You are on page 1of 8

CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG

(Trích “Truyền kì mạn lục” – Nguyễn Dữ)


I. Tác giả
– Nguyễn Dữ: (chưa rõ năm sinh, năm mất), quê ở Hải Dương.
– Nguyễn Dữ sống vào nữa đầu thế kỷ XVI, là thời kì triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng, các tập đoàn phong
kiến Lê, Mạc, Trịnh tranh giành quyền lực, gây ra những cuộc nội chiến kéo dài.
– Ông học rộng, tài cao nhưng chỉ làm quan một năm rồi cáo về, sống ẩn dật ở vùng núi Thanh Hóa. Đó là cách phản
kháng của nhiều trí thức tâm huyết đương thời.
II. Tác phẩm
1. Xuất xứ:
“Chuyện người con gái Nam Xương” là chuyện thứ 16 trong số 20 truyện nằm trong tác phẩm nổi tiếng nhất của
Nguyễn Dữ “Truyền kì mạn lục”. Truyện có nguồn gốc từ một truyện cổ dân gian trong kho tàng cổ tích Việt Nam
“Vợ chàng Trương”
2. Thể loại:
Truyện truyền kì mạn lục (ghi chép tản mạn những chuyện kì lạ vẫn được lưu truyền). Viết bằng chữ Hán.
Chủ đề: Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương. “Chuyện người con gái Nam Xương”
thể hiện niềm thương cảm đối với số phận oan nghiệt, đồng thời ca ngợi vẻ đẹp truyền thống của những người phụ
nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến.
3. Tóm tắt:
Vũ Thị Thiết (Vũ Nương) là người phụ nữ nhan sắc, đức hạnh. Chồng nang là Trương Sinh phải đi lính sau khi cưới
ít lâu. Nàng ở nhà, một mình vừa nuôi con nhỏ vừa chăm sóc mẹ chồng đau ốm rồi làm ma chu đáo khi bà mất.
Trương Sinh trở về, nghe lời con, nghi vợ thất tiết nên đánh đuổi đi. Vũ Nương uất ức gieo mình xuống sông Hoàng
Giang tự vẫn, được thần Rùa Linh Phi và các tiên nữ cứu. Sau đó trương Sinh mới biết vợ bị oan. Ít lâu sau Vũ
Nương gặp Phan Lang, người cùng làng chết đuối được Linh Phi cứu. Khi Lang trở về, Vũ Nương nhờ gửi chiếc hoa
vàng nhắn chàng Trương lập đàn giải oan cho nàng. Trương Sinh nghe theo, Vũ Nương ẩn hiện giữa dòng, nói vọng
vào bờ lời tạ từ rồi biến mất.
4. Bố cục: 3 đoạn
– Đoạn 1: … của mình: Cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương, sự xa cách vì chiến tranh và phẩm hạnh của
nàng trong thời gian xa cách
– Đoạn 2: … qua rồi: Nỗi oan khuất và cái chết bi thảm của Vũ Nương
– Đoạn 3: còn lại: Cuộc gặp gỡ giữa Vũ Nương và Phan Lang trong động Linh Phi. Vũ Nương được giải oan.
III. Giá trị nội dung của tác phẩm:
1. Giá trị hiện thực
– Chuyện phản ánh hiện thực xã hội phong kiến bất công với chế độ nam quyền, chà đạp lên số phận người phụ nữ
(Đại diện là nhân vật Trương Sinh).
– Phản ánh số phận con người chủ yếu qua số phận phụ nữ: chịu nhiều oan khuất và bế tắc.
– Phản ánh xã hội phong kiến với những cuộc chiến tranh phi nghĩa liên minh, làm cho cuộc sống của người dân
càng rơi vào bế tắc.
2. Giá trị nhân đạo
a. Ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam thông qua nhân vật Vũ Nương
Tác giả đặt nhân vật Vũ Nương vào những hoàn cảnh khác nhau để bộc lộ đời sống và tính cách nhân vật.
Ngay từ đầu, nàng đã được giới thiệu là “tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Chàng Trương cũng bởi
mến cái dung hạnh ấy, nên mới xin mẹ trăm lạng vàng cưới nàng về.
* Trong cuộc sống vợ chồng bình thường, nàng luôn giữ gìn khuôn phép nên dù chồng nàng đa nghi, đối với vợ
phòng ngừa quá sức nhưng gia đình chưa từng phải bất hòa.
* Khi tiễn chồng đi, Vũ Nương rót chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình nghĩa đằm thắm. Nàng chẳng dám
mong: vinh hiển mà chỉ cầu cho chồng “khi về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Vũ Nương cũng
thông cảm cho những nỗi gian lao, vất vả mà chồng sẽ phải chịu đựng. Và xúc động nhất là những lời tâm tình về nỗi
nhớ nung, trông chờ khắc khoải của mình khi xa chồng. Những lời văn từng nhịp, từng nhịp biến ngẫu như nhịp đập
trái tim nàng – trái tim người vợ trẻ khát khao yêu thương đang thổn thức lo âu cho chồng. Những lời đó thấm vào
lòng người, khiến ai cũng xúc động ứa hai hàng lệ.
* Rồi đến khi xa chồng, nàng càng chứng tỏ và bộc lộ nhiều phẩm chất đáng quý. Trước hết, nàng là người vợ hết
mực chung thủy với chồng. Nỗi nhớ chồng vò võ, kéo dài qua năm tháng. Mỗi khi thấy “bướm lượn đầy vườn” –
cảnh vui mùa xuân hay “mây che kín núi” – cảnh buồn mùa đông, nàng lại chặn “nỗi buồn bên góc bể chân trời nhớ
người đi xa”. Đồng thời, nàng là người mẹ hiền hết lòng nuôi dạy, chăm sóc, bù đắp cho đứa con trai nhỏ sự thiếu
vắng tình cha. Bằng chứng chính là chiếc bóng ở phần sau câu chuyện mà nàng vẫn bảo đó là cha Đản. Cuối cùng,
Vũ Nương còn bộc lộ đức tính hiếu thảo của người con dâu, tận tình chăm sóc mẹ chồng già yếu, ốm đau. Nàng lo
chạy chữa thuốc thang cho mẹ qua khỏi, thành tâm lễ bái thần phật, bởi yếu tố tâm linh đối với người xưa là rất quan
trọng. Nàng lúc nào cũng dịu dàng, “lấy lời ngọt ngào, khôn khéo, khuyên lơn”. Lời trăng trối cuối cùng của bà mẹ
chồng đã đánh giá cao công lao Vũ Nương đối với gia đình: “Xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng
phụ mẹ”. Thông thường, nhất là trong xã hội cũ, mối quan hệ mẹ chồng – con dâu là mối quan hẹ căng thẳng, phức
tạp. Nhưng trước người con dâu hết mực hiền thảo như Vũ Nương thì bà mẹ Trương Sinh không thể không yêu mến.
Khi bà mất, Vũ Nương đã “hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”. Có thể
nói, cuộc đời Vũ Nương tuy ngắn ngủi nhưng nàng đã làm tròn bổn phận của người phụ nữ, một người vợ thủy
chung, một người mẹ thương con, một người dâu hiếu tảo, ở bất kì một cương vị nào cũng làm rất hoàn hảo.
* Khi bị chồng nghi oan, nàng đã tìm mọi cách để xóa bỏ ngờ vực trong lòng Trương Sinh:
+ Ở lời nói đầu tiên, nàng nói đến thân phận mình, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm lòng chung thủy trong
trắng của mình. Cầu xin chồng đừng nghi oan, nghĩa là nàng đã cố gắng hàn gắn, cứi vãn hạnh phúc gia đình đang có
nguy cơ tan vỡ.
+ Ở lời thứ hai trong tâm trạng “bất đắc dĩ”, Vũ Nương bày tỏ nỗi thất vọng khi không hiểu vì sao bị đối xử tàn
nhẫn, bất công, không có quyền tự bảo vệ mình, thậm chí không có quyền được bảo vệ bởi những lời biện bạch,
thanh minh của hàng xóm láng giềng. Người phụ nữ của gia đình đã mất đi hạnh phúc gia đình, “thú vui nghi gia
nghi thất”. Tình cảm đơn chiếc thủy chung nàng gianh cho cồng đã phủ nhận không thương tiếc. Giờ đâu “bình rơi
trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa
đàn, nước thẳm buồn xa”, cả nỗi nhớ chờ chồng mà hóa đá trước đây cũng không còn. Vậy thì cuộc đời còn ý nghĩa
gì đối với người trẻ khát khao yêu thương ấy?
+ Chẳng còn gì cả, chỉ có nỗi thất vọng tột cùng, đau đớn bởi cuộc hôn nhân đã không còn cách nào hàn gắn nổi, mà
nàng thì phải chịu oan khuất tày trời. Bị dồn đến bước đường cùng, sau mọi cố gắng không thành, Vũ Nương chỉ còn
biết mượn dòng nước Hoàng Giang để rửa nỗi oan nhục. Nàng đã tắm gội chay sạch mong làn nước làm dịu đi tức
giận trong lòng khiến nàng suy nghĩ tỉnh đáo hơn để không hành động bồng bột. Nhưng nàng vẫn không thay đổi
quyết định ban đầu, bởi chẳng còn con đường nào khác cho người phụ nữ bất khuất cũng như đức hạnh của nàng.
Hành động trầm mình là hành động quyết liệt cuối cùng, chất chứa nỗi tuyệt vọng đắng cay nhưng cũng đi theo sự
chỉ đạo của lí trí.
+ Được các tiên nữ cứu, nàng sống dưới thủy cung và được đối xử tình nghĩa. Nàng hết sức cảm kích ơn cứu mạng
của Linh Phi và các tiên nữ cung nước. Nhưng nàng vẫn không nguôi nỗi nhớ cuộc sống trần thế – cuộc sống nghiệt
ngã đã đẩy nàng đến cái chết. Vũ Nương vẫn là người vợ yêu chồng, người mẹ thương con, vẫn nặng lòng nhung nhớ
quê hương, mộ phần cha mẹ, đồng thời vẫn khát khao được trả lại danh dự. Bởi vậy mà nàng đã hiện về khi Trương
Sinh lập đàn giải oan. Thế nhưng “cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ”, Vũ Nương không
quay trở về trần gian nữa.
Tóm lại: Vũ Nương là người phụ nữ xinh đẹp, nết na, hiền thục, lại đảm đang, tháo vát, phụng dưỡng mẹ chồng rất
mực hiếu thảo, một dạ thủy chung với chồng, hết lòng vun đắp cho hạnh phúc gia đình. Nàng là người phụ nữ hoàn
hảo, lý tưởng của mọi gia đình, là khuôn vàng thước ngọc của mọi người phụ nữ. Người như nàng xứng đáng được
hưởng hạnh phúc trọn vẹn, vậy mà lại phải chết oan uổng, đau đớn.
b. Vì sao Vũ Nương phải chết oan khuất? Từ đó em cảm nhận được điều gì về thân phận người phụ nữ dưới chế
độ phong kiến?
Những duyên cớ khiến cho một người phụ nữ đức hạnh như Vũ Nương không thể sống mà phải chết một cách oan
uổng:
– Nguyên nhân trực tiếp:
Do lời nói ngây thơ của bé Đản. Đêm đêm, ngồi buồn dưới ngọn đèn khuya, Vũ Nương thường “trỏ bóng mình mà
bảo là cha Đản”. Vậy nên Đản mới ngộ nhận đó là cha mình, khi người cha thật chở về thì không chịu nhận và còn
vô tình đưa ra những thông tin khiến mẹ bị oan.
– Nguyên nhân gián tiếp:
+ Do người chồng đa nghi, hay ghen. Ngay từ đầu, Trương Sinh đã được giới thiệu là người “đa nghi, đối với vợ
phòng ngừa quá sức”, lại thêm “không có học”. Đó chính là mầm mống của bi kịch sau này khi có biến cố xảy ra.
Biến cố đó là việc Trương Sinh phải đi lính xa nhà, khi về mẹ đã mất. Mang tâm trạng buồn khổ, chàng bế đứa con
lên ba đi thăm mộ mẹ, đứa trẻ lại quấy khóc không chịu nhận cha. Lời nói ngây thơ của đứa trẻ làm đau lòng chàng:
“Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia, chỉ nín thin thít” Trương
Sinh gạn hỏi đứa bé lại đưa thêm những thông tin gay cấn, đáng nghi: “Có một người đàn ông đêm nào cũng đến”,
“mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi”, “chẳng bao giờ bế Đản cả”. Những lời nói thật thà của con đã làm thổi
bùng lên ngọn lửa ghen tuông trong lòng Trương Sinh.
+ Do cách cư xử hồ đồ, thái độ phũ phàng, thô bạo của Trương Sinh. Là kẻ không có học, lại bị ghen tuông làm cho
mờ mắt, Trương Sinh không đủ bình tĩnh, sáng suốt để phân tích những điều phi lý trong lời nói con trẻ. Con người
độc đoán ấy đã vội vàng kết luận, “đinh ninh là vợ hư”. Chàng bỏ ngoài tai tất cả những lời biện bạch, thanh minh,
thậm chí là van xin của vợ. Khi Vũ Nương hỏi ai nói thì lại giấu không kể lời con. Ngay cả những lời bênh vực của
họ hàng, làng xóm cũng không thể cời bỏ oan khuất cho Vũ Nương. Trương Sinh đã bỏ qua tất cả những cơ hội để
cứu vãn tấn thảm kịch, chỉ biết la lên cho hả giận. Trương Sinh lúc ấy không còn nghĩ đến tình nghĩa vợ chồng, cũng
chẳng quan tâm đến công lao to lớn của Vũ Nương đối với gia đình, nhất là gia đình nhà chồng. Từ đây có thể thấy
Trương Sinh là hiện thân của chế độ nam quyền bất công, thiếu lòng tin và thiếu tình thương, ngay cả với người thân
yêu nhất.
+ Do cuộc hôn nhân không bình đẳng, Vũ Nương chỉ là “con nhà kẻ khó”, còn Trương Sinh là “con nhà hào phú”.
Thái độ tàn tệ, rẻ rúng của Trương Sinh đối với Vũ Nương đã phần nào thể hiện quyền thế của người giàu đối với
người nghèo trong một xã hội mà đồng tiền đã bắt đầu làm đen bạc thói đời.
+ Do lễ giáo hà khắc, phụ nữ không có quyền được nói, không có quyền được tự bảo vệ mình. Trong lễ giáo ấy, chữ
trinh là chữ quan trọng hàng đầu; người phụ nữ khi đã bị mang tiếng thất tiết với chồng thì sẽ bị cả xã hội hắt hủi, chỉ
còn một con đường chết để tự giải thoát.
+ Do chiến tranh phong kiến gây nên cảnh sinh ly và cũng góp phần dẫn đến cảnh tử biệt. Nếu không có chiến tranh,
Trương Sinh không phải đi lính thì Vũ Nương đã không phải chịu nỗi oan tày trời dẫn đến cái chết thương tâm như
vậy.
Tóm lại: Bi kịch của Vũ Nương là một lời tố cáo xã hội phong kiến xem trọng quyền uy của kẻ giàu có và của người
đàn ông trong gia đình, đồng thời bày tỏ niềm cảm thương của tác giả đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ.
Người phụ nữ đức hạnh ở đây không những không được bênh vực, trở che mà lại còn bị đối xử một cách bất công,
vô lý; chỉ vì lời nói thơ ngây của đứa trẻ và vì sự hồ đồ, vũ phu của anh chồng hay ghen tuông mà đến nỗi phải kết
liễu cuộc đời mình.
IV. Giá trị nghệ thuật:
1. Một số nét nghệ thuật đặc sắc của Chuyện người con gái Nam Xương
– Xây dựng tình huống truyện độc đáo, đặc biệt là chi tiết chiếc bóng. Đây là sự khái quát hoá tấm lòng, sự ngộ nhận
và sự hiểu lầm của từng nhân vật. Hình ảnh này hoàn thiện thêm vẻ đẹp nhân cách của Vũ Nương, đồng thời cũng
thể hiện rõ nét hơn số phận bi kịch của Vũ Nương nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung.
– Nghệ thuật dựng truyện. Dẫn dắt tình huống truyện hợp lý. Chi tiết chiếc bóng là đầu mối câu chuyện lại chỉ xuất
hiện một lần duy nhất ở cuối truyện, tạo sự bất ngờ, bàng hoàng cho người đọc và tăng tính bi kịch cho câu chuyện.
– Có nhiều sự sáng tạo so với cốt truyện cổ tích “Vợ chàng Trương” bằng cách sắp xếp thêm bớt chi tiết một cách
độc đáo.
– Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Nhân vật được xây dựng qua lời nói và hành động. Các lời trần thuật và đối thoại
của nhân vật sử dụng nhiều hình ảnh ước lệ nhưng vẫn khắc hoạ đậm nét và chân thật nội tâm nhân vật.
– Sử dụng yếu tố truyền kỳ (kỳ ảo) làm nổi bật giá trị nhân đạo của tác phẩm. Yếu tố kỳ ảo, hoang đường làm câu
chuyện vừa thực vừa mơ, vừa có hậu vừa không có hậu, làm hoàn chỉnh vẻ đẹp của Vũ Nương.
– Kết hợp các phương thức biểu đạt: Tự sự và biểu cảm làm nên một áng văn xuôi tự sự sống mãi với thời gian.
2. Ý nghĩa của chi tiết kỳ ảo
* Các chi tiết kỳ ảo trong câu chuyện:
– Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa.
– Phan Lang gặp nạn, lạc vào động rùa, gặp Linh Phi, được cứu giúp; gặp lại Vũ Nương, được sứ giả của Linh Phi rẽ
đường nước đưa về dương thế.- Vũ Nương hiện về trong lễ giải oan trên bến Hoàng Giang giữa lung linh, huyền ảo
rồi lại biến đi mất.
* Cách đưa các chi tiết kỳ ảo:
– Các yếu tố này được đưa vào xen kẽ với những yếu tố thực về địa danh, về thời điểm lịch sử, những chi tiết thực về
trang phục của các mỹ nhân, về tình cảnh nhà Vũ Nương không người chăm sóc sau khi nàng mất… Cách thức này
làm cho thế giới kỳ ảo lung linh, mơ hồ trở nên gần với cuộc đời thực, làm tăng độ tin cậy, khiến người đọc không
cảm thấy ngỡ ngàng.
* Ý nghĩa của các chi tiết kỳ ảo:
– Cách kết thúc này làm nên đặc trưng của thể loại truyện truyền kỳ.
– Làm hoàn chỉnh thêm nét đẹp vốn có của Vũ Nương: nặng tình, nặng nghĩa, quan tâm đến chồng con, phần mộ tổ
tiên, khao khát được phục hồi danh dự.
– Tạo nên một kết thúc phần nào có hậu cho câu chuyện.
– Thể hiện về ước mơ, về lẽ công bằng ở cõi đời của nhân dân ta.
– Chi tiết kỳ ảo đồng thời cũng không làm mất đi tính bi kịch của câu chuyện. Vũ Nương trở về mà vẫn xa cách ở
giữa dòng bởi nàng và chồng con vẫn âm dương chia lìa đôi ngả, hạnh phúc đã vĩnh viễn rời xa. Tác giả đưa người
đọc vào giấc chiêm bao rồi lại kéo chúng ta sực tỉnh giấc mơ – giấc mơ về những người phụ nữ đức hạnh vẹn toàn.
Sương khói giải oan tan đi, chỉ còn một sự thực cay đắng: nỗi oan của người phụ nữ không một đàn tràng nào giải
nổi. Sự ân hận muộn màng của người chồng, đàn cầu siêu của tôn giáo đều không cứu vãn được người phụ nữ. Đây
là giấc mơ mà cũng là lời cảnh tỉnh của tác giả. Nó để lại dư vị ngậm ngùi trong lòng người đọc và là bài học thấm
thía về giữ gìn hạnh phúc gia đình.

ĐỀ 1: PHÂN TÍCH NHÂN VẬT VŨ NƯƠNG TRONG TÁC PHẨM ‘‘CHUYỆN NGƯỜI
CON GÁI NAM XƯƠNG’’ CỦA NGUYỄN DỮ
I. Mở bài
Cách 1:
Nguyễn Dữ là một trong những cây đại thụ lớn của nền văn học trung đại Việt Nam. Nếu như “Truyện Kiều” của
Nguyễn Du là đỉnh cao rực rỡ của thể loại truyện Nôm thì “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ
được coi là kiệt tác của thể loại truyện, được đánh giá là “áng thiên cổ tùy bút”. Đến với “Chuyện người con gái Nam
Xương”, người đọc cảm nhận được nhân vật Vũ Nương một người phụ nữ có nhan sắc, đức hạnh, nết na nhưng lại
chịu số phận vô cùng bất hạnh, oan nghiệt, khiến người đọc không khỏi day dứt ám ảnh về cuộc đời của người thiếu
phụ Nam Xương.
Cách 2:
Nguyễn Dữ là một trong những tên tuổi nổi tiếng của văn học trung đại Việt Nam. Nhắc đến ông chúng ta không
thể không nhắc đến “áng Thiên cổ kì bút” – “Truyền kì mạn lục” với 20 truyện ngắn bằng chữ Hán viết về hai nguồn
cảm hứng lớn: người phụ nữ và người trí thức. Về đề tài người phụ nữ trong tập truyện ấn tượng nhất chính là
“Chuyện người con gái Nam Xương”. Nhân vật chính của truyện là Vũ Nương – một phụ nữ xinh đẹp, nết na, người
vợ thủy chung, người mẹ đảm đang, người con dâu hiếu thảo nhưng lại phải chịu nỗi oan khuất nặng nề buộc phải
tìm đến cái chết.
Cách 3:
Hình tượng người phụ nữ luôn là một đề tài hấp dẫn trong văn học. Đó là đề tài đã lấy đi rất nhiều tình cảm và
nước mắt của biết bao nhiêu thi nhân, văn nhân trong lịch sử văn học nước nhà. Ta đã từng thổn thức với nàng Kiều -
một người con gái đẹp nghiêng nước nghiêng thành nhưng cuộc đời lại ngang trái trong thơ Nguyễn Du. Ta cũng
từng phải ngạc nhiên với người phụ nữ ngang tàng, bản lĩnh trong thơ Hồ Xuân Hương. Và thật xúc động biết bao
khi một lần nữa ta lại được thương, được khóc cho một Vũ Nương đẹp người đẹp nết nhưng số phận lại đầy rẫy nỗi
oan khiên trong “Chuyện người con gái Nam Xương’’.
II. Thân bài
1.Khái quát chung
- “Chuyện người con gái Nam Xương” có nguồn gốc từ chuyện kể dân gian: Vợ chàng Trương, là thiên thứ 16 trong
tổng số 20 truyện của “Truyền kì mạn lục”. Nhân vật chính trong tác phẩm là Vũ Nương, một người phụ nữ trung
trinh, tiết hạnh, đẹp người, đẹp nết nhưng lại bị chồng nghi oan thất tiết. Do không có cơ hội để minh oan, giãi bày,
Vũ Nương đành phải nhảy sông tự tử để chứng minh sự trong sạch của mình. Kết thúc truyện là hình ảnh Vũ Nương
hiện về thấp thoáng lúc ẩn, lúc hiện giữa lòng sông nói lời tạ từ rồi biến mất. Đó là bi kịch của rất nhiều những người
phụ nữ bất hạnh khi mà hạnh phúc gia đình chính là chỗ dựa vững chắc cho họ, giờ đây đã tan thành mây khói, mất
đi chỗ dựa cuộc sống, họ lâm vào bi kịch và cái chết là con đường giải thoát duy nhất để họ kết thúc bi kịch của
chính mình. Vì thế, truyện không đơn thuần dừng lại ở sự phản ánh hiện thực mà còn tố cáo hiện thực, nói lên niềm
khao khát hạnh phúc của người phụ nữ trong một xã hội công bằng, văn minh.
2. Phân tích nhân vật Vũ Nương
* Vũ Nương là một người phụ nữ đẹp người, đẹp nết
- Trước hết, Vũ Nương là một người con gái đẹp người, đẹp nết, đại diện cho vẻ đẹp của người phụ nữ thời kì phong
kiến. Ngay từ đầu truyện Vũ Nương đã được giới thiệu “tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”.
- Trong xã hội phong kiến, một người phụ nữ đẹp phải hội tụ đủ các yếu tố: “ tam tòng, tứ đức”, “công, dung, ngôn,
hạnh”. Trong đó, ‘‘dung’’ chính là vẻ bề ngoài của nàng mà Trương Sinh đã xin mẹ “đem 100 lạng vàng cưới về’’.
Chi tiết này đã tô đậm vẻ đẹp nhan sắc và phẩm chất của nàng. Sau đó, nhà văn tập trung làm nổi bật vẻ đẹp đức
hạnh của nàng, bằng việc đặt Vũ Nương vào rất nhiều hoàn cảnh, tình huống và các mối quan hệ xung quanh như với
chồng, với mẹ chồng và với đứa con trai tên là Đản.
*Trong mối quan hệ với mẹ chồng, nàng là người con dâu hiếu thảo.
- Vũ Nương trong mối quan hệ với mẹ chồng là một người con dâu hiếu thảo. Chồng đi lính, ở nhà nàng thay chồng
làm tròn bổn phận, trách nhiệm của một người con dâu thảo. Chăm sóc mẹ chồng khi già yếu, ốm đau. “Nàng hết
sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khuyên lơn”.
- Khi mẹ chồng mất, nàng hết lòng thương xót, lo liệu ma chay chu đáo như cha mẹ đẻ mình. Lời trăng trối của bà
mẹ chồng trước khi mất đã khẳng định lòng hiếu thảo, tình cảm chân thành và công lao to lớn của Vũ Nương: “
Xanh kia quyết chẳng phụ nàng cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Nguyễn Dữ đã để cho bà mẹ chồng nhận xét về sự
hiếu thảo của Vũ Nương. Đó là sự đánh giá xác đáng và khách quan nhất. Điều đó đã cho thấy nhân cách và công lao
to lớn của Vũ Nương đối với gia đình nhà chồng.
*Trong mối quan hệ với con: Nàng là người mẹ yêu thương con hết mực.
- Trong mối quan hệ với con Vũ Nương là người mẹ yêu thương con hết mực. Thiếu vắng chồng, nàng một mình
nuôi dạy con khôn lớn. Nàng không chỉ đóng vai trò là một người mẹ, nàng còn đóng vai trò là một người cha hết
lòng yêu thương con, không để con phải thiếu thốn tình cảm. Bé Đản sinh ra chưa biết mặt cha, lo con thiếu thốn tình
cảm của cha nên nàng thường chỉ vào cái bóng của mình trên vách và bảo là cha Đản.
=> Nàng không chỉ hoàn thành tốt trách nhiệm của một người vợ, người con, người mẹ, người cha mà còn là một
người trụ cột của gia đình. Nàng xứng đáng được hưởng những gì hạnh phúc, tuyệt vời nhất. Thế nhưng trớ trêu thay
hạnh phúc đã không mỉm cười với nàng. Đó là khi Trương Sinh sau ba năm đi lính trở về, bé Đản không chịu nhận
cha, nghe lời nói của con “Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản
ngồi cũng ngồi, những chẳng bao giờ bế Đản cả”, Trương Sinh nhất nhất cho rằng nàng không chung thủy, mất nết
hư thân.
*Trong mối quan hệ với chồng: Nàng là người vợ thủy chung, yêu thương chồng hết mực.
- Trong mối quan hệ với chồng, nàng hiện lên là một người vợ nhất mực thủy chung, yêu thương chồng tha thiết.
Trong cuộc sống vợ chồng bình thường, nàng hiểu tính chồng có thói đa nghi, thường đề phòng vợ quá mức nên Vũ
Nương luôn cư xử khéo léo, đúng mực, giữ đúng khuôn phép, không bao giờ để xảy ra nỗi bất hòa trong gia đình. Vì
thế, nàng là người phụ nữ hiểu chồng, biết mình và rất đức hạnh.
- Khi chồng chuẩn bị đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy và dặn dò chồng bằng những lời nói đầy nghĩa tình, thắm
thiết “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày
về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Điều đó cho thấy nàng không mong vinh hiển, chỉ cần chồng
mang về hai chữ “bình yên”. Ở nhà, Vũ Nương nhớ thương chồng da diết. Mỗi khi thấy “bướm lượn đầy vườn, mây
che kín núi” nàng lại cảm thấy “thổn thức tâm tình”, nhớ thương chồng nơi biên ải xa xôi.
- Qua tâm trạng bâng khuâng, nhớ thương, đau buồn của Vũ Nương, Nguyễn Dữ vừa cảm thông vừa ça ngợi tấm
lòng son sắc, thủy chung của nàng. Và nỗi nhớ ấy, tâm trạng ấy cũng chính là tâm trạng chung của những người phụ
nữ trong thời loạn lạc, chiến tranh. Sau 3 năm chinh chiến xa cách, Trương Sinh bình yên trở về, cứ ngỡ Vũ Nương
sẽ được hưởng hạnh phúc. Không ai ngờ, chỉ vì hiểu lầm lời con trẻ ‘‘thế ra ông cũng là cha tôi ư…’’, một mực
khăng khăng cho rằng nàng thất tiết. Vũ Nương đã khóc và phân trần khi bị chồng nghi oan: “Cách biệt ba năm giữ
gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”, lại thêm hàng xóm biện
bạch nhưng Trương Sinh vẫn mắng nhiếc đuổi đi. Vũ Nương rơi vào cảnh cùng đường, tuyệt vọng. Tình yêu giờ đây
của nàng được cụ thể bằng những hình ảnh ước lệ: “bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn
trước gió’’.
- Mặc dù Vũ Nương đã cố gắng giải thích lại thêm hàng xóm bênh vực cho nàng nhưng mối nghi ngờ vợ của Trương
Sinh không có gì gỡ ra được. Không thể chứng minh cho sự trong sạch của mình, Vũ Nương đã ra bến Hoàng Giang
nói những lời cuối cùng rồi tự tử. Chỉ có cái chết mới chứng minh được phẩm giá và lòng chung thủy của Vũ Nương.
Cái chết của Vũ Nương đã cho thấy trong xã hội phong kiến bất công, tàn bạo, người phụ nữ không có quyền tự
quyết định hạnh phúc và cuộc đời của mình dù đó là người xinh đẹp, phẩm hạnh. Chính những quan niệm hẹp hòi,
bất bình đẳng, trọng nam khinh nữ cùng với chiến tranh phi nghĩa đã đẩy người phụ nữ đến cùng đường, tuyệt vọng.
Tác giả đã đặt nhân vật vào những hoàn cảnh, tình huống, mối quan hệ khác nhau để khắc họa đậm nét hình ảnh
nhân vật Vũ Nương đảm đang, hiếu thảo, thủy chung, đặc biết rất coi trọng danh dự, phẩm giá.
Nguyên nhân dẫn tới cái chết oan nghiệt của Vũ Nương trước hết là do chi tiết cái bóng và những lời nói ngây thơ
của bé Đản khiến chồng nàng nảy sinh nghi ngờ. Nhưng nguyên nhân sâu sa đằng sau đó là từ người chồng Trương
Sinh đa nghi, thô bạo. Ngay từ đầu truyện, tác giả đã giới thiệu Trương Sinh là “con nhà hào phú nhưng không có
học”, lại có tính đa nghi, đối với vợ thì hay phòng ngừa quá mức, thiếu cả lòng tin với người tay ấp má kề với mình.
Đó chính là mầm mống của bi kịch để rồi trong hoàn cảnh đi lính ba năm xa nhà, xa vợ, thói ghen tuông, ích kỉ của
bản thân chàng nổi lên và gián tiếp ‘‘giết chết’’ người vợ của mình. Đồng thời do chế độ phong kiến hà khắc, nam
quyền độc đoán đã dung túng cho thói gia trưởng của người đàn ông, cho phép người đàn ông có thể đối xử tệ bạc
với người phụ nữ của mình. Và người phụ nữ không có quyền được lên tiếng, không có quyền tự bảo vệ bản thân.
Tất cả đã đẩy Vũ Nương - người phụ nữ thời phong kiến vào con đường bi kịch, phá tan hạnh phúc gia đình, dồn đẩy
nàng vào con đường cùng không lối thoát.
- Cuối truyện, tác giả đã kết hợp những chi tiết hiện thực với yếu tố hoang đường, kì ảo. Vũ Nương hiện về thấp
thoáng trên chiếc kiệu hoa giữa dòng, nàng nói lời từ biệt Trương Sinh rồi biến mất. Đây là những chi tiết, hình ảnh
thể hiện sự sáng tạo của Nguyễn Dữ, giúp tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi, đời thường, vừa lung linh,
huyền ảo.
3. Đánh giá, mở rộng
Qua hành động, cử chỉ, lời nói của nhân vật; qua chi tiết nghệ thuật mang màu sắc kì ảo ở cuối tác phẩm, nhà văn đã
miêu tả, tái hiện số phận bất hạnh, bi kịch, đồng thời ca ngợi phẩm chất tốt đẹp ở người phụ nữ. Đặc sắc trong việc
sử dụng yếu tố kì ảo đã làm hoàn chỉnh, tô đậm nét đẹp vốn có của Vũ Nương. Qua cuộc đời của nhân vật, người đọc
cũng cảm nhận được tình cảm của nhà văn dành cho người phụ nữ hồng nhan bạc phận trong xã hội phong kiến bất
công.

III. Kết bài


“Chuyện người con gái Nam Xương” là một áng văn hay thành công về mặt dựng truyện, khắc hoạ nhân vật, kết
hợp phương thức tự sự và trữ tình, hiện thực và lãng mạn. Truyện đã khơi gợi trong lòng người đọc không ít những
tình cảm đẹp. Nó khiến ta thêm cảm phục trước tài năng của nhà văn, thêm trân trọng, yêu mến những người phụ nữ
trong XHPK. Từ một chiếc bóng oan khiên tác phẩm đã gợi ra biết bao điều chúng phải suy ngẫm về đạo vợ chồng,
về cách hành xử trong cuộc sống, về nhân cách, về cuộc đời con người.

======================================================
ĐỀ 2: CẢM NHẬN VỀ SỐ PHẬN BI KỊCH CỦA VŨ NƯƠNG QUA TRUYỆN NGẮN
‘‘NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG’’ CỦA NGUYỄN DỮ

“Đau đớn thay phận đàn bà


Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
(“Truyện Kiều” – Nguyễn Du)
Xuyên suốt chiều dài của triền đê mang tên “Văn học”, ta bắt gặp hình ảnh người phụ nữ dẫu có “quốc sắc thiên
hương” đến đâu, có phẩm hạnh hoàn mỹ và tài năng hơn người đi chăng nữa thì số kiếp và hạnh phúc của họ vẫn bị
vùi dập tả tơi bởi những định kiến của một xã hội hoen ố và mục ruỗng, những tục lệ “trọng nam khinh nữ”. Bằng
ngòi bút mang cái “hồn” của riêng mình, Nguyễn Dữ đã khiến trái tim người đọc muôn đời không khỏi tiếc thương
khi nhớ về số phận bi ai của Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương”. Là câu chuyện thứ 16 của
“Truyền kì mạn lục”, “Chuyện người con gái Nam Xương” từ một sự tình có thật trong dân gian, đã được Nguyễn
Dữ thể hiện thật tài tình, trọn vẹn vẻ đẹp của Vũ Nương. Nàng thật sự là một người phụ nữ hoàn mỹ, đẹp người đẹp
nết, làm tròn bổn người vợ, người mẹ và nàng dâu thảo. Vũ Nương là khuôn vàng, thước ngọc của người phụ nữ,
nàng xứng đáng sống trong hạnh phúc và vui vẻ, nhưng lại phải chịu nỗi oan khuất nặng nề, khiến nàng buộc phải
tìm đến cái chết.
Vũ Nương phải gánh chịu nỗi dày vò cả về thể xác lẫn tinh thần. Trước cảnh đất nước binh đao loạn lạc, phu quân
phải đi đến nơi biên ải xa xôi, trách nhiệm đè nặng trên đôi vai nhỏ bé của người thiếu phụ. Nàng thầm lặng mà sinh
con ra, rồi lại một mình tần tảo nuôi nấng, dạy dỗ con thơ. Biết mẹ chồng đau ốm vì nhớ thương con, nàng tận tâm
tận tụy chăm sóc, “hết sức thuốc thang, lễ bái và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn’’. Khi mẹ chồng vĩnh biệt
thế gian nàng cũng hết lòng xót thương, lo liệu ma chay tế lễ như đối với cha mẹ ruột. Một mình Vũ Nương đảm
đương tất cả, nàng vừa là mẹ, là dâu con. Nàng lo toan mọi việc lớn nhỏ như “một đấng nam nhi” duy nhất trong gia
đình.. Nàng khắc khoải nhớ nhung Trương Sinh “thổn thức tâm tình thương người đất thú”. Vũ Nương ngày ngày đợi
chờ, ngóng trông đến thổn thức. Hình ảnh “bướm lượn đầy vườn” vốn gợi cho ta một khung cảnh đẹp, cũng rất mơ
hồ hay “mây che kín núi” thơ mộng nhưng cũng man mác. Giống như tâm trạng của nàng bấy giờ, lệ sầu phủ kín tâm
can, nỗi buồn “không thể nào ngăn được”.
Vũ Nương phải chịu sự ràng buộc của lễ giáo khắc khe, ngặt nghèo, chấp nhận cuộc hôn nhân với Trương Sinh.
Nàng không có quyền lựa chọn khi xã hội phong kiến vẫn có đó tư tưởng “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”. Chàng xin
mẹ trăm lạng vàng để cưới nàng bởi thế đồng tiền đã phát huy uy lực của nó khiến Vũ Nương luôn sống trong mặc
cảm “con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”. Còn Vũ Nương, nàng nương tựa vào Trương Sinh cũng vì cái thú vui
“nghi gia nghi thất”. Chính bức tường vô hình mang tên “giàu – nghèo” đã đàn áp quyền lợi của người phụ nữ và là
cái thế để Trương Sinh mặc nhiên đối xử vũ phu, tàn bạo với nàng.
Trở về sau ba năm cách biệt, ngỡ đâu hạnh phúc sẽ gõ cửa gia đình nàng. Thế nhưng, chính vì thói đa nghi và ghen
tuông che mờ lí trí, Trương Sinh mù quáng tin vào những lời nói ngây thơ của bé Đản mà đinh ninh phán cho Vũ
Nương cái danh “vợ hư”. Trương Sinh bỏ ngoài tai những lời khuyên can của mọi người và cũng chẳng thèm đếm
xỉa tới lời biện bạch của nàng. Rồi từ chỗ “la um lên cho hả giận”, chàng đã nhẫn tâm mắng nhiếc và đánh đuổi vợ
đi. Phải chăng xã hội phong kiến với chế độ nam quyền độc đoán, bất công và tàn bạo, với thói “trọng nam khinh
nữ” đã dung túng cho phép người người đàn ông được quyền coi thường, rẻ rúng, mặc nhiên định đoạn thậm chí
giẫm đạp lên quyền sinh, quyền tử và phẩm giá cao quý của người vợ. Vũ Nương đức hạnh, ngoan hiền vậy mà lại
phải mang bản án ô nhục, nhuốc nhơ “hư thân mất nết”. Thuở xưa, nàng Thị Kính còn biết ngọn nguồn nỗi oan khuất
của mình. Còn Vũ Nương, đến khi gieo mình xuống đáy sông nàng vẫn chẳng hiểu vì sao lại bị người từng đầu ấp
tay gối với mình mắng nhiếc và đánh đuổi đi. Nỗi oan của nàng thấu tận trời xanh vậy mà nàng cũng chẳng được
quyền phản kháng, bảo vệ chính mình.
Với Vũ Nương, “cái thú vui nghi gia nghi thất” chính là lí tưởng, mục đích sống và tồn tại của nàng. Để rồi khi điểm
tựa ấy bị vùi dập tả tơi bởi nỗi oan thất tiết “Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn
trước gió, khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồn xa, đâu còn có thể lại lên núi
Vọng Phu kia nữa”. Với hàng loạt những hình ảnh ước lệ ngụ ý chỉ sự lụi tàn, thê lương của mối nhân duyên đổ vỡ
đã lột tả thành công nỗi thất vọng, ê chề, đau đáu xâm chiếm cõi lòng của nàng. Vũ Nương quyết định trầm mình
xuống sông Hoàng Giang để rửa sạch nỗi oan khuất, giải bày tấm lòng ngay thẳng, tấm thân trinh bạch của mình. Cái
chết của Vũ Nương thực chất là do bị chồng bức tử, vậy mà Trương Sinh cũng chẳng một chút động lòng hay ân hận,
day dứt. Rõ ràng chính xã hội cũ đã sinh ra biết bao nhiêu Trương Sinh với thói độc đoán là nguyên nhân của những
khổ đau mà người phụ nữ phải gánh chịu.
Vũ Nương còn là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa, “sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa
binh”. Chiến tranh loạn lạc đã đẩy gia đình nàng vào cảnh li tán, vợ chồng xa cách đôi người hai ngả. Ngày qua ngày,
niềm tin dành cho nhau cứ thế mà kiệt quệ, dẫn đến hiểu lầm. Có lẽ, trận chiến chính là cửa ải thử thách tình yêu và
niềm tin của Trương Sinh dành cho vợ. Và chàng đã thất bại, mù quáng nghĩ oan và vu khống cho Vũ Nương. Rõ
ràng, chiến tranh phong kiến chính là ngòi nổ tiếp tay cho những bi kịch, giông bão trong cuộc đời người phụ nữ bất
hạnh ấy.
Ở chốn “làng mây cung nước” nàng được sống một cuộc đời bất tử và sung sướng, một cuộc đời mà biết bao người
trần mắt thịt mong ước. Thế nhưng, Vũ Nương chẳng hề tận hưởng kiếp sống ấy và nàng cũng chẳng thể chạm tay
đến thứ hạnh phúc thật sự. Bởi vì nàng “bất tử” nên nỗi nhớ gia đình cứ đeo đẳng nàng mãi. Nỗi đau đáu ấy trở thành
một vết sẹo trong tim nàng mà chẳng có một hào nhoáng xa hoa nào có thể chữa khỏi. Bên cạnh đó, sự trở về của Vũ
Nương trên sông Hoàng Giang rất lộng lẫy nhưng lại ở rất xa, rất mơ hồ “lúc ẩn lúc hiện” và “chỉ trong phút chốc”.
Cảnh đoàn tụ chỉ là ảo ảnh nhanh chóng tan biến. Còn việc Vũ Nương “chẳng thể trở về nhân gian được nữa”, nỗi
khổ đau li biệt cho cả gia đình nàng, lứa đôi chia lìa hai cõi âm – dương là sự thật, là mãi mãi. Với kết thúc không
trọn vẹn, Nguyễn Dữ đã cho thấy một quan niệm rằng hạnh phúc khó có, khó giữ mà đã đổ vỡ rồi thì sẽ chẳng thể
nào hàn gắn lại được, như bát nước đã đổ đi thì chẳng thể vớt lại cho đầy.
Khép lại những trang viết thăng trầm của “Chuyện người con gái Nam Xương”, ta không khỏi thán phục trước những
đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm. Tác giả xây dựng tình huống truyện bất ngờ là lời nói ngây thơ của bé Đản, hình
ảnh “chiếc bóng” vô tri vô giác đã đẩy đưa số kiếp của Vũ Nương rơi vào vực sâu bi kịch, gia đình chịu cảnh chia lìa
tang thương. Tác phẩm không kể lại câu chuyện một cách khô khan và cứng nhắc mà là sự chung hòa giữa tự sự và
trữ tình, kết hợp với những yếu tố hoang đường kì ảo. Đây là cách thức kể chuyện độc đáo, dẫn lối người đọc dấn
thân vào các tình tiết.
“Chuyện người con gái Nam Xương” thấm đẫm giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Qua số phận và cuộc đời của
Vũ Nương, tác giả đã phản ánh kiếp sống bi thương của những người phụ nữ trong xã hội cũ. Đồng thời, tác phẩm
còn là tiếng kêu đanh thép lên án chế độ phong kiến với thói trọng nam khinh nữ, chồng chúa vợ tôi đầy bất công.
Truyện còn tố cáo chiến tranh loạn lạc, phi nghĩa gây ra bao đau thương, tan vỡ cho những mái ấm gia đình. Trang
truyện đã cho ta thấy cái tài cái tâm của người nghệ sĩ, niềm cảm thương sâu sắc của tác giả trước những phận đời
“hồng nhan đa truân”, quẫn quanh trong bi kịch nối tiếp bi kịch.

======================================================

You might also like