xấu
hổ, nhục nhã. Ông không đi đâu, không gặp ai, chỉ sợ nghe đồn về làng ông theo giặc.
Nỗi lòng buồn khổ đó càng tăng lên khi có tin người ta không cho những người làng
ông ở nhờ vì là làng Việt gian. Ông không biết bày tỏ với ai, không dám đi ra ngoài.
Thế là ông đành nói chuyện với thằng con út cho vơi nỗi buồn, cho nhẹ bớt những đau
khổ tinh thần. Khi nhận tin cải chính, vẻ mặt ông tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Ông chia
quà cho các con, và tất bật báo tin cho mọi người rằng nhà ông bị Tây đốt, làng ông
không phải là làng Việt gian. Ông thêm yêu và tự hào về cái làng của mình.
HƯỚNG DẪN TÓM TẮT TRUYỆN NGẮN LÀNG.
1. Ông Hai là người làng Chợ Dầu. Trong kháng chiến
chống Pháp, ông phải đưa gia đình đi tản cư.
2. Ở nơi tản cư, ông luôn nhớ về làng, khoe về làng,
luôn theo dõi tin tức kháng chiến.
73
3. Ông Hai đến phòng thông tin nghe tin tức cách
mạng, nghe được tin vui, ruột gan ông lão cứ múa cả
lên.
4. Sau đó, trên đường về ông ghé lại chỗ những người
đi tản cư để hỏi thăm về làng, nghe kể chuyện. Ông
nghe được tin làng chợ Dầu theo giặc.
5. Khi nghe tin làng theo giặc ông Hai sửng sốt, đau
đớn vội nói đánh trống lảng rồi đứng dạy đi về
+ Trên đường về, ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi.
+ Về đến nhà, ông lão nằm vật ra giường, nhìn lũ trẻ
nước mắt giàn ra, ông thấy tủi nhục-> ông kiểm
điểm từng người trong làng.
+ Suốt mấy ngày, ông lão chỉ ở trong nhà, không
dám đi đâu. Nghe mọi người xúm lại là ông nghĩ
ngay đến chuyện làng theo Tây.
+ Ông lo lắng về việc sẽ bị đuổi khỏi nơi ông đang ở-
> đấu tranh, lựa chọn-> quyết định “ Làng thì yêu
thật, nhưng làng theo Tây thì nhất định phải thù”
6. Ông trò chuyện với thằng cu Húc( con trai út ), để
giải bày tâm trạng, nỗi lòng của ông.
7. Sau đó ông nghe được tin cải chính làng Chợ Dầu
không theo giặc. Ông vui mừng, chia quà cho các
con, khoe với mọi người làng bị đốt, nhà bị cháy.

II – Đọc – hiểu văn bản:


1. Tình huống truyện:
a. Khái niệm tình huống truyện:
- Tình huống truyện là một hoàn cảnh có vấn đề xuất hiện trong tác phẩm. Trong
hoàn cảnh đó, nhân vật sẽ có hành động bộc lộ rõ nhất, điển hình nhất bản tính của
mình. Tính cách nhân vật sẽ rõ, chủ đề tác phẩm sẽ bộc lộ trọn vẹn.
b. Tình huống truyện trong truyện ngắn “Làng”:
- Đó là khi ông Hai nghe được tin làng Chợ Dầu theo giặc.
=> tình huống đối nghịch với tình cảm tự hào mãnh liệt về làng Chợ Dầu của ông
Hai. Khác với suy nghĩ về một làng quê “Tinh thần cách mạng lắm” của ông.
=> Vai trò: tạo tâm lí, diễn biến gay gắt trong nhân vật, làm bộc lộ sâu sắc tình
cảm yêu làng, yêu nước ở ông Hai.
74
Xét về mặt hiện thực, chi tiết này rất hợp lí. Xét về mặt nghệ thuật nó tạo nên
một nút thắt cho câu chuyện; gây ra mâu thuẫn giằng xé tâm lí ông lão đáng thương và
đáng trọng ấy; tạo ra điều kiện để thể hiện tâm trạng và phẩm chất, tính cách của nhân
vật thêm chân thực và sâu sắc; góp phần giải quyết chủ đề tác phẩm: phản ánh và ca
ngợi tình yêu làng, yêu nước chân thành, giản dị của người nông dân Việt Nam trong
cuộc kháng chiến chống Pháp.Sự phát triển của câu chuyện sẽ bám theo cái tình huống
oái oăm này.
2. Diễn biến tâm trạng của ông Hai:
a. Trước khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc:
- Nhớ làng da diết – muốn về làng, muốn tham gia kháng chiến.
- Mong nắng cho Tây chết.
=> Yêu thương, gắn bó với làng quê, tự hào và có trách nhiệm với cuộc kháng
chiến của làng.
- Ở phòng thông tin, ông nghe được nhiều tin hay -> những tin chiến thắng của
quân ta -> Ruột gan ông cứ múa cả lên -> Quan tâm tha thiết, nồng nhiệt đến cuộc
kháng chiến.
=> Ông Hai là người nông dân có tính tình vui vẻ, chất phác, có tấm lòng gắn bó
với làng quê và cuộc kháng chiến.
b. Tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng theo giặc:
- Khi nghe tin xấu ông Hai sững sờ, xấu hổ, uất ức: “cổ ông lão nghẹn ắng hẳn
lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như không thở được”. Từ đỉnh cao của
niềm vui, niềm tin ông Hai rơi xuống vực thẳm của sự đau đớn, tủi hổ vì cái tin ấy quá
bất ngờ. Khi trấn tĩnh lại được phần nào, ông còn cố chưa tin cái tin ấy. Nhưng rồi
những người tản cư đã kể rảnh rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên” làm ông
không thể không tin. Niềm tự hào về làng thế là sụp đổ, tan tành trước cái tin sét đánh
ấy. Cái mà ông yêu quí nhất nay cũng đã quay lưng lại với ông. Không chỉ xấu
hổ trước bà con mà ông cũng tự thấy ông mất đi hạnh phúc của riêng ông, cuộc đời
ông cũng như chết mất một lần nữa.
-Từ lúc ấy trong tâm trí ông Hai chỉ còn có cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành
một nỗi ám ảnh day dứt. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông “cúi gằm mặt mà đi”. Về
đến nhà ông nằm vật ra giường rồi tủi thân nhìn lũ con “nước mắt ông lão cứ giàn ra”.
Bao nhiêu điều tự hào về quê hương như sụp đổ trong tâm hồn người nông dân rất
mực yêu quê hương ấy. Ông cảm thấy như chính ông mang nỗi nhục của một tên bán
nước theo giặc, cả các con ông cũng sẽ mang nỗi nhục ấy
- Suốt mấy ngày ông không dám đi đâu. Ông quanh quẩn ở nhà, nghe ngóng tình
hình bên ngoài. “Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa,
ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta
đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam –
nhông… là ông lủi ra một nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi!”
- Ông Hai rơi vào tình trạng bế tắc, tuyệt vọng khi nghĩ tới tương lai. Ông không
biết đi đâu, về làng thi không được, vì về làng lúc này là đồng nghĩa với theo Tây,
phản bội kháng chiến. Ở lại thì không xong, vì mụ chủ nhà đã đánh tiếng xua đuổi.
Còn đi thi biết đi đâu bởi ai người ta chưa chấp dân làng Chợ Dầu phản bội. Nếu như
trước đây, tình yêu làng và tình yêu nước hòa quyện trong nhau thì lúc này, ông Hai
buộc phải có sự lựa chọn. Quê hương và Tổ quốc,bên nào nặng hơn? Đó không phải là
điều đơn giản vì với ông, làng Chợ Dầu đã trở thành một phần của cuộc đời, không dễ
gì vứt bỏ; còn cách mạng là cứu cánh của gia đình ông, giúp cho gia đình ông thoát
khỏi cuộc đời nô lệ. Cuối cùng, ông đã quyết định: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo
75
Tây mất rồi thì phải thù”. Như vậy, tình yêu làng dẫu có thiết tha, mãnh liệt đến đâu
cũng không thể mãnh liệt hơn tình yêu đất nước. Đó là biểu hiện vẻ đẹp trong tâm hồn
của con người Việt Nam, khi cần họ sẵn sàng gạt bỏ tình cảm riêng tư để hướng tới
tình cảm chung của cả cộng đồng.
- Để ông Hai vợi bớt nỗi đau đớn, dằn vặt trong lòng và yên tâm về quyết định
của mình, tác giả đã cho nhân vật trò chuyện với đứa con út(thằng cu Húc), giúp ông
bày tỏ tình yêu sâu nặng với làng Chợ Dầu(nhà ta ở làng Chợ Dầu),bày tỏ tấm lòng
thủy chung son sắt với kháng chiến, với Cụ Hồ(chết thì chết có bao giờ dám đơn sai). -
> Đó là một cuộc trò chuyện đầy xúc động. Nỗi nhớ quê, yêu quê, nỗi đau đớn khi
nghe tin quê hương theo giặc cứ chồng chéo đan xen trong lòng ông lão. Nhưng trong
ông vẫn cháy lên một niềm tin tưởng sắt đá, tin tưởng vào Cụ Hồ, tin tưởng vào cuộc
kháng chiến của dân tộc. Niềm tin ấy đã phần nào giúp ông có thêm nghị lực để vượt
qua khó khăn này. Dường như ông Hai đang nói chuyện với chính mình, đang giãi bày
với lòng mình và cũng như đang tự nhắc nhở: hãy luôn “Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh”.
Tình quê và lòng yêu nước thật sâu nặng và thiêng liêng.
=> Đau khổ tột cùng khi nghe tin làng mình theo giặc nhưng tấm lòng thủy
chung, son sắt với cuộc kháng chiến thì vẫn không hề thay đổi.
c. Tâm trạng của ông Hai khi tin làng mình theo giặc được cải chính.
- Đúng lúc ông Hai có được quyết định khó khăn ấy thì cái tin làng Chợ Dầu
phản bội đã được cải chính. Sự đau khổ của ông Hai trong những ngày qua nhiều bao
nhiêu thì niềm phấn khởi và hạnh phúc của ông lúc này càng lớn bấy nhiêu. Ông “bô
bô” khoe với mọi người về cái tin làng ông bị “đốt nhẵn”, nhà ông bị “đốt nhẵn”. Nội
dung lời “khoe” của ông có vẻ vô lí bởi không ai có thể vui mừng trước cảnh làng, nhà
của mình bị giặc tàn phá. Nhưng trong tình huống này thì điều vô lí ấy lại rất dễ hiểu:
Sự mất mát về vật chất ấy chẳng thấm vào đâu so với niềm vui tinh thần mà ông đang
được đón nhận. Nhà văn Kim Lân đã tỏ ra rất sắc sảo trong việc nắm bắt và miêu tả
diễn biến tâm lí của nhân vật
=> Từ một người nông dân yêu làng, ông Hai trở thành người công dân
nặng lòng với kháng chiến. Tình yêu làng, yêu nước đã hòa làm một trong ý nghĩ,
tình cảm, việc làm của ông Hai. Tình cảm ấy thống nhất, hòa quyện như tình yêu
nước được đặt cao hơn, lớn rộng lên tình làng. Đây là nét đẹp truyền thống mang
tinh thần thời đại. Ông Hai là hình ảnh tiêu biểu của người nông dân trong thời
kì kháng chiến chống Pháp.
III. Tổng kết:
1. Nội dung:
Truyện thể hiện chân thực, sinh động tình cảm yêu làng quê thống nhất với lòng
yêu đất nước ở nhân vật ông Hai.
2.Nghệ thuật:
-Tác giả sáng tạo tình huống truyện có tính căng thẳng, thử thách.
-Xây dựng cốt truyện tâm lí (đó là chú trọng vào các tình huống bên trong nội
tâm nhân vật).
-Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tự nhiên mà sâu sắc, tinh tế.
-Ngôn ngữ đặc sắc, sinh động, mang đậm chất khẩu ngữ, gần với lời ăn tiếng nói
hằng ngày của người nông dân.
BÀI THAM KHẢO
Kim Lân là cây bút xuất sắc về truyện ngắn của nền văn học Việt Nam. Viết về
đề tài nông dân và kháng chiến truyện “Làng” là tác phẩm thành công để lại ấn tượng
sâu sắc trong lòng bạn đọc.Tác phẩm đã khắc họa thành công nhân vật ông Hai - một
76
lão nông trong hoàn cảnh kháng chiến gắn tình yêu làng với yêu quê hương đất nước.
Chuyện khai thác một tình cảm bao trùm trong kháng chiến chống Pháp.Những
nét tình cảm và tính cách riêng tư cúa ông Hai trong truyện cũng là tình cảm chung của
người nông dân trong kháng chiến.
Ông Hai vốn là một lão nông cần cù chất phác và ít chữ. Ông cũng như bao con
người Việt Nam khác, cũng có một quê hương để yêu thương gắn bó.Làng chợ Dầu
luôn là niềm tự hào kiêu hãnh của ông Hai. Đó là những tình cảm không thế nén nổi đã
được bộc lộ ra một cách chân tình gần gũi và cũng 1 điều dễ hiểu thông thường của
con người Việt Nam. Một đặc điểm nổi bật ở người nông dân chất phác này là luôn
khoe về cái làng chợ Dầu của mình. Cái tính khoe làng của ông Hai gần như trở thành
bản chất,có khác chăng là ở những thời điếm khác nhau.
Trước cách mạng, đi đâu ông Hai cũng khoe làng trù phú và nhà ngói san sát,
đường trong làng lá toàn đá xanh trời mưa trời gió tha hồ đi, khắp đầu làng cuối xóm
bùn không dính đến gót chân ,ngày mùa phơi rơm phơi thóc thì tốt thượng hạng, lại
còn cái chòi phát thanh cao bằng ngọn tre chiều chiều loa gọi cả làng nghe thấy. Đặc
biệt ông Hai rất tự hào hãnh diện về cái sinh phần của tên viên tổng đốc: chết tôi chưa
thấy cái dinh cơ nào mà lại được như cái dinh cơ cụ Thượng làng tôi có lắm lắm là
của, vườn hoa cây cảnh nom như động ấy.Thấy bảo còn hơn cái lăng cụ thiếu Hà
Đông.
Nhưng từ sau cách mạng tháng Tám khi có ánh sáng cúa Đảng soi rọi tâm hồn
ông Hai đã có cuộc cách mạnh về nhận thức: ông thấy rằng phải căm thù cái sinh phần
của tên viên tổng đốc vì nó mà làng đã phải vất vả phục dịch việc xây dựng cái dinh
cơ ấy, ngay bản thân ông bị cả một chồng gạch đổ chân khiến cái chân giờ vẫn đi tập
tễnh. Từ đó đã dẫn tới sự thay đổi về cách khoe làng chợ Dầu: giờ ông luôn tự hào về
một làng chợ Dầu kháng chiến với những buổi đi tập dân quân một hai những cụ già
đầu tóc bạc phơ cũng rất hăng hái.
Kháng chiến bùng nổ, người dân phải dời làng đi tản cư, theo lệnh cụ Hồ, ông
Hai cũng đi tản cư với tinh thần ' tản cư là yêu nước, yêu nước là tản cư". Ở nơi ở
mới bao công việc bộn bề nhưng ông vẫn luôn nhớ về chợ Dầu".Theo dõi những tin
tức và ông rất vui khi nghe những tin kháng chiến: một em nhỏ trong ban tuyên
truyền xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm quốc kì lên tháp rùa. Một anh
trung đội trưởng sau khi giết chết được bảy tên giặc đã tự sát bằng quả lựu đạn cuối
cùng. Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người đi mua hàng đã bắt sống tên quan hai
bốt thao ngay giữa chợ.Trong lúc đang hồ hởi với những tin tức kháng chiến thì ông
Hai đã nhận được một tin sét đánh về làng chợ Dầu: làng Dầu theo Tây. Như một gáo
nước lạnh tạt vào mặt ông Hai, nghe tin dữ ông Hai sững sờ “ cổ ông lão nghẹn ắng
lại da mặt tê rân rân, ông lão lặng đi tường chừng như không thở được”. Khi chấn
tĩnh lại ông còn cố tình chưa muốn tin điều đó là sự thật thì lại được nghe câu chuyện
kể khá dành dọt lại “ vừa ở dưới đấy lên” làm ông không thể không tin.
Từ lúc nhận được tin dữ ông Hai rất buồn xoay quanh tâm trạng ông lúc này chi
là những ý nghĩ vẫn vơ nó đã ám ảnh ông suốt chặng đường về nhà, ông chỉ dám
“ cúi gằm mặt xuống mà đi”. Đặc biệt là tiếng chửi đổng của người đàn bà dưới
xuôi “ cha mẹ tiên sư nhà chúng nó đói khổ ăn trộm ăn cắp người ta còn thương chứ
cái giống Việt gian thì cho chúng một nhát” như một nhát dao cứa vào lòng ông
lão.về đến nhà ông nằm vật ra giường như người ốm “nước mắt giàn ra” niềm tin về
làng chợ Dầu trong ông đã bị đổ vỡ nghiêm trọng biến thành nỗi hoảng hốt xâm lấn
toàn bộ cơ thể khi nghe những tiếng : Tây,Việt gian,cam nhông là ông lại giật mình
77
thất vọng tràn trề,có lúc ông nghĩ quẩn “ hay là quay về làng” nhưng trở về làng là có
nghĩa theo Tây bỏ cụ Hồ bỏ cách mạng. Nhưng rồi chính tình cảm với đất nước với
kháng chiến đã thức tỉnh ông đi đến một quyết định dứt khoát “ làng thì yêu thật
nhưng làng theo Tây mât rồi phải thù”. Rõ ràng lòng yêu nước rộng lớn bao trùm lên
tình cảm làng quê. Càng yêu làng bao nhiêu ông càng đau khổ day dứt bấy nhiêu.
Một tình thế hoàn toàn bế tắc và tuyệt vọng khi mụ chủ nhà muốn đuổi gia đình ông
đi “ về làng tức là chịu làm nô lệ cho thằng Tây”. Kim Lân đã quan sát rất tinh tế và
sâu sắc để diễn tả những sắc thái buồn vui những lo sợ ám ảnh cùa người nông dân
về cái làng quê của mình.Họ đã yêu làng trong tình yêu bị thử thách, phải đặt tình
yêu nước trên tình yêu làng. Phải chăng đó là thứ tình cảm thường trực trong mỗi con
người Việt Nam.
Quá bế tắc ông quay ra trò chuyện với đứa con nhỏ vô cùng cảm động. Nghe
con nói ngây thơ mà nước mắt ông chảy dòng dòng trên má. Ông muốn chút nỗi lòng
mình vào những lòi thù thỉ tâm sự với đứa con nhưng thực chất đó là lời tự nhủ với
chính mình.ông muốn đứa con luôn ghi nhớ “ nhà ta ở làng chợ Dầu” đã chứng tỏ
tình yêu làng vô cùng sâu nậng.Tấm lòng thủy chung vớị kháng chiến với cách mạng
với cụ Hồ trở nên bền vững thiêng liêng.Tình yêu làng của ông Hai chân thật giản dị
như chính bản chất của người nông dân.Tình cảm ấy hiền hòa như dé lúa nhành hoa
trong sáng như giếng khơi đầu làng.Tình cảm ấy đã nâng lên thành tình yêu đất nước
và để rồi : tình yêu làng yêu nước luôn hòa quyện trong một con người như là máu
thịt.
Đến cuối truyện người đọc đã nhận ra một ông Hai vô cùng sung sướng tư hào
khi nghe tin cải chính về làng mình không phải Việt gian. Nhận được tin ấy “ông cứ
múa tay lên mà khoe cái tin ấy với mọi người mặt ông tươi vui rạng rỡ hẳn lên. Ông
loan báo cho mọi người biết cái tin “ Tây nó đã đốt nhà tôi rồi bác ạ” một cách tự hào
như một niềm hạnh phúc thực sự của mình. Đó là nỗi lòng sung sướng trào ra hồn
nhiên như không thể kìm được của người dân quê khi được biết làng mình là làng yêu
nước.,
Với cốt truyện tâm lý tạo được tình huống căng thăng ngôn ngữ giản dị trong
sáng Kim Lân đã đưa người đọc đến với một thứ cảm xúc vô cùng cao đẹp.Tình yêu
làng cùa một lão nông dân chân đất trở thành niềm say mê đến hãnh diện và như một
thói quen được khoe về làng mình.Tình yêu làng thống nhất với tinh thần kháng chiến
khi đất nước đang có ngoại xâm.Tình cảm ấy cùa ông Hai cũng là tình cảm chung của
người Việt Nam đối với tổ quốc.

LẶNG LẼ SA PA
Nguyễn Thành Long
I – Tìm hiểu chung:
1. Tác giả:
- Nguyễn Thành Long (1925-1991), quê ở Duy Xuyên, Quảng Nam.
- Ông viết văn từ thời kháng chiến chống Pháp, là cây bút chuyên viết truyện
ngắn và kí.
- Ông thường viết về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc những
năm 60-70 thế kỉ XX.
- Truyện ngắn của Nguyễn Thành Long nhẹ nhàng, tình cảm, thường pha chất kí
và giàu chất thơ, thấm đẫm chất trữ tình.
78
- Văn ông thường ánh lên vẻ đẹp của con người nên có khả năng thanh lọc làm
trong sáng tâm hồn, khiến chúng ta thêm yêu cuộc sống.
- Nguyễn Thành Long ngoài viết văn còn viết báo, làm xuất bản, dịch một số tác
phẩm nổi tiếng của văn học nước ngoài.
- Các tác phẩm tiêu biểu: Giữa trong xanh, Li Sơn mùa tỏi, Bát cơm cụ Hồ, Gió
bấc gió nồm, Chuyện nhà chuyện xưởng, Trong gió bão, ...
2. Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác:
- “Lặng lẽ Sa Pa” được sáng tác năm 1970, trong chuyến đi thực tế của tác giả ở
Lào Cai. Đây là một truyện ngắn tiêu biểu ở đề tài viết về cuộc sống mới hòa bình, xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
- In trong tập “Giữa trong xanh” (1972) của Nguyễn Thành Long.
b. Bố cục: 3 đoạn:
- Đoạn 1: Từ đầu…đến… “Kìa, anh ta kia”: Anh thanh niên qua lời giới thiệu
của bác lái xe.
- Đoạn 2: Tiếp…đến… “không có vật gì như thế”: Cuộc gặp gỡ, trò chuyện giữa
anh thanh niên với ông họa sĩ và cô kĩ sư.
- Đoạn 3: Còn lại: Cuộc chia tay cảm động.
c. Chủ đề: Truyện ca ngợi những con người lao động âm thầm trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
d. Tóm tắt vănbản:
Trên chuyến xe khách từ Hà Nội lên Lào Cai, ông họa sĩ già, bác lái xe, cô kĩ sư
trẻ tình cờ quen nhau. Bác lái xe đã giới thiệu cho ông họa sĩ và cô kĩ sư làm quen với
anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn. Trong cuộc gặp gỡ 30 phút,
anh thanh niên tặng hoa cho cô gái, pha trà và trò chuyện với mọi người về cuộc sống
và công việc của anh. Ông họa sĩ muốn được vẽ chân dung anh. Anh thanh niên từ
chối và giới thiệu với ông những người khác mà anh cho là xứng đáng hơn anh. Những
con người tình cờ gặp nhau bỗng trở nên thân thiết. Khi chia tay, ông họa sĩ hứa sẽ
quay trở lại, cô kĩ sư thấy xúc động, yên tâm hơn về quyết định lên Lào Cai công tác,
còn anh thanh niên tặng mọi người một làn trứng.
II – Đọc – hiểu văn bản:
1. Tình huống truyện:
- Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” được xây dựng xoay quanh một tình huống truyện
khá đơn giản mà tự nhiên. Đó chính là cuộc gặp gỡ tình cờ của mấy người khách trên
chuyến xe lên Sa Pa với anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn.
- Tình huống gặp gỡ này là cơ hội thuận tiện để tác giả khắc họa “bức chân
dung” nhân vật chính một cách tự nhiên và tập trung, qua sự quan sát của các nhân vật
khác và qua chính lời lẽ, hành động của anh. Đồng thời, qua “bức chân dung” (cả cuộc
sống và những suy nghĩ) của người thanh niên, qua sự cảm nhận của các nhân vật khác
(chủ yếu là ông họa sĩ) về anh và những người như anh, tác giả đã làm nổi bật được
chủ đề của tác phẩm: Trong cái lặng lẽ, vắng vẻ trên núi cao Sa Pa, nơi mà nghe tên
người ta chỉ nghĩ đến sự nghỉ ngơi, vẫn có bao nhiêu người đang ngày đêm làm việc
miệt mài, say mê cho đất nước.
2. Cảnh sắc thiên nhiên Sa Pa:
-Nắng đốt cháy rừng cây, mạ bạc con đèo…
-Cây hoa tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của
rừng.

79
-Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên các vòm lá ướt sương, rơi
xuống đường cái, luồn cả vào gầm xe.
=> Vài nét chấm phá điểm xuyến, nghệ thuật nhân hóa, so sánh ->Tác giả đã
khắc họa bức tranh thiên nhiên Sa Pa với vẻ đẹp trong trẻo, thơ mộng, hữu tình. Miêu
tả bức tranh thiên nhiên bằng ngôn ngữ trong sáng, mỗi chữ, mỗi câu như có đường
nét, hình khối, sắc màu. Văn xuôi truyện ngắn mà giàu nhịp điệu mang âm hưởng một
bài thơ về thiên nhiên đất nước.
3. Vẻ đẹp con người:
a. Nhân vật anh thanh niên:
Đây là nhân vật chính của truyện.Tuy nhiên tác giả không cho nhân vật xuất hiện
ngay từ đầu mà chỉ gián tiếp qua lời giới thiệu rất ấn tượng của bác lái xe ( rằng anh ta
là “một trong những người cô độc nhất thế gian”, rằng anh ta rất “thèm người” và nếu
họa sĩ đến gặp thì thế nào “cũng thích vẽ”; sau đó xuất hiện trực tiếp qua cuộc gặp gỡ,
trò chuyện với các nhân vật khác trong khoảng thời gian ngắn ngủi ( ba mươi phút).
Chỉ 30 phút nhưng cũng đủ để những người tiếp xúc kịp ghi một ấn tượng – kịp để ông
họa sĩ thực hiện bức kí họa chân dung, kịp để cô kỹ sư bàng hoàng và có những cái gì
đó như hàm ơn về anh. Rồi dường như anh lại khuất lấp vào trong mây mù bạt ngàn và
cái lặng lẽ muôn thuở của núi cao Sa Pa. Và mọi người thấm thía điều mà nhà văn
muốn nói: Trong cái im lặng của Sa Pa, dưới những dinh thự cũ kĩ của Sa Pa, Sa Pa
mà chỉ nghe tên, người ta đã nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, có những người làm việc và
lo nghĩ như vậy cho đất nước.
-> Với cách dựng truyện như thế, anh thanh niên được hiện ra qua sự nhìn nhận,
đánh giá của các nhân vật khác: bác lái xe, ông họa sĩ, cô kĩ sư. Qua cách nhìn nhận và
cảm xúc của mỗi người, nhân vật anh thanh niên càng thêm rõ nét và đáng mến hơn.
a.1: Hoàn cảnh sống và làm việc:
- Lật từng trang văn của Nguyễn Thành Long, ta thấy anh thanh niên 27 tuổi
sống và làm việc một mình trên đỉnh núi cao 2600m, quanh năm làm bạn với mây mù
và cây cỏ.
- Anh làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu. Công việc của anh là “đo gió,
đo mưa, đo nắng, tính mây và đo chấn động mặt đất, dự báo thời tiết hằng ngày để
phục vụ sản xuất và phục vụ chiến đấu”. Một công việc gian khó nhưng đòi hỏi sự
chính xác, tỉ mỉ và tinh thần trách nhiệm cao. “Nửa đêm dù mưa tuyết, gió lạnh, đúng
giờ ốp thì cũng phải trở dậy ra ngoài trời làm việc”.
- Hoàn cảnh sống khắc nghiệt vô cùng bởi sự heo hút, vắng vẻ; cuộc sống và
công việc có phần đơn điệu, giản đơn…là thử thách thực sự đối với tuổi trẻ vốn sung
sức và khát khao trời rộng, khát khao hành động. Nhưng cái gian khổ nhất đối với
chàng trai trẻ ấy là phải vượt qua sự cô đơn, vắng vẻ quanh năm suốt tháng ở nơi núi
cao không một bóng người. Cô đơn đến mức “thèm người”, phải lăn cây chặn đường
dừng xe khách qua núi để được gặp gỡ, trò chuyện.
- Và anh đã vượt qua hoàn cảnh bằng những suy nghĩ rất đẹp, giản dị mà sâu sắc.
a.2. Vẻ đẹp trong tính cách người thanh niên.
* Lòng yêu nghề, tinh thần trách nhiệm với công việc:
- Anh hiểu rằng, công việc mình làm tuy nhỏ bé nhưng liên quan đến công việc
chung của đất nước, của mọi người.
- Làm việc một mình trên đỉnh núi cao, không có ai giám sát, thúc giục anh vẫn
luôn tự giác, tận tụy. Suốt mấy năm ròng rã ghi và báo “ốp” đúng giờ. Phải ghi và báo
về nhà trong mưa tuyết lạnh cóng, gió lớn và đêm tối lúc 1h sáng, anh vẫn không ngần
ngại.
80
- Và anh đã sống thật hạnh phúc khi được biết do kịp thời phát hiện đám mây khô
mà anh đã góp phần vào chiến thắng của không quân ta trên bầu trời Hàm Rồng.
- Anh yêu công việc của mình, anh kể về nó một cách say sưa và tự hào. Với anh,
công việc là niềm vui, là lẽ sống. Hãy nghe anh tâm sự với ông họa sĩ: “[…] khi ta
làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi công việc của
cháu gắn liền với việc của bao anh em đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian
khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất". Qua lời anh kể và lời bộc bạch
này, ta hiểu rằng anh đã thực sự tìm thấy niềm vui và hạnh phúc trong công việc thầm
lặng giữa Sa Pa và sương mù bao phủ.
* Anh biết tạo ra một cuộc sống nền nếp văn minh và thơ mộng:
- Sống một mình trên đỉnh núi cao, anh đã chủ động sắp xếp cho mình một cuộc
sống ngăn nắp: “một căn nhà ba gian, sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê,
máy bộ đàm”. Cuộc sống riêng của anh “thu gọn lại một góc trái gian với chiếc giường
con,một chiếc bàn học, một giá sách”.
- Ngoài công việc, anh còn trồng hoa, nuôi gà, làm cho cuộc sống của mình thêm
thi vị, phong phú về vật chất và tinh thần.
- Cuộc sống của anh không cô đơn, buồn tẻ vì anh có một nguồn vui đó là đọc
sách. Anh coi sách như một người bạn để trò chuyện, để thanh lọc tâm hồn. Sách là
nhịp cầu kết nối với thế giới nhộn nhịp bên ngoài. (khi bác lái xe đưa gói sách cho anh,
anh “mừng quýnh” như bắt được vàng)
* Sự chân thành, cởi mở và lòng hiếu khách:
- Sống trong hoàn cảnh như thế sẽ có người dần thu mình lại trong nỗi cô đơn.
Nhưng anh thanh niên này thật đáng yêu ở nỗi “ thèm người”,lòng hiếu khách đến
nồng nhiệt và sự quan tâm đến người khác một cách chu đáo.
- Biểu hiện:
+ Tình thân với bác lái xe, thái độ ân cần chu đáo, tặng củ tam thất cho vợ bác
vừa mới ốm dậy.
+ Vui sướng cuống cuồng khi có khách đến thăm nhà.
+ Anh đón tiếp khách nồng nhiệt, ân cần chu đáo: hái một bó hoa rực rỡ sắc màu
tặng người con gái chưa hề quen biết: “Anh con trai, rất tựnhiên như với một người
bạn đã quen thân, trao bó hoa đã cắt cho người con gái,và cũng rất tự nhiên, cô đỡ
lấy”, pha nước chè cho ông họa sĩ.
+ Anh trò chuyện cởi mở với ông họa sĩ và cô kĩ sư về công việc, cuộc sống của
mình, của bạn bè nơi Sa Pa lặng lẽ.
+ Đếm từng phút vì sợ hết mất ba mươi phút gặp gỡ vô cùng quý báu.
+ Lưu luyến với khách khi chia tay, xúc động đến nỗi phải “quay mặt đi” và ấn
vào tay ông hoạ sĩ già cái làn trứng làm quà, không dám tiễn khách ra xe dù chưa đến
giờ “ốp”
-> Tất cả không chỉ chứng tỏ tấm lòng hiếu khách của người thanh niên mà còn
thể hiện sự cởi mở, chân thành, nhiệt tình đáng quí.
* Sự khiêm tốn, thành thật:
Anh còn là người rất khiêm tốn, thành thực cảm thấy công việc và những lời giới
thiệu nhiệt tình của bác lái xe là chưa xứng đáng, đóng góp của mình chỉ là bình
thường nhỏ bé, anh vẫn còn thua ông bố vì chưa được đi bộ đội, trực tiếp ra chiến
trường đánh giặc. Khi ông hoạ sĩ kí hoạ chân dung, anh từ chối, e ngại và nhiệt tình
giới thiệu những người khác đáng vẽ hơn anh nhiều (ông kĩ sư ở vườn rau Sa Pa, anh
cán bộ nghiên cứu bản đồ sét...)

81
=>Tóm lại, chỉ bằng một số chi tiết và anh thanh niên chỉ xuất hiện trong
khoảnh khắc của truyện, nhưng tác giả đã phác hoạ được chân dung nhân vật
chính với những nét đẹp về tinh thần, tình cảm, cách sống và những suy nghĩ về
cuộc sống, về ý nghĩa của công việc.
=> Anh thanh niên là hình ảnh tiêu biểu cho những con người ở Sa Pa, là
chân dung con người lao động mới trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
b. Nhân vật ông họa sĩ:
- Tuy không dùng cách kể ở ngôi thứ nhất nhưng hầu như người kể chuyện đã
nhập vào cái nhìn và suy nghĩ của nhân vật ông họa sĩ để quan sát và miêu tả từ cảnh
thiên nhiên đến nhân vật chính của chuyện. Từ đó, gửi gắm suy nghĩ về con người, về
nghệ thuật.
- Ngay từ những phút ban đầu gặp gỡ anh thanh niên, bằng sự từng trải nghề
nghiệp và niềm khao khát của người nghệ sĩ đi tìm đối tượng của nghệ thuật, ông đã
xúc động và bối rối.
- Ông muốn ghi lại hình ảnh anh thanh niên bằng nét bút kí họa và “người con
trai ấy đáng yêu thật nhưng làm cho ông nhọc quá”. Những xúc cảm và suy tư của
nhân vật ông họa sĩ về người thanh niên và về những điều khác nữa được gợi lên từ
câu chuyện của anh làm cho chân dung nhân vật chính thêm sáng đẹp và tạo nên chiều
sâu tư tưởng.
c.Nhân vật cô kĩ sư.
- Đây là cô gái dám rời Hà Nội, bỏ lại sau lưng “mối tình đầu nhạt nhẽo” để lên
công tác ở miền cao Tây Bắc. Cuộc gặp gỡ bất ngờ với anh thanh niên, những điều anh
nói, câu chuyện anh kể về những người khác đã khiến cô “bàng hoàng”, “cô hiểu thêm
cuộc sống một mình dũng cảm tuyệt đẹp của người thanh niên, về cái thế giới những
con người như anh mà anh kể, và về con đường cô đang đi tới”. Nhờ cái “bàng
hoàng” ấy, cô mới nhận ra mối tình của mình bấy lâu nay nhạt nhẽo biết bao, cuộc
sống của mình lâu nay tầm thường biết bao, thế giới của mình lâu nay nhỏ bé biết bao!
Khoảnh khắc bàng hoàng ấy chính là sự bừng dậy của những tình cảm lớn lao, cao đẹp
khi người ta bắt gặp được những ánh sáng đẹp đẽ toả ra từ cuộc sống, từ tâm hồn
người khác.
- Cùng với sự bàng hoàng ấy là “một ấn tượng hàm ơn khó tả dạt lên trong lòng
cô gái. Không phải chỉ vì bó hoa rất to sẽ đi theo cô trong chuyến đi thứ nhất ra đời.
Mà vì một bó hoa nào khác nữa, bó hoa của những háo hức và mơ mộng ngẫu nhiên
anh cho thêm cô”. Cuộc gặp gỡ đã khơi lên trong tâm tư cô gái trẻ những tình cảm và
suy nghĩ mới mẻ, cao đẹp về con người, về cuộc sống. Qua tâm tư của cô gái, ta nhận
ra vẻ đẹp và sức ảnh hưởng của nhân vật anh thanh niên.
d, Bác lái xe:
- Bác lái xe là nhân vật xuất từ đầu truyện, nhưng cũng kịp thể hiện những nét
đẹp trong tính cách. Là người rất yêu công việc, suốt 30 năm trong nghề lái xe mà vẫn
luôn giữ được tính cởi mở, niềm nở có trách nhiệm với công việc, nhạy cảm trước vẻ
đẹp của thiên nhiên và con người. Bác lái xe là cầu nối giữa anh thanh niên và cuộc
đời (mua sách cho anh, dừng xe dưới chân đồi để anh trò chuyện, giới thiệu những
người bạn mới cho anh). Bác lái xe cũng là người dẫn dắt truyện, kích thích sự tò mò
của ông họa sĩ và cô kĩ sư về anh thanh niên – người cô độc nhất thế gian, người rất
“thèm người”
=> Qua cảm xúc, suy nghĩ và thái độ cảm mến của bác lái xe, cô kĩ sư, ông
họa sĩ, hình ảnh anh thanh niên được hiện ra càng rõ nét và đẹp hơn. Chủ đề của
tác phẩm mở rộng thêm và gợi ra nhiều ý nghĩa. Bức chân dung nhân vật chính
82
như được soi rọi nhiều luồng ánh sáng khiến nó thêm rạng rỡ và ánh lên nhiều
màu sắc.
e. Trong tác phẩm, còn có những nhân vật không xuất hiện trực tiếp mà chỉ
xuất hiện gián tiếp qua câu kể của anh thanh niên cũng góp phần thể hiện chủ đề
của tác phẩm. Đó là:
- Anh bạn đồng nghiệp lặng lẽ cống hiến trên đỉnh Phan-xi-păng cao 3142 mét.
- Ông kĩ sư vườn rau Sa Pa hết lòng với công việc. Kiên trì, bền bỉ, làm việc
trong âm thầm lặng lẽ “ngày này sang ngày khác”. Ông ngồi im trong vườn su hào
rình xem cách ong lấy phấn, thụ phận cho hoa su hào. Và tự ông đi thụ phấn cho từng
cây su hào để củ su hào nhân dân toàn miền Bắc ăn được to hơn, ngọt hơn. Ông kĩ sư
làm cho anh thanh niên cảm thấy cuộc đời đẹp quá! Công việc thầm lặng ấy chỉ những
con người nơi mảnh đất Sa Pa mói hiểu hết được ý nghĩa của nó.
- Anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét. Anh luôn ở trong tư thế sẵn sằng suốt ngày
chờ sét “nửa đêm mưa gió, rét buốt, mặc, cứ nghe sét là choáng choàng chạy ra”. Anh
đã hi sinh hạnh phúc cá nhân vì niềm đam mê công việc để khai thác “của chìm nông,
của chìm sâu” dưới lòng đất làm giàu choTổ quốc.
- Ông bố anh thanh niên xung phong đi bộ đội.
-> Dù không xuất hiện trực tiếp trong truyện mà chỉ gián tiếp qua lời kể của
anh thanh niên, song họ hiện lên với những nét tuyệt đẹp trong tâm hồn và cách
sống. Họ lànhững người say mê công việc. Vì công việc làm giàu cho đất nước, họ
sẵn sàng hi sinh tuổi thanh xuân, hạnh phúc và tình cảm gia đình. Cuộc sống của
họ lặng lẽ và nhân ái biết bao.
III. Tổng kết:
1. Nội dung: Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” khắc họa thành công hình ảnh những
con người lao động bình thường, mà tiêu biểu là anh thanh niên làm công tác khí
tượng ở một mình trên đỉnh núi cao. Qua đó, truyện khẳng định vẻ đẹp của con người
lao động và ý nghĩa của những công việc thầm lặng.
2. Nghệ thuật:
- Cốt truyện đơn giản, xoay quanh một tình huống đó là có cuộc gặp gỡ bất ngờ
giữa ông họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ và một anh thanh niên làm công tác khí tượng. Cuộc
gặp gỡ chỉ diễn ra trong chốc lát nhưng đã để lại một ấn tượng gợi nhiều suy nghĩ và
dẫn chúng ta tới những nhân vật mới: kĩ sư vườn rau, nhà nghiên cứu sét.
- Xây dựng nhân vật chân dung, nhân vật được ghi lại được đánh giá qua những
cảm nhận trực tiếp nhưng không hề nhạt nhòa bởi được khắc họa qua nhiều điểm nhìn
và miêu tả tinh tế.
- Chất thơ của “Lặng lẽ Sa Pa” cũng phụ trợ đắc lực cho bài ca, ca ngợi con
người bình dị mà cao quý: trong tình huống trữ tình, trong bức tranh thiên nhiên, trong
lời đối thoại, nhưng quan trọng nhất đó là những ý nghĩ, cảm xúc của người trong cuộc
và vẻ đẹp rất đỗi nên thơ, nên hoa, nên nhạc của lối sống mà nhân vật chính gợi ra.
BÀI THAM KHẢO
Lặng lẽ Sa Pa là một truyện ngắn được rút trong tập “ giữa trong xanh” của
Nguyễn Thành Long.Chuyện ca ngợi những con người sống giữa non xanh lặng lẽ
nhưng vô cùng sôi nổi hết lòng vì tổ quốc, có trái tim nhân hậu cao đẹp. Bằng cảm
hứng hiện thực và trữ tình nhà văn đưa ta đến với Sa Pa – thành phố trong sương của
miền Tây Bắc đẹp như một huyền thoại từ cảnh sắc đến những con người rất đáng yêu.
Anh thanh niên làm khí tượng thủy văn để lại ấn tượng mạnh trong lòng người đọc.
Lặng lẽ Sa Pa mang cốt truyện đơn giản xoay quanh một tình huống bất ngờ trên
đỉnh Yên Sơn cao 2600m.Truyện có một chất thơ bàng bạc từ khung cảnh thiên nhiên
83
đến tâm hồn con người. Nhân vật anh thanh niên được hiện lên chủ yếu qua điểm nhìn
của ông học sĩ bác lái xe. Cuộc gặp gỡ chưa đấy 30 phút nhưng cũng đủ để các nhân
vật ghi lại trong ấn tượng của mình bức chân dung vè người thanh niên mới xã hội chủ
nghĩa.
Sa Pa đẹp và đầy chất thơ, mảnh đất Lào Cai là một tỉnh thuộc Tây Bắc của Tổ
quốc vậy mà mảnh đất ấy không hề hoang vu trái lại rất hữu tình và rất tráng lệ. Khi xe
vừa lên dốc,trạm dừng chân là con suối trắng xóa. Sa Pa với những rặng đào,những
đàn bò lang cổ đeo chuông như dẫn hồn du khách lạc vào miền đất đẹp kì thú…Đó là
nền thiên nhiên để con người nổi lên với tình yêu tổ quốc và hết mình cống hiến cho
đất nước. Con người Sa Pa với sự say mê cống hiến lặng lẽ được khắc họa qua hình
ảnh anh thanh niên mang vẻ đẹp trong cách sống trong tâm hồn trong suy nghĩ.
Anh thanh niên qua điểm nhìn của ông họa sĩ là một anh thanh niên vô danh 27
tuổi,tốt nghiệp ra trường xung phong trở về quê hương làm công tác khí tượng kiêm
vật lý địa cầu trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m “ một trong những người cô độc nhất thế
gian”. Công việc của anh là “ đo gió,đo mưa, đo nắng,tính mây, đo chấn động mặt đất”
góp phần phục vụ sản xuất và chiến đấu. Công việc đòi hỏi tinh thần trách nhiệm cao ý
chí nghị lực rất lớn “ Rét, rét lắm bác ạ! Ở đây có cả mưa tuyết nữa đấy”. Nhưng gian
khổ nhất là anh phải vượt qua sự cô đơn vắng vẻ quanh năm không một bóng người.
Cuộc sống tuy gian khổ nhưng anh đã tự tạo cho mình một cuộc sống nề nếp phong
phú: trồng hoa, nuôi gà, tự học và đọc sách ngoài giờ làm việc. Thỉnh thoảng xuống
núi anh tìm gặp bác lái xe cùng khách qua đường thăm hỏi giúp đỡ để vơi bớt đi nỗi cô
đơn nỗi nhớ người. Anh đã biết làm chủ mình sống có ích cho đời và anh rất vui sướng
khi một lần nhờ anh góp phần phát hiện một đám mây khô nên quân ta hạ được bao
nhiêu phản lực, anh thấy “ Từ hôm ấy cháu sống thật hạnh phúc”.
Anh không chỉ đáng yêu trong cách sống mà còn rất đáng yêu trong suy nghĩ.
Với anh quan niệm về người cô độc rất đơn giản: “ Khi ta làm việc ta với công việc là
đôi huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em đồng chí dưới kia”. Rõ
ràng cuộc sống của anh không còn buồn tẻ và cô đơn vì anh còn có một nguồn vui
khác là công việc. Và anh tâm sự với cô kĩ sư “ Lúc nào tôi cũng có người trò chuyện
nghĩa là sách ấy mà”. Anh coi những cuốn sách như những người bạn quý để có bạn
trò chuyện. Khi giải thích về nỗi nhớ người của mình thì anh cho rằng “ người thì ai
mà chả thèm? Mình sinh ra là gì? Mình đẻ ở đâu mình vì ai mà làm việc?”. Anh không
phải người đặc biệt nhưng nỗi nhớ người nhớ nhà anh đã cố dồn nén để hoàn thành
nhiệm vụ góp một phần sức lực nhỏ bé của mình cho quê hương đất nước.
Tuy công việc khó khăn vất vả và rất quan trọng nhưng anh luôn cảm thấy mình
nhỏ bé bình thường so với nhiều người khác. So với đọ cao anh đang ở đang làm việc
không bằng người bạn “ trên đỉnh Phanxipang cao ba nghìn một trăm bốn mươi hai
mét”. Khi ông họa sĩ muốn vẽ chân dung anh,anh đã nhiệt tình giới thiệu với ông họa
sĩ nhiều người khác xứng đáng hơn mình: ông kĩ sư vườn rau ngày này sang ngày khác
ông ngồi im trong vườn su hào, rình xem cách ong lấy phấn, thụ phấn cho hoa su hào
rồi để được theo ý mình tự ông cầm một chiếc que, mỗi ngày chín mười giờ sáng lúc
hoa tung cánh đi từng cây su hào làm thay cho ong,hàng vạn cây như vậy để củ su hào
nhân dân toàn miền Bắc nước ta được ăn to hơn,ngọt hơn trước. Đồng chí nghiên cứu
khoa học mười một năm không rời xa cơ quan không đi đến đâu mà tìm vợ chán đồng
chí cứ hói dần đi còn cái bản đồ sét thì sắp hoàn thành.
Anh còn là một tấm lòng nhân hậu cao đẹp. Anh gửi biếu vợ bác lái xe vừa ốm
dậy củ tam thất. Anh tặng cô kĩ sư lên thăm nhà mình một bó hoa rõ to và đẹp. Anh
gửi các vị khách một làn trứng để ăn trưa. Toàn là cây nhà lá vườn,nhưng đằng sau
84
món quà ấy là cả một tấm lòng cao cả đầy tình người. Anh là một tri thức có lối ứng
xử lịch sự,ấm áp tình yêu thương. Anh thanh niên thật đẹp sống với lí tưởng cao đẹp
giữa non xanh lặng lẽ nhưng vẫn tự giác cống hiến cho quê hương đất nước. Có lẽ anh
đã hiểu sâu sắc tâm niệm của Tố Hữu:
Nếu là con chim chiếc lá
Thì con chim phải hót,chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”
Chính tình yêu mến tự hào về mảnh đất quê hương và đặc biệt là anh hiểu vùng
đất anh đang sống và làm việc hơn ai hết. Trong cái im lặng của Sa Pa dưới những
dinh thự cũ kĩ của Sa Pa, Sa Pa mà chỉ nghe tên người ta đã nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi
có những con người làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước. Những suy nghĩ tình
cảm ấy đã trở thành sức mạnh để anh thanh niên vươn lên đỉnh cao của cuộc sống.
Anh biết sống cho một sự nghiệp lớn lao là công việc xây dựng đất nước. Anh cũng
biết sống cho riêng mình và chia sẻ với mọi người. Anh còn quan niệm tuổi trẻ là phải
biết cống hiến mình vì mọi người là phải biết khát vọng tới những chân trời cao đẹp:
“ Đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho ta
Mà hãy hỏi ta đã làm gì cho tổ quốc hôm nay”
Tóm lại, qua nhân vật anh thanh niên ta thấy được vẻ đẹp trong cách sống trong
tâm hồn suy nghĩ của anh. Hình tượng anh thanh niên chỉ thoáng qua như một bức
chân dung nhưng cũng đủ khiến cho người đọc trân trọng ngưỡng mộ và quý mến anh.
Anh là con người tiêu biểu cho vẻ đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam những năm đầu miền
Bắc nước ta vừa sản xuất vừa chống chiến tranh phá hoại của Mỹ. Đó là một thế hệ
một tấm gương sáng cho thế hệ trẻ học tập và noi theo phát huy vẻ đẹp ấy.

CHIẾC LƯỢC NGÀ


Nguyễn Quang Sáng
I – Tìm hiểu chung:
1.Tác giả:
- Nguyễn Quang Sáng, sinh năm 1932, quê ở huyện Chợ Mới,tỉnh An Giang.
- Trong kháng chiến chống Pháp,ông tham gia bộ đội, hoạt động ở chiến trường
Nam Bộ.
- Từ sau năm 1954, tập kết ra miền Bắc, Nguyễn Quang Sáng bắt đầu viết văn..
- Những năm chống Mĩ, ông trở về Nam Bộ tham gia kháng chiến và tiếp tục
sáng tác văn học.
- Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng có nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết,
kịch bản phim và hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc
kháng chiến cũng như sau hòa bình.
- Năm 2000, ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ
thuật.
2.Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác:
- Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được viết năm 1966–khi tác giả hoạt động ở
chiến trường Nam Bộ những năm kháng chiến chống Mĩ và được đưa vào tập truyện
cùng tên.
- Nói về hoàn cảnh viết truyện ngắn “Chiếc lược ngà”, Nguyễn Quang Sáng tâm
sự:

85
“Năm 1966, tôi từ miền Bắc trở về miền Nam. Vùng Đồng Tháp Mười mênh
mông nước trắng. Tôi đi ghe vào sâu trong rừng và sống ở một nhà sàn treo trên ngọn
cây.Lúc đó, đoàn giao liên dẫn đường toàn là nữ. Tôi rất có ấn tượng với câu chuyện
của một cô gái giao liên có chiếc lược ngà trắng. Sau khi nghe cô kể chuyện, tôi ngồi
viết một ngày, một đêm là hoàn thành tác phẩm này”.
(Văn lớp 9 không khó như bạn nghĩ)
- Văn bản trong sách giáo khoa là đoạn trích phần giữa của truyện.
b. Bố cục: 2 đoạn:
- Đoạn 1: Từ đến…đến… “Nó nói trong tiếng nấc, vừa nói vừa từ từ tuột xuống”.
-> Tình cảm cha con của bé Thu và ông Sáu trong ba ngày ông được nghỉ phép.
- Đoạn 2: Còn lại -> Ở khu căn cứ, ông Sáu làm chiếc lược ngà tặng con.
c.Chủ đề: Diễn tả một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng của cha
con ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh.
d. Tóm tắt văn bản:
Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến. Mãi đến khi con gái lên tám tuổi, ông mới có dịp
về thăm nhà, thăm con. Bé Thu không nhận ra cha vì vết sẹo trên mặt làm ba em
không giống với người cha trong bức ảnh mà em biết. Em đối xử với ba như người xa
lạ. Đến khi Thu nhận ra cha,tình cha con thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc
ông Sáu phải lên đường trở về khu căn cứ. Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm
yêu quý, nhớ thương đứa con vào việc làm một chiếc lược bằng ngà voi để tặng con.
Trong một trận càn, ông Sáu hi sinh. Trước lúc ra đi mãi mãi, ông đã kịp trao cây lược
cho bác Ba, nhờ bạn chuyển cho con gái.
II – Đọc – hiểu văn bản:
1. Tình huống truyện: Truyện được xây dựng trên hai tình huống cơ bản:
- Tình huống 1: Đó là cuộc gặp gỡ của hai cha con ông Sáu sau tám năm xa cách,
nhưng thật trớ trêu là bé Thu không nhận cha, đến lúc em nhận ra và biểu lộ tình cảm
thắm thiết thì ông Sáu lại phải lên đường.
- Tình huống 2: Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương và lòng mong
nhớ đứa con vào việc làm cây lược ngà để tặng con, nhưng ông đã hi sinh khi chưa kịp
trao món quà ấy cho con gái.
=> Như vậy, nếu ở tình huống thứ nhất bộc lộ tình cảm mãnh liệt của bé Thu với
cha, thì tình huống thứ hai lại biểu lộ tình cảm sâu sắc, thắm thiết của ông Sáu với con.
Tình huống truyện ở đây mang đầy kịch tính chứa đựng nhiều yếu tố bất ngờ. Đó là
những tình huống ngẫu nhiên song lại rất phổ biến, những tình huống đầy éo le mà
chúng ta thường gặp trong chiến tranh. Song đặt các nhân vật của mình vào các tình
huống ấy, nhà văn muốn khẳng định và ngợi ca: tình cha con thiêng liêng, sâu nặng
như một giá trị nhân bản sâu sắc. Tình cảm ấy càng cao đẹp trong hoàn cảnh chiến
tranh.
2. Diễn biến tâm lí và tình cảm của bé Thu.
a. Trước khi nhận ra cha:
- Thu thương cha như thế. Ta tưởng chừng như khi được gặp cha, nó sẽ bồi hồi,
sung sướng và sà vào vòng tay của ba nó nũng nịu với tình cảm mãnh liệt hơn bao giờ
hết. Nhưng không, Thu đã làm cho người đọc phải bất ngờ qua hành động quyết liệt
không chịu nhận ông Sáu là ba. “Nghe gọi, con bé giật mình, tròn mắt nhìn…ngơ
ngác, lạ lùng...”. Khi ông Sáu đến gần, giọng lặp bặp run run: “Ba đây con! Ba đây
con” thì “Con bé thấy lạ quá, mặt bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: Má! Má!”.

86
- Suốt ba ngày, ông Sáu chẳng đi đâu xa, muốn ở bên con vỗ về, chăm sóc, bù
đắp cho con sự thiếu thốn tình cảm. Song, ông càng xích lại gần thì nó càng tìm cách
xa lánh, nhất định không gọi một tiếng “ba”.
+ Khi má dọa đánh bắt kêu “ba” vào ăn cơm, nó nói trổng: “Vô ăn cơm!”; “Cơm
chín rồi!”; “Con kêu rồi mà người ta không nghe”. Hai tiếng “người ta” làm ông Sáu
đau lòng đến mức không khóc được, chỉ khe khẽ lắc đầu cười.
+ Đến bữa sau, má giao cho nó nhiệm vụ ở nhà trông nồi cơm, nó không thể tự
chắt nước. Tưởng chừng nó phải cầu cứu đến người lớn, phải gọi “ba”. Nhưng quyết
không, nó vẫn nói trổng “Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái!”. Bác Ba mở đường cho
nó, nhưng nó không để ý, nó lại kêu “Cơm sôi rồi, nhão bây giờ!”. Ông Sáu cứ vẫn
ngồi im. Và nó đã tự mình làm lấy công việc nguy hiểm và quá sức, mà nhất định
không chịu nhượng bộ, nhất định không chịu cất lên cái tiếng mà ba nó mong chờ.
+ Đỉnh điểm của kịch tính: bé Thu hất cái trứng cá mà ông Sáu đã gắp cho nó,
làm cơm văng tung tóe. Ông Sáu không thể chịu đựng nổi nữa trước thái độ lạnh lùng
của đứa con gái mà ông hết mực yêu thương, ông đã nổi giận và chẳng kịp suy nghĩ,
ông vung tay đánh vào mông nó. Bị ông Sáu đánh, Thu không khóc, gắp lại trứng cá
rồi bỏ sang nhà ngoại, lúc đi còn cố ý khua dây lòi tói kêu rổn rảng.
- Những chi tiết bình thường mà tinh tế này chứng tỏ nhà văn rất thấu hiểu tâm lí
trẻ em. Trẻ con vốn rất thơ ngây nhưng cũng đầy cố chấp, nhất là khi chúng có sự hiểu
lầm, chúng kiên quyết chối từ tình cảm của người khác mà không cần cân nhắc, nhất là
với một cô bé cá tính, bướng bỉnh như Thu.Người đọc nhiều khi thấy giận em, thương
cho anh Sáu. Nhưng thật ra em vẫn là cô bé dễ thương. Bởi nguyên nhân sâu xa của sự
chối từ ấy vẫn là tình yêu ba. Tình yêu đến tôn thờ, trung thành tuyệt đối với người ba
trong tấm ảnh chụp chung với má - người ba với gương mặt không có vết thẹo dài.
b. Khi nhận ra cha:
- Tình yêu ba trong bé Thu đã trỗi dậy mãnh liệt vào cái giây phút bất ngờ nhất,
giây phút ông Sáu lên đường trong nỗi đau vì không được con đón nhận.
- Bằng sự quan sát tinh tế, bác Ba là người đầu tiên nhận ra sự thay đổi của Thu
trong “vẻ mặt sầm lại buồn rầu”, “đôi mắt như to hơn nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”.
Điều đó cho thấy trong tâm hồn đứa trẻ nhạy cảm như Thu đã có ý thức về cảm giác
chia li, giây phút này em thèm biểu lộ tình yêu với ba hơn hết, nhưng sự ân hận về
những gì mình đã làm ba buồn khiến em không dám bày tỏ. Để rồi tình yêu ba trào
dâng mãnh liệt trong em vào khoảnh khắc ba nhìn em với cái nhìn trìu mến, giọng nói
ấm áp “thôi, ba đi nghe con!”. Đúng vào lúc không một ai ngờ tới, kể cả ông Sáu, Thu
thốt lên tiếng kêu thét “Ba...a...a...ba!”. “Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng
và ruột gan mọi người nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” nó cố kìm nén trong bao
nhiêu năm nay, tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó”. Tiếng gọi thân thương ấy
đứa trẻ nào cũng gọi đến thành quen nhưng với cha con Thu là nỗi khát khao của 8
năm trời xa cách thương nhớ. Đó là tiếng gọi của trái tim, của tình yêu trong lòng đứa
bé 8 tuổi mong chờ giây phút gặp ba.
- Đi liền với tiếng gọi là những cử chỉ vồ vập, cuống quýt trong nỗi ân hận của
Thu: chạy xô tới, nhảy thót lên, dang chặt hai tay ôm lấy cổ ba, hôn ba cùng khắp, hôn
tóc, hôn cổ, hôn vai, hôn cả vết thẹo dài trên má, khóc trong tiếng nấc, kiên quyết
không cho ba đi...Cảnh tượng ấy tô đậm thêm tình yêu mãnh liệt, nỗi khát khao mong
mỏi mà Thu dành cho ba. Phút giây ấy khiến mọi người xung quanh không ai cầm
được nước mắt và bác Ba “bỗng thấy khó thở như có bàn tay ai nắm chặt trái tim
mình”.

87
- Dường như nhà văn Nguyễn Quang Sáng cũng muốn kéo dài thêm giây phút
chia ly của cha con Thu trong cảm nhận của người đọc bằng cách rẽ mạch truyện sang
một hướng khác, để bác Ba nghe bà ngoại Thu kể lại cuộc chuyện trò của hai bà cháu
đêm qua. Chi tiết này vừa giải thích cho ta hiểu thái độ bướng bỉnh không nhận ba
hôm trước của bé Thu và sự thay đổi trong hành động của em hôm nay. Như vậy,
trong lòng cô bé, tình yêu dành cho ba luôn là một tình cảm thống nhất, mãnh liệt. Dù
cách biểu hiện tình yêu ấy thật khác nhau trong hai hoàn cảnh, nhưng nó vẫn xuất phát
trừ một cội nguồn trong trái tim đứa trẻ luôn khao khát tình cha. Tuy nhiên, Thu trước
sau vẫn chỉ là một cô bé ngây thơ, em đồng ý cho ba đi để ba mua một chiếc lược, món
quà nhỏ mà bất cứ em bé gái nào cũng ao ước. Bắt đầu từ chi tiết này, chiếc lược ngà
bước vào câu chuyện, trở thành một chứng nhân âm thầm cho tình cha con thiêng
liêng, bất tử.
=> Qua những biểu hiện tâm lí và hành đông của bé Thu, người đọc cảm nhận
được tình cảm sâu sắc, mạnh mẽ nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi của bé Thu. Sự
cứng đầu, tưởng như ương ngạnh ở Thu là biểu hiện của một cá tính mạnh mẽ (cơ sở
để sau này trở thành một cô giao liên mưu trí, dũng cảm). Tuy nhiên, cách thể hiện
tình cảm của em vẫn rất hồn nhiên, ngây thơ.
=> Qua những diễn biến tâm lí của Thu, ta thấy tác giả đã tỏ ra rất am hiểu tâm lí
trẻ thơ và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến, trân trọng những tình cảm trẻ
thơ.
3. Tình cha con sâu nặng và cao đẹp của ông Sáu:
- Nỗi khao khát gặp lại con sau tám năm xa cách.
+ Khi gặp lại con, không chờ xuồng cập bến, ông đã “nhún chân nhảy thót lên,
xô chiếc xuồng tạt ra, bước vội vàng với những bước dài rồi dừng lại kêu to: Thu!
Con” Anh vừa bước vào vừa khom người đưa tay đón chờ con… Anh không ghìm nổi
xúc động….
+ Khi bé Thu sợ hãi bỏ chạy, anh đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn
khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy.
- Nỗi khổ và niềm vui trong ba ngày về thăm nhà.
+ Trước thái độ lạnh nhạt, ông đã đau khổ, cảm thấy bất lực: Suốt ngày anh
chẳng đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con. Nhưng càng vỗ về, con bé càng đẩy ra. Anh
mong được nghe một tiếng ba của con bé, nhưng con bé chẳng bao giờ chịu gọi. Anh
đau khổ lắm nhưng chỉ “nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười” vì “khổ tâm đến nỗi
không khóc được”.
+ Hôm chia tay, nhìn thấy con đứng trong góc nhà, ông muốn ôm con, hôn con
nhưng “sợ nó giẫy lên lại bỏ chạy” nên “chỉ đứng nhìn nó” với đôi mắt “trìu mến lẫn
buồn rầu” … Cho đến khi nó cất tiếng gọi Ba, ông xúc động đến phát khóc và “không
muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước
mắt, rồi hôn lên mái tóc của con”. -> Đây là những giọt nước mắt hạnh phúc của người
cha, của người cán bộ kháng chiến.
- Tình yêu con tha thiết của ông còn được thể hiện rất sâu sắc khi ông ở khu căn
cứ:
+ Xa con, ông luôn nhớ con trong nỗi day dứt, ân hận ám ảnh vì mình đã lỡ tay
đánh con.
+ Lời dặn của con lúc chia tay đã thôi thúc ông làm cho con cây lược.
+ Tác giả diễn tả tình cảm của ông Sáu xung quanh chuyện ông làm chiếc lược:

88
_ Kiếm được khúc ngà voi, ông hớn hở như đứa trẻ được quà: “từ con đường
mòn chạy lẫn trong rừng sâu, anh hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên khoe với
tôi. Mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà”.
_ Rồi ông dồn hết tâm trí và công sức vào việc làm cho con cây lược: “anh cưa
từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như một người thợ bạc”. Trên sống
lưng lược, ông đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của
ba”. Ông gửi vào đó tất cả tình yêu và nỗi nhớ.
_ Nhớ con “anh lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm
bóng, thêm mượt”. Ông không muốn con ông đau khi chải lược. Yêu con, ông Sáu yêu
đến từng sợi tóc của con -> Chiếc lược trở thành vật thiêng liêng đối với ông Sáu, nó
làm dịu đi nỗi ân hận, nó chứa đựng bao tình cảm yêu mến, nhớ thương, mong ngóng
của người cha với đứa con xa cách. Cây lược ngà chính là sự kết tinh của tình phụ tử
thiêng liêng.
- Ông Sáu đã hi sinh trong trận càn lớn của quân Mĩ – ngụy khi chưa kịp trao cây
lược cho con gái. “Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức trăng trối lại điều gì,
hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn
cho ông làm một việc “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho người bạn chiến đấu.
Đó là điều trăng trối không lời nhưng nó thiêng liêng hơn cả những lời di chức. Nó là
sự ủy thác, là ước nguyện cuối cùng, ước nguyện của tình phụ tử. Và bắt đầu từ giây
phút ấy, cây lược của tình phụ tử đã biến người đồng đội của ông Sáu thành một người
cha thứ hai của bé Thu
=> Qua nhân vật ông Sáu, người đọc không chỉ cảm nhận tình yêu con tha
thiết sâu nặng của ngườicha chiến sĩ mà còn thấm thía bao đau thương mất mát
đối với những em bé, những gia đình. Tình yêu thương con của ông Sáu còn như
một lời khẳng định: Bom đạn của kẻ thù chỉ có thể hủy diệt được sự sống của con
người, còn tình cảm của con người – tình phụ tử thiêng liêng thì không bom đạn
nào có thể giết chết được.
III – Tổng kết:
1. Nội dung:
-Truyện “Chiếc lược ngà” đã thể hiện một cách cảm động tình cha con thắm
thiết, sâu nặng và cao đẹp của cha con ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh.
-Truyện còn gợi cho người đọc nghĩ đến và thấm thía những mất mát đau thương,
éo le mà chiến tranh gây ra cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình.
2. Nghệ thuật:
- Xây dựng tình huống truyện bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí
- Xây dựng cốt truyện khá chặt chẽ, lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp.
Truyện được kể theo ngôi thứ nhất, đặt vào nhân vật bác Ba, người bạn chiến đấu của
ông Sáu và cũng là người chứng kiến, tham gia vào câu chuyện. Với ngôi kể này,
người kể chuyện xen vào những lời bình luận, suy nghĩ, bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ
với nhân vật, và câu chuyện vẫn mang tính khách quan.
- Miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế và sâu sắc, nhất là đối với nhân vật bé
Thu.
- Ngôn ngữ truyện mang đậm chất địa phương Nam Bộ.

BÀI THAM KHẢO 1 (cảm nhận tình cảm cha con)


“Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một truyện ngắn hay viết về đề tài
tình phụ tử. Đọc tác phẩm, điều khiến người đọc cảm động nhất chính là tình cảm mà
cha con ông Sáu và bé Thu dành cho nhau. Câu chuyện về tình cảm gia đình thiêng
89
liêng, sâu sắc trong kháng chiến đã đọng lại trong lòng người những suy nghĩ những
bài học bổ ích.
Tác phẩm ra đời năm 1966, lấy bối cảnh là cuộc kháng chiến chống Mĩ của đồng
bào Nam Bộ. Chính trong hoàn cảnh bom rơi, đạn nổ, kẻ thù không chỉ chia lìa đất
nước mà còn chia lìa từng gia đình ấy, tình cảm gia đình lại được thể hiện đậm nét,
cảm động hơn bao giờ hết.
Ông Sáu khi đi kháng chiến có một đứa con gái đầu lòng chưa đầy một tuổi.
Trong những năm tháng kháng chiến, vì cô bé còn nhỏ nên đi thăm chồng, vợ của ông
không mang theo con. Bởi vậy, ông chỉ được nhìn con qua những tấm ảnh nhỏ mà
thôi. Và giờ đây, khi trở về thì tình cha con ấy lại trỗi dậy trong lòng, ông cảm thấy
nôn nao. Ngay lập tức, khi xuống thuyền, thấy một đứa bé chừng bảy, tám tuổi, tóc
ngang vai thì ông Sáu biết ngay đó là con mình. Không chờ xuồng cập bến, ông đã
nhún chân nhảy thót lên bờ, vội vàng bước những bước dài rồi kêu: "Thu! Con!". Điều
đó thể hiện một tình cảm của người cha một cách tự nhiên, quá xúc động. Dường như
chính lúc này đây, trái tim của người cha tội nghiệp reo lên đầy sung sướng khi sau
tám năm trời mới được nhìn thấy mặt con và dường như ông cũng mong sự đáp lại tình
cảm của con. Nhưng con bé lại đầy ngơ ngác, lạ lùng, không biết đó là ai. Còn ông Sáu
thì vẫn đầy xúc động miệng nói không thành lời, giọng lặp bặp: "Ba đây con"! Lúc đó
chính là lúc cái tình của người cha lên đến đỉnh điểm và không thể toát ra bằng lời vì
ông đã quá xúc động. Việc bé Thu sợ hãi chạy ào đi như một gáo nước lạnh dội mạnh
vào trái tim đang nóng bỏng của ông Sáu. Ông đứng sững lại đầy sững sờ, thảng thốt.
Những ngày sau đó, ông Sáu vẫn cố gắng để con nhận ra mình là cha. Cả ngày
ông chẳng đi đâu xa, suốt ngày ở bên con, săn sóc, vỗ về con. Song càng vỗ về bao
nhiêu con bé lại càng đẩy ông ra bấy nhiêu. Ông chỉ mong có một điều là được gọi
mình một tiếng "ba". Chỉ một tiếng "ba" mà thôi! Nhưng chẳng có điều gì khác ở con
gái ông ngoài sự thờ ơ, lạnh lùng thậm chí thù ghét. Những hành động của ông Sáu
giúp đỡ con hay vỗ về nó đều bị con bé phản ứng lại. Chỉ có tình cha sâu nặng mới
giúp ông kiên trì vượt qua điều đó. Đến một bữa cơm, khi ông gắp cái trứng cá to,
vàng bỏ vào bát nó thì bất thần con bé hất ra, cơm văng tung toé và không kịp suy nghĩ
gì ông đã đánh một cái vào mông nó. Ông Sáu hẳn đã vô cùng ân hận vì giây phút
nóng nảy đó của mình.
Trong ba ngày nghỉ ngắn ngủi, ông đã ở bên con nhưng con không nhận. Giờ đây
ngày chia tay bà con làng xóm ông định mang theo nỗi buồn đó. Nhưng trong lúc
không ai ngờ đến đó, một tiếng kêu đã xé lòng ông: "Ba... a...a... ba". Tiếng "Ba" đó là
sự dồn nén trong Thu tám năm nay và bây giờ nó vỡ tung ra từ ngay trong sâu thẳm
đáy lòng con bé. Tiếng "Ba" với nó là điều khát khao hơn mọi đứa trẻ khác vì ngay từ
nhỏ nó đã không có tình yêu thương của cha. Giờ đây tiếng "Ba" vang lên đầy tự
nhiên, ngỡ ngàng trong giây phút cuối cha con chia tay. Và bây giờ nó muốn có ba, nó
bật khóc vì hạnh phúc, nó hôn tóc, hôn cổ và hôn với vết theo dài trên má của ba nó
nữa. Hoá ra, lí do nó không nhận ba là do vết thẹo oan nghiệt đó - vết thẹo do kẻ thù
của gia đình đó, của đất nước đất nước đau thương này gây ra. Nhưng vừa nhận ra thì
cũng là lúc phải chia tay. Sung sướng và có lẫn sự xúc động ông ôm con và tạm biệt
nhưng con bé không muốn ba phải đi. Cho đến khi ông hứa làm cho nó một chiếc lược
thì nó mới để cho ba nó đi.
Ở chiến trường tuy chiến tranh đầy ác liệt nhưng ông vẫn cố công làm bằng được
chiếc lược ngà. Trong khi làm, ông Sáu cảm thấy vui vui như đứa trẻ nhận được quà.
Ông cố gắng làm tỉ mỉ, thận trọng cố công như người thợ bạc. Khi chiếc lược được
làm xong ông cảm thấy sung sướng vì mình như đã thực hiện được phần nào lời hứa.
90
Sau đó ông lại khắc trên sống lưng chiếc lược "Yêu nhớ tặng con, Thu của ba”. Hàng
đêm nhớ con ông lại đem lược ra ngắm chải lên đầu cho lược thêm bóng, mượt...
Trong giờ phút cuối cùng, tuy không đủ sức trăng trối, nhưng tình cha con vẫn sống và
trỗi dậy tròng con người ông. Ông đưa chiếc lược cho Ba - một người đồng đội thân
thiết và nhìn Ba hồi lâu như trăng trối rằng: "Hãy đưa chiếc lược này đến cho Thu".
Cái nhìn đó có thể nói rằng đó là cái nhìn của sự nhờ cậy, tin cậy, gửi gắm cả tâm hồn
ông qua đó. Tình cha con đầy thiêng liêng, cao quý trỗi dậy ngay cả khi con người ta
đang đối mặt giữa sự sống và cái chết. Khi Ba nhận lời thì ông mới nhắm mắt.
Sau này, bác Ba đã gặp Thu - giờ đây là cô gái giao liên dũng cảm và bác đã trao
lại kỉ vật đó cho Thu.
Tình cảm ông Sáu dành cho con sâu nặng bao nhiêu, tình cảm Thu dành cho ba
cũng nồng nàn bỏng cháy bấy nhiêu.
Cô bé không nhận ba bởi cô hiểu nhầm về vết sẹo trên mặt ba. Bức ảnh cha cô
mà cô khắc ghi bấy lâu trong tâm khảm không có vết thẹo trên mặt như ông Sáu -
người cứ nhận mình là cha bé! Và vì thế, Thu càng phản đối quyết liệt con người ấy
bao nhiêu càng thể hiện cô bé yêu ba mình bấy nhiêu. Cái tình yêu ấy thật sâu sắc: nó
chỉ có một, không thể chia sẻ cho bất kì. ai khác, ngay cả khi đó là người được tất cả
mọi người thừa nhận là ba của nó, là người yêu thương và quan tâm đến nó rất chân
thành.
Đến lượt mình, Thu cũng đáp lại tình cảm của ba một cách cảm động. Khi biết
rằng ông Sáu là ba thật của mình, và vết sẹo trên mặt ông là do thằng Mĩ gây nên, buổi
sáng cuối cùng trong những ngày phép của ba "Con bé như bị bỏ rơi, lúc đứng vào góc
nhà, lúc đứng tựa cửa và cứ nhìn mọi người đang vây quanh ba nó. Vẻ mặt của nó có
cái gì hơi khác, nó không bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa, vẻ mặt nó sầm lại
buồn rầu, cái vẻ buồn trên gương mặt ngây thơ cùa con bé trông rất dễ thương. Với đôi
mi dài uốn cong, và như không bao giờ chớp, đôi mắt nó như to hơn, cái nhìn của nó
không ngơ ngác, không lạ lùng, nó nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa." Không hiểu con bé
“nghĩ ngợi sâu xa” điều gì, chỉ biết rằng khi ông Sáu buồn rầu quay lại nhìn nó - không
dám lại gần sợ nó lại bỏ chạy như lần trước - nói: “Ba đi nghe con” thì nó bất ngờ lao
đến thét lên: Ba., a... a…ba!". Rồi ôm chặt lấy ông nức nở “Con không cho ba đi”. Đến
đây, người đọc mới vỡ lẽ ra rằng Thu thèm được gọi ba như thế nào. “Tiếng kêu của
nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là
tiếng "ba" mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng "ba" như vỡ tung ra từ đáy
lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang
hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó.". Bé Thu là đứa trẻ giàu tình cảm. Thái độ của bé Thu
với ba bây giờ trái ngược trong những ngày đầu khi ông Sáu về thăm nhà. Song, trái
ngược mà vẫn nhất quán. Vì quá yêu ba, quá khao khát được có ba nên khi nhận định
không phải ba nó thì nó nhất định không chịu nhận, nhất định không gọi "ba" lấy một
tiếng. Cho nên, khi tiếng gọi như xé kia cất lên ta thấy nó thiêng liêng vô cùng. Tiếng
gọi ấy càng trở nên thiêng liêng, quý giá bởi đón chờ nó là cả tấm lòng cao đẹp,
thương yêu con vô hạn của người cha.
Sau này, thấu hiểu sâu sắc nguyên nhân gây ra vết thẹo trên măt cha, Thu đã trở
thành một nữ giao liên dũng cảm, can đảm. Cô quyết tâm tiếp bước con đường cha cô
đã đi để đánh đuổi kẻ thù của gia đình, kẻ thù của dân tộc.
Nguyễn Quang Sáng đã rất thành công khi xây dựng tình cảm cha con giữa ông
Sáu và bé Thu. Đọc thiên truyện, người đọc hẳn đã có lần rơi lệ vì cảm động. Và còn
vì thấy trong đó thấp thoáng đâu đây bóng dáng bản thân, của người cha thân yêu của
mình nữa. Tình phụ tử đó chính là một trong những thứ tình cảm thiêng liêng nhất
91
trong cõi đời này. Và bởi thế, đọc “Chiếc lược ngà” để ta trân trọng hơn những người
thân yêu ruột thịt quanh mình, trân trọng hơn những tình cảm sâu sắc ta đang được
nhận. Và hơn hết, đọc thiên truyện ngắn này, ta biết yêu thương, sẻ chia và sống xứng
đáng với những đấng sinh thành của bản thân.
Không chỉ gợi những tình cảm trong sáng, cao quý, “Chiếc lược ngà” còn mang
đến cho người đọc những bài học nhân sinh đầy nhân ái. Và vì thế, đây thực sự là một
thiên truyện hay trong hành trang của những người Việt trẻ!

BÀI THAM KHẢO 2 (cảm nhận bé Thu)


Nhà văn Nga Aimatôp có lần đã viết “không thể nói về chiến tranh một cách giản
đơn, không thể xem nó như câu chuyện cổ tích nhẹ nhàng ru ta vào giấc ngủ. Chiến
tranh đọng lại thành máu trong sâu thẳm trái tim con người và kể chuyện về nó không
phải là điều dễ dàng”. Quả đúng như vậy, kể chuyện về chiến tranh với các nhà văn
Việt Nam là điều không dễ dàng, nhất là trong cuộc kháng chiến chống Mĩ 30 năm
trường kì của nhân dân Nam bộ. Tuy nhiên, nhà văn Nguyễn Quang Sáng, cây bút
trưởng thành từ trong cuộc chiến tranh chống Mĩ ở Nam bộ lại nhìn về hiện thực đau
thương đó bằng một cái nhìn nhân văn, cao đẹp. Vượt lên những mất mát, đau thương
của con người, nhà văn ngợi ca về vẻ đẹp của tình cha con, tình đồng đội. Điều này
được thể hiện trọn vẹn trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” qua nhân vật bé Thu và câu
chuyện cảm động của hai cha con bé Thu- anh Sáu.
Ra đời năm 1966, những năm tháng gian khổ, đau thương nhất của đồng bào
Nam bộ trong 30 năm chiến tranh, “Chiếc lược ngà” được kể lại qua sự chứng kiến của
bác Ba, người đồng đội của anh Sáu. Người đã lặng lẽ dõi theo từ đầu đến cuối câu
chuyện cảm động của cha con anh Sáu- bé Thu. Qua sự quan sát tinh tế, sâu sắc của
bác Ba, chúng ta mới thấm thía hết nỗi đau của người dân Nam bộ trong chiến tranh và
sức mạnh của tình cha con thiêng liêng, bất tử
Bé Thu trong câu chuyện, cũng như bao cô bé miền Nam khác đều thiếu thốn
tình cha từ nhỏ do cuộc chiến tranh. Khi anh Sáu ra đi, em chưa đầy một tuổi, tám năm
trời, cha con em chỉ biết nhau qua hai tấm ảnh. Lần về phép ba ngày của anh Sáu là cơ
hội hiếm hoi để ba con Thu gặp gỡ nhau, bày tỏ tình phụ tử. Nhưng nhà văn lại đặt bé
Thu vào một tình huống đầy éo le: vì một sự hiểu lầm trẻ con, Thu không chịu nhận
anh Sáu là ba, đến lúc nhận ra thì cũng là giây phút ba em lên đường tập kết. Và lần
gặp mặt ấy, là lần gặp mặt đầu tiên, duy nhất, cuối cùng của cha con em.
Tuy nhiên, từ tình huống truyện éo le ấy, người đọc vẫn nhận ra đặc điểm riêng,
cá tính riêng của nhân vật bé Thu: một cô bé tám tuổi bướng bỉnh nhưng dễ thương và
đặc biệt có tình yêu ba sâu sắc, mãnh liệt. Tình yêu ấy được thể hiện trong hai hoàn
cảnh trái ngược nhau, trước và sau khi sự hiểu lầm trong em được bà ngoại giải đáp.
Lúc chưa chịu nhận anh Sáu là ba, Thu là một cô bé trẻ con, bướng bỉnh và đáo
để đến nỗi làm anh Sáu đau lòng vì thái độ khước từ tình thương ba dành cho em. Phút
đầu tiên hai ba con gặp mặt, trái ngược với nỗi mong nhớ, sự sốt ruột và suy nghĩ của
anh Sáu, bé Thu vụt chạy đi, nét mặt đầy sợ hãi kêu “má, má” để lại anh Sáu đứng một
mình “nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai
cánh tay buông xuống như bị gãy”. Trong ba ngày anh sau ở nhà, anh không dám đi
đâu vì muốn ở bên con, vỗ về, chăm sóc và bù đắp sự thiêu thốn trong 8 năm qua cho
nó nhưng bé Thu lại tỏ ra cứng đầu, không chịu nhận anh, cũng không chịu gọi anh
một tiếng “ba” dù chỉ một lần. Nhà văn đã xây dựng một loạt các chi tiết để miêu tả
tâm lí, thái độ rất trẻ con, cố chấp của bé Thu. Khi má bắt kêu ba vô ăn cơm, doạ đánh
để cô bé gọi ba một tiếng, Thu vẫn chỉ nói trống không “vô ăn cơm! cơm chín rồi”,
92
“con kêu rồi mà người ta không nghe”. Hai tiếng “người ta” mà Thu thốt lên làm anh
Sáu đau lòng đến mức “không khóc được, chỉ khe khẽ lắc đầu cười”. Thậm chí, ngay
cả khi bị má đặt vào một hoàn cảnh khó khăn để buộc Thu gọi anh Sáu một tiếng ba là
chắt nước nồi cơm to đang sôi, Thu cũng lại nói trống không “cơm sôi rồi, chắt nước
giùm cái”. Sự im lặng của anh Sáu và cả sự gợi ý của bác Ba đều không thể làm cô bé
gọi tiếng “ba” đơn sơ, giản dị. Tiếng gọi mà mỗi đứa trẻ đều ghi nhớ và bập bẹ lần đầu
tiên trong cuộc đời mình. Đỉnh điểm của sự kiên quyết chối từ tình yêu thương của anh
Sau trong bé Thu là chi tiết cái trứng cá trong bữa cơm gia đình. Bằng lòng thương con
của người cha, anh Sáu gắp cái trứng cá ngon nhất vào chén cơm của Thu nhưng con
bé bất thần hất nó ta khỏi chén cơm. Nỗi đau khổ trong ba ngày nén chịu trào lên, anh
Sáu đánh con, Thu không khóc, lầm lì bỏ trứng cá lại vào chén cơm và bỏ sang nhà bà
ngoại, lúc đi còn cố ý khua dây xuòng cho thật to. Những chi tiết bình thường mà tinh
tế này chứng tỏ nhà văn rất thấu hiểu tâm lí trẻ em. Trẻ con vốn rất thơ ngây nhưng
cũng đầy cố chấp, nhất là khi chúng có sự hiểu lầm, chúng kiên quyết chối từ tình cảm
của người khác mà không cần cân nhắc, nhất là với một cô bé cá tính, bướng bỉnh như
Thu. Người đọc nhiều khi thấy giận em, thương cho anh Sáu. Nhưng thật ra em vẫn là
cô bé dễ thương. Bởi nguyên nhân sâu xa của sự chối từ ấy vẫn là tình yêu ba. Tình
yêu đến tôn thờ, trung thành tuyệt đối với người ba trong tấm ảnh chụp chung với má.
Người ba với gương mặt không có vết thẹo dài do tội ác của kẻ thù. Khi đã có hình
ảnh người ba ấy, em ngây thơ và rất trẻ con cho rằng ba không thay đổi và mình không
thể gọi ba với bất kì một người nào khác.
Hình ảnh bé Thu là nhân vật trọng tâm của câu chuyện, được tác giả khắc họa hết
sức tinh tế và nhạy bén, là một cô bé giàu cá tính, bướng bỉnh và gan góc. Bé Thu gây
ấn tượng cho người đọc về một cô bé dường như lì lợm, đến ghê gớm, khi mà trong
mọi tình huống em cũng nhất quyết không gọi tiếng Ba, hay khi hất cái trứng mà anh
Sáu cho xuống, cuối cùng khi anh Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà bà ngoại.
Nguyễn Quang Sáng đã khéo léo xây dựng nhiều tình huống thử thách cá tính của bé
Thu, nhưng điều khiến người đọc phải bất ngờ là sự nhất quán trong tính cách của bé,
dù là bị mẹ quơ đũa dọa đánh, dù là bị dồn vào thế bí, dù là bị anh Sáu đánh, bé Thu
luôn bộc lộ một con người kiên quyết, mạnh mẽ. Có người cho rằng tác giả đã xây
dựng tính cách bé Thu hơi thái quá, song thiết nghĩ chính thái độ ngang ngạnh đó lại là
biểu hiện vô cùng đẹp đẽ mà đứa con dành cho người cha yêu quý. Trong tâm trí bé
Thu chỉ có duy nhất hình ảnh của một người “cha chụp chung trong bức ảnh với má”.
Người cha ấy, không giống anh Sáu, không phải bởi thời gian đã làm anh Sáu già đi
mà do cái thẹo trên má. Vết thẹo, dấu tích của chiến tranh đã hằn sâu làm hiến dạng
khuôn mặt anh Sáu. Có lẽ trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn
quá bé để có thế biết đến sự khốc liệt của bom lửa đạn, biết đến cái cay xè của mùi
thuốc súng và sự khắc nghiệt của cuộc sống người chiến sĩ. Cái cảm giác đó không
đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh, nhiều sách mà là sự kiên định,
thẳng thắn, có lập trường bền chặt, bộc lộ phần nào đó tính cách cứng cỏi ngoan cường
của cô giao liên giải phỏng sau này.
Nhưng xét cho cùng, cô bé ấy có bướng bỉnh, gan góc, tình cảm có sâu sắc, mạnh
mẽ thế nào thì Thu vẫn chỉ là một đứa trẻ mới 8 tuổi, với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ
của con trẻ. Nhà văn tỏ ra rất am hiểu tâm lí của trẻ thơ và diễn tả rất sinh động với
tấm lòng yêu mến và trân trọng một cách đẹp đẽ thiêng liêng những tâm tư tình cảm
vô giá ấy. Khi bị ba đánh, bé Thu “cầm đũa gắp lại cái trứng cá để vào chén rồi lặng lẽ
đứng dậy, bước ra khỏi mâm” Có cảm giác bé Thu sợ anh Sáu sẽ nhìn thấy những giọt
nước mắt trong chính tâm tư của mình? Hay bé Thu dường như lờ mờ nhận ra mình có
93
lỗi? Lại một loạt hành động tiếp theo “Xuống bến nó nhảy xuống xuồng, mở lòi tói, cố
làm cho dây lòi tói khua rổn rang, khua thật to, rồi lấy dầm bơi qua sông”. Bé Thu bỏ
đi lúc bữa cơm nhưng lại có ý tạo tiếng động gây sự chú ý. Có lẽ cô bé muốn mọi
người trong nhà biết bé sắp đi, mà chạy ra vỗ về, dỗ dành. Có một sự đối lập trong
những hành động của bé Thu, giữa một bên là sự cứng cỏi, già giặn hơn tuổi, nhưng ở
khía cạnh khác cô bé vẫn mong được yêu quý vỗ về. Trong khi “Chiều đó, mẹ nó sang
dỗ dành mấy nó cũng không chịu về”, cái cá tính cố chấp một cách trẻ con của bé Thu
được tác giả khắc họa vừa gần gũi, vừa tinh tế.
Ở đoạn cuối, khi mà bé Thu nhận ra cha, thật khó để phủ nhận bé Thu là đứa bé
giàu tình cảm. Tình cha con trong Thu giữ gìn bấy lâu nay, giờ trỗi dậy, vào cái giây
phút mà cha con phải tạm biệt nhau. Có ai ngờ một cô bé không được gặp cha từ năm
1 tuổi vẫn luôn vun đắp một tình yêu bền bỉ và mãnh liệt với cha mình, dù người cha
ấy chưa hề bồng bế nó, cưng nựng nó, săn sóc, chăm lo cho nó, làm cho nó một món
đồ chơi kể từ khi nó bắt đầu làm quen với cuộc sống. Nó gần như chưa có chút ấn
tượng nào về cha, song chắc không ít lần nó đã tự tưởng tượng hình ảnh người cha nó
tài giỏi nhường nào, cao lớn nhường nào, có vòng tay rộng để ôm nó vào lòng ra sao?
Tình cảm mãnh liệt trong nó ngăn không cho nó nhận một người đàn ông lạ kia làm
bố. Khi đến ngày anh Sáu phải đi, con bé cứng cỏi mạnh mẽ ngày hôm nào lại “như
thể bị bỏ rơi, lúc đứng ở góc nhà, lúc đứng tựa cửa và cứ nhìn mọi người vây quanh ba
nó, dường như nó thèm khát cái sự ấm áp của tình cảm gia đình, nó cũng muốn chạy
lại và ôm hôn cha nó lắm chứ, nhưng lại có cái gì chặn ngang cổ họng nó, làm nó cứ
đứng nguyên ở đấy, ước mong cha nó sẽ nhận ra sự có mặt của nó”. Và rồi đến khi cha
nó chào nó trước khi đi, có cảm giác mọi tình cảm trong lòng bé Thu bỗng trào dâng.
Nó không nén nổi tình cảm như trước đây nữa, nó bỗng kêu hét lên Ba..., vừa kêu vừa
chạy xô đến nhanh như một con sóc, nó nhảy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ
ba nó. Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, hôn cả vết thẹo dài trên
má của ba nó nữa. Tiếng kêu Ba từ sâu thẳm trái tim bé Thu, tiếng gọi mà ba nó đã
dùng mọi cách để ép nó gọi trong mấy ngày qua, tiếng gọi ba gần gũi lần đầu tiên
trong đời nó như thể nó là đứa trẻ mới bi bô tập nói, tiếng gọi mà ba nó tha thiết được
nghe một lần. Bao nhiêu mơ ước, khao khát như muốn vỡ òa ra trong một tiếng gọi
cha. Tiếng gọi ấy không chỉ khiến ba nó bật khóc mà còn mang một giá trị thiêng liêng
với nó. Lần đầu tiên nó cảm nhận mơ hồ về niềm sung sướng của một đứa con có cha.
Dường như bé Thu đã lớn lên trong đầu óc non nớt của nó. Ngòi bút nhà văn khẳng
định một nhân vật giàu tình cảm, có cá tính mạnh mẽ, kiên quyết nhưng vẫn hồn
nhiên, ngây thơ: Nhân vật bé Thu.

MÙA XUÂN NHO NHỎ


Thanh Hải
I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả:
- Thanh Hải là một nhà thơ cách mạng.
- Trong hai cuộc kháng chiến kể cả những thời kì đen tối nhất, ông đã bám trụ ở
quê hương (vùng Thừa Thiên – Huế), cất lên tiếng thơ ca ngợi tình yêu quê hương đất
nước, ca ngợi sự hi sinh của nhân dân miền Nam và khẳng định niềm tin vào chiến
thắng của cách mạng. Có thể nói cuộc đời ông đã cống hiến trọn vẹn cho đất nước, cho
quê hương.

94
- “Thơ ông chân chất, bình dị, đôn hậu và chân thành…Đối với nền thơ chống
Mĩ của miền Nam, Thanh Hải là một trong những cây bút có nhiều đóng góp”.
2. Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sángtác:
- Bài thơ ra đời tháng 11/1980, lúc này, đất nước đã thống nhất, đang xây dựng
cuộc sống mới với muôn ngàn khó khăn thử thách.
- Và đây cũng là một hoàn cảnh rất đặc biệt đối với nhà thơ Thanh Hải. Ông đang
bị bệnh nặng phải điều trị ở bệnh viện trung ương thành phố Huế, và một tháng sau
ông qua đời. Có hiểu cho hoàn cảnh của nhà thơ trên giường bệnh ta mới thấy hết
được tấm lòng tha thiết với cuộc sống, với quê hương đất nước của nhà thơ.
b. Bố cục: 4 đoạn:
- Khổ 1: Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân thiên nhiên, đất trời.
- Khổ 2,3: Cảm xúc của nhà thơ về mùa xuân đất nước.
- Khổ 4,5: Lời ước nguyện chân thành, tha thiết của nhà thơ.
- Khổ 6: Lời ngợi ca quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế.
=> Xuyên suốt bài thơ là hình ảnh mùa xuân: mùa xuân của thiên nhiên, mùa
xuân của đất nước và “mùa xuân nho nhỏ” của mỗi người.
c. Mạch cảm xúc:
Bài thơ bắt đầu từ những cảm xúc trực tiếp hồn nhiên, trong trẻo trước vẻ đẹp và
sức sống của mùa xuân thiên nhiên, từ đó mở rộng cảm nghĩ về mùa xuân đất nước.
Từ mùa xuân lớn của thiên nhiên đất nước mà liên tưởng tới mùa xuân của mỗi cuộc
đời – một mùa xuân nho nhỏ góp vào mùa xuân lớn. Bàithơ kết thúc bằng sự trở về với
những cảm xúc thiết tha, tự hào về quê hương,đất nước qua điệu dân ca xứ Huế.
=> Mạch cảm xúc phát triển theo lối “tức cảnh sinh tình”đặc trưng nổi bật của
thơ ca.
II. Đọc – hiểu vănbản:
1. Cảm xúc của nhàthơ trước mùa xuân thiên nhiên, đất trời.
Khác với bức tranh thiên nhiên mùa xuân rực rỡ sắc màu, rạo rực tình ái trong thi
phẩm “Vội vàng” của Xuân Diệu, với:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi…
Không mang một sắc xanh tràn ngập không gian như trong bài thơ “Mùa xuân
xanh” của Nguyễn Bính với:
Mùa xuân là cả một mùa xanh
Giời ở trên cao, lá ở cành
Lúa ở đồng anh và lúa ở
đồng nàng và lúa ở đồng quanh
Cũng không được khoác lên tấm áo mơ màng, tình tứ như trong bài thơ “Mùa
xuân chín” của Hàn Mặc Tử, với:
Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi má nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang
Bức tranh thiên nhiên mùa xuân trong “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải được
vẽ bằngnhững hình ảnh, màu sắc, âm thanh hài hòa, sống động, tràn đầy sức sống:
95
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
-Ngay hai câu mở đầu ta đã bắt gặp một cách viết khác lạ. Không viết như bình
thường: “một bông hoa tím biếc mọc giữa dòng sông xanh” mà đảo lại “Mọc giữa
dòng sông xanh/Một bông hoa tím biếc”. Động từ “mọc” được đảo lên đầu câu thơlà
một dụng ý nghệ thuật của tác giả => khắc sâu ấn tượng về sức sống trỗi dậy và vươn
lên của mùa xuân. Tưởng như bông hoa tím biếc kia đang từ từ, lồ lộ mọc lên, vươn
lên, xòe nở trên mặt nước xanh của dòng sông xuân.
-Không gian mùa xuân rộng mở tươi tắn với hình ảnh một dòng sông trong xanh
chảy hiền hoà. Cái màu xanh ấy phản ánh được màu xanh của bầu trời, của cây cối hai
bên bờ, cái màu xanh quen thuộc mà ta có thể gặp ở bất kì một con sông nào ở dải đất
miền Trung.
- Nổi bật trên nền xanh lơ của dòng sông là hình ảnh “một bông hoa tím biếc”,
một hình ảnh thân thuộc của cánh lục bình hay bông súng,bông trang mà ta thường gặp
ở các ao hồ sông nước của làng quê:
“Con sông nhỏ tuổi thơ ta tắm
Vẫn còn đây nước chẳngđổi dòng
Hoa lục bình tím cả bờ sông…” ( Lê Anh Xuân)
Màu tím biếc ấy không lẫn vào đâu được với sắc màu tím Huế thân thương- vốn
là nét đặc trưng của những cô gái đất kinh kỳ với sông Hương núi Ngự.
-> Màu xanh của nước hài hoà với màu tím biếc của bông hoa tạo nên một nét
chấm phá nhẹ nhàng mà sống động, đem lại một vẻ đẹp tự nhiên, hài hòa, một màu sắc
đặc trưng của xứ Huế.
- Bức tranh không chỉ có “họa” mà còn có “nhạc” bởi tiếng chim chiền chiện cất
lên với muôn vàn lời ca tiếng hót, reo mừng:
Ơi con chim chiềnchiện
Hót chi mà vang trời.
+ Nhà thơ gọi “ơi” nghe sao mà tha thiết thế! Lời gọi ấy không cất lên từ tiếng
nói mà cất lên từ sâu thẳm tình yêu thiên nhiên, cất lên từ tấm lòng của nhà thơ trước
mùa xuân tươi đẹp với những âm thanh rộn rã.
+ Lời gọi ấy mới đầu nhen nhóm ở một góc trái tim, nhưng con người nhà thơ và
những cảnh sắc, âm thanh kia như đã hòa vào làm một, cảm xúc từ đó mà òa ra thành
lời, thật ngỡ ngàng, thật thích thú.
+ Cảm xúc của nhà thơ đã trào dâng thực sự qua câu hỏi tu từ: “Hót chi mà vang
trời”. Thứ âm thanh không thể thiếu ấy làm sống dậy cả không gian cao rộng, khoáng
đạt, làm sống dậy, vực dậy cả một tâm hồn con người đang phải đối mặt với những
bóng đen u ám của bệnh tật, của cái chết rình rập.
-> Dòng sông êm trôi, bông hoa lững lờ, tiếng chim rộn rã… bức tranh mùa xuân
xứ Huế bao giờ cũng đẹp, nhẹ nhàng, và mơ mộng như thế!
- Thiên nhiên, nhất là mùa xuân vốn hào phóng, sẵn sàng trao tặng con người
mọi vẻ đẹp nếu con người biết mở rộng tấm lòng. Thanh Hải đã thực sự đón nhận mùa
xuân với tất cả sự tài hoa của ngòi bút, sự thăng hoa của tâm hồn. Nhà thơ lặng ngắm,
lặng nghe bằng cả trái tim xao động, bằng trí tưởng tượng, liên tưởng độc đáo:
Từng giọt long lanh rơi
96
Tôi đưa tay tôi hứng.
+ Cụm từ “ giọt long lanh” gợi lên những liên tưởng phong phú và đầy thi vị. Nó
có thể là giọt sương lấp lánh qua kẽ lá trong buổi sớm mùa xuân tươi đẹp, có thể là
giọt nắng rọi sáng bên thềm, có thể giọt mưa xuân đang rơi…Theo mạch cảm xúc của
nhà thơ thì có lẽ đây là giọt âm thanh của tiếng chim ngân vang, đọng lại thành từng
giọt niềm vui, rơi xuống cõi lòng rộng mở của thi sĩ, thấm vào tâm hồn đang rạo rực
tình xuân.
+ Phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được vận dụng một cách tài hoa, tinh tế qua trí
tưởng tượng của nhà thơ. Thành Hải cảm nhận vẻ đẹp của mùa xuân bằng nhiều giác
quan: thị giác, thính giác và cả xúc giác.
+ Cử chỉ “Tôi đưa tay tôi hứng” thể hiện sự nâng niu, trân trọng của nhà thơ
trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời lúc với xuân với cảm xúc say sưa, xốn xang, rạo
rực. Nhà thơ như muốn ôm trọn vào lòng tất cả sức sống của mùa xuân, của cuộc đời.
=> Khổ thơ mở đầu đã mở ra một bức tranh xứ Huế thật đẹp: có hình ảnh,
có màu sắc, âm thanh được họa lên từ những vần thơ có nhạc…
=> Bài thơ được viết vào tháng 11 năm 1980, khi ấy đang là mùa đông giá
rét. Như vậy, hình ảnh mùa xuân được miêu tả ở đây là mùa xuân trong tâm
tưởng của nhà thơ. Đối mặt với bệnh tật, thậm chí phải đối mặt với cả cái chết,
vậy mà nhà thơ vẫn hướng đến mùa xuân tươi trẻ, tràn đầy sức sống, thể hiện
một tâm hồn lạc quan yêu đời, một niềm khát khao cuộc sống vô bờ.
=> Đọc những vần thơ của ông, người đọc trân trọng hơn, yêu hơn một tâm
hồn nghệ sĩ, một tình yêu quê hương, đất nước đến vô ngần.
2. Cảm xúc của nhà thơ về mùa xuân đất nước:
Khi xưa, trong đêm đen của kiếp sống nô lệ, nhà thơ Tố Hữu –một người con xứ
Huế đã từng viết:
Tôi nện gót trên đườngphố Huế
Dửng dưng không một cảm tình chi
Không gian sặc sụa mùi ô uế
Như nước dòng Hương mải cuốn đi
Đó là Huế trong quá khứ nô lệ đen tối, lầm than. Thời nay,trong hiện tại, Huế đã
đổi khác, đang hối hả nhịp chiến đấu, xây dựng cùng đấtnước:
Mùa xuân người cầmsúng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao…
- Không phải ngẫu nhiên trong khổ thơ lại xuất hiện hình ảnh“người cầm súng”
và “người ra đồng”. Họ là những con người cụ thể, những con người làm nên lịch sử
với hai nhiệm vụ cơ bản của đất nước ta trong suốt quá trình phát triển lâu dài: chiến
đấu và sản xuất, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.
- Mùa xuân đến mang đến tiếng gọi của những cố gắng mới và hi vọng mới,
mang đến tiếng gọi của đất nước, của quê hương đang trên đà đổi thay, phát triển.
Những tiếng gọi lặng lẽ tới từ mùa xuân làm thức dậy con người, làm trái tim con
người như bừng lên rạng rỡ trong không khí sôi nổi của đất nước, của muôn cây cỏ đã
đi theo người lính vào chiến trường, sát kề vai,đã cùng người lao động hăng say ngoài
đồng ruộng.

97
- Mùa xuân không những chắp thêm đôi cánh sức mạnh cho conngười mà còn
chuẩn bị cho con người những “lộc” non tươi mới, căng tràn nhựasống:
+ “Lộc” không chỉ là hình ảnh tả thực mà con mang ý nghĩa ẩn dụ, tượng trưng.
+ “Lộc” là nhành non chồi biếc của cỏ cây trong mùa xuân.
+ Đối với người chiến sĩ, “lộc” là cành lá ngụy trang che mắt quân thù trong cuộc
chiến đấu bảo vệ Tổ quốc đầy cam go và ác liệt.
+ Đối với người nông dân “một nắng hai sương”, “lộc” là những mầm xuân tươi
non trải dài trên ruộng đồng bát ngát, báo hiệu một mùa bội thu.
+ Nhưng đặc biệt hơn cả, “lộc” là sức sống, là tuổi trẻ, sức thanh xuân tươi mới
đầy mơ ước, lí tưởng, đầy những hoài bão và khát vọng cống hiến của tuổi trẻ, sôi nổi
trong mỗi tâm hồn con người – tâm hồn của người lính dũng cảm, kiên cường nơi lửa
đạn bom rơi – tâm hồn của người nông dân cần cù, hăng say tăng gia sản xuất. “Lộc”
chính là thành quả hôm nay và niềm tin, hivọng ngày mai.
- Từ những suy nghĩ rất thực về đất nước, nhà thơ khái quát:
Tất cả như hồi hả
Tất cả như xôn xao
+ Điệp ngữ “tất cả”, các từ láy biểu cảm “hối hả”, “xôn xao”, nhịp thơ nhanh =>
nhà thơ đã khái quát được cả một thời đại của dân tộc.
+ “Hối hả” diễn tả nhịp điệu khẩn trương, tất bật của những con người Việt Nam
trong giai đoạn mới, thời đại mới, trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.
+ Còn “xôn xao” lại bộc lộ tâm trạng náo nức rộn ràng.
-> Ý thơ khẳng định một điều: không chỉ cá nhân nào vội vã mà cả đất nước
đang hối hả, khẩn trương sản xuất và chiến đấu. Tất cả đều náo nức, rộn ràng
trong mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên, của đất nước.
-> Thanh Hải đã rất lạc quan, say mê và tin yêu khi viết nên những vần thơ
này.
- Xúc cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước khi bước vào mùa xuân, nhà thơ
Thanh Hải đã có cái nhìn sâu sắc và tự hào về lịch sử bốn nghìn năm dân tộc:
“Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”
+ Với nghệ thuật nhân hóa, Tổ quốc như một người mẹ tần tảo,vất vả và gian lao,
đã làm nổi bật sự trường tồn của đất nước. Để có được sự trường tồn ấy, giang sơn
gấm vóc này đã thấm bao máu, mồ hôi và cả nước mắt của các thế hệ, của những
tháng năm đằng đẵng lúc hưng thịnh, lúc thăng trầm. Nhưng dù trở lực có mạnh đến
đâu cũng không khuất phục được dân tộc Việt Nam:
“Sống vững chãi bốn nghìn năm sừng sững
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”.
( Huy Cận)
+ Đặc biệt, phép tu từ so sánh được nhà thơ sử dụng vô cùng đặc sắc, làm ý thơ
hàm súc –“Đất nước như vì sao/Cứ đi lên phía trước”. Sao là nguồn sáng bất diệt của
thiên hà, là vẻ đẹp lung linh của bầu trời đêm, là hiện thân của sự vĩnh hằng trong vũ
trụ. So sánh như thế, là tác giả đã ngợi ca đất nước trường tồn, tráng lệ, đất nước đang
hướng về một tương lai tươi sáng. Điệpngữ “đất nước” được nhắc lại hai lần thể hiện
sâu sắc ý thơ: trải qua những gian truân, vất vả, đất nước vẫn toả sáng đi lên không gì
có thể ngăn cản được.

98
=> Ta cảm nhận được niềm tin tưởng của tác giả vào tương lai rạng ngời
của dân tộc Việt Nam. Âm thanh mùa xuân đất nước vang lên từ chính cuộc sống
vất vả, gian lao mà tươi thắm đến vô ngần.
3. Lời ước nguyện chân thành, tha thiết của nhà thơ.
- Từ những cảm xúc về mùa xuân, tác giả đã chuyển mạch thơ một cách tự nhiên
sang bày tỏ những suy ngẫm và tâm niệm của mình về lẽ sống,về ý nghĩa giá trị của
cuộc đời mỗi con người:
“ Ta làm con chim hót
Ta làm một cànhhoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến”.
+ Để bày tỏ lẽ sống của mình, ngay từ những câu thơ mở đầu đoạn, Thanh Hải đã
đem đến cho người đọc cái giai điệu ngọt ngào, êm ái của những thanh bằng liên tiếp
“ta”-“hoa”-“ca”.
+ Điệp từ “ta” được lặp đi lặp lại thể hiện một ước nguyện chân thành, thiết tha.
+ Động từ “làm”-“nhập” ở vai trò vị ngữ biểu lộ sự hoá thân đến diệu kỳ - hoá
thân để sống đẹp, sống có ích.
+ Nhà thơ đã lựa chọn những hình ảnh đẹp của thiên nhiên, của cuộc sống để bày
tỏ ước nguyện: conchim, một cành hoa, một nốt trầm. Còn gì đẹp hơn khi làm một
cành hoa đem sắc hương tô điểm cho mùa xuân đất mẹ!Còn gì vui hơn khi được làm
con chim nhỏ cất tiếng hót rộn rã làm vui cho đời!
+ Các hình ảnh bông hoa, tiếng chim đã xuất hiện trong cảm xúc của thi nhân về
mùa xuân thiên nhiên tươi đẹp, giờ lại được sử dụng để thể hiện lẽ sống của mình. Một
ý nghĩa mới đã mở ra, đó là mong muốn được sống có ích, sống làm đẹp cho đời là lẽ
thường tình.
+ Cái “tôi”của thi nhân trong phần đầu bài thơ giờ chuyển hoá thành cái “ta”. Có
cả cái riêng và chung trong cái “ta” ấy. Với cách sử dụng đại từ này, nhà thơ đã khẳng
định giữa cá nhân và cộng đồng, giữa cái riêng và cái chung.
+ Hình ảnh “nốt trầm”và lặp lại số từ “một” tác giả cho thấy ước muốn tha thiết,
chân thành của mình. Không ồn ào, cao giọng, nhà thơ chỉ muốn làm “một nốt trầm”
nhưng phải là“một nốt trầm xao xuyến” để góp vào bản hoà ca chung. Nghĩa là nhà
thơ muốn đem phần nhỏ bé của riêng mình để góp vào công cuộc đổi mới và đi lên của
đất nước.
-> Đọc đoạn thơ, ta xúc động trước ước nguyện của nhà thơ xứ Huế và cũng
là ước nguyện của nhiều người.
- Lẽ sống của Thanh Hải còn được thể hiện trong những vần thơ sâu lắng:
“ Một mùa xuân nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.”
+ Cách sử dụng ngôn từ của nhà thơ Thanh Hải rất chính xác,tinh tế và gợi cảm.
Làm cành hoa, làm con chim,làm nốt trầm và làm một mùa xuân nho nhỏ để lặng lẽ
dâng hiến cho cuộc đời.
+ “Mùa xuân nho nhỏ” là một ẩn dụ đầy sáng tạo, biểu lộ một cuộc đời đáng yêu,
một khát vọng sống cao đẹp. Mỗi người hãy làm một mùa xuân, hãy đem tất cả những
gì tốt đẹp, tinh tuý của mình, dẫu có nhỏ bé để góp vào làm đẹp cho mùa xuân đất
nước.

99
+ Cặp từ láy “nho nhỏ”, “lặng lẽ” cho thấy một thái độ chân thành, khiêm
nhường, lấy tình thương làm chuẩn mực cho lẽ sống đẹp, sống để cống hiến đem tài
năng phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân.
-> Không khoe khoang, cao điệu mà chỉ lặng lẽ âm thầm dâng hiến.Ý thơ thể
hiện một ước nguyện, một khát vọng, một mục đích sống. Biết lặng lẽ dâng đời, biết
sống vì mọi người cũng là cách sống mà nhà thơ Tố Hữu đã viết:
“Nếu là con chim chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh,
Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”.
Nhớ khi xưa, Ức Trai tiên sinh đã từng tâm niệm:
“Bui một tấc lòng trung lẫn hiếu
Mài chăng khuyết,nhuộm chăng đen”.
Còn bây giờ, Thanh Hải – nhà thơ xứ Huế trước khi về với thế giới “người hiền”
cũng đã ước nguyện: “Lặng lẽ dâng cho đời/Dù là tuổi hai mươi/Dù là khi tóc bạc”.Lời
ước nguyện thật thuỷ chung, son sắt. Sử dụng điệp ngữ “dù là” nhắc lại hai lần như
tiếng lòng tự dặn mình đinh ninh: dẫu có ở giai đoạn nào của cuộc đời, tuổi hai mươi
tràn đầy sức trẻ, hay khi đã già,bệnh tật thì vẫn phải sống có ích cho đời, sống làm đẹp
cho đất nước.
-> Đây là một vấn đề nhân sinh quan nhưng đã được chuyển tải bằng
những hình ảnh thơ sáng đẹp, bằng giọng thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ, thiết tha. Vì
vậy, mà sức lan tỏa của nó thật lớn.
=> Như trên đã nói, bài thơ được viết vào thời gian cuối đời, trước khi nhà
thơ đi vào cõi vĩnh hằng, nhưng trong bài thơ không hề gợi chút băn khoăn về
bệnh tật, về những suy nghĩ riêng tư cho bản thân. Chỉ “lặng lẽ” mà cháy bỏng
một nỗi khát khao được dâng những gì đẹp đẽ nhất của cuộc đời mình cho đất
nước. Đây không phải là câu khẩu hiệu của một thanh niên vào đời mà là lời tâm
niệm của một con người đã từng trải qua hai cuộc chiến tranh, đã cống hiến trọn
vẹn cuộc đời và sự nghiệp của mình cho cách mạng. Điều đó càng làm tăng thêm
giá trị tư tưởng của bài thơ.
4. Lời ngợi ca quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế.
- Bài thơ kết thúc bằng sự trở về với những cảm xúc thiết tha, tự hào về quê
hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế.
Mùa xuân – ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.
+ Tác giả có nhắc đến những khúc dân ca xứ Huế “Nam ai”, “Nam bình”, có giai
điệu buồn thương nhưng vô cùng tha thiết.
+ Và qua những khúc “Nam ai”, “Nam bình” này thì nhà thơ đã bộc lộ tình yêu
tha thiết của mình đối với quê hương, đất nước; thể hiện niềm tin yêu vào cuộc đời,
vào đất nước với những giá trị truyền thống vững bền.
III. Tổng kết:
1. Nội dung:
Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất
nước, với cuộc đời; thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho
đất nước; góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc.
100
2. Nghệ thuật:
- Thể thơ năm chữ, gần với các làn điệu dân ca.
- Bài thơ giàu nhạc điệu, với âm hưởng nhẹ nhàng, tha thiết.
- Kết hợp những hình ảnh tự nhiên, giản dị, từ thiên nhiênvới những hình ảnh
giàu ý nghĩa biểu tượng, khái quát.
- Cấu tứ chặt chẽ, sự phát triển tự nhiên của hình ảnh mùa xuân với các phép tu
từ đặc sắc.

BÀI THAM KHẢO


Mùa xuân là để tài bất tận của thơ ca. Song, cái cảm nhận về mùa xuân của các
nhà thơ theo thời gian có nhiều thay đổi. Đối với Mãn Giác Thiền sư, một cao tăng nổi
tiếng thời Lý, mùa xuân mang một tính triết lý sâu sắc
“Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai”
Còn đối với những nhà thơ trước cách mạng, mùa xuân gợi lên một nét sầu cảm:
“Tôi có chờ đâu, có đợi đâu,
Mang chi xuân đến gợi thêm sầu.” (Chế Lan Viên)
Nhưng đối với nhà thơ Thanh Hải, mùa xuân mang một nét đẹp đáng yêu tươi
thắm; gợi lên trong lòng người đọc nhiều hình ảnh rạo rực tươi trẻ. Vì thế, mùa xuân
trong thơ của TH là biểu tượng cho sức sống mạnh mẽ của quê hương, dân tộc. Tất cả
đã được thể hiện rõ nét trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, một bài thơ đặc sắc được
nhà thơ viết không lâu trước khi qua đời.
Người xưa có câu: “Thi trung hữu họa”. Thơ ca vẽ nên những bức tranh tuyệt
đẹp của cuộc sống. Mở đầu bài thơ, TH đã phác họa nên một bức tranh xuân giản dị
mà tươi đẹp:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chim mà vang trời”
“Dòng sông xanh” gợi nhắc hình ảnh những khúc sông uốn lượn của dải đất miền
Trung quanh co, đó có thể là dòng sông Hương thơ mộng, một vẻ đẹp lắng đọng của
xứ Huế mộng mơ.Trên gam màu xanh lơ của dòng sông thơ mộng, nổi bật lên hình
ảnh “một bông hoa tím biếc”. Không có màu vàng rực rỡ của hoa mai, cũng không có
màu đỏ thắm của hoa đào, mùa xuân của TH mang một sắc thái bình dị với màu tím
biếc của bông hoa lục bình. Đây là một hình ảnh mang đậm bản sắc của cố đô Huế.
Không biết tự bao giờ màu tím đã trở thành màu sắc đặc trưng của con người và đất
trời xứ Huế. Màu tím biếc gợi nhớ hình ảnh những nữ sinh xứ Huế trong những bộ áo
dài màu tím dịu dàng thước tha. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ,
đưa động từ ” mọc” lên đầu câu như một cách để nhấn mạnh vẻ đẹp tươi trẻ, đầy sức
sống của mùa xuân thiên nhiên. Trong bức tranh mùa xuân của TH, không chỉ có hình
ảnh, mà còn có âm thanh xao xuyến, ngân nha của con chim chiền chiện. Tiếng chim
lảnh lót vang lên làm xao động cả đất trời, làm xao xuyến cả tâm hồn thi sĩ nhạy cảm
của nhà thơ. Những từ ngữ cảm thán “ơi, hót chi” đã thể hiện rõ nét cảm xúc của nhà
thơ. Mùa xuân của thiên nhiên đã đem đến cho nhà thơ một cảm giác ngây ngất. Mùa
xuân ấy không có gì khác lạ, vẫn là một mùa xuân rất giản dị trên quê hương xứ Huế
của nhà thơ. Nhưng nhà thơ bỗng nhận ra vẻ đẹp lạ kì của mùa xuân, một vẻ đẹp mà

101
bấy lâu nhà thơ không để ý. Phải chăng vì đây là lần cuối cùng được ngắm nhìn mùa
xuân quê hương nên nhà thơ cảm thấy mùa xuân ấy đẹp hơn, tươi sáng hơn?
Say sưa, ngây ngất trước vẻ đẹp giản dị và nên thơ của mùa xuân, nhà thơ bồi hồi
xúc động:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng:
“Giọt long lanh” là giọt mưa xuân, giọt nắng vàng hay giọt sương sớm? Theo
mạch cảm xúc của nhà thơ thì có lẽ đây là giọt âm thanh của tiếng chim ngân vang.
Bằng một cảm nhận tinh tế, nhà thơ đã hình tượng hóa tiếng chim thành một sự vật có
hình dáng, đây là một sự sáng tạo rất mới mẻ chỉ có thể có được nhờ tâm hồn nhạy
cảm của một thi sĩ. Như vậy, chỉ bằng ba nét vẽ: dòng sông xanh, bông hoa tím và
tiếng chim ngân vang khắp đất trời, nhà thơ đã phác họa nên một bức tranh xuân tuyệt
đẹp trên cố đô Huế.
Từ vẻ đẹp thanh khiết của mùa xuân thiên nhiên, nhà thơ liên hệ đến mùa xuân
của đất nước, mùa xuân của cách mạng:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ”
Bốn câu thơ mang cấu trúc song hành thể hiện rõ hai nhiệm vụ của nhân dân:
chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và sản xuất làm giàu nước nhà. Hai nhiệm vụ ấy đặt nặng
lên vai của người chiến sĩ – “người cầm súng” và người nông dân – “người ra đồng”.
Nét đặc sắc của đoạn thơ là việc sáng tạo hình ảnh “lộc”. “Lộc” là chồi non, cành biếc;
“lộc” còn tượng trưng cho sự may mắn, niềm an lành trong năm mới. Đối với người
chiến sĩ, “lộc” là cành lá ngụy trang che mắt quân thù. Đối với người nông dân, “lộc”
là những mầm mạ non trải dài trên đồng ruộng bát ngát, báo hiệu một mùa bội thu.
Người chiến sĩ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc sẽ đem về “lộc” là sự an lành niềm vui, niềm
tự hào chiến thắng cho dân tộc. Người nông dân gieo trồng lúa trên đồng ruộng sẽ đem
về “lộc” là những hạt gạo trắng ngần, những bát cơm ngon ngọt cho đồng bào cả nước.
Cả dân tộc bước vào xuân với khí thế khẩn trương và náo nhiệt:
“Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao…”
Bằng cách sử dụng từ láy “hối hả-xôn xao” cùng với điệp từ, tác giả đã mang đến
cho câu thơ một nét rộn ràng, nhộn nhịp. “Hối hả” nghĩa là vội vả, khẩn trương. “Xôn
xao” là có nhiều âm thanh trộn lẫn vào nhau, làm cho náo động. Từ những âm thanh
xôn xao và sự hối hả của con người, nhà thơ lại suy tư về sự phát triển của đất nước
qua bốn ngàn năm lịch sử:
“Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”
Chặng đường lịch sử của đất nước qua bốn ngàn năm trường tồn đã trải qua biết
bao thăng trầm, với bao nhiêu là “vất vả và gian lao”. So sánh đất nước với vì sao
sáng, nhà thơ đã thể hiện niềm tự hào đối với đất nước và dân tộc. Sao là nguồn sáng
bất diệt, là vẻ đẹp vĩnh hằng trong không gian và thời gian. Ngôi sao sáng đã trở thành
vẻ đẹp lộng lẫy trên lá cờ VIệt Nam, trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp ngời sáng của
con người và đất nước Việt Nam. Đất nước vẫn không ngừng phát triển, vẫn “cứ đi lên

102
phía trước” để sánh vai cùng các cường quốc năm châu trên thế giới. Đoạn thơ thể
hiện ý chí vươn lên không ngừng của con người và dân tộc Việt Nam.
Trong không khí tưng bừng của đất nước vào xuân, nhà thơ cảm nhận được một
mùa xuân tươi trẻ, rạo rực trỗi dậy trong tâm hồn. Đó là mùa xuân của lòng người,
mùa xuân của sức sống tươi trẻ, mùa xuân của sự cống hiến và hòa nhập:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến”
Nhịp thơ dồn dập và điệp từ “ta làm” diễn tả rõ nét khát vọng cống hiến của nhà
thơ. Nhà thơ muốn làm một con chim, muốn làm một nhành hoa thắm trong vườn hoa
xuân để dâng tiếng hót tha thiết, để tỏa hương sắc tô điểm cho mùa xuân đất nước.
“Nốt trầm” là nốt nhạc tạo nên sự lắng đọng sâu xa trong một bản nhạc. Trong cái
không khí tưng bừng của ngày hội mùa xuân, nhà thơ muốn làm một nốt nhạc trầm để
góp vào khúc ca xuân của dân tộc một chút vấn vương, xao xuyến. Từ khát vọng hòa
nhập, nhà thơ thể hiện rõ hơn khát vọng cống hiến của mình ở những câu thơ tiếp theo:
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”
“Mùa xuân nho nhỏ” là cách nói ẩn dụ đầy sáng tạo của nhà thơ. Mỗi con người
đều có thể góp một phần công sức của mình như “một mùa xuân nho nhỏ” để tô hương
thêm sắc cho quê hương đất nước. “Dâng” là một hành động cống hiến, cho đi mà
không dòi hỏi sự đền đáp. Phép đảo ngữ nhằm nhấn mạnh khát vọng cống hiến chân
thành của nhà thơ. Nhà thơ muốn góp công sức của mình trong công cuộc xây dựng
đất nước nhưng chỉ với một thái độ hết sức khiêm tốn, không khoa trương mà chỉ
“lặng lẽ”, âm thầm nhưng lại là toàn tâm toàn ý, như nhà thơ Tố Hữu đã khẳng định:
“Lẽ nào cho vay mà không trả
Sống là cho đâu chỉ nhân riêng mình.”
Điệp từ “dù là” được điệp lại hai lần thể hiện rõ sự tự tin, bất chấp thời gian và
tuổi tác của nhà thơ. Qua khổ thơ, nhà thơ đã nhấn mạnh một ý nghĩa hết sức sâu sắc:
nhiệm vụ cống hiến xây dựng đất nước là của mọi người và là mãi mãi. Không ai là
không có nghĩa vụ xây dựng đất nước, và nghĩa vụ ấy kéo dài cả một đời người, từ tuổi
đôi mươi cho đến khi đầu đã điểm bạc theo năm tháng. Đây là lời kêu gọi mọi người
cùng chung vai gánh vác công việc xây dựng và phát triển đất nước, để đất nước có thể
vững vàng mà tiếp tục “đi lên phía trước”.
Khổ thơ cuối là tiếng hát yêu thương nhà thơ ban tặng cho đất nước và dân tộc,
như một sự hiến dâng cuối cùng cho quê hương đất nước:
“Mùa xuân-ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế”
Trong những ngày cuối cùng của cuộc đời, TH muốn hát lại hai làn điệu dân ca
quen thuộc của quê hương xứ Huế. Có lẽ trong những ngày tháng nằm trên giường
bệnh, khi bị tử thần rình rập, nhà thơ lại thấy quê hương của mình đẹp hơn, bản sắc
quê hương mình cũng đáng tự hào hơn. Đây cũng là cách để nhà thơ thể hiện tình yêu
quê hương, nguồn cội. Đoạn thơ cho ta thấy rõ nhà thơ rất yêu mến quê hương thơ
103
mộng của mình, có lẽ cũng từ đó mà nhà thơ có thể mở rộng tình cảm để yêu mến đất
nước, mới có thể cống hiến cả cuộc đời cho nước nhà. Bởi lẽ, chỉ có những người biết
yêu thương quê hương xóm làng thì mới có thể mở rộng lòng mình để yêu mến đất
nước dân tộc.
Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được viết theo thể thơ năm tiếng, với cấu trúc gồm
bảy khổ, mỗi khổ từ bốn đến sáu câu. Những hình ảnh ẩn dụ sáng tạo, biện pháp nhân
hóa, điệp ngữ và những từ ngữ tượng hình được sử dụng thành công đã tạo nên nét đặc
sắc của bài thơ. Qua đó, ta có thể cảm nhận được cái thi vị trong hồn thơ TH.
Tình yêu thiên nhiên, sự xúc động trước vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, mùa
xuân cách mạng và khát vọng cống hiến đã được TH gửi gắm qua bài thơ “mùa xuân
nho nhỏ”. Tuy là tác phẩm được viết không lâu trước khi nhà thơ qua đời nhưng bài
thơ vẫn để lại trong lòng bao thế hệ bạn đọc những cảm xúc sâu lắng khó phai mờ. Và,
Bài thơ vẫn sẽ tiếp tục trường tồn cùng với những bước đi lên của đất nước, gợi nhắc
cho những thế hệ trẻ một cách sống đẹp: góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào
mùa xuân lớn của dân tộc, để đất nước ta sẽ mãi tươi đẹp như trong tiết xuân. Thế mới
biết, cuộc đời của con người thì có hạn những những giá trị tinh thần mà con người để
lại cho đời sau thì có giá trí vĩnh hằng.

NÓI VỚI CON


Y Phương
I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả:
- Y Phương là nhà thơ dân tộc Tày.
- Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng,cách tư duy giàu
hình ảnh của người miền núi.
2. Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sángtác:
- Bài thơ ra đời vào năm 1980 – khi đời sống tinh thần vàvật chất của nhân dân
cả nước nói chung, nhân dân các dân tộc thiểu số ở miền núi nói riêng vô cùng khó
khăn, thiếu thốn.
- Nhà thơ tâm sự: “Đó là thời điểm đất nước ta gặp vô vàn khó khăn… Bài thơ là
lời tâm sự của tôi với đứa con gái đầu lòng. Tâm sự với con, còn là tâm sự với chính
mình. Nguyên do thì nhiều, nhưng lí do lớn nhất để bài thơ ra đời chính là lúc tôi
dường như không biết lấy gì để vịn, để tin. Cả xã hội lúc bấy giờ đang hối hả, gấp gáp
kiếm tìm tiền bạc. Muốn sống đàng hoàng như một con người, tôi nghĩ phải bám vào
văn hóa. Phải tin vào những giá trị tích cực, vĩnh cửu của văn hóa. Chính vì thế, qua
bài thơ ấy, tôi muốn nói rằng chúng ta phải vượt qua sự ngặt nghèo, đói khổ bằng văn
hóa”.
-> Từ hiện thức khó khăn ấy, nhà thơ viết bài thơ này để tâm sự với chính mình,
động viên mình, đồng thời để nhắc nhở con cái sau này.
b. Bố cục: 2 phần:
- Phần 1: Từ đầu đến “Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”:Người cha nói với con
cội nguồn sinh dưỡng: Con lớn lên trong tình yêu thương, sự nâng đỡ của cha mẹ,
trong cuộc sống lao động nên thơ của quê hương.
- Phần 2: Còn lại: Đức tính tốt đẹp của người đồng mình.=> Người cha bộc lộ
lòng tự hào về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ, về truyền thống cao đẹp của quê hương và
mong ước con hãy kế tục xứng đáng truyền thống ấy.

104
=> Bố cục chặt chẽ, lớp lang, đi từ tình cảm gia đình mà mở rộng ra tình
cảm quê hương, từ những kỉ niệm gần gũi mà nâng lên thành lẽ sống.
II – Đọc – hiểuvăn bản:
1. Cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người.
- Đến với bài thơ, ta thấy điều đầu tiên Y Phương muốn nóivới con chính là cội
nguồn sinh dưỡng mỗi con người – tình yêu thương vô bờ bến mà cha mẹ dành cho
con – tình gia đình:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếngnói
Hai bước tới tiếngcười.
+ Nhịp thơ 2/3, cấu trúc đối xứng, nhiều từ được láy lại,tạo ra một âm điệu tươi
vui, quấn quýt: “chân phải” – “chân trái”, rồi “một bước” – “hai bước”, rồi lại “tiếng
nói” – “tiếng cười”….
+ Bằng những hình ảnh cụ thể, giàu chất thơ kết hợp với nét độc đáo trong tư
duy, cách diễn đạt của người miền núi, bốn câu thơ mở ra khung cảnh một gia đình ấm
cúng, đầy ắp niềm vui, đầy ắp tiếng nói cười.
+ Lời thơ gợi vẽ ra trước mắt người đọc hình ảnh em bé đang chập chững tập đi,
đang bi bô tập nói, lúc thì sa vào lòng mẹ, lúc thì níu lấy tay cha.
+ Ta có thể hình dung được gương mặt tràn ngập tình yêu thương, ánh mắt long
lanh rạng rỡ cùng với vòng tay dang rộng của cha mẹ đưa ra đón đứa con vào lòng.
+ Từng câu, từng chữ đều toát lên niềm tự hào và hạnh phúc tràn đầy.Cả ngôi
nhà như rung lên trong “tiếng nói”, “tiếng cười” của cha, của mẹ. Mỗi bước con đi,
mỗi tiếng con cười đều được cha mẹ đón nhận, chăm chút mừng vui. Trong tình yêu
thương, trong sự nâng niu của cha mẹ, con lớn khôn từng ngày.
-> Tình cha mẹ - con cái thiêng liêng, sâu kín, mối dây ràng buộc, gắn kết gia
đình bền chặt đã được hình thành từ những giây phút hạnh phúc bình dị, đáng nhớ ấy.
Lời thơ ngay từ đầu đã chạm đến sợi dây tình cảm gia đình sâu kín của mỗi con người
nên tạo được sự đồng cảm, rung động sâu sắc đến độc giả.
- Cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người được Y Phương nói đến không chỉ là
gia đình mà còn là quê hương, là thiên nhiên tươi đẹp và thấm đượm nghĩa tình. Như
bầu sữa tinh thần thứ hai, quê hương với cuộc sống lao động, với thiên nhiên tươi đẹp,
tình nghĩa đã nuôi dưỡng, sẻ chia giúp cho con trưởng thành. Đó là:
Người đồng mình yêu lắm, con ơi!
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát.
+ Quê hương hiện ra qua hình ảnh của người đồng mình. Nói với con về những
“người đồng mình”, nhà thơ như đang giới thiệu ân cần đây là những người bản mình,
người vùng mình, người dân quê mình gần gũi, thân thương.
-> Cách gọi như thế, cùng với hô ngữ “con ơi” khiến lời thơ trở nên tha thiết, trìu
mến.
+ Người đồng mình là những con người đáng yêu, đáng quý:“Đan lờ cài nan hoa
– Vách nhà ken câu hát”. Cuộc sống lao động cần cù và tươi vui của họ được gợi ra
qua những hình ảnh thật đẹp! Những nan nứa, nan tre dưới bàn tay tài hoa của người
quê mình đã trở thành “nan hoa”. Vách nhà không chỉ ken bằng tre, gỗ mà còn được
ken bằng những câu hát si, hát lượn.

105
+ Các động từ “cài”, “ken” vừa miêu tả chính xác động tác khéo léo trong lao
động vừa gợi sự gắn bó, quấn quýt của những con người quê hương trong cuộc sống
lao động.
-> Cái “yêu lắm” của “người đồng mình” là gì nếu không phải là cốt cách tài hoa,
là tinh thần vui sống? Phải chăng, ẩn chứa bên trong cái dáng vẻ thô mộc là một tâm
hồn phong phú, lãng mạn biết bao?
+ Quê hương với những con người tài hoa, tâm hồn lãng mạn,cũng là quê hương
với thiên nhiên thơ mộng, nghĩa tình:
Rừng cho hoa
Con đường cho nhữngtấm lòng.
Nếu như hình dung về một vùng núi cụ thể, chắc hẳn mỗi người có thể gắn nó
với những hình ảnh khác cách nói của Y Phương: là thác lũ, là bạt ngàn cây hay rộn rã
tiếng chim thú hoặc cả những âm thanh “gió gào ngàn, giọng nguồn thét núi”, những
bí mật của rừng thiêng….. Nhưng Y Phương chỉ chọn một hình ảnh thôi, hình ảnh
“hoa” để nói về cảnh quan của rừng. Nhưng hình ảnh ấy có sức gợi rất lớn, gợi về
những gì đẹp đẽ và tinh tuý nhất. Hoa trong “Nói với con” có thể là hoa thực - như
một đặc điểm của rừng - và khi đặt trong mạch của bài thơ, hình ảnh này là một tín
hiệu thẩm mĩ góp phần diễn đạt điều tác giả đang muốn khái quát: chính những gì đẹp
đẽ của quê hương đã hun đúc nên tâm hồn cao đẹp của con người ở đó. Quê hương
còn hiện diện trong những gì gần gũi, thân thương. Đó cũng chính là một nguồn mạch
yêu thương vẫn tha thiết chảy trong tâm hồn mỗi người, bởi “con đường cho những
tấm lòng”. Điệp từ “cho” mang nặng nghĩa tình. Thiên nhiên đem đến cho con người
những thứ cần để lớn, giành tặng cho con người những gì đẹp đẽ nhất.Thiên nhiên đã
che chở, nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn và lối sống.
-> Bằng cách nhân hoá “rừng” và “con đường” qua điệp từ “cho”, người đọc có
thể nhận ra lối sống tình nghĩa của “người đồng mình”. Quê hương ấy chính là cái nôi
để đưa con vào cuộc sống êm đềm.
- Sung sướng ôm con thơ vào lòng, người cha nói với con về kỉ niệm có tính chất
khởi đầu cho hạnh phúc gia đình:
Cha mẹ mãi nhớ về ngàycưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.
=> Mạch thơ có sự đan xen, mở rộng: từ tình cảm gia đình mà nói tới quê
hương.
=> Đoạn thơ vừa là một lời tâm tình ấm áp, vừa là một lời dặn dò đầy tin
cậy của người cha trao gửi tới con.
=> Bằng những hình ảnh thơ đẹp, giản dị bằng cách nói cụ thể, độc đáo mà
gần gũi của người miền núi, người cha muốn nói với con rằng:vòng tay yêu
thương của cha mẹ, gia đình, nghĩa tình sâu nặng của quê hương làng bản- đó là
cái nôi đã nuôi con khôn lớn, là cội nguồn sinh dưỡng của con. Con hãy khắc ghi
điều đó.
2. Đức tính tốt đẹp của người đồng mình.
- Trong cái ngọt ngào của kỉ niệm về gia đình và quê hương, người cha đã tha
thiết nói với con về những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình.
a. Người đồng mình biết lo toan và giàu mơ ước ( Giàu ý chí, nghị lực ).
- Người đồng mình không chỉ là những con người giản dị, tài hoa trong cuộc
sống lao động mà còn là những con người biết lo toan và giàu mơ ước:
Người đồng mình thương lắm con ơi!
Cao đo nỗi buồn
106
Xa nuôi chi lớn.
+ Nếu trên kia “ yêu lắm con ơi”– yêu cuộc sống vui tươi bình dị, yêu bản làng
thơ mộng, yêu những tấm lòng chân thật nghĩa tình, thì đến đây người cha nói “thương
lắm con ơi”– bởi sau từ “thương” đó là những những nỗi vất vả, gian khó của con
người quê hương -> Người cha biểu lộ tình cảm yêu thương chân thành về gian truân,
thử thách cùng ý chí mà người đồng mình đã trải qua.
+ Bằng cách tư duy độc đáo của người miền núi, Y Phương đã lấy cái cao vời vợi
của trời để đo nỗi buồn, lấy cái xa của đất để đo ý chí con người.
+ Sắp xếp tính từ “cao”, “xa” trong sự tăng tiến, nhà thơ cho thấy khó khăn, thử
thách càng lớn thì ý chí con người càng mạnh mẽ.
=> Có thể nói, cuộc sống của người đồng mình còn nhiều nỗi buồn, còn nhiều
bộn bề thiếu thốn song họ sẽ vượt qua tất cả, bởi họ có ý chí và nghị lực, họ luôn tin
tưởng vào tương lai tốt đẹp của dân tộc.
b. Người đồng mình dù sống trong nghèo khổ, gian nan vẫn thủy chung gắn
bó với quê hương, cội nguồn.
Sống trên đá không chê đá gập gềnh
Sống trong thung khôngchê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
+ Phép liệt kê với những hình ảnh ẩn dụ “đá gập gềnh”,“thung nghèo đói” -> gợi
cuộc sống đói nghèo, khó khăn, cực nhọc.
+ Vận dụng thành ngữ dân gian “Lên thác xuống ghềnh”, ý thơ gợi bao nỗi vất
vả, lam lũ.
-> Những câu thơ dài ngắn, cùng những thanh trắc tạo ấn tượng về cuộc sống trắc
trở, gian nan, đói nghèo của quê hương.
+ Điệp ngữ “sống”, “không chê” và điệp cấu trúc câu cùng hình ảnh đối xứng đã
nhấn mạnh: người đồng mình có thể nghèo nàn, thiếu thốn về vật chất nhưng họ không
thiếu ý chí và quyết tâm. Người đồng mình chấp nhận và thủy chung gắn bó cùng quê
hương, dẫu quê hương có đói nghèo, vất vả. Và phải chăng, chính cuộc sống nhọc
nhằn, đầy vất vả khổ đau ấy đã tôi luyện cho chí lớn để rồi tình yêu quê hương sẽ tạo
nên sức mạnh giúp họ vượt qua tất cả.
+ Phép so sánh “Sống như sông như suối” gợi vẻ đẹp tâm hồn và ý chí của người
đồng mình. Gian khó là thế, họ vẫn tràn đầy sinh lực, tâm hồn lãng mạn, khoáng đạt
như hình ảnh đại ngàn của sông núi. Tình cảm của họ trong trẻo, dạt dào như dòng
suối, con sống trước niềm tin yêu cuộc sống, tin yêu con người.
c. Người đồng mình có ý thức tự lập, tự cường và tinh thần tự tôn dân tộc:
- Phẩm chất của người của con người quê hương còn được người cha ca ngợi
qua cách nói đối lập tương phản giữa hình thức bên ngoài và giá trị tinh thần bên
trong, nhưng rất đúng với người miền núi:
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
+ Lời thơ mộc mạc, giản dị nhưng chứa bao tâm tình.
+ Cụm từ “thô sơ da thịt” là cách nói bằng hình ảnh cụ thể của bà con dân tộc
Tày, ngợi ca những con người mộc mạc, giản dị, chất phác, thật thà, chịu thương, chịu
khó.
+ Cụm từ “chẳng nhỏ bé” khẳng định sự lớn lao của ý chí, của nghị lực, cốt cách
và niềm tin.
107
-> Sự tương phản này đã tôn lên tầm vóc của người đồng mình. Họ mộc mạc
nhưng giàu chí khí, niềm tin. Họ có thể “thô sơ da thịt” nhưng không hề nhỏ bé về tâm
hồn, về ý chí, về mong ước xây dựng quê hương:
- Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.
+ Lối nói đậm ngôn ngữ dân tộc – độc đáo mà vẫn chứa đựng ý vị sâu xa.
+ Hình ảnh “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương” vừa mang tính tả
thực ( chỉ truyền thống làm nhà kê đá cho cao của người miền núi),vừa mang ý nghĩa
ẩn dụ sâu sắc.
+ Người đồng mình bằng chính bàn tay và khối óc, bằng sức lao động đã xây
dựng và làm đẹp giàu cho quê hương, xây dựng để nâng tầm quê hương.
+ Còn quê hương là điểm tựa tinh thần với phong tục tập quán nâng đỡ những
con người có chí khí và niềm tin.
-> Câu thơ đã khái quát về tinh thần tự tôn dân tộc, về ý thức bảo vệ nguồn cội,
bảo tồn những truyền thống quê hương tốt đẹp của người đồng mình.
- Khép lại đoạn thơ bằng âm hưởng của một lời nhắn nhủ trìu mến với biết bao
niềm tin hi vọng của người cha đặt vào đứa con yêu:
Con ơi tuy thô sơ dat hịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.
+ Ý thơ “Tuy thô sơ da thịt” và “không bao giờ nhỏ bé” được lặp lại với bốn câu
thơ trước đó càng trở nên da diết, khắc sâu trong lòng con về những phẩm chất cao đẹp
của “người đồng mình”. Nhưng hai tiếng “Lên đường” cho thấy người con đã lớn khôn
và tạm biệt gia đình – quê hương để bước vào một trang đời mới.
+ Trong hành trang của người con mang theo khi “lên đường”có một thứ quí giá
hơn mọi thứ trên đời, đó là ý chí, nghị lực, truyền thống quê hương. Lời dặn của cha
thật mộc mạc, dễ hiểu, thấm thía, ẩn chứa niềm hi vọng lớn lao của cha, hi vọng đứa
con sẽ tiếp tục vững bước trên đường đời, tiếp nối truyền thống và làm vẻ vang quê
hương.
+ Hai tiếng “Nghe con” lắng đọng bao cảm xúc, ẩn chứa tình yêu thương vô bờ
bến của cha dành cho con. Câu thơ còn gợi ra một cảnh tượng cảm động đang diễn ra
lúc chia li: cha hiền từ âu yếm nhìn con, xoa đầu con và người con ngoan ngoãn cúi
đầu lắng nghe lời cha dặn.
=> Ca ngợi những đức tính tốt đẹp của người đồng mình, cha mong con
sống có tình nghĩa với quê hương, phải giữ đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” của
cha ông từ bao đời để lại. Hơn nữa, con phải biết chấp nhận gian khó và vươn lên
bằng ý chí của mình.
=> Người cha muốn con hiểu và cảm thông với cuộc sống khó khăn của quê
hương, tự hào về truyền thống quê hương, tự hào về dân tộc để vững bước trên
con đường đời, để tự tin trong cuộc sống.
=> Người cha trong bài thơ của Y Phương đã vun đắp cho con một hành
trang quí vào đời. Nếu mẹ là bông hoa cho con cài lên ngực thì cha là cánh chim
cho con bay thật xa. Nếu mẹ cho con những lời ngọt ngào yêu thương vỗ về thì
cha cho con tinh thần ý chí nghị lực, ước mơ khát vọng, lối sống cao đẹp.
=> Giọng thơ thiết tha, trìu mến nhưng lại trang nghiêm. Các hình ảnh thơ
cụ thể mà có tính khái quát, mộc mạc mà vẫn giàu chất thơ.

108
=> Đoạn thơ chứa chan ý nghĩa, mộc mạc, đằm thắm mà sâu sắc. Nó tựa
như một khúc ca nhẹ nhàng mà âm vang. Lời thơ tâm tình của người cha sẽ là
hành trang đi theo con suốt cuộc đời và có lẽ mãi mãi là bài học bổ ích cho các
bạn trẻ - bài học về niềm tin, nghị lực, ý chí vươn lên.
III. Tổng kết:
“Nói với con”, Y Phương không chỉ sắp xếp hành trang cho riêng đứa con yêu
quí của mình, mà cũng là hành trang ông muốn trao gửi cho tất cả những ai đang bước
đi trên đường đời.
1. Nội dung:
Bài thơ thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức
sống mạnh mẽ của quê hương và dân tộc. Bài thơ giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ
đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, với
quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống,
2. Nghệ thuật:
- Thể thơ tự do.
- Bài thơ giản dị, với những hình ảnh vừa cụ thể vừa mang ý nghĩa biểu tượng,
giàu sắc thái biểu đạt và biểu cảm.
- Cách nói giàu bản sắc của người miền núi tạo nên một giọng điệu riêng cho lời
tâm tình mộc mạc mà sâu sắc của người cha đối với đứa con.

BÀI THAM KHẢO


Viết về tình cảm gia đình, niềm tự hào đối với quê hương và sự ước vọng của
mẹ cha dành cho con cái, muốn con khôn lớn trưởng thành là một trong những chủ đề
được trở đi trở lại nhiều lần trong suốt chiều dài nền văn học. Ta có thể bắt gặp hình
ảnh người mẹ Tà ôi địu con lên rẫy hát ru con thấm đượm nghĩa tình cách mạng trong
bài thơ "Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ" của Nguyễn Khoa Điềm hay đó
là hình ảnh người mẹ đưa nôi hát ru con với lời ru ngọt ngào, tha thiết trong bài thơ
"Con cò" của Chế Lan Viên... Mỗi nhà thơ, bằng sự trải nghiệm và tình cảm chân
thành xuất phát từ trái tim, hòa cùng những rung cảm mãnh liệt của nghệ thuật đã diễn
tả thật hay, thật độc đáo, mới mẻ về những tình cảm thiêng liêng, cao đẹp ấy. Y
Phương – một nhà thơ dân tộc Tày, với một phong cách thơ hồn nhiên, trong sáng,
chân thật, giàu hình ảnh cũng đã góp mình vào chủ đề đó qua bài thơ "Nói với con"
(1980). Bài thơ là lời tâm tình sẻ chia của người cha dành cho con với niềm hi vọng
người con sẽ tiếp nối, phát huy được những phẩm chất truyền thống cao đẹp, quí báu
của "người đồng mình", làm cho quê hương, dân tộc mình ngày một vững mạnh hơn.
Trước hết, mở đầu bài thơ là lời tâm tình của người cha nói với con về cội
nguồn sinh dưỡng: con lớn lên bởi tình yêu của cha mẹ và quê hương. Đầu tiên, người
cha nói về tình cảm gia đình – cái nôi đầu tiên nuôi dương người con khôn lớn trưởng
thành:
"Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười"
109
Bằng những hình ảnh cụ thể, giàu tính chất tạo hình " chân phải", "chân trái",
"tiếng nói", "tiếng cười", nhà thơ đã dựng lên trước mắt người đọc hình ảnh của một
em bé đang chập chững tập đi và bi bô tập nói bên cạnh cha mẹ. Từ đó, Y Phương gợi
tả được không khí gia đình thật ấm áp, hạnh phúc, tràn ngập tiếng cười nói của trẻ thơ.
Đồng thời nhà thơ đã cho người đọc thấy được từng bước đi, từng tiếng cười nói của
con đều được cha mẹ nâng niu, chăm sóc, mong chờ. Đó là tình cảm gia đình ruột thịt,
là công lao trời bể lớn lao và thiêng liêng mà cha mẹ dành cho con cái, muốn người
con luôn phải khắc cốt ghi tâm.
Bên cạnh tình cảm gia đình, người cha muốn nói cho con biết về cội nguồn
sinh dưỡng rộng lớn hơn đó là tình làng,quê hương nghĩa xóm:
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.
Với cách tư duy giàu hình ảnh của người miền núi, nhà thơ Y Phương đã miêu
tả thật chân thực, sinh động cuộc sống lao động thật nghĩa tình và thơ mộng của
"người đồng mình". "Người đồng mình" là để chỉ những người vùng mình, miền
mình, những người cùng sống trên một miền đất, quê hương, cùng dân tộc. Câu thơ sử
dụng từ ngữ hô gọi "con ơi" kết hợp với từ tình thái "yêu lắm" làm cho lời thơ trở nên
ngọt ngào, chan chứa niềm tự hào với tình yêu thương quê hương da diết. Cuộc sống
lao động cần cù và vui tươi của "người đồng mình" được gợi lên qua một số những
hình ảnh rất cụ thể, giàu sức gợi: "đan lờ" – dụng cụ đánh bắt cá của người dân miền
núi, dưới bàn tay khéo léo đã thành "cài nan hoa"; những ngôi nhà sàn không chỉ được
dựng lên bằng những tấm ván gỗ mà còn được tạo nên bởi những "câu hát" - chiều
văn hóa, lối sống của "người đồng mình". Những động từ "đan", "cài", "ken" vừa có
tác dụng diễn tả những động tác lao động; lại vừa cho thấy những phẩm chất cần cù,
chịu khó, yêu lao động, yêu cuộc sống, chan chứa niền vui của những bàn tay khéo
léo, tài hoa của người dân miền núi.
Cũng nói về quê hương, người cha còn nhắc tới "rừng núi" và những "con
đường" của "người đồng mình":
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.
Rừng không chỉ cho gỗ, cho măng tre mà còn cho cả "hoa". "Hoa" là sản phẩn
của thiên nhiên, là sự kết hợp những gì tinh túy nhất, đẹp đẽ nhất, lãng mạn nhất của
trời và đất mà rừng núi quê hương đã ban tặng cho con người nơi đây. Còn "con
đường" là sợi dây liên kết gắn bó, chặt chẽ của những "người đồng mình". Những
"con đường" ấy được tạo nên bởi những "tấm lòng" nhân hậu, bao dung. Đó là con
đường ra thung ra suối, con đường vào làng vào bản, con đường tới trường, tới lớp,
con đường ra ruộng, ra đồng... Chính những con đường đó đã gắn bó tình đoàn kết của
110
những con người nơi đây. Như vậy, thiên nhiên rừng núi không chỉ ban tặng cho con
người cái đẹp của tạo hóa mà còn che chở, nuôi dữơng con người cả về tâm hồn, lối
sống.
Từ tình cảm quê hương, người cha đột ngột chuyển sang nói với con về tình
cảm riêng tư của "ngày cưới":
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.
Không ít người đã thắc mắc về sự chuyển biến đột ngột này. Y Phương chia sẻ:
tình cảm của những đôi trai gái, của cha mẹ được nảy nở, bắt nguồn từ tình yêu đối
với quê hương, tình yêu đối với cuộc sống lao động. Như vậy, nhà thơ quan niệm: khi
con người sống gắn bó với quê hương, với lao động thì con người sẽ tìm được tình
yêu, hạnh phúc. Vì thế, người con từ đó được ra đời không chỉ là xuất phát từ sự kết
tinh tình yêu của cha mẹ mà còn xuất phát từ là tình cảm rộng lớn của quê hương. Và
quê hương đã cho con nghĩa tình, đã bao bọc, chở che con ngay từ khi bắt đầu con cất
tiếng khóc chào đời.
Từ việc nhặc lại cội nguồn sinh dưỡng ở khổ đàu, đến khổ hai, người cha tiếp
tục ngợi ca những đức tính cao đẹp của người đồng mình, gợi cho con lòng tự hào về
quê hương, dân tộc, dặn dò con cần phát huy và sống thật xứng đáng với truyền thống
của quê hương mình:
Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc.
Câu thơ đầu được điệp lại "Người đồng minh thương lắm con ơi" nhưng đã có
sự thay đổi chút ít. Nếu như câu thơ ở khổ đầu là "yêu" tức là xuất phát từ tình cảm
chân thành, từ trái tim tha thiết thì đến câu thơ ở khổ hai này lại là: "thương".
"Thương" là một trạng thái tình cảm không chỉ xuất phát từ trái tim yêu thương chân
thành nữa mà còn gói gém cả sự sẻ chia, đồng cảm ở trong lòng. Chính vì thế, "người
đồng mình" – những con người cùng miền đất, quê hương, dân tộc cùng chí hướng đã
đoàn kết, gắn bó, sẻ chia và đồng cảm với nhau mà dựng xây quê hương mình trở nên
ngày một giàu đẹp hơn.
Hai câu tiếp: Sức sống bền bỉ, mạnh mẽ, kiên cường của "người đồng mình".
Nghệ thuật đối lập tương phản: " cao đo – xa nuôi", "nỗi buồn – chí lớn", tác giả đã
diễn tả những trạng thái khác nhau của "người đồng mình". "Nỗi buồn – chí lớn" là
khái niệm vô hình nhưng đã được tác giả hình dung cụ thể như có hình, có khối.
111
"Người đồng minh" buồn, lo lắng, khắc khoải ở trong lòng vì trước mắt họ là biết bao
nhiêu là khó khăn, gian nan thử thách; khi mà cả quê hương họ còn chưa vươn tới
được tầm cao nhân văn, vẫn còn quanh quẩn với cái đói, cái nghèo. Nhưng "Người
đồng mình" không bao giờ nhụt chí, mạnh mẽ, vững vàng đối diễn với những khó
khăn, thách thức ấy mà đưa quê hương tiến lên phía trước, trở nên giàu mạnh, phát
triển, văn mình. Câu thơ giản dị , mộc mạc những đã diễn tả được tinh thần, ý chí quật
cường, mạnh mẽ của người dân vùng cao.
Niềm tự hào về con người quê hương gắn liền với những phẩm chất quí báu
mà người cha muốn truyền cho con:
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc.
Nhà thơ đã sử dụng rất nhiều những hình ảnh để nói tới cuộc sống của người
miền núi như: "đá gập ghềnh", "thung nghèo đói" "lên thác xuống ghềnh" có ý nghĩa
diễn tả những khó khăn, vất vả, nghèo đói và nhọc nhằn mà họ đã và đang phải đương
đầu. Điệp ngữ "sống ... không chê" (2 lần), kết hợp với nhịp thơ nhanh, dồn dập và
biện pháp so sánh "như sông như suối" có tác dụng diễn tả sức sống mạnh mẽ, mãnh
liệt, bền bỉ của những người con miền núi cao trước cuộc sống khó khăn, vất vả khi
mà chiến tranh lùi xa không được bao lâu. Qua đó, nhà thơ thể hiện niềm tự hào về
"người đồng mình" với sức mạnh, ý chí thật phóng khoáng, đoàn kết, gắn bó thiết tha
của họ đối với nơi chôn rau cắt rốn của mình. Từ đó, người cha mong muốn con: phải
sống có tình, có nghĩa, thủy chung với quê hương, đất nước, dân tộc mình; biết chấp
nhận và sẵn sàng vượt qua những khó khăn, thử thách bằng ý chí, nghị lực và niềm tin
tất thắng.
Đến bốn câu thơ tiếp theo mạch tâm tình nhắn nhủ của người cha dành cho con
vẫn được tiếp nối nhưng đã chuyển sang giọng điệu triết lí sâu sắc:
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.
Nghệ thuật đối lập tương phản: giữa ngoại hình và tâm hồn. Hình ảnh "thô sơ
da thịt" diễn tả vẻ đẹp mộc mạc, bình dị, chân chất, khẳng khái của "người đồng
mình". Nhưng họ không hề "nhỏ bé" về tâm hồn mà rất giàu lòng tự trọng, giàu chí
khí, niềm tin cao đẹp với khát vọng dựng xây, phát triển quê hương. Muốn vậy,
"người đồng mình" phải lao động:
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.

112
Câu thơ có hai lớp nghĩa tả thực và ẩn dụ. Và tác giả đã miêu tả cuộc sống lao
động của họ qua cụm từ "tự đục đá" thường thấy của người dân miền núi cao. Công
việc của họ rất vất vả, nặng nhọc nhưng họ sẵn sàng tự nguyện làm vì sự phát triển
của quê hương mình. Nhưng hình ảnh "kê cao quê hương" còn là hình ảnh ẩn dụ, biểu
tượng cho lòng tự hào, tự tôn dân tộc của "người đồng mình". Chính những con người
cần cù, nhẫn nại, bằng đôi tay lao động của mình đã làm nên quê hương, làm nên
phong tục tập quán lâu đời tốt đẹp của dân tộc.
Kết thúc bài thơ là lời nhắn nhủ, dặn dò người con phải tự hào về truyền thống
quê hương, lấy những tình cảm ấy làm hành trang bước vào đời:
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.
Hình ảnh "thô sơ da thịt" được lặp lại lần hai có tác dụng khẳng định và nhấn
mạnh lại niềm mong muốn của người cha dành cho con: Người đồng mình tuy mộc
mạc, chân chất, bình dị, bộc trực, khẳng khái nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, luôn
vươn tới những lẽ sống cao đẹp. Vì thế, trên đường đời, con phải thật tự tin, tự hào về
quê hương, sống xứng đáng với "người đồng mình", không cúi đầu trước giông tố khó
khăn, vất vả ở phía trước. Bởi đằng sau con luôn có tình cảm chở che, nâng đỡ của
cha mẹ, gia đình, của quê hương và đặc biệt trong bản thân con chất chứa phẩm chất
quí báu của "người đồng mình". Hai tiếng "nghe con" ở cuối bài thơ chứa đựng biết
bao nhiêu là yêu thương và niềm tin của người cha dành cho con, nhẹ nhàng, xao
xuyến.
Tóm lại, bằng bố cục chặt chẽ, dẫn dắt tự nhiên, bằng những hình ảnh cụ thể
mà vẫn giàu chất thơ, "Nói với con" đã thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi
truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân tộc mình. Điều lớn lao
nhất mà người cha truyền đến được cho con chính là lòng tự hào về quê hương và
niềm tự tin khi bước chân vào đời. Khi biết tự hào một cách chính đáng thì sẽ có lòng
tự tin vững chắc. "Lên đường/ Không bao giờ nhỏ bé được / Nghe con" – bài thơ là lời
nhắc nhở thấm thía mỗi con người về nghĩa tình gắn bó với truyền thống, với quê
hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống. (Lê Quang Hưng, Tình yêu thương và niềm
tin cậy, Về bài thơ Nói với con của Y Phương, Cảm thụ và phân tích tác phẩm văn học
9, tập hai – Nxb Giáo dục, Sđd).

NHỮNG NGÔI SAO XA XÔI


Lê Minh Khuê
I.Tìm hiểu chung:
1.Tác giả:
- Lê Minh Khuê sinh năm 1949, quê ở huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.
- Trong kháng chiến chống Mĩ, gia nhập thanh niên xung phong và bắt đầu viết
văn vào đầu những năm 70.
113
- Lê Minh Khuê là cây bút nữ chuyên về truyện ngắn.
- Trong những năm chiến tranh, truyện của Lê Minh Khuê viết về cuộc sống
chiến đầu của tuổi trẻ ở tuyến đường Trường Sơn.
- Sau năm 1975, tác phẩm của nhà văn bám sát những chuyển biến của đời sống
xã hội và con người trên tinh thần đổi mới.
2.Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sángtác:
- Truyện "Những ngôi sao xa xôi" ở trong số những tác phẩm đầu tay của Lê
Minh Khuê, viết năm 1971, lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc đang diễn ra
các liệt. Văn bản đưa vào sách giáo khoa có lược bớt một số đoạn.
- Truyện ngắn được đưa vào tuyển tập “Nghệ thuật truyện ngắn thế giới” xuất
bản ở Mĩ.
b. Tóm tắt vănbản:
"Những ngôi sao xa xôi" kể về cuộc sống chiến đấu của ba cô thanh niên xung
phong – tổ trinh sát mặt đường – Phương Định, Nho và chị Thao. Họ sống trong một
cái hang, trên cao điểm tại một vùng trọng điểm ở tuyến đường Trường Sơn những
năm chống Mỹ. Công việc của họ là quan sát máy bay địch ném bom, đo khối lượng
đất đá để san lấp hố bom do địch gây ra, đánh dấu những quả bom chưa nổ và phá
bom. Công việc nguy hiểm, luôn phải đối mặt với cái chết, nhưng cuộc sống của họ
vẫn không mất đi niềm vui hồn nhiên của tuổi trẻ, những giây phút thảnh thơi, thơ
mộng. Họ rất gắn bó, yêu thương nhau dù mỗi người một cá tính. Trong một lần phá
bom, Nho bị thương, hai người đồng đội hết lòng lo lắng và chăm sóc cho Nho. Một
cơn mưa đá vụt đến và vụt đi đã gợi trong lòng Phương Định bao hoài niệm, khát
khao.
c. Đề tài:
Ca ngợi cuộc sống, chiến đấu của thanh niên xung phong trên tuyến đường
Trường Sơn.
d. Ngôi kể:
- Truyện kể theo ngôi thứ nhất.
- Tác dụng:
+ Tạo một điểm nhìn phù hợp dễ dàng tái hiện hiện thực khốc liệt của chiến
tranh.
+ Khắc họa thế giới tâm hồn, cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật một cách chân
thực giàu sức thuyết phục.
+ Làm hiện lên vẻ đẹp của con người trong chiến tranh.
II.Đọc – hiểu vănbản:
1. Hoàn cảnh sốngvà chiến đấu:
- Ba cô gái ở trong một cái hang dưới chân cao điểm, giữa một vùng trọng điểm
trên tuyến đường Trường Sơn, nơi tập trung nhiều nhất bom đạn, sự nguy hiểm và ác
liệt, từng ngày từng giờ phải đối mặt với bom rơi, đạn nổ. Có biết bao thương tích vì
bom đạn giặc: “Đường bị đánh lở loét, màu đấtđỏ, trắng lẫn lộn. Hai bên đường không
có lá xanh. Chỉ có những thân cây bị tước khô cháy. Những cây nhiều rễ nằm lăn lóc.
Những tảng đá to. Một vài cái thùng xăng hoặc thành ô tô méo mó, han gỉ nằm trong
đất”. Đó là hiện thực đầy mùi chiến tranh, không có màu xanh của sự sống, chỉ thấy
thần chết luôn rình rập.
- Công việc của các cô đặc biệt nguy hiểm. Họ phải chạy trên cao điểm giữa ban
ngày, phơi mình ra giữa vùng trọng điểm đánh phá của máy bay địch để đo và ước tính
khối lượng đất đá lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom. Nhiệm
114
vụ của họ thật quan trọng nhưng cũng đầy gian khổ, hi sinh, phải mạo hiểm với cái
chết, luôn căng thẳng thần kinh, đòi hỏi sự dũng cảm và bình tĩnh hết sức.
2. Vẻ đẹp tâm hồn của ba cô gái thanh niên xung phong và cũng là của tuổi
trẻ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ:
a. Nét chung:
- Họ là những cô gái còn rất trẻ, tuổi đời mười tám đôi mươi. Nghe theo tiếng
gọi thiêng liêng của Tổ quốc, họ rời xa gia đình, xa mái trường, tình nguyện vào cái
nơi mà sự mất còn chỉ diễn ra trong gang tấc. Họ hi sinh tuổi thanh xuân và không tiếc
máu xương, thực hiện lí tưởng cao đẹp: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng
phơi phới dậy tương lại”.
- Qua thực tế chiến đấu, cả ba cô gái đều có tinh thần trách nhiệm cao với công
việc, lòng dũng cảm, gan dạ không sợ gian khổ hi sinh:
+ Mặc dù còn rất trẻ, luôn phải đối mặt với bom rơi, đạn nổ,họ có thể hi sinh bất
cứ lúc nào, nhưng để con đường được thông suốt nên các côluôn sẵn sàng trong việc ra
trận. Có lệnh là lên đường bất kể trong tình huống nào. Họ làm việc một cách tự
nguyện, luôn nhận khó khăn, nguy hiểm về mình:“Tôi một quả bom trên đồi. Nho hai
quả dưới lòng đường. Chị Thao một quả dưới cái chân hầm ba – ri – e cũ”. Đối mặt
với hiểm nguy, các cô cũng nghĩ đến cái chết nhưng là “một cái chết mờ nhạt không cụ
thể” quan trọng là “liệu mìn có nổ, bom có nổ không?”. Như thế họ đã đặt công việc
lên trên cả tính mạng của mình.
+ Họ bình tĩnh, can trường và có tinh thần dũng cảm. Những lúc căng thẳng nhất,
chị Thao móc cái bánh bích quy trong túi ra nhai. Họ nói đến công việc phá bom với
giọng điệu bình thản: “Quen rồi. Một ngày chúng tôi phá bom đến năm lần. Ngày nào
ít: ba lần”. Khi phá bom, bước tới những quả bom chưa nổ, họ không đi khom mà cứ
đường hoàng, thẳng lưng bước tới. Đối mặt với cái chết, các cô không hề run sợ mà
bình tĩnh moi đất, đặt dây,châm lửa, tính toán sao cho chính xác.
- Ở họ còn có tình đồng đội gắn bó, thân thiết: hiểu được tính tình, sở thích của
nhau, quan tâm chăm sóc nhau rất chu đáo. Phương Định bồn chồn, lo lắng khi chờ chị
Thao và Nho đi trinh sát trên cao điểm. Khi Nho bị thương, Phương Định và chị Thao
đã lo lắng, băng bó chăm sóc Nho cẩn thận với niềm xót xa như chị em ruột thịt và
cảm thấy “đau hơn người bị thương”.
- Cuộc sống chiến đấu ở chiến trường thật gian khổ, hiểm nguy nhưng họ
luôn lạc quan, yêu đời. Họ có cuộc sống nội tâm phong phú, đáng yêu, dễ xúc cảm,
nhiều mơ ước. Họ thíchlàm đẹp cho cuộc sống của mình ngay cả trong hoàn cảnh
chiến trường ác liệt.Nho thích thêu thùa, chị Thao chăm chép bài hát, Phương Định
thích ngắm mình trong gương, ngồi bó gối mộng mơ và hát… Họ hồn nhiên như
những đứa trẻ trước cơn mưa đá. Và trận mưa đã trở thành nỗi nhớ - sự nối dài quá
khứ hôm qua và khát vọng mai sau. Kỉ niệm sống dậy như những khoảng sáng trong
tâm hồn, những cảm xúc hồn nhiên như nguồn sống, điểm tựa, giúp họ thêm vững
vàng, thêm sức mạnh vượt qua những khó khăn, nguy hiểm.
-> Quả thật, đó là những cô gái mang trong mình những tính cách tưởng
như không thể cùng tồn tại, vô cùng gan dạ, dũng cảm trong chiến đấu mà cũng
hồn nhiên, vô tư trong cuộc sống sinh hoạt.
b, Nét riêng:
- Nho là một cô gái trẻ, xinh xắn, “trông nó nhẹ, mát mẻ như một que kem
trắng”, cô “cái cổ tròn và những cúc áo nhỏ nhắn” rất dễ thương khiến Phương Định
“muốn bế nó trên tay”. Nho lại rất hồn nhiên – cái hồn nhiên trẻ thơ: “vừa tắm dưới
suối lên, cứ quần áo ướt, Nho ngồi, đòi ăn kẹo”; khi bị thương nằm trong hang vẫn
115
nhổm dậy, xòe tay xin mấy viên đá mưa. Nhưng trong chiến đấu thì rất dũng cảm,
hành động thật nhanh gọn: “Nho cuộn tròn cái gối, cất nhanh vào túi”, “quay lưng lại
chúng tôi, chụp cái mũ sắt lên đầu…” Và trong một lần phá bom, cô đã bị sập hầm, đất
phủ kín lên người. Mặc dù bị thương rất đau nhưng cô không rên la, không muốn cho
đồng đội phải lo lắng.
- Chị Thao, tổ trưởng, ít nhiều có từng trải hơn, mơ ước và dự tính về tương lai
có vẻ thiết thực hơn, nhưng cũng không thiếu nhưng khát khao và rung động của tuổi
trẻ. “Áo lót của chị cái nào cũng thêu chỉ màu”. Chị lại hay tỉa đôi lông mày của mình,
tỉa nhỏ như cái tăm. Nhưng trong công việc, ai cũng gờm chị về tính cương quyết, táo
bạo. Đặc biệt là sự “bình tĩnh đến phát bực”: máy bay địch đến nhưng chị vẫn “móc
bánh quy trong túi, thong thả nhai”. Có ai ngờ con người dày dạn trước sự sống và cái
chết như thế lại sợ máu, sợ vắt: “thấy máu, thấy vắt là chị nhắm mắt lại, mặt tái
mét”.Và không ai có thể quên được chị hát : nhạc sai bét, giọng thì chua, chị chăm
chép bài hát dù chẳng thuộc nhạc, giọng lại chua, chị không hát trôi chảy được bài nào
nhưng chị lại có ba quyển sổ dày chép bài hát và rỗi là chị ngồi chép bài hát.
- Phương Định cũng trẻ trung như Nho,là một cô học sinh thành phố, nhạy cảm
và hồn nhiên, thích mơ mộng và hay sống với những kỉ niệm của tuổi thiếu nữ vô tư
về gia đình và về thành phố của mình. Ở đoạn cuối truyện, sau khi trận mưa đá tạnh, là
cả một dòng thác kỉ niệm về gia đình, về thành phố trào lên và xoáy mạnh như sóng
trong tâm trí cô gái. Có thể nói đây là những nét riêng của các cô gái trẻ Hà Nội vào
chiến trường tham gia đánh giặc, tuy gian khổ nhưng vẫn giữ được cái phong cách
riêng của người Hà Nội, rất trữ tình và đáng yêu.
=> Mỗi người có một cá tính riêng nhưng ở họ đều ngời sáng vẻ đẹp của chủ
nghĩa anh hùng Việt Nam, của tuổi trẻ Việt Nam. Viết về ba cô thanh niên xung
phong, Lê Minh Khuê đã không tô vẽ, không mĩ lệ mà miêu tả hết sức cụ thể,
chân thực bằng cách cá thể hóa nhân vật với những hình ảnh rất đời thường. Họ
đã từ cuộc đời bước vào trang sách, trở thành những anh hùng –những ngôi sao
trên bầu trời Trường Sơn.
3. Nhân vật PhươngĐịnh:
a. Phương Định làcô gái có tâm hồn trong sáng:
* Nhạy cảm, mơ mộng:
- Là cô gái trẻ người Hà Nội, từng có một thời học sinh hồn nhiên vô tư.
- Hay nhớ về kỷ niệm (kỷ niệm luôn sống lại trong cô ngay giữa chiến trường ác
liệt; chỉ một cơn mưa đá vụt qua là kỷ niệm lại thức dậy trong cô...) ®Nó vừa là khao
khát, vừa là liều thuốc tinh thần động viên cô nơi tuyến lửa.
- Nhạy cảm, thường quan tâm đến hình thức (tự đánh giá mìnhlà một cô gái
khá...); biết mình được nhiều người để ý, thấy tự hào nhưng không vồn vã mà tỏ ra kín
đáo, tưởng như kiêu kì.
- Hay mơ mộng, tìm thấy sự thú vị trong cuộc sống, trong cả công việc đầy nguy
hiểm “Việc nào cũng có cái thú vị của nó. Có ở đâu như thế này hay không...” Nó như
thách thức thần kinh con người để rồi lúc vượt qua nó, chiến thắng nó, cô cảm thấy thú
vị.
* Hồn nhiên, yêu đời:
- Thích hát, thuộc rất nhiều bài hát (từ bài hành khúc bộ đội đến...), thậm chí bịa
ra lời mà hát.
- Dưới cơn mưa đá, cô “vui thích cuống cuồng”, say sưa tận hưởng cơn mưa hồn
nhiên như chưa hề nghe thấy tiếng bom rơi đạn nổ.
b. Phương Định là người có phẩm chất anh hùng:
116
- Có tinh thần trách nhiệm với công việc.
- Dũng cảm, gan dạ.
- Bình tĩnh, tự tin và rất tự trọng.
- Khi thực hiện nhiệm vụ phá bom, ban đầu cô cũng thấy căng thẳng, hồi hộp,
nhưng cảm thấy có ánh mắt của các chiến sĩ đang dõi theo động viên, khích lệ, lòng tự
trọng trong cô đã thắng cả bom đạn. Cô không đi khom mà đàng hoàng bước tới; bình
tĩnh, tự tin thực hiện từng thao tác phá bom, chạy đua với thời gian để vượt qua cái
chết.
- Thương yêu những người đồng đội của mình:
+ Chăm sóc Nho chu đáo.
+ Hiểu rõ tâm trạng lo lắng của Thao khi Nho bị thương, mặc dù Thao đã cố che
dấu bằng việc bảo cô hát.
+ Với đại đội trưởng, chỉ tiếp xúc qua điện thoại nhưng biết rõ từ cách ăn nói đến
đặc điểm riêng.
+ Quý trọng và cảm phục tất cả những chiến sĩ mà cô đã gặp trên tuyến đường
Trường Sơn.
- Qua dòng suy tư của Phương Định, người đọc không chỉ thấy sự toả sáng của
phẩm chất anh hùng mà còn hình dung được thế giới nội tâm phong phú ở cô.
- Sự khốc liệt của chiến tranh đã tôi luyện tâm hồn vốn nhạy cảm yếu đuối thành
bản lĩnh kiên cường của người anh hùng cách mạng.
- Nét điệu đà, hồn nhiên, duyên dáng của một cô gái càng tôn thêm vẻ đáng yêu
của cô Thanh niên xung phong gan dạ, dũng cảm.
- Phương Định (cũng như Nho và Thao) là hình ảnh tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt
Nam thời chống Mỹ cứu nước.
=> Qua nhân vật Phương Định và các cô thanh niên xung phong, Lê Minh
Khuê đã có cái nhìn thật đẹp, thật lãng mạn về cuộc sống chiến tranh, về con
người trong chiến tranh. Chiến tranh là đau thương mất mát song chiến tranh
không thể hủy diệt được vẻ đẹp tâm hồn rất tươi xanh của tuổi trẻ, của con
người. Chính từ những nơi gian lao, quyết liệt ta lại thấy ngời sáng vẻ đẹp của
tuổi trẻ, của chủ nghĩa anh hùng Cách mạng Việt Nam.
=> Ba cô thanh niên xung phong trong những trang văn xuôi trữ tình êm
mượt của Lê Minh Khuê gieo vào lòng người đọc ấn tượng khó quên về vẻ đẹp
lung linh tỏa sáng của những ngôi sao xa xôi. Hình ảnh họ khiến ta nhớ đến ý thơ
của Lâm Thị Mĩ Dạ trong “Khoảng trời hố bom”:
Đêm đêm tâm hồn em tỏa sáng
Những vì sao ngời chói lung linh.
III. Tổng kết:
1. Nội dung:
Truyện "Những ngôi sao xa xôi" của Lê Minh Khuê đã làm nổi bật tâm hồn trong
sáng, mơ mộng, tinh thần dũng cảm, cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, hi sinh nhưng
rất hồn nhiên, lạc quan của những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường
Trường Sơn. Đó chính là hình ảnh đẹp, tiêu biểu về thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kì
kháng chiến chống Mĩ.
2.Nghệ thuật:
- Lựa chọn ngôi kể phù hợp, cách kể chuyện tự nhiên.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật, nhất là miêu tả tâm lí.
- Ngôn ngữ giản dị, vừa mang tính khẩu ngữ vừa đậm chất trữ tình.
- Câu văn ngắn, nhịp điệu dồn dập, gợi không khí chiếntrường.
117
BÀI THAM KHẢO
Lê Minh Khuê thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành trong thời kì kháng chiến
chống Mĩ. Những tác phẩm đầu tay của chị ra mắt vào những năm 70, nội dung viết về
cuộc sống chiến đấu sôi nổi, hào hùng của thanh niên xung phong và bộ đội trên tuyến
đường Trường Sơn. Một số truyện ngắn đã gây được sự chú ý và tình cảm yêu mến
của bạn đọc.
Truyện Những ngôi sao xa xôi phản ánh chân thực tâm hồn trong sáng, mơ
mộng, tinh thần dũng cảm, cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, hi sinh nhưng rất hồn
nhiên, lạc quan của những cô gái thanh niên xung phong. Đó chính là những hình ảnh
đẹp đẽ, tiêu biểu cho phẩm chất cao quý của thế hệ trẻ Việt Nam trong cuộc kháng
chiến chống Mĩ vừa qua.

Cốt truyện đơn giản, mạch truyện phát triển theo diễn biến tâm trạng của người
kể, kết hợp đan xen giữa hiện tại và quá khứ. Có thể tóm tắt như sau:
Ba nữ thanh niên xung phong làm thành tổ trinh sát mặt đường tại một trọng
điểm trên tuyến đường Trường Sơn. Tổ trưởng là chị Thao và tổ viên là hai cô gái trẻ
tên Định và Nho. Nhiệm vụ của họ là quan sát máy bay địch ném bom, ước chừng
khối lượng đất đá dùng để san lấp hố bom, đánh dấu vị trí các trái bom chưa nổ và phá
bom nổ chậm. Công việc hết sức nguy hiểm vì máy bay địch có thể ập đến bất cứ lúc
nào. Họ phải đối mặt với thần chết trong mỗi lần phá bom, mà công việc này thì lại
diễn ra thường xuyên. Các cô gái ở trong một cái hang dưới chân cao điểm, cách xa
đơn vị. Cuộc sống dù khắc nghiệt và nguy hiểm nhưng họ vẫn có những niềm vui hồn
nhiên, những giây phút thanh thản, mơ mộng. Đặc biệt là ba chị em rất gắn bó, yêu
thương nhau trong tình đồng đội, dù mỗi người một cá tính. Ớ phần cuối, tác giả tập
trung miêu tả hành động và tâm trạng của các nhân vật, chủ yếu là của Phương Định
trong một lần phá bom. Nho bị thương đã được đồng đội lo lắng và săn sóc. Cơn mưa
đá ở cao điểm khiến cho Phương Định hồi tưởng về tuổi học trò ở Hà Nội : Chao ôi, có
thể là tất cả những cái đó. Những cái đó ở thật xa…
Để cho nhân vật chính là Phương Định đứng ra kể chuyện, điều đó phù hợp với
nội dung truyện và tạo thuận lợi để tác giả vừa miêu tả, vừa thể hiện đời sống tâm hồn
của nhân vật. Truyện viết về chiến tranh nên có những chi tiết, hình ảnh về bom đạn,
chiến đấu, hi sinh… nhưng chủ yếu vẫn hướng vào thế giới nội tâm, làm hiện lên vẻ
đẹp tâm hồn của con người.
Ba cô gái sống và chiến đấu trên một cao điểm giữa một vùng trọng điểm bắn
phá của máy bay Mĩ trên tuyến đường Trường Sơn. Công việc của họ rất nguy hiểm vì
giữa ban ngày, họ phải phơi mình dưới tầm đánh phá của máy bay địch. Nguy hiểm
khôn lường nhưng các cô tự hào về công việc của mình và cái tên gọi mà đơn vị đặt
cho là : tổ trinh sát mặt đường. Gắn với cái tên gợi sự khát khao làm nên những sự tích
anh hùng ấy là công việc chẳng nhẹ nhàng, đơn giản chút nào.
Định hồn nhiên kể: Chúng tôi bị bom vùi luôn. Có khi bò trên cao điểm về chỉ
thấy hai con mắt lấp lánh. Cười thi hàm răng lóa lên trên khuôn mặt nhem nhuốc.
Những lúc đấy chúng tôi gọi nhau là “những con quỷ mắt đen".
Sau mỗi trận bom, các cô phải lao ngay ra trọng điểm, đo đạc và ước tính khối
lượng đất đá bị bom địch đào xới, đếm những quả bom chưa nổ và dùng những khối
thuốc nổ đặt vào cạnh từng trái bom để phá. Đó là một công việc mạo hiểm với cái
chết, thần kinh luôn căng thẳng, đòi hỏi sự dũng cảm và hết sức bình tĩnh. Nhưng với
ba cô gái thì những công việc khủng khiếp ấy đã trở thành bình thường:
118
Có ở đâu như thế này không: đất bốc khói, không khí bàng hoàng, máy bay đang
ầm ì xa dần. Thần kinh căng như chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu, chân chạy mà
vẫn biết rằng khắp chung quanh có nhiều quả bom chưa nổ. Có thể nổ bây giờ, có thể
chốc nữa. Nhưng nhất định sẽ nổ… Rồi khi xong việc, quay lại nhìn cảnh đoạn đường
một lần nữa, thở phào, chạy về hang.
Đối lập với cảnh tàn khốc do bom đạn giặc gây ra là sự bình tĩnh đến lạ lùng của
các cô gái. Cảnh các cô sống trong hang sao mà lạc quan, thơ mộng đên thế : Bên
ngoài nóng trên 30 độ, chui vào hang là sà ngay đến một thế giới khác. Cái mát lạnh
làm toàn thân run lẽn đột ngột- Rồi ngửa cổ uống nước trong ca hay trong bi đông.
Nước suối pha đường. Xong thì nằm dài trên nền ẩm lười biếng nheo mắt nghe ca nhạc
tử cái đài bán dẫn nhỏ mà lức nào cũng có pin đầy đủ. Có thể nghe, có thể nghĩ lung
tung… hình như ta sắp mở chiến dịch lớn.
Cả ba cô đều là con gái Hà Nội. Tuy cá tính và hoàn cảnh riêng mỗi người mỗi
khác nhưng họ đều có phẩm chất chung vô cùng tốt đẹp của thanh niên xung phong
tiền tuyến. Đó là tinh thần dũng cảm tuyệt vời, không sợ gian khổ, hi sinh, quyết tâm
khắc phục khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ và tình cảm đồng đội gắn bó, yêu
thương. Ở họ còn có những nét chung của các cô gái trẻ là dễ xúc động, nhiều khát
vọng và hay mơ mộng, dễ vui mà cũng dễ buồn. Trong bom đạn, cận kề cái chết mà họ
vẫn thích làm đẹp cho cuộc sống của mình: Nho thích thêu thùa, chị Thao chăm chép
bài hát, Định thích ngắm mình trong gương, thích ngồi bó gối thả hồn theo dòng hồi
tưởng và cất tiếng hát.
Phương Định vốn là một học sinh Thủ đô. Tính cách Phương Định vừa vô tư,
tinh nghịch, vừa dịu dàng, lãng mạn. Cô hay hồi tưởng những kỉ niệm của tuổi thiếu
nữ vô tư giữa gia đình và thành phố thân yêu. Vào chiến trường, những kỉ niệm êm
dẹp ấy luôn sống dậy trong tâm trí cô. Nó vừa là niềm khao khát, vừa làm dịu mát tâm
hồn cô trong hoàn cảnh căng thẳng, khốc liệt của chiến tranh.
Giống như các cô gái mới lớn khác, Phương Định khá nhạy cảm về bản thân và
cũng rất quan tâm đến hình thức của mình. Cô tự đánh giá : Tôi là con gái Hà Nội, Nói
một cách khiêm tốn, tôi là một cô gái khá. Hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ
cao, kiều hãnh như đài hoa loa kèn. Còn mắt tôi thì các anh lái xe bảo: “Cô có cái nhìn
sao mà xa xăm”.
Xa đến đâu mặc kệ, nhưng tôi thích ngắm mắt tồi trong gương. Nó dài dài màu
nâu, hay nheo lại như chổi nắng.
Cô biết mình được nhiều người để ý, nhất là các anh lính lái xe. Điều đó làm cho
cô thấy vui và tự hào, nhưng cô chưa dành riêng tình cảm cho một ai. Tuy vậy, cô
không hay biểu lộ tình cảm và thường tỏ ra kín đáo giữa đám đông, nhìn qua sẽ tưởng
như là kiêu kì.
Phương Định yêu mến hai bạn gái trong tổ trinh sát mặt đường và đồng đội trong
đơn vị. Đặc biệt, cô dành tình yêu và niềm cảm phục cho tất cả chiến sĩ mà cô gặp trên
đường vào mặt trận:
Không hiểu sao các anh pháo thủ và lái xe lại hay hỏi thăm tôi. Hỏi thăm hoặc
viết những bức thư dài gửi đường dây làm như ở cách xa nhau hàng nghìn cây số, mặc
dù có thể chào nhau hằng ngày. Tôi không săn sóc, vồn vã. Khi bọn con gái xúm nhau
lại đối đáp với một anh bộ đội nói giỏi nào đấy, tôi thường đứng ra xa, khoanh tay lại
trước ngực và nhìn đi nơi khác, môi mím chặt. Nhưng chẳng qua tôi điệu thế thôi.
Thực tình trong suy nghĩ của tôi, những người đẹp nhất, thông minh, can đảm và cao
thượng nhất là những người mặc quân phục, có ngôi sao trên mũ.

119
Là một nhà văn thanh niên xung phong nên Lê Minh Khuê am hiểu và miêu tả
khá tinh tế tâm lí của những cô gái trong nhóm trinh sát mặt đường mà tiêu biểu là
nhân vật Phương Định. Tâm trạng của Định lúc phá bom nổ chậm được tác giả miêu tả
rất thực: … máy bay rít, bom nổ. Nổ trên cao điểm, cách hang này khoảng 300 mét.
Đất dưới chân chúng tôi rung. Mấy cái khăn mặt mắc ở dây cũng rung. Tất cả cứ như
lên cơn sốt. Khói lên và cửa hang bị che lấp. Không thấy mây và bầu trời đâu nữa.
Quả bom nằm lạnh lùng trên một bụi cây khô, một đầu vùi xuống đất. Đầu này
có vẽ hai vòng tròn màu vàng…
Tôi dùng xẻng nhỏ đào đất dưới quả bom. Đất rắn. Những hòn sỏi theo tay tôi
bay ra hai bên. Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai
người, cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm.
Nhanh lên một tí ! vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành. Hoặc là nóng từ bên
trong quả bom. Hoặc là mặt trời nung nóng.
Cảnh mưa bom bão đạn của giặc Mĩ diễn ra hằng giờ, hằng ngày, hết ngày này
sang ngày khác và sức chịu đựng của các cô gái thật tuyệt vời: Quen rồi. Một ngày
chúng tôi phá bom đến năm lần. Ngày nào ít : ba lần. Tôi có nghĩ tới cái chết. Nhưng
một cái chết mờ nhạt, không cụ thể. Còn cái chính : liệu mìn có nổ, bom có nổ không ?
Không thì làm cách nào để châm mìn lần thứ hai ? Tôi nghĩ thế, nghĩ thêm : đứng cẩn
thận, mảnh bom ghim vào cánh tay thì khá phiền. Và mồ hôi thấm vào môi tôi, mằn
mặn, cát lạo xạo trong miệng.
Nhưng quả bom nổ. Một thứ tiếng kì quái đến váng óc. Ngực tôi nhói, mắt cay
mãi mới mở ra được. Mùi thuốc bom buồn nôn. Ba tiếng nổ nữa tiếp theo. Đất rơi lộp
bộp, tan đi âm thầm trong những bụi cây. Mảnh bom xé không khí, lao và rít vô hình
trên đầu.
Mặc dù đã thành thạo trong công việc nguy hiểm, thậm chí một ngày có thể phải
phá tới năm quả bom, nhưng mỗi lần phá bom nổ chậm vẫn là một thử thách thần kinh
cao độ đối với Phương Định. Từ khung cảnh và không khí chứa đầy sự căng thẳng đến
cảm giác là các anh cao xạ ở trên kia đang dõi theo từng động tác, cử chỉ của mình, để
rồi tinh thần dũng cảm ở cô như được kích thích bởi lòng tự trọng đáng khâm phục :
Tôi đến gần quả bom. Cảm thấy có ánh mắt các chiến sĩ dõi theo mình, tôi không sợ
nữa. Tôi sẽ không đi khom. Các anh ấy không thích cái kiểu đi khom khi có thể cứ
đàng hoàng mà bước tới.
Ở bên quả bom, đối mặt với cái chết cảm giác của cô như nhạy cảm hơn, sắc bén
hơn: Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người,
cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên
một tí! vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành. Tiếp đó là cảm giác căng thẳng
chờ đợi tiếng nổ của quả bom, đồng nghĩa với công việc đã hoàn thành.
Vào chiến trường đã ba năm, đã quá quen với những thử thách và nguy hiểm,
giáp mặt hằng ngày với cái chết, nhưng Phương Định và đồng đội của cô không mất đi
sự hồn nhiên, trong sáng và những mơ ước vẻ tương lai.
Trong những phút giây yên tĩnh ngắn ngủi, cô thường tự tạo ra những niềm vui
nho nhỏ: Tôi sẽ hát. Thường cứ thuộc một điệu nhạc nào đó rồi bịa ra lời mà hát. Lời
tôi bịa lộn xộn mà ngớ ngẩn đến tôi cũng ngạc nhiên, đôi khi bò ra mà cười một
mình… Tôi thích nhiều bài. Những bài hành khúc bộ đội hay trên những ngả đường
mặt trận. Tôi thích dân ca quan họ mềm mại, dịu dàng. Thích Ca-chiu-sa của Hồng
quân Liên Xô. Thích ngồi bó gối mơ màng: “Về đây khi mái tóc còn xanh xanh…”.
Đó là dân ca Ý trữ tình giàu có, phải lấy giọng thật trầm… Những lúc như thế nỗi nhớ

120
Hà Nội lại ùa về, tràn ngập tâm hồn cô gái, khiến cô bâng khuâng, nuôi tiếc khi cơn
mưa rừng chợt đến, chợt đi:
Nhưng tạnh mất rồi. Tạnh rất nhanh như khi mưa đến. Sao chóng thế! Tôi bỗng
thẫn thờ, tiếc không nói nổi. Rõ ràng tôi không tiếc những viên đá. Mưa xong thì tạnh
thôi. Mà tôi nhớ một cái gì đấy, hình như mẹ tôi, cái cửa sổ, hoặc những ngôi sao to
trên bầu trời thành phố. Phải, có thể những cái đổ… Hoặc là cây, hoặc là cái vòm tròn
của nhà hát, hoặc bà bán kem đẩy chiếc xe chở đầy thùng kem, trẻ con háo hức bâu
xung quanh. Con đường nhựa ban đêm, sau cơn mưa mùa hạ rộng ra, dài ra, lấp loáng
ánh đèn trồng như một con sông nước đen. Những ngọn điện trên quảng trường lung
linh như những ngôi sao trong câu chuyện cổ tích nói về những xử sở thẩn tiên. Hoa
trong công viên. Những quả bóng sút vô tội vạ của bọn trẻ con trong một góc phố.
Tiếng rao của bà bán xôi sáng có cái mủng đội trên đầu…
Chao ôi, có thể là tất cả những cái đó. Những cái đó ở thiệt xa… Rồi bỗng chốc,
sau một cơn mưa đá, chúng xoáy mạnh như sóng trong tâm trí tôi…
Tổ trưởng tổ trinh sát mặt đường là chị Thao, một con người từng trải và chín chắn.
Những dự tính về tương lai của chị có vẻ thiết thực hơn nhưng những khát khao và
rung động của tuổi trẻ vẫn nồng nàn trong tim chị. Chỉ vài nét phác họa tương phản,
tác giả đã vẽ nên chân dung của chị: Tiếng máy bay trinh sát rè rè. Phản lực gầm gào
lao theo sau… Chị Thao móc bánh bích quy trong túi, thong thả nhai. Những khi biết
rằng cái sắp tới sẽ không êm ả thì chị tỏ ra bình tĩnh đến phát bực. Nhưng thấy máu,
thấy vắt là chị nhắm mát lại, mặt tái mét. Áo lót của chị cái nào căng thêu chữ màu,
Chị lại hay tỉa lông mày của mình, tỉa nhỏ như cái tăm. Nhưng trong công việc ai cũng
gờm chị: cương quyết, táo bạo.
Nhân vật thứ ba trong nhóm là Nho, một cô gái nhỏ nhắn, trông mát mẻ như một
que kem trắng, tưởng như mềm yếu nhưng thực ra rất can đảm, kiên cường. Ngày
ngày, Nho cùng đồng đội phá bom nổ chậm. Có lần, Nho bị bom vùi và mảnh bom
găm vào cánh tay, máu túa ra rất nhiều, da xanh xao, quần áo đầy bụi. Được đồng đội
cứu kịp thời, Nho cắn răng chịu đau, không khóc. Cả ba cô gái đều không khóc bởi họ
cho rằng: Nước mắt đứa nào chảy trong khi cần cái cứng cỏi của nhau là bị xem như
bằng chứng của một sự tự nhục mạ.
Cách nhìn nhận và thể hiện con người thiên về cái tốt đẹp, trong sáng, cao
thượng là nét chủ đạo và thống nhất trong văn học thời kì kháng chiến chống Mĩ.
Tương tự như vậy nhưng truyện của Lê Minh Khuê không rơi vào tình trạng minh họa
giản đơn vì tác giả đã phát hiện và miêu tả chân thật đời sống nội tâm với những nét
tâm lí đa dạng, phong phú của từng nhân vật.
Tác giả tỏ ra rất sắc sảo trong việc thể hiện khung cảnh và không khí sôi sục ở
một trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn bằng một vài nét điển hình. Thành công
hơn cả là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Bằng cách để cho người đứng ra kể
chuyện là cô thanh niên xung phong Phương Định, tác giả đã phản ánh một cách tự
nhiên và tinh tế tâm trạng của những cô gái ở chiến trường, luôn đối mặt với cái chết
mà vẫn sống hồn nhiên, lạc quan và không kém phần lãng mạn. Chiến tranh làm cho
họ dày dạn và cứng cỏi hơn, nhưng vẫn không thể làm mất đi nét hồn nhiên, trong
sáng của tuổi trẻ.
Trong truyện có nhiều chi tiết về cuộc sống gian khổ, hiểm nguy, về những chiến
công thầm lặng và sự dũng cảm, hi sinh của thanh niên xung phong trên tuyến đường
Trường Sơn ác liệt. Nhưng cái tạo nên sức hấp dẫn của truyện ngắn này là ở sự am
hiểu cặn kẽ của tác giả về đời sống của những con người đang hiến dâng tuổi thanh
xuân cho Tổ quốc. Qua đó, người đọc hình dung được phần nào về chủ nghĩa anh hùng
121
cách mạng của tuổi trẻ Việt Nam và dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống
Mĩ cứu nước oanh liệt vừa qua.

BÀI THAM KHẢO 2


Lê Minh Khuê là nhà văn thuộc thế hệ những tác giả bắt đầu sáng tác trong thời
kì kháng chiến chống Mĩ. Với tài năng và sự tìm tòi, khám phá của mình, bà sớm gặt
hái được nhiều thành công về mảng đề tài là cuộc sống chiến đấu của những thanh
niên xung phong và bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn. “Những ngôi sao xa xôi” là
một trong những truyện ngắn tiêu biểu của Lê Minh Khuê. Nhân vật chính trong tác
phẩm - Phương Định - là nhân vật giành được nhiều sự yêu mến, cảm phục của người
đọc bởi vẻ đẹp ngoại hình, tâm hồn và sự dũng cảm, ngoan cường, bình tĩnh ung dung
trước hiểm nguy.
Phương Định gây cảm tình đầu tiên cho người đọc bởi vẻ trẻ trung, xinh đẹp của
một cô gái mới lớn. Cô là người nhạy cảm và luôn quan tâm đến hình thức của mình.
Cô tự đánh giá: “Tôi là con gái Hà Nội. Nói một cách khiêm tốn, tôi là một cô gái khá.
Hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn. Con
mắt tôi thì các lái xe bảo: Cô có cái nhìn sao mà xa xăm”, vẻ đẹp ấy của cô đã hấp dẫn
bao chàng trai: "các anh pháo thủ và lái xe hay hỏi thăm tôi”. Điều đó làm Phương
Định tự hào nhưng điều đặc biệt là cô chưa dành riêng tình cảm cho ai.
Nhân vật chính của tác phẩm còn khiến người đọc khâm phục bởi sự dũng cảm
ngoan cường, bình tĩnh ung dung vượt lên khó khăn nguy hiểm.
Phương Định cùng những người bạn của minh sống và chiến đấu trên một cao
điểm, giữa một vùng trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn. Chị phải chạy trên cao
điểm đánh phá của máy bay địch. Sau mỗi trận bom, chị cùng đồng đội phải lao ra
trọng điểm, đo và ước tính khối lượng đất đá bị bom địch đào xới, đếm những quả
bom chưa nổ và dùng những khối thuốc nổ đặt vào cạnh nó để phá. Đó là công việc
mạo hiểm với cái chết luôn gần kề tạo áp lực khiến thần kinh vô cùng căng thẳng.
Thực hiện công việc đó, Phương Định và đồng đội phải rất bình tĩnh và họ đã thực sự
bình tĩnh, ung dung một cách lạ thường. Thậm chí, với họ, công việc ấy đã trở thành
bình thường: "Công việc của chúng tôi là ngồi đây. Khi có bom nổ thì chạy lên, đo
khối lượng đất lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và khi cần thì phá bom”.
Mặc dù đã quen với công việc nguy hiểm này, thậm chí một ngày có thế phải phá
tới năm quả bom nhưng mỗi lần vẫn là một thử thách tột độ với thần kinh của Phương
Định. Từ khung cảnh và không khí chứa đầy càng thẳng đến cảm giác là các anh cao
xạ ở trên kia cũng đang theo dõi từng động tác cử chỉ của mình để lòng dũng cảm ở cô
như được kích thích bởi sự tự trọng: “Tôi đến gần quả bom... đàng hoàng mà bước tới”
ở bên quả bom kề sát với cái chết im lim và bất ngờ, từng cảm giác của con người như
cũng trở nên sắc nhọn hơn: “Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng
động sắc đến gai người cứa vào da thịt tôi. Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng
lành”.
Đặc biệt, Phương Định càng khiến người đọc yêu mến, trân trọng hơn bởi tâm
hồn trong sáng, tinh tế. Chị rất giàu tình cảm với đồng chí, đồng đội, quê hương và vô
cùng lạc quan yêu đời.
Giống như hai người đồng đội trong tổ trinh sát, Phương Định yêu mến những
người đồng đội trong tổ và cả đơn vị của mình. Đặc biệt, cô yêu mến và cảm phục tất
cả những người chiến sĩ mà hằng đêm cô gặp trên trọng điểm của những con đường
vào mặt trận. Phương Định đã lo lắng, sốt ruột khi đồng đội lên cao điểm chưa về. Chị
yêu thương và gắn bó với bạn bè nên có những nhận xét tốt đẹp đầy thiện cảm về Nho,
122
phát hiện ra vẻ đep dễ thương ”nhẹ, mát như một que kem trắng” của bạn. Chị còn
hiều và đồng cảm sâu sắc với những sở thích và tâm trạng của chị Thao.
Phương Định cũng là người con gái có một thời học sinh hồn nhiên, vô tư bên
người mẹ thân thương trong một căn buồng nhỏ nằm trên một đường phố yên tĩnh hồi
Hà Nội còn thanh bình trước chiến tranh. Những kỉ niệm ấy luôn sống lại trong cô
giữa chiến trường dữ dội. Nó là niềm khao khát làm dịu mát tâm hồn trong hoàn cảnh
căng thẳng, khốc liệt của chiến trường.
Vào chiến trường đã ba năm, làm quen với những thử thách hiểm nguy, giáp mặt
hàng ngày với cái chết nhưng ở Phương Định không mất đi sự hồn nhiên trong sáng và
cả những mơ ước về tương lai: "Tôi mê hát”, “thích nhiều bài".
Phương Định là cô thanh niên xung phong trên tuyến đường huyết mạch Trường
Sơn những ngày kháng chiến chống Mĩ. Chị tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong
những năm tháng hào hùng ấy. Họ là những người không tiếc tuổi thanh xuân, hiến
dâng trọn vẹn cho Tổ quốc những gì quý giá nhất:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi đánh Mĩ
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
Trong "Những ngôi sao xa xôi", Lê Minh Khuê đã miêu tả chân thực và sinh
động tâm lí nhân vật. Tác phẩm được kể từ ngôi thứ nhất tạo thuận lợi cho tác giả
miêu tả thế giới nội tâm qua việc để nhân vật tự sự về mình.
Nhân vật Phương Định trong "Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê mang
những đặc điểm tốt đẹp tiêu biểu cho tâm hồn những chàng trai, cô gái thanh niên
xung phong lên đường chống Mĩ trong những năm tháng vất vả mà hào hùng của dân
tộc. Phương Định để lại trong lòng độc giả niềm yêu mến, cảm phục đốì với thế hệ trẻ
Việt Nam trong những ngày tháng bom rơi đạn nổ ấy. Và hơn thế, điều đó trở thành
động lực để thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay viết tiếp nét son trong trang sử của thời đại
mình.

MỘT SỐ ĐỀ TỔNG HỢP


1. HÌNH TƯỢNG NGƯỜI LÍNH
A. Mở bài:
Đoàn giải phóng quân một lần ra đi.
Nào có sá chi đâu ngày trở về.
Ra đi ra đi bảo tồn sông núi.
Ra đi ra đi thà chết cho vinh.
Khúc hát quen thuộc từ xa chợt vọng lại gợi trong lòng chúng ta biết bao suy
tưởng. Chúng ta như được sông lại một thời hào hùng của dân tộc theo tiêng hát sôi
nôi trẻ trung và cũng bình dị như cuộc đời người lính. Không biết đã có bao nhiêu bài
thơ nói về họ - những chàng Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi. Tiêu biêu cho hai thời kì
chông Pháp và chông Mĩ là hai bài thơ: “Đồng chí” của Chính Hữu và “Tiểu đội xe
không kính” của Phạm Tiến Duật.
Những người lính trong hai bài thơ thuộc hai thế hệ khác nhau nhưng ở họ có
nhiều nét đẹp chung của người lính cách mạng và của con người Việt Nam trong các
cuộc kháng chiến cứu nước.
B.Thân bài.
1. Ho đều là nhũng con người bình di, môc mac, thấm nhuần tinh thần yêu
nước, khát vong đôc lâp tư do dể đi vào cuộc chiến đấu.
Người lính trong bài thơ “Đồng chí” xuất thân từ những cảnh ngộ nghèo khó:
“nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”. Họ là những người nông dân vừa được
123
cách mạng giải phóng khỏi kiếp nô lệ lầm than. Bởi vậy, tình nguyện ra nhập bộ đội
cầm lấy khẩu súng của cách mạng cũng chính là cầm vũ khí đe giải phóng triệt để cho
thân phận của mình, cho quần chúng và cho cả dân tộc. Vì tiếng gọi thiêng liêng của
Tổ quốc mà họ “mặc kệ” tất cả, sẵn sàng từ biệt làng quê với ruộng nương, nhà cửa
vốn hết sức thân thiết, gắn bó để ra đi, dấn thân vào cuộc đời người chiến sĩ: Ruộng
nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Còn người lính trong thơ Phạm Tiến Duật là những chàng trai còn rất trẻ, có tri
thức, họ sẵn sàng gác lại những ước vọng tương lai của mình để cống hiến tuổi thanh
xuân theo tiếng gọi thiêng liêng của miền Nam yêu dấu:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước.
Mà lòng phơi phới dậy tương lai ”.
2. Nhờ có tinh đồng chí, đồng đội keo sơn gắn bó bền chặt, chan hoà và nhờ
lòng dũng cảm, hiên ngang, mà ho đã bất chấp những gian khổ, thiếu thốn đến
tột cùng để hoàn thành nhiệm vu.
- Trên trận tuyến gay go ác liệt, các anh phải cùng chịu bít bao khó khăn, gian
khổ thiếu thốn.
+ Thời kì đầu cảu cuộc kháng chiến chống pháp vô cùng gian nan vất vả, các anh
từng chịu những cơn “sốt rung người vầng tráng ướt mồ hôi”, cùng cảnh “áo rách vai,
quần tôi có vài mảnh vá”, “chân không giầy” … Cũng chính từ trong gian khổ và thiếu
thốn của những ngàỵ đầu tiên bước vào quân ngũ họ đã nảy sinh môi tình cao đẹp -
tình đồng chí! Và chính có tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo son, chia bùi sẻ ngọt mà
họ có đủ sức mạnh lớn lao để vượt qua tất cả: “thương nhau tay nam lấy bàn tay” .
Đẹp làm sao giữa đêm rừng hoang đầy sương muối, ờ nơi mà sự sống và cái chết chỉ
trong gang tấc, những người chiến sĩ vẫn ôm súng đứng canh gác quân thù trong đêm
trăng sáng. Các anh vẫn chiến đấu và vẫn cứ tin có ngày chiến thắng. Ta thấy được ở'
các anh một tinh thấn chiến đấu dũng cảm kiên cường một niềm lạc quan bất diệt. Đời
lính gian khổ nhưng luôn giữ mãi nụ cười đâu cho nó cận kề cái chết “Đầu súng trăng
treo”, một biểu tượng đẹp của hình ảnh người lính, biểu tượng cao quý cua mối tình
đồng chí đã khắc sâu trong tâm trí mọi người. , , ,
(Nhà thơ Quang Dũng trong bài thơ Tây Tiến cũng cho ta thấy rõ điều đó:
Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quấn xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng già mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiêu thơm. ”
Chính điều đó đã giúp ta hiểu được sự quyết tâm của người lính và ta thêm cảm
phục sự hi sinh ấy hơn. Tấm lòng cùa các anh thật cao đẹp và lớn lao biết chừng nào!
Đó cũng là hình ảnh chung của những người lính trong thời kì kháng chiến chống
Pháp - những con người bình dị mà cũng thật anh dũng, hiên ngang. ,
+ Cuộc kháng chiến chống Pháp đã giành được thăng lợi vẻ vang với trận Điện
Biên Phủ lẫy lừng. Đất nước vẫn chưa đươc bình yên, cả Miền Nam lại chìm vào máu
lửa và những người con của quê hương lai tiếp tục lên đường. Những anh chiến sĩ lái
xe trên tuyến đường Trường Sơn hiện lên trong trang thơ của Pham Tiến Duật là
những anh lính thật ngang tàng, yêu đời, dũng cảm, hóm hỉnh. Từng giây, từng phút
các anh phải đối mặt với nhiều gian khổ và sự ác liệt, dữ dội của bom đạn quân thù
hàng ngày trút xuống con đường và nhằm vào những chiếc xe của họ. Những gian khổ
và ác liệt hiện hình trong hình ành những chiếc xe không kính rồi không cả đèn, cả
mui xe, thùng xe có xước, méo mó. Gian khổ tường chừng như không thể vượt qua
124
được, cái chết như kề bên, vậy mà lúc nào các anh cũng “ung dung buồng lái ta ngồi.
Nhìn đât nhìn trời nhìn thăng”.
Mở đường Trường Sơn để xe tăng tiến vào phía Nam thực hiện chiến dịch Hồ
Chí Minh lịch sử là giai đoạn gay go nhất, ác liệt nhất và cũng hào hùng nhất. Có lẽ
chi có những chàng trai tuổi trẻ ngạo nghễ ngang tàng kia mới có sức thực hiện nhiệm
vụ thiêng liêng cao cả này. Những chiếc xe tưởng chừng như không thể sử dụng được
vậy mà nó vẫn tiến lên phía trước bởi có những nụ cười rất ngang tàng, rất nghịch
ngợm của những anh lái xe rất phớt đời:
“Không có kính, ừ thì có bụi.
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc.
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha..."
Bằng sự đồng cảm của một người lính và cảm xúc của một nhà thơ, Phạm Tiến
Duật đã xây dựng nên hình ảnh những chiến sĩ lái xe thật hào hùng, thật tếu táo. Cái cử
chi: “phì phèo châm điếu thuốc” và 1 tiếng cười “ha ha” như một lời thách thức cùa họ
đối với quân thù. Đó là sức mạnh thứ nhất, còn súc mạnh nào nữa khiên cho những
chiêc xe ây vẫn băng băng lên phía trước? Tác giả đã trả lời một cách ! mạnh mẽ và
dứt khoát, trong những chiếc xe không kính có những trái tim yêu nước, luôn hướng
vê Miền Nam phía trước với là khát vọng cháy bỏng là giải phóng Miền Nam, thống
nhất đất nước:
"Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước Chi cần trong xe có một trái tim ”
3. Qua hình ảnh anh chiến sĩ Trường Sơn, chúng ta chợt nhận ra sự gần gũi,
thân quen giữa nhũng người lính qua các thời kì. Từ anh bộ đội cụ Hồ thời kháng
chiến chống Pháp trong thơ Chính Hữu đến anh chiến sĩ Trường Sơn thời chống Mĩ
trong thơ PTD đều có chung một nét đẹp truyền thống kiên cường, bất khuất, dũng
cảm và đầy tinh thần lạc quan yêu đời. Với điều kiện thuận lợi hơn, người lính thời
chống Mĩ đã được trau rèn, huấn luyện. Các anh đã kế thừa và phát huy được tinh thần
cách mạng vốn đã vững vàng nay lại vững vàng hơn.
- Tuy cùng khai thác chất liệu thơ từ đời sống thực với những chi tiết thật đến
trần trụi của cuộc sống người lính nhưng hai bài thơ còn khác nhau bởi bút pháp và
giọng điệu riêng của mỗi tác giả và cảm hứng nổi bật ở mỗi bài. Cảm hứng của Chính
Hữu hướng vào vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội của người lính, còn PTD thì lại tập
trung làm nổi bật chủ nghĩa anh hùng, tinh thần dũng cảm, bất chấp mọi khó khăn và
bom đạn kẻ thù của những người lính lái xe.

Đề: So sánh hình ảnh người lính cách mạng qua hai bài thơ Đồng chí của Chính
Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật..

Dàn ý

I. Mở bài.
Giới thiệu về hai tác phẩm hai tác giả…
B. Thân bài.
1. Giới thiệu chung
- Về đề tài: Dân tộc ta đứng lên tiến hành hai cuộc chiến tranh cách mạng oanh liệt
chống Pháp và chống Mỹ. Lẽ tất nhiên, ở đất nước hơn ba mươi năm chưa dời tay
súng. Hình ảnh anh Bộ đội cụ Hồ là hình ảnh con người đẹp nhất đáng yêu nhất trong
văn thơ và là niềm tự hào lớn của dân tộc.
125
- Về hai tác phẩm: Cùng với nhiều bài thơ khác, bài thơ “Đồng chí” sáng tác vào đầu
năm 1948 khi tác giả Chính Hữu chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc, bài thơ “Tiểu
đội xe không kính” sáng tác năm 1969 khi tác giả Phạm Tiến Duật tham gia họat động
ở tuyến đường Trường Sơn đã khắc họa thành công về đề tài người lính.
- Về luận đề: Hình tượng anh bộ đội được ghi lại trong hai bài thơ đã lưu giữ trong
văn chương Việt Nam hai gương mặt đẹp, đáng yêu của người lính trong hai thời kỳ
lịch sử.
2. Phân tích
a. Những điểm chung: Đây là người lính của nhân dân nên họ cùng mang những vẻ
đẹp chung:
- Yêu nước, yêu quê hương yêu đồng chí:
+ Có thể phân tích các câu thơ: Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính (Đồng chí) và Xe
vẫn chạy vì miền nam phía trước (Bài thơ về tiểu đội xe không kính).
+ Có thể phân tích cử chỉ nắm tay chất chứa bao tình cảm không lời trong cả hai bài
thơ thể hiện sự gắn bó đồng chí.
- Vượt qua mọi khó khăn gian khổ để quyết tâm tiêu diệt giặc hoàn thành nhiệm vụ:
+ Tất cả những khó khăn gian khổ, thử thách được tái hiện bằng những chi tiết hết sức
thật, không né tránh tô vẽ trong cả hai bài thơ....
+ Thế mà, các chiến sĩ đều có một tư thế ngoan cường chờ giặc tới, ung dung nhìn
thẳng.
- Lạc quan tin tưởng: Cả hai bài thơ đều thể hiện tinh thần lạc quan của người lính. Từ
miệng cười buốt giá của anh bộ đội kháng chiến chống Pháp đến nhìn nhau mặt lấm
cười ha ha của anh lính lái xe thời chống Mỹ đều thể hiện tinh thần lạc quan, khí phách
anh hùng.
b. Những điểm riêng khác nhau
- Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu khắc hoạ hình ảnh người lính nông dân thời kỳ đầu
cuộc kháng chiến chống Pháp với vẻ đẹp giản dị, mộc mạc mà sâu sắc. Tình đồng chí
thiềng liêng hòa quyện với tình yêu nước khi lý tưởng chiến đấu đã rực sáng trong tâm
hồn.
Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí!
- Bài thơ Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật thể hiện người lính lái xe trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ với vẻ đẹp trẻ trung, ngang tàng. Đây là thế hệ những
người lính có học vấn, có bản lĩnh chiến đấu, có tâm hồm nhạy cảm, có tính cách riêng
mang chất lính đáng yêu. Họ tất cả vì miền Nam ruột thịt với trái tim yêu nước cháy
bỏng.
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim
III. Kết luận: Đánh giá chung
- Hình tượng người lính dù ở thời kỳ kháng chiến chống Pháp hay kháng chiến chống
Mỹ đều mang phẩm chất cao đẹp của anh bộ đội cụ Hồ thời đại đã cung cấp cho các
nhà thơ những nguyên mẫu đẹp đẽ, họ tạo nên những hình tượng làm xúc động lòng
người.
- Viết về những người lính, các nhà thơ nói về chính mình và những người đồng đội
của mình. Vì thế, hình tượng người chân thật và sinh động...

ĐỀ 2: Vẻ đẹp người chiến sĩ trong tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không
126
kính” và “Những ngôi sao xa xôi” (Kháng chiến chống mĩ)
Chiến tranh đã đi qua hơn ba mươi năm. Thế nhưng, những ký ức về cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước thần thánh của dân tộc, ký ức về những con người anh hùng
trong một thời đại anh hùng thì vẫn tươi mới, nguyên vẹn mỗi khi ta đối diện từng
trang sách trong những tác phẩm văn học của thời kỳ này.
Bằng cảm hứng lãng mạn, kết hợp với khuynh hướng sử thi, văn học Việt Nam
trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước đã xây dựng trong văn thơ tượng đài những chiến
sĩ anh hùng. Họ là những “Thạch Sanh của thế kỷ XX”. Chiến công của họ đẹp và phi
thường như huyền thoại.
Có hai tác phẩm được coi là tiêu biểu cho cảm hứng ngợi ca người chiến sĩ anh
hùng của văn học thời kỳ này, đó là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm
Tiến Duật và “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê. Mỗi tác phẩm là một bức
tranh đẹp về hình tượng người chiến sĩ điển hình cho thế hệ trẻ Việt Nam trong thời
đại Hồ Chí Minh quang vinh.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được nhà thơ Phạm Tiến Duật sáng tác năm
1969, rút từ tập thơ “Vầng trăng, quầng lửa” là một bài thơ độc đáo trong chùm thơ
được giải nhất cuộc thi thơ Báo Văn nghệ năm 1969-1970. Bài thơ khắc họa vẻ đẹp
người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn ác liệt. Vẻ đẹp độc đáo được thể
hiện ngay trong tên gọi của bài thơ. Đó là sự thống nhất giữa hai sự vật tưởng như
tương phản gợi ấn tượng về chất thơ lãng mạn và sự trần trụi khốc liệt.Khai thác đề tài
chiến tranh, tác giả không chỉ tô đậm tính chất ác liệt, tàn khốc nhằm làm nổi bật sự
phi thường của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam mà Phạm Tiến Duật đã có
cách nhìn, cách cảm khá mới lạ và thú vị. Từ trong sự tàn khốc ấy, chất thơ vẫn cứ
tuôn trào !
Câu thơ mở đầu như một lời tự sự xen lẫn miêu tả:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Nó có tác dụng vừa lý giải sự bất thường của hình ảnh chiếc xe độc đáo “không
có kính” vừa tô đậm sự ác liệt của chiến trường “bom giật, bom rung...” Đây là hình
ảnh vừa lạ vừa chân thực. Lạ là vì trong thơ, người ta thường chọn những sự vật hoàn
thiện, hoàn mỹ để miêu tả nhằm tạo thiện cảm với người cảm nhận nó. Với những
chiếc xe cũng vậy! Phải sang trọng, bóng loáng chứ sao lại trần trụi, méo mó, biến
dạng thế này !
Không có kính rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước
Nhưng đấy là sự thật. Không phải một chiếc như thế mà tác giả nhìn thấy cả một
tiểu đội xe như thế! Bởi vì thời điểm mà bài thơ ra đời có thể nói là ác liệt nhất trong
thập niên 60 của thế kỷ XX.
Đường Trường Sơn -nơi vận chuyển vũ khí lương thực vào chi viện Miền Nam -
những năm tháng này là “túi bom, chảo lửa”. Và trên nền hiện thực tàn khốc ấy đã
xuất hiện hình ảnh đẹp đẽ, phi thường của người chiến sĩ lái xe. Làm chủ những
phương tiện ấy, người chiến sĩ không hề nản chí hay run sợ mà trái lại, lại bình tĩnh
đến lạ thường:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Vẻ đẹp kiêu hùng được toát ra từ tư thế ngồi “ung dung” đến cái nhìn “nhìn
thẳng”. Các từ láy“ung dung” cùng với nhịp thơ nhanh, đều, dứt khoát 2/2/2 diễn tả vẻ
đẹp khoan thai, thản nhiên, tự tin của người chiến sĩ. Điệp từ “nhìn” gợi lên sự nối tiếp
127
liên tục của những hình ảnh chiến trường như một đoạn phim đang quay chậm:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái
Các thủ pháp nhân hóa, so sánh, ẩn dụ đã góp phần làm cho hình ảnh thơ thêm
sinh động. Tưởng rằng làm chủ những chiếc xe không kính, người chiến sĩ chỉ thấy
những khó khăn chồng chất khó khăn. Nhưng không! Nó đã làm tăng những cảm giác
mới mẻ mà chỉ có người chiến sĩ khi ngồi trên những chiếc xe như thế mới cảm nhận
được một cách rõ ràng, mãnh liệt... Hình ảnh “gió vào xoa mắt đắng”, “con
đường chạy thẳng vào tim” tạo ấn tượng độc đáo. Chiếc xe như đang trôi bồng bềnh
trong thiên nhiên hoang dã của núi rừng Trường Sơn hùng vĩ. Chất thơ cùng với vẻ
đẹp lãng mạn toát lên từ đó. Nhưng có thể nói đẹp nhất là thái độ, tinh thần dũng cảm
bất chấp gian khổ để chiến đấu và chiến thắng:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Vẻ đẹp được toát lên từ lời thơ giản dị, giàu “chất lính”, hình ảnh thơ mộc mạc.
Điệp ngữ “ừ thì”, “chưa cần” vang lên như một lời thách thức, chủ động chấp nhận
gian khổ. Một giọng thơ tự tin, ngang tàng. Một tiếng cười “ha ha” hồn nhiên. Tất cả
đã toát lên vẻ đẹp của người chiến sĩ lái xe.Đời sống chiến trường gian khổ là thế. Sự
sống và cái chết ở đây chỉ là gang tấc. Thế nhưng tình yêu thương đồng chí, đồng đội
vẫn tỏa sáng lạ thường.
Những chiếc xe từ trong bom rơi.
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Có thể nói rằng, khai thác chất liệu nghệ thuật của đời sống chiến tranh, Phạm
Tiến Duật đã rất thành công trong việc khắc họa người chiến sĩ lái xe Trường Sơn
bằng những hình ảnh, chi tiết vừa chân thực, gân guốc, mộc mạc vừa lãng mạn nên
thơ.
“Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim”.
“Trái tim” ở đây chính là trái tim chứa chan tình yêu Tổ quốc đã giúp người
chiến sĩ lái xe làm nên những kỳ tích phi thường. Vẻ đẹp hào hùng của họ tỏa sáng cả
bài thơ; đủ làm sống lại trong lòng chúng ta một thời oanh liệt của anh bộ đội cụ Hồ.
Chất anh hùng ca dào dạt tạo nên vẻ đẹp của người chiến sĩ cách mạng trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Cùng với chủ đề ngợi ca vẻ đẹp người chiến sĩ, nhưng khác với nhà thơ Phạm
Tiến Duật trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, nhà văn Lê Minh Khuê trong
“Những ngôi sao xa xôi” đã đi tìm và khai thác vẻ đẹp ấy qua hình ảnh của những cô
gái thanh niên xung phong.
Truyện viết về cuộc sống và chiến đấu vô cùng gian khổ của những nữ thanh
niên xung phong -những cô gái “Ba sẵn sàng” trên tuyến đường Trường Sơn chống
Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc. Mặc dù cốt truyện đơn giản, nhưng tác giả đã rất
thành công trong việc khắc họa vẻ đẹp người nữ chiến sĩ qua miêu tả tâm lý nhân vật
sắc sảo và tinh tế.
128
Nổi bật trong truyện là ba gương mặt đẹp của tổ trinh sát mặt đường. Họ có
những nét tính cách chung của người nữ thanh niên xung phong Trường Sơn thời
chống Mỹ nhưng ở mỗi nhân vật lại lấp lánh vẻ đẹp riêng. Hoàn cảnh sống và chiến
đấu nơi tuyến lửa đã gắn bó họ thành một khối đoàn kết, yêu thương, gan dạ và dũng
cảm.
Họ đóng quân trong một cái hang giữa trọng điểm “túi bom, chảo lửa” trên tuyến
đường Trường Sơn. Công việc hàng ngày của họ là đếm bom, rồi lao ra trọng điểm sau
những trận bom để đo khối lượng đất đá cần phải san lấp, đánh dấu vị trí
bộ đội “những người mặc quân phục có ngôi sao trên mũ”. Trong mắt cô, đó là những
“người đẹp nhất, thông minh nhất”. Phương Định rất nhạy cảm. Cô biết mình có “cái
nhìn sao mà xa xăm” như lời các anh lái xe nhận xét nhưng cô lại không biểu lộ tình
cảm và thích kín đáo giữa đám đông. Cô thích nhạc và mê ca hát. Thậm chí tự đặt lời
theo một điệu nhạc nào đó và hát để thấy mình rất buồn cười v.v... Thế nhưng với
Phương Định, sự nhạy cảm về tâm hồn có lẽ được biểu hiện tinh tế nhất ở chỗ, chỉ một
cơn mưa đá bất ngờ vụt qua trên cao điểm, cũng đủ đánh thức trong cô những ký ức về
quê hương, gia đình, khơi dậy trong cô khát khao sum họp đến cháy bỏng.
Một cô gái Hà Nội chính gốc, lãng mạn và mơ mộng như thế, nhưng trong chiến
đấu lại dũng cảm, gan dạ đến tuyệt vời. Một mình phá bom trên đồi “quang cảnh vắng
lặng đến dễ sợ” nhưng tinh thần cô không hề nao núng. Đáng lẽ cô phải “đi khom”
nhưng sợ mấy anh chiến sĩ “có cái ống nhòm có thể thu cả trái đất vào tầm mắt” nhìn
thấy, nên cô “cứ đàng hoàng mà bước tới”.Khi ở bên quả bom, tử thần có thể cướp đi
mạng sống của cô bất cứ lúc nào, nhưng cô vẫn bình tĩnh thao tác một cách chính xác
và chạy đua với thời gian để vượt qua cái chết.“Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả
bom. Một tiếng động đến gai người, cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng mình và bỗng thấy tại
sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng
lành”. Những cảm giác tinh tế ấy không chỉ là sự nhạy cảm mà còn là kinh nghiệm của
sau bao nhiêu lần phá bom ở tuyến lửa và chỉ những người nữ thanh niên xung phong
dạn dày như Phương Định, Nho, chị Thao mới có được !
Với tác phẩm “Những ngôi sao xa xôi”, ngòi bút của Lê Minh Khuê đã miêu tả
sinh động, chân thực tâm lý nhân vật; làm hiện lên một thế giới nội tâm rất phong phú
nhưng không phức tạp, rất đời thường, giản dị nhưng vô cùng trong sáng và cao
thượng của những nữ thanh niên xung phong.
Vẻ đẹp của những “cô gái mở đường” Trường Sơn cùng với vẻ đẹp của người
chiến sĩ lái xe trong các tác phẩm văn học chống Mỹ nói chung và trong các tác phẩm
của Phạm Tiến Duật và Lê Minh Khuê nói riêng đã giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn về ý
chí, tâm hồn và nhân cáchcủa thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm kháng chiến chống
Mỹ cứu nước.

ĐỀ 3. Hình ảnh người lao động mới trong 2 tác phẩm “Đoàn thuyền đánh
cá” – Huy Cận và “ Lặng lẽ sa pa”- Nguyễn Thành Long.
1. Mở bài
Nêu đúng vấn đề và giới hạn - vẻ đẹp của người lao động mới trong hai tác
phẩm: “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận và “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành
Long.
2. Thân bài:
* Bối cảnh lịch sử và hoàn cảnh sáng tác

129
Sau chiến thắng chống thực dân Pháp, miền Bắc nước ta bắt tay ngay vào công
cuộc xây dựng CNXH. Một không khí phấn khởi, hăng say lao động kiến thiết đất
nước dấy lên khắp mọi nơi.
“Đoàn thuyền đánh cá” - Huy Cận (1958), “Lặng lẽ Sa Pa” - Nguyễn Thành
Long (1970) đều là kết quả của những chuyến đi thực tế mà các tác giả sống trực tiếp
cùng với những con người lao động. Hình tượng người lao động đã được khắc họa rõ
nét trong hai tác phẩm. Họ thuộc đủ mọi lớp người, mọi lứa tuổi, với những nghề
nghiệp khác nhau, làm việc ở những vùng khác nhau nhưng đều có chung những phẩm
chất cao đẹp.
Luận điểm 1: Công việc, điều kiện làm việc của họ đầy gian khó, thử thách.
Người ngư dân trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” ra khơi khi thiên nhiên, vũ
trụ vào trạng thái nghỉ ngơi. Đánh cá trên biển là một công việc rất vất vả và nguy
hiểm. Nhưng những người ngư dân đã hòa nhập với thiên nhiên bao la và trở thành
hình ảnh sáng đẹp.
Trong “Lặng lẽ Sa Pa”: Anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên
Sơn cao 2600 mét. Anh sống một mình, xung quanh anh chỉ có cây cỏ, mây mù lạnh
lẽo và một số máy móc khoa học. Cái gian khổ nhất với anh là sự cô độc. Công việc
của anh là “đo gió, đo mưa..dự báo thời tiết”. Công việc ấy đồi hỏi phải tỉ mỉ, chính
xác. Mỗi ngày anh đo và báo số liệu về trạm bốn lần. Nửa đêm, đúng giờ “ốp” dù mưa
tuyết, gió rét thế nào thì vẫn phải trở dậy làm việc.
Luận điểm 2: Trong điều kiện khắc nghiệt như vậy nhưng những người lao
động ấy vẫn nhiệt tình, hăng say, mang hết sức lực của mình để cống hiến cho Tổ
quốc.
- Những người ngư dân là những con người lao động tập thể. Họ hăm hở:
“ Ra đậu dăm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”
Họ làm việc nhiệt tình, hăng say trong câu hát.
- Anh thanh niên có những suy nghĩ đúng đắn, sâu sắc về công việc. Anh hiểu
việc mình làm có ý nghĩa quan trọng “ phục vụ sản xuất…”. Công việc tuy lặp lại đơn
điệu song anh vẫn rất nhiệt tình, say mê, gắn bó với nó ( qua lời anh nói với ông họa
sĩ).
Luận điểm 3: Đó còn là những con người sống có lí tưởng và tràn đầy lạc
quan. Họ thực sự tìm thấy niềm hạnh phúc trong công việc lao động đầy gian khổ.
- Đánh cá trong đêm đầy vất vả, nguy hiểm, người ngư dân đã thu về thành quả
thật tốt đẹp. Họ ra đi, làm việc và trở về đều trong câu hát. Hình ảnh thơ cuối bài rạng
rỡ niềm vui, tin tưởng, hi vọng của người lao động. Họ vui say lao động vì một ngày
mai “huy hoàng”.
- Lí tưởng sống của anh là vì nhân dân, vì đất nước. Chính từ suy nghĩ : “mình
sinh ra…. vì ai mà làm việc?” mà anh đã vượt lên nỗi “thèm người” để gắn bó với đỉnh
Yên Sơn trong công việc thầm lặng.
Trong cái lặng im của Sa Pa ấy, không phải chỉ có anh thanh niên mà còn có cả
thế giới những người “làm việc và lo nghĩ cho đất nước” qua lời anh kể như: ông kĩ sư
vườn rau, đồng chí cán bộ nghiên cứu lập bản đồ sét… Họ thực sự tìm thấy niềm hạnh
phúc trong lao động cống hiến.
* Đánh giá Người lao động vô danh trong hai tác phẩm đủ mọi thành phần, lứa
tuổi , nghề nhiệp, dù ở núi cao hay biển xa đều là những người nhiệt tình, say mê công
việc, sống có lí tưởng. Họ là điển hình cao đẹp của con người lao động mới, con người
trưởng thành trong công cuộc xây dưng CNXH ở miền Bắc.
130
3. Kết bài
Khẳng định thành công của các tác giả trong việc khắc họa hình ảnh người lao
động và nêu cảm nghĩ hoặc liên hệ mở rộng.

ĐỀ 4. Hình ảnh trăng trong thơ hiện đại VN


* Điểm giống nhau:
- Đều là hình ảnh thiên nhiên đẹp, thơ mộng.
- Đều là sự vật gần gũi, là người bạn thân thiết với con người.
* Điểm khác nhau:
a) Trăng trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu:
- Trăng hiện lên trong đêm phục kích chờ giặc của những người lính.
- Trăng như một chứng nhân của tình đồng chí đồng đội giữa những người chiến
sĩ trong cuộc chiến đấu gian khổ.
- Trăng là hình ảnh vừa hiện thực vừa lãng mạn, là biểu tượng cho sự thanh bình
của cuộc sống, là chất thơ vút lên giữa hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt.
- Trăng còn thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ: lạc quan và lãng mạn.
b) Trăng trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận.
- Trăng xuất hiện trong khung cảnh lao động đánh bắt cá ngoài khơi của người
ngư dân.
- Trăng như cánh buồm chắp cánh cho niềm vui trong lao động, nâng bổng tinh
thần hào hứng hăng say của con người.
- Trăng là nét vẽ tài tình tạo nên bức tranh sơn mài của biển đêm tráng lệ, rực rỡ
sắc màu.
c) Trăng trong bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy:
- Trăng gắn liền với những kỉ niệm của cuộc đời một người lính.
+ Trong quá khứ: Gắn với tuổi thơ hồn nhiên của nhân vật trữ tình; là “tri kỉ” của
tác giả những tháng năm chiến tranh.
+ Trong hiện tại: Là “người dưng” đột ngột gặp lại trong một đêm thành phố mất
điện, khiến nhà thơ giật mình, day dứt và suy ngẫm về cách sống hiện tại của mình.
Ánh trăng thức tỉnh lương tâm, nhắc nhở con người không được lãng quên quá khứ,
phải sống ân nghĩa, thuỷ chung.
- Vầng trăng trong Đồng chí, Đoàn thuyền đánh cá chỉ hiện ra trong những
khoảnh khắc còn vầng trăng trong Ánh trăng lại gắn bó với một đời người: Quá khứ,
hiện tại và có lẽ cả tương lai.
- Nếu như vầng trăng trong Đồng chí, Đoàn thuyền đánh cá chỉ soi vào phần tươi
đẹp của cuộc sống con người, vào phần chính diện của cuộc đời, thì Ánh trăng lại soi
rọi vào góc khuất tâm hồn con người để thức tỉnh lương tri, giúp người ta biết sống ân
nghĩa, thuỷ chung.
=> Với sự sáng tạo tài tình của ba nhà thơ, hình ảnh trăng trong ba tác phẩm thực
sự là những hình ảnh đẹp và độc đáo, để lại trong lòng độc giả những cảm xúc dạt dào,
sâu lắng.

ĐỀ 5:. Đề bài: Trước khi vĩnh biệt cuộc đời, nhà thơ Tố Hữu viết:
“Xin tạm biệt cuộc đời yêu quý nhất
Còn mấy vần thơ, một nắm tro
Thơ gửi bạn đời, tro bón đất
Sống là cho và chết cũng là cho”.
Em hiểu ý thơ trên như thế nào?
131
Qua một số tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại thuộc chương trình Ngữ
văn 9 được sáng tác trong thời kì từ 1955 đến 1975, em hãy làm sáng tỏ lẽ sống
cao đẹp ấy.
=> Gợi ý:
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận:
- Con người mới là nhân vật chủ yếu trong các tác phẩm từ sau cách mạng tháng
Tám 1945. Họ hiện lên với nhiều phẩm chất. Một trong những vẻ đẹp đó là lí tưởng
sống cống hiến cho đất nước, quê hương.
- Trích dẫn đoạn thơ trong đề bài.
- Nêu được tên một số tác phẩm văn học Việt Nam thời chống Mĩ trong Ngữ văn
9 để làm sáng tỏ ý thơ.
2. Giải thích ngắn gọn nội dung đoạn thơ:
- Đây là bài thơ cuối cùng của đời thơ Tố Hữu được ông viết trên giường bệnh.
Vì thế có thể coi đây là một tâm nguyện, một lẽ sống, một lời di chúc đẹp đẽ cảm động
chân thành của nhà thơ chiến sĩ – Tố Hữu gửi tặng cuộc đời.
- Đoạn thơ thể hiện một quan niệm sống đẹp của con người mới Việt Nam. Đó là
những con người sống có lí tưởng, có niềm tin vào Đảng, Bác Hồ và nguyện phấn đấu
suốt đời cho lí tưởng cao đẹp. Con người sống không chỉ đơn thuần lao động làm ra
của cải vật chất để hưởng thụ cho chính bản thân mình mà còn là sự cống hiến hết
mình cho mọi người, cho quê hương, đất nước, kể cả khi sống cũng như khi đã khuất.
3. Chứng minh qua một số tác phẩm tiêu biểu
* Luận điểm 1: Những con người đều có lí tưởng sống cao đẹp, có tình yêu
quê hương đất nước, có niềm tin vào Đảng, Bác Hồ và cuộc sống.
- Trên mặt trận chiến đấu: lí tưởng cao đẹp nhất của họ là giữ vững độc lập tự do
của Tổ quốc, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Trong cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước:
+ Người lính lái xe có ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam “Không có kính rồi
xe không có đèn…Chỉ cần trong xe có một trái tim” ( “Bài thơ về tiểu đội xe không
kính”).
+ Người mẹ Tà – ôi có khát vọng đất nước được giải phóng, được thấy Bác Hồ
(“Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”)
+ Ông Sáu ( “Chiếc lược ngà”) và những cô gái thanh niên xung phong (“Những
ngôi sao xa xôi”) sẵn sàng ra đi vì nghĩa lớn.
- Trên mặt trận lao động, lí tưởng cap đẹp của con người Việt Nam là dốc lòng,
dốc sức nhiệt tình xây dựng đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội:
+ Những người ngư dân đánh cá ngày đêm hát bài ca lao động trên biển để làm
giàu cho đất nước (“Đoàn thuyền đánh cá”)
+ Những con người làm việc quên mình như các nhân vật anh thanh niên, ông kĩ
sư nông nghiệp, anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét….(“Lặng lẽ Sa Pa”)
- Trong cuộc sống gia đình hằng ngày, họ có tình yêu thương rất trong sáng và
cao đẹp. Đó là người bà dành tất cả tình yêu thương cho con cháu(“Bếp lửa”); là người
mẹ, người cha hết lòng yêu thương con (“Con cò”;”Khúc hát ru những em bé lớn trên
lưng mẹ”;”Chiếc lược ngà”).
* Luận điểm 2: Những con người thể hiện quan niệm “sống là cho” một cách
cao đẹp.
- Những người chiến sĩ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ đều hi sinh tình cảm
riêng cho tình yêu đất nước, chấp nhận gian khổ hi sinh…( Kháng chiến bùng nổ, ông
Sáu từ giã những gì thân thương nhất: con thơ, vợ trẻ lên đường làm Cách mạng–
132
“Chiếc lược ngà”). Họ chấp nhận hiểm nguy, mưa bom bão đạn để đưa xe ra chiến
trường…(“Bài thơ về tiểu đội xe không kính”).
- Kể cả những người phụ nữ cũng đã biểu hiện quan niệm sống đó một cách hết
sức cảm động:
+ Người mẹ Tà – ôi tuy có con nhỏ nhưng vẫn địu con giã gạo, tỉa bắp, chuyển
lán hết lòng tham gia kháng chiến cho ngày đất nước thồng nhất.( “Khúc hát ru những
em bé lớn trên lưng mẹ”).
+ Các cô gái thanh niên xung phong sẵn sàng hi sinh tuổi xuân, dám coi thường
cái chết bảo đảm cho đoàn xe kịp giờ ra trận… ( “Những ngôi sao xa xôi”)
- Trên lĩnh vực xây dựng đất nước và cuộc sống hằng ngày, họ là những người
ngư dân ra khơi đánh cá đêm với tinh thần lạc quan (“Đoàn thuyền đánh cá”); là anh
thanh niên trên trạm khí tượng Yên Sơn chấp nhận mọi khó khăn góp phần dự báo thời
tiết phục vụ sản xuất và chiến đấu, ông kĩ sư nông nghiệp, anh cán bộ nghiên cứu bản
đồ sét… đều là những người lặng lẽ âm thầm, cống hiến tuổi xuân cho đất nước
(“Lặng lẽ Sa Pa”).
* Luận điểm 3: Với sự cống hiến của những con người cao đẹp ấy, sự nghiệp
kháng chiến vĩ đại của dân tộc đã thành công. Mặc dù ở lứa tuổi nào, hoàn cảnh nào họ
cũng giống nhau ở lí tưởng sống cao đẹp. Khát vọng của họ là sống cống hiến cho Tổ
quốc.
4. Đánh giá:
Các tác phẩm văn học Việt Nam thời kì 1955-1975 đã tập trung thể hiện vẻ đẹp
cao đẹp trong lẽ sống của con người Việt Nam. Đẹp nhất ở họ là lẽ sống “Sống là
cho”, mình vì mọi người, là dâng hiến trọn vẹn cho quê hương, đất nước.

ĐỀ 6. Cảm nhận về tình yêu thiên nhiên của thi nhân qua bài thơ “Mùa
xuân nho nhỏ” của Thanh Hải và bài thơ “Sang thu” của hữu Thỉnh”
1. MỞ BÀI
Tình yêu thiên nhiên là một trong những nội dung nổi bật của văn học Việt Nam.
Các nhà thơ Việt Nam hiện đại đã góp vào đề tài này bằng những nét riêng độc
đáo. Người đọc sẽ cảm nhận tình yêu thiên nhiên tha thiết của hai thi nhân: Thanh Hải
qua “Mùa xuân nho nhỏ”, Hữu Thỉnh qua “Sang thu”.
2. THÂN BÀI
a) Tình yêu thiên nhiên của thi nhân qua bài thơ Mùa xuân nho nhỏ:
Tình yêu thiên nhiên – thiên nhiên mùa xuân xứ Huế của nhà thơ thể hiện thật
tinh tế.
Nghệ thuật phối sắc thể hiện cái đẹp hài hòa của thiên nhiên: bông hoa tím biếc,
dòng sông xanh.
Biện pháp đổi trật tự cú pháp trong câu thơ vắt dòng:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Đã nhấn mạnh sự vươn lên trỗi dậy của thiên nhiên khi mùa xuân về; đã vẽ nên
một sắc xuân riêng của thiên nhiên xứ Huế. Bông hoa tím biếc khiến bức tranh xuân
trở nên bình dị, thân thiết.
Hai câu thơ kế tiếp đã mở rộng không gian nghệ thuật bức tranh xuân. Tín hiệu
xuân còn là tiếng hót vang trời của con chim chiền chiện:
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Thành phần gọi – đáp ơi đã nhân hóa con chim chim trở thành người bạn.
133
Từ ngữ hót chi – từ ngữ địa phương tăng tính biểu cảm của câu thơ.
Hai câu thơ 5, 6 trong khổ thơ xuất hiện bóng dáng nhân vật trữ tình trong bài
thơ:
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
Từng giọt long lanh có nhiều cách hiểu:
giọt sương treo đầu ngọn cỏ;
giọt mưa xuân
giọt âm thanh tiếng chim
Theo mạch cảm xúc, người đọc có thể nhận ra đây là âm thanh tiếng chim. Phép
tu từ ẩn dụ (chuyển đổi cảm giác) làm cho bức tranh xuân mang vẻ đẹp thơ mộng, trữ
tình với hành động đưa tay hứng âm thanh tiếng hót chim chiền chiện của nhà thơ –
nhân vật trữ tình trong bài thơ.
Sơ kết:
Đoạn thơ đẹp như bức tranh – bức tranh có dòng sông, hoa cỏ, có chim hót, có
bầu trời, sương mai, có ánh xuân, có con người.
Bức tranh có sắc xuân, tình xuân và có cả khúc nhạc xuân đã thể hiện tình yêu
thiên nhiên – thiên nhiên mùa xuân của thi nhân!
b) Tình yêu thiên nhiên của thi nhân qua bài thơ “Sang thu”:
Đọc “Sang thu” của Hữu Thỉnh, thêm một lần ta được thưởng thức vẻ đẹp của sự
cảm nhận tinh tế, những rung động của một tâm hồn nhạy cảm nghệ sĩ lúc thu sang.
Sự độc đáo bắt đầu bằng hương ổi – hương thu:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Hai chữ phả vào vừa gợi ra cái bất chợt trong cảm nhận, vừa gợi ra một cách
thực thể cái hương thơm của ổi, lại vừa gợi ra sự vận động nhẹ nhàng của gió.
Từ láy chùng chình đã nhân hóa sương gợi ra sự lay động của cây lá, vẻ tư lự của
lòng người, cái man mác của không gian chớm thu.
Thành phần biệt lập – thành phần tình thái hình như thể hiện một chút nghi hoặc,
một chút bâng khuâng, có cái gì đó không thật rõ ràng của bước chân mùa thu dù tín
hiệu thu sang đã rõ.
Cảm xúc của thời điểm chuyển giao tiếp tục lan tỏa, mở ra trong cái nhìn xa hơn,
rộng hơn:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Từ láy dềnh dàng đã nhân hóa sông dòng sông không còn chảy cuồn cuộn, gấp
gáp như trong những ngày mưa lũ mùa hạ nữa mà trở nên chậm chạp, thong thả.
Đối lập với sự dềnh dàng của dòng sông là sự vội vã của những cánh chim bay
«Chim bắt đầu vội vã». Từ láy vội vã đã nhân hóa những cánh chim – những cánh
chim đang chuẩn bị bay về phương Nam để tránh rét.
Sự đối lập này đã gợi lên sự vận động của sự vật trong giây phút giao mùa.
Đẹp nhất, giàu sức biểu cảm nhất là hình ảnh thơ:
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
134
Phép nhân hóa được sử dụng trong câu thơ tạo nên sự bất ngờ thú vị, tinh tế. Áng
mây bâng khuâng là hình ảnh thực nhưng cái ranh giới mùa là hư - sản phẩm của trí
tưởng tượng nhà thơ.
Đám mây đang trôi trên bầu trời một nửa là hạ một nửa là thu để rồi một lúc nào
đó nó bỗng ngỡ ngàng nhận ra mình đang trôi trong một bầu trời thu trọn vẹn.
Sơ kết:
Hình ảnh thơ tự nhiên, không trau chuốt mà giàu sức gợi cảm, thể thơ năm chữ
vắt dòng tạo ra những liên tưởng thú vị đã thể hiện một cách đặc sắc những xúc cảm
tinh tế trước bước chuyển giao của mùa; đã diễn tả cụ thể, tinh tế, nhạy cảm tình yêu
thiên nhiên tha thiết của Hữu Thỉnh.
Cách cảm nhận và miêu tả của tác giả: tinh tế, nhạy cảm, sự liên tưởng độc đáo.
Nhà thơ làm cho mùa thu trong thơ ca Việt Nam mang một hương sắc mới.
c). Đánh giá chung:
c.1) Điểm chung:
Cả hai thi nhân đều yêu thiên nhiên.
Tình yêu thiên nhiên của hai nhà thơ đều nhẹ nhàng, tinh tế nên cảnh sắc thiên
nhiên trong hai bài thơ không bị hòa lẫn vào cảnh sắc thiên nhiên của các bài thơ khác.
c.2) Điểm riêng:
Mùa xuân nho nhỏ:
Đổi trật tự cú pháp, ẩn dụ;
Bức tranh thiên nhiên mùa xuân xứ Huế;
Xúc cảm của thi nhân nghiêng về hình ảnh đầy sắc xuân đẹp đẽ của thiên nhiên,
đất trời – thể hiện tình yêu tha thiết với cuộc sống.
Sang thu:
Hình ảnh đặc trưng, giàu sức biểu cảm; phép nhân hóa;
Cảnh vườn thu, ngõ xóm của đồng bằng Bắc bộ;
Xúc cảm của thi nhân nghiêng về cảm nhận giây phút nhẹ nhàng – tình cảm gắn
bó tha thiết với quê hương.
3. KẾT BÀI
Tình yêu thiên nhiên – mùa xuân, mùa thu của hai thi nhân thật thiết tha đã bồi
đắp thêm cảm xúc, tình cảm yêu mến thiên nhiên cho mỗi người đọc.
Hai bài thơ: Mùa xuân nho nhỏ, Sang thu cùng với hai hồn thơ – Thanh Hải, Hữu
Thỉnh – đã làm đẹp những trang thơ – thơ hiện đại Việt Nam.

ĐỀ 7. Bức tranh xuân (mùa xuân nho nhỏ, cảnh ngày xuân)
Mùa xuân vốn là đề tài vô tận của thi nhân xưa và nay. Nếu như họa sĩ dùng
đường nét và màu sắc, nhạc sĩ dùng giai điệu và âm thanh thì thi sĩ lại dùng hình ảnh
và ngôn từ để diễn tả cảm xúc của mình - đặc biệt là diễn tả tình yêu thiên nhiên, yêu
cái men say nồng của sắc hương xuân.
Mùa xuân vốn là đề tài vô tận của thi nhân xưa và nay. Nếu như họa sĩ dùng
đường nét và màu sắc, nhạc sĩ dùng giai điệu và âm thanh thì thi sĩ lại dùng hình ảnh
và ngôn từ để diễn tả cảm xúc của mình - đặc biệt là diễn tả tình yêu thiên nhiên, yêu
cái men say nồng của sắc hương xuân. Hãy lật tìm trang sách đến với bốn câu thơ đầu
trong đoạn trích Cảnh ngày xuân trong kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du hãy hòa
nhịp tâm hồn vào đất trời xứ Huế với bốn câu thơ đầu trong Mùa xuân nho nhỏ của
Thanh Hải, bạn sẽ thấy non sông gấm vóc, quê hương Việt Nam đẹp biết bao!
Ngày xuân còn én dưa thoi

135
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa

và:
Mọc qiữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời.
Nguyễn Du và Thanh Hải họ tuy không cùng một thế hệ thơ, hoàn cảnh sống
khác nhau nhưng trong tâm hồn cua những người nghệ sĩ ấy luôn tràn đầy một tình
yêu thiên nhiên đến lạ kì! Ngòi bút của các thi sĩ đã thăng hoa, đã đồng điệu với vạn
vật tự nhiên, thổi vào đó một tình yêu, ý xuân ngọt ngào say đắm. Sao không yêu chứ,
sao không ngây ngất chứ! Vẻ đẹp của xuân hương, xuân của lòng người rộn ràng lắm,
náo nức lắm.
Mùa xuân ấy là màu xanh bát ngát của sự sống, của chồi non lộc biếc đang cựa
quậy trong từng vần thơ. Hai nguồn cảm hứng ở hai thời đại cũng như những sợi tơ
lòng dệt nên những bức danh họa tuyệt đẹp của mùa xuân có hình khối màu sắc, có xa,
có gần, có tĩnh, có động, có âm thanh rộn rã, có tình người đắm say. Chỉ một vài nét
chấm phá mà sao hai bức tranh xuân ấy lại đẹp đến vậy.
Ở mỗi đoạn thơ lại có những nét riêng, độc đáo. Nếu như Nguyễn Du tài hoa,
uyên bác trong ngôn từ thì Thanh Hải lại đằm thắm, ngọt ngào với những vần thơ đầy
ắp hình ảnh. Nguyền Du khi gợi tả mùa xuân đã kế thừa và sáng tạo từ một câu thơ cổ
Trung Quốc Phương thảo thiên liên bích / Lê chi sổ điểm hoa. Nếu như nhà thơ cổ
Trung Quốc đã phác họa bức tranh xuân có màu cỏ xanh non, có vẻ đẹp của mấy bông
hoa lê trên cành thì Nguyễn Du lại thể hiện được cả sức xuân căng tràn, dạt dào của
cỏ... cỏ càng xanh hoa càng trắng, chỉ mấy chữ non, xanh, trắng mà như chứa cả
hương thơm, cả sắc màu, cả tình người gửi vào đó. Nguyễn Du báo tín hiệu mùa xuân
bằng én đưa thoi thì với Thanh Hải là một bông hoa tím biếc mọc giữa dòng sông
xanh. Nguyễn Du đã dùng không gian để vẽ thời gian. Thời gian thấm thoắt đã trôi qua
hai tháng, nhanh như thoi đưa, chỉ đọng lại ánh sáng rực rỡ, cuối cùng của mùa xuân
trong tiết thanh minh. Còn Thanh Hải với cách đảo động từ mọc đã phác họa một hình
ảnh rất ấn tượng về sự sống mãnh liệt của loài hoa lục bình xứ Huế đang vươn lên giữa
phông nền của dòng sông xanh căng tràn sức sống. Nguyễn Du dùng những thi liệu là
cỏ non, cánh én đưa thoi, thiều quang, hoa lê trắng để vẽ nên bức tranh xuân cao rộng,
thoáng đãng đầy thi vị thì Thanh Hải đã dùng những hình ảnh dòng sông xanh, bông
hoa tím biếc, tiếng chim chiền chiện hót vang trời để làm nên cái độc đáo mà chỉ ở quê
hương xứ Huế mộng mơ mới có. Tiếng gọi của Thanh Hải ơi con chim chiền chiện hót
chi nghe sao mà tha thiết, ngọt ngào như con người xứ Huế vốn rất đẹp, rất chân thành
đó thôi.
Bức tranh xuân của Nguyễn Du non xanh như tâm hồn của cô thiếu nữ Thúy
Kiều, Thúy Vân trong buổi du xuân. Bức tranh xuân của Thanh Hải tươi sáng, ân tình,
chứa chan cảm xúc, thấm thía lòng người. Tâm hồn họ đều thăng hoa, rất thiết tha,
nhưng mỗi người lại có một bút pháp nghệ thuật riêng để ghi đậm cái tôi cá nhân trong
lòng độc giả. Nếu như Nguyễn Du đã vận dụng khéo léo thể thơ lục bát của dân tộc thì
Thanh Hải cũng rất mượt mà với thể thơ ngũ ngôn ngân nga như điệu nhạc xứ Huế
trong bản hòa ca của đất nước đang xây dựng xã hội chủ nghĩa.

136
Nguyễn Du với mười lăm năm lưu lạc, còn Thanh Hải đang phải giáp ranh với
cái chết nhưng ở họ vẫn nồng cháy tình yêu thiên nhiên, đất trời. Tinh cảm ấy đã hòa
chung dòng chảy với các tác phẩm khác cùng viết về mùa xuân.
Đã nhiều năm trôi qua, nhưng khi đọc những dòng thơ trên, lòng người đọc vẫn
không khỏi xúc động, rạo rực, mê say. Có lẽ Nguyễn Du cũng như Thanh Hải sẽ còn
sống mãi trong trái tim người đọc bởi những vần thơ như thế, bởi tấm lòng yêu mùa
xuân, yêu thiên nhiên, đất trời và con người tha thiết. Bởi ngòi bút của họ đã thăng hoa
thành những nét vẽ sâu sắc trong hồn ta một mùa xuân bất diệt, vĩnh hằng và truyền
vào lòng ta khát vọng được cống hiến, được làm Một mùa xuân nho nhỏ / Lặng lẽ
dâng cho đời...

ĐỀ 8:. Vẻ đẹp của tuổi trẻ Việt Nam qua hai nhân vật: Phương Định trong
"Những ngôi sao xa xôi" (Lê Minh Khuê) và anh thanh niên trong "Lặng lẽ Sa
Pa" (Nguyễn Thành Long).
=>Gợi ý:
- Học sinh có thể phân tích sóng đôi hay lần lượt từng nhân vật; có thể nêu điểm
chung về vẻ đẹp của tuổi trẻ Việt Nam trước hoặc sau khi phân tích điểm riêng của hai
nhân vật.
+ Điểm chung : Hai nhân vật tiêu biểu cho :
Tuổi trẻ Việt Nam trong cuộc kháng chiến anh hùng chống đế quốc Mĩ cứu
nước ; giàu nhiệt huyết, niềm tin và ước vọng; tự nguyện cống hiến và hi sinh cho đất
nước;
Tuổi trẻ Việt Nam dầy sức thanh xuân; dũng cảm trong chiến đấu, hăng say trong
lao động ; giàu mộng mơ, hồn nhiên, lạc quan, yêu đời, gắn bó với tập thể...
Điểm riêng:
Phương Định trong "Những ngôi sao xa xôi" (Lê Minh Khuê) là cô gái thanh
niên xung phong làm nhiệm vụ trinh sát phá bom trên tuyến đường Trường Sơn ; giàu
xúc cảm tinh tế và mơ mộng, lãng mạn ; vừa trẻ trung, có tâm hồn trong sáng, vừa gan
dạ, quả cảm, sống hết mình với đồng đội ...
* Tiêu biểu cho tuổi trẻ Việt Nam trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Anh thanh niên trong "Lặng lẽ Sa Pa" (Nguyễn Thành Long) là chàng trai làm
công tác khí tượng ở vùng cao Sa Pa; có lẽ sống đẹp “mình vỉ mọi người", có ý thức
trách nhiệm và tận tuy trong công việc, ý thức tự trau dổi tri thức và tâm hồn trong
cuộc sống; có tấm lòng nhân hậu, sống cởi mở, chân thành, khiêm tốn với mọi người,
hoà hợp với thiên nhiên ...
—* Tiêu biểu cho tuổi trẻ Việt Nam trong dựng xây đất nước.
* Chú ý : Học sinh cần có sự liên hệ với tuổi trẻ trong thời đại ngày nay.

Đề: Truyền thống “ Uống nước nhớ nguồn” là đạo lí tốt đẹp của dân tộc ta . Qua
các bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy, Bếp lửa của Bằng Việt và Nói với con của
Y phương , em hãy chứng minh nhận định trên .
Dàn ý
I. Mở bài
“Con người có cố có ông
Như cây có cội, như sông có nguồn”
- Bếp lửa của Bằng Việt, Ánh trăng của Nguyễn Duy và Nói với con của Y Phương là
các bài thơ gợi nhắc đạo lí ân tình thủy chung của dân tộc ta. Đó là lòng biết ơn gia
đình, quê hương đất nước và thẳm sâu hơn nữa là cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con
137
người .
II. Thân bài
a. Giải thích ngắn : “Uống nước nhớ nguồn “là tình cảm biết ơn những con người đã
tạo ra những giá trị vật chất hay tinh thần cho ta hưởng thụ. Là lòng yêu kính, trân
trọng những tình cảm yêu thương ta nhận được từ cuộc sống, từ người thân.
b. Chứng minh qua các luận điểm
b.1. Trong Bếp lửa , lòng biết ơn thể hiện ở dòng hồi ức về những kỉ niệm đầy xúc
động của 2 bà cháu
- Xa Tổ quốc, bếp lửa hồng gợi nhắc những hình ảnh thân thương: “Một bếp lửa
….nắng mưa”
- Những kỉ niệm trong những năm tháng khó khăn càng thể hiện niềm biết ơn sâu
nặng của cháu với công lao khó nhọc của bà: “Lên bốn tuổi … còn cay", “Tám năm
ròng … cánh đồng xa"
- Niềm biết ơn còn thể hiện ở những suy ngẫm của đứa cháu xa quê về hình ảnh bếp
lửa hồng, về bà, về quê hương Tổ quốc: “Mấy chục năm rồi ……..những tâm tình tuổi
nhỏ”
- Trân trọng, biết ơn bà cũng chính là biết ơn gia đình, quê hương đất nước: “Giờ cháu
đi xa … Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
b.2. Trong bài thơ “Nói với con”, lòng biết ơn thể hiện qua lời tâm tình trìu mến khi
người cha gợi nhắc con nhớ tới cội nguồn sinh dưỡng thiêng liêng của mỗi con người:
“Chân phải bước ….tiếng cười”
- Biết ơn quê hương, người cha mong mỏi con phải tiếp nối những đức tính quí báu
của người đồng mình và biết sống tự hào về quê hương:
Đức tính phẩm chất đó là:
+ Thái độ sống thủy chung, chấp nhận mọi khó khăn thử thách: “Sống trên đá
….nghèo đói”
+ Lối sống mạnh mẽ, bền bỉ mà khoáng đạt, sống mộc mạc giản dị mà giàu ý chí, niềm
tin: “Sống như sông ……….đâu con”
+ Tự lực tự cường trong lao đông xây dựng kiến thiết quê hương, tạo tự mình lên
những phong tục truyền thống đẹp đẻ tôn vinh vẻ đẹp của quê hương: “Người đồng
mình …….phong tục”
- Qua lời tâm tình, người cha chẳng những thể hiện tình cảm trìu mến, tin tưởng đối
với con mà còn truyền cho con niềm yêu quí tự hào vô tận với quê hương để con tiếp
nối truyền thống của quê hương: “Con ơi tuy thô sơ … Nghe con”
→ Mang theo bên mình hành trang tinh thần vô giá là sức sống mạnh mẽ của quê
hương. Biết ơn và tự hào về quê hương, ta sẽ ngẩng cao đầu mà đi, thẳng bước mà tiến
trên mọi nẻo đường đời
b.3. Trong bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, nét đẹp ân tình chung thuỷ được thể
hiện qua tâm tình và lời nhắn nhủ của người chiến sĩ sau những năm tháng trở về từ
cuộc kháng chiến:
- Anh (nhân vật trữ tình) nhắc lại những kỉ niệm gắn bó với vầng trăng, với thiên nhiên
nghĩa tình trong quá khứ: “Hồi nhỏ sống với đồng …..cái vầng trăng tình nghĩa”
- Anh nghĩ lại những tháng ngày trở về thành phố, quen dần với cuộc sống hào
nhoáng, anh đã lãng quên và quay lưng với quá khứ, với những năm tháng gian lao,
sâu nặng ân nghĩa vừa trải qua: “Từ hồi về thành phố…..như người dưng qua đường:”
- Anh giật mình, thức tỉnh lương tâm khi mặt người và mặt trăng đối diện nhau, quá
khứ ùa về trong tâm thức: “Ngửa mặt lên nhìn mặt…như là sông là rừng”.
- Anh suy ngẫm và nhắn nhủ với mọi người: nhân dân, đất nước luôn độ lượng vị tha,
138
tràn đầy ân nghĩa. Hãy biết sống ân tình chung thuỷ với quá khứ, với lịch sử, với nhân
dân và đất nước. Sự “giật mình” của anh đã nói được điều đó: “Trăng cứ tròn vành
vạnh….đủ cho ta giật mình”
III. Kết bài:
Ba bài thơ nằm trong mạch chủ đề lòng biết ơn – Đạo lí tốt đẹp của dân tộc. Sự yêu
quí tự hào gắn bó với quê hương, trân trọng những tình cảm gia đình, của những người
thân là yếu tố quan trọng đưa các bài thơ đi đến thành công.

9. Cảm nhận về lẽ sống đẹp của con người Việt Nam qua hai tác phẩm
“Lặng lẽ Sa Pa” và “Mùa xuân nho nhỏ”.
1.Mở bài :
- Dẫn dắt
- Giới hạn vấn đề: Các tác phẩm “ Mùa xuân nho nhỏ “của Thanh Hải và
“ Lặng lẽ Sa Pa “ của Nguyễn Thành Long đã cho em hiểu về vẻ đẹp của con người,
vẻ đẹp của lẽ sống hiến dâng cuộc đời .
2. Thân bài :
a. Khái quát :
“ Lẽ sống đẹp “ là cách sống của những con người có lí tưởng, có ước mơ và
hoài bão . Họ làm việc với tinh thần trách nhiệm cao và khao khát hiến dâng cho cuộc
đời những việc làm có ý nghĩa nhất của mình.
b. Phân tích
b.1. Lẽ sống đẹp là sống có lí tưỡng ước mơ và hoài bão, luôn yêu nghề
Trong tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa, lẽ sống đẹp thể hiện ở người thanh niên 27
tuổi ..sống ở đỉnh Yên Sơn cao 2600 mét . Nơi “ Bốn bề chỉ có cây cỏ và mây mù lạnh
lẽo. Công việc của anh là “ Đo gió, đo mưa, đo chấn động của trái đất ….” .( Phân
tích)
+Anh sống trong hoàn cảnh khắc nghiệt, công việc tẻ nhạt nhưng gian khổ nhất
là chống chọi với cô đơn.
+ Suy nghĩ đúng đắn : “Mình sinh ra ở đâu ? Mình vì ai mà làm việc ?”; “Khi ta
làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được “ ;“Công việc của cháu tẻ
nhạt là thế chứ cất nó đi cháu buồn chết mất”
+Anh hiểu nghĩa của công việc âm thầm của mình nhưng lại góp phần phục vụ
cuộc sống sản xuất và chiến đấu của nhân dân Miền Bắc . Anh hạnh phúc với điều
đấy.
b. 2. Sống đẹp còn là cách sống giàu tình cảm, chân thành và khiêm tốn
- Anh thanh niên vui thích đến cuống cuồng khi có khách đến chơi. Anh nói to
cả những điều lẽ ra không nên nói. Anh chu đáo ân cần với tất cả. Một bó hoa cho cô
gái, một giỏ trứng cho ông họa sĩ, gói củ tam thất cho bác lái xe … Tất cả đều thể hiện
một tình cảm nồng hậu anh dành cho mọi người.(Phân tích)
- Khiêm tốn, chân thành khi anh thanh niên từ chối ông họa sĩ :“Không, không,
bác đừng vẽ cháu! Để cháu giới thiệu với bác những người khác đáng cho bác vẽ
hơn.” Trong suy nghỉ của anh, ông kỹ sư ở vườn rau Sa Pa, đồng chí nghiên cứu khoa
học,anh bạn làm trên đỉnh Phan-xi-păng.và nhiều người khác nữa đáng được vẽ hơn vì
đóng góp của họ cho đất nước. ( Phân tích)
b.3. Lẽ sống đẹp là sống có ước mơ, khát vọng mãnh liệt được cống hiến
cho quê hương
-Trong “Mùa xuân nho nhỏ”, Thanh Hải đã viết: “Ta làm con chim hót …….xao
xuyến “( Phân tích)
139
+ Liệt kê, Các hình ảnh ẩn dụ tượng trưng đẹp:Những nguyện ước khiêm tốn,
chân thành
+ Đó là khát vọng sống hoà nhập vào cuộc sống của đất nước, cống hiến phần tốt
đẹp, dù nhỏ bé, của mình cho cuộc đời chung, cho đất nước.
- Khát khao cống hiến cả cuộc đời mình cho mùa xuân của đất nước:“ Một mùa
xuân ….tóc bạc “( phân tích)
+Sáng tạo một hình ảnh ẩn dụ tượng trưng, Các tính từ, động từ thể hiện thái độ
và hành động cống hiến đáng trân trọng. Hình ảnh hoán dụ, tổng kết cả cuộc đời khát
khao cống hiến cho cuộc sống mến yêu.
+ Thái độ “lặng lẽ dâng cho đời” nói lên ý nguyện thật khiêm nhường nhưng hết
sức bền bỉ và vô cùng đáng quý vì đó là những gì tốt đẹp nhất trong cuộc đời.
Dù nằm trên giường bệnh, lực tàn hơi kiệt nhưng nhà thơ vẫn vượt lên trên nỗi
đau riêng để cống hiến cho cuộc đời. Qua đó ta thấy nghị lực, niềm tin yêu cuộc đời
của nhà thơ .
b.4. Lẽ sống đẹp còn ở những con người ngày đêm lặng thầm lo nghĩ cho đất
nước .
Ông kỹ sư ở vườn rau dưới Sa Pa cần mẫn với công việc thụ phấn hoa như con
ong lặng lẽ hút mật cho đời chỉ với mong muốn “củ su hào nhân dân miền Bắc nước ta
ăn được to hơn, ngọt hơn trước”. Đồng chí nghiên cứu khoa học “mười một năm
không một ngày xa cơ quan”, suốt ngày “trong tư thế chờ sét”. Anh đang cố gắng hoàn
tất bản đồ sét riêng cho đất nước. Anh chính là hình ảnh của những con người quên
mình vì nhiệm vụ.
->Tất cả những nhân vật trong truyện Lặng lẽ Sa Pa,từ chính tới phụ, từ trực tiếp
đến gián tiếp xuất hiện qua lời kế của nhân vật khác – đều không có tên riêng. Điều đó
đã góp phần làm nôỉ bật sự cống hiến lặng lẽ của những người lao động mới trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
c. Đánh giá :
Tóm lại, Lặng lẽ Sa Pa với cốt truyện giản đơn, cuộc gặp gỡ chỉ trong ba mươi
phút nhưng tác giả giúp ta khám phá ra được biết bao vẻ đẹp trong tâm hồn của những
người lao động lặng thầm.
Mùa xuân nho nhỏ là những vần thơ đẹp, các hình ảnh ẩn dụ tượng trưng đầy
sáng tạo. Trong tác phẩm là tình yêu cuộc sống và khao khát cống hiến cho đời .
Qua hai tác phẩm trong dòng văn học hiện đại đã mang lại cái nhìn về đúng đắn
về vẻ đẹp của nhân cách con người, về thái độ sống. Ta càng yêu quí, trân trọng, tự
hào về họ.
3. Kết bài :
- Cảm xúc, thái độ của bản thân (tự hào, yêu quý, trân trọng … những con người
ấy).
10. Giá trị thiêng liêng của tình cảm gia đình qua đoạn trích “Chiếc lược
ngà” của Nguyễn Quang Sáng và bài thơ “Nói với con” của Y Phương, “Bếp lửa”
của Bằng Việt
I- Mở bài:
Giới thiệu được vấn đề nghị luận: tình cảm gia đình sâu nặng, thiêng liêng qua
các đoạn trích “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sang và bài thơ “Nói với con” của
Y Phương, “Bếp lửa” của Bằng Việt.
II- Thân bài:
“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
……………..
140
Ôi kì lạ và thiêng liêng — bếp lửa!”
Điêp từ “ Nhóm” được nhắc lại bốn lần mang bốn nghĩa khác nhau, tỏa sáng dần
dần nét “ kỳ lạ” của bếp lừa và vẻ đẹp “thiêng liêng” từ vóc dáng đến việc làm, nhất là
tình nghĩa của bà.
2- Tình cha con:
a- Trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh:
+ DC1: Ở khu căn cứ: Ong Sáu sung sướng khi tìm được khúc ngà voi “ mặt hớn
hở như đứa trẻ được quà”
+ DC2: Ông Sáu đã thận trọng, tỉ mỉ cưa từng cái răng lược, tẩn mẩn khắc từng
nét chữ “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Lúc nhớ con, lấy lược ra ngắm, mài lên tóc
cho bóng. Rât mong gặp conũ chỉ bấy nhiêu đỏ thôi cũng đủ cho ta cảm thấy thật xúc
động trước tình cảm mãnh liệt của người cha dành cho con -> CLN không còn đơn
thuân là món quà, lời hứa của ông Sáu mà đã trở thành một biêu tượng của tình yêu
thương, tình phụ tử bất diệt. b- Trong cuôc sống lao đông của người miền núi:
-DC1: Người cha nói với con vê tình cảm cội nguôn:
“ Chân tiếng cười.”
- Động từ “bước”, “ chạm”: Từng bước đi, từng tiếng nói của con đều được cha
mẹ chăm chút, vui mừng đón nhận.
-DC2: Người cha nói với con về truyền thống quê hương:
“ Người đồng mình thơ sơ da thịt
Nghe con.”
+ Nghệ thuật ẩn dụ, hình ảnh đối lập: Người đồng mình có thể mộc mạc, thô sơ
da thịt nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn và ý chí. Chính họ, bằng lao động cần cù để
xây dựng quê hương. Ngược lại, quê hương cho họ những phong tục, tập quán tốt đẹp.
+ Động từ “ đục”: âm thanh khỏe khoắn, chắc chắn, rắn rỏi như tính cách người
miền núi.
+ Cha khuyên con bước vào đời luôn vững tin, mạnh mẽ, sống đường hoàng,
vững chãi, ...
III- Kết bài:
Khái quát, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm.
Liên hệ bản thân.
12. Cảm nhận của em về hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua các tác phẩm
“Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ và “Truyện Kiều” của
Nguyễn Du.
A - Dàn ý chi tiết:
I - Mở bài:
- Giới thiệu được vấn đề cần nghị luận ( Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua
hai tác phẩm).
II – Thân bài:
* Giới thiệu những nét chung về nội dung của các tác phẩm văn học viết về người phụ
nữ trong xã hội phong kiến: đó là những người phụ nữ có tài, có sắc hoặc có vẻ đẹp
tâm hồn nhưng lại phải sống cuộc đời bất hạnh, khổ đau, gặp nhiều bi kịch -> Khi viết
về họ, các tác giả thường thể hiện tấm lòng nhân đạo của mình.
* Phân tích cụ thể:
1. Hình tượng người phụ nữ Việt Nam là hiện thân của cái đẹp:
a. Vẻ đẹp hình thức:
- Vũ Nương: vẻ đẹp dịu dàng, thuần hậu ( “tư dung tốt đẹp”).
- Thúy Kiều: Kiều đẹp”sắc sảo, mặn mà”. ( dẫn chứng trong bài “Chị em Thúy Kiều ).
141
b. Vẻ đẹp tài năng, phẩm chất:
- Vũ Nương: tính tình thùy mị nết na, yêu thương và chung thủy với chồng, hiếu thảo
với mẹ chồng, thương con, hết lòng lo cho hạnh phúc gia đình… ( Dẫn chứng )
- Thúy Kiều:
+ Không chỉ đẹp, Kiều còn là người phụ nữ toàn tài. Cầm kỳ, thi, họa-tài nào nàng
cũng
giỏi nhưng nổi trội nhất vẫn là tài đàn. Đặc tả cái tài của Kiều cũng là để ngợi ca cái
tâm
đặc biệt của nàng. Bản đàn bạc mệnh mà nàng sáng tác chính là tiếng lòng của trái tim
đa sầu đa cảm.
+ Hiếu thảo với cha mẹ, giàu đức hi sinh, có lòng vị tha, có trái tim đôn hậu, có ý thức
sâu sắc về nhân phẩm của mình… ( Dẫn chứng qua các đoạn trích đã học và đọc
thêm).
2. Hình tượng người phụ nữ Việt Nam là hiện thân của những số phận bi thương:
* Qua hai tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” và “Truyện Kiều”, ta thấy
người phụ nữ trong xã hội xưa là nạn nhân của xã hội phong kiến có nhiều bất công
dẫn đến những đau khổ, thiệt thòi.
- Người phụ nữ là nạn nhân của chế độ nam quyền:
+ Nàng Vũ Nương có một cuộc hôn nhân không bình đẳng ( Trương Sinh xin mẹ trăm
lạng vàng cưới Vũ Nương về làm vợ. Sự cách bức giàu nghèo khiến Vũ Nương luôn
mặc cảm” “thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu”; và sau này, cũng là cái thế
để Trương Sinh đối xử với vợ một cách vũ phu, thô bạo, gia trưởng).
+ Chỉ vì hiểu lầm mà Trương Sinh độc đoán, hồ đồ mắng nhiếc Vũ Nương, không cho
nàng cơ hội thanh minh, phải tìm đến cái chết để minh oan.
+ Vũ Nương chết oan ức nhưng Trương Sinh không ân hận day dứt, không hề bị xã
hội lên án. Trương Sinh coi như việc đã qua rồi. Như vậy, chuyện danh dự, sinh mệnh
của người phụ nữ bị tùy tiện định đoạt bởi người đàn ông, không có hành lang đạo lí,
dư luận xã hội bảo vệ, che chở.
- Người phụ nữ còn là nạn nhân của chiến tranh, của xã hội đồng tiền đen bạc.
+ Vũ Nương lấy Trương Sinh, chàng ra lính để lại mẹ già và đứa con còn chưa ra đời.
Nuôi dưỡng mẹ già, chăm sóc con, nàng tận tụy vì gia đình nhưng chiến tranh làm xa
cách, tạo điều kiện cho sự hiểu lầm trở thành nguyên nhân gây bất hạnh.
+ Nàng Kiều lại là nạn nhân của xã hội đồng tiền. Xã hội ấy vận động trên cơ chế:
“Một ngày lạ thói sai nha
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền”.
Để có tiền cứu cha và em khỏi bị đánh đập, Kiều đã phải bán mình cho Mã Giám Sinh
– một tên buôn thịt bán người, để trở thành món hàng cho hắn cân đong, đo đếm, cò
kè…
Cũng vì đồng tiền, Túi Bà và Mã Giám Sinh đẩy Kiều vào chốn lầu xanh nhơ nhớp,
khiến nàng phải đau đớn, đắng cay suốt mười lăm năm lưu lạc, phải “thanh lấu hai
lượt, thanh y hai lần”.
- Những người phụ nữ như Vũ Nương, Thúy Kiều đều phải tìm đến cái chết để giải nỗi
oan ức, thoát khỏi cuộc đời đầy đau khổ, oan nghiệt.
3. Khái quát, nâng cao:
- Người phụ nữ trong hai tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” và “Truyện
Kiều” hội tụ những vẻ đẹp đáng quý nhất và cũng là đầy đủ những gì đau khổ, tủi nhục
nhất của con người. Họ là đại diện tiêu biểu của hình ảnh người phụ nữ Việt Nam
trong xã hội cũ.
142
- Viết về người phụ nữ, các nhà văn,nhà thơ đã đứng trên lập trường nhân sinh để bênh
vực cho họ, đồng thời lên tiếng tố cáo gay gắt với các thể lực đã gây ra nỗi đau khổ
cho họ.
- Liên hệ với cuộc sống của người phụ nữ trong xã hội hiện đại.
III – Kết bài:
Nêu cảm nghĩ của bản thân về cuộc sống của người phụ nữ trong xã hội phong
kiến.

BÀI THAM KHẢO


Từ xưa đến nay, người phụ nữ trong xã hội phong kiến luôn chiếm một vị trí
trung tâm và là đối tượng chính trong văn học Việt Nam, thể hiện cảm quan hiện thực
và khuynh hướng tư tưởng có màu sắc nhân văn. Nhận xét về số phận người phụ nữ,
Nguyễn Du đã xót xa: "Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời
chung". Ta có thể dễ dàng làm rõ nhận xét trên chỉ bằng hai ví dụ điển hình: nàng Vũ
Nương trong tác phẩm Truyện người con gái Nam Xương và nàng Thuý Kiều trong
Truyện Kiều. Những biến động vô lường của cuộc sống con người là hình tượng
“Phận đàn bà bạc mệnh” bị vùi dập dưới sự tàn bạo của chế độ phong kiến.
Vũ trụ có nhiều kì quan nhưng kì quan tuyệt phẩm, huyền bí nhất có lẽ là phụ nữ.
Trong xã hội ngày nay, vai trò và hình ảnh của người phụ nữ được tôn vinh hơn hẳn
những thời kì lịch sử trước, những thời kì nước ta đang đắm chìm trong đêm đen loạn
lạc của chế độ phong kiến. Thương thay, số phận của người phụ nữ phong kiến thật
chua xót bất hạnh. Bằng sự đồng cảm và cảm thông ấy các nhà thơ nhà văn cùng thời
đã tạc vào lịch sử văn học Việt Nam hình ảnh người phụ nữ phong kiến, đại diện cho
cái đẹp hoàn mĩ. Đó là hai tác phẩm tiêu biểu Chuyện người con gái Nam Xương của
Nguyễn Dữ và Truyện Kiều của Nguyễn Du. Mặc dù hai nàng Kiều, Vũ Nương tài sắc
vẹn toàn nhưng cuộc đời hai nàng lại chất chứa những trang buồn đầy nước mắt, bi
kịch.
"Chuyện người con gái Nam Xương" xoay quanh về cuộc đời và số phận bi thảm
của Vũ Nương - người con gái nhan sắc, đức hạnh. Nàng lấy chồng là Trương Sinh,
con nhà hào phú nhưng ít học, có tính đa nghi và hay ghen. Cuộc sống gia đình đang
êm ấm thì Trương Sinh phải đầu quân đi lính. Chàng đi đầy tuần, Vũ Nương sinh con
trai, hết lòng nuôi dạy con, chăm sóc, lo ma chay cho mẹ già chu đáo và thủy chung
đợi chồng. Đêm đêm, nàng thường trỏ bóng mình trên vách và nói với con đó là cha
của bé. Giặc tan, Trương Sinh trở về, tin lời con nhỏ, nghi ngờ vợ thất tiết, nhục mạ,
đánh đuổi nàng đi. Phẫn uất, Vũ Nương nhảy xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Sau
một thời gian, chàng Trương Sinh mới biết được nỗi oan của vợ và lập đàng giải oan
cho nàng. Vũ Nương hiện về giữa bến Hoàng Giang lúc ẩn, lúc hiện rồi biến mất.
Truyện Kiều nói về nàng Kiều là người con gái đầu lòng trong một gia đình trung
lưu lương thiện, sống cùng cha mẹ và hai em, là người tài sắc vẹn toàn. Trong buổi du
xuân Kiều gặp Kim Trọng 2 người nảy sinh tình cảm, hai người tự do đính ước với
nhau. Kim Trọng về quê chịu tang chú. Gia đình Kiều bị mắc oan, Kiều phải bán mình
chuộc cha. Kiều bị bọn buôn người là Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa gạt đẩy
vào lầu xanh. Nàng được Thúc Sinh cứu vớt nhưng lại bị vợ cả là Hoạn Thư ghen
tuông đầy đọa. Kiều đến nương nhờ cửa phật, sư Giác Duyên gửi nàng cho Bạc Bà vô
tình đẩy nàng vào lầu xanh lần hai. Ở đây Kiều gặp Từ Hải, Từ Hải lấy Kiều giúp Kiều
báo ân báo oán. Từ Hải bị Hồ Tôn Hiến hãm hại, Kiều bị ép gả cho viên thổ quan.
Kiều đau đớn tủi nhục, Kiều trẫm mình ở sông Tiền Đường và được sư Giác Duyên
cứu lần hai Kiều nương nhờ cửa phật. Sau khi chịu tang chú xong chàng Kim trở lại
143
tìm Kiều thì mới biết gia đình Kiều bị tai biến và nàng phải bán mình chuộc cha. Kim
Trọng kết hôn với Thúy Vân nhưng chẳng nguôi được mối tình say đắm chàng đi tìm
Kiều. Nhờ gặp sư Giác Duyên Kim Kiều gặp nhau gia đình đoàn tụ.
Nguyễn Du có viết:
"Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung".
Đó là những lời xót xa của Nguyễn Du khi viết về cuộc sống của những người
phụ nữ trong xã hội mà ông đang sống. Dường như ông thấu hiểu sự đau khổ và bất
lực của những người phụ nữ trong xã thời phong kiến, cái xã hội thối nát, đầy rẫy
những sự bất công và trọng nam khinh nữ. Tất cả những người phụ nữ ở thời đại đó
đều thùy mị, đảm đang nhưng chỉ vì những thế lực phong kiến, những cách nghĩ ngu
muội mà cuộc đời họ đã chịu nhiều khổ cực. Mỗi người họ đều có một cuộc đời riêng,
một nỗi đau khổ riêng, nhưng họ đều có đặc điểm chung là "bạc mệnh". Ta có thể thấy
điều đó qua nhân vật Vũ Nương trong "Chuyện người con gái Nam Xương" của
Nguyễn Dữ và Thúy Kiều trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du
Người phụ nữ trong thời phong kiến xưa xuất hiện trong văn học thường là
những người phụ nữ xinh đẹp. Từ vẻ đẹp ngoại hình cho đến tính cách. Đều là đẹp
nhưng mỗi người lại mang một vẻ đẹp khác nhau, mỗi thân phận có một đặc điểm
ngoại hình riêng biệt. Ở Vũ Nương, nàng "thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp".
Khi lấy Trương Sinh, biết chàng có tính hay ghen nên nàng "cũng giữ gìn khuôn phép,
chưa từng lúc nào để vợ chồng xảy ra thất hòa". Nàng luôn một lòng, một dạ quý
chồng thương con nên khi chàng Trương đi lính, nàng "không mong được đeo ấn
phong hầu, chỉ cần ngày về được mang theo hai chữ bình yên". Có thể thấy, nàng là
người con gái hiền lành, chất phác, cưới chàng Trương, nàng không hề mong danh lợi
hay vinh hoa, phú quý mà chỉ vì một mong ước rất bình thường mà người phụ nữ nào
cũng muốn "thú vui nghi gia, nghi thất". Khi chàng Trương đi lính, Vũ Nương một
mình nuôi con, hết lòng chăm lo cho mẹ chồng như mẹ đẻ của mình. Lúc mẹ chồng bị
bệnh, nàng đã hết mực chăm sóc, rồi khi bà mất, nàng làm ma chay, tế lễ chu đáo, nuôi
con khôn lớn chờ đợi ngày Trương Sinh trở về. Đó là những nét đẹp về ngoại hình và
cả trong tâm hồn của người phụ nữ xưa. Và đặc biệt phải kể đến cả Thúy kiều, một
người con gái tài sắc vẹn toàn. Khi cha bị nghi oan, không có tiền để cứu cha, nàng đã
bán mình chuộc cha dù đã có lời thề non hẹn biển với Kim Trọng. Từ đó, nàng đã
không biết bao nhiêu lần rơi vào tay của những tên bán người như Tú Bà, Sở Khanh,
Mã Giám Sinh...lừa gạt. Ở nơi đất khách quê người, bị đẩy vào những chốn lầu xanh,
nàng vẫn lo nghĩ cho Kim Trọng, cho cha mẹ mình hơn cả bản thân. Nàng nhớ đến
Kim Trọng, nhớ đến những ngày thánh cùng chàng nguyện ước. Nàng lo không biết ai
sẽ chăm lo cho cha mẹ, ai sẽ quạt cho cha mẹ mỗi khi hạ đến, ai sẽ ủ chăn cho cha mẹ
mỗi khi sang thu. Một tâm hồn thủy chung và cao thượng. Họ, những người phụ nữ
phong kiến đều là những con người đẹp người đẹp nết. Họ một lòng chung thủy, hiếu
thảo với cha mẹ, luôn hết lòng chăm sóc gia đình thật tốt và chu đáo.
Những người phụ nữ đẹp là thế, tâm hồn thanh cao là vậy, nhưng đáng tiếc thay
họ lại sống trong một xã hội phong kiến thối nát với bộ máy quan lại mục rỗng, chế độ
trọng nam khinh nữ vùi dập số phận họ. Càng xinh đẹp họ lại càng đau khổ, lại càng
phải chịu nhiều sự chèn ép, bất công. Như một quy luật khắc nghiệt của thời bấy giờ,
hồng nhan thì bạc phận. Với Vũ Nương, sau khi chồng về, tưởng rằng gia đình sẽ sum
vầy trong hạnh phúc nhưng không ngờ số phận bạc bẽo đã xảy ra với nàng. Trương
Sinh đi lính trở về và đứa con của chàng lúc đó đã biết nói. Tin lời của 1 đứa trẻ ngây
ngô mà Trương Sinh đã đem lòng nghi oan cho Vũ Nương. Chàng bảo thủ, khăng
144
khăng, nhiếc mắng và đánh đuổi Vũ Nương 1 cách thậm tệ. Bỏ ngoài tai những lời
khuyên ngăn của dân làng, không thèm nghe những lời giải thích của Vũ Nương,
Trương sinh với cái tính ích kỉ, sự ghen tuông quá đỗi đã đẩy Vũ Nương đến ngõ cụt.
Nàng phải lấy cái chết để giữ trong trắng cho bản thân mình. Nhưng cái chết đó không
hề làm lương tâm Trương Sinh day dứt. Thật quá bất công. Cái chết của nàng không
chỉ tố cáo tính cách của chàng Trương, mà còn tố cáo cả xã hội phong kiến thời bấy
giờ. Với chế độ nam quyền thối nát, độc đoán, nó đã làm cho phụ nữ lúc bấy giờ phải
chịu rất nhiều những oan trái, tủi nhục không đáng có. Chỉ vì cái xã hội trọng nam
khinh nữ, cái xã hội người phụ nữ luôn ở mức thấp hèn mà nàng đã phải ôm nỗi đau
không được giải oan mà tự vẫn.
Không những Vũ Nương mà còn có rất nhiều người phụ nữ phải chịu những đau
đớn đó. "Phận đàn bà" trong xã hội ấy là "đau đớn", là "bạc mệnh", là tủi nhục không
kể xiết. Như là Vương Thúy Kiều trong "Truyện Kiều" - tiếng kêu thương thống thiết,
ai oán, não nùng của đại thi hào dân tộc "Nguyễn Du". Số phận của nàng còn lênh
đênh hơn Vũ Nương rất nhiều. Lần này, dưới chế độ đồng tiền hôi tanh đen bạc. Nó đã
tạo ra 15 năm đau đớn phiêu bạt của nàng Kiều xinh đẹp. Chỉ vì tiền mà bọn sai nha đã
gây nên cảnh tan tác, chia lìa của gia đình Kiều. Để có tiền cứu cha và em trai của
mình, nàng đã quết định bán thân cho Mã Giám Sinh – một tên gian ác buôn thịt bán
người. Và Kiều bỗng trở thành một món hàng để cho hắn cân đong, đo đếm, cò ke, ngã
giá... Và từ tay Mã Giám Sinh đểu cáng thì Kiều đã rơi vào tay Tú Bà, mụ chủ nổi
tiếng của thanh lâu. Là một người con gái xinh đẹp, tài năng, và đã sinh trưởng trong
một gia đình trung lưu, lương thiện gia giáo, dòng dõi cao quý, nên Thúy Kiều không
thể chấp nhận trở thành gái lầu xanh. Nàng cay đắng chịu đựng những trận đòn tàn
khốc của Tú Bà, nàng đã đi tìm cái chết nhưng không được vì bị Tú bà bắt gặp. Tú Bà
đã bày muốn thuê Sở Khanh lừa nàng, buộc nàng trở thành một cô gái lầu xanh thực
thụ. Thế là nàng đau đớn, cay đắng cam chịu số phận dấn thân vào cuộc sống ô nhục.
Đau đớn thay! Từ một cô gái trong trắng, đức hạnh, nàng đã trở thành một món đồ
chơi thú vị cho bọn khách chơi. Số phận trái ngang của Kiều không chỉ dừng lại ở đây
mà số phận của nàng còn lênh đênh, bèo dạt, mây trôi và lưu lạc 15 năm trời, đã chịu
bao nhiêu tai họa giáng xuống đầu
Vũ Nương và Thúy Kiều thật đáng thương! Họ dường như đại diện cho tầng lớp
phụ nữ ngày xưa. Họ không được hưởng bất cứ một thứ quyền lợi, không được hưởng
một chút tự do. Thật bất công! Những hủ tục phong kiến thối nát đã tạo nên khổ đau
cho người phụ nữ. Số phận của họ không thoát khỏi nanh vuốt của xã hội vô lí đó.
Nhưng tất cả những vẻ đẹp từ hình thức đến tâm hồn của họ thì luôn luôn đáng ca
ngợi, đáng trân trọng và nâng niu.
Trong xã hội phong kiến xưa, quyền sống còn của con người mà nhất là quyền
sống của người phụ nữ như là chỉ mãnh treo chuông, không có gì đảm bảo để tồn tại.
Cuộc sống của họ cũng có thể được ví như "chim trong lồng, cá trong chậu". Họ
không thể làm chủ được bản thân, làm chủ được cuộc sống của chính bản thân mình
dẫu cho họ chỉ khát khao một điều giản đơn ấy thôi. Tại sao lại như thế? Khi cái mơ
ước, niềm mong mỏi của những người phụ nữ quá đỗi tầm thường, bình dị: "làm chủ
được cuộc sống, có một gia đình hạnh phúc" nhưng chẳng thể nào thực hiện được.
Vâng, xin thưa rằng đó chình là tạo hóa trớ trêu mà thôi, thích đùa giỡn với số phận
mong manh của người phụ nữ.

145
13. PHẨM CHẤT CAO ĐẸP CỦA NGƯỜI VIỆT NAM TRONG ĐOẠN
HAI CỦA BÀI THƠ “NÓI VỚI CON (Y PHƯƠNG) VÀ KHỔ CUỐI CỦA BÀI
THƠ “BÀI THƠ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH” (PHẠM TIẾN DUẬT)
- Yêu biết mấy hình ảnh người thanh niên thời kỳ chống Mỹ : cần cù trong lao
động, anh hùng trong chiến đấu. Văn thơ thời kỳ kháng chiến chống Mĩ đã dựng lại cả
một thời kỳ máu lửa, đi sâu tìm tòi khám phá, ngợi ca vẻ đẹp của thế hệ thanh niên
trong chiến đấu cũng như trong lao động. Tôi nhớ mãi mãi Thao, Nho, Phương Định
trong "Những ngôi sao xa xôi" của Lê Minh Khuê ; Anh thanh niên, cô kĩ sư trong
"Lặng lẽ Sa Pa" của Nguyễn Thành Long ; và những người lính lái xe dũng cảm trong
"Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật. Họ là hiện thân của vẻ đẹp
con người Việt Nam, của sức sống dân tộc.
- Năm tháng trôi đi và lịch sử đã bước sang trang mới nhưng những con người ấy
vẫn sáng ngời lên nhắc nhở ta về một quãng đường đầy gian khổ, đau thương, lại rất
đỗi anh hùng mà đất nước mình đã đi qua. Để rồi mỗi lần đọc lại tôi không khỏi ngỡ
ngàng vì người dân mình đẹp quá, dũng cảm; và lòng tôi được như sống lại những
ngày còn chiến tranh bom đạn ấy.
"Những ngôi sao xa xôi" của Lê Minh Khuê ; "Lặng lẽ Sa Pa" của Nguyễn Thành
Long ; "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật hiện lên một tập thể
anh hùng đang ngày đêm chiến đấu kẻ thù và xây dựng với để giữ từng tấc đất, ngôi
nhà cho quê hương, đất nước và xây dựng quê hương đất nước ngày càng giàu đẹp hơn
. Ba nhà văn đều không đi sâu vào miêu tả những đau thương mất mát , vất vả khó
khăn của dân mình, hay tội ác tày trời của giặc Mỹ mà đi vào khám phá, ca ngợi vẻ
đẹp của con người Việt Nam trong chiến tranh cũng như trong lao động. Hình ảnh của
Thao, Nho, Phương Định ; Anh thanh niên, cô kĩ sư và những người lính lái xe và còn
biết bao con người nữa sáng lên mốt vẻ đẹp phẩm chất lạ thường. Họ là kết tinh của vẻ
đẹp dân tộc, sức sống dân tộc. Những con người yêu nước thiết tha, quên mình vì tổ
quốc ấy lại rất đỗi giản dị, sáng trong. Một tập thể anh hùng giữa hoàn cảnh chiến
tranh khốc liệt, trong đó mỗi một nhân vật đều có một vẻ đẹp riêng, một tâm hồn, một
cái "tôi' riêng hoà chung với cái "ta" rộng lớn.
"Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật và "Những ngôi sao xa
xôi" của Lê Minh Khuê là những tác phẩm xúc động, hào hùng về những người lính
thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Các tác giả đã đi sâu khám phá
vẻ đẹp của những người lính trẻ, những con người ngày đêm ra tiền tuyến vì miền
Nam ruột thịt. Con người hiện lên trong trang thơ , trang văn của Phạm Tiến Duật và
Lê Minh Khuê là một tập thể anh hùng đấy hiên ngang khí phách hào hùng. đã lắng
nghe họ sống để ghi lại cái nhịp sống hào hùng, ghị lại vẻ đẹp tâm hồn, bản chất anh
hùng của những con người giản dị, mộc mạc mà ngang tàng bất khuất.
- Đường Trường Sơn – nơi vận chuyển vũ khí lương thực vào chi viện Miền Nam
– những năm tháng này là “túi bom, chảo lửa”. Và trên nền hiện thực tàn khốc ấy đã
xuất hiện hình ảnh đẹp đẽ, phi thường của người chiến sĩ .
+ Hình ảnh làm chủ những chiếc xe không kính. người chiến sĩ không hề nản chí
hay run sợ mà trái lại, lại bình tĩnh đến lạ thường: “Ung dung buồng lái ta ngồi…..Như
sa như ùa vào buồng lái.” ( Phân tích làm rõ )
+ Nhưng có thể nói đẹp nhất của người chiến sĩ lái xe là thái độ, tinh thần dũng
cảm bất chấp gian khổ để chiến đấu và chiến thắng: “ Không có kính, ừ thì ướt áo….
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.” ( Phân tích làm rõ )
+ Những nữ thanh niên xung phong – những cô gái “Ba sẵn sàng” trên tuyến
đường Trường Sơn đóng quân trong một cái hang giữa trọng điểm “túi bom, chảo lửa”
146
trên tuyến đường Trường Sơn. Công việc hàng ngày của họ là đếm bom, rồi lao ra
trọng điểm sau những trận bom để đo khối lượng đất đá cần phải san lấp, đánh dấu vị
trí bom rơi và phá những quả bom chưa nổ. Một khối lượng công việc vừa đồ sộ vừa
nguy hiểm. Cái chết rình rập họ từng phút, từng giờ. ( Phân tích làm rõ )
- Các tác giả đã phát hiện vẻ đẹp anh dũng của con người Việt Nam nhưng chưa
đủ, nhà văn còn tìm thấy ẩm sâu bên trong những cong người gan góc, quả cảm ấy là
một trái tin đầy trẻ trung, nhiều khát vọng, tràn đấy tinh thần yêu thương
+ Đời sống chiến trường gian khổ là thế. Sự sống và cái chết ở đây chỉ là gang
tấc. Thế nhưng tình yêu thương đồng chí, đồng đội vẫn tỏa sáng lạ thường:”Những
chiếc xe từ trong bom rơi…Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.”( Phân tích làm rõ )
+ Người chiến sĩ lái xe làm nên những kỳ tích phi thường là nhờ “ Trái tim” chứa
chan tình yêu Tổ quốc : “Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước….Chỉ cần trong xe có
một trái tim”. ( Phân tích làm rõ )
+ Trong chiến đấu họ gan dạ, dũng cảm, quyết đoán là thế, nhưng trong cuộc
sống Những cô gái thanh niên xung phong là những cô gái trẻ trung, yêu đời, dễ rung
cảm, lắm ước mơ. Là phụ nữ, họ rất thích cái đẹp và thích làm đẹp cho cuộc sống: Nho
“mát mẻ như một que kem trắng”, thích ăn kẹo như một đứa trẻ, giàu mơ ; Thao lại
dạn dày, từng trải trong cuộc sống; thích thêu thùa; thích làm đẹp “tỉa đôi lông mày
của mình, tỉa nhỏ như cái tăm” dù trong công việc thì “ai cũng gờm chị: cương quyết,
táo bạo” (dũng cảm, táo bạo nhưng lại sợ nhìn thấy máu chảy); Phương Định là con
người hồn nhiên, nhạy cảm, lãng mạn và mơ mộng. ( Phân tích làm rõ )
- Lặng lẽ Sa Pa " như một bài ca về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của
những con người lao động tưởng chừng như bình thường mà cao cả, luôn quan tâm và
có trách nhiệm đối với quê hương , đất nước. Trong cái lặng lẽ của Sa Pa , một nhịp
sống sôi động , sáng tạo của tuổi trẻ đang trỗi dậy bên trong đó , hòa cùng với công
việc của mọi người trong đất nước . Đó là những con người lặng lẽ , âm thầm , ngày
đêm đang sống và cống hiến hết mình cho đất nước .
+ Họ là những con người nhiệt tình và hăng say trong lao động .Trong điều kiện
khắc nghiệt nhưng những người lao động ấy vẫn nhiệt tình, hăng say, mang hết sức lực
của mình để cống hiến cho Tổ quốc. Tiêu biểu là Anh thanh niên với những suy nghĩ
đúng đắn, sâu sắc về công việc. Anh hiểu việc mình làm có ý nghĩa quan trọng “ phục
vụ sản xuất…”. Công việc tuy lặp lại đơn điệu song anh vẫn rất nhiệt tình, say mê, gắn
bó với nó. ( Phân tích làm rõ )
+ Họ còn là những con người sống có lí tưởng và tràn đầy lạc quan. Họ thực sự
tìm thấy niềm hạnh phúc trong công việc lao động đầy gian khổ.
Lí tưởng sống của anh thanh niên là vì nhân dân, vì đất nước. Chính từ suy nghĩ :
“mình sinh ra…. vì ai mà làm việc?” mà anh đã vượt lên nỗi “thèm người” để gắn bó
với đỉnh Yên Sơn trong công việc thầm lặng. ( Phân tích làm rõ )
Trong cái lặng im của Sa Pa, không phải chỉ có anh thanh niên mà còn có cả thế giới
những người “làm việc và lo nghĩ cho đất nước” qua lời anh kể như: ông kĩ sư vườn
rau, đồng chí cán bộ nghiên cứu lập bản đồ sét… Họ thực sự tìm thấy niềm hạnh phúc
trong lao động cống hiến. Cuộc sống của họ âm thầm, bình dị mà cao đẹp
"Những ngôi sao xa xôi" của Lê Minh Khuê ; "Lặng lẽ Sa Pa" của Nguyễn Thành
Long ; "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật là những tượng đài
lộng lẫy về vẻ đẹp của thế hệ thanh niên Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ
cứu nước đầy gian khổ thử thách mà rất đỗi anh hùng. Ba tác phẩm đi vào những khía
cạnh khác nhau của đời sống thời kì chống Mỹ, nhân vật hiện lên từ những khung
cảnh, hoàn cảnh khác nhau và bút pháp khắc hoạ cũng mang tính độc đáo, cá biệt
147
nhưng đều góp phần vào tiếng nói chung của dân tộc, tiếng nói phám phá ngợi ca vẻ
đẹp của con người Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Năm tháng trôi đi và lịch sử không ngừng biết động, "Những ngôi sao xa xôi"
của Lê Minh Khuê ; "Lặng lẽ Sa Pa" của Nguyễn Thành Long ; "Bài thơ về tiểu đội xe
không kính" của Phạm Tiến Duật mãi là những bông hoa không tuổi tựa mùa xuân
không ngày tháng, đã ghi lại cái quá khứ hào hùng, sôi động của đất nước mình một
thuở. Vẻ đẹp của con người Việt Nam đã làm nên cái hồn của cả dân tộc và góp phần
làm cho tác phẩm sống mãi với thời gian. Văn học thời kỳ kháng chiến chống Mĩ cứu
nước đã bắt được cái nhịp sống của dân tộc, đã ngợi ca sức sống và vẻ đẹp của con
người. Giờ lật lại, chúng ta không khỏi tự hào, xúc động về những năm tháng đất nước
mình đã đi qua, về vẻ đẹp muôn đời của con người đất Việt. Và ta mãi cất lên những
bài ca không bao giờ quên - bài ca viết về quê hương, viết về con người bởi tự hào biết
mấy hai tiếng: Việt Nam.

14. ÂN TÌNH VỚI QUÁ KHỨ QUA HAI TÁC PHẨM “BẾP LỬA” VÀ
“ÁNH TRĂNG”
I. Mở bài
"Ăn quả nhớ kẻ trồng cây", "Uống nước nhớ nguồn" đó là truyền thống lâu đời
của con người Việt Nam. Truyền thống ấy đã được nhắc đến rất nhiều trong các tác
phẩm văn học từ bao đời nay.
- Nổi bật là hai bài thơ "Ánh trăng" của Nguyễn Duy và "Bếp lửa" của Bằng
Việt.
- Qua các tác phẩm, các tác giả đã kín đáo bộc lộ những suy nghĩ, những chiêm
nghiệm về một lẽ sống ân nghĩa thuỷ chung cao quí trong cuộc đời mỗi con người.
II. Thân bài:
1. Khái quát ( Dẫn dắt vào bài )
- Hoàn cảnh sáng tác: Bằng Việt và Nguyễn Duy đều đã từng sống, trải qua
những năm tháng khó khăn, thiếu thốn, khốc liệt của chiến tranh và được cưu mang,
đùm bọc,sẻ chia…-> khi viết những tác phẩm này, hai nhà thơ đã được hưởng cuộc
sống hoà bình, ấm no, hiện đại.
- Gợi nhắc đạo lí về lòng biết ơn, lối sống ân nghĩa, thuỷ chung đối với mỗi
người.Dù là lòng thương nhớ, biết ơn bà hay ân tình với nhân dân, đất nước thì đều có
chung một nét đẹp nhân văn - đạo lí uống nước nhớ nguồn.
2. Nét đẹp ân nghĩa, thuỷ chung trong bài thơ "Bếp lửa" của Bằng Việt.
* Đó là tình cảm của người cháu đối với bà khi đã trưởng thành, xa nhà. Nơi đất
khách nhưng người cháu vẫn đau đáu nhớ về bà, nhớ về những năm tháng tuổi thơ xa
cách cha mẹ, gắn bó với bà. Những năm tháng đói khổ được bà chăm sóc.
- Cháu nhớ bà, xót xa, thương cảm thấu hiểu cuộc đời của bà cơ cực, gian nan mà
giàu đức hi sinh.
- Kỉ niệm thời thơ ấu bên bà: Bà chăm sóc, nuôi dưỡng, dạy dỗ cháu.
- Cuộc sống khó khăn, cuộc đời nhiều gian khổ nhưng tấm lòng bà vẫn bền bỉ,

148
mênh mông, giàu đức hi sinh.
- Người cháu không nguôi nhớ về bà, nhớ về quê hương cội nguộn
=> Hình ảnh "bếp lửa" bình dị, thân thuộc=> hình ảnh kỉ niệm tuổi thơ, gian khó
nhọc nhằn, ấm áp tình bà cháu, xóm làng=>hình ảnh quê hương, cội nguồn – nỗi nhớ
trong lòng người xa quê.
=> Khẳng định giá trị nghệ thuật của bài thơ nhé!
3. Nét đẹp ân nghĩa, thuỷ chung trong bài thơ "Ánh trăng" của Bằng Việt.
* Trong bài thơ này, truyền thống ân nghĩa, thuỷ chung được thể hiện qua lời tâm
tình của nhân vật trữ tình.
- Gợi nhớ kỉ niệm tuổi thơ đẹp đẽ gắn bó với thiên nhiên, quê hương.
- Trân trọng những sẻ chia trong những năm tháng gian lao, vất vả ở những năm
tháng chiến tranh.
=> Ánh trăng là hình ảnh của thiên nhiên, là người bạn tri kỉ là biểu tượng cho
quá khứ nghĩa tình, vẻ đẹp vĩnh hằng của cuộc sống.
- Nhắc nhở, thức tỉnh con người lối sống ân tình, ân nghĩa,đừng bao giờ lãng
quên quá khứ.
4. Nhận xét, đánh giá:
- Mỗi bài thơ là một hình ảnh, một mạch cảm xúc nhưng đều sâu lắng, thiết tha.
- Cả hai bài thơ đều khẳng định: hãy sống ân tình, thuỷ chung với quê hương, với
quá khứ, với lịch sử và nhân dân. Chẳng ai hạnh phúc nếu không biết trân trọng, tri ân
và chung thuỷ với quá khứ.
III. Kết bài:
"Ánh trăng" của Nguyễn Duy, "Bếp lửa" của Bằng Việt gợi lại bao suy nghĩ ,
chiêm nghiệm về một lẽ sống ân nghĩa thủy chung cao quý trong cuộc đời. Có bao giờ
ta tự hỏi tại sao cũng chỉ là những hình ảnh quen thuộc thôi mà con người lại có thể
nhìn thấy bao điều? Nó níu giữ con người khỏi bị trôi trượt đi bởi những lo toan tất bật
hằng ngày, nó bảo vệ con người khỏi những cám dỗ tầm thường. Và trên hết, nó luôn
hướng con người đến những giá trị bền vững của cuộc sống.

15. VẺ ĐẸP NGƯỜI VN QUA NHIỀU THẾ HỆ TRONG CÁC TÁC PHẨM
VH
Con người Việt Nam với những sức mạnh nội lực phi thường đã đi qua những
năm tháng vất vả và gian lao của đất nước luôn là một mảnh đất màu mỡ để văn học
dày công khai phá. Qua những tác phẩm văn học, chân dung con người Việt Nam
thuộc nhiều thế hệ từ những em bé ngây thơ, đáng yêu đến những bậc trung niên hay
lão thành đều hiện lên thật sinh động. Điều đó được thể hiện qua nhóm nhân vật: ông
Hai (Làng - Kim Lân), người thanh niên (Lặng lẽ Sa Pa - Nguyễn Thành Long), ông
Sáu và bé Thu (Chiếc lược ngà - Nguyễn Quang Sáng), ba cô gái thanh niên xung
phong (Những ngôi sao xa xôi - Lê Minh Khuê).
Những nhân vật, những tác phẩm trên ra đời trong những năm tháng cả dân tộc
đang gắng sức lao động, chiến đấu để bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Ông Hai (Làng -
149
Kim Lân) được xây dựng năm 1948, những năm đầu của cuộc kháng chiến chông
Pháp thiếu thốn, khó khăn. “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long ra đời năm I960,
miền Bắc đang ra sức lao động sản xuất “mỗi người làm việc bằng hai” để xây dựng
chủ nghĩa xã hội và chi viện cho miền Nam đánh Mĩ. Cha con ông Sáu trong “Chiếc
lược ngà” được Nguyễn Quang Sáng sáng tác trong lửa đạn của cuộc kháng chiến
chống Mĩ ác liệt những năm 1966. Và ba cô gái Phương Định, Thao, Nho “Những
ngôi sao xa xôi” được Lê Minh Khuê cho ra đời năm 1977. Có thể nói, ở mỗi nhân vật
đều phảng phất mùi vị của thuốc súng chiến trường và mồ hôi lao động. Từng thế hệ
con người đã sống đúng với chính mình để hòa mình vào những năm tháng khẩn
trương, sôi động của đất nước.
Trẻ em Việt Nam được hiện lên một phần cơ bản qua hình ảnh bé Thu trong
“Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng. Đó là những cô bé, cậu bé cá tính nhưng
hồn nhiên, đáng yêu và có tình cảm yêu - ghét rất mãnh liệt. Bé Thu trong tác phẩm là
cô bé sắc sảo, cá tính. Trong khi cả gia đình và họ hàng, làng xóm thừa nhận ông Sáu
là chồng, là cha, là anh em họ hàng,... của họ thì bé Thu giữ vững suy nghĩ non nớt
ngây thơ của mình kiên quyết không nhận cha. Trong suốt những ngày ông Sáu ở nhà,
dù ông ra sức yêu thương vỗ về nhưng nó vẫn xa lánh ông, quyết liệt từ chối... Tính
cách ấy cho phép ta liên tưỏng đến sự gan dạ, thông minh, không gì mua chuộc được
của những em bé giao liên, dẫn đường cho cán bộ hay những em nhỏ trong đội thiếu
niên Bát sắt đã được nhắc đến trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân.
Không chỉ vậy, các em còn là những đứa trẻ sống rất tình cảm, yêu gia đình yêu
quê hương tha thiết. Bé Thu trong câu chuyện trên phản ứng quyết liệt với ông Sáu lúc
ban đầu cũng chỉ bởi vết sẹo tai hại. Nhưng khi hiểu ra mọi điều, nó lao vào ông mà
ôm, mà hôn, mà níu kéo “con không cho ba đi”. Thu cũng yêu ba một tình yêu cháy
bỏng và cảm động. Thiếu nhi Việt Nam cũng vậy, các em luôn dành những tình cảm
tốt đẹp nhất cho cha mẹ, người thân và những gì thân thuộc nhất của mình.
Những tính cách đáng quý của tuổi nhỏ đã phát triển thành đức tính quý báu ở
những chàng trai, cô gái Việt Nam tuổi mười tám đôi mươi. Họ có tấm lòng yêu nước
kiên định, có lí tưỏng sống cao đẹp, gan dạ, dũng cảm và một tâm hồn trong trẻo ăm
ắp tình yêu thương. Bản thân bé Thu lớn lên đã trở thành một cô giao liên dũng cảm
xinh đẹp nổi tiếng nhiều chiến trường bởi sự gan dạ, mưu lược. Ba cô gái trong
“Những ngôi sao xa xôi” cũng không kém phần. Các cô làm nhiệm vụ san lấp hố bom
trên tuyến đường Trường Sơn đạn lửa. Hàng ngày, hàng giờ các cô ở dưới sự oanh tạc
bom đạn cửa kẻ thù, có những khoảnh khắc nghẹt thở trực tiếp tháo gỡ bom mìn... Dẫu
vậy, họ luôn hoàn thành nhiệm vụ, trở thành điểm tựa, niềm tin cho những chuyến
hàng, những cuộc hành quân vào miền Nam ruột thịt. Sông giữa nơi sự sống và cái
chết tranh giành nhau quyền ngự trị nhưng họ không để tâm hồn mình tàn lụi mà luôn
dạt dào niềm lạc quan yêu đời, yêu sống. Họ hiểu và yêu thương những người đồng
đội. Tâm hồn họ nhạy cảm, tinh tế, sông mãi những mộng mơ của thiếu nữ tuổi mười
tám đôi mươi. Trong cơn mưa rào chốn oai linh rừng đại ngàn những cô gái chẳng
khác nào con trẻ. Không đối mặt với bom đạn chiến trường nhưng anh thanh niên
trong “Lặng lẽ Sa Pa” lại có những cách riêng để cống hiến cho sự nghiệp chung của
đất nước. Anh làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu trên đình Yên Sơn heo hút
của Sa Pa vời vợi. Đó là công việc đất nước trao cho anh và dù gặp nhiều gian nan vất
vả anh vẫn hoàn thành nó bằng tình yêu công việc, bằng lí tưởng sống vô cùng cao
đẹp. Anh làm việc ở đó một mình - trên đỉnh Yên Sơn cao hơn hai nghìn mét. Từng
giây từng phút đối mặt với nỗi cô đơn, sự khắc nghiệt của thời tiết, sự vất vả của công
việc. Nhưng anh vẫn lạc quan, yêu đời yêu sống,...
150
Tuổi trẻ Việt Nam, nhắc đến họ là nhắc đến sức mạnh của ý chí, của lòng tin, sự
quả cảm phi thường và cả những mộng mơ, những nụ cười tiếng hát. Tâm hồn họ như
một dòng sông, vốn chảy êm đềm dịu mát nhưng những lúc cần có thể cuộn lên thành
triều cường giông tố cuốn trôi đi mọi rác rưởi cuộc đời.
Trầm lắng hơn, điềm đạm hơn là tâm hồn của thế hệ những người cha, người ông
trên mảnh đất chữ S diệu kì này. Nhưng dầu thế nào, ở họ vẫn toát lên vẻ chân thành
giản dị nhất của tình cảm con người. Đó là tình cảm đối với con cái, với những người
thân yêu. ông Sáu trong “Chiếc lược ngà” có một tình yêu dành cho con gái thật cảm
động. Tình yêu ấy ông nung nấu trong suốt gần chục năm đi kháng chiến. Khi trở về,
tình cảm ấy bùng cháy thành những yêu thương, hụt hẫng, giận hờn... với đứa con
ngây thơ, nhỏ dại. Khi được con nhận là ba, ông vui sướng biết bao và dồn tất cả tâm
sức vào việc làm tặng con chiếc lược ngà quý giá. Ở nhân vật này, ta thấy toát lên tình
phụ tử thiêng liêng sâu nặng. Với ông Hai trong truyện ngắn “Làng” cũng vậy. Với
ông, con cái là điểm tựa tinh thần vững chắc. Khi đau khổ nhất ông cũng thủ thỉ tâm sự
với đứa con thơ để cởi mở hết lòng mình với nó.
Tình yêu gia đình, người thân là cội nguồn cùa tình yêu quê hương đất nước.
Điều này được thể hiện sinh động hơn cả ở nhân vật ông Hai. Ông yêu cái làng cùa
mình như đứa con yêu mẹ. Đi đâu ông cũng khoe làng, khoe với tất cả sự say mê náo
nức lạ kì. Khi nghe tin làng theo giặc, ông đau khổ, tủi hờn như chính mình là kẻ theo
giặc, phản bội Tổ quốc. Phải có một tình cảm máu thịt với nơi chôn rau cắt rốn của
mình mới có được những cảm xúc lạ lùng đến vậy. Dẫu yêu làng đến vậy, ông vẫn sẵn
sàng “thù làng” nếu cái làng ấy phản bội nhân dân, phản bội Cụ Hồ. Đó là những cảm
xúc đặc biệt nó khẳng định tình yêu làng xóm, quê hương đã gắn liền với tình yêu đất
nước. Những tình cảm riêng đã gắn bó chặt chẽ với những tình cảm chung lớn lao hơn.
Và nếu cần thiết, họ có thể gạt bỏ niềm riêng để sống trọn vẹn cho những tình cảm cao
quý, thiêng liêng của cộng đồng.
Bởi có được những suy nghĩ và tình cảm sâu sắc như thế, thế hệ trung niên, lão
thành là điểm tựa của cách mạng Việt Nam. Nó là thế hệ người đứng nơi đầu sóng
ngọn gió để trực tiếp chiến đấu và hi sinh cho Tổ quốc. Ông Sáu trong “Chiếc lược
ngà” là một người như vậy. Ông thấm thía hơn ai hết nhiệm vụ thiêng liêng của bản
thân mình đối với đất nước và ông đã hiến dâng tất cả những gì mình có cho dân tộc.
Bảy tám năm đi chiến đấu, dù nhớ nhà nhớ con khôn nguôi ông vẫn không rời chiến
trường nửa bước. Ngày ông hết hạn nghỉ phép cũng là lúc con gái ông nhận cha. Ông
đã muốn ở lại xiết bao dù chỉ là vài giây ngắn ngủi nhưng tiếng giục lên đường đã
vang lên và ông đủ sức mạnh để cất bước.
Có thể nói, những thế hệ người Việt chân chính đã được tái hiện sinh động trong
một cảm hứng và quan điểm nhất quán, lôgic. Sợi dây xuyên suốt đời sống tinh thần
con người Việt Nam là tình yêu gia đình, yêu quê hương đất nước và sự cống hiến hết
mình cho những gì mình yêu quý, tôn thờ. Điều này lí giải vì sao trong bao lần cuộc
chiến tranh chống xâm lược, lần nào chúng ta cũng chiến đấu và chiến thắng. Một
chân lí thật đơn giản nhưng ít kẻ thù nào hiểu được: người Việt Nam đã ra trận với khí
thế, với tinh thần được kết từ mấy ngàn năm trong lớp lớp các thê hệ người Việt anh
hùng.
PHẦN TIẾNG VIỆT
1. CÁC PHƯƠNG CHÂM HỘI THOẠI
- Phương châm về lượng: Khi giao tiếp cần nói cho có nội dung; nội dung của lời nói
phải đáp ứng yêu cầu của cuộc giao tiếp, không thiếu, không thừa.
Vd: Trâu là loài gia súc nuôi ở nhà . (Nói thừa)
151
- Phương châm về chất: Khi giao tiếp, đừng nói những điều mà mình không tin là đúng
hay không có bằng chứng xác thực.
Vd: Ăn đơm nói đặt. (Đặt điều, bịa chuyện, vu khống)
- Phương châm quan hệ: Khi giao tiếp, cần nói đúng vào đề tài giao tiếp, tránh nói lạc
đề.
Vd: Ông nói gà, bà nói vịt. (Ông nói chuyện này, bà nói chuyện khác không cùng đề
tài)
- Phương châm cách thức: Khi giao tiếp, cần chú ý nói ngắn gọn, rành mạch, tránh
cách nói mơ hồ.
Vd: Dây cà ra dây muống. (Nói dài dòng)
Lúng búng như ngậm hột thị. (Nói ngập ngừng, ấp úng, không rõ ràng)
- Phương châm lịch sự: Khi giao tiếp, cần tế nhị và tôn trọng người khác.
Vd: Nói như đấm vào tai. (Nói mạnh, lớn tiếng, cộc, thiếu tế nhị)
Lưu ý:
- Việc vận dụng các phương châm hội thoại cần phù hợp với đặc điểm của tình huống
giao tiếp. (Nói với ai? Nói khi nào? Nói ở đâu? Nói để làm gì?)
- Việc không tuân thủ các phương châm hội thoại có thể bắt nguồn từ những nguyên
nhân sau:
+ Người nói vô ý, vụng về, thiếu văn hóa giao tiếp.
+ Người nói phải ưu tiên cho một phương châm hội thoại hoặc một yêu cầu khác quan
trọng hơn.
+ Người nói muốn gây một sự chú ý để người nghe hiểu câu nói theo một hàm ý nào
đó.
Vd: Tiền bạc chỉ là tiền bạc. (Vi phạm phương châm về lượng nhằm hướng người đọc
hiểu theo nghĩa ẩn: tiền bạc chỉ là phương tiện sống, không phải là mục đích cuối
cùng).
2. XƯNG HÔ TRONG HỘI THOẠI
- Tiếng việt có một hệ thống từ ngữ xưng hô rất phong phú, tinh tế và giàu sắc thái
biểu cảm.
- Người nói cần căn cứ vào đối tượng và các đặc điểm khác của tình huống giao tiếp
để xưng hô cho thích hợp.
3. CÁCH DẪN TRỰC TIẾP VÀ CÁCH DẪN GIÁN TIẾP
- Cách dẫn trực tiếp: là nhắc lại nguyên văn lời nói hay ý nghĩ của người hoặc nhân
vật; lời dẫn trực tiếp được đặt trong dấu ngoặc kép.
Vd: Bác Hồ có câu: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do, hạnh phúc".
- Cách dẫn gián tiếp: là thuật lại lời nói hay ý nghĩ của người hoặc nhân vật, có điều
chỉnh cho thích hợp; lời dẫn gián tiếp không nằm trong dấu ngoặc kép.
Vd: Bác Hồ từng nói rằng không có gì quý hơn độc lập, tự do, hạnh phúc.
4. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TỪ VỰNG.
Cùng với sự phát triển của XH, từ vựng của ngôn ngữ cũng không ngừng phát
triển. Các cách phát triển của từ vựng:
- Phát triển nghĩa của từ ngữ trên cơ sở nghĩa gốc của chúng.
152
Vd: Chân (1): bộ phận cơ thể người -> nghĩa gốc.
Chân (2): bộ phận của vật, tiếp giáp với mặt nền (chân bàn, chân ghế, chân
tường...) -> nghĩa chuyển.
Chân (3): bộ phận của vật, tiếp giáp và bám chặt với mặt nền (chân đồi, chân núi,
chân mây...) -> nghĩa chuyển.
* Có 2 phương thức chủ yếu phát triển nghĩa của từ ngữ: phương thức ẩn dụ và
phương thức hoán dụ.
Vd: Chân (2,3): chuyển theo phương thức ẩn dụ.
Vai (áo): Chuyển theo phương thức hoán dụ.
- Tạo từ ngữ mới để làm cho vốn từ ngữ tăng lên cũng là một cách để phát triển từ
vựng tiếng Việt.
Vd: Xe đạp + điện = xe đạp điện.
- Mượn từ ngữ của tiếng nước ngoài cũng là một cách để phát triển từ vựng tiếng Việt.
Bộ phận từ mượn quan trọng nhất trong tiếng Việt là mượn tiếng Hán.
Vd: sơn lâm, giang sơn,....
5. THUẬT NGỮ
- Khái niệm: Thuật ngữ là những từ ngữ biểu thị khái niệm khoa học, công nghệ,
thường được dùng trong các văn bản khoa học, công nghệ.
Vd: ôxi, bazơ,.....
- Đặc điểm của thuật ngữ:
+ Về nguyên tắc, trong mọi lĩnh vực khoa học, công nghệ nhất định, mỗi thuật ngữ chỉ
biểu thị một khái niệm, và ngược lại, mỗi khái niệm chỉ được biểu thị bằng một thuật
ngữ.
+ Thuật ngữ không có tính biểu cảm.
6. TRAU DỒI VỐN TỪ
- Muốn sử dụng tốt TV, trước hết cần trau dồi vốn từ. Rèn luyện để nắm được đầy đủ
và chính xác nghĩa của từ và cách dùng từ là việc rất quan trọng để trau dồi vốn từ.
- Rèn luyện để biết thêm những từ chưa biết, làm tăng vốn từ là việc thường xuyên
phải làm để trau dồi vốn từ.
7. KHỞI NGỮ
- Khởi ngữ là thành phần câu đứng trước chủ ngữ để nêu lên đề tài được nói đến trong
câu.
Vd: Giàu, tôi cũng giàu rồi.
- Trước khởi ngữ, thường có thể thêm các quan hệ từ: về, đối với
Vd: Về việc giàu, tôi cũng giàu rồi.
8. CÁC THÀNH PHẦN BIỆT LẬP
- Thành phần tình thái: được dùng để thể hiện cách dùng của người nói đối với sự việc
được nói đến trong câu.
Vd: có lẽ, hình như, chắc là,....
- Thành phần cảm thán: được dùng để bộc lộ tâm lí của người nói (vui, buồn, giận,.....)
Vd: ôi, chao ôi, trời ơi,....
- Thành phần gọi – đáp: để dùng để tạo lập hoặc duy trì giao tiếp.
153
Vd: này, ê,...
- Thành phần phụ chú: được dùng để bổ sung một số chi tiết cho nội dung chính của
câu. Thành phần phụ chú thường được đặt giữa hai dấu gạch ngang, hai dấu phẩy, hai
dấu ngoặc đơn hoặc giữa dấu gạch ngang với một dấu phẩy. Nhiều khi thành phần phụ
chú còn được đặt sau dấu hai chấm.
Vd: Lúc đi, đứa con gái đầu lòng của anh – và cũng là đứa con duy nhất của anh, chưa
đầy một tuổi.
9. LIÊN KẾT CÂU VÀ LIÊN KẾT NỘI DUNG
- Về nội dung:
+ Các đoạn văn phải phục vụ chủ đề chung của văn bản, các câu phải phục vụ chủ đề
của đoạn văn (LK chủ đề)
+ Các đoạn văn và các câu phải được sắp xếp theo một trình tự hợp lí (LK lôgic)
- Về hình thức:
+ Phép lặp từ ngữ: Lặp lại ở câu đứng sau từ ngữ đã có ở câu đứng trước.
+ Phép đồng nghĩa, trái nghĩa và liên tưởng: Sử dụng ở câu đứng sau các từ ngữ đồng
nghĩa, trái nghĩa hoặc cùng trường liên tưởng với từ ngữ đã có ở câu trước.
+ Phép thế: Sử dụng ở câu đứng sau các từ ngữ có tác dụng thay thế các từ ngữ đã có ở
câu trước.
+ Phép nối: Sử dụng ở câu đứng sau các từ ngữ biểu thị quan hệ với câu trước.
Vd: Chỉ ra phép liên kết câu, liên kết đoạn trong đoạn văn sau:
Trường học của chúng ta là trường học của chế độ dân chủ nhân dân, nhằm
mục đích đào tạo những công nhân và cán bộ tốt, những người chủ tương lai của
nước nhà. Về mọi mặt, trường học của chúng ta phải hơn hẳn trường học của thực
dân và phong kiến.
Muốn được như thế thì thầy giáo, học trò và cán bộ phải cố gắng hơn nữa để
tiến bộ hơn nữa.
10. NGHĨA TƯỜNG MINH VÀ HÀM Ý
- Nghĩa tường minh là phần thông báo được diễn đạt trực tiếp bằng từ ngữ trong câu.
Vd: Mời bác vào nhà uống chè.
- Hàm ý là phần thông báo tuy không được diễn đạt trực tiếp bằng từ ngữ trong câu
nhưng có thể suy ra từ những từ ngữ ấy.
Vd: Mời bác và cô vào trong nhà. Chè đã ngấm rồi đấy.
- Để sử dụng hàm ý, cần có 2 điều kiện sau đây:
+ Người nói (người viết) có ý thức ưa hàm ý vào câu nói.
+ Người nghe (người đọc) có năng lực giải đoán hàm ý.
11. CÁC BIỆN PHÁP TU TỪ:
1. SO SÁNH:
a. Khái niệm: So sánh là đối chiếu 2 hay nhiều sự vật, sự việc mà giữa chúng có
những nét tương đồng để làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho lời văn.
b. Cấu tạo của biện pháp so sánh:
- A là B:
“Người ta là hoa đất”
154
“Quê hương là chùm khế ngọt”

- A như B:
“Nước biếc trông như làn khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào”
[Thu vịnh – Nguyễn Khuyến]
“Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương”
[Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên]
- Bao nhiêu…. bấy nhiêu….
“Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”
[Ca dao]
Trong đó:
+ A – sự vật, sự việc được so sánh
+ B – sự vật, sự việc dùng để so sánh
+ “Là” “Như” “Bao nhiêu…bấy nhiêu” là từ ngữ so sánh, cũng có khi bị ẩn đi.
c. Các kiểu so sánh:
- Phân loại theo mức độ:
+ So sáng ngang bằng:
“Người là cha, là bác, là anh
Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ”
[Sáng tháng Năm – Tố Hữu]
+ So sánh không ngang bằng:
“Con đi trăm núi ngàn khe
Chưa bằng muôn nỗi tái tê lòng bầm
Con đi đánh giặc mười năm
Chưa bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi”
[Bầm ơi – Tố Hữu]
- Phân loại theo đối tượng:
+ So sánh các đối tượng cùng loại:
“Cô giáo em hiền như cô Tấm”
+ So sánh khác loại:
“Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm!”
[Núi đôi – Vũ Cao]
+ So sánh cái cụ thể với cái trừu tượng và ngược lại:
“Trường Sơn: chí lớn ông cha
155
Cửu Long: lòng mẹ bao la sóng trào”
[Nguyễn Văn Trỗi – Lê Anh Xuân]
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”
2. NHÂN HÓA:
a. Khái niệm: Nhân hóa là biện pháp tu từ sử dụng những từ ngữ chỉ hoạt động, tính
cách, suy nghĩ, tên gọi ... vốn chỉ dành cho con người để miêu tả đồ vật, sự vật, con
vật, cây cối khiến cho chúng trở nên sinh động, gần gũi, có hồn hơn.
b. Các kiểu nhân hóa:
- Dùng những từ vốn gọi người để gọi sự vật: Chị ong nâu, Ông mặt trời, Bác giun,
Chị gió,…
- Dùng những từ vốn chỉ hoạt động, tính chất của người để chỉ hoạt động tính chất của
vật:
“Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
[Tây Tiến – Quang Dũng]
"Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì”
[Bên kia sông Đuống – Hoàng Cầm]
- Trò chuyện với vật như với người:
“Trâu ơi ta bảo trâu này…”
[Ca dao]
3. ẨN DỤ:
a. Khái niệm: Ẩn dụ là BPTT gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng tên sự vật, hiện
tượng khác có nét tương đồng với nó nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.
b. Có bốn kiểu ẩn dụ thường gặp:
+ Ẩn dụ hình thức - tương đồng về hình thức
“Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông”
[Truyện Kiều – Nguyễn Du]
[hoa lựu màu đỏ như lửa]
+ Ẩn dụ cách thức – tương đồng về cách thức
“Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”
[Tục ngữ]
[ăn quả - hưởng thụ, “trồng cây” – lao động]
“Về thăm quê Bác làng Sen,
Có hàng râm bụt thắp lên lửa hồng”
[Nguyễn Đức Mậu]
[thắp: nở hoa, chỉ sự phát triển, tạo thành]
+ Ẩn dụ phẩm chất - tương đồng về phẩm chất
“Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”
[Ca dao]
156
[thuyền – người con trai; bến – người con gái]
+ Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác - chuyển từ cảm giác này sang cảm giác khác, cảm nhận
bằng giác quan khác.
“Ngoài thêm rơi chiếc lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng”
[Đêm Côn Sơn – Trần Đăng Khoa]
“Cha lại dắt con đi trên cát mịn
Ánh nắng chảy đầy vai”
[Những cánh buồm – Hoàng Trung Thông]
“Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
[Mùa xuân nho nhỏ - Thanh Hải]
“Một tiếng chim kêu sáng cả rừng”
[Từ đêm Mười chín – Khương Hữu Dụng]
c. Lưu ý:
- Phân biệt ẩn dụ tu từ và ẩn dụ từ vựng:
+ AD tu từ: có tính lâm thời, tính cá thể, phải đặt trong từng văn cảnh cụ thể để khám
phá ý nghĩa.
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng”
[Thương vợ - Tú Xương]
+ AD từ vựng: cách nói quen thuộc, phổ biến, không có/ ít có giá trị tu từ: cổ chai,
mũi đất, tay ghế, tay bí, tay bầu,...
4. HOÁN DỤ:
a. Khái niệm: Hoán dụ là BPTT gọi tên sự vật, hiện tượng, khái niệm này bằng tên
của một sự vật, hiện tượng khác có quan hệ gần gũi với nó nhằm làm tăng sức gợi
hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.
b. Có bốn kiểu hoán dụ thường gặp:
- Lấy một bộ phận để chỉ toàn thể:
“Đầu xanh có tội tình gì
Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi”
[Truyện Kiều - Nguyễn Du]
“Bàn tay ta làm nên tất cả
Có sức người sỏi đá cũng thành cơm”
[Bài ca vỡ đất – Hoàng Trung Thông]
- Lấy vật chứa đựng chỉ vật bị chứa đựng:
“Vì sao trái đất nặng ân tình,
Nhắc mãi tên người Hồ Chí Minh”
[Tố Hữu]
- Lấy dấu hiệu của sự vật để chỉ sự vật:
“Áo chàm đưa buổi phân li
157
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
[Việt Bắc - Tố Hữu]
- Lấy cái cụ thể để gọi cái trừu tượng
“Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”
Lưu ý:
Ẩn dụ và hoán dụ cùng chung cấu trúc nói A chỉ B nhưng khác nhau:
- Ẩn dụ: A và B có quan hệ tương đồng [giống nhau]
- Hoán dụ: A và B có quan hệ gần gũi, hay đi liền với nhau.
5. NÓI QUÁ/ PHÓNG ĐẠI/ KHOA TRƯƠNG/ NGOA DỤ/ THẬM XƯNG/
CƯỜNG ĐIỆU:
- Nói quá là phép tu từ phóng đại mức độ, quy mô, tính chất của sự vật, hiện tượng
được miêu tả để nhấn mạnh, gây ấn tượng, tăng sức biểu cảm.
“Độc ác thay, trúc Nam sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông hải không rửa sạch mùi”
[Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi]
“Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”
[Việt Bắc - Tố Hữu]
6. NÓI GIẢM, NÓI TRÁNH:
- Nói giảm nói tránh là một biện pháp tu từ dùng cách diễn đạt tế nhị, uyển chuyển,
nhằm tránh gây cảm giác quá đau buồn, ghê sợ, nặng nề; tránh thô tục, thiếu lịch sự.
“Bác đã đi rồi sao Bác ơi!”
[Bác ơi – Tố Hữu]
“Bác Dương thôi đã thôi rồi
Nước mây man mác, ngậm ngùi lòng ta”
[Khóc Dương Khuê – Nguyễn Khuyến]
7. ĐIỆP TỪ, ĐIỆP NGỮ:
- Là BPTT nhắc đi nhắc lại nhiều lần một từ, cụm từ có dụng ý làm tăng cường hiệu
quả diễn đạt: nhấm mạnh, tạo ấn tượng, gợi liên tưởng, cảm xúc… và tạo nhịp điệu
cho câu/ đoạn văn bản.
“Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín”
[Cây tre Việt Nam – Thép Mới]
- Điệp ngữ có nhiều dạng:
+ Điệp ngữ cách quãng:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu ?
Buồn trông nội cỏ dàu dàu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
158
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
[Truyện Kiều – Nguyễn Du]
+ Điệp nối tiếp:
“Mai sau
Mai sau
Mai sau
Đất xanh, tre mãi xanh màu tre xanh”
[Tre Việt Nam – Nguyễn Duy]
+ Điệp vòng tròn:
“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?”
[Chinh phụ ngâm – Đoàn Thị Điểm]
8. CHƠI CHỮ:
– Chơi chữ là BPTT lợi dụng đặc sắc về âm, về nghĩa của từ ngữ để tạo sắc thái dí
dỏm, hài hước,…. làm câu văn hấp dẫn và thú vị.
“Bà già đi chợ cầu đông
Xem một que bói lấy chồng lợi chăng
Thầy bói gieo quẻ nói rằng:
Lợi thì có lợi nhưng răng chẳng còn”
– Các lối chơi chữ thường gặp:
+ Dùng từ ngữ đồng âm
+ Dùng lối nói trại âm (gần âm)
+ Dùng cách điệp âm
+ Dùng lối nói lái.
+ Dùng từ ngữ trái nghĩa, đồng nghĩa, gần nghĩa.
– Chơi chữ được sử dụng trong cuộc sống hàng ngày, thường trong văn thơ, đặc biệt là
trong văn thơ trào phúng, trong câu đối, câu đố,….
9. LIỆT KÊ:
- Là sắp xếp nối tiếp hàng loạt từ hay cụm từ cùng loại để diễn tả đầy đủ, sâu sắc hơn
những khía cạnh khác nhau của thực tế hay tư tưởng, tình cảm.
“Tỉnh lại em ơi, qua rồi cơn ác mộng
Em đã sống lại rồi, em đã sống!
Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung
Không giết được em, người con gái anh hùng!”
[Người con gái anh hùng – Trần Thị Lý]
10. TƯƠNG PHẢN:
Là cách sử dụng từ ngữ đối lập, trái ngược nhau để tăng hiệu quả diễn đạt.
“O du kích nhỏ giương cao súng
Thằng Mĩ lênh khênh bước cúi đầu
Ra thế, to gan hơn béo bụng
159
Anh hùng đâu cứ phải mày râu”
[Tố Hữu]

PHẦN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI


1. Hiện tượng xã hội:
Mở bài:
- Giới thiệu vấn đề nghị luận.
- Hướng giải quyết.
Thân bài:
- Thực trạng, giải thích (nếu có)
- Nguyên nhân (Lưu ý: Với hiện tượng tích cực bỏ qua bước này)
- Hậu quả (Tích cực: tác dụng, ý nghĩa; Tiêu cực: Tác hại)
- Giải pháp (Tích cực: phát huy; Tiêu cực: phê phán, khắc phục)
- Bài học nhận thức và hành động.
Kết bài:
- Khẳng định lại vấn đề
- Liên hệ bản thân, kêu gọi.
2. Tư tưởng đạo lý:
Mở bài:
- Giới thiệu vấn đề nghị luận.
- Hướng giải quyết.
Thân bài:
- Giải thích (Là gì? Nêu biểu hiện)
- Phân tích, chứng minh
+ Khẳng định: đúng – sai, tốt – xấu.
+ Tại sao?
- Bàn luận (mở rộng vấn đề)
+ Hiểu đúng, đầy đủ, đa chiều
+ Ca ngợi / phê phán
- Bài học nhận thức và hành động.
+ Nhận thức
+ Hành động
Kết bài:
- Khẳng định lại vấn đề
- Liên hệ bản thân, kêu gọi.
3. Nhận định:
Mở bài:
- Giới thiệu vấn đề nghị luận.
- Trích dẫn.
Thân bài:
- Giải thích (Là gì? Nêu biểu hiện)
- Phân tích, chứng minh
160
- Bàn luận (mở rộng vấn đề)
+ Hiểu đúng, đầy đủ, đa chiều
+ Ca ngợi / phê phán
- Bài học nhận thức và hành động.
+ Nhận thức
+ Hành động
Kết bài:
- Khẳng định lại vấn đề
- Liên hệ bản thân, kêu gọi.

MỘT SỐ BÀI THAM KHẢO


SỬ DỤNG ĐIỆN THOẠI DI ĐỘNG CỦA HS TRONG HỌC ĐƯỜNG
I. Mở bài:
- Trên thế giới hiện nay, nhiều sản phẩm công nghệ cao đã ra đời nhằm phục vụ cho nhu cầu
cuộc sống. TRong đó ĐTDĐ là một sản phẩm tiện ích. Nhưng với đối tượng HS khi sử dụng
quá nhiều và tùy tiện trong trường học sẽ gây ra nhiều phiền lụy trong học tập và thi cử.
II. Thân bài:
1/ Giải thích:
- ĐTDĐ là thiết bị điện tử bỏ túi, giúp mọi người dễ liên lạc với nhau.
- ĐTDĐ công nghệ cao còn có nhiều chức năng như: nhắn tin, nghe nhạc, chơi
game, chụp hình, quay phim, lướt web,...và rất nhiều công dụng khác.
2/ Thực trạng:
- Giới trẻ hiện nay rất thích sử dụng ĐTDĐ, đặc biệt là lứa tuổi HS. Suốt ngày, đi đâu, các
bạn cũng cầm ĐTDĐ để nhắn tin, lên mạng.
- Trong lớp học, các bạn sử dụng ĐTDĐ để nghe nhạc, xem phim, nhắn tin, trò chuyện bất kể
môn học nào.
- Trong giờ kiểm tra, ĐTDĐ là phương tiện hữu hiệu cho việc sử dụng tài liệu để liên hệ bạn
bè, quay cóp....
- Những HS ý thức kém, ĐTDĐ còn là phương tiện, công cụ chụp ảnh, quay phim những hiện
tượng xấu, bạo lực học đường để tung lên mạng nhằm đe dọa, khủng bố người khác.
3/ Nguyên nhân:
- Phụ huynh có điều kiện kinh tế sắm sửa ĐTDĐ cho con em mình nhằm để quản lý, liên lạc.
- ĐTDĐ được mọi người, nhất là giới trẻ ưa chuộng và sử dụng nhiều vì tính tiện ích của nó:
nhỏ, gọn, thông tin liên lạc nhanh và nhiều chức năng nên một bộ phận HS sử dụng ĐTDĐ
đắt tiền như một phương tiện chứng tỏ đẳng cấp, sự sành điệu.
- Vì ĐTDĐ là phương tiện giải trí hấp dẫn: nghe nhạc, chơi game, lưu trữ và ghi nhớ những
điều cần thiết nên HS không chỉ trò chuyện, liên hệ bạn bè, trao đổi học tập, lướt web tra tầm
tài liệu mà còn dùng nó để thu âm lời giảng của thầy cô.
- Trong kiểm tra, thi cử, ĐTDĐ là công cụ cung cấp tài liệu để HS lén lút chép phao, trao đổi
bài vở với nhau.
4/ Tác hại:
- Các nhà KH chứng minh sóng điện thoại có hại cho sức khỏe, ảnh hưởng đến não bộ và các
cơ quan khác.
-Mang ĐTDĐ vào lớp, HS sẽ mãi mê nhắn tin, nghe nhạc, chơi game nên không chú ý nghe
giảng, xao nhãng học tập. Dẫn đến việc học sa sút.
- Một số HS ý thức kém, lười biếng, học tủ, học vẹt nên liều lĩnh sử dụng ĐTDĐ trong giờ
kiểm tra, thi cử như một phương tiện, một chiếc phao cứu hộ cho việc chép tài liệu, việc nhắn
bài nhau...gây phiền lụy trong thi cử.
161
- Mặc dù được nhắc nhỡ kĩ càng nội quy thi, vẫn có một số HS tùy tiện mang ĐTDĐ vào
phòng thi nên dù chưa hoặc không sử dụng, HS đó vẫn bị kỷ luật.
5/ Giải pháp:
- Phụ huynh HS cần hạn chế việc sắm ĐTDĐ đắt tiền, nhiều chức năng để con em mình
không mất nhiều thời gian sử dụng, ảnh hưởng xấu đến việc học tập.
- Nhà trường cần theo dõi sát sao việc sử dụng ĐTDĐ tùy tiện của HS đặc biệt là trong giờ
kiểm tra, thi cử và nghiêm cấm hẳn việc mang ĐTDĐ đi học.
- HS cần ý thức được tác hại của việc sử dụng tùy tiện ĐTDĐ trong học đường để chấp hành
đúng quy định của trường lớp.
III. Kết bài:
- ĐTDĐ – lợi và hại, nên và không nên, sử dụng lúc nào, thời gian nào để có
hiệu quả, tác dụng là lý do, ý thức của HS.
- HS hãy ít dùng ĐTDĐ để tập trung vào viêc học nhiều hơn.

TÌNH YÊU THƯƠNG


I. Mở bài
- Con người ta được sinh ra, được sống trên đời đã là một hạnh phúc lớn lao. Nhưng có lẽ
được sống trong lòng của những người khác còn là hạnh phúc lớn lao hơn cả.
- Tình yêu thương là một điều quí giá nhất trong cuộc sống.
I. Thân bài
1. Giải thích:
Tình yêu thương là sự quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ, che chở lẫn nhau trong cuộc sống. Tình
yêu thương là một tình cảm tốt đẹp mà con người ta dành cho nhau, có tình cảm gia đình, tình
cảm bè bạn,... thậm chí là đối với những người ta không hề quen biết.
2. Chứng minh:
- Trong gia đình, chúng ta phải khóc khi được chứng kiến tình yêu đến vô bờ của cha mẹ đối
với con, anh chị em yêu thương nhau, những đứa con hiếu thảo đối với cha mẹ...
- Ở trường học: Ta thấy ngẹn ngào xúc động khi chứng kiến tình yêu thương của các bạn HS
với nhau, tình thầy trò...
- Ngoài xã hội: tình yêu thương xuất hiện khắp mọi nơi, giữa những người không quen biết
nhau, những công dân giàu tình yêu thương khi bắt gặp những con người có cuộc sống éo le,
bất hạnh như ở các trung tâm nuôi dưỡng trẻ em mồ côi, giúp đỡ người già, người tàn tật....
=> Nó có thể là thứ tình cảm được vun đắp, xây dựng trong một thời gian dài, nhưng cũng có
thế chỉ là một niềm thương cảm chợt trào dâng khi ta gặp một hoàn cảnh nào đó. Nhưng dù
với bất cứ biểu hiện nào thì tình yêu thương cũng luôn mang lại những điều kì diệu riêng cho
cả người cho đi và nhận về nó.
3. Tại sao trong cuộc sống rất cần tình yêu thương?
- Cái hạnh phúc mà tình yêu thương đem lại cho cuộc sống là dành cho cả 2 phía. Người cho
đi yêu thương được nhận một cảm giác ngọt ngào, êm dịu và bình yên. Và hầu như là họ cũng
sẽ nhận lại được tình thương từ người mình vừa trao tặng.
- Người được nhận yêu thương thì có thể nhận được rất nhiều: Có thêm nghị lực, niềm vui,
niềm tin yêu vào cuộc sống.
- Đối với một đứa trẻ thì đó có thể là nguồn nuôi dưỡng tâm hồn, suối nguồn tươi mát ươm
mầm cho một trái tim nhạy cảm. Cũng có thể là sức mạnh cảm hóa, bến bờ quay lại đối với
một bước chân lầm lỡ.
- Tình yêu thương là những rung động giữa con người với con người, là lực hấp dẫn kéo con
người ta xích lại gần nhau, tạo thành khối thống nhất.
-> Có tình yêu thương, con người sẽ khoan dung, độ lượng hơn -> Xã hội sẽ tốt đẹp hơn
4. Phản đề:
- Trong xã hội vẫn còn hiện tượng một số người vô tâm, vô cảm, thờ ơ với nỗi đau của người
khác.
162
- Nếu cuộc sống không có yêu thương thì xã hội sẽ trở nên khắc nghiệt cái ác trỗi dây. Cuộc
đời lạnh giá, tăm tối. Và sẽ thật là một thảm họa nếu như thế giới ở trong tình trạng ấy. Rất có
thể sẽ là chiến tranh, là chết chóc, bởi một khi yêu thương không tồn tại thì lòng nhân đạo có
thể bắt nguồn được từ đâu nữa? Khi ấy hạnh phúc sẽ không thể tồn tại được nữa! Tình yêu
thương thật quan trọng và không thể thiếu trong cuộc sống.
5. Làm gì để tình yêu thương luôn xuất hiện trong cuộc sống?
- Yêu thương đem lại hạnh phúc cho nhân loại! Vì vậy hãy dành tình thương của mình, quan
tâm đến mọi người thật nhiều.
-Nhân rộng tình yêu thương bằng cách trao yêu thương.
- Có thể chúng ta sẽ nhận lại được tình thương từ họ, hoặc có thể không, nhưng điều đó
không quan trọng, vì chỉ cần yêu thương tồn tại trong ta thì ta đã có được hạnh phúc. Bởi yêu
thương chính là hạnh phúc của con người!
- Hãy luôn yêu đời, yêu cuộc sống và yêu mọi người.
6. Bài học nhận thức và hành động.
- Với tuổi trẻ hiện nay, trong môi trường toàn cầu hóa, giao tiếp con người càng rộng thì lòng
yêu thương càng cần được mở rộng ra. Đó là động lực để chúng ta hợp tác cùng nhau nâng
cao hiểu biết, tích cực cải thiện cuộc sống con người, chỉ có yêu thương mới xoa dịu những
ngăn cách giàu nghèo, những bất đồng nghi kỵ. Tạo ra thế giới hòa bình, hạnh phúc, văn minh
và giàu mạnh.
III. Kết bài
- Chắc hẳn, ẩn chứa trong mỗi con người của các bạn đều là một tình yêu
thương ngọt ngào và sâu sắc. Tình yêu thương đó có thể cất giữ sâu trong trái
tim, có thể phô bày ra rõ ràng , đẹp đẽ và tươi sáng như một bông hoa mới nở
dưới ánh mặt trời. Tình yêu thương sẽ tồn tại mãi mãi trong cuộc đời mỗi chúng
ta.

NƠI NÀO CÓ Ý CHÍ NƠI ĐÓ CÓ CON ĐƯỜNG


I. Mở bài:
- Có ai đó đã từng nói rằng: Sự khác biệt giữa những người thành công và
những người thất bại không phải là ở sức mạnh, kiến thức hay sự hiểu biết – mà
chính là ở ý chí. Có thể thấy, ý chí có vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc
sống. Ý chí giúp chúng ta biết vượt qua giông tố của cuộc đời, chinh phục khó
khăn thử thách và biết đứng dậy sau mỗi lần vấp ngã.
- Trích dẫn: Gặp gỡ tư tưởng với câu nói trên, cũng đã có ý kiến cho rằng: “Nơi
nào có ý chí, nơi đó có con đường”.
II. Thân bài:
1. Giải thích:
- Ý chí là khả năng tự xác định mục đích cho hành động và hướng hoạt động
của mình, khắc phục mọi khó khăn nhằm đạt mục đích đó.
- Còn “con đường” là gì? Chúng ta có thể hiểu nó theo nhiều cách, con đường
đó có thể là đường dẫn đến mục tiêu, lí tưởng, con đường dẫn đến tương lai, con
đường dẫn đến thành công,…
- Và dù chúng ta hiểu nó như thế nào thì trên mỗi con đường ấy đều có sự hiện
diện của ý chí và nghị lực. Bằng cách diễn đạt ngắn gọn, câu nói Nơi nào có ý
163
chí, nơi đó có con đường” muốn nhắn nhủ với chúng ta rằng: trong cuộc sống có
vô vàn những khó khăn, thách thức đang đón chờ chúng ta ở phía trước nhưng
nếu chúng ta có ý chí, nghị lực thì chắc chắn chúng ta đều sẽ tìm thấy con đường
dẫn đến thành công.
2. Tại sao chúng ta cần có ý chí?
- Trước hết, chúng ta đều biết rằng, con đường dẫn đến thành công và hạnh phúc
không hề bằng phẳng và trái lại, có đầy những chông gai thử thách. Để có thể
vượt qua khó khăn, thử thách ấy, chúng ta cần có ý chí. Ý chí sẽ giúp chúng ta
có nghị lực, kiên cường, lòng quyết tâm sắt đá, lòng dũng cảm để đạp đổ mọi
khó khăn, thử thách ấy. Mỗi lần trải qua khó khăn, thử thách ấy, hẳn bạn sẽ thấy
mình trưởng thành hơn. Hơn nữa, không phải lúc nào, chúng ta cũng có thể quật
đổ những gian nan, thách thức kia. Đôi khi, chúng ta sẽ vấp ngã và thất bại.
- Dẫn chứng:
+ Đó có thể là những cú vấp ngã rất đau đớn nhưng đừng vội bỏ cuộc. Hãy nghỉ
ngơi, dừng chân, từ từ nhen nhóm ngọn lửa của ý chí, đứng dậy, và tiếp tục
vững bước tiếp.
+ Mỗi một lần chúng ta can đảm đối mặt với khó khăn thử thách là một lần
chúng ta lại được tôi luyện bản thân mình. Từ đó, chúng ta học hỏi được nhiều
kinh nghiệm sống để có thể giải quyết khó khăn một cách dễ dàng hơn.
+ Trong cuộc sống, đã có rất nhiều tấm gương vượt qua nghịch cảnh, khó khăn
nhờ vào ý chí, nghị lực.
+ Những trang sách Nơi nào có ý chí, nơi đó có con đường đã ghi lại nhiều
những cái tên, dấu ấn của con người trẻ tuổi nhờ vào ý chí, nghị lực mà chinh
phục mọi khó khăn, đặt trên đến đỉnh thành công.
+ Điển hình trong số đó, phải kể đến người anh hùng của thời đại Nick
Vuijic. Sinh ra đã không có tứ chi, phải đối mặt với sự chế giễu của những
người xung quanh, anh rơi vào trầm cảm và có ý định từ bỏ cuộc sống. Thế rồi
anh nhận ra rằng, trên thế giới này, còn rất nhiều người chịu thiệt thòi giống
mình, anh dần chấp nhận khuyết tật của bản thân và có suy nghĩ vô cùng tích
cực rằng: “Chúa tạo ra tôi ắt phải có dụng ý nào đó và sẽ không để tôi mãi mãi
trở nên vô dụng”,…” tôi được sinh ra không phải vì sự trừng phạt của Chúa mà
vì sự sáng tạo của Người để hiện lộ những công việc đặc biệt của Người qua
tôi”. Nhờ suy nghĩ tích cực, Nick đã tốt nghiệp đại học và trờ thành nhà diễn
thuyết, tuyên truyền động lực và là đại sứ truyền cảm hứng sống nổi tiếng trên
thế giới.
+ Hay chúng ta cũng có thể kể đến nhà soạn nhạc đại tài: Ludwig Van
Beethoven, một con người đã dũng cảm vượi qua nỗi đau mất đi thính giác, một
con người đã tạo nên những kiệt tác khiến cả thể giới phải ngưỡng mộ.

164
-> Như vậy, tất cả chúng ta đều thấy rằng, nếu có ý chí, không một khó khăn,
thách thức nào có thể cản bước.
3. Phản đề
- Tuy nhiên, trong cuộc sống hiện nay, có ít người nhận thức rõ về diều này. Bên
cạnh những con người sống có ý chí, nghị lực, chịu khó tôi luyện bản thân mình
trong khó khăn thách thức thì lại có những con người sống thiếu ý chí, nghị lực.
Họ mới chỉ vấp phải một chút thất bại mà đã bỏ cuộc, để mặc cho số phận quyết
định. Đó là kiểu sống tầm thường, vô giá trị và không có ý nghĩa.
4. Chúng ta cần học tập theo câu nói trên như thế nào?
- Mặc dù, ý chí là giúp chúng ta bước đến đỉnh thành công một cách nhanh nhất
nhưng nếu chỉ ý chí, nghị lực thôi thì chưa đủ. Con đường đến thành công đòi
hỏi rất nhiều thứ. Muốn thành công, chúng ta cũng cần có hoài bão, ước mơ, lí
tưởng sống. Thêm nữa, chúng ta cũng cần trau dồi vốn kiến thức, vốn sống, tích
lũy kinh nghiệm sống từ người khác, học hỏi người khác.
- Khi chúng ta có được những kĩ năng sống cần thiết như vậy, cùng với ngọn lửa
của ý chí, nghị lực, chắc chắn chúng ta đều có thể đạt được thành công.
III. Kết bài:
- Nhà văn Nguyễn Bá Học đã từng khẳng định: Đường đi khó không vì ngăn
sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông. Nếu chúng ta dũng cảm, có
ý chí, nghị lực thì chẳng sông núi nào có thể cản bước được chúng ta cả. Đó
cũng là thông điệp của câu nói “Nơi nào có ý chí, nơi đó có con đường”.
- Đó không đơn thuần chỉ là một câu nói nhắn nhủ với chúng ta về việc sống
phải có ý chí và nghị lực mà nó còn được chọn làm tên của một cuốn sách với
đầy niềm cảm hứng mới mẻ.

MỘT SỐ ĐỀ NGHỊ LUẬN XÃ HỘI THAM KHẢO


Đề 1: Trong bài hát "Một đời người, một rừng cây" của nhạc sĩ Trần Long Ẩn có
đoạn:
“Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, gian khổ sẽ dành phần ai. Ai cũng một thời trẻ
trai, cũng từng nghĩ về đời mình. Phải đâu may nhờ rủi chịu, phải đâu trong đục cũng
đành. Phải không em?... Phải không em?”
Anh/ chị suy nghĩ gì về ý nghĩa của lời hát trên?
DÀN Ý THAM KHẢO
1. Giải thích
- Ý nghĩa lời bài hát: Lời nhắn nhủ tha thiết về một quan niệm sống tích cực:
Sống vì mọi người, sống có trách nhiệm, không lẩn tránh, biết gánh vác, không buông
trôi, phó mặc số phận, sẵn sàng đương đầu, vượt lên mọi thử thách, không cam chịu,
an phận thủ thường…
2. Phân tích - chứng minh

165
● Ý 1: Phải biết sống vì mọi người:
- Trong cuộc sống, có những con người luôn biết sống vì người khác, không ngại khó,
ngại khổ, biết vì lợi ích của cộng đồng, biết vì mọi người, sống có trách nhiệm…
- Đó là những con người có nhân cách cao quý, có cuộc sống đáng trân trọng.
► Dẫn chứng:
- Hồ Chí Minh cả đời đấu tranh cho dân tộc…
- Louis Pasteur vì sự sống con người, sẵn sàng thí nghiệm vắc xin chống dại ngay trên
cơ thể chính mình…
- Anh Nguyễn Văn Trỗi sẵn sàng hi sinh hạnh phúc cá nhân vì lợi ích cách mạng tham
gia trận đánh quan trọng đặt mìn cầu Công Lý giết tên Bộ trưởng Quốc phòng Mĩ
Mắc- na - ma – ra bởi anh cho rằng: “ Còn thằng Mĩ không ai hạnh phúc nổi cả…”
- Đặng Thùy Trâm từ giã Hà Nội vào nơi ác liệt của chiến trường…;
- Thời bình : những chiến sĩ Trường Sa, nhân vật anh thanh niên tình nguyện trong các
chiến dịch “Mùa hè xanh”…
● Ý 2: Đừng sống như những kẻ sống ích kỉ, vụ lợi, cơ hội
- Bên cạnh đó cũng có những con người luôn sống vị kỉ, cá nhân, nhỏ nhen, luôn tránh
né, đùn đẩy khó khăn cho người khác, sống vụ lợi, lợi dụng sự giúp đỡ của người khác
để thu vén cho bản thân…
- Lối sống đó rồi sẽ bị xã hội đào thải.
► Dẫn chứng:
Loại người "Ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau"…; những kẻ cơ hội, đục nước béo
cò. Đó là một số thanh niên chỉ biết ăn chơi, hưởng thụ, thõa mãn những thú vui tầm
thường trụy lạc như đua xe bất chấp gieo tai họa cho người khác, đốt thời gian, sức
khỏe, tiền bạc nơi vũ trường, luôn đòi hỏi ở người khác vì mình, vô trách nhiệm với
gia đình, xã hội và cả với bản thân…
● Ý 3: Cũng không nên sống mờ nhạt, yếu đuối, cam chịu
- Và cũng có những con người sống yếu đuối, thụ động, cam chịu, luôn đổ lỗi cho số
phận, đầu hàng những thử thách khó khăn, không đủ ý chí và nghị lực, chỉ biết bi lụy,
cúi đầu trước nghịch cảnh…
► Dẫn chứng: Những kẻ sa ngã, trượt dài trong tha hóa và phạm tội lại đổ lỗi
cho hoàn cảnh, số phận…
3. Bình luận
► Đánh giá:
- Lời bài hát là những lời nhắn nhủ thiết tha gởi đến mọi người, nhất là đối với lớp trẻ,
một thông điệp về sống đẹp đầy sức thuyết phục. Nó chứa đựng một quan niệm nhân
sinh tích cực, đáng để cho mỗi chúng ta xem như kim chỉ nam trong rèn luyện và tu
dưỡng bản thân để có một cuộc sống chân chính.
► Phê phán:
- Từ quan niệm sống đẹp đó phê phán lối sống ích kỉ, nhỏ nhen, vô trách nhiệm, vụ lợi,
sống an phận, thụ động, yếu hèn.
4. Bài học:
► Nhận thức:
- Hiểu rằng cuộc sống chỉ thật sự có ý nghĩa, nhân cách con người sẽ thật sự cao quý
khi biết chọn cho mình lối sống đẹp và cao quý, cự tuyệt lối sống tầm thường, thấp
hèn.
- Liên hệ :
"Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
166
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho, đâu phải nhận riêng mình".
( Tố Hữu)
► Hành động:
- Để có thể sống đẹp như lời bài hát gợi ý, thanh niên cần sống có lí tưởng cao đẹp, có
ý thức bồi dưỡng lòng nhân ái, vị tha, phải học tập, rèn luyện bản thân ý chí, nghị lực,
những năng lực và kĩ năng sống, phải năng động, sáng tạo, sống có trách nhiệm với gia
đình và xã hội.
Đề 2: Trình bày suy nghĩ về ý kiến :“Gốc của sự học là học làm người”
(Rabindranath Tagore)
Dàn ý:
1. Giải thích:
- Gốc là yếu tố quan trọng, là cội nguồn của cây. Từ “gốc” ở đây được Tagor
dùng như một ẩn dụ đề nhấn mạnh tầm quan trọng của sự học.
- Sự học là việc thu nhận kiến thức của con người từ nhiều lĩnh vực, nhiều
phương diện, từ nhiều nguồn và ở nhiều đối tượng … , rất phong phú, đa dạng.
- Học làm người là học cách đối nhân xử thế sao cho phù hợp với các chuẩn mực
đạo đức xã hội.
=> Giữa cái bao la của sự học, quan trọng nhất là bài học làm người.
2. Phân tích
– Chứng minh: Những biểu hiện của bài học “ học làm người”
Ý 1: Bài học “ học làm người” trong gia đình:
- Bài học yêu thương, quan tâm, gắn bó với những tình cảm thiêng liêng:
+ hiếu thảo, kính trọng ông bà, cha mẹ,
+ kính trên nhường dưới…
* Dẫn chứng:
Ý 2: Bài học trong nhà trường:
- Bài học làm người trong các mối quan hệ trong môi trường giáo dục
+ lễ phép, kính trọng thầy cô….
+ hòa nhã, thân thiện, giúp đỡ với bạn bè…
+ ứng xử có văn hóa với mọi người…
+ trung thực trong học tập, thi cử…
+ khiêm tốn, không ngừng học hỏi (học thầy, học bạn…)
* Dẫn chứng:
- Ý 3: Bài học làm người ngoài xã hội:
+ chan hòa, thân ái, giúp đỡ, quan tâm, chia sẻ với mọi người,…à hướng thiện
+ giữ chữ tín, trọng danh dự, trọng nhân nghĩa…
+ hướng tới một xã hội văn minh, tốt đẹp.
* Dẫn chứng: Câu chuyện về Nguyễn Hữu Ân
=> “Học làm người” cũng chính là học chữ “đức”
3. Bình luận:
- Ý kiến của Tagor thật đúng đắn, sâu sắc: Học làm người là khởi đầu cho mọi
bài học, là kết quả cao nhất, cuối cùng cho mọi bài học.
- Những kẻ sao nhãng việc “học làm người”, xem nhẹ việc rèn luyện đạo đức sẽ
khó mà “nên người” bởi “ Có tài mà không có đứclà người vô dụng”
- Việc học là mãi mãi, học làm người là bài học suốt đời để hoàn thiện nhân cách.
Xã hội càng phát triển, bài học “ học làm người” càng có ý nghĩa hơn để hướng tới
một xã hội văn minh.
167
4. Bài học:
- Nhận thức: Việc học là mãi mãi, học làm người là bài học suốt đời để hoàn
thiện nhân cách. “ Học làm người” là cần thiết, là quan trọng nhưng chưa đủ. Không
chỉ “ Học làm người”, cần học để chinh phục các đỉnh cao tri thức nhân loại nếu không
sẽ
- Hành động: chúng ta cần chú ý tiếp thu những tri thức khoa học, văn minh của
nhân loại để có thể sống tốt hơn với cộng đồng, với con người thời đại mới…
ĐỀ 3: Trình bày ý kiến của anh / chị về nhận xét sau: “ Học tập là cuốn vở
không có trang cuối”.
Dàn ý :
1. Giải thích:
- học tập: học và luyện tập để có hiểu biết và kĩ năng.
- cuốn vở: ghi chép những hiểu biết trong quá trình học tập.
- ý cả câu: học tập là công việc suốt đời, không ngừng nghỉ.
2. Phân tích – chứng minh
- Con người chúng ta từ chỗ không biết gì, nhờ quá trình học tập, tích lũy kinh
nghiệm mà có kiến thức- kĩ năng. Công việc ấy tiếp diễn bao đời nay.
- Biển học thì vô cùng, không ai có thể khẳng định mình đã nắm chắc mọi thứ, vì
vậy phải liên tục học tập. ( Lê- nin : “ Học, học nữa, học mãi”. – Đắc – uyn: “ bác học
không có nghĩa là ngừng học.. ”,...)
- Thời đại ngày nay, con người có thể học tập bằng nhiều hình thức.
3. Đánh giá
– mở rộng
- Học tập là cuốn vở không trang cuối: đó là phương châm sống của những người
cầu tiến, khát khao vươn tới chiếm lĩnh tri thức nhân loại và biết làm cho cuộc sống
của mình có giá trị thực sự.
- Phê phán những người tự bằng lòng với sự hiểu biết của mình, tự mãn, tự phụ
hoặc ngại khó, biếng nhác, lười học tập...
- Học tập suốt đời là việc phải làm và cần làm nhưng cũng cần có phương pháp
học tập để có kết quả thật tốt. Việc học còn phải gắn với những động cơ, mục đích học
tập đúng đắn thì việc học mới mang lại những ý nghĩa, giá trị đích thực cho cuộc sống
ban thân và những người quanh ta.
4. Bài học:
* Nhận thức:
- Coi học tập là niềm vui và hạnh phúc của đời mình.
- Muốn học tập suốt đời có kết quả cần có ý thức và rèn luyện khả năng tự học
(chìa khóa để học tập suốt đời)
- Học để mở mang kiến thức, nâng cao tầm nhìn và để có trình độ, khả năng phục
vụ cho đất nước, cho nhân dân, đáp ứng yêu cầu của thời đại ( điều cần thiết ở người
lao động mới)
* Hành động:
- Cần nắm vững kiến thức cơ bản trong học tập ở trường, lớp để có cơ sở học
nâng cao.
- Học tập với ý thức tự giác, chủ động, học đi đôi với hành
- Có kế hoạch học tập và ý thức thực hiện kế hoạch đó, ứng dụng những điều đạ
học vào cuộc sống.
- Tận dụng mọi điều kiện để chủ động học tập một cách có hiệu quả nhất. ( học ở
trường lớp, thầy cô, bạn bè, sách vở, báo chí, Internet...)
168
Đề 5: Trong một buổi nói chuyện với cán bộ, học sinh, sinh viên, Bác Hồ đã
ân cần khuyên dạy: “Có tài mà không có đức là người vô dụng , có đức mà không
có tài thì làm việc gì cũng khó”. Viết một bài văn (khoảng 600 từ ) trình bày suy
nghĩ của anh/chị về lời khuyên dạy trên.
1. Giải thích:
- Tài: là tài năng, là năng lực, kĩ năng, kĩ xảo của con người. Người có tài thì có
khả năng hoàn thành công việc một cách tốt nhất và sáng tạo, đặc biệt là trong hoàn
cảnh khó khăn, tình huống phức tạp. Tài được biểu hiện cả trong lao động chân tay và
lao động trí óc. Đó là kết quả của năng khiếu và cả sự chăm chỉ, cần cù rèn luyện.
- Đức là đạo đức, là cách cư xử hợp lẽ phải, đạo lí, sống có trách nhiệm với mọi
người, là sự biểu hiện của nét đẹp nhân cách con người. Đức biểu hiện ở lời nói, cử
chỉ, hành động của con người hướng tới chân – thiện – mĩ.
- Lời khuyên của Bác: khẳng định mối quan hệ khăng khít giữa tài và đức.
Có tài, không có đức - vô dụng: tài năng nếu không vì ích lợi của con người, không
phục vụ nhân dân thì cũng trở thành “vô dụng” – không có ý nghĩa đối với cuộc đời,
con người
Có đức, không có tài – làm gì cũng khó: có khát vọng cống hiến, muốn hành
động vì lợi ích của mọi người nhưng năng lực kém thì ý định tốt đến đâu cũng khó trở
thành hiện thực. Thiếu tài, làm việc sẽ khó khăn, chất lượng không cao.
2. Phân tích
- chứng minh :
Ý 1: Có tài mà không có đức là người vô dụng:
- Người có tài nhưng lại không đem tài để phục vụ nhân dân, làm giàu đất nước
thì cái tài đó hoàn toàn vô ích. Người có tài mà chỉ nhằm thu vén lợi ích cá nhân, phản
bội Tổ quốc, đi ngược lại lợi ích nhân dân thì người đó cũng trở thành vô dụng, thậm
chí là có tội.
- Người có tài mà không có đức thường kiêu căng hợm hĩnh, thậm chí xảo quyệt,
gian ngoa và dễ trở thành kẻ xấu xa, gây tác hại, nguy hiểm cho gia đình, xã hội ( Dẫn
chứng)
Ý 2: Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó:
- Người có đức thường được mọi người kính mến, quý trọng.; nhưng có đức mà
không có tài thường khó thực hiện được chức trách, khó hoàn thành nhiệm vụ, khó đạt
kết quả cao trong công việc.
- Tài năng cũng có tầm quan trọng không kém. Không có tài năng thì con người
làm việc gì cũng khó khăn, thậm chí làm hỏng việc và làm hại đến sự nghiệp chung.
Ý 3: Đức và tài đều cần thiết đối với mỗi con người, làm nên giá trị con người.
- Con người thiếu một trong hai giá trị trên đều là người không trọn vẹn. Đức là
nền tảng giúp tài bay cao vững chắc, có tài thì đức càng tỏa sáng.
* Dẫn chứng: học sinh chọn phân tích một tấm gương tiêu biểu về các nhân vật
toàn đức - toàn tài : Louis Passteur, Hồ Chí Minh, Ngô Bảo Châu …để thấy rõ tài và
đức luôn quan trọng và cần thiết )
3. Đánh giá- mở rộng :
- Cách nói của Bác giản dị và cụ thể, giúp ta nhận thức đúng đắn hơn về vai trò
quan trọng của đức và tài. “Đức” và “tài” là hai mặt không thể thiếu được trong phẩm
chất của người lao động kiểu mới. Hai mặt này không loại trừ nhau mà bổ sung cho
nhau tạo nên phẩm chất của con người toàn diện. -. Đức là gốc, là yếu tố quan trọng
hàng đầu.“Tài” là biểu hiện cụ thể của “đức”, không có khái niệm đạo đức chung
chung, tách rời hiệu quả việc làm. Giá trị của một con người là ở những đóng góp hữu
169
ích cho cộng đồng. Đức và tài bổ sung, hỗ trợ cho nhau để con người trở thành toàn
diện và có thể làm việc, cống hiến một cách hiệu quả nhất.
- Phê phán những kẻ có tài mà hợm hĩnh, kiêu căng, chỉ mưu cầu lợi ích cá nhân
hoặc những người có đức nhưng tài năng, năng lực còn kém cỏi mà không chịu học
tập, phấn đấu.
- Đức và tài đều là kết quả của nhiều yếu tố. Nếu không tu dưỡng, rèn luyện thì
tài và đức đều không phát triển được và có thể bị mai một .
4. Bài học nhận thức và hành động:
- Lời dạy của Bác là kim chỉ nam cho mọi hoạt động, rèn luyện của thế hệ trẻ.
Ngày nay, tài là kĩ năng nghề nghiệp, là óc sáng tạo; đức là phẩm chất của con người
Việt Nam yêu nước, yêu người, phấn đấu cho lí tưởng dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh, ấm no, hạnh phúc.
- Mỗi người phải không ngừng học tập, tu dưỡng, phải rèn đức luyện tài để trở
thành người lao động toàn diện, có ích cho đất nước như Bác Hồ hằng mong muốn ở
thế hệ trẻ.
Đề 5:Ngạn ngữ có câu: "Cuộc đời ngắn ngủi không cho phép ta ước vọng quá
nhiều." Thế nhưng nhà văn Nga M.Prisvin lại cho rằng: "Phải ước mơ nhiều hơn nữa,
phải ước mơ tha thiết hơn nữa để biến tương lai thành hiện tại."Suy nghĩ của anh/chị
về vấn đề đặt ra trong hai trích dẫn trên.
1. Giải thích:
- Ý kiến 1: Cuộc sống ngắn ngủi, con người sẽ không đủ thời gian để thực hiện
ước mơ, vì vậy không nên mơ ước quá nhiều, quá xa rời thực tại.
Ý kiến 2: Con người cần mơ ước nhiều hơn, khát khao mãnh liệt hơn để đủ sức
mạnh biến những điều mơ ước thành hiện thực.
2. Phân tích- Chứng minh:
Ý 1: Ước mơ và khát vọng sống làm nên vẻ đẹp cuộc sống:
- Trong cuộc sống, nếu không có nhiều mơ ước, không có những ước mơ cao, xa,
con người sẽ không thể vượt lên thực tại để thực hiện những điều tốt đẹp, kì diệu.
Ý 2: Không nên ước mơ xa vời, viễn vông, ước mơ phải thiết thực
- Không phải cứ ước mơ thật nhiều, khát khao mãnh liệt thì tất cả đều trở thành
hiện thực.
- Phải biết kết hợp giữa ước mơ và thực tại, ước mơ phải bắt nguồn từ cuộc sống.
Phải theo đuổi ước mơ nhưng đừng mơ ước hão huyền.
* Lưu ý: học sinh cần lấy dẫn chứng trong thực tế cuộc sống để chứng minh.
3. Đánh giá- mở rộng:
- Hai ý kiến trên bổ sung cho nhau, có ý nghĩa hướng con người vươn tới lối sống
đẹp, sống có ý nghĩa.
- Phê phán những người không dám ước mơ và những kẻ mơ ước viễn vông.
- Thời đại hôm nay mở ra nhiều cơ hội cho tuổi trẻ. Sống phải có khát vọng và
biết cách giữ niềm tin ở bản thân để có thể vươn tới bao mục tiêu chờ ta chinh phục.
4. Bài học:
* Nhận thức:
- Phải biết kết hợp ước mơ và thực tại, ước mơ phải bắt nguồn từ cuộc sống, phải
có ước mơ, có những khao khát mãnh liệt, cháy bỏng nhưng đừng mơ ước hão huyền.
* Hành động:
- Phải vạch ra những kế hoạch để biến ước mơ thành hành động.
- Phải trau dồi tri thức, phải rèn luyện ý chí, những kĩ năng sống, rèn đức luyện
tài để có khả năng biến ước mơ thành hiện thực.
170
Đề 7: Giáo sư Ngô Bảo Châu có viết : « Cách tốt nhất để nuôi dưỡng niềm
tin chính là đặt nó vào những dự định cụ thể và có ý nghĩa ».
1. Giải thích:
- Niềm tin là những gì mà ta tin tưởng, là sự hi vọng mà ta đặt vào đó. Đó là cảm
giác chắc chắn về một điều gì đó trong cuộc sống cũng như chính bản thân mình.
- Nuôi dưỡng niềm tin là làm cho niềm tin lớn hơn, hoàn thiện hơn.
- Dự định cụ thể là những phác thảo, kế hoạch chi tiết hướng đến những mục tiêu
cụ thể.
- Dự định có ý nghĩa là những dự định thiết thực, phù hợp với khả năng, tình
huống và khả thi.
=> Giải pháp tốt nhất để giữ vững cho mình một niềm tin trong cuộc sống cũng
như với chính bản thân mình là biết hướng niềm tin vào những điều cụ thể, có giá trị
thiết thực với cuộc sống. Khi đó, niềm tin ấy không chỉ được khơi dậy mà còn được
nuôi dưỡng và phát triển thành niềm tin lớn trong cuộc sống.
2. Phân tích – Chứng minh
Ý 1: Đặt niềm tin vào những dự định cụ thể chính là giải pháp tốt nhất để nuôi
dưỡng nó:
- Ai cũng có những mong muốn, dự định và mục tiêu cho riêng mình, nhưng
trước hết phải suy xét xem niềm tin ta gửi gắm có hướng tới những mục tiêu cụ thể,
phù hợp chưa. Nếu ta đặt niềm tin vào một mục tiêu mông lung, xa vời thì khó có kết
quả như ta mong muốn.
- Mỗi người có những mục tiêu và kì vọng khác nhau. Điều ta mong muốn, kì
vọng có thể trở thành hiện thực khi ta biết đặt nó vào những dự định cụ thể. Đó chính
là con đường ngắn nhất dẫn ta đến thành công, cho ta niềm tin về những điếu tốt đẹp
trong cuộc sống cũng như chính bản thân ta.
Ý 2: Để niềm tin của mình của mình được nuôi dưỡng một cách thiết thực, trọn
vẹn cần phải gắn kết nó vào những dự định có ý nghĩa của cuộc đời mình:
- Niềm tin là vô hạn nhưng ta cần phải cân nhắc xem những gì thực sự đáng để ta
đặt niềm tin vào nó.
- Dành thời gian suy nghĩ về dự định của mình xem nó có ý nghĩa như thế nào và
có thể thực hiện được không.
* Thí sinh có thể lấy dẫn chứng trong thực tế cuộc sống để chứng minh.
3. Đánh giá – mở rộng:
- Ý kiến của giáo sư Ngô Bảo Châu thực sự là một lời khuyên sâu sắc, hướng con
người vươn tới những giá trị đích thực của cuộc sống.
- Trong xã hội ngày nay, vẫn còn không ít những bạn trẻ không xác định được
“nơi gửi gắm” niềm tin của mình nên bỏ mất những cơ hội thành công, rồi rơi vào tình
trạng chán nản, dần dần không còn khả năng đương đầu với những khó khăn, thử
thách.
- Chỉ có niềm tin thì chưa đủ, phải biết nuôi dưỡng niềm tin để vươn tới những
điều tốt đẹp và làm cho cuộc đời thực sự có ý nghĩa.
4. Bài học
- Nhận thức: Niềm tin đóng vai trò rất quan trọng và có ý nghĩa trong cuộc sống
con người. Đó là chìa khóa của mọi thành công. Cần hiểu rõ điều mình thực sự mong
muốn và hoạch định một kế hoạch cụ thể để đạt được điều đó.
- Hành động: Nỗ lực trau dồi kiến thức, rèn luyện ý chí nghị lực để có thể biến
niềm tin của mình thành những mục tiêu cụ thể và có ý nghĩa cho bản thân, cho gia

171
đình và xã hội. Ta không chỉ nuôi dưỡng niềm tin cho bản thân mà còn cho cả những
người xung quanh mình.
Đề 8: Trình bày suy nghĩ của anh ( chị) về ý kiến của A-mo-ni-mus: “ Con
đường gần nhất để ra khỏi gian nan là đi xuyên qua nó”.
DÀN Ý THAM KHẢO
1. Giải thích:
- “con đường gần nhất để ra khỏi gian nan”: ý nói đến cách tốt nhất, nhanh nhất
để con người tháo gỡ những khó khăn, những thử thách trong cuộc sống.
- “đi xuyên qua nó”: ý nói ta phải đối mặt, phải vượt qua, không né tránh.
=> Con người không nên có thái độ né tránh khi phải gặp khó khăn, gian nan
trong học tập, lao động và trong cuộc sống; phải dũng cảm đối diện với gian nan, tìm
ra bản chất của vấn đề để tìm cách khắc phục, giải quyết khó khăn. .
2. Phân tích – Chứng minh:
Ý 1: Trong cuộc sống, ai cũng sẽ gặp ít nhiều khó khăn, thử thách
- Con người sẽ mau chóng vượt qua gian nan, thử thách khi con người dũng cảm
đối diện, tìm ra cách giải quyết hợp lí nhất.
Ý 2: Dám nghĩ, dám hành động sẽ giúp con người vượt qua được gian nan
- Dám đương đầu với những khó khăn, thử thách, con người sẽ vững vàng,
trưởng thành và thành công hơn trong học tập, lao động và cả trong cuộc sống thường
nhật.
- Con đường đến thành công không trải đầy hoa hồng, “không có vết chết chân
của người lười biếng”- những kẻ ngại khó, ngại khổ sẽ không thể có được thành công
đích thực.
- Điều này đã được chứng minh trong thực tiễn cuộc sống ở nhiều lĩnh vực, trong
những hoàn cảnh khác nhau.
* Thí sinh có thể lấy dẫn chứng trong thực tế cuộc sống để chứng minh.
3. Đánh giá – mở rộng :
- Ý kiến mang tính đúng đắn, sâu sắc, được rút ra từ sự trải nghiệm của con
người trong qúa trình sống. Ta có thể tìm thấy ở ý kiến trên ý nghĩa giáo dục, định
hướng cho bản thân trong nhận thức, trong cách giải quyết khó khăn của cuộc sống.
- Những con người luôn né tránh gian nan, đầu hàng khó khăn sẽ không bao giờ
trưởng thành.
- Cuộc sống hiện đại mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng lắm thách thức, chúng ta
cần chủ động vượt lên phía trước, năng động và sáng tạo để chinh phục những khó
khăn, nắm bắt cơ hội. Đó là con đường gần nhất để đi đến thành công.
4. Bài học:
- Nhận thức: Dám đối mặt với khó khăn thử thách và biết cách chinh phục nó sẽ
giúp ta rèn luyện bản lĩnh sống và ngày một trưởng thành.
- Hành động: Rèn luyện đức tính kiên trì, bình tĩnh, tự tin, chủ động trong mọi
hoàn cảnh khó khăn, lấy phương châm: “việc gì cũng có cách giải quyết” trong ứng
xử.
Đề 10: trình bày suy nghĩ cảu anh / chị về câu ngạn ngữ Hi Lạp: ''Cái rễ của
học hành thì cay đắng nhưng quả của nó thì ngọt ngào''
1. Giải thích
 Học hành là quá trình học và thực hành để mở mang kiến thức, nâng cao trình
độ hiểu biết của mỗi người.

172
 Rễ đắng và quả ngọt là hình ảnh ẩn dụ chỉ công lao học hành và kết quả học
tập. Câu ngạn ngữ thể hiện nhận thức sâu sắc về qui luật của học vấn và vai trò quan
trọng của việc học hành đối với mỗi người.
2. Phân tích - chứng minh
a: Học hành có những chùm rễ đắng cay
 Việc học đòi hỏi tốn thời gian, công sức, trải qua cả một quá trình.
 Quá trình học tập có những khó khăn, vất vả, gian nan: Chiếm lĩnh tri thức,
luyện tập, thực hành,...Để có thể giỏi giang, thành công đòi hỏi phải từng bước chinh
phục những bậc thang học vấn.
 Quá trình học tập có khi phải trải qua những thất bại, phải nếm vị cay đắng:
Điểm kém, bị quở mắng, thi hỏng....
b: Vị ngọt của quả tri thức hái được từ việc học hành
 Vị ngọt của kết quả học tập trước hết là người học được nâng cao hiểu biết của
bản thân, giàu có hơn về tri thức và tâm hồn, tự tin hơn trong cuộc sống.
 Thành quả học tập mang lại niềm vui, niềm tự hào cho bản thân, gia đình, thầy
cô giáo, nhà trường, quê hương...
 Thành công trong học tập cũng chắp cánh cho những ước mơ, khát vọng mới
trên con đường lập nghiệp.
 Phải biết chấp nhận đắng cay trong giai đoạn đầu để sau đó hưởng thành quả tốt
đẹp lâu dài.
 Dẫn chứng:
o Ê – đi – xơn: Phải trải qua hàng nghìn thí nghiệm, phải tìm tòi không
ngừng để phát minh ra bóng đền điện.
o Măc - xim Gorki: Phải kiếm sống bằng đủ thứ nghề vất vả nhưng không
nguôi khát vọng học tập. Bằng con đường tự học đầy gian truân, say mê đọc sách tiếp
cận ánh sáng văn minh nhân loại và trở thành nhà văn vĩ đại của nhân loại. (Bút
danh: Gor - ki có nghĩa là cay đắng)
o Mạc Đĩnh Chi: Bắt đom đóm cho vào vỏ trứng để lấy ánh sáng đọc sách,
sau đỗ trạng nguyên.
3. Đánh giá – mở rộng
 Câu nói bao hàm một nhận thức đúng đắn, một lời khuyên tích cực: Nhận thức
được quá trình chiếm lĩnh tri thức, mỗi người cần có bản lĩnh, chủ động vượt qua khó
khăn để thu nhận được thành quả tốt đẹp trong học tập.
 Trong thực tế, nhiều người lười biếng không chịu khó học hỏi, trau dồi kiến
thức, không biết biến nhựa đắng thành quả ngọt dâng cho đời; hay có những người ỷ
lại người khác, không nỗ lực, dẫn đến những hành động gian lận, không trung thực
trong học tập
 Kết quả học tập nếu không từ công sức bản thân sẽ không bền, sẽ có lúc phải trả
giá, sẽ trở thành kẻ kém cỏi trong cái nhìn của mọi người.
4. Bài học
 Nhận thức: Xem câu ngạn ngữ là phương châm nhắc nhở, động viên bản thân
trong quá trình học tập.
 Hành động: Rèn ý thức vươn lên trong học tập, không đầu hàng gian nan thử
thách, luôn hướng tới những ước mơ, khát vọng hái quả ngọt từ học vấn để thành
công.
Đề 11: "Một quyển sách tốt là một người bạn hiền" Hãy giải thích và chứng
minh ý kiến trên.
Dàn ý :
173
1. Giải thích:
- Thế nào là sách tốt ? tại sao ví sách tốt là người bạn hiền?
- Sách tốt là loại sách mở ra co ta chân trời mới, giúp ta mở mang kiến thức về
nhiều mặt: cuộc sống, con người, trong nước, thế giới, đời xưa, đời nay, thậm chí cả
những dự định tương lai, khoa học viễn tưởng.
- Bạn hiền đó là người bạn có thể giúp ta chia sẻ những nỗi niềm trong cuộc
sống, giúp ta vươn lên trong học tập, cuộc sống. Do tác dụng tốt đẹp như nhau mà có
nhận định ví von "Một quyển sách tốt là một người bạn hiền".
2. Phân tích – chứng minh
Ý1: Sách tốt là người bạn hiền
- Sách kể cho ta bao điều thương, bao kiếp người điêu linh đói khổ mà vẫn giữ
trọn vẹn nghĩa tình. Sách giúp ta hiểu và cảm thông với bao kiếp người, bao mảnh đời
bất hạnh. Sách giúp ta sống “người” hơn.
* Ví dụ: Đọc tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Lão Hạc của Nam Cao, Bước
đường cùng của Nguyễn Công Hoan… ta hiểu sâu sắc hơn số phận người nông dân
trước Cách mạng tháng Tám. Trái tim ta sống với những cảm xúc con ngươi: xót xa
thương cảm, bất bình phẫn nộ, yêu thương, trân trọng...
- Sách giúp ta khơi dậy trong ta những khát khao, đồng hành cùng ta vươn tới
những chân trời của ước mơ, những giá trị tốt đẹp...
* Sách và Măc- xim Gorki: thông qua con đường tự học – qua sách, M.Gor-ki đã
vươn tới ánh sáng văn hóa của nhân loại và trở thành một nhà văn lớn
Ý 2: Sách nâng đỡ tâm hồn ta
- Đến với sách, ta như được chia sẻ, an ủi những nỗi niềm
- Đến với sách, ta được sống với những tình cảm, cảm xúc đẹp .
* ví dụ: Đến với truyện cổ tích, thần thoại, Truyện Kiều...
3. Đánh giá – mở rộng
- Câu nói thể hiệm một quan niệm sâu sắc, hướng con người hình thành thói quen
tốt trong cuộc sống - làm bạn với sách.
- Trong xã hội có sách tốt và sách xấu như có bạn tốt và bạn xấu – phải biết chọn
sách tốt để đọc như tìm bạn tốt để kết tâm giao.
- Văn hóa đọc ở thời đại bùng nổ thông tin là vấn đề có ý nghĩa thời sự. Mỗi
người cần có ý thức làm giàu có tâm hồn mình thông qua con đường đọc sách.
4. Bài học
* Nhận thức: Từ bao đời nay, sách đồng hành với con người trong hành trình đến
với cuộc sống văn minh
* Hành động: Cần xây dựng thói quen đọc sách, biết chọn lựa sách để đọc, vun
đắp tình yêu với sách…
Đề 12: Tình Thương Là Hạnh Phúc Của Con Người
Dàn ý :
1. Mở bài:
– Hạnh phúc là một khái niệm tinh thần trừu tượng. Tùy theo vai trò, vị trí của
từng cá nhân, từ giai cấp trong xã hội mà có những quan niệm khác nhau về hạnh
phúc.
– Nhân dân ta quan niệm: Tình thương là hạnh phúc của con người.
2. Thân bài:
a. Giải thích câu nói: Tình thương là hạnh phúc của con người.
– Tình thương: là tình cảm nồng nhiệt làm cho gắn bó mật thiết và có trách
nhiệm với người, với vật (Từ điển tiếng Việt)
174
– Hạnh phúc: là trạng thái sung sướng vì cảm thấy hoàn toàn đạt được ý nguyện.
(Từ điển tiếng Việt)
- Tại sao Tình thương là hạnh phúc của con người?
+ Tình thương khiến cho người ta luôn hướng về nhau để chia sẻ, thông cảm,
đùm bọc lẫn nhau.
+ Như vậy là thỏa mãn mọi ý nguyện, đã được hưởng sung sướng, hạnh phúc mà
tình thương mang lại.
b. Phân tích để khẳng định, chứng minh các biểu hiện, ý nghĩa của tình thương:
– Trong phạm vi gia đình:
+ Cha mẹ yêu thương con cái, chấp nhận bao vất vả, cực nhọc, hi sinh bản thân
để nuôi dạy con cái nên người. Con cái ngoan ngoãn, trưởng thành, cha mẹ coi đó là
hạnh phúc nhất của đời mình.
+ Trong đời người có nhiều nỗi khổ, nhưng con cái không nên danh nên phận
hoặc hư hỏng là nỗi đau lớn nhất của cha mẹ.
+ Con cái biết nghe lời dạy bảo của cha mẹ, biết đem lại niềm vui cho cha mẹ, đó
là hiếu thảo, là tình thương và hạnh phúc.
+ Tình thương yêu, sự hòa thuận giữa anh em, giữa cha mẹ và con cái tạo nên sự
bền vững của hạnh phúc gia đình.
+ Tình thương là truyền thống đạo lí: Thương người như thể thương thân; tạo nên
sự gắn bó chặt chẽ trong quan hệ cộng đồng giai cấp, dân tộc.
+ Tình thương mở rộng, nâng cao thành tình yêu nhân loại.
– Những tấm gương sáng trong lịch sử coi Tình thương là hạnh phúc của con
người:
+ Vua Trần Nhân Tông trong một chuyến đi thăm quân sĩ đã cởi áo bào khoát
cho một người lính giữa đêm đông lạnh giá.
+ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn cùng chia sẻ ngọt bùi, cùng vào sinh ra
tử với tướng sĩ dưới quyền trong ba cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên –
Mông, giành thắng lợi vẻ vang cho dân tộc.
+ Người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi suốt đời đeo đuổi lí tưởng vì dân vì nước,
gác sang một bên những oan ức, bất hạnh của riêng mình.
+ Người thanh niên Nguyễn Tất Thành xuất phát từ lòng yêu nước thương dân
trong tình cảnh nô lệ nên đã rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Phương
châm sống đúng đắn của Người là: Mình vì mọi người. Bác luôn lấy tình yêu thương
con người làm mục đích và hạnh phúc cao nhất của cuộc đời mình.
c. Phê phán, bác bỏ:
Lối sống thờ ơ, vô cảm, thiếu tình thương, không biết quan tâm, chia sẻ, đồng
cảm và giúp đỡ người khác…
d. Liên hệ bản thân:
Rút ra bài học về phương châm sống xứng đáng là con người có đạo đức, có
nhân cách và hành động vì tình thương.
3. Kết bài:
– Tình thương là lẽ sống cao cả của con người. Tình thương vượt lên trên mọi sự
khác biệt giữa các dân tộc trên thế giới.
– Để tình thương thực sự trở thành hạnh phúc của con người, mỗi chúng ta phải
vươn lên chống đói nghèo, áp bức bất công, chiến tranh phi nghĩa… để góp phần xây
dựng một thế giới hòa bình thịnh vượng…

175
Đề số 13 Dàn ý: Giữa một vùng sỏi đá khô cằn, cây hoa dại vẫn mọc lên và nở
những chùm hoa thật đẹp
1. Giải thích:
 Hình ảnh "vùng sỏi đá khô cằn" gợi liên tưởng, suy nghĩ về điều kiện sống khắc
nghiệt, đầy khó khăn. Nói cách khác là nơi sự sống khó sinh sôi, phát triển.
 Hình ảnh "cây hoa dại vẫn mọc lên và nở những chùm hoa thật đẹp": cây hoa
dại sống giữa tự nhiên lặng lẽ mà kiên cường, nó tự thích nghi với hoàn cảnh, vượt lên
điều kiện khắc nghiệt để sống và nở hoa.
 Câu nói mượn hiện tượng thiên nhiên mà gợi suy nghĩ về thái độ sống của con
người: cho dù hoàn cảnh có khắc nghiệt đến đâu, sự sống vẫn hiện hữu, cái đẹp vẫn
tồn tại. Con người phải có ý chí, nghị lực vươn lên trong cuộc sống.
2. Phân tích, chứng minh:
 Trong thế giới tự nhiên, cây cối, cỏ hoa luôn ẩn chứa sức sống mạnh mẽ, bền bỉ,
sẵn sàng thích nghi với điều kiện sống khắc nghiệt.
o Nơi sa mạc nóng bỏng, cây xương rồng vẫn mọc lên, vẫn nở hoa, những
bông hoa nép mình xù xì gai nhọn.
o Ở cánh đồng băng Nam Cực, các nhà khoa học sững sờ khi thấy dưới lớp
băng dày vẫn lấm tấm những đám địa y...
 Với con người, những thử thách, khó khăn của thực tế đời sống luôn đặt ra. Nên
con người phải có cách nhìn, thái độ sống tích cực, không đầu hàng nghịch cảnh,
không buông xuôi phó thác cho số phận.
o Nhà văn Nga vĩ đại M.Go-rơ-ki – một cuộc đời sớm chịu những nỗi
đắng cay, nghiệt ngã, đã không ngừng học tập, tự học để vươn lên khẳng định tài năng
và đi đến thành công.
o "Hiệp sĩ công nghệ" Nguyễn Công Hoàng sống trong hoàn cảnh nghiệt
ngã: không thể tự mình di chuyển, khả năng ngôn ngữ hạn chế. Vậy mà người thanh
niên đó đã sống bằng nghị lực, quyết tâm học tập và nghiên cứu phần mềm tin học,
cuối cùng anh đã thành công.
3. Bình luận:
 Khẳng định sự sâu sắc của một bài học về thái độ sống tích cực.
 Phê phán một bộ phận người trong xã hội chỉ vì không vượt qua được hoàn
cảnh khó khăn mà tự đánh mất mình.
4. Liên hệ bản thân:
 Bài học rất có ý nghĩa với người trẻ tuổi, nhắc nhở quan niệm sống không đầu
hàng số phận, hãy sống như loài hoa kia vượt lên sỏi đá để tồn tại.
 Nhìn tấm gương của những bạn học sinh cùng kiệt vượt khó tự soi lại chính
mình.
ĐỀ 14: Trình bày suy nghĩ của mình về câu nói: “Ở trên đời, mọi chuyện
đều không có gì khó khăn nếu ước mơ của mình đủ lớn”.
DÀN Ý THAM KHẢO
1. Giải thích câu nói:
- Ước mơ: là điều tốt đẹp ở phía trước mà con người tha thiết, khao khát, ước
mong hướng tới, đạt được.
- Có người đã ví: “Ước mơ giống như ngọn hải đăng, chúng ta là những con
thuyền giữa biển khơi bao la, ngọn hải đăng thắp sáng giúp cho con thuyền của chúng
ta đi được tới bờ mà không bị mất phương hướng”. Sự ví von quả thật chí lí, giúp
người ta hiểu rõ, hiểu đúng hơn về ước mơ của mình.

176
- Ước mơ đủ lớn: là ước mơ khởi đầu từ điều nhỏ bé, trải qua một quá trình nuôi
dưỡng, phấn đấu, vượt những khó khăn trở ngại để trở thành hiện thực.
- Câu nói: đề cập đến ước mơ của mỗi con người trong cuộc sống. Bằng ý chí,
nghị lực và niềm tin, ước mơ của mỗi người sẽ “đủ lớn”, trở thành hiện thực.
2. Phân tích, chứng minh :
Có phải “Ở trên đời, mọi chuyện đều không có gì khó khăn nếu ước mơ của mình
đủ lớn”?
Ý 1: Ước mơ của mỗi người trong cuộc đời cũng thật phong phú.
- Có những ước mơ nhỏ bé, bình dị, có những ước mơ lớn lao, cao cả…
- Có ước mơ vụt đến rồi vụt đi; ước mơ luôn đồng hành cùng đời người; ước mơ
là vô tận.
- Thật tẻ nhạt, vô nghĩa khi cuộc đời không có những ước mơ.
Ý 2: Ước mơ cũng như một cái cây- phải được ươm mầm rồi trưởng thành.
- Một cây sồi cổ thụ cũng phải bắt đầu từ một hạt giống được gieo và nảy mầm
rồi dần lớn lên. Như vậy, ước mơ đủ lớn nghĩa là ước mơ bắt đầu từ những điều nhỏ bé
và được nuôi dưỡng dần lên.
- Nhưng để ước mơ lớn lên, trưởng thành thì không dễ dàng mà có được. Nó phải
trải qua bao bước thăng trầm, thậm chí phải nếm mùi cay đắng, thất bại. Nếu con
người vượt qua được những thử thách, trở ngại, kiên trung với ước mơ, khát vọng, lí
tưởng của mình thì sẽ đạt được điều mình mong muốn.
* Dẫn chứng:
+ Ước mơ của chủ tịch Hồ Chí Minh là giải phóng dân tộc, đem lại cuộc sống ấm
no, hạnh phúc cho dân mình. Trải qua bao gian khổ khó khăn và hi sinh, Người đã
theo đuổi đến cùng điều mình mơ ước ước mơ đó đã trở thành hiện thực.
+ Nhiều nhà tư tưởng lớn, những nhà khoa học cho đến những người bình dân,
thậm chí những thân thể khuyết tật… vẫn vươn tới, đạp bằng mọi khó khăn, cản trở
trong cuộc sống để đạt được mơ ước của mình
Ý 3: Nhưng cũng có những ước mơ thật nhỏ bé, bình dị thôi mà cũng không dễ
đạt được:
- Những em bé bị mù, những em bé tật nguyền do chất độc da cam, những em bé
mắc bệnh hiểm nghèo… vẫn hằng ấp ủ những mơ ước, hi vọng.
- Nhưng cái chính là họ không bao giờ để cho ước mơ của mình lụi tàn hoặc mất đi.
Ý 4: Ước mơ không đến với những con người sống không lí tưởng, thiếu ý chí,
nghị lực, lười biếng, ăn bám…
3. Đánh giá – mở rộng:
- Lời bài hát “Ước mơ” cũng là lời nhắc nhở chúng ta: “Mỗi người một ước mơ,
nhỏ bé mà lớn lao trong cuộc đời, ước mơ có thể thành, có thể không…”. Thật đúng
vậy, mỗi một con người tồn tại trên cõi đời này phải có riêng cho mình ước mơ, hi
vọng, lí tưởng, mục đích sống của đời mình.
- Phê phán: Ước mơ có thể thành, có thể không như ta phải biết giữ lòng tin với
những ước mơ của mình . Nếu sợ ước mơ bị thất bại mà không dám ước mơ, hay
không đủ ý chí, nghị lực mà nuôi dưỡng ước mơ “đủ lớn” thì thật đáng tiếc, đáng phê
phán. Cuộc đời sẽ chẳng đạt được điều gì mình mong muốn và sống như thế thật tẻ
nhạt, vô nghĩa.
4. Bài học:
* Nhận thức: Nếu cuộc đời là chiếc thuyền thì ước mơ là ngọn hải đăng. Thuyền
dẫu gặp nhiều phong ba, ngọn hải đăng sẽ là niềm tin, ánh sáng chỉ phương hướng cho

177
thuyền. Mất ngọn hải đăng, con thuyền biết đi đâu về đâu? Vì thế, hai chữ “ước mơ”
thật đẹp, thật lớn lao.
* Hành động:
- Mỗi người chúng ta hãy nuôi dưỡng cho mình một ước mơ, hi vọng. Nếu ai đó
sống không có ước mơ, khát vọng thì cuộc đời tẻ nhạt, vô nghĩa biết nhường nào!
- Phải không ngừng học tập, rèn ý chí, trau dồi kĩ năng sống để biết ước mơ và
biến ước mơ thành hiện thực.

Đề 15: “Trong thế giới này, chúng ta xót xa không chỉ vì lời nói và hành
động của những kẻ xấu, mà còn vì sự im lặng đáng sợ của cả những người tốt.”
Viết một bài văn (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến trên.
Dàn ý:
1. Giải thích:
– “ Kẻ xấu”: là những kẻ có tâm địa độc ác.
– “Lời nói và hành động của kẻ xấu”: những lời phỉ báng, gièm pha, bôi nhọ, vu
oan giá hoạ, những hành động côn đồ hung ác làm tổn hại đến người khác.
– “Người tốt”: người nhân hậu, không làm gì tổn hại người khác...
– “Im lặng”: không hành động, phản ứng gì trước những việc làm của kẻ xấu
hoặc thờ ơ, vô cảm trước nỗi đau của những người xung quanh.
– “Sự im lặng của cả người tốt”: thái độ bàng quan, thiếu trách nhiệm, lạnh lùng,
vô cảm của những người vốn nhân hậu, không biết làm những hành động sai trái....
Đây cũng là một cách ứng xử tiêu cực
-> Nội dung câu nói: Bày tỏ thái độ phê phán với những kẻ có tâm địa độc ác
dùng lời phỉ báng, gièm pha, bôi nhọ, vu oan và có những hành động côn đồ hung ác
làm phương hại đến những người khác; những người có thái độ thờ ơ, vô cảm, thiếu
trách nhiệm trước những bất công, đau khổ của những người xung quanh.
2. Phân tích, chứng minh:
– Đây là câu nói đầy tâm huyết của một người suốt đời phấn đấu vì quyền con
người.
– Câu nói nêu đúng thực trạng đau lòng đang có chiều hướng gia tăng trong xã
hội, đặc biệt là thời điểm hiện nay.
– Câu nói cho thấy người nói thấu hiểu sự nghiêm trọng của thực trạng đó với
đời sống con người. Vì:
+ Những lời vu cáo bịa đặt, những lời mạt sát xúc phạm danh dự nhân phẩm của
người khác, những lời gièm pha...không chỉ làm tổn thương họ mà cũng làm tan vỡ
hạnh phúc gia đình, gây mất đoàn kết trong tập thể...
+ Những hành vi côn đồ độc ác, ném đá giấu tay làm tổn hại tinh thần, thể xác và
tài sản của con người, gây tâm lý bất an, hoang mang trong xã hội.
+ Thái độ thờ ơ trước những sự việc, những hành động trái với chuẩn mực đạo
đức xã hội, trái pháp luật, sự vô cảm của con người khiến cái ác lộng hành thống trị xã
hội, người tốt, người đáng thương không được bênh vực sẽ bi quan, chán nản, thiếu
niềm tin, đạo đức con người bị băng hoại, kìm hãm sự phát triển của xã hội.
+ Vô cảm, thiếu trách nhiệm trước nỗi đau người khác dần làm mất nhân cách
của chính mình, nhân lên căn bệnh vô cảm ở mọi người trong xã hội.
– Câu nói nhắc nhở mọi người hướng đến một lối sống tích cực: sống có trách
nhiệm, biết quan tâm chia sẻ với những đau khổ, bất hạnh của người khác cũng như
kiên quyết đấu tranh chống lại những hành động làm tổn hại đến nhân phẩm, sức khoẻ,
tính mạng, tài sản của những người xung quanh, chống lại bệnh thờ ơ, vô cảm.
178
3. Bài học về nhận thức và hành động:
– Bản thân cần nhận thức sâu sắc về sự nguy hại của những lời nói, hành động
của kẻ xấu và sự thờ ơ, vô cảm.
– Rèn luyện cho mình lối sống tích cực, biết quan tâm, chia sẻ, yêu thương, có
thái độ kiên quyết đấu tranh chống lại kẻ xấu và lối sống ích kỉ, thiếu trách nhiệm

Đề số 16: Em hãy nghị luận xã hội về: Tính tự lập


Ai trong chúng ta rồi cũng phải lớn khôn, khi chúng ta còn nhỏ cha mẹ có thể
chăm sóc, giúp đỡ chúng ta làm hộ cho chúng ta những việc này việc kia khi khả năng
của chúng ta chưa thể tự làm được. Nhưng khi trưởng thành như con chim đã ra ràng
thì chúng ta cần phải tự lập. Tự lập tốt sẽ giúp chúng ta dễ thành công. Tự lập tốt sẽ
khiến chúng ta có thể tự đương đầu với những khó khăn thử thách trong cuộc sống, mà
không hoang mang lo sợ. Tự lập là việc cần thiết cho bất kỳ một đứa bé nào khi chúng
trưởng thành.
Tự lập là một cuộc sống tự mình quyết định lấy mọi việc, không do ai tác động,
trong cuộc sống khi mình tự lập tự suy nghĩ tự hành động thì dù có khó khăn hay thất
bại chúng ta cũng phải cố gắng vượt qua, tự mình vươn lên không phụ thuộc, xin sự
giúp đỡ hay ỷ lại trông chờ người khác cứu vớt. Tự lập là đức tính cơ bản, cần thiết đối
với mỗi con người khi chúng ta trưởng thành. Nó giúp con người sống bản lĩnh hơn, tự
tin vào bản thân của mình hơn, kiên trì, nhẫn nại hơn….
Muốn trở thành người tự lập thì ngay từ bây giờ chúng ta phải rèn luyện tính tự
lập từ những việc nhỏ nhất. Như tự nấu ăn, tự giặt quần áo, tự hẹn giờ dậy đi hoặc tự
ngồi vào bàn học học bài không để bố mẹ nhắc nhở, hay làm hộ.
Tại sao chúng ta thường thấy trẻ con ở những vùng quê nghèo thường biết làm
nhiều việc hơn trẻ con ở những thành phố lớn. Bởi ngay từ nhỏ những em bé ở vùng
quê đã được bố mẹ huấn luyện nấu cơm, quét nhà , trông em, giặt quần áo… Trong khi
trẻ em thành phố thì có khi 4-5 tuổi chưa thể nào tự xúc ăn, học lớp một không biết tự
đánh răng, tự mặc quần áo, học lớp 6, lớp 7 cũng chưa biết nấu cơm bằng bếp điện chứ
không nói đến bếp củi nhé, bởi ngay từ khi còn nhỏ bố mẹ các em đã làm hộ các em
quá nhiều nên khi lớn lên các em không thể tự làm.
Nhiều gia đình thành phố hiện nay do cha mẹ mải mê công việc làm ăn cho nên
thường phó mặc con trẻ của mình cho người giúp việc. Cha mẹ chỉ biết kiếm tiền và
thỏa mãn cho con cái mình bằng những phần thưởng có giá trị như điện thoại, xe máy,
…tặng cho con nhiều tiền để tiêu vặt miễn sao con mình vui là được. Nhưng họ không
dạy cho con trẻ những đức tính cần thiết, nhất là tự lập. Họ biến con cái mình thành
những cậu ấm cô chiêu, đi học phải có người đưa đi, về con, ăn gì, uống gì, của có
người dâng tận miệng không phải động tay động chân làm bất kỳ việc gì. Để rồi khi
những cậu ấm cô chiêu đó gây ra chuyện, ăn chơi phá phách thì ngay lập tự họ nghĩ tới
việc gọi cha mẹ hoặc người làm của cha mẹ tới giải quyết hộ. Một lối sống vô cùng ích
kỷ, dựa dẫm và thiếu tự lập. Bên cạnh đó, còn đáng lo ngại hơn khi nhiều bạn con nhà
giàu con cho rằng cứ có tiền thì sẽ có tất cả, có người hầu kẻ hạ, không phải làm bất cứ
một cái gì…. Chính vì tâm thế đó, mà nhiều em bị mất phương hướng trong cuộc đời
dẫn tới lầm đường lạc lối khiến cha mẹ đau lòng, lúc đó cha mẹ các em mới giật mình
nhìn lại cách giáo dục con cái của mình thì đã quá muộn.
Là một người trẻ, thế hệ tương lai của đất nước ngay từ hôm nay bạn hãy học
cách bước đi bằng chính đôi chân của mình. Tự tin chủ động trong cuộc sống sẽ giúp
bạn tỏa sáng mai sau.

179
Đề 17: “Duy chỉ có gia đình, người ta mới tìm được chốn nương thân để
chống lại tai ương của số phận” (Enripides)
a. Mở bài:
- Cuộc sống bôn ba vất vả để mưu sinh nhiều lúc làm con người ta cảm thấy mệt
mỏi và kiệt sức. Khi đó, điểm tựa và nguồn động lực lớn lao có thể đưa con người
vượt qua khó khăn đó chính là gia đình.
- Bàn về ý nghĩa và vai trò to lớn của gia đình đối với mỗi cá nhân, Euripides
nói: “Duy chỉ có gia đình, người ta mới tìm được chốn nương thân để chống lại tai
ương của số phận”.
b. Thân bài:
b.1. Giải thích:
“Gia đình”: là chỉ mối quan hệ hôn nhân và huyết thống, là nơi cha mẹ, con cái,
anh chị em hay cả ông bà, họ hàng cùng chung sống à tình cảm gắn bó bền chặt, không
thể chia cắt.
“Tai ương của số phận”: những khó khăn, trắc trở gặp phải khi bước trên đường
đời.Gia đình là sức mạnh giúp con người vượt lên khó khăn, đứng dậy sau mỗi lần vấp
ngã và vững vàng hơn trong cuộc sống. Câu nói đã khẳng định vai trò to lớn của gia
đình đối với mỗi con người.
b.2. Bàn luận:
- Mỗi con người đều sinh ra và lớn lên trong gia đình, do đó gia đình là cái nơi
nuôi dưỡng cho tài năng và nhân cách con người phát triển, đâm hoa kết trái. Chính
điều đó sẽ là hành trang cho mỗi chúng ta bước vào đời, giúp ta khẳng định năng lực
và phẩm giá của mình để thành công trong cuộc sống.
- Trong cuộc đời không thể tránh được va vấp, và khi đó gia đình sẽ là nơi bảo
bọc, chở che, động viên, vỗ về chúng ta đứng lên sau thất bại, là chỗ dựa vững chắc và
vô điều kiện những khi ta đã “lưng chùng gối mỏi” sau những lúc tất tả trên đường
đời.
- Trên hết, tình cảm gia đình là tình cảm thiêng liêng và tự nhiên xuất phát từ mối
quan hệ gắn bó hàng ngày, luôn bền chặt và không thể thay thế. Mỗi thành viên trong
gia đình đều dành cho nhau những tình cảm tốt đẹp nhất, và sẵn sàng làm chỗ dựa cho
nhau trước những giông bão của số phận. Đó đã trở thành truyền thống tốt đẹp ngàn
đời của dân tộc Việt Nam ta.Dẫn chứng: Bé Mai Xuân Trường 5 tuổi ở Tây Ninh tháo
vát việc nhà, chăm sóc mẹ bị ung thư giai đoạn cuối chu đáo khiến mọi người cảm
động và ngợi ca à thắp nên ngọn lửa gia đình chói sáng và ấm áp giúp cả 2 mẹ con
vượt qua thử thách của số phận.
b.3. Mở rộng:
- Yêu gia đình là hoàn toàn đúng đắn, nhưng điều đó không có nghĩa là bao che
hay tiếp tay cho người thân làm những việc đi ngược với chuẩn mực đạo đức và pháp
luật. Đôi khi vì lợi ích chung của tập thể, xã hội ta phải tạm quên đi tình riêng để sống
ngay thẳng và không có lỗi với lương tâm của mình, đồng thời cũng cần khuyên nhủ
để người thân nhận ra lỗi lầm và sống lương thiện, chân chính.
- Gia đình là cái nôi của mỗi con người và là tế bào của xã hội. Gia đình tốt đẹp
và yên ấm sẽ tạo nền tảng vững chắc cho sự đi lên của xã hội và đất nước.
b.4. Phê phán:
- Những người coi thường vai trò của gia đình, vô cảm với chính những con
người ruột thịt nhất với mình (cha mẹ đánh đập bạo hành con cái, con cái chửi mắng
bất hiếu với cha mẹ,…) à Họ không chỉ làm băng hoại truyền thống tốt đẹp ngàn đời
của dân tộc, bị xã hội lên án mà còn trở nên cô độc, ích kỉ, dễ vấp ngã và thất bại trên
180
đường đời.Dẫn chứng: Bé Nguyễn Thị Như Ý 9 tháng tuổi đã bị người mẹ vô tâm của
mình đánh đập dã man phải nhập viện với nhiều thương tích không thể phục hồi. à
những hành động đi ngược với đạo đức đã làm hoen ố hình ảnh tình cảm thiêng liêng
của gia đình.
b.5. Bài học nhận thức
– Phương hướng hành động:
- Gia đình là chỗ dựa vững chắc cho mỗi chúng ta tìm về sau những va vấp trên
đường đời.
- Gia đình hãy là nơi bình yên và ấm áp tình thương nhất cho mỗi thành viên tìm
về sau những mưu toan trong cuộc sống. Ngược lại, mỗi thành viên cũng cần vun đắp
tình yêu thương để hạnh phúc gia đình ngày một trọn vẹn hơn.
- Có thể nêu 1 số phương hướng cụ thểc.
Kết bài:
- Câu nói của Euripides đã khái quát nên vai trò to lớn không thể thay thế của gia
đình đối với mỗi con người.
- Để xứng đáng với những tình cảm thiêng liêng ấy, ngay từ khi còn trên ghế nhà
trường, ta hãy hết sức yêu thương và quan tâm đến những thành viên trong gia đình
bằng tất cả sự chân thành, trân trọng và nâng niu nhất của mình.
- Liên hệ bản thân
Đề 19: “Hãy hướng về phía mặt trời , bóng tối sẽ ngả về sau bạn” Danh
ngôn Nam Phi
Cuộc sống của chúng ta luôn trắc trở và ẩn chứa nhiều chông gai, thách thức. Có
những khó khăn, thứ thách mà chúng ta có thể dễ dàng vượt qua nhưng lại có những
khó khăn, thách thức khiến chúng ta phải vấp ngã. Vậy bạn đã làm gì sau những lần
vấp ngã đó? Dũng cảm vực dậy để đạp đổ khó khăn thử thách đó hay hèn nhát đầu
hàng để chịu sự khuất phục của khó khăn, thử thách đó? Nếu là tôi, tôi sẽ chắc chắn sẽ
can đảm đứng dậy và tiếp túc đương đầu với chông gai, thử thách ấy bởi tôi tin rằng,
chừng nào, tôi còn cảm nhận được ánh bình minh kì diệu, tiếng chim hót chuyền cành
mỗi sớm ban mai, tiếng sóng vỗ rì rào nồng hơi thở của biển, chừng đó, tôi vẫn còn cơ
hội. A-mo-ni-mus từng nói: “Con đường gần nhất để ra khỏi gian nan là đi xuyên qua
nó”. Vì vậy, cho dù cuộc sống này chứa nhiều bất hạnh, đắng cay, gian nan, thử thách
thì chúng ta nên nhớ rằng: Hãy hướng về phía mặt trời, bóng tối sẽ ngả về phía sau
bạn.
Ánh sáng mặt trời là thứ ánh sáng rực rỡ, ấm nóng và kì diệu nhất của thiên
nhiên. Mỗi buổi sớm ban mai, mở của số và hướng mình về phía ánh bình minh, chúng
ta sẽ cảm nhận được thứ ánh sáng kì diệu đó. Khi đó, hiển nhiên rằng bóng tối sẽ ngả
dần về phía sau lưng chúng ta. Hướng về phía mặt trời tức là hướng mình tới những
điều tốt đẹp. Bóng tối sẽ ngả về phia sau bạn ngụ ý rằng khi bạn hướng tới những điều
tốt đẹp thì những sự xấu xa, u ám sẽ bị đẩy lùi và chìm dần vào trong quá khứ. Như
vậy, nói Hãy hướng về phía mặt trời, bóng tối sẽ ngả về phía sau bạn tức là khẳng
định rằng: Trong cuộc sống, chúng ta phải luôn có thái độ sống lạc quan, tích cực,
hướng mình tới những điều tốt đẹp, tránh xa những sự xấu xa, u ám. Có như vậy,
chúng ta mới có thể tận hưởng cuộc sống này một cách trọn vẹn và đầy ý nghĩa nhất.
Trong cuộc sống, ai ai trong số chúng ta mà chẳng mong muốn gặt hái được
nhiều thành công và hạnh phúc. Tuy nhiên, con đường chúng ta đi không hề bằng
phẳng mà trái lại, nó gập gềnh, khúc khuỷu, ẩn chứa những gian nan, thách thức. Vì
vậy, để vượt qua khó khăn ấy, chúng ta hãy can đảm đương đầu với nó. Nhưng, không
phải lúc nào những khó khẳn, thử thách ấy cũng có thể chinh phục được một cách dễ
181
dàng. Đôi khi, chúng ta sẽ vấp ngã và thất bại. Có những lúc, bản tưởng chừng như cả
thế giới trước mắt mình đap sụp đổ. Tuy nhiên, nếu bạn có ý chí, nghị lực và một niềm
tin son sắt để xuyên qua nó, bạn sẽ thấy mình mạnh mẽ và trưởng thành tới mức nào.
Từ đó, chúng ta lại có thêm động lực để vượt qua những khó khăn khác trong cuộc
sống. Đó chính là sức mạnh kì diệu của ánh sáng mặt trời. Thứ ánh sáng nâng đỡ
những con người vấp ngã trong cuộc sống biết tự mình can đảm vực dậy, thứ ánh sáng
đẩy lùi sự u ám xấu xa cho những con người đang tìm lỗi ra trong mê cung tăm tối.
Những con người ấy luôn tin vào điều kì diệu và ánh sáng mặt trời, tin vào một tương
lai tốt đẹp. Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng, cuộc sống luôn đầy những khó
khăn và những khó khăn, thách thức ấy chỉ dành cho đôi chân của những con người
dũng cảm, biết vươn lên, hướng mình về những điều tốt đẹp. Hãy hướng về phía mặt
trời, bóng tối sẽ ngả về phía sau bạn – một câu danh ngôn ngắn gọn, khúc triết nhưng
đã để lại cho chúng nhiều những bài học sâu sắc khiến cho chúng ta phải suy nghĩ và
thay đổi thái độ sống.
Để có thể vươn mình tới những điều tốt đẹp, biết cách đứng dậy sau mỗi vấp
ngã, chúng ta cùng học hỏi từ những người đã đạt nhiều thành công đáng nể phục
trong cuộc sống. Điển hình là anh Nick Vujicic – một con người tràn đầy nghị lực phi
thường. Nick sinh ra đã không có tứ chi, phải đối mặt với sự chế giễu của những người
xung quanh, anh rơi vào trầm cảm và có ý định từ bỏ cuộc sống. Thế rồi anh nhận ra
rằng, trên thế giới này, còn rất nhiều người khác chịu thiệt thòi giống mình, anh dần
chấp nhận khuyết tật của bản thân và có suy nghĩ vô cùng tích cực rằng: “Chúa tạo ra
tôi ắt phải có dụng ý nào đó và sẽ không để tôi mãi mãi trở nên vô dụng”,…” tôi được
sinh ra không phải vì sự trừng phạt của Chúa mà vì sự sáng tạo của Người để hiện lộ
những công việc đặc biệt của Người qua tôi”. Nhờ suy nghĩ tích cực, Nick đã tốt
nghiệp đại học với tấm bằng kép và trờ thành nhà diễn thuyếy, tuyên truyền động lực
và đại sứ truyền cảm hứng sống nổi tiếng trên thế giới. Hay chúng ta cũng có thể kể
đến anh Đặng Lê Nguyên Vũ. Chứng kiến cảnh cha bị bệnh nặng, chỉ cần 2 triệu đồng
mà vay mượn cả đại gia đình cũng không đủ, cậu con trai mười sáu tuổi – Đặng Lê
Nguyên Vũ đã thề với lòng: Một ngày nào đó mình sẽ thay đổi cuộc sống của đại gia
đình này. Anh học đại học ngành Y mà nhận ra rằng ngành Y không thể đáp ứng
được ước mơ và tham vọng của mình, năm thứ ba đại học, anh quyết định nghỉ học và
vào thành phố Hố Chí Minh kiếm tìm cơ hội. Ít ai biết rằng, chàng trai trẻ khởi đầu sự
nghiệp bằng căn nhà thuê chỉ vài mét vuôn để xay cà phê, vay từng kí cà phê, đạp xe
hàng cây số để giao hàng cho khách,… lại trở thành ông chủ của tập đoàn sản xuất cà
phê Trung Nguyên – hãng Cà phê hàng đầu Việt Nam. Rõ ràng chúng ta đều thấy
rằng, khi biết hướng bản thân mình tới những điều tốt đẹp thì mọi chuyện khó khăn
đều có thể vượt qua. Nhưng trong cuộc sống ngày nay, không phải cũng ý thức được
điều này. Xã hội phát triển đòi hỏi mỗi con người chúng ta cũng cần phải phát triển
theo, tuy nhiên, có đôi khi, chúng ta bị cuốn vào những bộn bề của cuộc sống, áp lực
công việc đè nặng. Vì vậy, có một số người đã không đủ ý chí nghị lực để vượt qua nó,
thay vì lạc quan, vui sống thì họ lại thường có những suy nghĩ tiêu cực. Họ dễ thiếu đi
niềm tin và dễ bị đẩy đến vực thẳm tăm tối, u ám.
Bởi vậy, mỗi người cần thay đổi nhận thức và thái độ sống. Chúng ta hãy biết
nghĩ lạc quan, sống tích cực, nhìn nhận cuộc sống theo những hướng khác nhau. Có ai
đó từng nói “ Bạn chỉ có hai cách để sống: một là như thể chẳng có điều gì là điều kì
diệu, hai là như thể tất cả đều là điều kì diệu”. Cuộc sống của chúng ta đều phụ thuộc
vào cách chúng ta nhìn nhận và chỉ cần chúng ta thay đổi cách nhìn, thì cuộc sống
cũng thay đổi, đời thay đổi khi chúng ta thay đổi. Vì vậy, hãy lạc quan hơn, nhìn cuộc
182
sống theo hướng tích cực, hướng về phía mặt trời dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, mọi
khó khăn đều sẽ lùi về sau chúng ta và đi vào dĩ vãng. Thêm vào đó, mỗi chúng ta
cũng cần thắp lên trong trái tim ngọn lửa của ý chí, nghị lực kiên cường và niềm tin
son sắt để có thể dũng cảm đối mặt với khó khăn và biết đứng dậy sau vấp ngã. Hãy tự
tạo cho mình một niềm đam mê, kiên định và theo đuổi nó, bạn sẽ cuộc sống này đẹp
đến mức nào.
Có thể khẳng định, Hãy hướng về phía mặt trời bóng tối sẽ ngả dần về phía sau
bạn là một ý kiến đúng đắn và nó luôn đúng con người ở mọi thời đại bởi lẽ cho dù
cuộc sống này có phát triển thế nào, chúng ta vẫn phải đối mặt với khó khăn, thách
thức. Vì vậy, hãy biết hướng mình về phía mặt trời để tận hưởng cuộc sống một cách
trọn vẹn hơn.

Đề 20: Bệnh vô cảm


Trong đời sống đang phát triển mạnh mẽ về công nghệ, máy móc, con người có
thể kiếm được nhiều tiền hơn, giàu có hơn, nhưng có một thứ dường như có biểu hiện
vơi đi, đó là sự quan tâm giữa người với người? Cuộc sống công nghiệp với những tất
bật và tốc độ vận động quá nhanh khiến người ta hẫng hụt đến mức ít quan tâm đến
nhau hơn. Phải chăng những tất bật ấy là nguyên nhân khiến “bệnh vô cảm” có cơ hội
lan rộng?
Vô cảm là một căn bệnh hiện không có trong danh sách của ngành y học, nhưng
nó đã ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống con người. Vậy “bệnh vô cảm” là gì? Vô là
không, cảm là tình cảm, cảm xúc. Vô cảm là trạng thái con người không có tình cảm.
Sống khép mình lại, thờ ơ lạnh nhạt với tất cả mọi việc xung quanh. Trong nhịp sống
hiện đại ngày nay, một sô” người chỉ lo vun vén cho đời sống cá nhân và quay lưng lại
với eộng đồng xã hội. Một số người tự làm mình trở nên xa lánh, không quan tâm đến
ai, không biết đến niềm vui nỗi buồn của người khác. Đó là “bệnh vô cảm”. Chỉ lo
chạy theo giá trị vật chất, đôi khi con người ta đã vô tình đánh mất đi vẻ đẹp đích thực
của tâm hồn. Cuộc sống dù có sung túc hơn, giàu sang hơn, nhưng khi con người
không biết quan tâm yêu thương nhau, thì đó vẫn không được xem là cuộc sống trọn
vẹn được. Ngại giúp đỡ những người gặp khó khăn hoạn nạn, cuộc sống của chúng ta
dần đi ngược lại với truyền thống đạo đức tốt đẹp của nhân dân từ xưa “Lá lành đùm lá
rách”.
Ngày nay, một số người chi biết sống và nghĩ cho riêng mình. Như khi thấy bao
người hành khất bên đường, họ không giúp đỡ, thậm chí còn khinh miệt, dè bỉu chế
nhạo trước nỗi bất hạnh của những mảnh đời đáng thương đó. Và cũng như bao tệ nạn,
bao việc xấu xa cướp giật giữa đời thường vẫn xảy ra hằng ngày đấy thôi, nhưng
không, ai dám can ngăn. Vì sao? Vì sao con người lại vô cảm như vậy? Phải chăng
cũng vì họ sợ, sợ sẽ gặp rắc rối liên lụy, cho nên không dại gì lo nghĩ đến chuyện của
người khác. Nhưng đó không là “chuyện của người khác”, đó chính là những vấn đề
chung của xã hội. Sao con người lại có thể quay lưng lại với chính cộng đồng mình
183
đang sống được kia chứ! Và không chỉ dừng lại ở một vài cá nhân, bộ phận nhà nước
cũng có lối sống ích kỉ như vậy. Một vài cơ quan giàu sang luôn tìm cách bóc lột
người dân, như về việc chiếm đất đai, tài sản… Rồi sau đó, họ ngoảnh mặt đi một cách
lạnh lùng, bỏ lại sau lưng những mảnh đời khốn khổ cùng bao giọt nước mắt hờn trách
cuộc đời không thể sẻ chia cùng ai. Đó không phải là biểu hiện của “bệnh vô cảm” hay
sao!
Nếu cứ mãi tiếp tục như vậy, cuộc sống này sẽ mất hết tình thương, mất hết niềm
cảm thông san sả, mất đi cả truyền thống đạo đức quý báu ngày xưa. Sẽ không còn là
“một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ nữa”, mà chỉ còn lại sự lạnh nhạt, sự thờ ơ vô cảm.
“Tình thương là hạnh phúc của con người”, liệu cuộc sống này có còn ý nghĩa nữa hay
không nếu con người cứ tự khép mình lại và chỉ biết sống cho bản thân? Liệu bạn có
cảm thấy hạnh phúc nếu xung quanh mình chỉ toàn là giọt nước mắt cùng với nỗi bất
hạnh của bao người? Thomas Merton đã từng nói: “Nếu chúng ta chỉ biết tìm hạnh
phúc cho riêng mình thì có thể chúng ta sẽ chẳng bao giờ tìm thấy. Hạnh phúc đích
thực là biết sổng vì người khác”. Bạn giàu sang ư? Bạn thành công ư? Nhưng khi đã
trở nên vô cảm, bạn chỉ thấy mỗi bản thân mình mà thôi. Sự giàu sang, sự thành công
như vậy có mang lại hạnh phúc cho bạn không khi bạn chỉ sống một mình, hay đúng
hơn là bạn tự tách mình ra khỏi cộng đồng, sống không sẻ chia.
Sống đôi khi đơn giản là học cách yêu thương. Hãy thử một lần trải lòng mình ra
dù chỉ là chút ít ỏi. Bởi vì, khổ đau được san sẻ sẽ vơi đi một nửa, còn hạnh phúc được
san sẻ sẽ nhân đôi. Hãy thử nghĩ xem, cụ già trên đường kia sẽ có thể qua đường nếu
bạn chịu bỏ chút ít thời gian dừng xe lại và dắt cụ qua. Em bé sẽ không lạc giữa chợ
nếu bạn chịu bỏ chút ít thời gian đưa em về phường công an tìm mẹ… Mỗi ngày đến
trường, bạn có thể dành dụm một chút ít tiền cho quỹ “Vì người nghèo”. Nhiều, rất
nhiều những việc bạn có thể làm nếu bạn chịu bỏ “chút ít”. Những đóng góp của bạn
đôi khi rất nhỏ nhặt nhưng quan trọng hơn hết, đó là tình thương, là sự quan tâm chia
sẻ, là cả một tấm lòng. Hãy làm những gì có thể để giúp cho nỗi đau của bao người
được vơi đi. Sự trao đi yêu thương đôi khi cũng là điều mang lại hạnh phúc. Phải nói
rằng, xã hội càng văn minh, thì con người đối xử với nhau nhân ái hơn, văn minh hơn.
Tuy nhiên, vẫn tồn tại đâu đó lối sống thực dụng, ích kỉ là làm tổn thương đến
truyền thống “nhiều điều phủ lấy giá gương” của dân tộc ta. Vì vậy, chúng ta không
nên nói đời sống công nghiệp đã làm nảy sinh ‘bệnh vô cảm”, mà căn bệnh ấy xuất
phát từ việc giáo dục con em và công dân chúng ta chưa thật nghiêm túc. Thật khó tìm
nguyên nhân đầy đủ, nên xin trao câu hỏi này cho các nhà giáo dục và xă hội học, tâm
lí học,…
Trong ca khúc “Mưa hồng”, cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng viết: “Cuộc đời
đó có bao lâu mà hững hờ”. Vâng, đừng sốhg quá vội vã! Đừng để dòng đời hối hả có
184
thể cuốn bạn đi! Đừng quay lưng lại với tất cả! Đừng để dòng màu đỏ chảy trong con
người bạn trở nên lạnh đen. Đừng để một khi nào đó dừng lại, bạn chợt nhận ra mình
đã vô tình đánh mất quá nhiều thứ! Hãy nuôi dưỡng lòng nhân ái, tình thương của
mình cùng mọi người đẩy lùi “căn bệnh vô cảm” kia. Và cũng bởi vì: ngày mai có thể
sẽ không bao giờ đến nên hãy cho và nhận những gì bạn có trong ngày hôm nay.

Đề 21: Tự tin và tự tin thái quá


Trong cuộc sống chúng ta cần đến sự tự tin để làm mình nổi bật trước đám đông,
nhưng đôi lúc sự tự tin đó lại mang đến cho người khác cảm giác bạn đang khoe
khoang hay khuếch trương bản thân mình! Sự khác nhau giữa tự tin và tự tin thái quá
chỉ một ranh giới nhỏ!
Tự tin là khi bạn biết mình giỏi như thế nào, thực lựa ra sao để nỗ lực hơn, cố
gắng hơn. Còn tự tin thái quá là khi bạn tin mình giỏi hơn người khác, có thực lực hơn
những người khác để tự làm nỗi bật chính mình!
Ngày nay trên nhiều trang báo điện tử xuất hiện rất nhiều những người trẻ tuổi tự
khoe khoang, tự hài lòng với bản thân mình. Chính bản thân họ cứ ngỡ mình toàn vẹn
cả về tài năng lẫn nhan sắc đã nói lên những suy nghĩ mà người khác gọi là : tự kỷ ám
thị! Đó chính là thói tự hài lòng, tự mãn với những gì mình có mà không biết điểm
dừng cần thiết để học hỏi và cố gắng hơn!
Nhiều người quá tin vào khả năng của bản thân minh để rồi thổi phồng mình
trước những người khác! Nhưng bạn có biết rằng làm như thế chính bạn đang tự làm
hại bản thân mình! Bạn có tự tin nhưng lại quá tự mãn từ đó dẫn đến việc bạn không
làm chủ được hành vi, ngôn ngữ của mình!
Trong một cuộc nói chuyện, người tự tin sẽ không đem bảng thành tích của mình
ra khoe khoang mà để người nghe tự tìm hiểu lấy ! Còn những người có thói quen tự
tin thái quá sẽ làm ngược lại! Họ nghĩ mình tài giỏi rồi thì cần để cho người khác biết
chứ! Thế là tuôn ra không biết bao nhiêu bảng xếp hạng thành tích khiến người nghe
cảm thấy chán ngán!
Thực ra năng lựa như thế nào thì chỉ cần tiếp xúc một thời gian sẽ nhận ra! Còn
nếu quá khuếch trương lại đem đến nhiều hậu quả đáng tiếc! Nhiều người đã làm cho
người đối diện cảm thấy trong sâu thẳm con người của họ không có sự chân thành và
tài giỏi thực sự! Chỉ là “ tự mãn” để thỏa mãn bản thân mình! Như vậy chỉ có hại mà
không có lợi với thái độ tự tin thái quá này!
Người tự tin là người có thể làm chủ trong mọi hoàn cảnh, họ co đủ năng lực để
vượt qua những khó khăn và thử thách, đủ ý chí để vượt qua những cam go và cạm
bẫy! Thế nên dù bạn là ai thì hãy tìm kiếm và xây dựng cho mình nền tảng của sự tự
tin đúng mực, đừng bao giờ đánh mất niềm tin vào bản thân cũng như cũng đừng bao
giờ tự tin thái quá!

Đề 22: nếu … thì …


Nếu bầu trời có vẻ như bao phủ đầy mây xám mà bạn lại đi ra ngoài khi trời
mưa…
Nếu bạn đang mong nhìn thấy một chiếc cầu vồng rạng rỡ nhưng màu sắc của nó
lại mang đến cho bạn nỗi buồn…
Nếu quả đất vẫn tiếp tục quay mà bạn phải đi đến kết thúc…
Nếu bạn đang tìm kiếm ánh sáng mặt trời mà tất cả những gì bạn nhìn thấy là
185
bóng đêm tối mịt…
Nếu tất cả xung quanh bạn là những niềm vui mà riêng với bạn chỉ là nỗi buồn…
Nếu bạn đang quá sức mệt mỏi mà cuộc sống lại tiếp tục quật ngã bạn…
Nếu bạn khóc…
Thì bạn hãy nghĩ những giọt nước mắt của bạn rơi xuống đất đã làm nên điều kỳ
diệu: vẻ đẹp của những bông hoa như sự dịu dàng trên tay bạn.
Thì bạn hãy cảm nhận không khí xung quanh bạn đang sực nức mùi cỏ mới cắt.
Thì bạn hãy cười đùa với những đứa trẻ và nhận lấy sự ngây thơ từ chúng khi
chúng cười đùa.
Thì hãy tưởng tượng mình đang bay cùng một cô bướm xinh xinh trong một khu
rừng đầy màu sắc.
Thì bạn hãy lắng nghe tiếng thì thầm của đại dương và bạn để làn da của mình
được mơn man bởi làn gió ấm áp của mùa hạ.
Thì bạn hãy nếm một viên kẹo và cảm nhận vị ngọt ngào của những kỷ niệm thời
thơ ấu đang dịu ngọt trên đầu lưỡi bạn.
Thì bạn hãy lắng nghe giai điệu trong trẻo của những chú chim hót đón chào một
ngày mới.
Thì bạn hãy nhớ những nỗi dịu dàng quá đỗi mà bạn nhận được từ nụ hôn êm
đềm của mẹ khi ôm chặt bạn vào lòng và thủ thỉ những lời yêu thương vô bờ.
Hãy cố gắng tìm kiếm những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Hãy trông lên những
đám mây ngũ sắc trên đầu chứ đừng nhìn đất đen dưới vệ đường. Cuộc sống không
ban ơn cho ta mà chính ta sẽ ban tặng cho cuộc sống những món quà từ những hành
động và suy nghĩ tích cực của mình.
Hãy bắt đầu ngày hôm nay từ ngay giây phút này. Bởi vì cuộc sống đã là một
niềm vui, một món quà vĩ đại nhất mà tạo hóa ban tặng cho bạn.

Đề 23: Sống !!!


3 ĐIỀU GIÁ TRỊ
• Ba điều trong đời một khi đã đi qua không thể lấy lại được :
- Thời gian
- Lời nói
- Cơ hội
• Ba điều trong đời không được đánh mất :
- Sự thanh thản
- Hy vọng- Lòng trung thực
• Ba thứ GIÁ TRỊ NHẤT trong đời :
- Tình yêu
- Lòng tự tin
- Bạn Bè
• Ba thứ trong đời kHÔNG bao giờ BỀN VỮNG được:
- Giấc mơ
- Thành công
- Tài sản
• Ba điều làm nên giá trị một con người :
- Siêng năng
- Chân thành
- Thành đạt
• Ba điều làm hỏng một con người :
186
- Rượu
- Lòng tự cao,
- Sự giận dữ
Dễ và khó
Dễ là khi bạn có một chỗ trong sổ địa chỉ của một người nhưng khó là khi bạn
tìm được một chỗ trong trái tim của người đó.
Dễ là khi đánh giá lỗi lầm của người khác nhưng khó là khi nhận ra sai lầm của
chính mình.
Dễ là khi nói mà không suy nghĩ nhưng khó là khi biết kiểm soát những lời nói
của mình.
Dễ là khi làm tổn thương một người mà bạn yêu thương nhưng khó là khi hàn
gắn vết thương đó.
Dễ là khi tha thứ cho người khác nhưng khó là khi làm cho người khác tha thứ
cho mình.
Dễ là khi đặt ra các nguyên tắc nhưng khó là khi làm theo chúng.
Dễ là khi nằm mơ hàng đêm nhưng khó là khi chiến đấu vì một ước mơ.
Dễ là khi thể hiện chiến thắng nhưng khó là khi nhìn nhận một thất bại.
Dễ là khi vấp phải một hòn đá và ngã nhưng khó là khi đứng dậy và đi tiếp.
Dễ là khi hứa một điều với ai đó nhưng khó là khi hoàn thành lời hứa đó.
Dễ là khi chúng ta nói rằng chúng ta yêu thương nhưng khó là khi làm cho người
khác cảm thấy như thế hàng ngày.
Dễ là khi phê bình người khác nhưng khó là khi cải thiện chính bản thân mình.
Dễ là khi để xảy ra sai lầm nhưng khó là khi học từ những sai lầm đó.
Dễ là khi buồn bực vì một điều gì đó mất đi nhưng khó là khi quan tâm đủ đến
điều đó để đừng làm mất.
Dễ là khi nghĩ về một việc nhưng khó là khi ngừng suy nghĩ và bắt đầu hành
động.
Dễ là khi nghĩ xấu về người khác nhưng khó là khi cho họ niềm tin trong cuộc
sống.
Dễ là khi nhận nhưng khó là khi cho.
Dễ là khi đọc những điều này nhưng khó là khi bạn thực hiện nó. Nếu cơ hội mãi
không gõ cửa, bạn phải xem mình đã xây một cánh cửa chưa đã…
Bài ngữ pháp cho bạn trẻ
- Hãy sống ở thế chủ động, tránh xa thể thụ động, nghĩ nhiều đến những gì mà
bạn có khả năng làm được hơn là những gì có thể xảy ra cho bạn.
- Hãy sống ở cách khách quan. Hãy quan tâm đến thực tế cuộc sống đúng với
những gì đang thật sự diễn ra, hơn là mong muốn chuyện đời sẽ xảy ra như bạn mơ
ước.
- Hãy sống ở thì hiện tại, can đảm trực diện đối đầu với công việc ngày hôm nay.
Không luyến tiếc quá khứ, cũng đừng lo lắng vớ vẩn đến tương lai.
- Hãy sống ở ngôi thứ nhất, nghiêm khắc tự kiểm điểm mình hơn là đi bươi móc
những sai sót, lỗi lầm của thiên hạ.
- Hãy sống ở số ít, lắng nghe lời phê bình xuất phát từ lương tâm mình hơn là
thích thú với những lời tán thưởng của đám đông.
- Và nếu phải chọn một động từ thì hãy chọn lấy động từ yêu thương.

187
DẠNG ĐỀ CÂU NÓI, NHẬN ĐỊNH
ĐỀ 1: Nhận xét về văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, có ý
kiến viết:
“Văn học của ta đã xây dựng và thể hiện sinh động hình ảnh của thế hệ trẻ “Xẻ dọc
Trường Sơn đi cứu nước” với ý thức ngày càng sâu sắc về trách nhiệm của thế hệ
trước dân tộc và nhân dân, trước Tổ quốc và lịch sử.”
Qua một số tác phẩm đã học, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên
1. Mở bài
- Giới thiệu vấn đề nghị luận: Hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam qua thực tế văn học chống

- Trích ý kiến
- Khái quát vấn đề
2. Thân bài
a. Khái quát chung
- Hoàn cảnh lịch sử: Hai mươi năm dân tộc Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước. Đó là cuộc chiến đấu đầy gian khổ, ác liệt và hi sinh.
- Hình ảnh trung tâm của thời đại, niềm tự hào của dân tộc và cũng là hình ảnh trung
tâm của văn học kháng chiến chống Mĩ đó là hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam- thế hệ
đóng góp lớn công sức và xương máu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và dựng xây
đất nước:
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai
- Bởi vậy văn học giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, nhiều tác phẩm thơ
ca cũng như văn xuôi của các tác giả đã khắc họa sinh động hình ảnh thế hệ trẻ Việt
Nam trong kháng chiến chống Mĩ: Họ là những người lính lái xe Trường Sơn, những
cô gái thanh niên xung phong trên chiến trường, những con người ngày đêm miệt mài
lao động cống hiến cho đất nước...
- Họ đều là những thanh niên sống có lý tưởng cao đẹp, họ nguyện đem sức trẻ, tinh
thần, trí tuệ…cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Tuy nhiệm vụ
khác nhau nhưng họ cùng chung mục đích, lý tưởng là bảo vệ và xây dựng đất nước
nên ở họ đều tỏa sáng những phẩm chất cao đẹp tuyệt vời.
b. Phân tích và chứng minh
b.1. Luận điểm 1: Đó là lớp thanh niên trẻ có lý tưởng cách mạng cao đẹp, có hoài
bão ước mơ, sẵn sàng cống hiến sức trẻ cho đất nước
- Lý tưởng cao đẹp của những người lính lái xe Trường Sơn: Vì sự nghiệp giải phóng
miềnNam thống nhất đất nước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
( Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật)
- Nhân vật anh thanh niên dù tuổi đời còn rất trẻ nhưng anh đã ý thức được một cách
sâu sắc về trách nhiệm của mình (một công dân) đối với quê hương đất nước, mà cao
hơn là lý tưởng sống, lý tưởng cách mạng
“ Mình sinh ra là gì,mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc?” (Lặng lẽ Sa Pa)
b.2. Luận điểm 2: Họ là những con người dũng cảm, gan dạ, đầy tinh thần trách
nhiệm, coi thường hiểm nguy,vượt qua mọi gian khổ sẵn sàng hi sinh để hoàn
thành nhiệm vụ
- Những người lính lái xe Trường Sơn với tinh thần dũng cảm và ý chí kiên cường vì
sự nghiệp giải phóng đất nước đã giúp họ vượt qua sự nguy hiểm của bom đạn (sự ác
188
liệt trên tuyến đường Trường Sơn thời chống Mĩ), vượt qua sự khó khăn gian khổ để
hoàn thành nhiệm vụ.
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi…”
“Không có kính ừ thì có bụi….”
“Không có kính ừ thì ướt áo…”
“Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”
- Anh thanh niên với lòng yêu nghề và tinh thần trách nhiệm đã giúp anh vượt qua nỗi
cô đơn, vượt qua mọi gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ
“ Cháu ở đây có nhiệm vụ đo nắng, đo mưa….xong việc trở vào là không thể nào ngủ
lại được.”
b.3. Luận điểm 3: Ở họ có tình đồng chí, đồng đội gắn bó thân thiết, sẵn sàng chia
sẻ với nhau trong cuộc sống thiếu thốn, gian khổ và hiểm nguy.
- Những người lính lái xe Trường Sơn từ sự cùng chung nhiệm vụ, lý tưởng họ đã trở
thành đồng đội của nhau, sẻ chia với nhau những gian khổ ở chiến trường, tình đồng
đội đã tiếp thêm cho họ sức mạnh để vượt qua bom đạn hiểm nguy. Hơn thế họ còn coi
nhau như anh em trong một gia đình (Dẫn chứng và phân tích)
- Anh thanh niên có thể vượt qua nỗi cô đơn, vượt qua mọi sự gian khổ để hoàn thành
nhiệm vụ là vì anh luôn suy nghĩ anh không cô đơn mà luôn có đồng đội tiếp sức cho
anh: “ Huống chi công việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em đồng chí dưới
kia”.Vì đồng đội mà anh luôn cố gắng trong công việc bởi anh luôn thấy những đóng
góp của mình cho đất nước còn quá nhỏ bé so với họ (anh bạn trên đỉnh Phan-xi-păng,
anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét, ông kĩ sư vườn rau Sa- Pa).
b.4. Luận điểm 4: Giữa những khó khăn ác liệt của cuộc sống họ vẫn tràn đầy tinh
thần lạc quan, sự trẻ trung, lãng mạn của tuổi trẻ
- Sự trẻ trung, ngang tàng, sôi nổi đậm chất lính của những chiến sĩ lái xe Trường Sơn
giữa chiến trường ác liệt. Thái độ bất chấp những gian khổ hiểm nguy (Dẫn chứng và
phân tích)
- Anh thanh niên, qua những lời anh tâm sự với ông họa sĩ và cô kĩ sư về cuộc sống
một mình của anh, về công việc của anh ta thấy được ý chí nghị lực phi thường ở anh“
…Nếu là nỗi nhớ phồn hoa đô hội thì xoàng…”. Không chỉ vậy, ngoài giờ làm việc
còn trồng hoa, nuôi gà và đặc biệt là dành thời gian để đọc sách mở mang hiểu biết.
c. Đánh giá
- Hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ hiện lên chân thực, sinh
động trên các trang văn của các tác giả đã có sức thuyết phục với người đọc.
- Hình ảnh ấy không chỉ cho thấy tài năng của các tác giả mà còn cho chúng ta thấy sự
am hiểu, trải nghiệm cuộc sống trong những năm kháng chiến ác liệt của các nhà văn,
nhà thơ.
- Qua đó, chúng ta có thể hiểu thêm về lịch sử dân tộc, thêm tự hào và tiếp bước truyền
thống các thế hệ cha anh.
3. Kết bài
- Khẳng định lại vấn đề
- Suy nghĩ của bản thân
ĐỀ 2: “Bắt rễ ở cuộc đời hằng ngày của con người, văn nghệ lại tạo được sự
sống cho tâm hồn con người. Nghệ thuật mở rộng khả năng của tâm hồn,
làm cho con người vui buồn nhiều hơn, yêu thương và căm hờn được nhiều

189
hơn, tai mắt biết nhìn, biết nghe thêm tế nhị, sống được nhiều hơn”. (Tiếng
nói văn nghệ – Nguyễn Đình Thi).

Bằng việc phân tích một vài tác phẩm văn chương trong chương trình
Ngữ văn, em hãy làm sáng tỏ nhận định của Nguyễn Đình Thi.
1. Mở bài:
- Từ khi biết nhận biết về cái đẹp, con người không ngừng dùng cái đẹp để làm
phong phú thêm cuộc sống của mình. Trong những vẻ đẹp ấy, văn chương đêm
lại cho đời sống con người cái đẹp muôn hình vạn trạng. Xuất phát từ ý thức con
người, văn chương quay trở lại phục vụ và làm đẹp thêm cuộc sống.
- Bởi thế, nhận xét về văn chương, trong Tiếng nói văn nghệ, Nguyễn Đình Thi
có viết: “Bắt rễ ở cuộc đời hằng ngày của con người, văn nghệ lại tạo được sự
sống cho tâm hồn con người. Nghệ thuật mở rộng khả năng của tâm hồn, làm
cho con người vui buồn nhiều hơn, yêu thương và căm hờn được nhiều hơn, tai
mắt biết nhìn, biết nghe thêm tế nhị, sống được nhiều hơn”.
2. Thân bài:
a. Giải thích:
- Văn chương là nghệ thuật của ngôn từ. Văn chương con được gọi với tên gọi
khác là văn nghệ. Đôi khi văn học cũng được đồng nhất với văn chương.
Trước hết, văn chương là một loại hình nghệ thuật đặc thù của con người. Văn
chương “bắt rễ ở cuộc đời” không chỉ về khái niệm nguồn gốc mà còn ở nội
dung phản ánh. Từ khi con người biết dùng ngôn ngữ để miêu tả vẻ đẹp của
thiên nhiên và đời sống tình cảm thì văn chương xuất hiện. Không ở đâu khác,
nó hiện hình ngay trong đời sống, xuất phát từ nhu cầu trình bày, thể hiện và
thưởng thức của con người.
- Từ những sản phẩm văn chương có giá trị đã được tạo thành, nó lưu truyền
trong xã hội. Từ cảm xúc của một người, văn chương tạo cảm xúc cho nhiều
người, nhiều thế hệ và nhiều thời đại.
- Văn chương tạo được sự sống cho tâm hồn con người. Đọc một tác phẩm hay,
ta không khỏi rung động và mường tượng về những gì được biểu đạt trong đó.
Người đọc có thể khóc, cười, khổ đau hay hạnh phúc cùng nhân vật. Người đọc
thấy thật hạnh phúc khi nhân vật tốt đẹp có được hạnh phúc sau khi trải qua
nhiều bi kịch, nhiều khổ đau. Người đọc cũng thấy thật hả hê khi kẻ xấu, kẻ ác
bị trừng trị thích đáng. Thấy thõa mãn khi công lí được bảo vệ, điều chân thiện
được gìn giữ.
- Nghệ thuật lại có thể mở rộng khả năng của tâm hồn. Nó làm cho con người
vui buồn nhiều hơn, yêu thương và căm hờn được nhiều hơn. Nó làm cho tai mắt
ta biết nhìn, biết nghe thêm tế nhị. Nó giúp ta sống được nhiều hơn. Từ một
điểm nhìn hạn hẹp, thông qua nghệ thuật, con người không ngừng mở rộng hiểu
biết về thế giới xung quanh. Nó giúp ta vượt không gian, thời gian, chạm đến
190
những thế giới xa xôi nhất trong vũ trụ và cả trong thế giới mờ ảo của nội tâm
con người.
b. Chứng minh thông qua một vài tác phẩm:
* Truyện Kiều:
- Không ở đâu khác, Truyện Kiều “bắt rễ ở cuộc đời” này. Toàn bộ thi liệu và
cảm hứng của tác giả bắt nguồn từ trong sâu thẳm cuộc đời. Nguyễn Du mang
một trái tim đầy rung cảm. Tuy xuất phát là một nhà Nho, con nhà quyền quý,
lại làm quan to nhưng ông sống gắn bó và gần gũi với người dân hiền lành trong
một thời gian dài. Những số phận nghèo khó, những mảnh đời nghiệt ngã khiến
ông không ngừng suy nghĩ. Ông suy nghĩ về tình đời, tình người và kiếp người
phù sinh nhỏ bé trong dòng đời nghiệt ngã. Từ cuộc đời lận đận, gian truân của
mình, ông trải niềm tâm cảm cùng với nhân gian.
- Cuộc đời và số phận sóng gió ba đào của nhân vật Thúy Kiều đâu chỉ riêng gì
của Thúy Kiều. Mà đó là số phận của biết bao con người phụ nữ Việt Nam trong
thời đại phong kiến. Tiếng khóc bi thương của Thúy Kiều cũng là tiếng khóc của
trần gian trong khổ đau, bế tắc. Họ đã cố vươn lên tìm kiếm con đường sống. Họ
vật vả với số phận khắc nghiệt và không ngừng mong mỏi một cuộc đời tốt đẹp.
Nhưng càng gắng gượng, họ càng khổ đau, bế tắt. Đó là hiện thực đen tối của xã
hội Việt Nam thế kỉ 18.
- “Bắt rễ ở cuộc đời”, Truyện Kiều lại “tạo được sự sống cho tâm hồn con
người”. Mấy ai đọc Truyện Kiều mà không cảm phục cái tài, cái tình và cái tâm
của đại thi hào Nguyễn Du. Mỗi câu, mỗi chữ trong Truyện Kiều có khả năng
đánh thức những cảm xúc chìm ẩn, tưởng chừng như đã ngủ quên từ lâu trong
tâm hồn ta. Nó khiến cho từng tế bào rung rung. Nó khiến cho lí trí ta biết cảm
nhận, trái tim ta biết yêu biết ghét, biết căm hờn và cảm thương. Nó mở rộng
khả năng của tâm hồn ta, làm cho ta vui buồn nhiều hơn, yêu thương và căm hờn
được nhiều hơn. Nó khiến cho tai mắt ta biết nhìn, biết nghe thêm tế nhị và trái
tin được sống được nhiều hơn.
- Đọc Truyện Kiều là được tìm thấy mình trong cội nguồn nguyên thể của dân
tộc.
* Chiếc lược ngà:
- Hoàn cảnh chiến tranh ác liệt tại chiến trường Nam Bộ trong thời kì kháng
chiến chống Mĩ là cội rễ sản sinh ra tác phẩm Chiếc lược ngà. Không cần cố
công tìm kiếm, Nguyễn Quang Sáng hiển nhiên nhìn thấy ý tưởng ngay trong
hiện thực chiến tranh khốc liệt. Cuộc đời của anh Sáu cũng là cuộc đời chung
của biết bao anh em đồng chí cách mạng. Đó cũng là cuộc đời chung của con
người Việt Nam thời kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Họ anh dũng, kiên trung
với đất nước. Vì sự nghiệp giải phóng đất nước, họ sẵng sàng rời bỏ gia đình đi

191
chiến đấu. Họ sẵn sàng từ bỏ tình riêng, cống hiến, hi sinh vì sự nghiệp lớn của
Cách mạng, của đất nước.
- Bắt nguồn từ cuộc sống, hình ảnh anh Sáu chân thực và sinh động như cuộc
sống vốn có. Từ hình tượng nghệ thuật ấy, tác phẩm không ngừng “tạo được sự
sống cho tâm hồn người” và “mở rộng khả năng của tâm hồn” người đọc.
- Đọc Chiếc lược ngà, người đọc sao khỏi bâng khuân nhung nhớ khi nghĩ về
nỗi nhớ con của anh Sáu ở chiến khu. Ra đi lúc con gái chưa đầy một tuổi. Bảy
năm đằng đẵng chờ đợi. Trái tim người cha rọn ràng mỗi khi nghe vợ kể về con
và khao khát được trở về ôm con vào lòng. Trái tim người cha có thể vỡ tung
nếu ngày đó anh không trở về.
- Dõi theo nhân vật anh Sáu, người đọc cũng không khỏi rưng rưng khi cha con
anh nhận ra nhau. Buổi sáng chia tay trên bến sông quả thực đặt ra một thách
thức quá lớn. Tình cảm gia đình có thể nào khiến anh quên nhiệm vụ? Tình yêu
thương con và khát khao hạnh phúc có thể nào làm lu mờ lý tưởng người lính?
Anh Sáu nghẹn ngào hôn chia tay con. Anh quyết định lên đường dù hạnh phúc
ngọt ngào vừa mới ùa về. Anh vội vã, vồ vập tận hưởng nó trong khoảnh khắc
ngắn ngủi. Và đó cũng là lần cuối cùng anh gặp con.
- Đọc tác phẩm, người đọc được cùng tác giả nghẹn ngào trước tình cha con
trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh và tình đồng chí của những người cán bộ
cách mạng. Chính nó đã mở rộng khả năng của tâm hồn người đọc. Nó làm
cho người đọc vui buồn nhiều hơn, yêu thương và căm hờn được nhiều hơn, tai
mắt biết nhìn, biết nghe thêm tế nhị, sống được nhiều hơn.
Đó không chỉ là tình cảm muôn thủa, có tính nhân bản bền vững. Nó còn được
khắc sâu bằng hoàn cảnh ngặt nghèo và éo le của chiến tranh và trong cuộc sống
nhiều gian khổ, hi sinh của người cán bộ cách mạng. Vì thế, tình cảm ấy càng
đáng trân trọng. Đồng thời, nó cũng cho thấy những nỗi đau mà chiến tranh gây
ra cho cuộc sống bình thường của mọi người. Chiếc lược ngà – Một kỉ vật đơn
sơ mà vô giá, đã nối hai cuộc gặp gỡ với ba con người, nối kết tác phẩm và
người đọc.
- Nhưng vang vọng suốt cả câu chuyện, suốt những cuộc đời ấy chỉ có một tiếng
kêu. Một tiếng kêu bình dị mà thiêng liêng bậc nhất của cõi đời này. Ấy là
tiếng “ba” của bé thu. Tiếng “ba” vỡ ra từ sâu thẳm cõi lòng cô bé. Còn đối với
người cha, đó là tiếng gọi “ba” đầu tiên và cũng là những tiếng cuối cùng ông
nghe được từ con!
3. Kết bài:
Các tác phẩm trên là tác phẩm của những tác giả khác nhau. Tuy ra đời
trong những hoàn cảnh khác nhau nhưng chúng đều là minh chứng tiêu biểu cho
mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời, nghệ thuật và người thưởng thức văn
nghệ. Nhận định của Nguyễn Đình Thi đúng đắn và có tầm khái quát cao. “Văn
192
chương gây cho ta những tình cảm ta chưa có, luyện cho ta những tình cảm ta
sẵn có” (Hoài Thanh)
ĐỀ 3: Qua bài thơ Ánh trăng – Nguyễn Duy, hãy làm sáng tỏ nhận định: “Tác
phẩm vừa là kết tinh tâm hồn người sáng tác, vừa là sợi dây truyền cho mọi
người sự sống mà nghệ sĩ mang trong lòng”
1. Mở bài:
- Tác phẩm văn học là công trình nghệ thuật ngôn từ đặc sắc do một cá nhân
hoặc một tập thể sáng tạo nhằm thể hiện những khái quát về cuộc sống, con
người; biểu hiện tâm tư, tình cảm, thái độ… của người nghệ sĩ trước thực tại
bằng những hình tượng nghệ thuật.
Trong bài Tiếng nói của văn nghệ, Nguyễn Đình Thi cũng đã từng viết: “Tác
phẩm vừa là kết tinh tâm hồn người sáng tác, vừa là sợi dây truyền cho mọi
người sự sống mà nghệ sĩ mang trong lòng” là muốn khẳng định sự kết nối bền
chặt giữa tư tưởng của tác giả và tâm tưởng người đọc. Ý nghĩa ấy được thể hiện
rõ nét trong bài thơ Ánh trăng của nhà thơ Nguyễn Duy.
2. Thân bài:
a. Giải thích nhận định:
- Mỗi tác phẩm văn chương chính là kết tinh của tâm hồn người sáng tác.

Đứng trước cuộc đời, người nghệ sĩ có những rung động tinh tế. Họ luôn
khao khát được biểu hiện những rung động ấy dưới một hình thức nghệ thuật
nào đó. Một tác phẩm nghệ thuật ra đời là kết quả sâu sắc của những cảm xúc
ấy. Bởi thế, nghệ thuật chính là tiếng nói của tình cảm. Tác phẩm nghệ thuật là
nơi kí thác, gửi gắm tình cảm, tâm tư, chiêm nghiệm của người nghệ sĩ.
Nội dung của tác phẩm là toàn bộ những hiện tượng thẩm mĩ độc đáo trong hiện
thực khách quan. Hiện thực ấy được phản ánh bằng hình tượng thông qua sự lựa
chọn, đánh giá chủ quan của người nghệ sĩ. Tức tác phẩm là tiếng nói riêng của
mỗi nhà văn trước hiện tương. Nó bao gồm những cảm xúc, tâm trạng, lí tưởng,
khát vọng của tác giả về hiện thực đó.
Khi nói đến nội dung của tác phẩm, nhà nghiên cứu văn học Secnưxepki
nhấn mạnh bản chất của ấy. Nó “tái hiện các hiện tượng hiện thực mà con
người quan tâm”. Ông cũng viết: “Thể hiện sự phán xét đó trong tác phẩm là
một ý nghĩa mới của tác phẩm nghệ thuật. Nhờ đó nghệ thuật đứng vào hàng
các hoạt động tư tưởng, đạo đức của con người”.
- Tác phẩm nghệ thuật còn đóng vai trò “là sợi dây truyền cho mọi người sự
sống mà nghệ sĩ mang trong lòng”.
Bởi nó làm lay động cảm xúc, đi vào nhận thức, tâm hồn con người cũng
qua con đường tình cảm. Người đọc như được sống cùng cuộc sống mà nhà văn
miêu tả trong tác phẩm. Người đọc cũng yêu, ghét, vui, buồn như cảm xúc của
nhà văn trước hiện tượng.
193
Như vậy, ngoài chức năng nhận thức, chức năng giáo dục, chức năng
thẩm mĩ và chức năng giải trí, nghệ thuật còn là phương tiện để kết nối tâm hồn
và tư tưởng giữa nhà văn và người đọc; kết nối thế giới lại với nhau trong một
chỉnh thể nghệ thuật nhất định.
b. Chứng minh qua bài thơ Ánh trăng:
- Bài thơ “Ánh trăng” là lời tâm sự thiết tha sâu lắng, chân thành từ trong
sâu thẳm tâm hồn nhà thơ; là kết tinh của tâm tư, tình cảm của nhà thơ trước
cuộc đời.

+ Trăng vốn luôn có ở trong cuộc sống. Trăng xuất hiện và gắn bó với con
người qua thời gian. Trăng là người bạn tri kỉ, gắn bó sâu nặng với con người từ
thuở ấu thơ. Ánh sáng vầng trăng tỏa sáng bàng bạc cả một thời niên thiếu.
+ Vầng trăng còn gắn bó với người lính cả trong những năm tháng gian khổ của
chiến tranh. Con người tự nhủ với lòng mình sẽ chung thủy, sắt son với trăng.
Con người tự hứa sẽ “không bao giờ quên” cái vầng trăng tươi đẹp, hiền hòa và
tình nghĩa ấy.
+ Không gian và thời gian đó là khi con người còn ở trong cuộc chiến đấu chống
kẻ thù. Khi mà giữa con người và thiên nhiên có một mối giao cảm lớn. Thiên
nhiên che chở cho đời sống con người. Con người nương tựa vào thiên nhiên để
tìm kiếm nguồn sức mạnh sinh tồn.
+ Khi hoàn cảnh thay đổi, tất cả đều diễn biến theo chiều hướng tất yếu của nó.
Kẻ thù bị tiêu diệt, chiến tranh lùi xa, người lính trở về với cuộc sống hòa bình.
Rời khỏi nhiệm vụ, rời khỏi hoàn cảnh khốn khó, tình cảm của con người đối
với thiên nhiên cũng đổi khác.
+ Vầng trăng – người bạn chung tình thuở trước, đã trở thành “người dưng qua
đường”. Con người đã không còn tha thiết và gắn bó với vầng trăng thiên nhiên
nữa. Vầng trăng bây giờ đối với người lính năm xưa giờ chỉ là dĩ vãng. Một dĩ
vãng nhạt nhòa của quãng thời gian xa xôi nào đó. Trước cuộc sống đầy tiện
nghi, con người trở nên ích kỉ. Họ miệt mài đi tìm cuộc sống giàu có và đắm
mình trong sự hưởng thụ ấy. Vầng trăng tình nghĩa năm xưa đã bị lãng quên một
cách phũ phàng.
+ Và khi sự cố mất điện sảy đến. Bất ngờ, con người trở lại với không gian quen
thuộc ngày xưa. Họ chợt nhận ra sự vô tình của mình khi nhìn thấy vầng trăng
trên trời cao. Ánh trăng tình nghĩa vẫn tròn đầy, không hao khuyết. Ánh trăng
vẫn như thuở nào, không có gì thay đổi.
Chính cái khoảnh khắc bất ngờ ấy đã tạo nên bước ngoặt lớn trong mạch cảm
xúc của nhà thơ. Sự xuất hiện bất ngờ của vầng trăng khiến nhà thơ ngỡ ngàng,
bối rối. Nó gợi cho nhà thơ biết bao kỉ niệm nghĩa tình. Khiến cho ông vừa vui
mừng, vừa tủi hổ.

194
- Cuộc gặp gỡ bất ngờ mà kỳ diệu, có sức mạnh cảnh tỉnh mọi tâm hồn.
+ Nó khiến con người thấy “rưng rưng” nước mắt. “Rưng rưng” của những
niềm thương nỗi nhớ. Ngậm ngùi của những lãng quên, lạnh nhạt với người bạn
cố tri. Xót xa của một lương tri đang thức tỉnh sau những ngày đắm chìm trong
cõi u mê mộng mị. “Rưng rưng” của nỗi ân hận, ăn năn về thái độ của chính
mình đã quá hững hờ trong suốt thời gian qua. Một chút áy náy, một chút tiếc
nuối, một chút xót xa đau lòng cuộn thắt. Tất cả đã làm nên thổn thức mãnh liệt
trong sâu thẳm trái tim người lính. Cái cảm giác ray rứt ấy cũng đánh thức
trong lòng người đọc bao sự đồng cảm sâu xa.
+ Ánh sáng của vầng trăng sáng giống như một thứ nước màu soi rọi và làm
hiện hình những điều ẩn khuất, bị chìm lấp bấy lâu. Ánh trăng đánh thức những
kỷ niệm xa xưa. Vầng trăng khắc nhớ về quá khứ xa và gần. Vầng trăng gợi nhớ
về quê hương và đất nước; về thiên nhiên và cuộc sống. Đối diện với vầng trăng
là đối diện với những phần đời đẹp nhất.
- “Ánh trăng” là lời tự nhủ và nhắn gửi về thái độ sống tri ân, tình nghĩa cùng
quá khứ:

+ Trăng vẫn chiếu sáng trên bầu trời, mặc cho thời gian trôi đi. Trăng cứ“tròn
vành vạnh”, dẫu cho “người vô tình”. Cái tròn đầy của trăng là biểu tượng cho
nghĩa tình, thủy chung. Cái im lặng của trăng là sự bao dung, độ lượng và thái
độ nghiêm khắc. Nó làm con người trăn trở, suy ngẫm. Để rồi họ nhận ra sự vô
tình, bội bạc của mình.
+ Chính cái “im phăng phắc” của vầng trăng đã đánh thức tâm hồn con người.
Nó làm xáo động trái tim người lính năm xưa. Người lính“giật mình” trước ánh
trăng là sự bừng tỉnh của nhân cách. Người lính “rưng rưng” là sự trở về với
lương tâm trong sạch và tốt đẹp. Đó là lời ăn năn, day dứt, có giá trị làm đẹp con
người.
+ Vượt lên trên tất cả, ánh trăng còn nhắc nhở người đọc về thái độ sống
thủy chung, ân nghĩa trong cuộc đời này. Nó không chỉ là chuyện của một
người, một thế hệ. Đó còn là chuyện của nhiều người, nhiều thế hệ, của
nhân dân, của đất nước. Nó có ý nghĩa gợi nhắc và cảnh tỉnh cho mọi người
phải sống tốt đẹp; sống xứng đáng với những người đã khuất; sống trung
thực với chính mình. Sống phải biết trân trọng quá khứ để vững bước tới
tương lai. Bài thơ nói chuyện trăng là để nói chuyện đời, chuyện người,
chuyện tình nghĩa của kiếp người đó thôi.
c. Nhận xét, đánh giá chung:
- Với giọng điệu tâm tình tự nhiên, hình ảnh giàu tính biểu cảm, bài thơ gợi nhắc
về lối sống đẹp, ân nghĩa, thủy chung. Bài thơ là một lời tự nhắc nhở của tác giả
về những năm tháng gian lao của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất
195
nước bình dị, hiền hậu. Ý thơ gợi nhắc, củng cố ở người đọc thái độ sống “uống
nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ.
- Qua những rung động chân thành mà thiết tha của Nguyễn Duy, người đọc
cũng tự nhận ra chính mình trong dòng thời gian khắc nghiệt. Đã biết bao lần ta
cũng vô tình, lãng quên như thế. Đã biết bao lần ta đã vô tâm, thờ ơ, lạnh nhạt
với quá khứ nghĩa tình. Biết bao lần ta nhẫn tâm phủ nhận truyền thống. Thậm
chí là dẫm đạp lên những giá trị mà trước đây vốn đã mang đến cho ta biết bao
tốt đẹp.
- Người đọc cũng như Nguyễn Duy vội vàng và hoang mang đi tìm. Họ sững sờ
khi nhìn lại chính mình trong tủi hổ và xót xa. Tất cả cùng “rưng rưng”muốn
khóc khi đối diện với chính mình trong một niềm tâm cảm dạt dào.
- Nguyễn Duy qua những câu thơ bình dị đã truyền được suy nghĩ của ông trước
cuộc đời đến người đọc. Một nỗi niềm suy tư quá quen thuộc nhưng mấy ai nghĩ
đến. Và có biết bao người cũng đã “rưng rưng” khi nhìn ngắm vầng trăng hay
một biểu tượng nào đó của quá khứ nghĩa tình. Không cần nói nhiều lời, chỉ
bằng hình tương, tác phẩm đã “truyền cho mọi người sự sống mà nghệ sĩ mang
trong lòng”.
3. Kết bài:
Ý kiến của Nguyễn Đình Thi có ý nghĩa với cả người sáng tác và bạn
đọc. Nó nhắc nhở người cầm bút phải có trách nhiệm trong công việc và trước
cuộc đời. Không những là tạo ra tác phẩm nghệ thuật, gửi gắm vào đó những
tâm tư mà còn phải khơi gợi được trong lòng người đọc sự đồng cảm cảm lớn
lao. Nó nhắc nhở người đọc phải biết sống nghĩa tình dù cuộc sống chẳng bao
giờ mang lại cho ta đầy đủ những gì ta muốn.
ĐỀ 4: Phân tích tinh thần “không chịu sống đời nhỏ nhoi” qua các phẩm đã
học lớp 9.

1. Mở bài:
- Văn học Việt Nam trước và sau 1975 đã có những tác phẩm xuất sắc phản ánh
đời sống và chiến đấu của nhân dân trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược
và xây dựng quê hương, đất nước. Đó là tinh thần dám hi sinh tất cả vì tổ
quốc, “không chịu sống đời nhỏ nhoi” trong hoàn cảnh chiến tranh và ngay cả
trong thời hòa bình làm sáng rực chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời đại Hồ Chí
Minh.
- Hình ảnh người lính cụ Hồ với tinh thần sẵn sàng vì nước vì dân không quản
ngại gian khổ, hi sinh để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được ghi nhận một cách
chân thành qua bài thơ Đồng chí (Chính Hữu), Bài thơ về tiểu đội xe không
kinh (Phạm Tiến Duật). Hay hình ảnh người lao động trong thời đại xã hội chủ
nghĩa cũng được phản ánh sâu sát qua hình tượng anh thanh niên trong truyện
ngắn Lặng lẽ Sa Pa (Nguyễn Thành Long). Điểm chung dễ nhận thấy ở họ đó
196
là tinh thần “không chịu sống đời nhỏ nhoi”, gan dạ, quả cảm, lao động và chiến
đấu vì đất nước. Dù trong khó khăn gian khổ lúc nào họ cũng mạnh mẽ, yêu đời
và tràn đầy niềm tin hướng đến tương lai.
2. Thân bài
- Không chịu sống đời nhỏ nhoi đó là tinh thần sống vì mọi người, khát vọng
làm nên điều lớn lao trong cuộc sống này. Không chịu sống đời nhỏ nhoi là sống
có trách nhiệm với bản thân, với nhân dân, với đất nước. Không chịu sống đời
nhỏ nhoi là sống xứng đáng với truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc,
sống xứng đáng với kì vọng mà nhân dân, đất nước đã tin tưởng giao phó.
- Không chịu sống đời nhỏ nhoi vốn là một truyền thống quý báu của dân tộc ta.
Từ xưa, con người đã biết đề cao phận sự của mình đối với tổ quốc. Nguyễn
Công Trứ đã hơn một lần nói về điều đó:
“Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”.
(Đi thi tự vịnh – Nguyễn Công trứ)
“Không công danh thà nát với cỏ cây” (Nguyễn Công Trứ). Đối với bậc hiền
nhân: “hơn nhau hai chữ anh hùng” mà thôi. Bởi thế, Phan Chu Trinh trong
bài Đập đá ở Côn Lôn cũng đề cao phận sự đối với cuộc đời:
“Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng lẫy làm cho lở núi non”.
- Tinh thần ấy cũng được thế hệ trẻ thời kháng chiến tiếp tục phát huy trong
cuộc chiến đấu với kẻ thù xâm lược. Khát vọng công danh sự nghiệp lúc này
không phải là làm nên đại nghiệp rạng danh gia tộc mà là góp sức mình cùng
dân tộc bảo vệ tổ quốc, xây dựng nền độc lập nước nhà.
- Thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, tinh thần ấy trở thành lẽ sống của
con người, đặc biệt là thế hệ thanh niên yêu nước. Họ từ những miền quê xa xôi
nghèo khó; họ bở lại gia đình, bỏ lại người thân yêu lên đường đi chiến đấu:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay”.
(Đồng chí – Chính Hữu)
Câu thơ của Chính Hữu tuy nói về những người nông dân cầm súng với
lời thơ mộc mạc, chân thành nhưng ta vẫn cảm nhận được cái nét hào hoa
của“những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng” thuở lên đường:
“Rách tả tơi đôi hài vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa”.
(Ngày về – Chính Hữu)
- Họ chấp nhận gian khổ, hi sinh bởi không chịu sống kiếp đời nô lệ, quyết vươn
lên giành lấy sự sống trong bàn tay tàn bạo của kẻ thù. Họ “không chịu sống đời

197
nhỏ nhoi”, muốn sống đúng nghĩa con người tự do, tự chủ trong tình yêu
thương, gắn kết.
- Tinh thần ấy tiếp tục được Phạm Tiến Duật phản ánh sinh động trong Bài thơ
về tiểu đội xe không kính. Những người lính lái xe trên tuyết đường Trường
Sơn ác liệt luôn mang trong mình ước vọng lớn lao, góp sức cùng nhân dân
chiến đấu chống kẻ thù xâm lược. Hoàn cảnh chiến đấu khác nghiệt, thiếu thốn
không làm họ sờn lòng, nản chí. Họ hiên ngang điều khiển chiếc trên mọi nẻo
đường trong niềm vui:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”.
- Họ yêu đời, yêu cuộc sống và lạc quan, tin tưởng vào thắng lợi tất yếu của dân
tộc:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”.
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật)
- Khi đất nước hòa bình, con người hồ hởi đi vào xây dựng cuộc sống mới. Thế
hệ thanh niên Việt Nam vẫn không quản ngại gian lao, tiếp tục hăng say lao
động. Họ không chọn cuộc sống nghỉ ngơi hay tận hưởng ngày tháng an bình mà
tiếp tục góp công góp sức nhân dân vượt qua khó khăn, xây dựng quê hương.
- Anh thanh niên trong tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long là một
minh chứng tiêu biểu cho tinh thần “không chịu sống đời nhỏ nhoi” ấy. Lẽ sống
cao đẹp của anh thanh niên là được cống hiến, được góp sức mình để bảo vệ xây
dựng đất nước đem lại niềm vui, hạnh phúc cho mọi người.
- Anh làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu, một mình trên đỉnh núi Yên
Sơn cao 2600 mét, quanh năm suốt tháng, bốn bề chỉ có cây cỏ và mây núi Sa
Pa lạnh lẽo. Công việc là “đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt
đất, dự vào việc bó trước thời tiết hằng ngày phục vụ sản xuất, phục vụ chiến
đấu”. Công việc đều đặn, nhàm chán đơn điệu, lại vô cùng khó khan giản khổ
giữa thời tiết khắc nghiệt, sự vắng vẻ, heo hút và cô đơn. Công việc ấy đòi hỏi
phải tỉ mỉ, chính xác và có tinh thần trách nhiệm cao.
- Anh yêu nghề, say mê lí tưởng, có trách nhiệm trong công việc. Dù chỉ có một
mình nhưng lúc nào anh làm việc một cách nghiêm túc tự giác. Luôn cố gắng
vượt qua khó khan để hoàn thành nhiệm vụ. Nửa đêm đúng giờ “ốp” thì dù mưa
tuyết, giá lạnh thế nào cũng phải dậy ra ngoài trời làm công việc đã quy định.
Anh trở thành người lao động lành nghề, thạo việc, giàu kinh nghiệm. Anh ý
thức được công việc mình là có ích cho cuộc sống. Mỗi chiến thắng của dân tộc
đều khiến anh vui sướng và hạnh phúc.
- Suy nghĩ, quan niệm của anh về công việc, về cuộc sống là: “…Khi ta làm
việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi việc của bao
198
anh em đồng trí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy chứ cất nó đi
cháu buồn đến chết mất”. Đó là suy nghĩ đúng đắn sau sắc về công việc, về
cuộc sống con người, về mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể.
- Anh thanh niên có tâm hồn đẹp, thiết tha yêu đời, yêu cuộc sống, có trách
nhiệm với bản thân tuy cuộc sống giản dị, đơn sơ. Nét đẹp của anh thanh niên
còn là sự cởi mở, chân thành, quý trọng tình cảm của mọi người, khao khát được
gặp gỡ, trò chuyện với mọi người và luôn chu đáo qua tâm đến người khác.
Cách tiếp đón đoàn khách ghé thăm rất chân tình, nồng hậu, lịch sự chu đáo, thể
hiện tấm lòng mến khách.
- Công việc có nhiều đóng góp to lớn cho đất nước như vậy nhưng anh thanh
niên lại rất khiêm tốn, thành thực: luôn cảm thấy công việc và sự đóng góp của
mình chỉ là nhỏ bé. Anh ngượng ngùng khi thấy họa sĩ vẽ chân dung mình và
say sưa giới thiệu những người khác mà anh cho là đáng vẽ hơn như ông kĩ sư
vườn rau, anh cán bộ nghiên cứu lập bản đồ sét…
- Nhà văn đã cố tình không cho anh một cái tên gọi cụ thể. Tác giả gọi theo lứa
tuổi với dụng ý anh là con người vô danh, bình dị đang âm thầm lặng lẽ cống
hiền cho đất nước. Anh thanh niên là tiêu biểu cho thế hệ tri thức trẻ trong
những năm chống Mĩ. Đây là tấm gương điển hình cho chân dung người lao
động mới có lí tưởng, tình cảm, cách sống đẹp.qua nhân vật anh thanh niên, ta
hiểu thêm hạnh phúc đối với con người: đó là niềm vui, hạnh phúc cho mọi
người; đó là được cống hiến, được góp mình để bảo vệ và xây dựng đất nước.
3. Kết bài:
Tinh thần sống vì mọi người, vì dân tộc, vì quê hương đất nước, không chịu
sống đời nhỏ nhoi đã làm nên một thời đại anh hùng, một dân tộc anh hùng.
Tinh thần và lẽ sống cao đẹp ấy tiếp tục được thế hệ thanh niên kế thừa và phát
huy mạnh mẽ trong thời đại mới với nhiệm vụ xây dựng đất nước vững mạnh
tiến đến tương lai “sánh vai với các cường quốc năm châu” như lời Bác Hồ đã
dặn.
ĐỀ 5: Văn học và tình thương: “Cái cốt lõi của nó là lòng nhân ái” (Rasul
Gamzatop).

1. Mở bài:
Bàn về vai trò và ý nghĩa của văn học, Rasul Gamzatop cho rằng: “Người ta
thường nói văn học là nhân học. Tôi công nhận. Nhưng với riêng tôi, văn học
không chỉ là môn khoa học về con người. Cái cốt lõi của nó là lòng nhân
ái”. Câu nói trên của Rasul Gamzatop đã khẳng định ý nghĩa văn học là nhân
học và lòng nhân ái trong văn học.
2. Thân bài:

199
a. Giả i thích
- Văn học là gì?
Văn học là khoa học về văn chương. Đây là một loại hình sáng tác, tái hiện
những vấn đề của đời sống xã hội và con người. Phương thức sáng tạo của văn
học được thông qua sự hư cấu. Cách thể hiện nội dung các đề tài được biểu hiện
qua ngôn ngữ. Sản phẩm của văn học là tác phẩm văn chương.
- Lòng nhân ái là gì?
Lòng nhân ái là tấm lòng yêu thương con người. Người sống có lòng nhân ái
luôn tôn trọng, yêu quý, giúp đỡ và bảo vệ con người.
- Ý nghĩa của câu nói: “Cốt lõi của văn học là lòng nhân ái”
Văn học miêu tả, phân tích, khám phá, phát hiện các mặt về đời sống con người
từ sinh lí đến tâm linh ở góc độ khách quan một cách chân thực. Văn học không
chỉ thực hiện chức năng của một bộ môn nghệ thuật phản ánh cái đẹp mà còn
góp phần biểu hiện toàn diện đời sống con người như một bộ môn khoa học về
con người.
Cốt lõi của văn học chính là lòng thương người (lòng nhân ái). Văn học
không những phải lấy con người làm đối tượng phản ánh mà còn hướng đến
phục vụ đời sống con người. Ngoài việc miêu tả, phân tích, khám phá về con
người,… nhà văn còn phải sử dụng ngòi bút thể hiện lòng thương người; phải
biết đau với cái đau của cuộc đời, của nhân loại, của thời đại; biết lên án cái ác,
ngợi ca cái thiện; phê phán cái xấu, biểu dương cái đẹp; biết nâng niu bảo vệ sự
sống, quý trọng, tôn vinh nhân cách và phẩm giá con người.
- Vì sao “Cốt lõi của văn học chính là lòng thương người"?
+ Văn học xưa và nay luôn chú trọng đến tính nhân văn cao cả trong biểu
đạt. Với văn học, chất liệu đầu tiên để cấu thành tác phẩm là ngôn từ. Nhưng
yếu tố cuối cùng quyết định sự sống còn của tác phẩm lại không phải là ngôn từ.
Đó chính là hình tượng nhân vật. Nhân vật văn học không ai khác chính là
những con người trong cuộc sống. Trở thành đối tượng phản ánh của văn học,
con người hiện ra sinh động, chân thực trong mỗi tác phẩm.
+ Đọc tác phẩm ta nhận ra mình qua mỗi nhân vật ở từng ngóc ngách nội tâm,
từng biểu hiện tình cảm, hiểu đúng hơn và nhiều hơn về cái thế giới tinh thần
phong phú và bí ẩn vốn bị cái bề ngoài bao phủ. Và chính cái “thế giới tinh thần
phong phú và bí ẩn” ấy thể hiện rõ nhất cái “nhân học” của văn chương.
+ Thông qua “Truyện Kiều” và cuộc đời đầu gian truân, trắc trở, tủi nhục của
Thúy Kiều, đại văn hào Nguyễn Du muốn thể hiện sự nhận thức sâu sắc về tình
đời, tình người trong xã hội phong kiến đương thời và thái độ trân trọng, bênh
vực, đề cao con người của ông. Đó là một tấm lòng đầy tính nhân văn.
+ Đến với “Chí Phèo”, ta nhận ra một con người của thời đại như một cổ máy.
Trong khi ấy, một kẻ tha hóa phẩm chất nhưng đồng thời cũng là những tâm
200
trạng, những nghĩ suy số phận của cả một lớp người nông dân nghèo thời Pháp
thuộc. Chí Phèo đau khổ, độc ác, nghèo hèn, nhục nhã, hỗn hào chửi cả làng…
Và cao hơn hết là nỗi khát vọng được làm người, nỗi ao ước được trở về với
cuộc sống đời thường.
+ Hiểu tâm lí của nhân vật, độc giả lại càng hiểu về chính bản thân mình và cái
thế giới với biết bao con người khác quanh mình. Từ nhân vật văn học đi vào cái
thế giới của chính mình thông qua sự so sánh tương cận, người đọc nhận rõ “có
mình” ở trong đó trên khía cạnh tinh thần hoặc đời sống. Từ đó làm nảy sinh sự
đồng cảm, thấu hiểu, thúc đẩy hành động. Sản phẩm tạo ra trong quá trình tương
tác đó chính là “nhân học” – tình yêu thương con người và cuộc sống.
+ Văn học là sự thể hiện tinh tế tư tưởng và tình cảm, ước mơ và khát vọng,
quan điểm và lý tưởng thẩm mĩ của nhà văn đối với con người và cuộc sống.
Mỗi trang văn, mỗi bài thơ (đích thực) dù nói về gì, đề tài gì rộng lớn hay bé
nhỏ đều thể hiện lòng yêu, sự ghét của tác giả, thể hiện một quan điểm nhân sinh
hoặc lên án cái ác, hoặc ca ngợi tình yêu, đưa tới sự hướng thiện, cái cao cả, cái
đẹp của thiên nhiên và con người.
+ Những tác phẩm có giá trị về nội dung tư tưởng lớn và nghệ thuật cao được
công nhận và sống với thời gian. Đọc “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi ta
không thể không nghĩ đến một thời đại đau thương mà đầy khí phách, hào hùng
của dân tộc ta trong cuộc chiến đấu với kẻ thù xâm lược. Dù đứng ở vị trí một
dân tộc nô lệ hay một dân tộc chiến thắng, dân tộc ấy đều thể hiện tinh thần
nhân đạo cao cả, ngay cả đối với kẻ thù của mình.
-> Trên bình diện tâm lí, thật lòng khó có thể tha thứ cho những tội ác khủng
khiếp mà kẻ thù đã gây ra cho ta. Thực tế trên thế giới, sau chiến thắng của một
đội quân là những cuộc tàn sát đẫm máu khủng khiếp không khác gì kẻ thù đã
gây ra cho họ. Và ai cũng cho rằng đó là lẽ phải, là chân chân lí, là tình yêu
thương. Nhưng đó lại là một sai lầm, thể hiện bản chất ích kỉ, sự thù ghét của
con người. Lần đầu tiên trong lịch sử, dân tộc ta đã minh chứng điều ngược lại
mới là lẽ phải, mới là chân lí, tha thứ mới là nhân văn. Tư tưởng ấy còn được
tiếp tục duy trì và phát huy đạt đến đỉnh cao trong thời đại Hồ Chí Minh thế kỉ
XX.
b. Khẳng định:
Cái cốt lõi của văn học chính là lòng nhân ái, là tình yêu vô hạn đối với
con người. Đặc biệt là những con người nghèo khổ, bất hạnh.
c. Phê phán:
Cũng có những nhà văn có năng lực, nhưng khám phá, khai thác con
người ở góc độ trần tục, thấp hèn, nhầy nhụa. Hoặc thông qua lăng kính chủ
quan áp đặt làm cho hình ảnh con người trở nên trần trụi, méo mó,… thiếu tình
người, không mang tính nhân văn, tác động xấu đến nhận thức, tâm hồn người
201
đọc.., đều bị phê phán, lên án. Họ thường là những con người lợi dụng văn học
để mưu cầu lợi ích, hoặc phục vụ cho những thế lực xấu, đi ngược lại thiên
hướng của văn chương.
d. Bình luận:
Câu nói của Rasul Gamzatop đã khẳng định để làm rõ thêm về quan
niệm: “Văn học không chỉ là môn khoa học về con người. Cái cốt lõi của nó là
lòng nhân ái” là có cơ sở. Từ đó, câu nói làm rõ thêm chức năng, nhiệm vụ của
văn học với con người và đời sống. Văn chương có khả năng nhận thức vô cùng
to lớn trên nhiều bình diện của hiện thực đời sống về tự nhiên cũng như về xã
hội.
Nhưng đó là sự nhận thức về phương diện triết học, chính trị, xã hội, tâm
lí và thẩm mĩ… Văn học chính là cuốn sách giáo khoa về đời sống. Văn học lấy
con người trên bình diện đời sống làm đối tượng phản ánh. Chức năng đó diễn
ra trong quá trình nhà văn nhận thức hiện thực bằng tác phẩm nghệ thuật, tác
phẩm nghệ thuật, đến lượt mình, trở thành một công cụ thẩm mĩ giúp người đọc
nhận thức cuộc sống và hiện thực qua những khám phá và sáng tạo của nhà văn.
3. Kết bài:
Cái cốt lõi của văn học là lòng thương người, vì con người mà phục vụ.
Một nhà văn chân chính phải lấy con người làm đối tượng phản ánh các giá trị
nhân bản trong đời sống xã hội.
ĐỀ 6: Văn học là nhân học – M.Gorki

1. Mở bài:
Mối quan giữa văn học và nhân học không phải bỗng nhiên mà thành. Trong
quá trình tạo dựng sự nối kết hai lĩnh vực cũng đã có không ít những bất đồng về
quan điểm. Ngay trong khái niệm nhân học, theo nghĩa hẹp nhất, là khoa học về
con người. Quan niệm ấy đã kéo theo một lịch sử lâu dài nhiều hoạt động và lĩnh
vực liên quan. Ngay từ buổi sơ khai, văn học đã không thể tách rời khỏi nhân
học. Nó hình thành nên bản chất cốt lõi của văn học ngày nay.
2. Thân bài:
a. Giải thích
- Văn học là gì?
+ Văn học là khoa học về cái đẹp (văn) trong cuộc sống, được biểu đạt bằng
ngôn ngữ nghệ thuật. Phương thức sáng tạo của văn học được thông qua sự hư
cấu hình tượng. Cách thể hiện nội dung các đề tài được biểu hiện qua bình diện
ngôn ngữ. Ngôn ngữ văn học có tính hình tượng, được sắp xếp theo một tổ chức
nhất định để ngôn từ phát huy giá trị của nó. Đồng thời nó có tính chuẩn mực
cao (hàm súc và cô đọng, đa nghĩa, biểu cảm).
+ Văn học biểu đạt nhận thức, lí giải và thái độ đối với toàn bộ của con người
trước cuộc sống. Những vấn đề nhân sinh cũng được đặt ra ở trong đó.
202
- Nhân học là gì?
Nhân học là một lĩnh vực nhận thức khoa học, trong đó nghiên cứu các
vấn đề nền tảng của tồn tại con người trong môi trường tự nhiên và nghệ thuật.
Theo nghĩa chung nhất “Nhân học” là khoa học về con người.
- “Văn học là nhân học” nghĩa là gì?
Thông qua các tác phẩm, văn học phản ánh toàn diện đời sống tinh thần,
vật chất và các quy luật vận động của xã hội loài người. Theo câu nói của
M.Gorki thì “nhân học” ở đây trọng tâm tập trung phản ánh tính xã hội của con
người, tức lòng nhân ái của con người.
-> Như vậy, “Văn học là nhân học” có thể hiểu văn học đã phản ánh, đề cao
tình yêu thương con người trong mỗi tác phẩm văn chương. Văn học lấy con
người làm đối tượng phản ánh và hướng đến phục vụ đời sống con người.
b. Tạ i sao “Văn học” có thể là “nhân học”?
- Lúc ban đầu, văn học chỉ là một hình thức nghệ thuật ghi lại những suy nghĩ,
cảm nhận và rung động của con người về hiệu thực cuộc sống. Trải qua thời
gian, văn học trở thành phương tiện giúp con người phản ánh sâu sắc đời sống
hiện thực, đời sống tinh thần và là công cụ dùng để đấu tranh cho lẽ phải, sự
công bình. Thế nhưng, chức năng này không phải nhà văn nào cũng tôn trọng và
vận dụng.
- Câu nói của M.Gorki dường như đã được hun đúc lại từ chính cuộc đời cầm
bút của ông – một nhà văn hiện thực vĩ đại. Từ những kinh nghiệm thực
tiễn, M.Gorki tổng kết thành triết lí ngắn gọn mà chính xác đến kì lạ. Nhiệm vụ
của văn học không có gì khác ngoài phản ánh chân thực đời sống con người.
Góc độ phản ánh phải giàu tính nhân văn, hướng đến giải phóng con người ra
khỏi mọi khổ đau hay ràng buộc nào đó.
- Đó là phát hiện mới mà lại không mới, được tinh kết trong một câu nói ngắn
gọn mà không ngắn gọn. Đối với những người chỉ coi văn chương là một thứ
phù phiếm thì câu nói ấy gần như vô nghĩa lí. Triết lí ấy cũng không có gì đáng
phải suy nghĩ. Nhưng ở đây, M.Gorki thực sự đã đặt ra một mệnh đề đòi hỏi
chúng ta phải suy ngẫm.
- Cũng như hội họa, ca nhạc, điêu khắc… trước hết văn học là một bộ môn nghệ
thuật. Văn học tuân thủ các nguyên tắc của một bộ môn nghệ thuật ngôn ngữ với
kết cấu phức tạp và chặt chẽ của nó. Nó mang đậm đặc trung của bộ môn nghệ
thuật. Bởi thế, nó hướng đến chức năng giải trí, làm thỏa mãn nhu cầu cảm
nghiệm của con người.
- Nhưng đối với văn học đích thực, nó vượt lên trên điều đó khi tồn tại và phát
triển. Đối tượng chủ đạo của văn học là con người và hiện thực cuộc sống. Hai
đối tượng ấy được soi chiếu qua mọi góc độ trong sự tương quan phức tạp, đa
chiều.
203
- Nói văn học là nhân học là một nhận định hoàn toàn đúng đắn và giàu tính
nhân văn. Văn học không chỉ phản ánh đời sống con người mà còn phải nhận
thức con người và đời sống con người. Văn học nói lên những ước mơ, khát
vọng, những tâm tư, tình cảm của con người trong chiều sâu tâm hồn với sự đa
dạng, phong phú.
c. Chứng minh
- Đọc những bài ca dao bình dị trong kho tàng văn học dân tộc ta hiểu rõ đời
sống tâm tư, tình cảm của những người lao động nghèo khó mà nghĩa tình, khát
khao cuộc sống yên bình, tươi đẹp. Những bài ca dao ngắn ngủi, mềm mại đâu
chỉ là một hình thức nghệ thuật đơn thuần mà chứa trong nó là cả một thế giới
được lưu giữ cẩn thận và bền lâu.
- Qua hình ảnh chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố ta hiểu người nông dân
Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám luôn khao khát có một cuộc sống yên
bình trong cuộc sống vốn đầy rẫy sự bất công. Đối với họ, nghèo khổ không
thực sự đáng sợ. Cái đáng sợ hơn đó là tai họa có thể giáng xuống đầu họ bất cứ
lúc nào mà họ thì hoàn toàn không có khả năng phòng bị hay phản kháng. Ta
cũng hiểu ra ý nghĩa của cái nhan đề Tắt đèn, vừa tinh tế vừa đầy cảm thương
của nhà văn đối với số phận con người.
- Đọc truyện ngắn Cô bé bán diêm ta cũng thấy rõ niềm khát khao được sống
hạnh phúc bên người thân yêu của cô bé bán diêm nghèo khổ. Cái lạnh của đêm
noen không đáng sợ bằng sự lạnh lẽo trong lòng cô bé và tình đời, tình người
trong cuộc đời này.
- Chỉ đến lúc nào đó văn học mới là văn học đích thực khi văn học. Nó thể hiện
được sự khám phá và sáng tạo. Nó hình thành những kiến giải hay và đẹp về con
người và đời sống con người. Với văn học, chất liệu đầu tiên để cấu thành tác
phẩm là ngôn từ. Nhưng yếu tố cuối cùng quyết định sự sống còn của tác phẩm
lại không phải là ngôn từ. Đó chính là hình tượng nhân vật. Nhân vật văn học
không ai khác chính là những con người trong cuộc sống. Trở thành đối tượng
phản ánh của văn học, con người hiện ra sinh động, chân thực trong mỗi tác
phẩm. Tất cả chứa đựng tính nhân học của văn học.
- Đọc tác phẩm ta nhận ra mình qua mỗi nhân vật ở từng ngóc ngách nội tâm,
từng biểu hiện tình cảm, hiểu đúng hơn và nhiều hơn về cái thế giới tinh thần
phong phú và bí ẩn vốn bị cái bề ngoài bao phủ. Và chính cái “thế giới tinh thần
phong phú và bí ẩn” ấy thể hiện rõ nhất cái “nhân học” của văn chương.
- Qua nhân vật Thúy Kiều cho ta thấy được sự vận động tinh thần của nàng
trong từng hoàn cảnh cụ thể. Lúc vui tười, hạnh phúc. Lúc lại khổ đau, tủi nhục
đến vô hạn. Lúc bế tắc, tuyệt vọng cùng cực. Chính điều đó khiến ta biết cảm
thông, chia sẻ và đồng cảm với thân phận và cuộc đời khổ nhục của nàng. Và từ
đó càng căm ghét hơn cái xã hội bất nhân tàn bạo đã chà đạp lên nhân cách nhân
204
phẩm con người; tước đoạt quyền sống, quyền làm người của những con người
nhỏ bé trong xã hôi.
- Chính văn học đã phát hiện và tôn vinh những phẩm chất quý báu ở con người
vốn bị cuộc đời trần trụi che phủ. Sự thấu nhận từ thực tế đôi khi bị sai lệch
nhưng trong tác phẩm, người đọc có thể bình tĩnh thấu suốt điều đó một cách rõ
ràng.
- Nhờ tác phẩm Chí Phèo mà ta biết rằng trong chính những kẻ xấu xí nhất trần
gian, trái tim cũng biết rung động vì yêu. Qua nhân vật AQ ta mới biết rằng
trong cuộc đời cũng có lắm kẻ có phép thắng lợi tinh thần một cách đáng
thương. Văn học đã cho ta cái nhìn thấu suốt vào đời sống con người mà không
một nghệ thuật nào làm được. Văn học tìm kiếm, phát hiện và ngợi ca những
điểm sáng ở họ, vốn từ lâu đã bị cuộc đời che phủ.
- Có thể trong cuộc đời Nguyễn Du đã không làm được điều đó, Nhưng với văn
học, ông đã đi rất xa, vượt lên trên mọi sự thấp hèn, vươn đến hoài vọng, ước
mơ. Ông mở ra cho người đọc một tầm nhìn bao quát và toàn diện về bức tranh
xã hội đương thời và con đường đi tìm lẽ sống của nhân vật. Có những điều chỉ
có văn học mới làm được.
Không còn nghi ngờ gì nữa, sản phẩm tạo ra trong quá trình tương tác đó chính
là “nhân học” – tình yêu thương con người và cuộc sống. Kể cả kết quả sau
cùng của nó cũng vì con người mà tồn tai.
- Văn học còn là sự thể hiện tinh tế tư tưởng và tình cảm, ước mơ và khát vọng,
quan điểm và lý tưởng thẩm mĩ của nhà văn đối với con người và cuộc sống.
Mỗi trang văn, mỗi bài thơ (đích thực) dù nói về gì, đề tài gì rộng lớn hay bé
nhỏ đều thể hiện lòng yêu, sự ghét của tác giả. Tác phẩm thể hiện một quan
điểm nhân sinh hoặc lên án cái ác, hoặc ca ngợi tình yêu, đưa tới sự hướng thiện,
cái cao cả, cái đẹp của thiên nhiên và con người.
d. Đánh giá
- “Văn học là nhân học” là một ẩn ý súc tích như bản chất của văn học. Văn học
là khoa học về con người. Không phải là cái con người sinh học với đầy đủ
chân, tay, mắt, mũi, tim, gan…mà đó là những con người với cuộc sống tinh
thần phong phú và đa dạng của họ. Tư tưởng ấy không chỉ là lí thuyết suông mà
nó biến thành hành động, trở thành động lực thúc đẩy hành động.
- Học văn là để hiểu sâu hơn tâm hồn con người. Đồng thời cũng là để học
cách làm người. Phải chăng đó chính là điều Gorki muốn nói với chúng ta –
những người đã phần nào đặt chân vào ngưỡng cửa văn học?
3. Kết bài:
Đến với văn chương là bước vào thế giới của tình người. Tác phẩm chính là
điểm gặp gỡ đầu tiên giữa nhà văn và đọc giả thông qua thế giới nhân vật sinh

205
đông, phong phú. Để văn học là nhân học thì cả nhà văn và người đọc đều
phải “kết dính” trong tình yêu thương con người vô hạn và vĩnh hằng.

B. NGHỊ LUẬN VĂN HỌC


I. Các dạng đề thường gặp và cách làm
1. Dạng 1: Nghị luận về một đoạn thơ (bài thơ)
- Nắm vững tác giả, hoàn cảnh sáng tác, nội dung và nghệ thuật của tác phẩm đó.
- Thực hiện bài nghị luận theo nguyên tắc từ trên xuống dưới, từ trái qua phải lần lượt
cho đến hết phần thơ đề bài yêu cầu.
- Thực hiện bài viết theo bố cục sau đây:
a. Mở bài
C1: - Giới thiệu tác giả → tác phẩm (hoặc đoạn trích thơ)
C2: - Giới thiệu đề tài → tác giả → tác phẩm
b. Thân bài
Ý 1: Nhận xét chung về tác phẩm (Nghệ thuật, nội dung hoặc hoàn cảnh sáng
tác), KHÁI QUÁT MẠCH CẢM XÚC
Vd: Đây là một đoạn (bài) thơ hay. Bởi lẽ, bằng ….. ( nêu nghệ thuật), tác giả đã
thể hiện …. (nêu nội dung)… Mạch cảm xúc của bài thơ …….
Ý 2: Cảm nhận (theo từng khổ thơ):
+ Giới thiệu nội dung của khổ thơ (luận điểm)
+ Trích thơ (phù hợp)
+ Cảm nhận nội dung, nghệ thuật của phần thơ được trích( PHân tích từ ngữ,
hình ảnh, giá trị của các biện pháp tu từ, vần , nhịp thơ, nhận vật trữ tình….)
* Lưu ý: Thực hiện lần lượt đến hết bài (trong quá trình làm bài cần liên hệ, mở
rộng khi cần thiết)
Ý 3: Đánh giá chung về vai trò, vị trí của đoạn (bài) thơ trong nền văn học và
thành công của tác giả
c. Kết bài
- Khẳng định lại cái hay, cái đẹp của bài thơ
- Cảm ơn tác giả

206
- Liên hệ bản thân
2. Dạng 2: Nghị luận phân tích, đánh giá chủ đề và những nét nghệ thuật đặc sắc
của tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)
- Nắm vững tác giả, hoàn cảnh sáng tác, nội dung và nghệ thuật của tác phẩm đó.
- Tìm được đặc điểm nhân vật trong tác phẩm
- Thực hiện bài viết theo bố cục sau đây:
a. Mở bài
C1: - Giới thiệu tác giả → tác phẩm (hoặc đoạn trích) → nhân vật
C2: - Giới thiệu đề tài → tác giả → tác phẩm → nhân vật
b. Thân bài
Ys1: Nhận xét chung về tác phẩm (Nghệ thuật, nội dung hoặc hoàn cảnh sáng tác) và
vai trò, vị trí của nhân vật (là nhân vật chính hay phụ, có hoàn cảnh như thế nào, đặc
điểm chung là gì)
- Cảm nhận (theo từng đặc điểm của nhân vật):
+ Giới thiệu đặc điểm 1 (luận điểm)
+ Dẫn chứng (phù hợp)
+ Cảm nhận vẻ đẹp của nhân vật thông qua hành động, lời nói, tính cách trong phần
trích.
* Lưu ý: Thực hiện lần lượt đến hết đặc điểm (trong quá trình làm bài cần liên hệ,
mở rộng khi cần thiết)
- Trình bày những thành công về nghệ thuật (chú ý nghệ thuật xây dựng tình huống,
đặc điểm tâm lí nhân vật, ngôn ngữ …)
- Đánh giá chung về vai trò, vị trí của nhân vật, tác phẩm trong nền văn học và thành
công của tác giả
c. Kết bài
- Khẳng định lại cái hay, cái đẹp của nhân vật
- Cảm ơn tác giả
- Liên hệ bản thân
* Lưu ý: Nếu đề bài yêu cầu cảm nhận tác phẩm thì làm giống bài cảm nhận
nhân vật nhưng phải trình bày thêm phần tóm tắt văn bản (trước phần nhận xét)
và hệ thống nhân vật phụ (sau khi cảm nhận xong nhân vật chính)
3. Dạng 3: Dạng đề tổng hợp (nghị luận theo chủ đề)

207
- Cần xác định được chủ đề và phạm vi dẫn chứng
- Đặt câu hỏi như thế nào để tìm luận điểm (Vd: Người lao động trong Đoàn thuyền
đánh cá của Huy Cận và Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long là người như thế
nào?)
- Xác định luận điểm và hướng làm bài
- Thực hiện bài viết theo bố cục sau đây:
a. Mở bài
- Giới thiệu chủ đề → tác giả → tác phẩm (hoặc giới hạn dẫn chứng)
b. Thân bài
- Nhận xét chung về những tác phẩm thể hiện chủ đề (Nghệ thuật, nội dung hoặc hoàn
cảnh sáng tác)
- Cảm nhận (theo từng đặc điểm của chủ đề):
+ Giới thiệu đặc điểm 1 (luận điểm)
+ Dẫn chứng (phù hợp)
+ Cảm nhận vẻ đẹp của đối tượng thông qua hành động, lời nói, tính cách (đối với
truyện), hình ảnh, nghệ thuật, giọng điệu (đối với thơ) trong phần dẫn chứng.
* Lưu ý: Thực hiện lần lượt đến hết đặc điểm (trong quá trình làm bài cần liên hệ,
mở rộng khi cần thiết)
- Đánh giá chung về vai trò, vị trí của chủ đề trong nền văn học và thành công của tác
giả
c. Kết bài
- Khẳng định lại cái hay, cái đẹp của chủ đề
- Cảm ơn tác giả
- Liên hệ bản thân
* Lưu ý: Nếu đề bài cho nhiều tác phẩm thì nên cân nhắc cách viết. Có thể viết theo
2 cách:
+ Trình bày luận điểm trước rồi đưa dẫn chứng ở nhiều tác phẩm cùng một lúc (đối
với những tác phẩm có chung luận điểm)
+ Trình bày luận điểm của từng tác phẩm (đối với những tác phẩm có nhiều luận
điểm khác nhau)
Ví dụ: Hình ảnh người lao động trong Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận và Lặng lẽ
Sa Pa của Nguyễn Thành Long.

208
→ + Trình bày luận điểm 1: Họ là những người làm việc trong điều kiện khó khăn
(chứng minh ở cả 2 tác phẩm)
+ Trình bày hết các luận điểm ở bài Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận (làm chủ thiên
nhiên, hòa hợp cùng thiên nhiên; lạc quan, yêu đời; tin tưởng, hi vọng vào tương lai)
+ Tiếp tục trình bày hết đặc điểm của anh thanh niên và những cán bộ khác trong Lặng
lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long.

ĐỀ TUYỂN SINH 2016-2017


Câu 1: (3 điểm)
Đọc hai văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Văn bản 1:
Trong bức ảnh chụp cùng thần tượng Michael Phelps cách đây 8 năm, Joseph
Schooling mới chỉ là cậu bé con đeo kính cận dày cộp, cao ngang vai Phelps. Nhưng 8 năm
sau, khi có cơ hội tranh tài với thần tượng của mình ở nội dung 100m bơi bướm tại Thế vận
hội mùa hè 2016, cậu bé năm nào không chỉ tự tin thể hiện tài năng mà còn buộc thần tượng
chấp nhận chịu thua, nhường lại chiếc Huy chương Vàng tuyệt đẹp cho mình.
Chiến thắng của Schooling không chỉ là phần thưởng ngọt ngào cho những năm tháng
miệt mài ngụp lặn trong bể bơi, mà nó còn thắp lên trong trái tim trẻ niềm tin: Khi làm bất cứ
công việc gì, nếu có đủ ý chí và đam mê, một ngày nào đó ta không chỉ thành công mà còn có
thể vượt qua chính thần tượng của mình hôm nay. (Dựa theo Hình ảnh Joseph Schooling và
thần tượng Michael Phelps lan truyền chóng mặt, Lê Ái, Báo Thanh niên ngày 13/08/2016)
Văn bản 2:
Diễn viên điện ảnh Jack Nicholson từng thần tượng Marlon Brando điên đảo đến mức
nói một câu trứ danh: "Chừng nào ông ấy còn sống thì chẳng anh diễn viên nào ngóc đầu lên
nổi". Tất nhiên đây chỉ là một cách nói thậm xưng. Jack Nicholson học phương pháp diễn
xuất thần sầu của Marlon và ông thậm chí còn vượt qua thần tượng của mình khi giành tới 3
giải Oscar so với 2 giải của Marlon.
(Trích Từ Phelps đến Schooling, từ Marlon Brando đến Leonardo Di Caprio. Lê Hồng Lâm -
Thịnh Joey, Báo Tuổi trẻ ngày 16/8/2016)
a) Dựa vào văn bản trên, hãy cho biết những thành tích nào của Joseph Schooling và Jack
Nicholson đã chứng tỏ họ vượt qua thần tượng. (0,5 điểm)
b) Chỉ ra một phép liên kết câu có trong đoạn đầu của văn bản 1. (0,5 điểm)
c) Xác định thông điệp chung của hai văn bản trên. (1.0 điểm)
d) Em có nhận xét gì về cách thể hiện sự hâm mộ của các bạn trẻ ngày nay đối với thần
tượng? Trả lời trong khoảng 4-6 dòng. (1.0 điểm)
Câu 2: (3 điểm)
Tuổi trẻ có cần sống khác biệt?
Em hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 1 trang giấy thi) trả lời cho câu hỏi trên.
Câu 3: ( 4 điểm)
Học sinh chọn 1 trong 2 đề sau:
Đề 1:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng biển khơi
(...)
Câu hát căng buồm với gió khơi
209
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi
(Trích Đoàn thuyền đánh cá, Huy Cận)
Cảm nhận của em về hai khổ thơ trên. Từ đó liên hệ với một tác phẩm khác hoặc với
thực tế cuộc sống để thấy được tình yêu, sự gắn bó của con người Việt Nam với biển quê
hương.
Đề 2: Từ những trải nghiệm trong quá trình đọc tác phẩm văn học, em hãy viết bài văn với
nhan đề: "Đọc một tác phẩm - Đi muôn dặm đường".

ĐỀ TUYỂN SINH 2017-2018


Câu 1: (3 điểm)
Em hãy đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Văn bản 1:
Báo cáo mới đây của tạp chí Science cho thấy đến nay thế giới đã sản xuất khoảng 8,3
tỷ tấn nhựa, trong đó 6,3 tỷ tấn hiện là rác thải. Và 79% trong 6,3 tỷ tấn đó giờ đang nằm
trong các bãi rác và môi trường tự nhiên.
Nhựa được sử dụng phổ biến vì tiện dụng, rẻ tiền, dễ chế tạo. Tuy nhiên nhựa có hạn
chế lớn là rất lâu phân hủy, đồng nghĩa với việc rác thải nhựa sẽ gây nên thảm họa môi trường
nếu không có cách giải quyết.
Trong các đại dương, số lượng rác thải nhựa ước tính khoảng 150 triệu tấn - nặng gần
bằng 1/5 khối lượng cá. Các nhà khoa học dự báo với tốc độ gia tăng rác thải nhựa như hiện
nay, vào năm 2050, khối lượng rác thải nhựa sẽ nặng hơn cả khối lượng các lượng cá.
Việt Nam là một trong các quốc gia xả rác thải nhựa nhiều nhất thế giới. Tại Việt
Nam, số túi lượng ni lon, chai nhựa, li nhựa, ống hút, hộp xốp…được sử dụng nhiều, vượt trội
so với các nước khác.
Rác thải nhựa ảnh hưởng tiêu cực đến hệ sinh thái, làm ô nhiễm môi trường, môi
trường nước, gây nguy hại cho nguồn lợi thủy hải sản và tác động xấu đến sức khỏe con
người…
Văn bản 2:
Trước sự đe dọa của rác thải nhựa, nhiều nước đã lên kế hoạch hành động. Từ tháng 1
năm nay, Chính phủ Scotland đề xuất ý kiến về việc cấm sản xuất, kinh doanh một số sản
phẩm làm từ nhựa. Lệnh cấm này sẽ góp phần giảm đáng kể lượng rác thải nhựa.
Tại Anh, các loại hạt kim tuyến, trang trí đã bị cấm sử dụng. Việc tính phí với túi nhựa
cũng được thực hiện. Theo số liệu thống kê của Bộ Môi trường thực phẩm và các vấn đề nông
thôn, nhờ việc tính phí này, trong thời gian qua, số lượng túi nhựa được đưa vào sử dụng đã
giảm 9 tỷ chiếc.
Từ năm 2019, Đài Loan sẽ cấm sử dụng các loại ống hút nhựa tại cac chuỗi cửa hàng
thức ăn nhanh, sau đó tiến tới cấm hoàn toàn việc cung cấp túi nhựa tại các điểm kinh doanh.
Tại Việt Nam, một số tổ chức xã hội đã phát động các chiến dịch như: “ 7 ngày thách thức”,
“bớt một vỏ chai, cứu tương lai”, với mục tiêu thúc đẩy cộng đồng chung tay chống lại rác
thải nhựa.
Trong thời gian qua, nhiều bạn trẻ Việt nam cũng đã tổ chức hàng loạt hoạt động
nhằm giảm rác thải nhựa. Các bạn mày mò thực hiện những dự án làm ống hút từ tre và cỏ
bàng, tái chế rác thải nhựa thành những vật dụng có ích… Chắc chắn những hành động này sẽ
góp phần giúp môi trường trở nên xanh, sạch, đẹp hơn.

210
a) Dựa vào văn bản, hãy cho biết tác hại của rác thải nhựa đối với cuộc sống (0,5 điểm)
b) Tìm thành phần biệt lập được sử dụng trong đoạn cuối của văn bản 2. (0,5 điểm)
c) Chỉ ra mỗi liên hệ về nội dung của hai văn bản trên. (1.0 điểm)
d) Theo em, giải pháp nào là hiệu quả nhất để giảm ô nhiễm rác thải nhựa ở nước ta hiện nay?
Vì sao? (Em có thể lựa chọn giải pháp trong văn bản hoặc tự đề ra giải pháp khác. Trả lời
tương đương 3-5 dòng).( 1.0 điểm)
Câu 2: (3 điểm)
Để thể hiện mỗi quan hệ giữa cha mẹ và con cái (che chở, bao bọc, chia sẻ, gắn bó,
bình đẳng, độc lập…) các bạn học sinh đã đưa ra ba hình ảnh sau: (Hình minh họa)

Cha mẹ Cha Cha


mẹ Co mẹ Co
Co
nn
n
Từ một trong ba hình ảnh trên, em hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 1 trang giấy thi)
bàn về mỗi quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong xã hội hiện nay.
Câu 3: (4 điểm)
Học sinh được lựa chọn 1 trong 2 đề sau:
Đề 1:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kĩnh vỡ rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa nhưa ùa vào buồng lái
(Trích Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Phạm Tiến Duật)
Cảm nhận của em về hình ảnh người lính trong hai khổ khổ thơ trên. Từ đó, liên hệ
với một tác phẩm khác cũng viết về người lính để thấy được nét gặp gỡ của các tác giả khi
viết về đề tài này.
Đề 2: Từ những trải nghiệm trong quá trình đọc tác phẩm văn học, em hãy viết bài văn với
nhan đề “Những ngọn lửa nhóm lên trừ trang sách”.
ĐỀ TUYỂN SINH 2018-2019

Câu 1 (3 điểm) Em hãy đọc đoạn 2 văn bản sau và thực hiện các yêu cầu dưới:
Văn bản 1: Gần đây, trên mạng xã hội liên tục xuất hiện các bức ảnh về việc làm tình nguyện
của giới trẻ được chụp trước và sau khi hoàn thành các hoạt động tình nguyện như: xóa
“điểm đen” về rác, sơn vẽ nhà mẫu giáo, tu sửa nhà tình thương, xây nhà cho người nghèo,
kêu gọi không sử dụng đồ nhựa…

211
Đây là bức ảnh tham gia cuộc thi “Thách thức để thay đổi” (Cuộc thi do Trung ương Đoàn
và Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp tổ chức) nhằm lan tỏa thông điệp: Giới trẻ cần dấn
thân vào các hoạt động tình nguyện để thử thách bản thân trước những thách thức của cuộc
sống, nhằm thay đổi chính mình và thay đổi cuộc đời của nhiều người ( Theo Vũ Thơ- Người
trẻ thách thức bản thân để thay đổi- Báo Thanh Niên ngày 18/4/2019)
Văn bản 2: Hãy thách thức bản thân. Thách thức bằng những thách thức không ai biết, chỉ có
bản thân mình chứng kiến. Ví dụ: Dù ở nơi không có con mắt của người đời vẫn sống chính
trực, dù những khi chỉ có có một mình vẫn giữ đúng luật lệ, phép tắc.
Và khi đã chiến thắng trong nhiều thử thách, khi thẳng thắn tự mình nhìn lại bản thân, và
hiểu ra bản thân là người có phẩm hạnh cao, lúc ấy con người sẽ có được lòng tự tôn thật sự.
Việc này sẽ trao cho ta lòng tự tin mạnh mẽ. Đó chính là phần thưởng dành cho bản thân.
(Theo Shiratori Haruhiko, Lời của Nietzsche cho người trẻ, NXB Thế giới, 2018)
a. Xác định phép liên kết câu được sử dụng trong đoạn (1) của văn bản 2 (0,5 điểm)
b.Dựa vào văn bản 1, hãy cho biết thông điệp mà cuộc thi “Thách thức để thay đổi” muốn lan
tỏa tới cộng đồng. (0,5 điểm)
c. Chỉ ra một điểm chung và một điểm khác biệt về nội dung của hai văn bản trên. (1,0 điểm)
d. Theo em, có phải lúc nào việc thách thức bản thân cũng giúp chúng ta thay đổi theo chiều
hướng tốt đẹp hơn? (Trả lời trong khoảng 3 – 5 dòng) (1,0 điểm)
Câu 2: (3,0 điểm)
Câu chuyện của những cái cây

212
Có lẽ những cách ứng xử của cây 2, 3, 4 đối với cây 1 cũng là những cách ứng xử của một số
bạn trẻ đối với một ai đó nổi bật hơn mình. Em hãy viết bài văn ngắn (khoảng 01 trang thi)
bàn về một trong ba cách ứng xử ấy.
Câu 3: (4,0 điểm)
Học sinh được chọn 1 trong 2 đề sau:
Đề 1:
Cảm nhận của em về tình cảm mà người cha dành cho con trong tác phẩm Chiếc lược ngà của
nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Từ đó liên hệ với thực tế cuộc sống hoặc với một tác phẩm
khác cũng viết về đề tài gia đình để thấy được sức mạnh của tình cảm gia đình
Đề 2:
Mỗi bài thơ của chúng ta
Phải như một ô cửa
Mở tới tình yêu
(Trích Liên tưởng tháng Hai, Lưu Quang Vũ)
Từ những trải nghiệm trong quá trình đọc thơ, hãy viết về một bài thơ hoặc một đoạn thơ
“như một ô cửa/mở tới tình yêu” trong em.

KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10


Sở GD&ĐT TPHCM
NĂM HỌC: 2020 - 2021
ĐỀ CHÍNH THỨC
Môn: Ngữ Văn
Chủ đề: LẮNG NGHE
(Lắng nghe để thay đổi, lắng nghe để yêu thương, lắng nghe để hiểu biết)
Câu 1: (3,0 điểm) Em hãy đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Tính đến 7 giờ ngày 11/7/2020, dịch bệnh Covid-19 đã lan rộng đến 213 quốc gia và
vùng lãnh thổ trên thế giới. Có 12.614.187 người nhiễm bệnh, trong số đó 561.980 người tử
vong
213
Đại dịch Covid-19 đã gây hoảng loạn và xáo trộn trên 213 toàn cầu. Việc cách li và
phong tỏa diễn ra ở nhiều nơi. Các công ti xí nghiệp, trường học đóng cửa hàng loạt. Sản xuất
đình trệ, kinh doanh thua lỗ, giáo dục gián đoạn, nhiều hoạt động thường nhật trong cuộc sống
cũng không thể tiếp tục.
Con người đối mặt với những thách thức lớn và nhận ra một trong những cách chống
chọi với hoàn cảnh chính là quan sát và lắng nghe những gì đang diễn ra để có những điều
chỉnh phù hợp với tình hình thực tại.
Lắng nghe thế giới tự nhiên để tìm nguyên nhân dịch bệnh, chúng ta nhận ra con
người đang hủy hoại cuộc sống bình yên của nhiều loại, điều này buộc mỗi người phải thay
đổi cách đối xử với môi trường. Lắng nghe chính mình trong những ngày cách li xã hội,
chúng ta biết được những gì thật sự cần thiết cho bản thân và chọn lối sống đơn giản hơn,
Lắng nghe mọi người xung quanh, chúng ta thấu hiểu được bao nỗi niềm của những mảnh đời
cơ cực trong mùa dịch để rồi biết yêu thương nhiều hơn, biết chia sẻ để không ai bị bỏ lại phía
sau trong cuộc chiến chống Covid-19. Chắc hẳn đó cũng là lí do dẫn đến sự ra đời của cây
ATM gạo", của các hoạt động thiện nguyện, nhân đạo và nhiều chính sách hỗ trợ khác diễn ra
trong thời gian này.
Đại dịch Covid-19 đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Nhưng nó cũng giúp chúng
ta phải nhìn lại nhiều thử và lắng nghe nhiều hơn.
(Thông tin tổng hợp từ báo Thanh Niên và Tuổi Trẻ)
a. Dựa vào văn bản, hãy cho biết đại dịch Covid-19 đã gây ra những hoảng loạn vì xáo trộn
nào trên toàn cầu? (0,5 điểm)
b. Chỉ ra một phép liên kết câu được sử dụng trong đoạn cuối của văn bản. (0,5 điểm)
c. Xác định nội dung văn bản. (1,0 điểm)
d. Trong cuộc sống, giữa ba việc: làng nghe" chính mình, lắng nghe mọi người xung quanh và
lắng nghe thế giới tự nhiên, em quan tâm đến việc nhỏ nhất? Vì sao? (Trả lời trong khoảng 3-
5 dòng) (1,0 điểm)
Câu 2: (3,0 điểm)
Phải chăng lắng nghe là một biểu hiện của yêu thương”. Em hãy viết bài văn ngắn (khoảng 01
trang giấy thi) để trả lời câu hỏi trên.
Câu 3: (4,0 điểm)
Thông qua tác phẩm, tác giả cất lên tiếng nói của mình. Thông qua quá trình đọc, người đọc
lắng nghe những thông điệp mà tác giả gửi gắm:

214
Thông điệp về những giá trị Sống tốt Thông điệp về những cảm xúc yêu
đẹp cần gìn giữ ở. mỗi người qua đoạn thương dành cho gia đình qua đoạn Thông điệp về khát vọng cống
thơ: thơ: hiến cho xã hội qua đoạn thơ:
Ngửa mặt lên nhìn mặt. Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa Ta là con chim hót

có cái gì rưng rưng Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ Ta làm một cành hoa

như là đồng là bể Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm Ta nhập vào hòa ca

như là sông là rừng. Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm Một nốt trầm xao xuyến.
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn Một mùa xuân nho nhỏ Lặng lẽ

Trăng cứ tròn vành vạnh ngọt bùi. dâng cho đời


kể chỉ người vô tình Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung Dù là tuổi hai mươi
vui
ánh trăng im phăng phắc Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi Dù là khi tóc bạc.
đủ khiến cho ta giật mình. nhỏ. (Mùa xuân nho nhỏ,Thanh Hải)
Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!
(Ánh trăng, Nguyễn Duy) (Bếp lửa, Bằng Việt)
Học sinh được chọn 1 trong 2 để sau:
Đề 1
Em hãy viết bài văn trình bày cảm nhận về một trong ba thông điệp trên. Từ đó, liên hệ với
một tác phẩm khác để làm nổi bật thông điệp mà em chọn.
Đề 2
Từ những gợi ý trên và từ những trải nghiệm trong quá trình đọc tác phẩm văn học, hãy viết
bài văn với nhan đề: “Lắng nghe tác phẩm - Hiểu về cuộc sống”.

ĐỀ 1
Câu 1. (3,0 điểm) Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi bên dưới:
Khi thượng đế mới tạo ra vạn vật, xương rồng là loài cây mềm mại nhất trên thế gian
này. Mượt như nước, óng ánh như ngọc, bất kì ai chạm phải thì nó sẽ bị mất đi tính mạng.
Thế là thượng đế liền ban cho nó một lớp mũ giáp để bảo vệ, từ đó không ai còn nhìn thấy
tâm tính hiền hòa của cây xương rồng nữa. Bất kể sinh vật nào tiếp xúc với nó đều sẽ bị
thương tích toàn thân. Cho nên mấy ngàn năm trở lại đây, không còn ai dám gần xương rồng
nữa, nó bị xem là quái vật.
Sau này, có một dũng sĩ xuất hiện.Vị dũng sĩ rút thanh bảo kiếm chém xương rồng làm
hai. Ban đầu chàng cứ nghĩ để diệt trừ nó là một điều rất khó. Dũng sĩ kinh ngạc hét lên: "A!
Không ngờ bên trong xương rồng lại yếu ớt tới vậy! Vì sao lại chỉ có những giọt nước màu
xanh trong vắt?". Cuối cùng vị dũng sĩ đã hiểu, thì ra tất cả những chiếc gai nhọn chỉ là lớp
vỏ để bảo vệ mình của xương rồng mà thôi.
Quê hương của loài xương rồng ở châu Nam Mĩ và mê-xi-cô, chúng phải sống trong
môi trường khắc nghiệt, đấu tranh với từng lớp cát dày, thiếu nước. Mấy ngàn năm, xương
rồng vẫn đứng vững được trên sa mạc, lá thoái hóa biến thành gai nhọn. Những chiếc gai
nhọn giúp xương rồng giảm thiểu được lượng nước mất đi. Tiết kiệm nước là yêu cầu sống
còn của xương rồng trong sa mạc. Nếu chúng ta có thể tiết kiệm nước như xương rồng thì
nguồn nước của chúng ta sẽ không cạn kiệt nhanh chóng đến vậy, xem chừng con người
chúng ta còn phải học hỏi loài xương rồng này nhiều!
215
(Theo Dương Văn Trung, Hàn Kiến Dân Khám phá khoa học – Sinh vật lý thú)
a. Phần in đậm là lời nói hay ý nghĩ được dẫn? Dẫn theo cách nào?
b. Văn bản trên đã cung cấp cho em kiến thức gì về cây xương rồng?
c. Viết một đoạn văn (khoảng 5-7 câu) nêu suy nghĩ của em về câu kết của văn bản: Nếu
chúng ta có thể tiết kiệm nước như xương rồng thì nguồn nước của chúng ta sẽ không cạn kiệt
nhanh chóng đến vậy, xem chừng con người chúng ta còn phải học hỏi loài xương rồng này
nhiều!
Câu 2. (3,0 điểm)
Đọc câu chuyện sau:
Kiwi là loài chim không cánh ở nước New Zealand. Từ lâu nó cam chịu sống như bầy
gà. Nhưng, trong số đó, có một chú Kiwi nhỏ ấp ủ ước mơ được một lần bay. Con chim Kiwi
đó quyết tâm thực hiện bằng cách leo lên một đỉnh núi rồi dũng cảm lao xuống. kiwi được
bay theo cách của nó.
(Truyền thuyết về chim Kiwi)
Hãy viết một bài văn ngắn nêu suy nghĩ của em từ câu chuyện trên.
Câu 3. (4,0 điểm)
Trình bày cảm nhận của em về bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy. Từ đó, nêu suy
nghĩ của em về thái độ sống "Uống nước nhớ nguồn", thủy chung cùng quá khứ mà nhà thơ
đã gửi gắm trong tác phẩm.
ĐỀ 2
Câu 1. (3,0 điểm) Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi bên dưới:
Tương truyền vào đầu thế kỉ XVI, Cristoforo Colombo đã thực hiện chuyến đi bằng
đường biển tới Jamaica ở Nam Mỹ và xảy ra mâu thuẫn gay gắt với thổ dân nơi đó. Colombo
và các thủy thủ của ông bị dồn vào chân tường, cạn kiệt lương thực và nước, tình hình vô
cùng nguy cấp.
Một ý nghĩ lóe lên trong đầu Colombo, đột nhiên ông hét lên với người bản địa: "Nếu
không mang đồ ăn tới, ta sẽ không cho các người ánh trăng nữa!". Dân địa phương không
thèm để tâm, nhưng tối đến, lời Colombo nói đã ứng nghiệm, ánh trăng không xuất hiện.
Những thổ dân thấy vậy hết sức lo sợ, họ nhanh chóng hòa giải với Colombo.
Lẽ nào Colombo có sức mạnh ghê gớm đến vậy sao? Câu chuyện nghe có vẻ rất mơ
hồ, thực ra chẳng qua là Comlombo có đôi chút hiểu biết về thiên văn mà thôi.
(Theo Đỗ Huệ, Dương Kim Yên Khám phá khoa học – Địa lý lý thú)
a. Phần in đậm là lời nói hay ý nghĩ được dẫn? Dẫn theo cách nào?
b. Phần kết của văn bản khiến em liên tưởng đến hiện tượng tự nhiên nào liên quan đến câu
chuyện?
c. Theo em sức mạnh ghê gớm nào giúp Colombo thoát khỏi tình cảnh ngặt nghèo? Viết một
đoạn văn (khoảng 5-7 câu) nêu suy nghĩ của em về sức mạnh đó.
Câu 2. (3,0 điểm)
Nhà giáo Nguyễn Ngọc Ký, người viết bằng chân, tâm sự trên báo Văn nghệ trẻ ngày
16-11-2008:
Con người ta chỉ sợ khiếm khuyết tâm hồn, đó là mầm tai họa, còn bất cứ khiếm
khuyết nào trên cơ thể cũng không đáng sợ nếu chúng ta dũng cảm đối diện mà vượt qua để
thành người không khiếm khuyết.
Hãy viết một bài văn ngắn nêu suy nghĩ của em về ý nghĩa của lời tâm sự trên.
Câu 3. (4,0 điểm)
Trình bày cảm nhận của em về tình cảm gia đình qua các đoạn thơ sau:
Dù ở gần con Chân phải bước tới cha
Dù ở xa con Chân trái bước tới mẹ
Lên rừng xuống bể Một bước chạm tiếng nói
Cò sẽ tìm con
216
Cò mãi yêu con Hai bước tới tiếng cười.
Con dù lớn vẫn là con của mẹ Người đồng mình yêu lắm, con ơi!
Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con Đan lờ cài nan hoa
(Con cò, Chế Lan Viên) Vách nhà ken câu hát.
(Nói với con, Y Phương)

ĐỀ 3
Câu 1. (3,0 điểm) Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi bên dưới:
Cây xấu hổ là một vật vô cùng kì lạ, chỉ cần dùng tay chạm nhẹ vào lá nó liền xấu hổ,
khép mình lại rồi rủ xuống. Nếu bạn chạm nhẹ, nó sẽ chuyển động chậm, phạm vi thu mình
cũng hẹp, còn nếu bạn chạm mạnh, nó sẽ phản ứng rất nhanh, chưa tới mười giây toàn bộ lá
đã khép hết lại rồi. Vậy xấu hổ vì sao lại có "tính tình" kì lạ như vậy? Điều này liên quan mật
thiết với môi trường, tập tính sinh sống của nó. Quê hương của cây xấu hổ ở Brazil thuộc
vùng có khí hậu nhiệt đới, nơi đó thường xuyên có mưa to gió lớn. Cho nên 'tính tình" kì lạ
của xấu hổ có thể được coi là một cách để tự vệ. Sự thần kì của cây xấu hổ không chỉ nằm ở
việc phiến lá của nó có thể khép lại, mà nó còn có thể dự báo sự thay đổi của thời tiết: Dùng
tay chạm nhẹ, nếu lá của nó đóng lại nhanh mà mở ra chậm chứng tỏ trời sắp có nắng to;
còn nếu chạm vào mà lá khép chậm mở ra nhanh thì trời sẽ chuyển từ nắng sang âm u, hoặc
sắp có mưa to.
(Theo Dương Văn Trung, Hàn Kiến Dân Khám phá khoa học – Sinh vật lý thú)
a. Nêu một phép tu từ có trong đoạn văn và tác dụng của phép tu từ đó?
b. Nội dung của đoạn trích nêu lên đặc điểm gì của loài cây xấu hổ?
c. Từ hình ảnh cây xấu hổ thích nghi với môi trường tự nhiên, em thấy con người chúng ta
phải làm gì khi không may rơi vào hoàn cảnh sống khắc nghiệt? Viết một đoạn văn (khoảng
5-7 câu) nêu suy nghĩ của em về vấn đề trên.
Câu 2. (3,0 điểm)

Từ những suy nghĩ được gợi ra từ hai hình vẽ trên, em hãy viết bài văn với nhan đề:
“Góc nhìn khác – Suy nghĩ khác”
Câu 3. (4,0 điểm)
Trong bài Một khúc ca xuân, Tố Hữu viết:
Nếu là con chim, chiếc lá,
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh.
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.
Em hiểu đoạn thơ trên như thế nào? Hãy phân tích khổ 4 và 5 trong bài thơ Mùa xuân
nho nhỏ của Thanh Hải để thấy điểm gặp gỡ trong tư tưởng của hai nhà thơ.
ĐỀ 4
Câu 1. (3,0 điểm) Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi bên dưới:

217
Chúng ta hoàn toàn có thể trở thành là nạn nhân cuối cùng của cái gọi là "văn hóa sỉ
nhục online" (online culture of humiliation) hay nói theo ngôn ngữ thời thượng là "ném
đá" ... Chắc chắn bạn sẽ không thấy xa lạ gì về điều này khi mà chỉ cần vào Facebook là có
thể nhìn thấy một vụ "ném đá" nào đó. Điều càng nguy hiểm hơn là có những người "ném đá"
vô tội vạ bất kể nạn nhân có thật sự phạm lỗi hay không. Việc "sỉ nhục nhau trên mạng xã
hội" này nếu không có cách ngăn chặn sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng, thậm chí đổi
bằng sinh mạng, đối với các nạn nhân. Tàn nhẫn với người khác chẳng phải là chuyện gì
mới, nhưng ở trên mạng, sự sỉ nhục gây ra bởi công nghệ đã được khuếch đại hơn, bị phơi
bày, bị lưu lại vĩnh viễn. Trên Internet, thật ảo khó lường, đừng nên share bất cứ cái gì mà
mình chưa xác tín là có thật và không gây hại cho ai khác. Khi càng có nhiều người dùng có
trách nhiệm, mạng Internet mới càng có thể đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho xã hội.
(Theo Phạm Hồng Phước, Sỉ nhục online)
a. Chỉ ra một thành phần biệt lập và một phép liên kết có trong đoạn văn?
b. Nêu nội dung của đoạn trích?
c. Trong đoạn văn, người viết nhắc nhở: Trên Internet, thật ảo khó lường, đừng nên share bất
cứ cái gì mà mình chưa xác tín là có thật và không gây hại cho ai khác? Viết một đoạn văn
(khoảng 5-7 câu) nêu suy nghĩ của em về vấn đề trên.
Câu 2. (3,0 điểm)
Trong văn bản bức thư của thủ lĩnh da đỏ khép lại là lời của thủ lĩnh Xi-at-tơn nói với
Tổng thống thứ 14 của nước Mĩ Phreng-klin Pi-ơ-xơ:
Đất là mẹ. Điều gì xảy ra với đất đai tức là xảy ra đối với những đứa con của Đất.
Con người chưa biết làm tổ để sống, con người giản đơn là một sợi tơ trong cái tổ sống đó
mà thôi. Điều gì con người làm cho tổ sống đó, tức là làm cho chính mình.
Hãy viết một bài văn ngắn trình bày suy nghĩ của em về nhận định trên.
PHẦN 1: ĐỌC-HIỂU
Câu 1:

Thành phần biệt lập: “Online culture…” là thành phần phụ chú, có vai trò chú thích cho khái
niệm“văn hóa sỉ nhục Online”.

Phép liên kết: phép lặp từ “sỉ nhục”.

Câu 2:

Nội dung của phần trích nói về tác hại của việc “sỉ nhục Online” “ném đá trên mạng” và đưa
ra lời khuyên đừng nên chia sẻ trên mạng xã hội bất cứ cái gì mà mình chưa xác tín là có thật
và không gây hại cho ai khác.

Câu 3:

Ý kiến trình bày cần đảm bảo được nội dung cơ bản sau:

+ Những thông tin trên mạng internet khó xác định được thật/giả.

218
+ Ta không nên tham gia vào dưới mọi hĩnh thức (bình luận, “like”,…) bất cứ những thông tin
nào mà mình chưa xác định được độ chính xác và độ tin cậy, nhất là có khả năng gây hại cho
người khác.

+ Chỉ nên truy cập, đăng tải những thông tin bổ ích cho việc học tập và rèn luyện bản thân.

 Mở bài:

Thời đại khoa học phát triển, con người chế ngự được thiên nhiên. Nhưng đông thời con
người cũng phải gánh chịu những đòn giáng trả khốc liệt từ bà mẹ thiên nhiên. Bức thư của
thủ lĩnh da đỏ gửi Tổng thống thứ 14 của nước Mĩ cảnh báo con người về hiểm họa của môi
trường thiên nhiên nếu như không biết bảo vệ bà mẹ vĩ đại của mình” “Đất là Mẹ. Điều gì xảy
ra với đất là xảy ra đổi những đứa con của Đất. Con người chưa biết làm to đế sống, con người giản đơn
một sợi tơ trong cái tổ sổng đó mà thôi. Điều gì con người làm cho tô sống đỏ, tức làm cho chính mình”.

 Thân bài:

Vị Tổng thống của nước Mĩ có ý định mua đất đai của người da đỏ để phát triển đô thị. Thủ
lĩnh Xi-át-tơn viết lá thư bày tỏ thái độ không đồng thuận và khẳng định ý nghĩa môi trường
tự nhiên đối với con người.

Môi trường tự nhiên là tất cả những gì thuộc về thiên nhiên đang tồn tại quanh ta: đất, nước,
không khí… Thủ lĩnh da đỏ gọi là Mẹ – bà mẹ vĩ đại của con người. Đó là một nhận định đúng
đắn và hết sức nhân văn, thể hiện sự kính trọng tuyệt đối là tình yêu thương vô hạn đối với
thiên nhiên.

Đất đai có vai trò và ý nghĩa sống còn đối với con người. Đất là “Mẹ” bao dung, ban cho
“những đứa con” của đất là chúng ta cái “tổ sống”: nơi để trú ngụ, để trồng trọt, chăn nuôi
tạo nên mùa màng hoa trái, cảnh quan thiên nhiên để con người thưởng ngoạn…

 Nghị luận: Vai trò của tuổi trẻ đối với tương lai đất nước
 Nghị luận: trách nhiệm của thanh niên học sinh đối với đất nước

Không có đất đai, con người không thể tồn tại dược. Mất đất đai là mất đi tất cả, kể cả sự
sống. “Những đứa con” của đất chỉ biết dựa vào bà mẹ thiên nhiên của mình để sinh tồn,
chưa biết làm đầy “tổ sống” mà Mẹ ban cho. Con người hiện đại chỉ biết khai thác, chưa có ý
thức bồi đắp môi trường sống… Bởi thế dự định khai phá đất đai, phát triển đô thị của vị
Tổng thống Mĩ, được cho là hành vi xâm phạm Mẹ đất, làm tổn hại đến sự sống của thiên
nhiên và con người.

Điều gì con người làm cho đất đai, cho “tổ sống”, tức là làm cho chính mình. Môi trường tự
nhiên tuy phong phú, tài nguyên thiên nhiên bao giờ cũng có giới hạn. Nếu con người khai
thác đến cạn kiệt, con người sẽ phải trả giá khốc liệt: khai thác gồ bừa bãi dẫn đến lũ lụt, khai
thác đất đai dẫn đến nguy cơ động đất, sóng thần; nhà máy và khí thải làm ô nhiễm không
khí… Ngược lại nếu con người biết ơn bà mẹ thiên nhiên, chung tay bảo vệ môi trường thì sẽ
nhận lại bấy nhiêu điều tốt đẹp, mưa thuận gió hòa, đất đai bình yên, mùa màng hoa trái,
vạn vật sinh sôi…

Phê phán: Trong thực tế, nhiều cá nhân, tổ chức chỉ thấy cái lợi trước mắt mà vắt kiệt môi
trường tự nhiên: “lâm tặc” khai thác gỗ bừa bãi, “cát tặc” nạo vét lòng sông tùy tiện, lấp sông
để xây dựng đô thị…

219
Bài học: Ý định phát triển đô thị của ngài Tổng thống không phải là xấu, nước Mĩ cần phát
triển hùng mạnh, vấn đề là vừa khai thác vừa bồi đắp môi trường, để con người và môi
trường có mối quan hệ thân thiện hơn. Mỗi người trong chúng ta cùng hành động, chung tay
bảo vệ môi trường sống của mình: tiết kiệm điện năng, hưởng ứng Giờ Trái đất…

 Kết bài:

Văn bản Bức thư của thủ lĩnh da đỏ khép lại là lời của thủ lĩnh Xi-at-tơn nói với Tổng thống
thứ 14 của nước Mĩ Phreng-klin Pi-ơ-xơ: “Đất là Mẹ. Điều gì xảy ra với đất là xảy ra đổi những đứa
con của Đất….”. Qua những lời tâm huyết của vị thủ lĩnh da đỏ, chúng ta thấy được ý thức bảo
vệ môi trường đã có từ thời xa xưa. Con người, dù ở bất kì nơi nào, dù không cùng màu da và
tiếng nói, hãy xem đất là Mẹ, là nơi thiêng liêng nhất mà loài người cùng chung sống.

Câu 3. (4,0 điểm)


Trình bày cảm nhận của em về ý nghĩa thiêng liêng của chiếc lược bằng ngà trong tác
phẩm Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng. Từ đó, hãy liên hệ với một đoạn thơ có cùng
chủ đề để làm rõ tình yêu thương con của người cha trên khắp mọi miền đất nước.
ĐỀ 5
Câu 1. (3,0 điểm) Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi bên dưới:
Chim cánh cụt là loài chim không biết bay phổ biến nhất. Có khoảng 17 loài chim
cánh cụt khác nhau trên thế giới, đa số chúng được tìm thấy ở khu vực nam Cực. Bên dưới
nước, cánh của chim cánh cụt hoạt động như các chân chèo, cho phép chúng bơi với vận tốc
lên đến 24 km/ giờ. Đặc biệt chim cánh cụt hoàng đế cao nhất và nặng nhất thế giới. Chim
cánh cụt hoàng đề đực là một trong những người cha gương mẫu nhất của vương quốc động
vật. Sau khi đẻ ra một quả trứng duy nhất, chim cánh cụt cái tiến xuống biển tìm thức ăn.
Chim đực sẽ giữ trứng trên thân mình, bên sưới một lớp da ấm áp được gọi là "túi ủ" để ấp
trứng. Trứng chim mất 60 ngày mới nở ra và chim đực sẽ tiếp tục bảo vệ cho chim non trong
suốt mùa đông. Chim đực chấp nhận nhịn đói để chờ cho đến khi chim mái quay về.
(Bách khoa toàn thư – Tủ sách kiến thức phổ thông)
a. Chỉ ra một biện pháp tu từ và một phép liên kết câu được sử dụng trong đoạn văn?
b. Nêu nội dung của và phương thức biểu đạt chính của đoạn văn?
c. Từ việc chim cánh cụt hoàng đế đực "ấp trứng", "bảo vệ chim non trong suốt mùa đông",
em có liên tưởng gì đến tình phụ tử trong cuộc sống quanh em? Viết một đoạn văn (khoảng 5-
7 câu) nêu suy nghĩ của em.
Câu 2. (3,0 điểm)
Tấm gương là người bạn chân thành suốt đời mình, không bao giờ biết xu nịnh ai dù
đó là kẻ vương giả uy quyền hay giàu sang hãnh tiến. Dù gương có tan xương nát thịt thì vẫn
vẹn nguyên tấm lòng ngay thẳng trong sạch như từ lúc mẹ cha sinh ra nó.
Có gương mặt đẹp soi vào gương quả là hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc càng trọn vẹn
hơn nếu có một tâm hồn đẹp để mỗi khi soi vào tấm gương lương tâm sâu thẳm mà lòng
không hổ thẹn.
Còn tấm gương bằng thủy tinh tráng bạc, nó vẫn là người trung thực, chân thành,
thẳng thắn, không hề nói dối, cũng không bao giờ biết nịnh hót hay độc ác với bất cứ ai.
(Theo Băng Sơn, U tôi)
Hãy viết một bài văn ngắn trình bày suy nghĩ của em về vấn đề được đặt ra từ đoạn
văn trên.
Câu 3. (4,0 điểm)
Nêu cảm nhận của em về vẻ đẹp tâm hồn trong sáng, hồn nhiên, giàu cảm xúc ở nhân
220
vật Phương Định trong tác phẩm Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê. Từ đó, em hay
liên hệ đến một tác phẩm khác có cùng đề tài về thế hệ trẻ Việt Nam ở Trường Sơn để thấy
được điều mà chiến tranh không thể tước đoạt được ở tuổi trẻ Việt Nam.
ĐỀ 6
Câu 1. (3,0 điểm) Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi bên dưới:
Sau khi hoàn thành bằng tiến sỹ về robot sinh học (cảm biến và giác quan của robot.
Nguyễn bá Hải từ chối công việc bên Hàn với mức lương khổng lồ mà trở về Việt Nam giảng
dạy tại trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật với dự án làm "mắt thần", đó chính là chiếc kính điện tử
dành cho người mù.. “Mắt thần” là thiết bị đầu tiên ở Việt Nam hỗ trợ người khiếm thị nhận
biết được vật cản trước mặt trong khoảng 1 mét. Thiết bị sẽ rung khi người dùng gặp vật cản.
Thiết bị này sau bốn năm trải qua nhiều lần nghiên cứu, thử nghiệm thực tế và thành công ở
phiên bản thứ 9 này nhẹ bằng 1/10 và giá thành giảm 10 lần so với phiên bản đầu tiên.
Đã có người mua bản quyền nghiên cứu “mắt thần” với giá 2,3 tỷ đồng để sản xuất
bán ra thị trường nhưng anh nhất định không bán mặc dù vợ chồng anh vẫn ở trọ trong thời
gian vừa giảng dạy vừa nghiên cứu. Anh cho rằng thật vô nhân đạo nếu thương mại hóa sản
phẩm này. Chính vì vậy, anh đồng ý hợp tác với một công ty phi lợi nhuận sản xuất chiếc kính
này với giá thành rẻ nhất với mong muốn 5000 người khiếm thị ở Việt Nam có “mắt thần”.
Không dừng lại ở “mắt thần”, chàng trai trẻ tuổi nhiều hoài bão còn muốn cải tiến
thiết bị này hơn nữa, có thể chiếc kính giúp người khiếm thị đọc sách, nhận biết được mệnh
giá tiền, xác định được họ đang đứng ở đâu, nhận biết được đồ ăn…Và xa hơn là trung tâm
chăm sóc người khiếm thị, một địa chỉ giống “1080” cho người mù, sẵn sàng giúp đỡ họ bất
cứ lúc nào. Anh quan niệm: “Mình không giàu có bằng ai nhưng cứ cho đi bất cứ khi nào
trong khả năng của mình. Vì thực sự cho đi giúp cho cuộc sống nhân văn hơn và mình hạnh
phúc hơn”.
(Lê Tuyết– Báo lao động ngày 16/02/2016)
a. Nêu hai thuật ngữ và một thành phần biệt lập được sử dụng trong văn bản?
b. Nêu nội dung của đoạn văn?
c. Viết một đoạn văn (khoảng 5-7 câu) nêu suy nghĩ của em về quan niệm sống của nhân vật
được kể trong văn bản trên: “Mình không giàu có bằng ai nhưng cứ cho đi bất cứ khi nào
trong khả năng của mình. Vì thực sự cho đi giúp cho cuộc sống nhân văn hơn và mình hạnh
phúc hơn”.
Câu 2. (3,0 điểm)
Dưới đây là nỗi lo lắng của không ít các vị phụ huynh về con em của mình:
Không biết nấu ăn, không biết nhặt rau, rửa chén, không biết giặt quần áo... là điểm
chung của việc “nghèo nàn” kinh nghiệm sống ở một bộ phận bạn trẻ hiện nay.Con đi học về,
hôm thì: “Bộ quần áo này của con bẩn rồi, mẹ giặt cho con nhé”. Hôm thì: “Tại sao mẹ lại
quên bỏ chai nước vào balô của con, để con khát khô cả họng?”. Có hôm con cằn nhằn: “Mẹ
lại soạn sách thiếu cho con rồi”.
Nhiều hôm tôi bực mình với thái độ hững hờ của con kiểu như: “Món này con không
thích, mẹ nấu món khác cho con ăn”. Đến chiếc xe đi học bị bẩn con cũng phải nhờ bố đi
rửa. Thú thật có lúc tôi nhận ra con chẳng biết làm gì ngoài cái việc học xuất sắc. Hằng năm
con đều nhận danh hiệu học sinh giỏi, nhưng tôi không cảm thấy vui bởi lẽ con đang bị
khuyết kỹ năng sống.
(Theo Ngọc Liên, Báo tuổi trẻ ngày 08/06/2015)
Hãy viết một bài văn ngắn trình bày suy nghĩ của em về thực trạng này ở giới trẻ hiện
nay.
Câu 3. (4,0 điểm)
Trình bày cảm nhận của em về vẻ đẹp của các cô gái TNXP ở Trường Sơn trong
những năm đất nước có chiến tranh qua hai đoạn trích sau:
221
Quen rồi. Một ngày chúng tôi phá bom đến Chuyện kể rằng: em, cô gái mở đường
năm lần. Ngày nào ít: ba lần. Tôi có nghĩ đến Để cứu con đường đêm ấy khỏi bị thương
cái chết. Nhưng là một cái chết mờ nhạt, Cho đoàn xe kịp giờ ra trận
không cụ thể. Còn cái chính: liệu mìn có nổ, Em đã lấy tình yêu Tổ quốc của mình thắp
bom có nổ không? Không thì làm cách nào lên ngọn lửa
để châm mìn lần thứ hai? Tôi nghĩ thế, nghĩ Đánh lạc hướng thù. Hứng lấy luồng bom...
thêm: đứng cẩn thận, mảnh bom ghim vào (Trích Khoảng trời hố bom – Lâm Thị Mỹ
cánh tay thì khá phiền. Và mồ hôi thấm vào Dạ)
môi tôi, mằn mặn, cát lạo xạo trong miệng.
(Những ngôi sao xa xôi, Lê Minh Khuê)
ĐỀ 7
Câu 1. (3,0 điểm) Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi bên dưới:
Bạn đã thả diều bao giờ chưa? Nếu đã từng thả diều, bạn có bao giờ để ý thấy khi
chiếc diều bay lên đến một độ cao nhất định thì dây diều luôn bị cong đi không? Khi ban đầu
mới thả diều, độ cong của dây diều rất nhỏ, nhưng khi diều càng bay lên cao thì phần giữa
của dây diều càng rủ xuống. Nguyên nhân là do dây diều ngoài chịu sự tác động của lực kéo
lên trên và lực từ tay cầm của chúng ta giữ phía dưới thì bản thân dây diều cũng có trọng
lượng nhất định, cho nên mới khiến cho phần giữa của dây bị rũ xuống dưới và tạo độ cong.
Dây diều trong không trung càng dài thì trọng lượng của nó càng lớn, lực hút của Trái Đất
tác động lên nó càng cao, và độ cong của dây diều càng rõ.
(Theo Phi Lan Hội, Khám phá khoa học – Vật lý lý thú)
a. Chỉ ra hai phép liên kết được sử dụng trong đoạn văn?
b. Nêu nội dung và phương thức biểu đạt chính của đoạn văn?
c. Từ việc con diều bay lượn trên không trung dẫn dắt chúng ta liên tưởng đến điều gì? Viết
một đoạn văn (khoảng 5-7 câu) về sự liên tưởng đó.
Câu 2. (3,0 điểm)
Người thành công và thất bại khác nhau ở cách mà họ đương đầu với khó khăn.
Hãy viết một bài văn ngắn trình bày suy nghĩ của em về ý kiến trên.
Câu 3. (4,0 điểm)
Trình bày cảm nhận của em về tình cảm của người Việt Nam dành cho lãnh tụ Hồ Chí
Minh qua các khổ thơ sau:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Bác đã đi rồi sao, Bác ơi!
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền Mùa thu đang đẹp, nắng xanh trời
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Miền Nam đang nắng, mơ ngày hội
Mà sao nghe nhói ở trong tim. Rước Bác vào thăm, thấy bác cười.
(Viếng lăng bác, Viễn Phương) (Bác ơi – Tố Hữu)

ĐỀ 8
Câu 1. (3,0 điểm) Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi bên dưới:
Chim nhạn được coi là nhà lữ hành xuất sắc trong không trung. Mùa xuân, nó xếp
thành hình chữ "nhất" hoặc chữ "nhân" bay từ phương Nam tới phương Bắc; mùa thu cũng
với đội hình như vậy nó lại bay trở lại phương Nam, mỗi hành trình kéo dài từ một tới hai
tháng, năm nào cũng lặp lại như vậy.
Trong hành trình, bầy chim nhạn có kỉ luật rất nghiêm ngặt, chúng thường xếp thành
hình chữ "nhân" hoặc hình chữ "nhất", vừa bay vừa phát ra tiếng kêu "cạc cạc". Tiếng kêu
này có tác dụng như tín hiệu để quan tâm lẫn nhau, kêu gọi, cất cánh hay dừng chân. Vậy
chim nhạn xếp thành hình chữ "nhất" và hình chữ "nhân" để làm gì? Thì ra, đội hình này
giúp tiết kiệm sức lực, con chim đầu đàn khi vỗ cánh sẽ tạo ra một luồng khí di chuyển lên

222
trên, con phía sau bám sát có thể lợi dụng dòng khí này để bay nhanh hơn bay đỡ mất sức.
Cứ như vậy con sau theo sát con trước, bầy chim nhạn tự nhiên mà xếp đội hình như vậy.
Ngoài ra hình chữ "nhất" hay hình chữ "nhân" mà chim nhạn xếp còn là một biểu
hiện bản năng của tập tính bầy đàn, điều này giúp chúng phòng tránh nguy hiểm. Con chim
có kinh nghiệm trong đàn nhất thường được bầu làm "đội trưởng", bay đầu tiên, nhưng do
"đầu đàn" không thể lợi dụng được luồng khí nào để di chuyển lên nên rất dễ bị kiệt sức, vì
vậy trong hành trình di chuyển tương đối dài, đàn nhạn sẽ luân phiên thay đổi vị trí cho
nhau, kể cả vị trí "đầu đàn". Chim non hay những con có thể trạng yếu thường được sắp xếp
vào giữa đội hình. Khi nghỉ ngơi bên dòng nước, tìm kiếm thức ăn, sẽ có một con nhạn dày
dạn kinh nghiệm canh gác cho đàn.
(Theo Bách khoa toàn thư, Tủ sách kiến thức phổ thông)
a. Chỉ ra một biện pháp tu từ theo em là độc đáo nhất được sử dụng trong bài? Nêu tác dụng?
b. Nêu nội dung chính của đoạn trích? Đặt nhan đề cho văn bản.
c. Từ nội dung của văn bản, em liên tưởng tới những phẩm chất gì mà con người cần học tập
ở loài chim nhạn? Viết một đoạn văn (khoảng 5-7 câu) nêu suy nghĩ của em về phẩm chất đó.
Câu 2. (3,0 điểm)
Từ vẻ đẹp phẩm chất khiêm tốn của nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn Lặng
lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long, em có suy nghĩ gì về đức tính khiêm tốn của con người
trong cuộc sống.
Hãy viết một bài văn ngắn trình bày suy nghĩ của em.
Câu 3. (4,0 điểm) Nêu cảm nhận của em về vẻ đẹp của người lao động qua hai đoạn thơ sau:
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá Lướt giữa mây cao với biển bằng
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng ....
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió Ta hát bài ca gọi cá vào
(Quê hương, Tế Hanh) Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
(Đoàn thuyền đánh cá – Huy cận)
ĐỀ 9
Câu 1. (3,0 điểm) Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi bên dưới:
Có người bảo rằng chim sẻ là chim thành phố, vì chúng có thể sống cùng người trong
không gian ồn ào, náo nhiệt. Nhưng sự sinh tồn của chim sẻ ở thành phố có vẻ cũng không dễ
dàng gì.
Chúng phải chọn những mái nhà, những sợi dây điện giăng ngang, những con đường,
những bóng cây và công viên để trú ngụ. Và, để kiếm được miếng ăn, những con chim se sẻ
luôn phải sống trong sợ hãi. Nỗi sợ hãi thường trực ấy khiến chúng luôn tránh bóng người dù
đang sống chung với con người.
Ngay cả khi đang nhặt những hạt cơm khô, mẩu bánh vỡ vương vãi ở một hè phố, ở
thảm cỏ hay trên ghế đá công viên, đôi mắt con chim bé nhỏ phải tinh tường, phải bay vội khi
thấy bóng người để không bị bắt.
Ở các nhà hàng đặc sản có món thực khách thích, đó là món chim sẻ rôti. Muốn có
một đĩa chim sẻ rôti ngon miệng ấy, người ta phải làm thịt cả chục con hay hơn thế nữa, vì
chim se sẻ có bao nhiêu thịt đâu! Để bắt được chim sẻ, phương pháp thường áp dụng là đặt
bẫy. Tôi từng nhìn thấy cảnh chim sẻ bị đặt bẫy, mới từng đàn ríu rít chuyền cành, thoáng
chốc đã trở thành miếng mồi.
Có những con chim sẻ thoát khỏi bẫy, chúng chuyền cành ngơ ngác không hiểu vì sao
mà mình bị sát hại, vì sao mà vợ chồng con cái phút chốc lìa bầy. Chúng không có một vũ khí
223
nào để chống lại con người, chỉ có cách là chúng không đùa giỡn trên cây, chúng không ríu
rít tạo âm thanh vui trong phố để lòng người giảm đi bao nhiêu nỗi muộn phiền.
Và vì thế, có những buổi sáng bầy chim sẻ không về phố. Chúng sợ con phố rộn ràng
kia có những nỗi hiểm nguy rình rập. Chúng bỏ phố đi về những cánh rừng.
(Việt Khuê, Bầy chim sẽ bay về)
a. Chỉ ra hai phép liên kết được sử dụng trong đoạn văn đầu tiên.
b. Nêu nội dung và phương thức biểu đạt chính của văn bản.
c. Thông điệp gì được người viết gửi gắm trong đoạn cuối của văn bản? Viết một đoạn văn
(khoảng 5-7 câu) nêu suy nghĩ của em.
Câu 2. (3,0 điểm)
“Cái quần con mặc rách ống rồi kìa, may lại đi con”. “Thời buổi này mà còn may vá
làm chi cho cực hả mẹ? Con sẽ thiết kế thành cái quần mới cho mẹ xem!”. “Bằng cách
nào?”. “Nó đã rách sẵn một đường rồi, con sẽ... xé thêm vài đường nữa là thành một kiểu
quần mới bụi bụi, đầy cá tính”. “Trời! Phá phách thì có, chứ sáng tạo cái nỗi gì!”...
Có khá nhiều trường hợp tranh luận không hồi kết tương tự đã xảy ra giữa một số phụ
huynh và con em đang tuổi mới lớn. Rốt cuộc, hai bên thường giận dỗi nhau, người này trách
người kia không thấu hiểu thiện chí của mình và ngược lại".
(Trích Làm mới theo cách tuổi mới lớn, Nguyễn Như)
Sự việc con nói "sáng tạo", mẹ nói "phá phách' trong văn bản trên gợi cho em suy nghĩ
gì? Hãy viết một bài văn ngắn trình bày suy nghĩ của em.

Câu 3. (4,0 điểm) Nêu cảm nhận của em về tình mẫu tử qua hai đoạn thơ sau:
Dù ở gần con Cái cò... sung chát đào chua...
Dù ở xa con câu ca mẹ hát gió đưa về trời
Lên rừng xuống bể ta đi trọn kiếp con người
Cò sẽ tìm con cũng không đi hết mấy lời mẹ ru
Cò mãi yêu con (Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa – Nguyễn Duy)
Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con
(Con cò, Chế Lan Viên)
ĐỀ 10
Câu 1. (3,0 điểm) Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi bên dưới:
Có phải chúng ta đang ngày càng ít nói với nhau hơn. Chúng ta gặp nhau qua YM, tin
nhắn, chúng ta đọc blog hay những câu status trên Facebook của nhau mỗi ngày, chúng ta
những tưởng đã biết hết, hiểu hết về nhau mà không cần thốt lên lời. Có phải vậy chăng? Có
phải ta cũng như loài cá heo có thể giao tiếp với nhau bằng sóng siêu âm. Tiếng nói con
người dùng để làm gì nếu không phải để thổ lộ, để giãi bày, để xoa dịu. Nếu muốn được hiểu
thì phải được lắng nghe. Nếu muốn được lắng nghe thì phải nói trước đã. Vậy thì còn ngần
ngừ chi nữa, hãy nói với nhau đi. Nói với ba, với mẹ, với anh chị, với em, với bạn bè… Đừng
chat, đừng email, đừng post lên Facebook, hãy chạy đến gặp nhau, hay ít nhất, hãy nhấc điện
thoại lên, thậm chí chỉ để gọi nhau một tiếng “…ơi” dịu dàng!
(Phạm Lữ Ân, Nếu biết trăm năm là hữu hạn)
a. Chỉ ra một thành phần biệt lập và một phép liên kết được sử dụng trong văn bản.
b. Đoạn văn trên đề cập đến hiện tượng nào trong đời sống hiện đại của chúng ta?
c. Đừng chat, đừng email, đừng post lên Facebook, hãy chạy đến gặp nhau, hay ít nhất, hãy
nhấc điện thoại lên, thậm chí chỉ để gọi nhau một tiếng “…ơi” dịu dàng! Viết một đoạn văn
(khoảng 5-7 câu) nêu suy nghĩ của em về lời khuyên này.
Câu 2. (3,0 điểm)
Cuộc sống riêng không biết gì hết ở bên kia ngưỡng cửa nhà mình là một cuộc sống
224
nghèo nàn, dù nó có đầy đủ tiện nghi đến đâu đi nữa. Nó giống như một mảnh vườn được
chăm sóc cẩn thận, đầy hoa thơm, sạch sẽ và gọn gàng. Mảnh vườn này có thế làm chủ nhân
của nó êm ấm một thời gian dài, nhất là khi lớp rào bao quanh không còn làm họ vướng mắt
nữa. Nhưng hễ có một cơn dông tố nổi lên là cây cối sẽ bị bật khỏi đất, hoa sẽ nát và mảnh
vườn sẽ xấu xí hơn bất kì một nơi hoang dại nào. Con người không thể hạnh phúc với một
hạnh phúc mong manh như thế. Con người cần một đại dương mênh mông bị bão táp làm nổi
sóng nhưng rồi lại phẳng lì và trong sáng như trước.
(Theo A. L. Chéc-xen, Ngữ Văn 11, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2015, tr.31)
Hãy viết một bài văn ngắn trình bày suy nghĩ của em về vấn đề được gợi ra từ đoạn
trích trên.
Câu 3. (4,0 điểm)
Hình ảnh những người bà tần tảo, thương con, quý cháu giàu đức hi sinh thường trở về
trong kí ức của các nhà thơ thành mạch nguồn cảm xúc cho những vần thơ thể hiện niềm tri
ân chân thành và cảm động. Hãy trình bày cảm nhận của em về nội dung này qua các đoạn
trích sau:
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh: bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ, Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!” dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi
.... khi tôi biết thương bà thì đã muộn
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu, bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả, (Đò lèn – Nguyễn Duy)
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
- Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?...
(Bếp lửa, Bằng Việt)
ĐỀ 11
Câu 1. (3,0 điểm) Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi bên dưới:
Mặc dầu nước trên Trái Đất rất phong phú, nhưng nguồn nước con người có thể sử
dụng được lại không nhiều (97% là nước mặn, còn lại là nước ngọt có thể sử dụng). Lượng
nước ngọt có hạn tồn tại trong các băng đá, nguồn nước ngầm, nước trên bề mặt Trái Đất và
nước bốc hơi dưới dạng rắn, lỏng, khí. Nước ở ao hồ chiếm khoảng 0,68% tổng lượng nước
ngọt, là nguồn cung cấp nước chủ yếu cho thực vật, động vật và con người.
Trong khi đó, nguồn nước đang ngày càng ô nhiễm, lượng nước sạch mà con người có
thể sử dụng chỉ chưa bằng 0,003% tổng lượng nước trên Trái Đất. Điều này cho thấy nguồn
nước ngọt trên Trái Đất đang ngày càng khan hiếm.
(Theo Ôn Gia Thắng, Nguồn gốc của sự sống)
a. Chỉ ra một phép liên kết đoạn 1 và 2 được sử dụng
b. Nội dung đoạn văn cung cấp cho em những hiểu biết gì về thế giới tự nhiên? Chỉ ra phương
thức biểu đạt chính của đoạn văn.
c. "Điều này cho thấy nguồn nước ngọt trên Trái Đất đang ngày càng khan hiếm" nhắc nhở
chúng ta điều gì? Viết một đoạn văn (khoảng 5-7 câu) nêu suy nghĩ của em về lời nhắc nhở
đó.
Câu 2. (3,0 điểm)
Học sinh lớp 11 trường thị xã Quảng Trị - Phạm Huy với niềm đam mê sáng tạo khoa
học kĩ thuật dù bị gia đình ngăn cấm vì sợ em sao nhãng việc học hành. Vượt qua 1700 thí
sinh đến từ 70 quốc gia, Huy đã đạt giải ba với sản phẩm "Cánh tay robot cho người khuyết
tật" tại Cuộc thi Khoa học kĩ thuật Quốc tế 2017 (Intel ISEF) tổ chức tại Mỹ.
225
(Theo báo Thanh niên, ngày 13/05/2017)
Từ câu chuyện trên, hãy viết một bài văn ngắn trình bày suy nghĩ của em về tuổi trẻ và đam
mê.
Câu 3. (4,0 điểm)
Trình bày cảm nhận của em về vẻ đẹp anh bộ đội cụ Hồ thời kháng chiến chống Pháp
qua hai khổ thơ sau:

Quê hương anh nước mặn, đồng chua Lũ chúng tôi


Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Bọn người tứ xứ,
Anh với tôi đôi người xa lạ Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau. Quen nhau từ buổi "Một hai"
Súng bên súng, đầu sát bên đầu Súng bắn chưa quen,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ Quân sự mươi bài
Đồng chí! Lòng vẫn cười vui kháng chiến
(Đồng chí, Chính Hữu) Lột sắt đường tàu,
Rèn thêm đao kiếm,
Áo vải chân không,
Đi lùng giặc đánh.
(Nhớ – Hồng Nguyên)

ĐỀ 12
Câu 1. (3,0 điểm) Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi bên dưới:
Chúng ta đều biết: rừng núi có vai trò quan trọng đối với hệ sinh thái tự nhiên trên
Trái Đất cũng như sự sống của toàn nhân loại và các loài động vật, thực vật trên thế giới.
Ngày nay, các ngọn núi phải đối mặt với những nguy cơ bị sạt lở. Các nhà khoa học chỉ ra
rằng ngoại trừ yếu tố tự nhiên thì những tác động của con người gây ảnh hưởng rất lớn:nạn
chặt phá rừng tràn lan là một nhân tố quan trọng, sau khi chặt phá rừng, sườn núi bị phá
hoại nghiêm trọng, mưa lớn dễ gây xói mòn đất và lũ lụt, nếu bị động đất còn có thể xuất hiện
thêm các hiện tượng như lở núi, sạt núi.
Trên thế giới, mỗi năm xảy ra rất nhiều vụ sạt lở núi nghiêm trọng, làm thương vong
rất nhiều người. Trong khi đó, con người vẫn chưa hoàn toàn có ý thức bảo vệ rừng núi và
môi trường. Do đó, các bạn nhỏ, chúng ta hãy cùng nhau cố gắng trau dồi thật nhiều kiến
thức và phổ biến cho mọi người, góp sức mình bằng những hành động bảo vệ môi trường,
bảo vệ Trái Đất.
(Theo Ôn Gia Thắng, Những điều lý thú về Trái Đất)
a. Nêu phương thức biểu đạt chính của đoạn văn. Chỉ ra một phép liên kết đoạn 1 và đoạn 2
đã sử dụng.
b. Nội dung đoạn văn cung cấp cho em những hiểu biết gì về thế giới tự nhiên?
c. "các bạn nhỏ, chúng ta hãy cùng nhau cố gắng trau dồi thật nhiều kiến thức và phổ biến
cho mọi người, góp sức mình bằng những hành động bảo vệ môi trường, bảo vệ Trái Đất"
nhắc nhở chúng ta điều gì? Viết một đoạn văn (khoảng 5-7 câu) nêu suy nghĩ của em về lời
nhắc nhở đó.
Câu 2. (3,0 điểm)
Có một con kiến đang tha chiếc lá trên lưng. Chiếc lá lớn hơn con kiến gấp nhiều lần.
Đang bò, kiến gặp phải một vết nứt khá lớn trên nền xi măng. Nó dừng lại giây lát, đặt chiếc
lá ngang qua vết nứt, rồi vượt qua bằng cách bò lên trên chiếc lá. Đến bờ bên kia con kiến lại
tiếp tục tha chiếc lá và tiếp tục cuộc hành trình”
(Theo Hạt giống tâm hồn)
Viết một bài văn ngắn trình bày suy nghĩ của em về ý nghĩa của câu chuyện trên.

226
Câu 3. (4,0 điểm)
Nhà thơ Xuân Diệu có ý kiến cho rằng: "Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài".
Bằng sự cảm nhận của em về một bài thơ hay đã được học trong chương trình Ngữ văn lớp 9,
em hãy làm rõ nhận định trên.
ĐỀ 13
Câu 1. (3,0 điểm) Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi bên dưới:
ĐIỀU KIỆN SINH TRƯỞNG CỦA THỰC VẬT
Rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển, sinh trưởng của thực vật, đa số chia
thành nhân tố hình thành sản lượng và nhân tố đảm bảo sản lượng. Các yếu tố hình thành
sản lượng lại có thể chia thành: dưỡng chất, nước, khí hậu, nhiệt độ, ánh sáng và không gian.
Sáu yếu tố hình thành sản lượng này kết hợp với nhau, nâng cao sản lượng của thực vật trong
điều kiện có sự cân bằng giữa các yếu tố. Khi một yếu tố nào đó quá nhiều hoặc không đủ sẽ
đều ảnh hưởng đến sản lượng và chất lượng của thực vật. Yếu tố đảm bảo chất lượng chủ yếu
là việc trừ sâu, trừ cỏ dại, chúng đảm bảo cho sản lượng đã hình thành không bị giảm bớt vì
phải chịu những tổn thất không đáng có.
(Theo Ôn Gia Thắng, Những điều lý thú về Trái Đất)
a. Nêu phương thức biểu đạt chính của đoạn văn. Chỉ ra một phép liên kết được sử dụng trong
đoạn văn.
b. Nội dung đoạn văn cung cấp cho em những hiểu biết gì về sinh học?
c. Người ta thường ví việc trồng và chăm sóc cây cũng giống như chăm sóc, rèn nhân cách
con người. Từ câu cuối của đoạn văn "Yếu tố đảm bảo chất lượng chủ yếu là việc trừ sâu, trừ
cỏ dại, chúng đảm bảo cho sản lượng đã hình thành không bị giảm bớt vì phải chịu những
tổn thất không đáng có", em liên tưởng gì về quá trình hình thành nhân cách của giới trẻ. Viết
một đoạn văn (khoảng 5-7 câu) nêu suy nghĩ của em.
Câu 2. (3,0 điểm)
Sau tiếng còi kết thúc trận đấu của trọng tài người Oman vang lên, chốt tỉ số 2-1
nghiêng về U23 Uzbekistan, các cầu thủ U23 Việt Nam như gục đổ xuống sân tuyết trắng xóa
vì tiếc nuối. Và có những giọt nước mắt đã rơi. Nhưng họ dìu nhau đứng dậy, khoác lên vai lá
cờ đỏ sao vàng đầy tự hào, cúi chào người hâm mộ đã đặt nhiều kì vọng, đã tiếp nguồn sức
mạnh lớn lao. Trước khi cả đội rời sân, cầu thủ áo đỏ mang số 11 đã leo lên một đụn tuyết
cao nhất, cắm lá cờ Việt Nam rồi cúi mình chào lá cờ thiêng liêng. Được biết, Quốc kì Việt
Nam vẫn hiên ngang trên sân tuyết Thường Châu hơn một ngày sau đó. Hành động của trung
vệ người Hà Nội trên sân đấu Quốc tế (Trung Quốc) chiều ngày 27/01/2018 khiến tất cả mọi
người xúc động.
Từ nội dung của đoạn văn trên, em hãy viết một bài văn ngắn trình bày suy nghĩ của
em về lòng yêu nước và tinh thần tự tôn dân tộc của tuổi trẻ Việt nam ngày nay.
Câu 3. (4,0 điểm)
Nói về hình ảnh người phụ nữ trong XHPK, người ta hay nhắc đến bài thơ Bánh trôi
nước của Hồ Xuân Hương:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Có mối liên tưởng nào giữa bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương với Chuyện
người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ? Hãy viết bài văn trình bày suy nghĩ của em.

227

You might also like