You are on page 1of 5

Chuyện người con gái Nam Xương

LUẬN ĐIỂM 1: KHÁI QUÁT TÁC GIẢ TÁC PHẨM


+ Nguyễn Dữ là nhà văn xuất sắc của nền văn học trung đại thế kỉ XVI. Ông là người học
rộng tài cao nhưng làm quan một năm rồi về quê ở. Với tập truyện “Truyền kì mạn lục” ông
đã thực sự mang đến cho nền văn học trung đại một thiên cổ kì bút. Tiêu biểu trong đó phải
kể đến là “Chuyện người con gái Nam Xương” - văn bản có nguồn gốc từ một cốt truyện cổ
tích Việt Nam “Vợ chàng Trương”. Chuyện kể về nàng Vũ Thị Thiết – người con gái quê ở
Nam Xương, tính tình thuỳ mị nết na, tư dung tốt đẹp nhưng lấy phải người chồng là Trương
Sinh – vốn là con nhà giàu nhưng thất học và có tính đa nghi. Ít lâu sau, chiến tranh loạn lạc
diễn ra, Trương Sinh phải đi lính. Chồng đi vừa đầy tuần, nàng hạ sinh được một đứa con trai
đặt tên là Đản. Nàng ở nhà nuôi con và phụng dưỡng mẹ chồng. Rồi người mẹ chồng cũng
qua đời, nàng lo ma chay tử tế. Hết chiến tranh, Trương Sinh trở về bồng con ra thăm mộ mẹ.
Chỉ vì lời nói ngây thơ của đứa trẻ, chàng quay về nhục mạ và đuổi nàng đi vì cho rằng nàng
không chung thủy. Vì nỗi oan không được giãi bày, nàng nhờ dòng sông Hoàng Giang rửa
sạch mối oan tình. Sau chàng hiểu nỗi oan của vợ nhưng tất cả đã muộn màng. Tác giả
Nguyễn Dữ thương cảm với số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến nên có sự sáng
tạo với những chi tiết kì ảo để đem đến cái kết có hậu hơn hơn cho Vũ Nương. Câu chuyện
về Vũ Nương khiến bạn đọc không khỏi xót xa. Bên cạnh đó, đọng lại nơi chúng ta còn là vẻ
đẹp đáng mến, đáng trọng của nàng - một người phụ nữ nết na, hiền thục, đảm đang, tháo vát
và giàu lòng tự trọng.

LUẬN ĐIỂM 2: PHÂN TÍCH VẺ ĐẸP NHÂN VẬT VŨ NƯƠNG

+ Trước tiên, nhân vật Vũ Nương được khắc họa là một người phụ nữ xinh đẹp, có ngoại
hình đáng mến. Ấn tượng của bạn đọc ngay từ những dòng đầu tiên của truyện đó là những
miêu tả ngắn gọn nhưng cũng rất cụ thể về Vũ Nương: “Vũ Thị thiết, người con gái quê ở
Nam Xương, tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Dung mạo của Vũ Nương hẳn
là xinh đẹp, dịu dàng. Và cũng chính dung mạo ấy góp phần khiến cho con nhà hào phú như
Trương Sinh đem lòng yêu mến và cưới nàng về làm vợ. Nhà văn Nguyễn Dữ đã khéo léo
gợi mở vẻ đẹp của Vũ Nương qua thái độ của Trương Sinh, từ đó góp phần làm hoàn thiệ n
hơn vẻ đẹp của người con gái
+ Ấn tượng sâu sắc nhất trong lòng bạn đọc về nhân vật Vũ Nương chính là những phẩm chất
tốt đẹp của nàng. Có người cho rằng Vũ Nương là “khuôn vàng thước ngọc” của người phụ
nữ trong xã hội phong kiến quả không sai, bởi nàng rất đoan trang, thùy mị. Không chỉ được
giới thiệu là người con gái “tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”, được tác giả tập
trung nhấn mạnh về phẩm hạnh vẹn toàn, Vũ Nương còn rất khéo léo, khiêm nhường trong
cách ứng xử, nói năng. Sự khéo léo, đoan trang, dịu dàng của Vũ Nương đã trở thành ngọn
lửa giữ cho hạnh phúc gia đình luôn ấm nồng, gắn bó. Những lời nói của nàng trong mỗi
hoàn cảnh khác nhau đều được tác giả Nguyễn Dữ dụng công xây dựng với nhiều điển tích,
điển cố, nhịp điệu và giọng điệu hết sức ý nhị, thể hiện sự hiểu biết và phẩm chất đoan
trang,thùy mị của người phụ nữ.
+Vẻ đẹp phẩm chất của Vũ Nương được bộc lộ rõ trong các mối quan hệ. Trước tiên chính là
sự hiếu thảo với mẹ chồng. Trong ba năm chồng đi chinh chiến, Vũ Nương đã thay Trương
Sinh làm tròn bổn phận của người con đối với gia đình. Khi mẹ chồng ống, nàng đã “hết sức
thuốc thang, lễ bái thần phật, dùng lời ngọt ngào, khôn khéo khuyên lơn”. Nàng tìm đủ mọi
cách để mẹ vơi bớt đi nỗi nhớ thương con và mau chóng hồi phục sức khỏe. Đến khi bà mất,
nàng hết lời thương xót, phần việc ma chay tế lễ như đối với cha mẹ đẻ của mình. Nàng lễ
phép, giữ lễ đến mức trong lời trăng trối của bà lúc mất còn vẹn cả trời xanh để minh chứng
cho tấm lòng của con dâu “xanh kia quyết chẳng phụ lòng con cũng như con đã chẳng phụ
mẹ”. Tất cả những điều đó đã cho thấy Vũ Nương là một người con dâu hiếu thảo hết lòng
vun vén cho gia đình nhà chồng.
+ Biết Trương Sinh có tính hay ghen nên Vũ Nương “luôn giữ gìn khuôn phép không từng
lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”. Nàng đúng là một người vợ khéo léo, nết na, đúng mực.
Nàng luôn giữ cho tình cảm gia đình đầm ấm, yên vui. Nàng là một người vợ hiền thục, khôn
khéo, nết na đúng mực! Hạnh phúc êm ấm tưởng bền lâu, không ngờ đất nước xảy ra binh
biến, Trương Sinh phải đầu quân ra trận ở biên ải xa xôi. Buổi tiễn chồng đi lính, Vũ Nương
rót chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình nghĩa, đằm thắm, thiết tha: “Chàng đi chuyến
này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về
mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Ước mong của nàng thật bình dị, lời lẽ dịu
dàng ấy, chứng tỏ nàng luôn coi trọng hạnh phúc gia đình mà xem thường mọi công danh phù
phiếm. Nàng cảm thông trước những nỗi vất vả gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng: “Chỉ e
việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường.Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi
thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên
lo lắng.”.Qua lời nói dịu dàng,nàng cũng bộc lộ nỗi khắc khoải nhớ chồng của mình: “Nhìn
trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức
tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay
bổng”. Đúng là lời nói, cách nói của một người vợ hết mực thùy mị, dịu dàng. Trái tim ấy
giàu lòng yêu thương, biết chịu đựng những thử thách, biết đợi chờ để yên lòng người đi xa,
thật đáng trân trọng biết bao! Và có lẽ vẻ đẹp tâm hồn nàng đẩy lên đến cao độ qua hình ảnh
chiếc bóng trên vách. Một chi tiết tưởng đơn giản ấy nhưng bao hàm biết bao ý nghĩa về lòng
yêu thương, thủy chung son sắt của nàng đối với chồng. Dù chiến tranh ngăn cách nhưng
trong tâm hồn nàng, hình bóng Trương Sinh vẫn khăng khít, gắn bó với nàng như hình với
bóng không rời nhau. Vũ Nương ngày ngày đợi chờ, ngóng trông đến thổn thức “Giữ trọn
tấm lòng thủy chung, son sắt”, “tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa
chưa hề bén gót”. Nỗi nhớ thương dài theo năm tháng “Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn,
mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Nàng vừa thương
chồng, vừa nhớ chồng, vừa thương xót cho chính mình đêm ngày phải đối mặt với nỗi cô đơn
vò võ. Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những
người chinh phụ trong mọi thời loạn lạc xưa nay:
“…Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong…”
(Chinh phụ ngâm)
Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của nàng, vừa ngợi ca tấm
lòng thủy chung, mong nhớ, chờ đợi chồng của nàng. Vũ Nương đã ra sức cứu vãn, hàn gắn
hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ. Nàng đã viện cả thân phận của mình để thuyết phục
chồng “Thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu”. Qua lời nói nhún nhường ấy đã cho
thấy thái độ trân trọng chồng và niềm tha thiết giữ gìn hạnh phúc gia đình nhất mực của nàng.
Rồi khi sống ở dưới thủy cung nàng vẫn không nguôi nhớ về chồng. Khi nghe Phan Lang
nhắc về tình cảnh gia đình nàng đã ớn nước mắt. Rõ ràng trong trái tim người phụ nữ ấy
không có chút thù hận nào chỉ toàn là lòng bao dung và sự vị tha. Nói tóm lại dù trong bất cứ
hoàn cảnh nào Vũ Nương luôn trọn vẹn là một người vợ yêu thương chồng tha thiết.

+ Bên cạnh đó, Vũ Nương còn là một người mẹ hết lòng yêu thương con. Nàng đã một mình
sinh con, nuôi và dạy con khi chồng vắng nhà. Chi tiết chỉ cái bóng trên tường cũng chỉ xuất
phát từ tấm lòng của người mẹ để con lớn lên vơi bớt đi sự thiếu vắng tình cảm của người
cha. Như vậy Vũ Nương không chỉ hoàn thành bổn phận của một người phụ nữ mà còn hoàn
thành vai trò của một người trụ cột gia đình.

+ Ở Vũ Nương, điều mà không ít bạn đọc cảm phục chính là ý thức giữ gìn phẩm hạnh, danh
dự của nàng. Là một người vợ, người mẹ trong gia đình, Vũ Nương luôn ý thức rất rõ về bổn
phận cũng như những phẩm chất mình phải giữ gìn. Nàng là người có lòng tự trọng. Bởi vậy,
khi bị chồng nghi oan rằng mình thất tiết, nàng chẳng thể nào dễ dàng chấp nhận. Vũ Nương
đã tìm đủ mọi cách để thanh minh với chồng, bằng cả lời nói và hành động. Trong lời thanh
minh đầu tiên, nàng đã nói đến thân phận của mình với sự tha thiết, chân thành: “Thiếp vốn
con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động
việc lửa binh”. Vũ Nương không chỉ khẳng định phẩm tiết của bản thân mà còn cầu xin
chồng cởi bỏ mối nghi ngờ: “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã
nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói.
Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Bao
nhiêu buồn khổ nàng không nói, bấy nhiêu gian nan trong tình cảnh vắng bóng chồng nàng
không tỏ bày, chỉ nhất nhất khẳng định phẩm hạnh của mình, nhất nhất khẳng định tấm lòng
trinh bạch không từng làm điều mất nết hư thân như lời Trương Sinh nói. Nàng cũng đã sáng
suốt khi hỏi chồng “chuyện kia từ ai nói ra” bởi hiểu rõ muốn cởi dây thì phải tìm người buộc
dây và cũng bởi nàng muốn điều tra để tháo gỡ mối nghi ngờ cho chồng và chứng minh phẩm
giá cho mình. Nhưng Trương Sinh vẫn một mực không tin, lại còn giấu nhẹm chuyện do con
nói ra mà “lấy bóng gió này nọ mà mắng nhiếc nàng”. Ngay cả khi mọi cố gắng của nàng đều
thất bại trước sự cố chấp của chồng, Vũ Nương vẫn khẳng định mong muốn được gắn bó
cùng Trương Sinh để được hưởng “thú vui nghi gia nghi thất” “yên ổn được tựa bóng cây
cao”. Tuy nhiên Vũ Nương đã không vì mong muốn chính đáng ấy mà hạ mình sống trong sự
dèm pha và tình cảnh tủi nhục. Lòng tự trọng của Vũ Nương bộc lộ rất rõ trong ý thức về mối
quan hệ của nàng với Trương Sinh trong hiện tại “bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen
rũ trong ao, liễu tàn trước gió”. Những hình ảnh của sự chia phôi, tan vỡ trong lời nói của Vũ
Nương đã cho ta thấy nỗi đau đớn của nàng. Ý thức được hạnh phúc gia đình tan vỡ khó lòng
hàn gắn được bởi tính bảo thủ và sự nghi ngờ của chồng, Vũ Nương chỉ mong có thể chứng
minh sự trong sạch của bản thân. Nói với người, người không muốn, Vũ Nương chỉ có thể
than với trời mong trời thấu tỏ. Trong cảnh ngộ của Vũ Nương, ông trời là chứng nhân duy
nhất cho sự trong sạch mà nàng luôn gìn giữ: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng
con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng
giám”. Nói với trời là cách để Vũ Nương chứng minh phẩm giá bản thân. Nội dung lời nói
của Vũ Nương có ý nghĩa như một lời thề đầy khẳng khái: nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch
gìn lòng thì xin làm ngọc Mị Nương, cỏ Ngu Mĩ, nếu lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con xin
làm mồi cho cá tôm diều quạ, chịu lời phỉ nhổ của người đời… Để rồi, quá đau đớn và bất
lực, Vũ Nương đã chọn cái chết để chứng minh cho sự trong sạch của mình. Hành động
quyên sinh ấy là biểu hiện quyết liệt nhất của ý thức tự trọng. Với Vũ Nương, sự tồn tại của
lòng tự trọng còn quan trọng hơn sự tồn tại của sinh mạng nên nàng mới lấy cái chết để minh
oan cho mình. Cuối cùng, Vũ Nương đã chọn cách trở về khi Trương Sinh lập đàn giải oan
cho nàng nhưng nàng không chọn trở về mãi mãi bởi còn mong muốn trả ơn cho Linh Phi và
cũng bởi tiết hạnh của nàng thật khó để trở lại khi phẩm hạnh đã từng bị chồng coi thường,
chối bỏ. Quả thật, ở Vũ Nương, ý thức bảo vệ phẩm tiết đã trở thành ý thức về giá trị của bản
thân. Phẩm chất ấy thật đáng trân trọng!
LUẬN ĐIỂM 3: ĐÁNH GIÁ

+ Vũ Nương thật là người phụ nữ nết na, hiền thục, đảm đang, tháo vát, thờ kính mẹ chồng,
rất mực hiếu thảo, một dạ thủy chung với chồng, hết lòng vun đắp cho hạnh phúc gia đình.
Nàng là người phụ nữ hoàn hảo, lí tưởng của mọi gia đình, là khuôn vàng, thước ngọc của
người phụ nữ. Nàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc trọn vẹn. Với nghệ thuật xây dựng
tình huống bất ngờ, đặt nhân vật vào nhiều mối quan hệ, sử dụng yếu tố hoang đường, kì ảo,
truyện đã thể hiện được phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương cùng tầm tư tưởng lớn của tác giả
Nguyễn Dữ. Qua “Chuyện người con gái Nam Xương” ta thấy nổi bật lên là tấm lòng nhân
đạo cao cả. Đó là sự phát hiện, ca ngợi, trân trọng vẻ đẹp của con người, ở đây chính là Vũ
Nương. Vũ Nương mang những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Giá trị
nhân đạo còn thể hiện qua niềm tin vào sức sống mãnh liệt của con người, niềm tin vào
những điều tốt đẹp “Ở hiền thì gặp lành”, thể hiện ước mơ giải thoát của nhân dân đương
thời. Thành công của “Chuyện người con gái Nam Xương” từ đó đã góp phần làm nên áng
văn hay “Truyền kì mạn lục”, đúng như nhận định GS Đinh Gia Khánh: “Truyền kì mạn lục”
tuy có vẻ ngoài là những chuyện kì lạ xảy ra hàng nghìn năm về trước nhưng thực chất lại
phản ánh được những phần sâu sắc của hiện thực đương thời.”
KẾT BÀI:
Có thể nói, Vũ Nương là một người con gái đẹp người, đẹp nết với bao phẩm chất
tốt đẹp. Nguyễn Dữ đã kể lại cuộc đời oan khổ của nàng với bao tình xót thương
sâu sắc cùng sự trân trọng, ngợi ca. Hơn hết, truyện đã khẳng định nét đẹp tâm hồn
của người phụ nữ, cất lên tiếng nói cho bao mơ ước về một cuộc sống tốt đẹp, công
bằng mà họ hằng hi vọng. Chỉ với nội dung sâu sắc ấy, “Chuyện người con gái
Nam Xương” đã đi vào quỹ đạo nhân văn chung của văn học dân tộc, tạo được sự
cộng hưởng với nhiều tác phẩm viết về người phụ nữ cũng như kết nối bền chặt
cùng tâm hồn người đọc bao thế hệ.

You might also like