You are on page 1of 141

Phần I: Nghị luận văn học

Dàn bài CSP:


I. Mở bài:
o Dẫn dắt vđnl, trích nhận xét
II. Thân bài:
o Tiền đề phân tích:
+ Xuất xứ, hcst
+ Giải thích nhận xét *
+ Nhận xét chung *
o Phân tích/ CM nhận xét
o Đánh giá
+ NT, ND
III. Đánh giá nhận xét
o Mở rộng (liên hệ tp)
o Nâng cao
IV. Kết bài: Khẳng định tính đúng đắn của nx

1
Chuyện người con gái Nam Xương
Số phận bi thảm:
“Truyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ đã khắc họa rõ nét số phận bi
thảm của Vũ Nương. Trước hết, số phận bi thảm của nàng đã được khắc họa trong
cuộc hôn nhân bất bình đẳng.Cuộc hôn nhân của Vũ Nương có tính chất mua bán do
Vũ Nương vốn là “con kẻ khó”, được Trương Sinh mang trăm lạng vàng đến cưới về
làm vợ; khi về nhà chống, nàng luôn phải giữ gìn khuôn phép bởi TS đa nghi, với vợ
phòng ngừa quá mức. Chính việc sống trong gia đình thiếu bình đẳng và sự tin tưởng
lẫn nhau ấy là “mầm họa” gieo xuống cuộc đời Vũ Nương về sau này.Hạnh phúc chưa
được bao lâu, nàng không những phải xa chồng mà còn phải bươn chải một thân một
mình nuôi mẹ già con thơ, sống trong cảnh cô đơn mòn mỏi chờ chồng, nàng đã sống
lẻ loi cô đơn như chiếc bóng suốt thời gian dài dằng dẵng.Thế nhưng, bi kịch của Vũ
Nương chỉ thực sự ập đến khi Trương Sinh đi lính trở về, chỉ vì lời nói của con trẻ thơ
ngây, Trương Sinh đã nghi oan cho vợ mình không còn chung thủy.Ngọn lửa ghen
tuông đã khiến mối nghi ngờ ngày càng lớn khi Trương Sinh không đủ bình tĩnh nghe
lời Vũ Nương giải thích, chàng chỉ biết mắng nhiếc rồi đuổi nàng đi. Trước sự vô tình và
nhẫn tâm của chồng, Vũ Nương đã vô cùng đau đớn, Trương Sinh đã chẳng nghĩ đến
công lao của nàng đối với gia đình, anh ta thiếu cả lòng tin và tình thương, bởi thể, Vũ
Nương chỉ biết nói lên nỗi đau đớn của mình: “Bình rơi, trâm gãy, mây tạnh, mưa tan;
sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió”.Qua những hình ảnh ước lệ, ta thấy nỗi đau đớn đến
héo hắt của Vũ Nương khi cuộc hôn nhân tan vỡ, bị nghi ngờ, xúc phạm về danh dự,
phẩm tiết; nàng đành mượn dòng sông Hoàng Giang để thoát khỏi bi kịch.Nhưng cuộc
đời của Vũ Nương có thể thay đổi, bi kịch vẫn chưa kết thúc; ở dưới thủy cung, VN vẫn
nhớ gia đình, chồng con, vẫn khắc khoải nỗi đau phục hồi danh dự.Truyện khép lại với
cảnh Trương Sinh lập đàn giải oan cho Vũ Nương và nàng hiện về trong “cờ tán, võng
lọng, rực rỡ đầy sông”, buồn thay tất cả những lung linh đủ đầy ấy chỉ tồn tại ở một thế
giới khác, sự thật là Vũ Nương đã chết, không còn có thể quay lại được. Cái chết và
cuộc đời bi thảm của Vũ Nương cũng góp phần phản ánh thân phận người phụ nữ
trong xã hội phong kiến bấy giờ: lẻ loi, phụ thuộc, không được bênh vực chở che, chỉ có
cái chết mới giải thoát được bi kịch.
Vũ Nương là người vợ thủy chung, tình nghĩa:
“Chuyện người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ đã xây dựng thành công hình
tượng nhân vật Vũ Nương là người vợ thủy chung,tình nghĩa. Vũ Nương là người con
gái quê ở Nam Xương, “tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp” nên được
Trương Sinh đem trăm lạng vàng cưới về làm vợ. Biết chồng đa nghi, nàng luôn giữ gìn
khuôn phép,”không từng để xảy ra thất hòa”. Hạnh phúc chưa được bao lâu thì Trương
Sinh phải đi lính, Vũ Nương đã rót chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời đằm thắm,
tình nghĩa, thiết tha: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong
hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày trở về mang theo được hai chữ bình yên,

2
thế là đủ rồi”. Mong ước của Vũ Nương chứng tỏ nàng coi trọng hạnh phúc gia đình,
tình nghĩa vợ chồng mà không màng danh hoa phú quý. Nhưng cảm động hơn cả là
chưa chia xa, nàng đã tưởng tượng ra những nỗi vất vả mà chồng phải chịu đựng “Chỉ
e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian
lao”. Nàng còn bảy tỏ nỗi khắc khoải, nhớ nhung chồng “Nhìn trăng soi thành cũ, lại
sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình thương
người đất thú”, tấm lòng người vợ lo lắng yêu thương chồng cùng tình cảm chân thành
của Vũ Nương đã khiến mọi người cảm động “mọi người đều ứa hai hàng lệ”. Thế rồi
trong những ngày tháng xa chồng, Vũ Nương đã một mình chăm sóc mẹ già đau ốm,
con thơ nhỏ dại, nỗi nhớ chồng chưa từng nguôi ngoai trong lòng nàng “Ngày qua
tháng lại, thoắt đã nửa năm, cứ thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thĩ nỗi
buồn chân trời góc bể không thể nào ngăn được”. Ấy vậy mà mọi sự hy sinh, gian khổ
của Vũ Nương không những không được công nhận mà nàng còn bị Trương Sinh quát
mắng, đuổi đi khi chàng vội tin lời con trẻ mà nghi oan cho nàng. Vũ Nương bấy giờ
vẫn hết lời thanh minh cho chồng hiểu tấm lòng mình, cố gắng hàn gắn hạnh phúc gia
đình có nguy cơ tan vỡ, nàng nói với TS rằng nàng muốn dựa vào chàng do muốn gây
dựng hạnh phúc gia đình nhưng nay hạnh phúc ấy đã tan vỡ, không thể hàn gắn được
nữa. Cùng đường, nàng chọn cái chết để chứng minh cho tấm lòng trong sạch, mượn
nước sông quê hương để rửa sạch nỗi oan ức. Dù sống cuộc sống đầy đủ, sung túc ở
dưới thủy cung mà nàng vẫn nhớ về gia đình, chồng con “Vả chăng, ngự Hồ gầm gió
Bắc, chim Việt đậu cành Nam. Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày”. Ngay cả lúc
được trở về trong võng lọng cờ hoa, nàng cũng không một lời oán trách người chồng tệ
bạc mà chỉ nhắn gửi “không thể trở về nhân gian được nữa. Tóm lại, bằng giọng văn
biền ngẫu, kết hợp nhiều điển tích, hình ảnh ước lệ giàu tính biểu cảm cùng nghệ thuật
xây dựng nhân vật trên đối thoại và độc thoại nội tâm, Nguyễn Dữ đã khắc họa thành
công Vũ Nương là người phụ nữ thủy chung, tình nghĩa, đồng thời thể hiện sự trân
trọng, ngợi ca của tác giả với người phụ nữ trong xã hội phong kiến cũ.
Người vợ thương chồng, con dâu hiếu thảo:
Trong tác phẩm "Truyện người con gái Nam Xương", Vũ Thị Thiết (hay Vũ Nương) đã
được khắc họa là một người vợ yêu thương chồng tha thiết, một người con dâu hiếu
thảo. Trước tiên, Vũ Nương vốn là con kẻ khó, “tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung
tốt đẹp” nên được TS đem trăm lạng vàng cưới về làm vợ. Hạnh phúc chưa được bao
lâu, nàng đã phải tiễn chồng đi lính, bấy giờ, tình yêu thương chồng của Vũ Nương
được thể hiện rất rõ nét. Lời tiễn biệt của Vũ Nương cho thấy nàng thực lòng quan tâm
đến chồng khi nàng mong chồng"chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo
gấm trở về quê cũ", thay vào đó, chỉ cần hai chữ"bình yên". Vũ Nương ko màng đến
bổng lộc, phú quý mà chỉ mong chồng bình an chở về, đó chẳng phải tình yêu thương
tha thiết từ tận đáy lòng đó sao? Thêm vào đó, nàng đã tưởng tượng được vất vả mà
chồng sẽ gặp phải "Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường". Lúc chàng đi lính,
nỗi nhớ thương chồng lại được gợi lên bằng các hình ảnh ước lệ đặc sắc "bướm lượn

3
đầy vườn", "mây che kín núi". Ngoài ra, Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo,
điều này được thấy rõ trong khoảng thời gian chàng đi lính và người mẹ chồng đổ bệnh.
Biết mẹ chồng bị bệnh nặng, nàng "hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt
ngào khôn khéo khuyên lơn"; lúc bà mất, nàng lo ma chay tế lễ chu đáo như cha mẹ
ruột mình. Lời trăng trối của mẹ chồng- một chi tiết được thêm vào so với bản gốc đã
thể hiện rõ hơn hết phẩm chất con người Vũ Nương, người mẹ chồng đã ghi nhận
phẩm giá, lòng hiếu thảo của nàng, vượt lên cả những định kiến, thói đời. Tóm lại, bằng
bút pháp ước lệ cùng nghệ thuật miêu tả nhân vật qua các lời thoại, tình huống khác
nhau, Vũ Nương được miêu tả là người con gái không chỉ đẹp người mà còn đẹp nết,
yêu thương chồng tha thiết và còn là một người con dâu hiếu thảo.
Chi tiết cuối truyện:
Đoạn trích cuối “CNCGNX” của Nguyễn Dữ đã để lại trong lòng người đọc nhiều suy
ngẫm. Về nội dung, đoạn trích tái hiện cuộc gặp gỡ của Vũ Nương và Trương Sinh khi
mọi ân oán đã được hóa giải. Đây là tình tiết mang yếu tố kì ảo được Nguyễn Dữ sáng
tạo thêm trên cốt truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, góp phần tạo nên kết thúc có hậu
cho tác phẩm, thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân về sự công bằng (ở hiền gặp
lành, người tốt dù trải qua bao nhiêu oan khuất cũng được minh oan). Đồng thời, đoạn
trích cũng góp phần hoàn thiện thêm vẻ đẹp nhân vật Vũ Nương: nàng là người trọng
tình nghĩa, khát khao phục hồi danh dự, nhân phẩm. Trong lời cuối với Trương Sinh,
nàng không hề trách móc mà chỉ nhắn gửi “chẳng thể trở về nhân gian được nữa”.
Thêm vào đó, nàng cũng không quên cảm tạ đức Linh Phi, người “đã thề sống chết
không bỏ”, khẳng định phẩm chất cao đẹp của người con gái ấy. Bên cạnh đó, chi tiết
còn tộ đậm thêm bi kịch của Vũ Nương. Bởi lẽ, sự trở về của nàng trên sông Hoàng
Giang dù rất lộng lẫy nhưng lại ở rất xa, rất mơ hồ “lúc ẩn lúc hiện” và “chỉ trong phút
chốc”, cảnh đoàn tụ chỉ là ảo ảnh nhanh chóng tan biến. Xã hội phong kiến vốn không
có chỗ cho người phụ nữ, khát khao hạnh phúc của Vũ Nương nay sẽ không bao giờ
thành hiện thực do giờ đây âm dương cách biệt, đôi lứa chia lìa, hạnh phúc gia đình tan
vỡ. Với một kết thúc không trọn vẹn, Nguyễn Dữ đã cho thấy một quan niệm rằng hạnh
phúc khó có, khó giữ mà đã đổ vỡ rồi thì sẽ chẳng thể nào hàn gắn lại được; cũng như
bày tỏ nỗi xót thương, cảm thông cho thân phận oan nghiệt của người phụ nữ trong xã
hội phong kiến. Chi tiết đã góp phần tạo nên giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo cho tác
phẩm. Về nghệ thuật, yếu tố kì ảo dã được ND xây dựng rất thành công, tạo nên một
kết thúc ám ảnh, khiến cho câu chuyện mang đậm màu sắc truyền kì.

Hoàng Lê nhất thống chí


Quang Trung có hành động mạnh mẽ quyết đoán, trí tuệ nhạy bén:

4
Trong hồi thứ 14 của ‘Hoàng Lê nhất thống chí”, hình tượng người anh hùng Quang
Trung- Nguyễn Huệ hiện lên thật cao đẹp với trí tuệ sắc bén. Ngay khi mấy chục vặn
quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị hùng hổ kéo vào nước ta, thế giặc đang mạnh, tình thế
khẩn cấp,”ngàn cân treo sợi tóc”, Ngyễn Huệ đã quyết định lên ngôi hoàng đế để, lấy
hiệu là Quang Trung. Việc lên ngôi đã được dự tính kĩ càng với mục đích thống nhất
nội bộ, hội tụ anh tài, và quan trọng hơn là “để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người”,
được nhân dân ủng hộ. Không chỉ vậy, Quang Trung còn rất sáng suốt trong việc phân
tích tình hình thời cuộc, thể hiện trong lời phủ dụ binh sĩ ở Nghệ An; ông đã khẳng định
chủ quyền của dân tộc ta và lên án hành động xâm lược phi nghĩa, trái đạo của giặc
“đất nào sao ấy, đều đã phân định rõ ràng; “chúng mấy phen cướp bóc nước ta, giết
hại dân ta”. Thêm vào đó, Quang Trung đã khích lệ tướng sĩ dưới quyền bằng những
tấm gương chiến đấu dũng cảm chống giặc ngoại xâm giành độc lập cho dân tộc từ
ngàn đời xưa: Trưng Nữ Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành,…Cuối cùng, ông kêu
gọi binh sĩ đồng tâm hiệp lực và đề ra kỉ luật nghiêm minh; lời phủ dụ có thể xem như
một bài hịch ngắn, khích lệ tinh thần yêu nước, truyền thống đánh giặc quật cường của
dân tộc ta. Hơn thế nữa, Quang Trung rất sáng suốt trong việc dùng người, thể hiện
qua cách xử trí với các tướng sĩ ở Tam Điệp. Trong dịp hội quân ở Tam Điệp, qua lời
nói của Quang Trung với Sở và Lân ta thấy rõ: ông rất hiểu việc rút quân của hai vị
tướng giỏi này. Đúng ra thì “quân thua tại tướng” nhưng ông rất hiểu lòng họ, sức mình
ít không địch nổi đội quân hùng tướng hổ nhà Thanh nên đã phải bỏ thành Thăng Long
rút về Tam Điệp để tập hợp lực lượng, vậy Sở Lân không bị trừng phạt mà còn được
ngợi khen. Đối với Ngô Thì Nhậm, ông đánh giá rất cao và sử dụng như một vị quân sư
“đa mưu, túc trí”, việc Sở và Lân rút chạy Quang Trung cũng đoán là do Ngô Thì Nhậm
chủ mưu, vừa là để bảo toàn lựu lượng, vừa gây cho địch sự chủ quan. Ông đã tính
đến việc dùng Nhậm là người biết dùng lời khéo léo để dẹp việc binh đao; điều này
chứng tỏ ông rất hiểu sở trường, sở đoản của các tướng sĩ, khen chê đúng người,
đúng việc, khiến các tướng sĩ đều nể phục. Tóm lại, bằng việc kết hợp tự sự với miêu
tả một cách sinh động, hồi thứ 14 của Hoàng Lê nhất thống chí đã thành công xây
dựng hình tượng vua Quang Trung là người có trí tuệ nhạy bén, sáng suốt.

Số phận thảm bại của quân tướng nhà Thanh và vua tôi Lê Chiêu Thống:
Qua hồi thứ 14 của “Hoàng Lê nhất thống chí”, nhóm tác giả Ngô Gia Văn Phái đã
miêu tả chân thực sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh cũng như số phận bi thảm
của vua tôi Lê Chiêu Thống. Quả thật, quân tướng nhà Thanh là những tên bất tài vô
dụng, tự mãn, chủ quan, trễ nải.Về tướng, Tôn Sĩ Nghị kéo quân sang An Nam lại
không muốn tốn nhiều sương máu, do tiến vào Thăng Long dễ dàng, lại được sự hậu
thuẫn của nhà Lê, hắn sinh tự mãn, khinh địch. Y không chút phòng ngừa dù đã được
vua tôi Lê Chiêu Thống bảo trước về tài cầm quân của Quang Trung, suốt mấy ngày
Tết, hắn chỉ ‘chăm chú vào việc yến tiệc vui mừng, không hề lo chi đến việc bất trắc”.
Cũng vì cầm quân mà không biết rõ tình hình, mải mê vui chơi, tiệc tùng nên khi nghe
tin đồn Hà Hồi, Ngọc Hồi bị hạ, Tôn Sĩ Nghị lộ rõ bản chất hèn nhát “sợ mất mật, ngựa

5
không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp, dẫn bọn lính kị binh của mình chuồn
trước qua cầu phao”, tên thái thú Điền Châu- Sầm Nghi Đống cũng chẳng khá hơn là
bao, y sợ đến mức đã thắt cổ tự tử ở gò Đống Đa. Về phần binh lính, quân nhà Thanh
là một đội quân ô hợp, thiếu sức mạnh, vừa lâm trận “ai nấy đều rụn rời sợ hãi, liền xin
ra hàng” hoặc “bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết”; quân sĩ các doanh trại
khác nghe tin mà “hoảng hồn, tan tác bỏ chạy”, chúng tranh nhau qua cầu sang sông
mà, kết cục là khi cầu đứt thì binh lính ngã hết xuống sông, làm tắc cả dòng chảy. Cả
một đội binh hùng tướng mạnh mấy chục vạn người chỉ quen giễu võ dương oai giờ
đây chỉ còn biết mạnh ai nấy chạy “đêm ngày đi gấp, không giám nghỉ ngơi”. Vua tôi Lê
Chiêu Thống, những kẻ pahrn nước hại dân, vì lợi ích riêng của dòng họ mà đem vận
mệnh dân tộc đặt vào tay địch phải chịu kết cục không thể tránh khỏi. Khi có biến, vua
tôi vội vã “đem thái hậu ra ngoài”, chạy bán sống bán chết, ăn cắp cả thuyền của dân
để qua sống “luôn mấy ngày không ăn”. May gặp được người thổ hào cho ăn, chỉ
đường chạy trốn mà đuối kịp Tôn Sĩ Nghị, vua tôi lúc này chỉ biết “nhìn nhau than thở,
oán giận chảy nước mắt”. Khi sang đến Trung Quốc, vua tôi Lê Chiêu Thống phải chịu
số phận kẻ vong quốc khi cạo đầu, tết tóc, ăn mặc giống người Mãn Thanh, mất hết khí
phách bậc quân vương. Tóm lại, bằng việc kết hợp trần thuật với các yếu tố miêu tả,
biểu cảm; thêm vào đó là lối kể chuyện khách quan, thủ pháp tương phản đối
laapjcunfg giọng văn có lúc nhanh, lúc lại ngậm ngùi chua xót, hồi thứ 14 của “Hoàng
Lê nhất thống chí” đã thành công tái hiện lại hình tượng, số phận bi thảm của những
tên quân tướng nhà Thanh chỉ biết “giễu võ dương oai” cũng như số phận thảm hại của
vua tôi Lê Chiêu Thống.

Chị em Thúy Kiều


Thúy Vân:
Mở đầu cho bức chân dung của Thúy Vân, tác giả đã dùng câu: “Vân xem trang
trọng khác vời” để miêu tả chung về nét đẹp của nàng- một vẻ đẹp trang trọng, quý phái.
Tiếp đó, Nguyễn Du sử dụng nghệ thuật liệt kê để miêu tả một cách đầy đủ các nét đẹp
của Thúy Vân, từ khuôn mặt, chân mày, nụ cười, tiếng nói, đến mái tóc, làn da. Dường
như những gì đẹp đẽ nhất của thiên nhiên đã được hội tụ trong vẻ đẹp của Thúy Vân
khi vẻ đẹp của nàng được so sánh với trăng, mây, tuyết, hoa, ngọc. Gương mặt nàng
tròn trịa, đầy đặn như mặt trăng ngày rằm, nụ cười tươi tắn như hoa còn tiếng nói trong
như ngọc. Với làn da, mái tóc, thiên nhiên phải “thua”, “nhường” trước vẻ đẹp của Thúy
Vân khi mái tóc nàng còn mượt mà hơn làn mây còn nước da trắng trẻo hơn tuyết. Bức
chân dung của Thúy Vân cũng là điềm báo cho số phận và tính cách của nàng. Các từ

6
“đầy đặn”, “nở nang” không chỉ gợi đường nét mặn mà, đậm đà, mà qua đó, Thúy Vân
cũng hiện lên như một người con gái phúc hậu, dịu dàng. Thiên nhiên phải “thua”,
“nhường” trước vẻ đẹp của Thúy Vân, điều đó cho thấy nét đẹp nàng hài hòa với thiên
nhiên; thêm vào đó, dự cảm trước một tương lai êm đềm, hạnh phúc. Tóm lại, Nguyễn
Du đã rất thành công khi sử dụng bút pháp ước lệ kết hợp với tài năng sử dụng ngôn
ngữ tài tình để miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân- một vẻ đẹp “không hiềm khích với thiên
nhiên”, sang trọng, quý phái; đồng thời cũng làm nổi bật nét tính cách hiền lành, dịu
dàng và dự cảm cho một số phận ít sóng gió của nàng.
Thúy Kiều:
Chỉ với mười hai câu thơ trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, Nguyễn Du đã khắc
họa lên bức chân dung tuyệt mĩ của Thúy Kiều về cả tài lẫn sắc.Ở hai câu thơ đầu, thủ
pháp đòn bẩy được tác giả sử dụng khéo léo qua hai từ “càng”,”hơn” đã nhấn mạnh sự
nổi bật hơn hẳn của Kiều so với Thúy Vân về mọi mặt. “Sắc sảo” là hơn hẳn về trí tuệ,
“mặn mà” là hơn hẳn về tâm hồn, vượt trội về trí tài sắc, những lời giới thiệu khái quát
ấy cho chúng ta hình dung về nàng Kiều tuyệt sắc giai nhân. Thủ pháp ước lệ kết hợp
với thủ pháp điểm nhãn đã gợi nên vẻ đẹp đôi mắt của Thúy Kiều trong sáng, long lanh
vời vời như làn nước mùa thu, đó là đôi mắt biết nói, mang chiều sâu nội tâm và có sức
cuốn hút lòng người. Kết hợp với vẻ đẹp đôi mắt ấy là đôi lông mày sắc nét thanh tú
như dáng núi màu xuân “nét xuân sơn”; thật tài tình làm sao, chỉ miêu tả đôi mắt mà
nhà thơ đã gợi tả được vẻ đẹp của nàng Kiều hiện ra thật rõ nét, tươi trẻ, tràn đầy sức
sống, mặn mà, quyến rũ. Vẻ đẹp ấy phải khiến “Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém
xanh”, Nguyễn Du còn vận dụng cách nói sáng tạo từ điển cố để miêu tả vẻ đẹp Thúy
Kiều “Một hai nghiêng nước nghiêng thành”, câu thơ lấy ý từ một câu chữ Hán có nghĩa
là Ngoảnh lại một cái thì thành xiêu, ngoảnh lại nhìn lần nữa thì nước nghiêng ngả.
Cách gợi tả này gợi vẻ đẹp tuyệt trần của Thúy Kiều, sánh ngang với các bậc giai nhân
tuyệt sắc từng khiến các bậc quân vương say đắm mà mất nước. Kiều không chỉ đẹp
mà còn là một cô gái thông minh ‘Thông minh vốn sãn tính trời” và vô cùng tài hoa.Tài
năng của Kiều đã đạt mức lí tưởng theo quan niệm phong kiến: cầm, kì, thi, họa đều
đạt đến mức tột đỉnh, đặc biệt tài đàn đã trở thành sở trường, năng khiếu riêng, vượt
lên trên tất cả mọi người “Cung thương làu bậc ngũ âm/Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một
trương”. Hơn thế nữa, nàng còn giỏi sáng tác nhạc, đến mức soạn riêng cho mình một
khúc nhạc “bạc mệnh” cung đàn ấy thật buồn thương, ghi lại chân thực tấm lòng một
trái tim đa sầu đa cảm làm lay động lòng người. Ẩn sau tài năng ấy là một tâm hồn đa
sầu đa cảm, biết xót thương cho những kiếp người bất hạnh trong cuộc sống, vẻ đẹp
của Kiều là sự kết hợp của tài-sắc-tình. Vẻ đẹp ấy khiến cho tạo hóa phải ghen ghét, đố
kị nên số phận nàng không tránh khỏi nhiều trái ngang, đau khổ, chân dung của Kiều là
chân dung mang tính cách,số phận. Tóm lại, chỉ với 12 câu thơ, nhà thơ Nguyễn Du
không chỉ vẽ lên bức chân dung tuyệt mĩ của nàng Kiều mà còn dự báo số phận của
nàng, không những truyền đến người đọc tình cảm yêu mến nhân vật mà còn truyền cả
nỗi lo âu phập phồng vể tương lai số phận của nàng Kiều. Qua đoạn thơ còn giúp ta

7
thấy rõ tấm lòng yêu mến, trân trọng của nhà thơ với Thúy Kiều, người con gái tài sắc
vẹn toàn.

Kiều ở lầu Ngưng Bích


Khung cảnh trước lầu Ngưng Bích và nỗi cô đơn, tội nghiệp của Kiều:
6 câu thơ đầu của đoạn trích ‘Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã gợi tả được khung cảnh
trước lầu Ngưng Bích và hoàn cảnh cô đơn của Kiều. Hai chữ “khóa xuân” cho thấy
Kiều ở lầu Ngưng Bích nhưng thực chất là bị giam lỏng, lầu Ngưng Bích trở thành nhà
tù, thành căn buồng giam cầm tuổi xuân của người con gái xinh đẹp Thúy Kiều, Kiều
sống trong một không gian, thời gian đặc biệt. Nàng trơ trọi giữa không gian mênh
mông, hoang vắng, mở ra cả ba chiều: chiều rộng (bát ngát), chiều cao (tấm trăng),
chiểu xa (vẻ non xa). “Non xa” và “trăng gần” là hai hình ảnh đối lập nhau nhưng lại ở
cùng trong một bức tranh, khiến hình ảnh lầu Ngưng Bích chơ vơ nhỏ bé giữa mênh
mông trời nước. Hình ảnh “non xa”, “trăng gần”, “cát vàng”, “bụi hồng” có thể là cảnh
thực, cũng có thể là hình ảnh mang tính ước lệ gợi sự mênh mông rợn ngợp của không
gian. Kiều và lầu Ngưng Bích lọt thỏm giữa không gian rộng lớn ấy, nàng trở nên lẻ loi,
bơ vơ, cô độc. Cảnh trước lầu Ngưng Bích càng trở nên buồn hơn qua cái nhìn về thời
gian, ngày qua ngày Kiều chỉ biết làm bạn với áng mây buổi sớm, ngọn đèn leo lét đêm
khuya, thức ngủ chỉ một mình thui thủi, thấm thía nỗi bẽ bàng. Cụm từ “mây sớm đèn
khuya” gợi hình ảnh thời gian tuần hoàn khép kín như muốn giam hãm con người, khắc
sâu thêm nỗi cô đơn, khiến Kiều càng “bẽ bàng”, buồn tủi và dồn tới lớp lớp những nỗi
niềm chua xót, đau thương, nhớ nhung. Chữ “sớm” và “khuya” như vòng tròn thời gian
khép chặt lấy nỗi bẽ bàng của con người, thời gian cũng như không gian giam hãm con
người khiến nàng rơi vào hoàn cảnh cô đơn tuyệt đối. Cảnh đấy mà là tình đấy ‘nửa
tình nửa cảnh như chia tấm lòng”, góp phần diễn tả nỗi lòng bối rối, nghổn ngang của
Kiều khi bị giam ở lầu Ngưng Bích. Tóm lại, bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn
Du đã miêu tả một khung cảnh hoang vắng, hiu quạnh, rợn ngợp trước lầu Ngưng Bích
qua đó cho thấy nỗi cô đơn, buồn tủi của Kiều trước những sóng gió cuộc đời đang chờ
đợi nàng phía trước.
Kiều nhớ Kim Trọng và cha mẹ:
Tám câu thơ giữa đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là nỗi nhớ thương, xót xa của
Kiều dành cho Kim Trọng và cha mẹ khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Quên đi cảnh
ngộ cô đơn tội nghiệp của mình, trước hết Kiều nhớ đến Kim Trọng, người mà nàng đã
nặng lòng thề hẹn “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng/ Tin sương luống những rày

8
trông mai chờ”. Kiều nhớ đến đêm hôm nào hai người cùng uống chén rượu thề
nguyền đính ước trăm năm dưới vầng trăng vằng vặc, vậy mà giờ đây mỗi người mỗi
ngả, số phận phũ phàng đã cắt đứt mối lương duyên ấy. Kiều xót xa hình dung người
yêu vẫn chưa biết tin náng bán mình, vẫn ngày đêm mòn mỏi chờ trông chốn Liêu
Dương xa xôi, nàng nhớ đến người yêu với tâm trạng đau đớn “Tấm son gột rửa bao
giờ cho phai”. Có lẽ “tấm son” ấy là tấm lòng Kiều son sắt, thủy chung, không nguôi
nhớ thương Kim Trọn, cũng có thể là Kiều đang tủi nhục khi tấm lòng son sắt đã bị dập
vùi, hoen ố, không biết bao giờ mới gột rửa được.Đối với Kim Trọng, Kiều thật sâu sắc,
có trước có sau trọng tình trọng nghĩa, một người con gái chung thủy, giàu lòng vị tha.
Không chỉ nhớ người yêu, Kiều còn nhớ đến cha mẹ. Nghĩ tới song thân, nàng thấy “xót”
khi tưởng tượng cha mẹ, ở chốn quê nhà vẫn tựa cửa ngóng trông tin con. Nàng xót
thương da diết và day dứt khôn nguôi vì không thế “quạt nồng ấp lạnh”, phụng dưỡng
song thân, băn khoăn không biết hai em có chăm sóc cha mẹ chu đáo hay không. Điển
cố “sân lai, gốc tử” đã diễn tả thật chân thực, xúc động tâm trạng nhớ thương, xúc động
và tấm lòng hiếu thảo của Kiều với cha mẹ. Hình ảnh ẩn dụ “cách mấy nắng mưa” vừa
chỉ không gian xa xôi, cách trở vừa nói được sức tàn phá của thời gian đối với cảnh vật
và con người. Nàng tưởng tượng cảnh vật chốn quê nhà đã thay đổi “có khi gốc tử đã
vừa người ôm”, đồng nghĩa với việc cha mẹ nàng ngày một gài yếu, với cha mẹ, Kiều
quả là một người con hiếu thảo! Tóm lại, với việc sử dụng thành công ngôn ngữ độc
thoại nội tâm, thành ngữ, điển tích điển cố và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế,
nhà thơ đã cho ta thấy rõ hình ảnh Kiều trong cảnh ngộ bị giam lỏng, cô đơn ở lầu
Ngưng Bích, nàng là người đáng thương nhất nhưng lại quên đi cảnh ngộ của bản thân
để ngĩ về những người thân yêu. Kiều quả là người con gái hiếu thảo, thủy chung, giàu
lòng vị tha, thật đáng trân quí biết bao!
Nỗi buồn da diết của Kiều qua bức tranh tả cảnh:
Tám câu thơ cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã khắc họa tâm trạng buồn, âu
lo của Kiều qua cái nhìn cảnh vật. Ở tám câu thơ này, tác giả đã sử dụng thành công
nghệ thuật điệp ngữ “buồn trông” đứng đầu mỗi cặp câu thơ, vừa tạo âm hưởng trầm
buồn khiến cho cả đoạn thơ như điệp khúc của tâm trạng vừa nhấn mạnh được nỗi
buồn triền miên, dai dẳng dang dâng lên tầng tầng lớp lớp như những đợt sóng trong
lòng Kiều. Thêm vào đó là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình để gợi ra những cảnh vật khác
nhau qua đó giúp ta cảm nhận rõ tâm trạng buồn ngày một tăng của Kiều mỗi khi nàng
nhìn thấy từng cảnh vật. Trước tiên là cảnh cửa bể chiều hôm với hình ảnh “Thuyền ai
thấp thoáng cảnh buồm xa xa” giữa không gian biển khơi rộng lớn, mênh mông cứ đi
xa mãi không trở lại bờ. Kiều thấy lẻ loi cô đơn nhỏ bé, buồn thương cho cảnh ngộ
mình nơi đất khách quê người, cảnh ấy gợi trong lòng người lưu lạc tha hương nỗi
buồn nhớ gia đình quê hương và niềm khao khát sum họp. Hai câu thơ tiếp theo, Thúy
Kiều nhìn thấy những cánh hoa trôi trên ngọn nước, hình ảnh ấy gợi nên nỗi buồn về
thân phận những kiếp người lênh đênh vô định, không biết sẽ trôi dạt về đâu giữa dòng
đời. Câu hỏi tu từ “Biết là về đâu?” đã gợi nên trong lòng Kiều nỗi lo lắng xót xa, buồn

9
tủi ‘cho thân phạn lênh đênh, chìm nổi, vô định của mình. Nếu hai bức tranh đầu chỉ
thiên về việc gợi cảnh thì bức tranh thứ ba lại tập trung gợi tả màu sắc với khung
cảnh“Buồn trông nội cỏ rầu rầu/Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”. Nội cỏ “rầu
rầu”, “xanh xanh”- sắc xanh héo úa, mù mịt, nhạt nhòa trải dài từ chân mây đến mặt đất,
còn đâu cái “xanh tận chân trời” như sắc cỏ trong tiết Thanh minh khi Kiều còn trong
cảnh đầm ấm. Màu xanh này gợi cho Kiều một nỗi chán ngán, vô vọng vì cuộc sống cô
quanh và những chuỗi ngày vô vị, tẻ nhạt không biết sẽ kéo dài đến bao giờ. Đỉnh cao
của nỗi buồn trong tâm trí Kiều là khi nàng nhìn và nghe thấy :”Buồn trông gió cuốn mặt
duềnh/ Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”. Đó có thể là cảnh thực nơi cửa bể, gió
thổi khiến sóng như dâng lên nhưng cũng có thể đó chỉ là tưởng tượng của Thúy Kiều,
là sóng lòng. Âm thanh tiếng sóng như báo trước sóng gió cuộc đời và diễn tả thật
thích hợp với nỗi lo sợ kinh hãi của Kiều trước tương lai.Ở tám câu thơ này, cảnh vật
được miêu tả từ xa đến gần với màu sắc được miêu tả từ nhạt đến đậm cùng âm thanh
từ tĩnh đến động, diễn tả nỗi buồn từ man mác đến lo âu kinh sợ và sự tuyệt vọng đang
dâng trào trong lòng Kiều. Tóm lại, qua bút pháp tả cảnh ngụ tình điêu luyện với việc
sử dụng hiệu quả hàng loạt từ láy gợi cảm cảm, tám câu thơ cuối đoạn trích đã làm nổi
bật tâm trạng cô đơn, buồn tủi và nàng Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích và gợi
được nỗi xót thương cho thân phận của nàng- một kiếp người tài hoa bạc mệnh!

Đồng chí
Nhà thơ Tố Hữu từng viết:
“Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa
Vui gì hơn là người lính đi đầu”
Như một lẽ tự nhiên, khi người lính đi đầu trong sứ mệnh lịch sử thì họ cũng sẽ trở thành
hình tượng trung tâm trong các tác phẩm thời kì kháng chiến. Thơ viết về người lính quả
thực rất nhiều, ta từng biết đến “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”- Phạm Tiến Duật,
“Những ngôi sao xa xôi”- Lê Minh Khuê, “Tây Tiến”- Quang Dũng hay “Áo lính sư đoàn”-
Nguyễn Đức Mậu,… Những có lẽ bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu là sự mở đầu chân thực
và ý đầy ý nghĩa về hình tượng ấy bởi nó được viết bằng chính cảm xúc trong tháng ngày
gian khó mà đầy tình nghĩa, đó là “sự chân tình, tự nhiên, không gì gò bó, gượng ép” (lời tác
giả)
Cơ sở hình thành tình đồng chí:
Qua bảy câu thơ đầu bài thơ “Đồng chí” nhà thơ Chính Hữu đã cho ta thấy được cơ
sở hình thành của tình đồng chí. Ấn tượng đầu tiên là ở sự sóng đôi giữa các câu thơ:
quê hương anh – làng tôi, nước mặn đồng chua- đắt cày lên sỏi đá cho thấy họ đều là
những người lính nông dân đi ra từ những miền quê nghèo: đó có thể là vùng đồng
bằng ven biển, hay từ miền trung du khô cằn khó canh tác, như vậy, anh với tôi có sự
tương đồng về hoàn cảnh xuất thân. Chính sự tương đồng ấy đã khiến những người
chiến sĩ vốn xa lạ đến từ mọi miền tổ quốc bỗng trở nên thân quen khi cùng tập hợp
trong hàng ngũ Cách mạng. Tình đồng chí còn được tạo nên từ sự cùng chung nhiệm
vụ và chung lý tưởng, cùng sát cảnh bên nhau trong chiến đấu “Anh với tôi đôi người
xa lạ/Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”, cuộc chiến đấu đã biến cái “lạ” thành cái

10
“quen”, biến những ngưởi ở chân trời góc bể thành người trong cùng một đội ngũ. Ở
đây, từ “đôi” đã được sử dụng rất thành công, vừa nói lên sự gắn bó không thể tách rời
vừa khẳng định mục đích, lí tưởng cao đẹp là bảo vệ tổ quốc đã gắn kết họ lại với nhau.
Cao trào của đồng cảnh, đồng ngũ chính là đồng cảm, để rồi những con người tưởng
chừng xa lạ thành những người đồng chí của nhau. Hình ảnh “Súng bên súng đầu sát
bên đầu” vừa mang nghĩa tả thực vừa mang nghĩa tượng trưng: tả thực hình ảnh
những người lính đứng sát bên nhau trong một đội hình, nhưng còn gợi cả lí tưởng, chí
hướng cùng chiến đấu cho sự nghiệp chung. Thêm nữa, điêph từ “súng”, “đầu”, “bên”
được sử dụng trong câu thơ còn tạo sự chắc khỏe, tất cả nhấn mạnh sự gắn kết cùng
kề cai sát cảnh bên nhau trong chiến đấu của những người lính. Họ không chỉ gặp gỡ ở
lý tưởng cao đẹp bảo vệ tổ quốc mà còn cùng nhau trải qua khó khăn gian khổ đời lính
“Đêm rét chung chăn thành đội tri kỉ”. Như vậy, tình đồng chí không chỉ đến từ những
điều lớn lao cao cả mà còn từ những điều giản dị, đời thường; tình cảm của họ thật gắn
bó, bền chặt bởi trước khi là đồng chí họ còn là tri kỉ của nhau. Câu thơ thứ bảy với kết
cấu đặc biệt: chỉ gồm một từ “đồng chí” và dấu chấm than đã vang lên như một phát
hiện, khẳng định về một tình cảm mới mẻ, lớn lao gắn bó keo sơn. Câu thơ là một điểm
nhấn nổi bật của bài, là bản lề khép mở hai đoạn thơ. Tóm lại, cơ sở hình thành tình
đồng chí của Chính Hữu được lí giải bằng chữ “đồng” tạo sự ngày càng xích lại gần
nhau của 2 con người, 2 tâm hồn, từ đồng cảnh, đồng ngũ, đồng cảm đến đồng chí gắn
với tri kỉ, đồng chí không còn là một khái niệm khô khan mà chứa chan bao cảm xúc.
Biểu hiện và sức mạnh tình đồng chí:
Qua mười câu thơ giữa bài thơ “Đồng chí”,Chính Hữu đã làm rõ được vẻ đẹp và sức
mạnh của tình đồng đội, đồng chí của người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
Thật vậy, vẻ đẹp của tình đồng chí là nói về những cảm thông sâu sắc về tâm tư, nỗi
lòng thầm kín của những người lính cùng chung chiến hào: “Ruộng nương anh gửi bạn
thân cày”. Chữ “tôi” biến mất, chỉ còn “anh” và “bạn” bới nói về anh mà cứ như nói về
mình, hiểu anh, hiểu bạn mà cứ như hiểu mình, thì quả là tri âm, tri kỉ. Những hình ảnh
rất thật lại xuất hiện: “Ruộng nương anh”. “gian nhà không”, “gió lung lay”, đấy là những
tài sản nghèo nàn mà thân thiết, quý giá cua rnhuwnxg người lính, đang vẫy gọi bàn tay
của họ chăm sóc, giữ gìn. Vậy mà chữ “mặc kệ” vang lên thật quyết liệt thể hiện thái độ
rất đẹp: hy sinh tình riêng vì nghĩa chung, đặt vận mệnh đất nước lên trên vận mệnh gia
đình. Nhưng quyết ra đi không có nghĩa là chối bỏ, khinh bạn, bởi người lính vẫn luôn
nhớ về quê hương của mình ‘Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính’. Câu thơ sử dụng
biện pháp nhân hóa sinh động cùng hình ảnh hoán dụ “giếng nước”-“gốc đa” đã thể
hiện được nỗi nhớ hai chiều da diết: quê hương nhớ người lính và người lính nhớ nhà,
nhớ quê hương.Bên cạnh việc chia sẻ những nỗi niềm, họ còn sẻ chia những khó khăn
gian lao của cuộc đời người lính. Chữ “anh “ đã gợi tả đó là lời nói hộ nỗi lòng người
bạn, người lính đã lấy chính nỗi nhớ, niềm thương trong lòng mình để hiểu cho nỗi lòng
bạn, đó là sợi dây tương thân, tương ái, sự thấu hiểu sẻ chia thật thiết tha, cảm
động.Sự từng trải của cuộc đời người lính đã cho nhà thơ biết được cơn sốt rét rừng
ghê gớm”cơn ớn lạnh” hành hạ, cùng thiếu, cùng rách “áo anh rách vai”, “quần tôi có
vài mảnh vá” và họ gắn bó với nhau từ đó.Bằng việc sử dụng phép liệt kê cùng những
hình ảnh chân thực và cô đọng, những câu thơ tiếp theo của đoạn đã diễn tả được sự
đồng cam cộng khổ của những người lính đã giúp các anh vượt qua thiếu thốn, gian
truân của hiện thực khốc liệt. Tình đồng chí còn giúp họ có sức mạnh vượt lên buốt giá,
câu thơ “Miệng cười buốt giá/ Chân không giày”khiến cho người đọc vừa xót thương

11
vừa cảm động. Xót thương bởi đó là nụ cười trong buốt giá, gian lao nhưng cảm động
bởi đó là nụ cười của ý chí, tinh thần, là nụ cười cho sự sẻ chia, cảm thông. Hình ảnh
đặc sắc nhất của đoạn thơ có lẽ là “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” một cử chỉ mộc
mạc, lặng lẽ thật sâu lắng. Đó không chỉ là cái bắt tay thông thường mà là đôi bàn tay
tự tìm đến nhau để trao nhau hơi ấm, là cử chỉ cảm động chan chứa niềm yêu thương
chân thành. Chính những biểu hiện nhỏ bé, giản dị chứa đầy yêu thương của tình đồng
chí ấy đã tạo nên sức mạnh tinh thần để những người lính vững vàng, vượt qua mọi
thử thách gian lao của cuộc kháng chiến trường kì và làm nên chiến thắng vẻ vang.
Như vậy, qua những hình ảnh chân thực cụ thể mà giàu sức khái quát cùng với những
hình ảnh thơ sóng đôi đối xứng, mười câu thơ giữa của bài thơ “Đồng chí” đã khắc họa
thành công vẻ đẹp, sức mạnh của những người lính Cách mạng Việt Nam trong những
năm tháng gian khổ của cuộc kháng chiến bảo vệ đất nước.
Bức tranh đẹp về tình đồng chí:
Bức tranh đẹp về tình đồng chí đã được nhà thơ Chính Hữu khắc họa rõ nét qua ba
câu cuối của bài thơ “Đồng chí”. Thật vậy, ba câu thơ cuối đã dựng nên một bức tượng
đài sừng sững về tình đồng chí của những người lính Cách Mạng- trong hoàn cảnh
khắc nghiệt rừng hoang sương muối những người lính vẫn “Đứng cạnh bên nhau chờ
giặc tới”. Ở đây, “chờ” là động từ gợi tư thế tự tin, chủ động sẵn sàng chờ giặc tới, một
tư thế thành đồng vách sắt trước kẻ thù. Ngoài ra, ở câu thơ này nhà thơ còn đưa thêm
vào hai từ đồng nghĩa “cạnh” và “bên” để nhấn mạnh sự gắn kết kề vai sát cánh, cùng
chung hiểm nguy gian khổ nơi sự sống- cái chết chỉ cách nhau trong gang tấc, đã làm
mờ nhòa đi cái ác liệt của chiến tranh, làm cho bức tranh đẹp về tình đồng chí thêm nổi
bật. Hai câu thơ cuối đoạn thơ còn đối nhau thật chỉnh đã gợi ra được khung cảnh và
toàn cảnh. Khung cảnh thật lạnh lẽo buốt giá, toàn cảnh là tình đồng chí đồng đội thật
ấm áp. Phải chăng chính nhờ tình đồng chí đã giúp người lính vượt lên trên cả sự khắc
nghiệt của thời tiết, sưởi ấm lòng các anh giữa rừng hoang sương muối giá lạnh! Tình
đồng chí còn khiến người lính vẫn bình thản và lãng mạn trước thềm cuộc chiến, khiến
họ thấy cuộc đời thật đẹp đẽ thơ mộng ngay giữa hiểm nguy, gian lao. Tình đồng chí
thật sự kết tinh và được đẩy cao trào trong một chi tiết bất ngờ chứa đựng tư tưởng
sâu sắc: “Đầu súng trăng treo”, đây là câu thơ đa nghĩa hiện thực, đầy lãng mạn và
giàu ý nghĩa biểu tượng. Về nghĩa hiện thực, câu thơ gợi hình ảnh rất thật, những
người lính cầm súng chiến đấu trong những đêm trăng giữa rừng, nhìn lên trăng như
treo lơ lửng trên đầu ngọn súng. Về ý nghĩa biểu tượng, súng và trăng là sự kết hợp
giữa hiện thực và lãng mạn, gần và xa, chiến tranh và hòa bình, chiến sĩ và thi sĩ, chất
thép và chất thơ. Các mảng tương phản ấy bổ sung cho nhau làm nên vẻ đẹp hình
tượng người lính và vẻ đẹp của tình đồng chí. Sự kết hợp hài hòa của những mặt
tương phản khiến ta hiểu rằng: người lính không chỉ dũng cảm mạnh mẽ mà còn rất
lãng mạn, mộng mơ, yêu đời, nhạy cảm với cái đẹp; đó là biểu hiện của vẻ đẹp tâm hồn.
Đồng thời ta còn cảm nhận được chính sức mạnh của tình đồng chí đã khiến người lính
tự tin, bình thản, lãng mạn, mộng mơ ngay trước thềm cuộc chiến, ngay trước hiểm
nguy. Như vậy, bằng việc xây dựng được hình ảnh thơ độc đáo giàu sức gợi, ba câu
thơ cuối đã kết tinh được hình ảnh người lính và tình đồng chí của họ, đó là bức tranh
đẹp về tình đồng đội, đồng chí của những người lính Cách mạng Việt Nam trong thời kì
kháng chiến chống Pháp.

12
Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Phạm Tiến Duật thuộc thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ cứu
nước cùng với các gương mặt khác như Nguyễn Duy, Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh, Thanh
Thảo hay Xuân Quỳnh. Khác với thơ Nguyễn Duy: giản dị, sau sắc, giàu tính triết lí, thơ Phạm
Tiến Duật lại sôi nổi, trẻ trung, tự nhiên, phóng khoáng và “Bài thơ về tiểu đội xe không khí”
cũng không ngoại lệ. Bài thơ là vẻ đẹp hình tượng người lính lái xe Trường Sơn, họ là tiêu
biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam ở Trường Sơn trong những năm tháng mưa bom bão đạn
khắc nghiệt . Đó là một thế hệ chịu nhiều gian khổ, hi sinh nhưng vẫn luôn toả sáng phẩm
chất anh hùng cách mạng và bộc lộ sự lãng mạn, trẻ trung của tâm hồn:
“Xe dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
Khổ 1+2: Tư thế ung dung, hiên ngang
Qua hai khổ thơ đầu của Bài thơ về tiểu đội xe không kính, nhà thơ Phạm Tiến Duật
đã khắc họa thành công chân dung người lính lái xe Trường Sơn thật hiên ngang, tự tin
nhưng cũng không kém phần trẻ trung, lãng mạn. Thật vậy, người chiến sĩ lái xe mang
trong mình một phong thái ung dung, tự tại, cùng tư thế tự tin, hiên ngang. Việc địch
ném bom làm hư hại những chiếc xe không làm nhụt chí người chiến sĩ, thay vào đó,
họ “ung dung” ngồi trong buồng lái. Việc đảo chữ “ung dung” lên đầu câu đã làm nổi
bật được phong thái tự tin của người lính. Thêm vào đó là sự kết hợp giữa phép lặp từ
“nhìn” cùng nhịp thơ 2/2/2 đều đặn trong câu “Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”, gợi lên
sự bình thản nội tâm của họ. “Nhìn thẳng” là cái nhìn trang nghiêm, bất khuất, nhìn
thẳng vào gian khổ, hi sinh mà không run sợ, né tránh. Tư thế của họ mới thật đàng
hoàng làm sao! Không chỉ có vậy, người chiến sĩ có tâm hồn rất lãng mạn, trẻ trung.
Chiếc xe không kính chắn đã khiến họ đối mặt bao khó khăn, hiểm nguy. Biện pháp liệt
kê, nhân hóa, so sánh đã thể hiện rõ nhất hình ảnh “gió vào xoa mắt đắng’ rồi cả “sao
trời” và “cánh chim” đột ngột, bất ngờ “như sa như ùa vào buồng lái”. Hìnhảnhvề bầu
trời, ngôi sao và cánh chim vừa là hình ảnh thực cũng là thơ, nảy lên trên con đường
khốc liệt và được người chiến sĩ cảm nhận bằng một tâm hồn trẻ trung, lãng mạn.
Chiếc kính xe vỡ từ cái mất đã nối người lính với bầu trời, mặt đất, hé lộ diện mạo tinh
thần thầm kín của con người họ. Tóm lại, bằng việc sử dụng các biện pháp tu từ cùng
ngôn ngữ mang tính khẩu ngữ, gần gũi, Phạm Tiến Duật đã rất thành công miêu tả hình
ảnh người lính lái xe Trường Sơn những năm kháng chiến chống Mĩ thật kiên cường,
ung dung, lãng mạn, yêu đời, yêu thiên nhiên và cũng cháy bỏng tình yêu nước; qua đó,
ta còn cảm nhận được sự ngượng mộ, ngợi ca của tác giả với những con người quả
cảm ấy.
Khổ 3+4: Tinh thần lạc quan, bất chấp gian khổ
Qua khổ thơ thứ 3 và thứ 4 của “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, tác giả Phạm Tiến
Duật đã khắc họa rõ nét tinh thần dũng cảm, lạc quan, coi thường gian khổ hiểm nguy
của người lính lái xe Trường Sơn. Không có kính chắn gió, người lính lái xe phải nếm
trải đủ mọi gian khổ nhưng họ vẫn vượt lên với thái độ hiên ngang, bất chấp mọi hiểm
nguy với tinh thần quả cảm. Những ngôn từ đậm đặc màu sắc khẩu ngữ, những lời
nói đời thường mộc mạc, nôm na “ừ thì..chưa cần… cười haha” là ngôn ngữ của một
thái độ ngang tàn, bất chấp thử thách. Nó mang cái lạc quan tin tưởng của những

13
người lính, tin vào mình, tin vào cuộc chiến đấu. Tiếng cười haha vang lên rộn rã khỏe
khoắn, hồn nhiên phá tan cái căng thẳng của chiến trường, mang tư thế chiến thắng
của sự sống trước cái chết. Đặc biệt hình ảnh “như người già” hài hước vui nhộn khiến
người lính hiện lên giản dị mà dầy dạn, phong trần. bên trong lớp bụi kia là nét kiêu
hùng, lãng mạn của những con người đứng cao hơn hoàn cảnh và chế ngự hoàn cảnh.
Câu thơ “mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi” có tới 6 thanh bằng diễn tả cái phơi phới,
thênh thênh đầy nghị lực, bất chấp mọi gian khổ. Với lời thơ nhẹ nhõm, trôi chảy như
những chiếc xe vun vút bươn trải trên đường, có chỗ lại nhịp nhàng trong sáng như
văng vẳng tiếng hát vút cao, Phạm Tiến Duật đã làm toát lên sự dũng cảm lạc quan yêu
đời, tinh thần bất chấp gian khổ làm nên vẻ đẹp đầy chất thơ của tuổi trẻ Việt Nam
trong những năm chống Mĩ.
Khổ 5+6: Tình đồng đội sôi nổi, gắn bó thắm thiết
Khổ thơ thứ năm và thứ sáu của “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của nhà thơ
Phạm Tiến Duật đã cho thấy hình ảnh những người chiến sĩ lái xe Trường Sơn trẻ
trung, hồn nhiên, tếu táo nhưng có tình đồng đội gắn bó thắm thiết, cảm động trong tình
đồng chí vào sinh ra tử. Những chiếc xe không kính vượt qua mưa bom, bão đạn, núi
cao, vực sâu đã tập hợp thành một tiểu đội đặc biệt không hẹn mà quen nhau, đó là
tình cảm rộng lớn của những người đồng chí cùng chung một chiến tuyến, cùng chiến
đấu hi sinh vì miền Nam ruột thịt. Một cái đẹp bất ngờ nữa từ chính khoang cửa vỡ của
xe không kính, hiện lên là một cái bắt tay độc đáo “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”.
Từ cái kính vỡ, hiện lên cái bắt tay của những người lính trẻ thời chống Mĩ thật nồng
ấm và khỏe khoắn, khiến tai họa chiến tranh kia như mất đi vẻ thảm khốc, là cái cớ cho
người ta vui vẻ lạc quan. Như vậy, cái kính vỡ hay nói đúng hơn là sức mạnh tàn phá
của chiến tranh, của bạo lực đã tỏ ra bất lực trước sức mạnh tinh thần của con người.
Cái đẹp còn thể hiện trong cái nhìn về gia đình, định nghĩa về gia đình đơn giản đến bất
ngờ “Chung bát đĩa nghĩa là gia đình đấy. Đâu cần chung huyết thống, chỉ cần chung
bát đũa- nghĩa là cùng từ 4 phương trời tụ hội về đây cùng chung nhiệm vụ, chung lí
tưởng- đó là một gia đình lớn. Sau những phút nghỉ ngơi thoáng chốc, cái ăn cái ngủ
thật giản dị gian khó nhưng có tình đòng đội, người lính vẫn vui nhộn, lạc quan và lại
hăm hở trên đường “Võng mắc chông chênh đường xe chạy/ Lại đi lại đi trời xanh thêm”
Từ láy ‘chông chênh’ đã gợi tả trạng thái không cân bằng, không chắc chắn và nhịp
nghiêng của cánh võng trên cabin, giúp ta hình dung về con đường gập ghềnh khúc
khuỷu đầy khó khăn gian khổ mà người lính phải đối mặt trên con đường ra trận. Câu
thơ “Lại đi lại đi trời xanh thêm” với cách ngắt nhịp 2/2/3 dõng dạc, dứt khoát, mạnh
mẽ như quân lệnh khẳng định đoàn xe không ngừng tiến tới, kiên cường và khẩn
trương. Phép lặp “lại đi, lại đi” như vòng quay của bánh xe, gợi chiếc xe băng băng ra
tiền tuyến. Trời xanh thêm vừa là hình ảnh thực vừa trời xanh của hi vọng, hồn họ
“xanh thêm” chứa chan hi vọng, lạc quan dồi dào. Quả thật, chỉ với tám câu thơ ngắn
cùng với lời thơ giản dị, nhà thơ Phạm Tiến Duật không chỉ giúp ta nhận ra được vẻ
đẹp tâm hồn sôi nổi, gắn bó lạc quan yêu đời của người lính lái xe Trường Sơn mà còn
khiến ta thêm tự hào vệ họ những người anh hùng, người lính của thế kỉ XX.
Khổ 7: Lòng yêu nước, ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam
Qua khổ thơ cuối của “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” , tác giả Phạm Tiến Duật
đã khắc họa bức chân dung tuyệt đẹp về lòng yêu nước, ý chí quyết tâm giải phóng
miền Nam của của người lính lái xe Trường Sơn. Thật vậy, đoạn thơ được xây dựng
dựa trên một cái tứ thú vị, từ sự tương phản giữa cái cái có và cái không, thứ đã

14
được tổng hóa thành cái cao cả, đó là lý tưởng sáng ngời của người lính, đối lập với vẻ
bên ngoài của chiếc xe. Trải qua mưa bom bão đạn, những chiếc xe ban đầu bị “bom
giật, bom rung” nay còn hứng chịu những mất mát “Không có kính rồi xe không có đèn/
Không có mui xe thùng xe có xước”. Nhịp thơ dồn dập đã diễn tả những khó khăn
chồng chất mà quân thù gây ra; điệp từ “không có” được nhắc lại 3 lần cùng với hình
ảnh liệt kê “đèn”,“mui xe” ,“thùng xe” đã cho thấy mức độ khốc liệt, tàn phá của chiến
tranh. Nhưng những thách thức, khó khăn ấy lại làm nổi bật lên vẻ đẹp của người chiến
sĩ lái xe. Hai câu thơ sau đã khẳng định một cái “có” “Xe vãn chạy vì miền Nam phía
trước/ Chỉ cần trong xe có một trái tim” và lí giải thật bất ngờ tại sao những chiếc xe bị
hỏng hóc ấy vẫn có thể băng băng ra mặt trận. Phó từ “vẫn” chỉ sự tiếp diễn, khẳng
định đanh thép rằng: bom đạn quân thù có thể làm biến dạng những chiếc xe nhưng
không thể đè bẹp được ý chí người lính. Phép chơi chữ tài hoa và cặp từ “không/có”
tạo ra sự tương phản giàu ý nghĩa: xe không có ‘đèn’, không có ‘mui xe’…nhưng quan
trọng là có 1 trái tim. Hình ảnh “trái tim” vừa là hình ảnh hoán dụ, vừa là ẩn dụ cho lý
tưởng lớn vì miền Nam, lý tưởng đấu tranh thống nhất đất nước. Từ “chỉ cần” như
muốn nhấn mạnh, khẳng định trái tim, ý chí quyết đấu vì miền Nam ruột thịt là cội
nguồn sâu thẳm nhất của chúng ta trong cuộc đối đầu lịch sử với đế quốc Mỹ. Hóa ra
sức mạnh quyết định trong chiến tranh không phải là sức mạnh vũ khí mà là sức mạnh
tinh thần con người, con người mang trái tim nồng nàn yêu nước, mang ý chí kiên
cường dũng cảm, sự lạc quan và niềm tin vững vàng vào tương lai. Hình ảnh trái tim
là nhãn tự của toàn bài, vừa làm nổi bật chủ đề tác phẩm vừa làm tỏa sáng vẻ đẹp
trong tâm hồn người lính lái xe trên tuyến đường TS trong những năm kháng chiến
chống Mỹ gian khổ mà hào hùng. Tóm lại, khổ thơ cuối đã hội tụ tất cả những vẻ đẹp
tỏa sáng của người chiến sĩ lái xe TS- một thế hệ thanh niên VN, một thời kì chống Mỹ
ác liệt để lại bao xúc động sâu lắng trong lòng người đọc.

Đoàn thuyền đánh cá


“Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm
Nỗi nhớ thương không biết đã tan chưa?”
(Mai sau)
Nhà thơ Huy Cận được biết đến trước Cách Mạng trong phong trào thơ mới với cảm hứng
về thiên nhiên, vụ trụ mang âm hưởng củ nỗi buồn, “nỗi sầu vạn cổ”. Nhưng sau Cách Mạng
Tháng Tám, thơ của ông có thêm một nguồn tiếp sức mạnh mẽ và mới lạ đó là cảm hứng
ngợi ca cuộc sống và con người lao động mới mà có lẽ bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là thi
phẩm tiêu biểu của Huy Cận trong thời kì ấy. “Đoàn thuyền đánh cá” giúp ta thấy được vẻ
đẹp thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển khơi, qua đó ngợi ca khí thế lao động hăng
say, yêu đời của người lao động mới đang làm chủ cuộc sống và đất nước:
“Tập làm chủ, tập làm người lao động
Dám vươn mình cai quản lại thiên nhiên”
(Tố Hữu)
Khổ 1:
Bốn câu thơ mở đầu bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” đã vẽ ra trước mắt người đọc
bức tranh biển đêm và tinh thần lao động đầy hứng khởi của người dân chài khi màn
đêm dần buông xuống. Khung cảnh biển khơi được diễn tả khá đặc biệt: lúc hoàng hôn
dần buông xuống và thiên nhiên dọn dẹp chuẩn bị nghỉ ngơi. Ngay ở câu thơ đầu tiên,

15
Huy Cận đã sử dụng biện pháp tu từ so sánh, gợi cho ta hình dung về mặt khổng lồ
như hòn than đỏ rực đang từ tự lặn xuống đại dương khiến cả không gian bao la của
biển đêm trở nên nồng ấm, khung cảnh biển đêm thật kì vĩ, huy hoàng và tráng lệ. Tiếp
đó, hoạt động của thiên nhiên, vũ trụ đã được ví như hoạt động của con người qua các
động từ “cài then”, “sập cửa” gợi bước đi mau chóng của thời gian và một liên tưởng
bất ngờ, thú vị: vũ trụ giống như một ngôi nhà khổng lồ đang sập xuống còn những đợt
sóng chạy ngang mặt biển là then cài. Thiên nhiên được nhân hóa giống như con
người, cũng đang chuẩn bị nghỉ ngơi sau một ngày dài; nhờ thế, hành trình đến với
biển cả trở thành một cuộc trở về với không gian đoàn tụ, ấm áp, sum vầy. Hình ảnh so
sánh ở câu một kết hợp với nhân hóa ở câu hai vừa gợi sự hùng vĩ , tráng lệ như thần
thoại của biển đêm nhưng không hề tối tăm, lạnh lẽo mà lại rất gần gũi, ấm áp như ngôi
nhà thân thương. Lúc thiên nhiên dần chìm vào giấc ngủ cũng là lúc con người bắt đầu
hành trình lao động đầy hứng khởi “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi/ Câu hát căng
buồm cùng gió khơi”. Con người không rợn ngợp trước thiên nhiên mà hào hứng, ung
dung tự tin làm chủ cuộc chinh phục, khám phá vũ trụ. Chữ “lại” là phó từ gợi sự tiếp
diễn , vừa gợi thế chủ động của con người, qua đó chứng tỏ đoàn thuyền vẫn thường
xuyên ra khơi như vậy không biết bao nhiêu được đan kết khỏe khoắn và đầy lãng
mạn-“cánh buồm” “gió khơi”, “câu hát”. Biện pháp nói quá đã gợi liên tưởng đẹp đẽ,
lãng mạn, câu hát là bài ca lao động mang sức mạnh thể chất và tinh thần của con
người, hòa cùng với tiềm lực từ gió khơi của thiên nhiên đã thổi căng cánh buồm, đẩy
thuyền băng băng lướt ra khơi. Hình tượng câu hát còn xuyên suốt bài thơ tạo nên giai
điệu khỏe khoắn, hào hùng của người lao động mới làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc
đời. Tóm lại, chỉ với bốn câu thơ đầu, ta đã cảm nhận được một bức tranh thiên nhiên
tuyệt đẹp và niềm vui, khí thế lao động hăng say của những con người yêu nghề, yêu
biển.
Khổ 2:
Khổ 2 bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” đã vẽ nên bức tranh đẹp về thiên nhiên biển cả
và khí thế lao động hăng say của những người dân chài. Từ mặt biển bao la, câu hát
phơi phới bay lên khúc tráng ca lao động, ngợi ca sự giàu đẹp của Tổ quốc. Qua đó
còn gửi gắm mong ước trời yên biển lặng cho một chuyến ra khơi bội thu để đem lại
cuộc sống ấm no cho dân chài và làm giàu cho quê hương. Nghệ thuật ẩn dụ qua từ
“cá bạc” vừa diễn tả màu sắc trắng, vừa gợi giá trị của cá, sự giàu có của thiên nhiên.
Thêm vào đó, hình ảnh so sánh đẹp “Cá thu biển Đông như đoàn thoi” gợi sự đông đúc
của cá thu bơi lội ngang dọc trên mặt biển lấp lánh ánh sáng và sắc màu như một bức
tranh sơn mài. Nhưng có lẽ đẹp đẽ nhất phải kể đến hình ảnh “Đêm ngày dệt biển
muôn luồng sáng”: cá bơi lội tung tăng vun vút tạo nên muôn luồng sáng trắng loang
loáng dệt nên biển cả bao la. Từ dệt biển đến dệt lưới là phép chơi chữ thú vị và ý
nghĩa, biển trù phú, đẹp đẽ sẽ cho ta đem lại cho ta sự giàu đẹp. Đại từ “ta” được sử
dụng đầy kiêu hãnh và tự hào, không còn là cái cảm giác cô đơn, nhỏ bé, gợi niềm say
mê của người đánh cá.Sự say mê vẻ đẹp của biển đã làm giảm bớt nỗi nhọc nhằn, vất
vả trong công việc đánh cá, đem lại niềm vui và sức mạnh cho con người đang chinh
phục thiên nhiên, làm chủ cuộc đời. Cùng với cánh buồm của đoàn thuyền, cánh buồm
của cảm hứng thơ Huy Cận cũng kịp căng ra và băng băng ra khơi. Như vậy, qua
những lời thơ với âm hưởng tươi vui, khổ thơ không chỉ gợi nên sự giàu đẹp của biển
mà còn giúp ta cảm nhận được không khí lao động khẩn trương sôi nổi và sự gắn bó
thiết tha của người lao động với công việc và biển cả thân thương.

16
Khổ 3:
Vẻ đẹp của cuộc sống lao động và tư thế của người lao động đánh cá trên biển Đông
đã được khắc họa rõ nét trong khổ thơ thứ ba bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Cảm
hứng lãng mạn dã giúp nhà thơ phát hiện những vẻ đẹp đánh cá trên biển trong đêm
trăng với niềm vui phơi phới, khỏe khoắn của người lao động làm chủ cuộc đời, làm
chủ biển trời quê hương.Ta thấy trên mặt biển có một con thuyền đang lướt trên sóng,
nhỏ bé trước biển cả bao la giờ qua cái nhìn của nhà thơ mà trở nên thật kì vĩ, lớn lao,
ngang tầm với vũ trụ: "Thuyền ta lái gió với buồm trăng/ Lướt giữa mây cao với biển
bằng". Ánh trăng phủ lên vạn vật một tấm màn mờ ảo, thứ ánh sáng ấy như hòa làm
một với cánh buồm, tạo nên cánh buồm trăng. Hình ảnh phóng đại làm con thuyền
sánh ngang với nhiều hình ảnh kì vĩ của thiên nhiên như: "gió", "mây cao", "biển bằng"
phảng phất phong vị thơ cổ điển nhưng cũng đậm chất hiện thực, một con thuyền có
gió làm người cầm lái, có trăng làm buồm, lướt trên mặt biển bằng phẳng, giữa trời mây
cao đã gợi sự hòa hợp nhịp nhàng giữa con thuyền với biển trời. Con thuyền ấy cũng
chính là con người, họ mang tầm vóc lớn lao, là trung tâm của vũ trụ, họ chinh phục và
làm chủ thiên nhiên "Ra đậu dặm xa dò bụng biển/ Dàn đan thế trận lưới vây giăng".
Con người lái thuyền băng băng lướt sóng ra khơi để dò bụng biển, công việc đánh cá
được dàn đan một thế trận hào hùng đã gợi sự khéo léo của người dân chài như
những người nghệ sĩ và tâm hồn phóng khoáng, chinh phục biển khơi của họ. Như vậy,
tầm vóc con người và đoàn thuyền đã được nâng lên, hào nhập vào kích thước thiên
nhiên, vũ trụ. Quả thật, với việc sử dụng thành công nghệ thuật ẩn dụ, nói quá, khổ thơ
đã khắc họa rõ nét tư thế, tinh thần chủ động, sự hăng say lao động khẩn trương của
người lao động để khám phá và chinh phục thiên nhiên làm giàu cho quê hương đất
nước.
Khổ 4:
Khổ bốn của bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” đã phác họa một bức tranh kì thú về sự
giàu đẹp của biển cả quê hương. Ở câu thơ đầu tiên, tên các loài cá đã được liệt kê: cá
nhụ, cá chim, cá đé, cá song, chúng đều là các loài cá quý ở vùng biển nước ta đem lại
những giá trị lớn lao về kinh tế cho con người, diễn tả sự giàu có của biển trời quê
hương . Biển không chỉ giàu đẹp mà còn rất đẹp, đẹp một cách thơ mộng. Khi màn
đêm buông xuống, trời khuya dần và ánh trăng bắt đầu lên, soi chiếu mặt biển, ta có
thể tưởng tượng giữa không gian bao la của biển khơi, giữa ánh sáng mờ ảo, dịu dàng
mà mơ hồ, vẻ đẹp của biển hòa cũng với màu sắc của muôn loài cá. Huy Cận đã sử
dụng một loạt các tính từ: "lấp lánh", "đen", "hồng", "vàng chóe", tạo nên một bức tranh
sơn mài nên thơ và đầy chất lãng mạn. Cá song thân dài với chấm đen, hồng đang lao
vào luồng nước quả là một hình ảnh ẩn dụ độc đáo. Tuy nhiên "cái đuôi em quấy trăng
vàng chóe" mới là hình ảnh đẹp nhất. Trăng in bóng xuống mặt nước, được những con
cá quẫy đuôi như quẫy tan ánh trăng tan ra. "Đêm thở sao lùa nước Hạ Long" lại là một
hình ảnh nhân hóa thú vị, những tưởng, tiếng thở của biển đêm chính là ánh sao lùa
sóng nước, hòa với tiếng gõ thuyền trong nhịp điệu hối thúc của đêm tàn... Nhưng
tưởng tượng của nhà thơ được cắt nghĩa thật bất ngờ: sao lùa làn nước Hạ Long làm
nên tiếng thở của màn đêm. Hình ảnh trên bầu trời chi chít sao chiếu sáng xuống mặt
biển, sóng đu đưa như lùa ánh sao nơi đáy nước đã khiến biển đêm không còn tĩnh
lặng, xa lạ, huyền bí mà gần gũi, hòa nhập với công việc khẩn trương của con người.
Đêm được miêu tả như một sinh vật đại dương, nhịp sóng thành nhịp thở phập phồng
của vũ trụ. Đêm được nhân hóa như một lồng ngực trẻ trung, lãng mạn, khỏe khoắn,

17
căng tràn sức sống. Hình ảnh này khiến biển thực sự là một thực thể sống, sinh thể ấy
hồi hộp, phập phồng, chờ đợi bàn tay con người khám phá. Đây là một hình ảnh lạ- một
sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ Huy Cận khiến cảnh thiên nhiên thêm sinh động. Bằng
việc sử dụng thành công nghệ thuật liệt kê, ẩn dụ cùng với nhiều tính từ chỉ màu sắc,
khổ thơ đã gợi ra được bức tranh cảnh biển đêm lấp lánh ánh bạc của cá, ánh vàng
của trăng, lốm đốm ánh sao hòa cùng ánh sáng nước đã tạo nên một bức tranh vừa
thực vừa kì ảo, lãng mạn và đắm say.
Khổ 5:
Khổ thơ thứ năm của bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” (Huy Cận ) đã cho ta thấy không
khí lao động náo nức và ân tình thiết tha, sâu nặng của người dân chài với biển trời quê
hương.Thậy vậy, mở đầu cho không khí lao động náo nức của người dân chài được
thể hiện qua lời hát. Lời hát của người dân chài được cất lên giữa biển trời bao la “Ta
hát bài ca gọi cá vào”, “tiếng hát” đã theo người dân chài từ đầu cuộc hành trình lao
động giờ đây lại lại cùng họ cất lên để gọi cá vào lưới. Ở câu thơ này, đại từ “ta” được
lặp lại một cách khéo léo vừa tiếp tục khẳng định tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh của
người lao động vừa bày tỏ được sự phấn chấn, tình yêu lao động của người dân chài.
Thiên nhiên cũng góp nhạc cho con người “Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”, trăng in
mặt nước, sóng xô, bóng trăng như gõ vào mạn thuyền, tạo nên nhịp trăng đổ xô cả
vào lưới; nhịp thiên nhiên như hòa âm với nhịp con người tạo nên bản hòa tấu lay động
đầy say mê. Thiên nhiên không chỉ góp nhạc mà còn cóp giàu cho con người, cho nên
con người không chỉ chinh phục thiên nhiên mà còn biết ơn thiên nhiên: “Biển cho ta cá
như lòng mẹ”. Phép so sánh vừa đầy đặn về tấm lòng, vừa sâu sắc về ý thức: coi thiên
nhiên như là mẹ, là cái nôi nuôi lớn, là nguồn sống bất tận, là quà tặng tuyệt vời của tạo
hóa. Con người vừa khai thác vừa biết trân trọng thiên nhiên bới bất kính, xúc phạm với
thiên nhiên sẽ gây cho con người mối họa lớn. Hai câu thơ cuối vừa khép lại khổ thơ
vừa là lời cảm tạ biển bao la, trĩu nặng yêu thương. Quả thật, bằng việc sử dụng thành
công biện pháp nghệ thuật so sánh cùng với bút pháp lãng mạn và cảm hứng lao động
tràn đầy, nhà thơ Huy Cận đã khắc họa rõ nét không khí lao động náo nức của người
dân chài qua đó cho thấy được vẻ đẹp của người lao động và cảm xúc tự hào của tác
giả trước cuộc sống lao động hăng say của đất nước.
Khổ 6:
Không khí lao động hối hả, khẩn trương của người ngư dân để kết thúc một ngày lao
động đã được khắc họa thật rõ nét qua khổ thơ thứ sáu của bài thơ “Đoàn thuyền đánh
cá”. Ngay ở câu thơ đầu “Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng”, hình ảnh “sao mờ” đã vẽ ra
sự vận hành nhịp nhàng của con người và vũ trụ. Mặt trời đang cố chiến thắn bóng
đêm, con người đang chạy nốt những bước cuối cùng trên đường đua vinh quang;
người dân chài thì kéo lưới còn vũ trụ thì kéo bình minh lên. Không khí lao động trở nên
thật gấp rút, hối hả khi người ngư dân kéo những mẻ lưới cuối cùng, kết thúc ngày lao
động trên biển. Sự hối hả được diễn tả rõ nét qua từ “kịp” và hình ảnh “kéo xoăn tay”
thật tạo hình và gân guốc, chắc khỏe, gợi những đường cơ bắp cuồn cuộn kéo lên
những mẻ lưới nặng cá bạc, cá vàng- một vẻ đẹp được tạo bới nắng, gió, cái mặn mòi
rất riêng của miền biển. Chữ “lóe” vừa gợi bước đi của thời gian từ đêm sang ngày,
vừa nhắc đến sự thay đổi của không gian, khi bóng đêm giã từ vũ trụ nhường chỗ cho
ánh sáng, lại vừa liên tưởng đến những mẻ cá tươi nặng trĩu. Những con cá nhảy nhót
lao xao dưới ánh hồng của bình minh làm ấm bức tranh, làm lóe sắc bạc, sắc vàng, hay
chính là vàng bạc trong kho trời vô tận thưởng công cho sự lao động cần cù của con

18
người, và niềm hân hoan của người dân chài về một mẻ cá bội thu, một tương lai đẹp
đẽ. Hoạt động cuối cùng của người dân chài trùng lặp với nhịp tuần hoàn của vũ trụ
“Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”, câu thơ nhịp 2/2/3 cùng ba động từ liên tiếp “xếp”,
“lên”, “đón” đã gợi tả mọi công việc diễn ra trên biển của những người ngư dân, tuần tự
mà cũng rất khẩn trương để kịp đưa đoàn thuyền trở về bến. Công việc lao động của
người ngư dân hoàn thành trong niềm vui thắng lợi nhuốm vào vẻ đẹp của thiên nhiên
khi bình minh lên. Tất cả đã tạo nên bức tranh lao động lung linh mà nổi bật lên là hình
ảnh con người hiện ra với tư thế hiên ngang, gắn bó, chan hòa cùng thiên nhiên kì
vĩ.Có thể nói rằng bút pháp lãng mạn, sự phối hợp hài hào giữa chất hiện thực và chất
trữ tình qua khổ thơ thứ sáu vừa khắc họa được không khí hối hả, khẩn trương của
người lao động, vừa gợi được niềm tin yêu với cuộc sống mới, tình yêu lao động gắn
bó với quê hương của những người làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời.
Khổ 7:
Khổ cuối bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong
ánh bình minh rực rỡ. Câu thơ đầu khổ cuối “Câu hát căng buồm với gió khơi” đã lặp lại
câu cuối khổ đầu với biến thể nhỏ (chữ “cùng” được thay thế bằng chữ “với”), tạo phép
trùng điệp đầy âm vang của của khúc ca lao động. Đoàn thuyền ra khơi với tiếng hát,
kéo lưới trong tiếng hát, trở về vẫn hát vang, bốn chữ “hát” được lặp lại trong bài thơ
ngân nga một khúc ca không dứt, khúc ca của niềm vui, niềm tin vào cuộc đời, vào
tương lai của chính mình. Phép tu từ nhân hóa cùng cảm hứng thơ lãng mạn đã nâng
hình ảnh đoàn thuyền lên lớn lao về tầm vóc, mạnh mẽ trong khí thế, tràn đầy sức trẻ
trong cuộc chay đua cùng thời gian “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Hình ảnh
đoàn thuyền gợi sự liên tưởng khí thế, sức mạnh của người lao động, người ngư dân
trên biển; sau một hành trình lao động, họ không hề mệt mỏi mà vẫn khỏe khoắn, tràn
đầy khí thế như đang trong cuộc chạy đua thiên nhiên, vũ trụ. Mặt trời lên từ lòng biển
sâu được nhân hóa như đang đội biển làm tung những làn sóng trắng bao la để phô ra
vẻ huy hoàng, rực rỡ. Động từ “đội” gợi ấn tượng về sự khỏe khoắn, mạnh mẽ tràn đầy
sức sống; mặt trời hiện lên như một vị thần khổng lồ đang đội biển để báo hiệu ngày
mới. Kì diệu hơn nữa là hình ảnh “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. Về nghĩa tả thực,
những con cá tươi rói trong khoang thuyền phản chiếu ánh mặt trời lấp lánh trong đôi
mắt giống như muôn triệu mặt trời nhỏ ấm áp.Ngoài ra, mắt cá huy hoàng cùng hình
ảnh “nhô màu mới” còn là phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, diễm tả hình ảnh không
còn được cảm nhận bằng thị giác mà bằng cảm giác, là biểu tượng của tương lai tươi
sáng và một cuộc sống mới đang tràn về trên quê hương làng chãi cũng như mọi miền
tổ quốc. Tóm lại, khổ cuối bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là khúc ca khải hoàn đầy niềm
vui phơi phới của những người dân chài đang làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc sống
mới.

19
Bếp lửa
Chỉ có một tiếng gà mái nhảy ổ cục tác trong nắng trưa, chỉ có một bếp lửa chờn vờn
trong sương sớm mà có biết bao nghĩa tình, sao tha thiết, sâu lắng đến thế! Thì ra, có khi
những điều nhỏ nhoi, giản dị nhất lại ẩn chứa tâm tinh, chắt đọng những điều thiêng liêng,
là hiện hình của những tình cảm thiết tha chân thành không thể nào quên. “Tiếng gà trưa”
đánh thức Xuân Quỳnh những kỉ niệm về một thời ấu thơ sống trong tình yêu thương của
bà, còn với Bằng Việt, “Bếp lửa” lạ trở thanh một hình ảnh biểu trưng cho sự ấm áp nồng
đượm của tình bà cháu.
Khổ 1:
Ba câu thơ đầu của bài thơ “Bếp lửa” là những dòng hồi tưởng của đứa cháu
phương xa về bà được khơi nguồn từ hình ảnh bếp lửa. Điệp ngữ “bếp lửa” đã khắc tả
một ám ảnh tuổi thơ, gợi hình ảnh quen thuộc trong mỗi gia đình người Việt và tạo ra
điệp khúc mở đầu bài thơ. “Chờn vờn” gợi tả chính xác hình ảnh bếp lửa khi ẩn khi hiện,
khi âm ỉ, khi bốc sáng chói tỏa, khi nhảy nhót trong sương sớm. “Ấp iu” lại là từ kết hợp
đầy sáng tạo, miêu tả động tác nhóm lửa cẩn thận, khéo léo, tấm lòng chăm chút nâng
niu và bàn tay dịu dàng cần mẫn của người nhóm lửa. Như vậy, hình ảnh bếp lửa hiện
lên rất tự nhiên đã đánh thức dòng hồi tưởng của cháu về người bà vẫn thường nhóm
lửa mỗi sớm mai. Từ hình ảnh bếp lửa, người cháu nhớ đến bà “Cháu thương bà biết
mấy nắng mưa”. Hình ảnh ẩn dụ” nắng mưa” không phải chỉ đơn thuần nói đến thời tiết
mà nói tới thời gian kéo dài cùng với nỗi lo toan, nhọc nhằn, vất vả cơ cực của cuộc đời
bà, trong lòng cháu trào dâng một cảm xúc cảm thương bà mãnh liệt, thương người bà
âm thầm, lặng lẽ trong cảnh “biết mấy nắng mưa. Chữ “thương” đi liền với chữ “bà” là
hai thanh bằng đi liền nhau tạo ra âm vang ngân dài xao xuyến như như mỗi nhớ trải
dài của người cháu dành cho bà. ”. Ẩn sau dáng lửa là nhẫn nại dáng bà, thương bà
mà nhớ lửa, hình ảnh người bà đã gắn liền với bếp lửa, gắn liền với “mấy năm mưa”
âm thầm thức khuya dậy sớm, lo toan cho cả gia đình. Ngay từ đầu bài thơ, hình tượng
bếp lửa đã được tạo dựng và gắn kết với hình ảnh người bà, hai hình ảnh song hành,
đan quyện bập bùng cháy mãi trong cõi nhớ, khơi gợi nguồn cảm hứng của thi nhân.
Có thể nói, việc sử dụng thành công nghệ thuật điệp từ, hình ảnh ẩn dụ, khổ thơ niw
đầu bài thơ đã cho ta thấy được tình cảm bà cháu gắn liền với bếp lửa thật bền bỉ, sâu
nặng.
Khổ 2:
Khổ thớ thứ hai của bài thơ “Bếp lửa” đã khắc họa chân thực những kỉ niệm tuổi thơ
gian khó, nhọc nhằn của cháu bên bà. Ấn tượng đậm nét đầu tiên trong những năm
tháng tuổi thơ của cháu không phải là những câu chuyện cổ tích thần tiên hay thứ đồ
chơi trẻ con mà là mùi khói bếp cháu đã quen từ khi mới bốn tuổi “Lên bốn tuổi cháu đã
quen mùi khói”. Đây là chi tiết chân thực nhưng có sức gợi rất lớn: làn khói cay xè mắt
gợi lại bao đau xót trong lòng cháu về những tháng năm nghèo khổ, thiếu thốn. “Mùi
khói” và “khói hun” được diễn tả bằng chữ “cay” rất sâu sắc: vừa là cái cay của khứu
giác vừa là cái cay của cảm xúc, của dòng nước mắt ứa ra khi nhớ lại những khốn khó,
cơ hàn của tuổi thơ ấu, của gia đình, quê hương, đất nước. Như vậy, bằng bút pháp
miêu tả chân thực, giàu sức gợi, khổ thơ thứ 2 của bài thơ “Bếp lửa” đã gợi về một tuổi
thơ đắng cay ngọt bùi, gian khó mà nghĩa tình.
Khổ 3:

20
Khổ thơ thứ 3 của bài thơ “Bếp lửa” đã khắc họa chuỗi kỉ niệm 8 năm ròng kháng
chiến và những kỉ niệm tuổi thơ của tác giả bên bà. Dòng hồi ức được gắn với tiếng
chim tu hú, âm thanh quen thuộc của chốn đồng quê mỗi độ hè về cứ vang vọng, cuộn
xoáy trong lòng người con xa xứ. Có 11 câu thơ mà âm thanh ấy vang vọng đến 4 lần,
khi thì thảng thốt, khắc khoải,có lúc lại mơ hồ văng vẳng từ những cánh đồng xa; vừa
vẽ lên không gian mênh mông hưu quạnh, vụ mùa héo hắt đói kém, vừa thể hiện được
nỗi đơn độc, lạnh lẽo cả khao khát được chở che, nương tựa, ấp iu. Chính vì thế, tiếng
tu hú đã tạo nên sự tương phản đối lập giữa một bên là sự nhỏ nhoi, cô độc giữa không
gian mênh mông, một bên lại là tình bà ấm áp, vỗ về. Người cháu như đnag khắc ghi
vào lòng sự biết ơn đối với bà vì đã dành cho mình một tuổi thơ êm ấm dẫu còn nhiều
gian khó. Giống như bao gia đình Việt Nam thời kháng chiến, bố mẹ công tác ở chiến
khu, hai bà cháu thui thủi, nương tựa vào nhau trong ngôi nhà tranh nhỏ bé, hiu quạnh.
Biện pháp liệt kê “bà bảo”,”bà dạy”, “bà chăm” đã diễn tả thấm thía tấm lòng tấm lòng
đôn hậu, tình yêu thương bao la, sự chăm chút của bà với đứa cháu nhỏ. Ngoài ra, chữ
“bà” và “cháu” được điệp lại 4 lần gợi tả tình cảm bà cháu gắn bó, quấn quýt không rời
thật cảm động. Trong những năm tháng đen tối nhất, bà chính là ánh sáng, chỗ dựa
tinh thần vững chắc cho cháu vượt qua mọi gian khổ để tiếp tục hành trình dài rộng của
cuộc đời.
Khổ 4+5:
Hình ảnh người bà hiện ra thật vị tha, giàu đức ý chí, đức hi sinh trong khổ thơ thứ tư
và thứ năm bài thơ “Bếp lửa”. Trong những năm tháng sống cùng bà, có một kỉ niệm
cháu không thể nào quên, sự kiện giặc đốt làng “Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi”.
Trong đổ nát chiến tranh, ánh lên sự đùm bọc, cưu mang từ xóm làng, trong hoạn nạn,
ánh lên nghị lực của những người bà, người mẹ ở hậu phương muốn ghé đôi vai gầy
gánh bớt những gian khó nhọc nhằn để sẻ chia với những người ở tiền tuyến. Trong
đoạn thơ có một lời nói dối “Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”, một lời nói dối tốt lành,
làm yên lòng những người nơi tiền tuyến, lời nói dối làm sáng lên nhân cách cao đẹp
của bà. Bên cạnh ngọn lửa tàn bạo của kẻ thù, vẫn luôn sáng rực một ngọn lửa bền bỉ
chứa niềm tin dai dẳng của bà nhen nhóm lên sự sống bất diệt. Điệp từ “rồi”, “lại” đã
nhấn mạnh hình ảnh quen thuộc đậm sâu trong tâm trí cháu là dáng bà sớm chiều
nhóm lửa- một công việc đã thành thói quen hàng ngày suốt cuộc đời bà. Hình ảnh bếp
lửa được thay thế bằng hình ảnh ngọn lửa cụ thể hơn mang nghĩa ẩn dụ, tượng trưng
cho ánh sáng, hơi ấm và sự sống, hay chính là niềm yêu thương, nghị lực bà truyền
cho cháu. Khái quát hơn, đó chính là niềm tin của cả một dân tộc vào thời kì lịch sử vô
cùng khó khăn đó, niềm tin về một ngày mai hòa bình, một ngày mai tươi sáng và một
tương lai tốt đẹp hơn đang chờ phía trước. Hình ảnh của bà trong tâm hồn nhà thơ
không chỉ là người thắp lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa. Lửa ấy là lửa niềm tin,
lửa sức sống truyền đến các thế hệ mai sau.
Khổ 6:
Khổ thơ thứ sáu của bài thơ “Bếp lửa” (in trong tập “Hương cây bếp lửa”) của nhà
thơ Bằng Việt đã đã khắc họa những suy ngẫm, tình cảm chân thành của nhà thơ dành
cho người bà và hình ảnh bếp lửa. Trước hết là suy ngẫm về cuộc đời bà “Lận đận đời
bà biết mấy nắng mưa”. Từ láy “lận đận” cùng hình ảnh ẩn dụ “biết mấy nắng mưa” đã
diễn tả sâu sắc cuộc đời đầy gian truân, cực khổ của bà, cho thấy người cháu không
chỉ suy ngẫm mà, chiêm nghiệm về cuộc đời bà mà còn bộc lộ tình cảm yêu thương bà
da diết. Khoảng thời gian “mấy chục năm rồi” đã khái quát cả cuộc đời dài đằng đẵng

21
của bà với thói quen dậy sớm, nhóm lên bếp lửa ấm nồng nuôi cháu khôn lớn dù chỉ là
bữa khoai bữa sắn. Bà chính là hình ảnh người phụ nữ Việt Nam truyền thống vừa
nhẫn nại, nhân hậu, tần tảo, vừa bền bỉ tình yêu thương. “Mấy chục năm rồi” cũng là
khoảng thời gian để cháu nhận ra bếp lửa đã trở thành biểu tượng trọn vẹn của người
bà. Điệp từ “nhóm” được lặp lại đã nhấn mạnh và khẳng định ý nghĩa lớn lao của
những việc bà đã làm cho cháu con. Bà chi chút, tần tảo, chịu thương chịu khó một
nắng hai sương “Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm”, bà không chỉ nuôi dưỡng cháu
khoai sắn ngọt bùi hay “nồi khoai sắn ngọt bùi” mà quan trọng hơn cả bà đã nhen lên
trong cháu niềm yêu thương, tình ruột thịt nồng ấm, nhen lên niềm vui trong tình làng
nghĩa xóm quê hương, tình cảm gia đình gắn bó với tình cảm cộng đồng rộng lớn, ấm
áp. Bà còn gìn giữ những kỉ niệm thời thơ ấu đẹp đẽ cho cháu “Nhóm dậy cả những
tâm tình tuổi nhỏ”, khơi dậy, thức tỉnh tâm hồn và sức sống thanh xuân thơ ấu để cháu
khôn lớn nên người, để đưa cháu đi xa. Suy ngẫm của tác giả về bếp lửa đã được thể
hiện rõ nhất khi không nén được lòng mình, nhà thơ thốt lên xúc động “Ôi kì lạ và
thiêng liêng- bếp lửa!”. Tiếng thốt đầy ắp tâm tình, đó là sự hòa trộn, yêu thương trân
trọng lẫn lòng thành kính của người cháu dành cho bà, nhờ bà cháu mới nhận ra được
vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam: tuy cực khổ nhưng luôn sáng ngời tình yêu
thương và sức sống mãnh liệt. Bếp lửa thật thiêng liêng và kì lạ biết bao! Tóm lại, khổ
thơ thứ sáu của bài thơ “Bếp lửa” với việc kết hợp biện pháp tu từ ẩn dụ cùng điệp ngữ
đã khơi nguồn những suy ngẫm của cháu dành cho bà và bếp lửa, hình ảnh bếp lửa từ
thực thể hàng ngày đã trở thành một giá trị tinh thần cao quí vì bếp lửa chính là bà-
người không chỉ nhóm lửa mà còn giữ lửa, truyền lửa, ngọn lửa của sự sống, của niềm
yêu thương, niềm tin cho thế hệ con cháu.
Khổ 7:
Bốn câu thơ cuối bài thơ “Bếp lửa” đã bộc lộ sâu sắc niềm thương nhớ, lòng kính
trọng, biết ơn của người cháu nơi phương xa dành cho bà. Trong quan hệ tình cảm tốt
đẹp, khoảng cách luôn là ngọn gió thổi bùng lên ngọn lửa thương nhớ, Tình cảm của
nhà thơ gây ấn tượng thật sâu đậm bởi phép tương phản giữa khoảng cách và tấm
lòng: khoảng cách thật xa, với nhiều điều kì thú mê hoặc “Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn
khói trăm tàu/ Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả”. Điệp từ “trăm” gợi ra những điều kì
lạ, thú vị hấp dẫn ở những phương trời xa xôi mà cháu từng đi qua. Nhưng khoảng
cách ấy không thể làm phai nhạt đi nỗi nhớ da diết, thường trực của cháu về bà và bếp
lửa. “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”, câu thơ khép lại thi phẩm nhưng lại dường
như câu hỏi khắc khoải lại mở bài thơ vào cõi vô cùng thương nhớ. Trong câu hỏi ấy
người bà và bếp lửa vừa tách biệt vừa xoắn quện vào nhau, nhòa lẫn trong nhau, tỏa
sáng cùng nhau. Câu hỏi cũng là lời tự nhắc nhở của tác giả không bao giờ được quên
đi hình ảnh người bà gắn liền với bếp lửa, không quên quá khứ gian khổ mà ấm áp
nghĩa tình. Bằng việc sử dụng thành công các biện pháp nghệ thuật điệp từ, câu hỏi tu
từ, khổ thơ cuối của bài thơ đã khẳng định được tình cảm, nỗi biết ơn của người cháu
dành cho người bà kính yêu.
Cảm nhận về bà:

22
Làng:
Nếu như lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao là hình ảnh điển
hình cho người nông dân trước Cách Mạng Tháng Tám thì ông Hai trong truyện ngắn “Làng”
của Kim Lân lại là hình ảnh điển hình cho người nông dân Việt Nam sau Cách Mạng trong
thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Kim Lân viết ít nhưng có những truyện ngắn được
đánh giá là đặc sắc, thậm chí xếp vào hàng kiệt tác như “Làng” hay “Vợ nhặt”. Nguyên Hồng
đã từng nhận xét rằng: “Một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu, thuỷ nguyên của
quê hương” bởi vậy mà những truyện ngắn ông viết ra rất gần gũi, đời thường và “Làng”
cũng không phải là ngoại lệ. Tác phẩm đặc biệt cho ta thấy tài năng của Kim Lân qua cách
tạo tình huống truyện đặc sắc, miêu tả tâm lí, diễn biến nội tâm tinh tế và phong phú qua
đó góp phần thể hiện tư tưởng, chủ đề tác phẩm: tình yêu làng, yêu nước và tinh thần
kháng chiến của người nông dân trong thời kì đầu kháng chiến.
Tình huống truyện:
Truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân rất thành công trong việc xây dựng tình
huống truyện: ông Hai, một người nông dân luôn yêu và tự hào về làng mà bất
ngờ lại hay tin làng mình theo giặc. Toàn bộ truyện “Làng” thể hiện tình yêu làng quê,
yêu tổ quốc và tinh thần kháng chiến của ông Hai nhưng cốt truyện sẽ trôi đi thật lặng lẽ
không có kịch tính, không có cao trào nếu không xuất hiện tình huống ông Hai nghe tin
làng Chợ Dầu theo giặc. Đây cũng là một tình huống bất ngờ và mang tính thử thách
đối với nhân vật. Tin làng Chợ Dầu theo giặc quá đỗi bất ngờ đối với ông Hai- một
người nông dân yêu làng và tin làng. Với ông Hai, làng Chợ Dầu của ông luôn yêu
nước, luôn có tinh thần kháng chiến. Bởi vậy, tin làng chợ Dầu, làng Việt gian bán nước
đến với ông như sét đánh ngang tai. Đây cũng chính là tình huống làm nảy sinh những
diễn biến mới trong tâm trạng, cảm xúc của ông Hai. Những trạng thái tâm lí rất phong
phú và tinh tế ở nhân vật này lại góp phần thể hiện vẻ đẹp của nhân vật và làm sáng
lên ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm: tình yêu làng quê thống nhất trong tình yêu đất
nước của người nd thời kì đầu kháng chiến chống Pháp.
=> Ý nghĩa tình huống:*
+ Đặt nhân vật vào tình huống thử thách, căng thẳng để bộc lộ sinh động, tinh tế và
sâu sắc toàn bộ diễn biến tâm trạng, tính cách của ông Hai
+ Qua đó diễn tả chân thực mà cảm động tình yêu làng, yêu đất nước,ủng hộ cm của
ô Hai
Ông Hai trc khi nghe tin:
Tâm trạng ông Hai trước khi nghe tin làng mình theo giặc đã được nhà văn Kim Lân
khắc họa rõ nét qua phần đầu đoạn trích truyện ngắn “Làng”. Là người nông dân yêu
làng tha thiết, ông Hai vẫn luôn nhớ về làng mình từ nơi tản cư. Nào là những ngày
cùng anh em đào hầm đắp ụ, xẻ hào, khuân đá; cái chòi gác đầu làng và cả những
đường hầm bí mật. Nghĩ về làng, ông Hai “thấy mình như trẻ ra”, “lòng ông lão lại náo
nức hẳn lên”. Tình yêu làng của ông luôn gắn bó với cuộc kháng chiến. Ngày nào ông
cũng ra phòng thông tin nghe không sót một tin kháng chiến nào. Ruột ông lão cứ múa
cả lên “bao nhiêu ý nghĩ vui thích chen chúc trong đầu óc” khi ông biết những tin thắng
trận của quân ta. Đó là niềm vui mộc mạc, chân chất và tấm lòng yêu nước chân thành
của một con người biết gắn bó tình cảm riêng tư với vận mệnh đất nước.

23
Ông hai vừa nghe tin:
Tâm trạng ông Hai khi vừa nghe tin làng mình Việt gian theo giặc đã được khắc họa
chân thực, rõ nét qua cuộc trò chuyện với người tản cư. Trước khi nghe tin dữ, ông Hai
đã quay phắt lại, lắp bắp hỏi khi nghe nhắc đến tên làng mình: “Thế ta giết được bao
nhiêu thằng?”. Điều đó cho thấy trong lòng, trong ý nghĩ của ông, làng Chợ Dầu luôn có
tinh thần chiến đấu, chiến thắng. Nào ngờ, câu trả lời từ người đàn bả tản cư lại khiến
ông sững sỡ, ngạc nhiên đến gần như choáng váng: “cả làng chúng nó Việt gian theo
tây”. Cái tin quá đột ngột làm “cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân” rồi ông lặng
đi, “tưởng như đến không thở được”. Dường như với ô, đó là cú sốc lớn về tinh thần
bởi ông vốn hết mực yêu quí và tự hào về làng. Sau phút sững sờ ban đầu, ông Hai cố
trấn tĩnh hỏi lại, giọng lạc hẳn đi: “Liệu có thật không hở bác?”. Có lẽ trong sâu thẳm
tâm hồn, ô Hai cũng không muốn tin đó là sự thật, ông hi vọng đó chỉ là lời đồn. Nhưng
rồi những người tản cư kể lại quá rành rọt, khẳng định họ vừa từ dưới đấy lên khiến
ông không thể không tin. Từ chỗ bất ngờ, choáng váng, ông Hai trở nên ngượng ngùng,
xấu hổ, ông đã nói lảng sang chuyện khác, cố ra vẻ bình thản để rồi sự xấu hổ, niềm
mặc cảm khiến ông chỉ biết cúi gằm mặt xuống mà đi.Tóm lại, bằng việc xây dựng tình
huống truyện hợp lí, kết hợp với thủ pháp miêu tả ngoại hình để khắc họa nội tâm, nhà
văn Kim Lân đã khắc họa rõ nét tâm trạng nhân vật ông Hai khi vừa nghe tin làng mình
theo giặc.
Ông Hai về đến nhà:
Lúc này, không còn là sự choáng váng bất ngờ như ban đầu nữa, ông lão bắt đầu rơi
vào tâm trạng đau xót tủi hổ. Nhìn thấy đàn con mà “nước mắt ông lão cứ giàn ra,
chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi
đấy ư?”. Từ chỗ tủi hổ, ông lão chuyển sang căm hận những người theo giặc mà phản
bội làng: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt
gian bán nước để nhục nhã thế này”. Nhưng sự căm phẫn không giúp ông nguôi nỗi
buồn, ông lão lại “ngờ ngợ như lời mình không được đúng lắm”. Ông Hai tự kiểm điểm
lại từng người, thấy họ đều có tinh thần cả, họ đã quyết tâm ở lại làng, một sống một
chết với làng, có lẽ nào lại “cam tâm làm điều nhục nhã ấy”. Ông Hai như rơi vào sự
giằng xé giữa niềm tin và nỗi ngờ, Kim Lân đã sử dụng hàng loạt những câu cảm thán
và câu hỏi để thể hiện tâm trạng ngổn ngang rối bời của ông.
Tâm trạng ấy vẫn tiếp tục triền miên nặng nề khi bà Hai định trò chuyện với ông Hai
về tin làng theo giặc và ông gạt phắt đi, cáu gắt. Cuộc đối thoại bất thành ấy đã cho
thấy nỗi đau trong ông Hai rất nặng nề. Ông không thể chia sẻ với ai và cũng không
muốn chia sẻ- dù người đó là vợ mình. Đến tối, ông trằn trọc không ngủ được “chợt
ông lão lặng hẳn đi, chân tay nhún ra, tưởng chừng không cất lên được”. Nhà văn diễn
tả nỗi đau của ông Hai thật sâu sắc. Nỗi đau ấy như chi phối cả cuộc sống sinh hoạt
hằng ngày của gđ, thấm vào gian nhà, khiến cảnh vật như “lặng đi”, “hiu hắt”.Nỗi tủi hổ
và lo sợ khiến ông không muốn ló mặt ra đường, suột ngày chỉ quanh quẩn ở nhà nghe
ngóng. Lúc nào ông cũng tường người ta đang bàn tán đến chuyện làng mình, hễ thấy
đám đông nhắc đến “Việt gian, Cam nhông” ông lại chui vào góc nhà giật thon thót
trông đến tội nghiêp khổ sở.
Ông Hai càng trở nên bế tắc khi bà chủ nhà đánh tiếng đuổi gia đình ông đi nơi khác
bởi sắp tới gđ ông không có nơi cư trú sẽ bị mọi người khinh thường, hắt hủi.Điều đó
đã đẩy ông Hai vào vào sự giằng xé và lựa chọn: “Không còn nơi nào hay là quay về
làng?”. Nhưng ông đã gạt ngay ý nghĩ ấy đi bởi “về làng là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ,

24
về làng tức là chịu làm nô lệ cho thằng Tây”. Trong lòng ông Hai đã diễn ra cuộc xung
đột nội tâm gay gắt, buộc ông phải lựa chọn: yêu làng hay yêu nước. Cuối cùng, ông đã
đưa ra một lựa chọn đau đớn nhưng dứt khoát: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây
mất rồi thì phải thù”. Đó là một quyết định không hề dễ dàng với ông Hai bởi ông phải
thù cái làng mà ông đã từng yêu mến, gắn bó. Cũng chính từ sự lựa chọn ấy ta mới
hiểu được những tình cảm mới mẻ trong lòng ông Hai- một người nông dân tiêu biểu.
Đó là lòng yêu nước tha thiết, tinh thần kháng chiến mạnh mẽ, đặc biệt là khi tình cảm
đó được đặt trong tình huống thử thách. Đây là nước chuyển mạnh mẽ trong tư tưởng
và tình cảm của những người nông dân VN thời kì đầu kháng chiến chống Pháp.
(Kim Lân- nhà văn nặng lòng với người nông dân- không chỉ khám phá những tình cảm mới
mẻ trong họ mà còn đi sâu tìm hiểu và thể hiện thế giới nội tâm đầy tinh tế ở những con người
rất đỗi bình thường ấy. Đoạn tâm trạng của ông Hai khi nói chuyện với đứa con là một đoạn văn
hay, giàu ý nghĩa.) Ông Hai đã dùng lí trí để dằn lòng mình không về làng Chợ Dầu,
nhưng sự lựa chọn ấy thực chất khiến ông Hai vô cùng đau đớn. Ông chỉ còn biết ôm
đứa con nhỏ vào lòng; để thủ thỉ tâm sự, để trút nỗi lòng mình. Những lời đối thoại
được thể hiện dưới hình thức câu hỏi tưởng chỉ nói đến tình cảm cha con nhưng lại
mang ý nghĩa thật sâu sắc. Khi ông hỏi con: “Thế nhà con ở đâu?”, “Thế con ủng hộ
ai?”, ông Hai thực chất muốn khắc sâu vào trái tim đứa con nhỏ tình cảm gắn bó với
làng Chợ Dầu để nó không quên đi cội nguồn, gốc gác. Thấy đứa con trả lời đúng tâm
trạng mình, ông Hai vui mừng vì đứa con nhỏ cũng biết yêu nước nên “Nước mắt ông
lão giàn ra chảy dòng dòng trên hai má”. Cuộc đối thoại giữa ông Hai với đứa con
không chỉ giúp ông giãi bày lòng mình mà còn để ông “minh oan lại cho mình nữa”,
“Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông”
và “Chết thì chết không bao giờ dám đơn sai”. Nhừng lời tâm sự ấy như một lời thề,
một lời nguyện thiêng liêng. Qua những lời tâm sự với đứa con nhỏ, ta thấy rõ ở ông
Hai tình yêu sâu nặng với làng Chợ Dầu cũng như tấm lòng thủy chung trước sau như
một với kháng chiến, với cụ Hồ. Sự trung thành của ông Hai với lãnh tụ, với kháng
chiến cũng là tấm lòng trung thành của triệu người dân VN với CM. Đó là một tình cảm
hết sức sâu sắc, kiên định không thay đổi.
Tâm trạng ông Hai khi tin đồn được cải chính:
Sự biến chuyển của tâm trạng ông Hai từ đau xót, tủi nhục sang vui vẻ, hoan hỉ khi
nghe tin đồn được cải chính đã được nhà văn Kim Lân tái hiện rõ nét qua phần cuối
đoạn trích “Làng”. Ông Hai như sống lại khi chủ tịch ở dưới quê lên cải chính: làng ông
không theo giặc. Mọi đau đớn, tủi hổ tuyệt vọng dường như biến mất, niềm vui trở lại
trên gương mặt ông Hai. Thật thú vị khi Kim Lân diễn tả khoảng khắc niềm vui trong
ông Hai biến ông như trở thành một đứa trẻ: “ông Hai đóng khăn áo chỉnh tề”, “cái mặt
buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui hẳn lên”, “cặp mắt hung đỏ hấp háy”, “mồm nhai trầu
bóm bém”; vừa về đến nhà, ông đã gọi các con ra để chia quà. Ông hoan hỉ chạy đi
khoe với mọi người: “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn!” Niềm vui đặc biệt khi ông
khoe nhà mình bị đốt nhẵn đã thể hiện rất cảm động tấm lòng của người nông dân với
đất nước. Niềm vui ấy thật kì lạ nhưng cũng thật dễ hiểu, bởi đó là minh chứng làng
Chợ Dầu không theo giặc và nó cũng thể hiện niềm vui chung lớn hơn nỗi đau riêng.
Hình ảnh nhân vật phụ:
a) “Đó là người đàn bà có lai lịch không lấy gì làm tốt đẹp: “Mụ lấy đến người chồng này
là đời chồng thứ ba rồi; hai người trước, người thì người ta bỏ mụ, người thì mụ bỏ
người ta”. ...

25
1. Sinh thời, Kim Lân từng phát biểu: “Khi viết, tôi chuẩn bị kỹ càng những nhân vật,
những chi tiết, cốt truyện cũng như những tính cách, những hoàn cảnh, những tâm
trạng... Mỗi truyện, điều tôi chú ý trước tiên là nhân vật”. Viết truyện “Làng”, dường như tất
cả tâm sự và ý tưởng của mình được Kim Lân dồn vào nhân vật ông Hai. Bạn đọc đến với vẻ
đẹp của truyện ngắn này thường đi theo con đường quen thuộc: khám phá vẻ đẹp của hình
tượng nhân vật chính. Nhưng Kim Lân không chỉ chú ý xây dựng nhân vật ông Hai. Trong diễn
biến cốt truyện, trong quá trình triển khai đề tài, thể hiện tư tưởng/ ý tưởng của mình, Kim Lân
còn có chủ ý và dụng công khắc họa các nhân vật phụ bằng những chi tiết bao hàm ý tứ sâu xa.
Vì thế, cùng với nhân vật chính, thành công của những nhân vật ở bình diện thứ hai, thứ ba đã
giúp Kim Lân “tạo nên bức tranh đời sống hoàn chỉnh, độc đáo và sinh động trong tác phẩm”(2).
Trong ý đồ nghệ thuật và dưới ngòi bút Kim Lân, nhân vật mụ chủ nhà hiện lên với những nét
tính cách tương đối rõ rệt và gây ấn tượng, góp phần bộc lộ sâu sắc chủ đề của truyện.
2. Về nhân vật mụ chủ nhà, trước đến nay, vẫn tồn tại những đánh giá chưa thỏa đáng,
thậm chí là rất phiến diện, chủ quan. Đây có thể là ý kiến tiêu biểu: “Hình ảnh mụ chủ nhà điểm
xuyết vào câu chuyện là một thoáng đối lập của cái xấu, cái cũ, làm nổi bật một nét tính cách
của ông Hai. Ông rất ghét những kẻ bon chen, bần tiện, tà tâm... Thì đã hẳn, người ngay bao
giờ chả ghét kẻ gian!”(3). Thực tế, sự xuất hiện của nhân vật mụ chủ nhà trong tác phẩm không
phải là “điểm xuyết” hay “một thoáng” (và cũng chưa hẳn là cái xấu, cái cũ hay bon chen, bần
tiện, tà tâm!). Mối quan hệ giữa nhân vật ông Hai và nhân vật này cũng không hoàn toàn rạch
ròi theo kiểu người ngay với kẻ gian, kiểu nhân vật chính diện với nhân vật phản diện như trong
truyện cổ. Nói “mụ chủ nhà” là dựa theo cách gọi tên nhân vật của nhà văn. Nói mụ chủ thay vì
nói bà chủ, có lẽ nhà văn dụng ý “giữ một khoảng cách giữa người kể và nhân vật, cốt truyện
để rộng đường hư cấu và bảo đảm tính khách quan của hiện thực”(4), như cái cách gọi nhân
vật bằng “hắn”, “y”, “thị” mà nhà văn hiện thực xuất sắc Nam Cao rất ưa dùng. Bên cạnh đó,
cũng cần lưu ý rằng nhân vật này chủ yếu được nhà văn miêu tả từ/theo điểm nhìn của nhân
vật ông Hai – người dân tản cư đang ăn nhờ ở đậu trong nhà bà, người luôn mang trong mình
nỗi bứt rứt vì phải xa làng Chợ Dầu, như con cá giãy đành đạch khi bị tách khỏi cái ao tù quen
thuộc. Như vậy, nhìn nhận, đánh giá nhân vật mụ chủ nhà cần phải đồng thời quan tâm hai mối
quan hệ: quan hệ giữa người kể với các nhân vật và quan hệ giữa nhân vật này với nhân vật
khác.
3. Để nhìn nhận nhân vật mụ chủ nhà từ/ trong quan hệ với nhân vật ông Hai, phải trở lại
với diễn biến cốt truyện. Mặc dù Kim Lân chú trọng đến các tình huống bên trong, đến diễn biến
tâm lý nhân vật và không tập trung khắc họa các biến cố, sự kiện bên ngoài nhưng không khó
để nhận thấy cốt truyện với đầy đủ các thành phần.Thắt nút: ông Hai rất gắn bó với làng nhưng
phải rời làng đi tản cư – nhớ và muốn về làng, lại thêm cảnh phải sống cùng mụ chủ nhà xấu
tính nên “lúc nào cũng bực bội”, cáu bẳn. Phát triển: ông Hai luôn luôn hãnh diện về làng; trong
lúc chỉ có niềm vui duy nhất là chui ra khỏi gian nhà tối thấp, náo nức hóng tin kháng chiến và
được khoe làng, thì ông bất ngờ nghe tin làng Chợ Dầu của mình theo giặc. Cao trào: suốt mấy
ngày đau đớn, tủi nhục, nghe người ta xì xào, rồi mụ chủ nhà “bóng gió xa xôi, như khía vào
thịt”,... ông lâm vào tình thế bế tắc tột độ. Mở nút: ông Hai nghe tin cải chính, lại khoe làng với
mọi người – cả với mụ chủ, và tự hào về làng hơn xưa. Cốt truyện là mạch diễn biến tâm lí của
ông Hai. Tác nhân thúc đẩy mạch tâm lí ấy phát triển là hình ảnh mụ chủ nhà, được tác giả đặt
trong quan hệ đối sánh.
Có thể thấy, ấn tượng về người đàn bà ấy luôn đeo đẳng trong tâm trí nhân vật ông Hai
từ đầu đến cuối tác phẩm. Và, Kim Lân đã sử dụng điểm nhìn trần thuật này để xây dựng nhân
vật mụ chủ nhà. Để rồi, nhân vật hiện lên khá đậm nét với đầy đủ các phương diện: lai lịch,
hành động, tính cách, số phận.
Đó là người đàn bà có lai lịch không lấy gì làm tốt đẹp: “Mụ lấy đến người chồng này là
đời chồng thứ ba rồi; hai người trước, người thì người ta bỏ mụ, người thì mụ bỏ người ta”. Từ
những thông tin ấy, ông Hai biết mụ chủ nhà “không phải là người đứng đắn”. Đã thế, tính nết

26
của mụ còn “lành chanh lành chói, chỉ bắt nạt chồng”, hay “chửi con mắng cái”. Trong thâm tâm,
ông Hai không ưa loại người không đứng đắn và ghét cay ghét đắng cái loại đàn bà hỗn hào
với chồng. Ghét đến mức dù trong thời buổi khó khăn cũng “năm lần bảy lượt ông bảo vợ dọn
nhà đi nơi khác”.
Điều ông Hai luôn thấy khó chịu ở mụ chủ là “chưa thấy người đàn bà nào tham lam, tinh
quái như mụ ta”. Cái gì của mình thì cất kỹ đi, cái gì của người thì lôi ra sử dụng. Cùng với tính
tham lam là thói tò mò, tọc mạch. Không ngày nào bà Hai ở quán về mà mụ không “sấn đến
vạch thúng ra xem”. Mụ ta sẵn sàng vơ vét bất cứ thứ gì mụ thích, mụ thấy tiện tay. Những
dòng Kim Lân miêu tả hành động của nhân vật mụ chủ nhà là những dòng đặc biệt sinh động
trong tác phẩm: “Mụ nhòm xó này một tí, nhòm xó kia một tí, rồi lục. Mụ giơ lọ tương lên ngắm
rồi đặt xuống, mụ mở thạp gạo ra xem, lại đậy vào, mụ lục bồ moi chiếc áo ra ướm thử vào
người, rồi ném trả. Hình như trong ý mụ, mụ nghĩ: chúng mày ở nhà tao, thì những thứ của
chúng mày cũng như của tao. ...Không tìm thấy thì mụ nói móc, nói máy như chính mụ bị người
ta hà hiếp. Đến cả cái ăn, cái uống mụ cũng dây phần vào... Trong nhà động có thức gì mụ đã
biết rồi”. Không chỉ hay “nhòm”, mụ chủ còn giỏi đánh hơi, và cái miệng mỏng lèo lèo của mụ
chưa xin xong thì tay mụ đã kịp vơ lấy rồi. Mụ còn lợi dụng, kiếm cớ bòn rút của người khác
bằng cách lâu lâu lại vay tiền tiêu vặt mà cố tình quên không trả. Khi người ta đòi thì mụ tìm
cách đánh lảng nhằm thoái thác, “chúa thần là gian”.
Không chỉ tham và gian, mụ chủ nhà còn là nỗi ám ảnh của gia đình ông Hai bởi hay xỉa xói,
và tàn nhẫn. Tủi hổ và đau đớn vì cái tin làng Chợ Dầu theo giặc, suốt ba bốn hôm ông Hai
không dám ra khỏi nhà. Lúc nào ông cũng chột dạ, nơm nớp lo sợ người ta nói về cái tin vô
cùng nhục nhã kia: “Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông… là ông lủi ra một
góc nhà, nín thít”. Nhưng những tiếng kia, với ông Hai, chưa đáng sợ bằng mụ chủ. Từ khi
nghe cái tin làng theo Tây, ông Hai đã “thoáng nghĩ đến mụ chủ nhà”. Đêm trằn trọc không sao
ngủ được, ông Hai như gặp thêm một cú sốc tinh thần nữa, ông “lặng hẳn đi, chân tay nhủn ra”
khi “Có tiếng nói léo xéo ở gian trên. Tiếng mụ chủ… Mụ nói cái gì vậy? Mụ nói cái gì mà lào
xào thế?” và “Trống ngực ông lão đập thình thịch. Ông lão nín thở, lắng tai nghe ra bên
ngoài…”, “không nhúc nhích”. Vì cái tính hay xỉa xói của mụ, ông Hai căng thẳng cực độ.
Cái tin đồn lan ra, khi mọi người đều biết, mụ chủ chẳng những không hỏi han, động viên,
chia sẻ với những người làng Chợ Dầu vốn vô can mà còn có những hành động khó chịu nhằm
đánh tiếng: “Từ ngày xảy ra chuyện ấy, hình như mụ ta lấy điều làm cho vợ chồng ông khổ
ngấm khổ ngầm là mụ thích. Sáng chiều bốn buổi đi làm đồng về, mụ kéo lê cái nạo cỏ quèn
quẹt dưới đất, qua cửa, mụ nhòm vào nói những câu bóng gió xa xôi, như khía vào thịt ông
lão... Mỗi lần mụ nói, ông lão chỉ cười gượng làm như không biết chuyện gì. Ông thì muốn lặng
đi như thế, nhưng mụ chủ nhà có để cho ông yên đâu”. Đánh động gần xa, rồi theo kiểu vơ đũa
cả nắm, mụ ngọt nhạt bóng gió đuổi khéo gia đình ông lão: “Đành nhẽ là ông bà kiếm chỗ khác
vậy...”. Thiếu cảm thông chẳng phải vì mụ chủ vốn vô tâm mà thực sự mụ rất tàn nhẫn. Mụ
không thực hiện “chính sách Cụ Hồ” nhân đạo. Nói xong cái ý định đuổi gia đình ông lão, mụ
chẳng thèm để ý đến bà Hai đang “rân rấn nước mắt”, rồi đứa con gái lớn của ông bà cũng
“nước mắt ròng ròng”, chẳng thèm để ý đến cảnh cùng đường của cả một gia đình. Lời nói, thái
độ lạnh lùng của mụ chủ góp phần đẩy ông Hai vào tâm trạng hoàn toàn bế tắc. Cái im lặng
bao trùm suốt mấy ngày, nay lại thêm nặng nề, u ám: “Ông Hai ngồi lặng trên một góc giường,
bao nhiêu ý nghĩ đen tối, ghê rợn, nối tiếp bời bời trong đầu óc”. Ông phải bật lên cái lựa chọn
dứt khoát mà tức tưởi, nghẹn ngào: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải
thù”. Sự căng thẳng đã đến mức đau đớn!
Nhưng, bên cạnh cái “tham” cái “gian”, hay xoi mói, mụ chủ nhà còn có nét tính cách mà
ông Hai không ngờ tới. Khi được tin cải chính, ông Hai vui mừng khôn xiết, “cứ múa tay lên mà
khoe cái tin ấy với mọi người”. Dù vậy, trong thâm tâm, ông nghĩ người đàn bà vẫn “lấy điều
làm cho vợ chồng ông khổ ngấm khổ ngầm” sẽ sa sầm nét mặt, sẽ lại xỉa xói. Nhưng, sự việc
lại diễn ra theo hướng khác. Mụ chủ không hề “nói tức nói xóc” mà “trái lại, mụ lại tỏ vẻ rất vui
sướng. Mụ giương tròn cả hai mắt lên mà reo: - A, thế chứ! Thế mà tớ cứ tưởng dưới nhà đi

27
Việt gian thật, tớ ghét ghê ấy… Thôi, bây giờ thì ông bà lại cứ ở tự nhiên chả ai bảo sao. Ăn hết
nhiều chứ ở hết là bao nhiêu”. Và rồi, lời động viên chia sẻ tưởng không thể có trong con người
ấy đã bật ra, rất tự nhiên “Mụ cười khì khì: - Này, rồi cũng phải nuôi lấy con lợn… mà ăn mừng
đấy!”. Mụ chủ nhà đã hòa chung niềm vui với gia đình ông lão, với người làng Chợ Dầu, hòa
chung niềm vui với những người dân kháng chiến vừa rửa được tiếng oan là Việt gian. Cái cử
chỉ “giương tròn cả hai mắt lên mà reo”, lời bộc bạch rất chân thành “tớ ghét ghê ấy”, rồi sự vô
tư khoáng đạt “Ăn hết nhiều chứ ở hết là bao nhiêu” và cái cười “khì khì” rất xuề xòa, cởi mở
dường như đã xí xóa tất cả những ấn tượng không tốt về người đàn bà này. Thì ra, “Cái bản
tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất”(Nam Cao)(5). Sự thay
đổi thái độ của nhân vật mụ chủ nhà làm hiện rõ nét đáng quý còn ẩn giấu: yêu nước và căm
thù lũ cướp nước, bán nước.
Như vậy, mụ chủ nhà là hình tượng nhân vật được khắc họa khá đầy đặn. Người phụ nữ
nông dân này có cuộc đời lận đận, nhiều bất hạnh nên những thói xấu cố hữu đã bộc lộ đến
mức cực đoan. Ở góc độ khác, những điều đó lại thể hiện sự bộc trực đậm sắc thái của người
nhà quê. Sự thay đổi thái độ của mụ chủ ở cuối truyện cho thấy sự chuyển biến mang dấu ấn
của hoàn cảnh lớn, của thời đại. Đó cũng là một hình ảnh điển hình cho người nông dân của
cuộc kháng chiến toàn dân. Cái cách ứng xử vì ghét Việt gian mà ghét lây cả những người gốc
gác làng Việt gian, muốn “đuổi như đuổi hủi” vừa thể hiện rất rõ tâm lý người nông dân “Ghét
nhau ghét cả tông chi họ hàng” vừa thể hiện điểm mới mẻ về nhận thức cách mạng trong con
người họ. Khi toàn bộ những nét tính cách của nhân vật mụ chủ nhà bộc lộ khá trọn vẹn, đặc
biệt là qua chi tiết mụ chủ nghe tin cải chính, những ấn tượng của người đọc về nhân vật này
đã có từ đầu truyện đã thay đổi. Khi mụ chủ nhà vui với niềm vui của người làng Chợ Dầu, vui
niềm vui của người dân kháng chiến, dường như trong cảm nhận của chúng ta chỉ còn lại ấn
tượng về vẻ đẹp của một tâm hồn mộc mạc, chân chất – một cách thể hiện tình yêu nước cụ
thể, hồn nhiên và không kém phần độc đáo!

4. Khắc họa thành công nhân vật mụ chủ nhà, như đã nói, giúp Kim Lân hiện thực hóa ý
tưởng của mình trong trang viết, tạo nên “bức tranh đời sống hoàn chỉnh, độc đáo và sinh
động”. Tìm hiểu nhân vật này trong mối quan hệ với nhân vật ông Hai, chúng ta nhìn thấy một
tính cách, một hình tượng có giá trị tương đối độc lập trong thế giới nghệ thuật của “Làng”. Qua
đó, chúng ta cũng đồng thời thấy được vai trò của mụ chủ trong việc thúc đẩy diễn biến tâm lý
của nhân vật chính. Nói như thế cũng có nghĩa nhân vật này có vai trò đặc biệt quan trọng trong
diễn biến cốt truyện, trong quá trình triển khai đề tài. Không có sức ép tâm lý tạo ra từ phía
nhân vật này thì tình yêu làng, yêu nước và tinh thần kháng chiến của nhân vật ông Hai chắc
chắn đã không bộc lộ hết các cung bậc rất cụ thể, sâu sắc như chúng ta đã thấy. Dù gần hay xa,
dù có tên hay không tên, dù được tác giả hóa thân vào để miêu tả hay sử dụng thủ pháp gián
cách, các nhân vật ông Hai, bà Hai, bác Thứ, mụ chủ nhà,... đều hiện lên với dáng nét của
những người nông dân thời đại mới – những năm đầu kháng chiến chống Pháp: yêu, gắn bó
máu thịt với làng quê và có những chuyển biến mới mẻ, sâu sắc về tinh thần cách mạng.
Viết truyện ngắn, để hiện thực hóa ý tưởng, các nhà văn vẫn thường “đặt những con người
(nhân vật) vào tình huống”, nghĩa là “cho châu tuần lại những con người vốn xa cách nhau, cho
họ tham gia vào chủ đề”, rồi “từ sự tham gia đó và những quan hệ giữa họ với nhau, sẽ xảy ra
tính cách của họ”(Nguyễn Thành Long)(6). Làm được điều đó một cách tự nhiên, không để lộ
những dấu vết thuộc về kỹ thuật, Kim Lân – như cái tên khai sinh của ông - đích thị là một Văn
Tài!
Tác giả bài viết: Nguyễn Thanh Truyền
b) Đọc Làng của KIm Lân, người ta yêu quý ông Hai, yêu quý người nông dân lao động bao
nhiêu thì có lẽ bạn đọc lại thấy ghét bỏ, thấy phẫn nộ với nhân vật mụ chủ nhà bấy nhiêu.
Ngay cách mà Kim Lân đặt tên cho nhân vật của mình đã khiến ta thấy một thái độ chưa
được thiện cảm. Cách gọi "mụ" là cách gọi có phần thể hiện sự ghét bỏ trong ông hay cũng
là trong cái nhìn của người trần thuật- ông Hai? Mụ chủ được giới thiệu với một lai lịch chưa

28
tốt khi đã trải qua nhiều đời chồng. Thậm chí ta còn thấy sự xấu tính ở mụ vì thói quên
không trả tiền mọi người, thói soi mói. Cách mụ nói móc gia đình ông Hai vì biết tin làng chợ
Dầu theo giặc khiến ta thấy ghét, thấy bực bội vô cùng. Còn gì nữa đâu khi mà người ta
thấy thời điểm người khác gặp nguy mà khinh rẻ. Từng lời lẽ của mụ với bà Hai thì sâu cay.
Còn mặt mụ thì trở thành ám ảnh đáng sợ trong ông Hai. Nhưng có lẽ ở mụ vẫn còn điểm
tốt, điểm đẹp. Khi biết tin làng chợ Dầu cải chính, mụ không còn khắt khe hay khó chịu mà
ngược lại vui vẻ, thoải mái. Mụ chủ cũng hòa chung với hơi thở thời đại để bày tỏ tình yêu
của mình với quê hương, đất nước. Trong một con người sẽ không chỉ có điểm xấu, điểm tốt
ở họ vẫn tồn tại và ta cần nhìn nhận đầy công tâm và khách quan.
c) Đi theo chiều dọc của tác phẩm Làng, nhân vật nữ gồm có những người đàn bà ở Gia Lâm,
mụ chủ nhà, bà Hai, đứa con gái lớn. Các nhân vật này đều không có tên tuổi cụ thể. Đến
sau này, khi tác phẩm Vợ nhặt ra đời, chúng ta cũng một lần nữa gặp lại những người đàn
bà không tên riêng như: thị, bà cụ Tứ. Một số nhân vật có tên gọi như bà Hai, bà cụ Tứ thì
đó cũng không phải là tên cha sinh mẹ đẻ đặt cho mà là tên gọi theo chồng. Điều này phản
ánh phần nào cách gọi tên người phụ nữ trong xã hội Việt Nam trước đây.
Nhưng quan trọng hơn, đây còn là một dụng ý nghệ thuật khi xây dựng các nhân vật nữ
của tác giả. Không đặt tên riêng cho nhân vật, nhà văn dường như muốn xây dựng họ trở thành
những con người thầm lặng. Họ thầm lặng từ tên gọi, lai lịch đến cuộc đời để rồi bất ngờ bộc lộ
tình cảm, tính cách. Tính bất ngờ của diễn biến truyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật nhờ đó
được thực hiện. Các giá trị tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm cũng từ đó được thể hiện một
cách độc đáo, ấn tượng.
Những người đàn bà ở Gia Lâm lên
Tuy không tên không tuổi nhưng các nhân vật nữ lại có sự ảnh hưởng lớn đến lời nói, hành
động, suy nghĩ, tính cách của nhân vật chính. Trong tác phẩm, những người phụ nữ làm
ông Hai đau khổ trước tiên là những người đàn bà ở Gia Lâm lên. Họ đã cắt đứt nguồn cảm
hứng tự hào về quê hương của ông Hai. Khi ông Hai hỏi thăm tình hình Chợ Dầu, người
phụ nữ cho con bú đã trả lời: “Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây còn giết gì nữa”. Lời nói
cộng thái độ khinh miệt của người đàn bà ấy đã chấm dứt phút giây sảng khoái, yêu đời, tự
hào về làng trước đó của ông Hai. Giờ đây “cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân.
Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được”.

Rõ ràng, xuất hiện thoáng qua rồi vụt biến mất nhưng các nhân vật nữ này lại giữ vai trò hết
sức quan trọng trong tổ chức truyện.Với nhiệm vụ đưa tin, họ là những mấu chốt của tình
huống truyện có vai trò làm thay đổi hoàn toàn diễn biến truyện cũng như tâm lí của nhân
vật chính. Hơn nữa, dù chỉ xuất hiện một lần nhưng qua thái độ trong lời nói của những
người phụ nữ từ Gia Lâm lên này, ta thấy rõ trong họ sự căm giận, khinh thường bọn Việt
gian bán nước. Đây chính là những nhân vật đầu tiên trong thủ pháp tạo tính bất ngờ như
trên đã nói của tác giả Kim Lân.
Mụ chủ nhà
Một trong những nhân vật không chỉ ảnh hưởng mà còn trở thành nỗi ám ảnh với ông Hai
đó là mụ chủ nhà của ông. Mụ luôn thích làm khổ ông Hai với những “câu nói bóng gió xa
xôi, khía vào thịt ông lão”.

Chỉ trong 6 lời thoại, nhà văn Kim Lân đã khắc họa hình ảnh mụ chủ nhà “phảng phất
những nét tham lam tai ác của những nhân vật đàn bà nông thôn trước Cách mạng tháng
Tám trong truyện ngắn của Nam Cao” (Nhà văn trong nhà trường - Kim Lân, Hoài Việt biên
soạn, NXB Giáodục, 1999, tr.48). Bởi lẽ, trong hoàn cảnh đói khổ, người phụ nữ phải gồng
gánh, bằng mọi cách phải nuôi sống được gia đình. Dần dần họ trở nên ích kỉ, chao chát
với đời và với những người xung quanh mình. Ta hẳn chưa quên lời biện minh của ông
giáo về hành động toan tính, nhỏ nhặt của vợ mình trong tác phẩm Lão Hạc của nhà văn
Nam Cao: “Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến

29
một cái gì khác đâu? Khi người ta quá khổ thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa.
Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi buồn đau, ích kỷ che lấp mất”.

Mụ chủ nhà của ông Hai cũng như vậy. Thế nhưng, khi nghe được tin cải chính rằng làng
Chợ Dầu không theo giặc thì mà mụ cũng vui sướng, niềm nở, hạnh phúc không kém gì
ông Hai. Tâm trạng ấy thể hiện rõ trong lời nói của mụ: “A, thế chứ! Thế mà tớ cứ tưởng
dưới nhà đi Việt gian thật, tớ ghét ghê ấy… Thôi, bây giờ thì ông bà lại cứ ở tự nhiên ai bảo
sao. Ăn nhiều chứ ở hết là bao nhiêu”. Đây là lần đầu tiên mụ thân mật thật sự với gia đình
ông Hai.

Bỏ qua những tủn mủn ngày thường, người đọc có thể thấy tận sâu bên trong bản chất
người đàn bà này không phải là người chua chát như vẻ bên ngoài. Trái lại, người phụ nữ
này cũng là người hết lòng yêu nước, yêu quê hương, có niềm tin kiên định vào ngày thắng
lợi của cách mạng. Không khó để nhận ra điều này qua sự thay đổi về ngôn ngữ, thái độ
đến tình cảm ở nhân vật. Có thể nói, nhân vật mụ chủ nhà là một bất ngờ độc đáo của tác
phẩm. Đây có thể xem là một trong những nhân vật nữ thành công nhất của truyện ngắn
Kim Lân.

Người vợ
Đối lập với hình ảnh mụ chủ nhà là nhân vật bà Hai hiền hậu, vợ của ông Hai. Tuy xuất
hiện trong chốc lát nhưng nhà văn Kim Lân đã xây dựng thành công nhân vật bà Hai với
tổng hòa những nét phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Bà là người sắt son,
chung thủy, hy sinh, tần tảo vì gia đình. Công việc của bà là bán hàng rong. Trong gia đình,
bà Hai là một người vợ, người mẹ đảm đang, chịu đựng, nhẫn nhục.
Bà Hai cũng là người hiểu và đồng cảm với tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng chợ
Dầu theo giặc. Vì vậy lúc nói chuyện với chồng, bà luôn dùng những lời lẽ rất nhẹ nhàng, tế
nhị. Có thể thấy, nhân vật này có những phẩm chất giống với bà cụ Tứ trong truyện Vợ nhặt.
Họ đều là những người phụ nữ đôn hậu, là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho chồng con
trong những lúc cuộc sống bế tắc nhất.
Với 7 lời thoại, bà Hai đều nói những câu nói ngắn, lấp lửngcùng giọng nói thủ thỉ như
muốn lắng nghe, sẻ chia nhiều hơn cùng chồng: “Này, thầy nó ạ”; “Thầy nó ngủ rồi à”; “Tôi
thấy người ta đồn…”; “Thầy nó ngủ rồi ư? Dậy tôi bảo cái này đã”. Khi nói chuyện với mụ
chủ nhà, bà Hai cũng hết sức từ tốn: “Vâng… thôi thì dân làng đã chả cho ở nữa, chúng tôi
đành phải đi nơi khác chứ biết làm thế nào. Nhưng xin ông bà trên ấy nghĩ lại thư thư cho
vợ chồng chúng tôi vài ba hôm nữa. Bây giờ bảo đi, vợ chồng chúng tôi cũng không biết là
đi đâu”. Hơn thế nữa, qua các lời thoại, từng suy nghĩ, cảm xúc của bà Hai, chúng ta còn
thấy người phụ nữ này lòng tự trọng rất cao.
Bà Hai cũng là một người yêu cái làng chợ Dầu, yêu Cụ Hồ, yêu cách mạng không kém
gì ông Hai. Tâm trạng bà lão cũng chuyển biến rõ rệt. Không như ngày thường, ngày nghe
tin sai sự thật, bà đã “bước từng bước uể oải, cái mặt cúi xuống bần thần. Đôi quang thúng
thõng thẹo trên hai mấu đòn gánh. Bà đi thẳng vào trong nhà lúi húi xếp hàng vào một xó,
rồi lẳng lặng ra bậc cửa ngồi ôm má nghĩ ngợi”. Bà Hai dù không thể hiện sự tự hào về quê
hương ra bên ngoài như ông Hai nhưng tận đáy lòng bà vẫn luôn theo dõi những tin tức về
làng chợ Dầu. Bà đau cùng nỗi đau của của quê hương. Bài Hai là một hình tượng đẹp về
người vợ, người mẹ hết lòng vì chồng con, một người phụ nữ một lòng yêu quê, yêu nước,
tin tưởng vào cách mạng mà nhà văn Kim Lân đã xây dựng thành công trong tác phẩm của
mình.
Đứa con gái lớn
Người thừa kế những phẩm chất tốt đẹp của bà Hai không ai khác là đứa con gái lớn của
bà.

30
Nhân vật đứa con gái lớn này tác giả cũng không cung cấp cho người đọc bất kì thông tin
gì về tuổi tác, tên gọi. Nhưng qua tác phẩm, ta biết được đây là một cô gái rất đảm đang,
giàu tình cảm. Trong truyện, nhân vật đứa con gái lớn không có lời thoại nào. Cô chỉ được
nhắc đến qua hai câu: “Đứa con gái lớn gồng đôi thúng không bước vào”; “Mụ chủ nhà đi rồi,
bà Hai và con bé lớn nước mắt ròng ròng, lẳng lặng gánh hàng ra quán”. Cô cũng giỏi giang
như mẹ của mình. Khi ông bà Hai vắng nhà, cô đã biết lo toan việc nhà, chăm nom em. Cô
còn biết phụ mẹ buôn bán, kiếm tiền. Cô đã biết đau khổ và khóc khi biết tin làng theo giặc,
nghe những lời mỉa mai của mụ chủ nhà. Cô con gái lớn cũng giống như ông bà Hai, cũng
giàu lòng tự trọng, biết yêu gia đình, yêu quê hương, biết tủi nhục khi làng bị mang tiếng Việt
gian. Nhân vật này không được miêu tả nhiều nhưng dòng “nước mắt ròng ròng” của cô chắc
chắn sẽ để lại những ấn tượng cùng tình cảm sâu đậm trong lòng độc giả.
Làng là tác phẩm rất thành công của nhà văn Kim Lân trên nhiều phương diện, trong đó
có nghệ thuật xây dựng nhân vật. Bên cạnh nhân vật nam chính, các nhân vật nữ được nhà
văn khắc họa ở những mực độ khác nhau nhưng đều để lại những ấn tượng khó quên. Họ
tuy khác nhau về lai lịch, ngôn ngữ, tính cách nhưng đều có chung một phẩm chất yêu nước,
căm thù giặc và bọn bán nước, tin tưởng vào cụ Hồ và cách mạng. Đó là những nhân vật nữ
thành công mà nhà văn Kim Lân đóng góp vào văn học hiện đại Việt Nam.

Lặng lẽ Sapa:
Có những tác phẩm đã trải qua biết bao năm tháng nhưng nó ngân vang trong lòng ta
những rung động nhẹ nhàng mà thú vị, đẹp đẽ mà không khoa trương, giản dị mà chẳng
kém phần tinh tế bởi “Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường
đến xứ sở cái đẹp” (Pautopxki) và ta đã thực sự đã đến được với “xứ sở” ấy qua truyện ngắn
“Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long. Ông được đánh giá là một trong những cây bút
đáng chú ý nhất của thế kỉ trước khi chuyên viết về truyện ngắn và kí. Các tác phẩm của ông
thường có lối viết nhẹ nhàng, trong sáng, giàu chất thơ và “Lặng lẽ Sa Pa” được in trong tập
“Giữa trong xanh” cũng không ngoại lệ. Câu chuyện gửi gắm tới người đọc, giúp người đọc
thấm nhuần vẻ đẹp của những con người lao động mới khi họ đã dệt lên một bài ca về tình
yêu đất nước và đã dệ trong lòng ta những suy nghĩ đẹp đẽ đến khó quên!
Nhan đề:
Vẻ đẹp nhan đề: có 4 chữ chia làm 2 thanh điệu, 2 chữ đầu thanh trắc, 2 chữ sau
thanh bằng gợi sự cân xứng nhịp nhàng. Kết thúc nhan đề là 2 thanh bằng và phép
điệp âm “a” ( nguyên âm mở ) mang âm hương lan tỏa mênh mang. Cấu trúc nhan đề
tạo ra phép đảo khi tác giả đặt Lặng lẽ trước Sa Pa, nhấn mạnh vào thần thái của đối
tượng miêu tả, không chú trọng miêu tả cái bên ngoài mà tập trung vào cái bên trong
của đối tượng. Hai chữ “Sa Pa” mang âm hưởng về 1 miền đất lạ lãng mạn, thơ mộng
và cũng đầy bí ẩn xa xôi, kích thích trí tưởng tượng của người đọc về những gì kì thú,
mới mẻ, kích thích sự khám phá, kiếm tìm.
Thiên nhiên Sapa:
Chất thơ của LLSP còn tỏa ra từ việc ca ngợi vẻ đẹp độc đáo của 1 vùng thiên nhiên
nơi phương xa xứ lạ. Lào Cai, miền Tây Bắc của tổ quốc không hề hoang vu mà trái lại
rất trữ tình, tráng lệ. Khi xe vừa “trèo lên núi” thì “mây hắt từng chiếc quạt trắng lên từ
các thung lũng”. Trạm rừng là nơi “con suối có thác trắng xóa”. Giữa màu xanh của
những cánh rừng thông “rung tít trong nắng”, những cây tử kinh “màu hoa cà” hiện lên
đầy thơ mộng. Có lúc, cảnh tượng núi rừng vô cùng tráng lệ, thú vị nhất là hình ảnh
nắng và mây, nắng có lúc “mạ bạc cả con đèo, đốt cháy cả rừng cây hừng hực như một
bó đuốc lớn”, có lúc kì ảo; nắng lằm đẹp cả thiên nhiên lẫn con người “Nắng chiếu làm

31
bó hoa càng thêm rực rỡ và làm cô gái cảm thấy mình rực rỡ theo”. Mây vừa huyền ảo
vừa tinh nghịch, có lúc rọi xuống đường tạo nên một hình ảnh thất thích thú “Mây bị
nắng xua, cuộn tròn lại thành từng cục, lăn trên các vòm lá ướt, rơi xuống đường cái,
luồn vào cả gầm xe” làm cho ta có cảm giác như bay trong mây. Sapa với những rặng
đào, đàn bò lang cổ đeo chuông… như dẫn hồn du khách vào những miền đất lạ kì thú.
Tóm lại, vẻ nên thơ rất riêng của Sapa được tạo hình, tạo sắc thật đẹp khiến cho Sapa
giống như một bức tranh sơn mài rọi sáng.
Cảm nhận anh thanh niên:
Tổng:
Dù chỉ xuất hiện trong vài khoảnh khắc của truyện nhưng nhân vật anh thanh niên
trong LLSP của NTL đã khiến người đọc xúc động bởi những suy nghĩ sâu sắc, ý thức
trách nghiệm, tình yêu đối với công việc và sự chân thành, cởi mở với mọi người.
Trước hết, anh có những suy nghĩ thật đẹp. sâu sắc về công việc và cuộc sống. Dù là
người “cô độc nhất thế gian”, sống và làm việc một mình trên đỉnh Yên Sơn cao 2600
mét nhưng anh vẫn luôn gắn bó, coi công việc như người bạn thân thiết “Vả, khi ta làm
việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được?”. Công việc dù khó khăn, cô
đơn nhưng anh coi công việc như niềm vui, lẽ sống bởi công việc anh gắn bó với bao
anh em, đồng chí, anh cũng thấy thật hạnh phúc khi biết đóng góp thầm lặng của mình
đã góp phần giúp quân ta hạ được nhiều máy bay Mĩ trên cầu Hàm Rồng.Thêm vào đó,
anh vẫn luôn trăn trở “Minh sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc?”, trả
lời những câu hỏi đó, anh đã tìm thấy mục đích sống chân chính và lí tưởng sống cao
đẹp của đời mình. Tiếp đó, anh thanh niên là người có ý thức trách nghiệm cao, thể
hiện rõ nét qua việc anh vẫn đều đặn báo về bốn lần một ngày vào các giờ ốp: bốn giờ,
mười một giờ, bảy giờ tối và một giờ sáng. Bất kể những đêm mưa tuyết giá rét, trước
cái lặng im tĩnh mịch của Sapa, anh thanh niên ấy vẫn xách đèn ra vườn, vượt qua cái
lạnh thấu da thấu thịt để hoàn thành công việc. Anh cũng rất có trách nghiệm với cuộc
sống chính mình khi anh giữ nhà cửa ngăn nắp, gọn gàng, trồng hoa, nuôi gà, đọc sách
để mở rộng kiến thức. Cuối cùng, anh thanh niên gây ấn tượng với người đọc qua sự
cởi mở, chân thành với mọi người xung quanh. Anh quan tâm, thường xuyên thăm hỏi
bác lái xe, biết vở bác bị bệnh, anh còn đào tam thất để giúp vợ bác bồi bổ. Đón tiếp
những vị khách đến thăm bất ngờ là ông họa sĩ và cô kĩ sư, anh đón tiếp họ thật niềm
nở, chân thành: anh mời bác lái xe và ông họa sĩ uống trà, hái hoa tặng cô kĩ sư, đến
lúc chia tay, anh vẫn không quên tặng ông họa sĩ một giỏ trứng để ăn lúc đi đường.
Anh chân thành, bộc lộ “những điều mà đáng lẽ người ta chỉ nghĩ”; khiêm tốn, e ngại
khi ông họa sĩ muốn vẽ mình; thay vào đó, anh giới thiệu những người đáng vẽ hơn
như ông kĩ sư vườn rau Sapa hay ông cán bộ nghiên cứu sét. Tóm lại, truyện đã phác
họa thành công bức chân dung anh thanh niên với những nét đẹp về suy nghĩ, tinh thần
trách nghiệm, tình yêu công việc và tấm lòng chân thành, cởi mở qua tình huống truyện
hợp lí cùng cách kể chuyện tự nhiên, xen giữa tự sự và trữ tình; nhân vật anh thanh
niên với nhiều phẩm chất đẹp sẽ còn mãi để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.
Phong cách sống đẹp:
Truyện ngắn “LLSP” của Nguyễn Thành Long đã khắc họa thật rõ nét phong cách
sống đẹp của nhân vật anh thanh niên. Trước tiên, anh có phong cách sống đẹp với
chính bản thân mình. Bởi lẽ, dù sinh sống và làm việc một mình nơi đỉnh Yên Sơn cao
2600m,anh vẫn luôn tự giác hoàn thành công việc đúng giờ, đều đặn báo về vào các
giờ “ốp”: bốn giờ, mười một giờ, bảy giờ tối và một giờ sáng. Thêm vào đó, anh biết

32
làm đẹp, biết tự tạo niềm vui cho cuộc sống của mình bằng cách sắp xếp nhà cửa sạch
sẽ, gọn gàng, ngăn nắp, trồng hoa, nuôi gà; đặc biệt, anh có một người bạn tinh thần
rất đáng quý là những quyển sách. Ở người thanh niên ấy còn toát lên vẻ đẹp của đức
tính khiêm tốn. Biết ông họa sĩ định vẽ mình, anh đã thanh thật từ chối và giới thiệu
những người mà theo anh, đáng trở thành hình mẫu trong tác phẩm của ông họa sĩ
như: ông kĩ sư vườn rau Sapa, anh cán bộ nghiên cứu sét. Cảm động nhất là câu nói
rất chân thành của anh thanh niên “Ông kĩ sư làm cháu thấy cuộc đời đẹp quá”. Vậy là,
với anh thanh niên, cuộc đời đẹp là bởi có rất nhiều người đang làm việc thầm lặng và
lo nghĩ cho đất nước hay có thể hiểu, chính họ là những người lao động bình thường
đã góp phần làm đẹp cho cuộc đời. Phong cách sống đẹp còn được thể hiện trong ứng
xử của anh thanh niên với mọi người. Anh vui vẻ, hạnh phúc khi khách đến thăm, nồng
hậu, nhiệt tình trong cách đón tiếp và lưu luyến nuối tiếc khi phải chia tay. Anh còn
quan tâm đến mọi người như: gửi củ tam thất cho vợ bác lái xe, tặng một làn trứng cho
ông họa sĩ và một bó hoa cho cô kĩ sư. Dù chỉ là những hành động giản dị, đời thường
nhưng những hành động của anh thanh niên đã góp phần hoàn thiện bức chân dung
tiêu biểu của Sapa, của con người lao động mưu sinh, qua 1 số chi tiết, 1 vài khoảnh
khắc ít ỏi, Nguyễn Thành Long đã tạo ra 1 cái đẹp hoàn hảo nơi anh thanh niên trong
phong cách sống đẹp của anh với chính bản thân mình và với mọi người.
Tình yêu nghề, tinh thần trách nghiệm cao của con người sp:
Tình yêu nghề và tinh thần trách nghiệm cao trong công việc của những con người
lao động đáng quý ở mảnh đất Sapa đã được tác giả NTL khắc họa rõ nét qua truyện
ngắn LLSP. Trước hết, tình yêu nghề và tinh thần trách nghiệm cao của những người
lao động ở Sapa được thể hiện qua nhân vật anh thanh niên.Anh sống một mình trên
đỉnh Yên Sơn cao 2600 mét, làm một công việc vất vả và cô đơn, nhưng anh vẫn luôn
yêu nghề, anh quan niệm “Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình
được”. Dù công việc khó khăn, anh biết những đóng góp bình dị, lặng lẽ của mình đã
góp phần hạ được nhiều máy bay Mĩ trên cầu Hàm Rồng, tham gia vào công cuộc xây
dựng và bảo vệ tổ quốc, nên anh đã sống thật hạnh phúc. Chính quan niệm đẹp, suy
nghĩ đáng quí của anh thanh niên với công việc đã gợi cho ta liên tưởng đến ước
nguyện hiến dâng của nhà thơ Thanh Hải trong MXNN: “Một mù xuân nho nhỏ/ Lặng lẽ
dâng cho đời/ Dù là tuổi hai mươi/ Dù là khi tóc bạc.” Đó đều là những khát vọng giản
dị, chân thành của bao người ngày đêm cống hiến cho đất nước thật đáng ngưỡng mộ.
Ta cũng bắt gặp các phẩm chất đáng quí trong công việc ở những người lao động thầm
lặng trên mảnh đất Sapa qua lời kể của anh thanh niên. Đó là ông kĩ sư vườn ra Sapa,
ngày này qua ngày khác chỉ ngồi quan sát cách lấy mật ong, rồi tự tay thụ phấn cho
hàng vạn cây su hào to và ngọt hơn cho nhân dân. Dù đầu đã hai thứ tóc mà ông vẫn
làm việc say mê, miệt mài, không hề cảm thấy công việc nhàm chán, vô vị. Hay còn là
anh cán bộ nghiên cứu sét, đã “11 năm không một ngày xa cơ quan”, luôn trong tư
thế sẵn sàng chờ sét để lập bản đồ tìm tài nguyên trong lòng đất. Dù chỉ xuất hiện trong
một vài chi tiết ngắn, nhân vật ông kĩ sư vườn ra và anh cán bộ nghiên cứu sét đã góp
phần hoàn thiện bức tranh lao động đầy trách nghiệm, tình yêu, gắn bó với công việc
trong tác phẩm.
Ông họa sĩ:
Tuy là nhân vật phụ nhưng ông họa sĩ có vai trò quan trọng trong tác phẩm, góp phần vào sự
thành công của truyện. Tuy không dùng cách kể từ ngôi thứ nhất nhưng hầu như người kể
chuyện đã nhập vào cái nhìn và suy nghĩ của ông họa sĩ để quan sát và miêu tả từ cảnh thiên
nhiên Sapa đến nhân vật chính của truyện. Từ đó, tác giả gửi gắm những suy nghĩ, trăn trở và

33
quan điểm về con người và nghệ thuật cũng như làm vẻ đẹp tâm hồn anh thanh niên, chủ đề
truyện trở nên nổi bật hơn. Về tính cách, ông là một người từng trải, am tường nghệ
thuật, có tâm hồn nhạy cảm và khao khát được làm việc. Vì lẽ đó, khi nhận ra vẻ
đẹp của anh thanh niên, ông đã thực sự xúc động, bối rối: “Vị họa sĩ đã bắt gặp một
điều thật ra ông vẫn ao ước được biết, ôi, một nét thôi đủ khẳng định một tâm hồn, gợi
một ý sáng tác, một nét mới đủ là giá trị một chuyến đi dài.” Trò chuyện với chàng trai
trẻ, ông họa sĩ ngỡ như lồng ngực có thêm một quả tim nữa hay chính là quả tim cũ
được đề cao lên. Đang bước vào tuổi già, tuổi của những nghỉ ngơi, ông bỗng trẻ lại,
thấy thêm yêu cuộc sống, khát khao sống, khát khao sáng tạo. Ông yêu nghệ thuật,
tiếp xúc với cuộc sống và con người trong niềm say mê, săn tìm đối tượng sáng tạo.
Luôn trăn trở về sứ mệnh của nghề nghiệp, ông biết rõ sự bất lực của nghệ thuật trong
hành trình vĩ đại của cuộc đời, cụ thể là khi ông muốn vẽ chân dung anh thanh niên: “vẽ
bao giờ cũng là một việc khó, nặng nhọc, gian nan.” Cảm giác nhọc mệt của người họa
sĩ ấy chính là niềm vui, niềm hạnh phúc, một khát khao được tiếp tục sáng tạo, được
cống hiến. Ông họa sĩ săn tìm cái đẹp nhưng chính ông cũng là cái đẹp, một hình ảnh
về người lao động nghệ thuật; đồng thời ông cũng đem lại chất thơ đậm đà cho thiên
truyện.
Nhân vật cô kĩ sư:
Cô kĩ sư là một hình ảnh đẹp của tuổi trẻ, vừa tốt nghiệp đã tình nguyện lên miền núi
Lai Châu công tác. Trong cô bừng dậy những tình cảm lớn lao, cao đẹp tỏa ra từ chính
tâm hồn anh thanh niên- người đã gieo những háo hức mơ mộng ngẫu nhiên cho cô
gái. Cái ấn tượng “hàm ơn” dạt lên trong lòng cô là những gì? Có phải đó là những thu
lượm bổ ích, phong phú, tươi non về nhận thức, về tâm hồn? Cô hiểu anh cán bộ khí
tượng, hiểu cái thế giới những người mà anh kể, và quan trọng là “cô hiểu con đường
cô đang đi tới”. Cô gái bàng hoàng, xúc động như giây phút tuổi trẻ đón nhận tình yêu
đích thực, chứ không phải mối tình nhạt nhẽo, sai lầm vừa đi qua. Cô yên tâm, tin
tưởng ở con đường mình đang đi tới, ở công việc mình đã lựa chọn. Do đó, khi ôm bó
hoa, cô gái hồi hộp, vui sướng vì đã nhận được một kỉ niệm đẹp của tấm lòng, cũng “vì
một bó hoa nào khác nữa, bó hoa của những háo hức, mơ mộng” đang bừng nở với
muôn vàn hương sắc trong tâm hồn cô.

=> những con người nơi đây lặng lẽ với công việc của mình không ai biết đến giữa
không gian vắng vẻ, âm thầm của Sapa heo hút. Song, trong cái lặng lẽ là nhiều tâm
hồn không lặng lẽ, vì những con người nơi đây hiểu công việc mình làm có ý nghĩa lớn
với đất nước, nhân dân. Họ làm việc bằng tình yêu lí tưởng nồng cháy, bằng sự hăng
say quên mình trong công việc. Mỗi người xứng đáng là một vần thơ đẹp trong bài thơ
lớn của cuộc đời.

Liên hệ:
Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm:
Có biết bao người con gái con trai
Trong 4000 lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt, đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước

34
Chiếc lược ngà:
Giữa lúc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt có biết bao câu chuyện về người
lính đã trở thành huyền thoại đẹp tựa cổ tích đời thường bởi lẽ “không có câu chuyện cổ
tích nào đẹp hơn câu chuyện do chính cuộc sống viết ra”(Andecxen) và “Chiếc lược ngà” của
Nguyễn Quang Sáng cũng không phải ngoại lệ. Ta biết rằng, từ xưa đến nay, từ cổ chí kim,
từ Đông sang Tây ta đều bắt gặp những trang văn bất hủ về tình mẫu tử. Đó là trang hồi kí
về tuổi thơ cay đắng, tủi hờn của cậu bé Nguyên Hồng, đó là sự ngọt ngào của nhũng vần
thơ về tình mẹ trong tập thơ “Trang non” của Ta- go,… Nhưng trên thi đàn văn học của
nhân loại gần như ta lại thấy vắng bóng của tình phụ tử, chỉ đến khi truyện ngắn “Chiếc lược
ngà” ra đời ta mới thực sự ngỡ ngàng cảm cảm nhận được sự thiêng liêng cao cả, bao la
diệu kì mà ở tác phẩm chính là tình phụ tử giữa ông Sáu và bé Thu. Thứ tình cảm ấy ngay cả
mưa bom bão đạn, khói lửa chiến tranh cũng chẳng thể dập tắt nổi bởi lẽ: “Vượt qua bi kịch
của chiến tranh, Nguyễn Quang Sáng đã cất cao bài ca thiêng liêng về tình phụ tử”.
Ông Sáu:
Gặp ở bến xuồng:
Khi xuồng vào bến, thấy một đứa bé khoảng tám tuối, đoán là con mình, ông Sáu đã
không thể đợi được xuồng cập bến mà “nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra”.
Sau đấy,ông bước vội những bước thật dài, dừng lại kêu to tên con. Người cha sau
bao năm phải chia cắt đứa con của mình không mong gì hơn được ôm con vào lòng,
hành động của anh cho thấy sự vội vàng cuống quít, “cái tình người cha cứ nôn nao
trong người anh” giờ đây trào dâng mãnh liệt. Nhà văn đã dùng cách miêu tả ngoại
hình để thể hiện niềm xúc động mạnh trong lòng ông Sáu: “Mỗi lần bị xúc động, vết
thẹo dài trên má phải lại đỏ ửng lên, giật giật trông rất dễ sợ”. Niềm hạnh phúc khi
được gặp con khiến người cha, người lính từng trải trở nên lúng túng, vụng về, ông
Sáu nói với con bằng giọng lặp bặp run run: “Ba đây con! Ba đây con!”. Tình cảm của
ông Sáu đối với con thật giản dị, chân thành trong phút đầu gặp lại, sự vội vàng cuống
quýt, niềm hạnh phúc và nỗi xúc động, tất cả đều toát lên tình cảm sâu nặng và cao
đẹp của người người cha dành cho con. Nếu khoảnh khắc gặp lại của ông Sáu với con
khiến người đọc cảm động, thì nỗi đau của người cha bị con từ chối lại làm người đọc
thấy xót thương. Nhà văn đã diễn tả thật tinh tế nỗi thất vọng và tổn thương trong người
cha: “Con anh, anh đứng sững lại đó, nhìn theo con. Nỗi đau đớn khiến mặt anh như
sầm lại trông thật đáng thương và 2 tay buông xuống như bị gãy”. Nhưng chính trong
nỗi đau ta lại thấy tình cảm của cha con ông Sáu được thể hiện cao đẹp nhất. Bởi có
thương, có chờ đợi, có hạnh phúc, có xúc động khi gặp lại con, có dành cho con tình
cảm sâu nặng thì ông Sáu mới ngạc nhiên và đau đớn như thế khi đứa con không nhận
mình là ba. Tóm lại, tình cảm của ông Sáu dành cho con đã được nhà văn Nguyễn
Quang Sáng khắc họa thật rõ nét, chân thực qua cuộc gặp gỡ sau tám năm xa cách
qua nhiều cung bậc cảm xúc cùng thủ pháp miêu tả ngoại hình để khắc họa nội tâm,
qua đó còn cho thể hiện thấm thía nỗi đau chiến tranh.
Mấy ngày nghỉ phép:
Tình cảm ông Sáu dành cho bé Thu càng thiết tha hơn trong ba ngày ông được nghỉ
phép ở nhà. Suốt ba ngày này, ông “chẳng đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con. Thế
nhưng khoảng cách giữa ông Sáu và bé Thu như ngày càng xa, không thể lại gần; con
bé nhất quyết không gọi ông Sáu là “ba” cho dù mẹ nó khuyên bảo và ngay cả khi bị đặt

35
vào thử thách phải nhờ đến người lớn giúp đỡ, bé Thu vẫn nhất quyết làm theo ý mình.
Cuối cùng trong lúc nóng giận, ông Sáu đã đánh con khi bé Thu hất tung cái trứng cá
mà ba gắp làm cơm văng tung tóe cả mâm. Mâu thuẩn giữa hai cha con lên đến đỉnh
điểm khi bé Thu bỏ sang nhà bà ngoại. Phản ứng của bé càng làm ông Sáu khổ tâm.
Chính bác Ba- người chứng kiến câu chuyện đã cảm nhận rằng:” Có lẽ vì khổ tâm đến
nỗi không khóc được, nên anh phải cười vậy thôi.”
Lúc ông Sáu chuẩn bị lên đường trở lại chiến khu:
Chia tay mọi người để trở về miền Đông, ông Sáu phải kìm nén tình cảm của mình
đối với con. Người cha chờ đợi tám năm ròn để được ôm con, hôn con vào lòng; nhưng
trong giờ phút chia tay, vì sợ con bé lại bỏ chạy nên anh chỉ biết đứng nhìn con.
Nguyễn Quang Sáng đã thể hiện tình cảm của người cha trước giờ phút lên đường
khiến người đọc xúc động “anh nhìn với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu”, “chắc anh cũng
muốn ôm con, hôn con”. Nhưng thật bất ngờ, đúng lúc ông Sáu chào con để ra đi thì
tình cha con như trỗi dậy trong con người bé Thu với tất cả sự yêu thương, tủi hờn. Bé
Thu đã thể hiện tình cảm của mình với ba thật hồn nhiên, mãnh liệt. Trước tất cả những
biểu hiện ấy của con, ông Sáu đã vô cùng kinh ngạc và không kìm được xúc động “anh
Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc con”. Chỉ một
chi tiết nhỏ nhưng nhà văn đã thể hiện được niềm vui, niềm hạnh phúc của người cha
khi đứa con nhận mình là ba.
=> Qua sự gặp gỡ rồi chia tay, ta thấy tình cảm ông Sáu dành cho con thật thiết tha,
cao đẹp. Tình cảm ấy không thay đổi dù trong bất kì hoàn cảnh nào.
Ở chiến khu:
Đoạn cuối truyện ngắn Chiếc lược ngà đã thể hiện tình cảm dồn nén sâu nặng của
ông Sáu dành cho bé Thu. Tất cả yêu thương, nhớ mong và trách nghiệm cao đẹp của
người cha đều được biểu hiện thật đẹp đẽ qua chi tiết ông Sáu làm cho con chiếc lược
ngà. Còn nhớ khi kiếm được khúc ngà voi để làm lược cho con, ông đã vui “hớn hở
như một đứa trẻ được quà”. Thế rồi, ông Sáu làm lược cho con thật kiên trì, nhẫn nại
bằng tất cả tình yêu thương của mình “anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ
và cố công như người thợ bạc” và “gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét :”Yêu nhớ tặng Thu
con của ba”. Có thể nói, chiếc lược ngà ấy là tấm lòng, tình cảm yêu thương mà ông
Sáu gửi gắm cho con, chiếc lược đã trở thành biểu tượng thiêng liêng, bất diệt của tình
cha con. Mỗi khi nhớ con, ông Sáu lại mang cây lược ra ngắm: “cây lược ngà ấy chưa
chải được mái tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng của anh”.
Ngắm chiếc lược ngà, ông Sáu dịu bớt đi nỗi ân hận, bớt đi nỗi nhớ con và nuôi niềm hi
vọng ngày trở về được gặp lại Thu, được trao tận tay món quà kỉ niệm. Thế nhưng ước
muốn giản dị ấy của ông vĩnh viến không thể thực hiện được khi ông không may bị viên
đạn máy bay Mĩ bắn vào ngực. Trước lúc giã biệt cõi đời, ông đã cố móc cây lược trao
vào tay người bạn chiến đấu, chỉ đến khi nhận được lời hứa “Tôi sẽ mang về trao tận
tay cho cháu”, người cha ấy mới “nhắm mắt đi xuôi”. Đó đâu chỉ là sự gửi trao chiếc
lược mà còn là một cử chỉ chuyển giao sự sống, ông Sáu đã vĩnh viến ra đi nhưng
“hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”, nó sẽ sống mãi với chiếc lược
ngà.
Bé Thu
Gặp lại ba:
Cuộc gặp gỡ giữa ông Sáu và bé Thu thật bất ngờ và trớ trêu sau tám năm ròng xa
cách. Ông Sáu vô vùng xúc động và vồ vập; trong khi bé Thu trái lại không nhận ra cha,

36
vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy ông Sáu “nó chớp mắt nhìn tôi như muốn hỏi đó là ai,
mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: Má! Má!” Đây là phản ứng bình thường,
hợp lí của một đứa trẻ khi nhìn thấy người lạ bởi hình ảnh ông Sáu trong hiện tại không
giống với người cha trong bức ảnh của bé. Bé Thu xuất hiện ấn tượng với biểu hiện tự
nhiên của một đứa trẻ nhưng đã hé lộ một tính cách thẳn thắn, mạnh mẽ, giúp ta hiểu
được tình cảm của bé thu với ba- người cha trong bức ảnh thật sâu nặng, thủy chung.
Những ngày ba ở phép:
Đáp lại sự yêu thương, ân cần vỗ về của ba, bé Thu luôn lảng tránh, từ chối. Dù má
đã khuyên, dọa đánh nhưng bé nhất quyết không chịu gọi ông Sáu là ba, thậm chí còn
phản ứng một cách bướng bỉnh. Bị dồn vào tình huống khó, phải nhờ đến sự giúp đỡ
của người lớn, con bé kêu lên trống không: “Cơm sôi rồi, nhão bây giờ!”. Không nhận
được sự giúp đỡ, bé Thu không gọi “ba” mà tự loay hoay một mình. Sự bướng bỉnh của
bé Thu khiến bác Ba cũng phải nghĩ “Con bé đáo để thật”. Được ông Sáu gắp cho cái
trứng cá, nó hất ra ngoài mâm, cơm rơi tứ tung khiến ông Sáu không kìm được đã vung
tay đánh con, nó chỉ “ngồi im, đầu cúi găm xuống”. Bé Thu sau đó bỏ sang nhà bà
ngoại, lúc đi còn cố tình khua cho cái dây “lòi tói” kêu “rổn rảng”. Thái độ của bé Thu rất
khó chịu nhưng không đáng trách, mặt khác, phản ứng của em là hoàn toàn tự nhiên.
Thậm chí, điều đó còn chứng tỏ tình cảm sâu sắc em dành cho người ba trong bức ảnh,
một tình yêu ẩn chứa cả sự kiêu hãnh của tuổi thơ về một hình ảnh người cha đẹp đẽ,
trẻ trung và vô vùng thân yêu trong bức tranh với má.
Chia tay ông Sáu:
Nếu cuộc gặp gỡ đầy trớ trêu thì cuộc chia tay thật đẫm nước mắt. Thái độ bé Thu
thay đổi: “vẻ mặt sầm lại buồn rầu”, “nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”, “đôi mắt mênh mông
bỗng xôn xao”. Hành động của em cũng có sự thay đổi: đó là hành động đầy tình yêu
thương dành cho ba. Lúc ông Sáu nói lời từ biệt, tình cảm của con bé được đẩy lên cao
trào trong tiếng thét “ba”, tiếng thét của sựu dồn nén tình cảm trong lồng ngực của bé
Thu, xé không gian, xé cả lòng người. Đó là tiếng kêu ba mà em đã đè nén trong bao
nhiêu năm nay, tiếng ba như vỡ tung từ đáy lòng em. Lần đầu tiên và cũng là cuối cùng
trong cuộc đời, em được gọi tiếng “ba”. Tiếng gọi ấy giản dị, đời thường nhưng ấm áp
thiêng liêng. Ngòi bút của NQS cũng run lên khi con bé “chạy xô tới”, “ôm lấy cổ ba”
nhất là “làn tóc tơ sau ót nó cứ dựng đứng lên”. Cách bày tỏ tình cảm của em dành cho
ba vội vàng, cuống quýt, thiết tha, mãnh liệt. Đó là hành động xuất phát từ nỗi nhớ
mong, tình yêu thương đã dồn nén bao ngày dường như vỡ òa. Đó cũng là hành động
cúa sự hối lỗi khi em đã không nhận ba mình, và những hành động ấy là phù hợp với
cách bày tỏ tình cảm hồn nhiên, chân thực, bộc trực của một đứa trẻ.
=> Qua những biểu hiện tâm lí bà hành động của bé Thu, người đọc cảm nhận được
tình cảm sâu sắc, mạnh mẽ và cũng dứt khoát, rạch ròi ở Thu- một cá tính mạnh mẽ
trong tâm hồn thơ ngây và đa cảm. Nhà văn tỏ ra rất am hiểu về tính cách trẻ thơ, yêu
mến, trân trọng rình cảm của các em nhỏ, nhờ thế mà ông có những trang viết thật sinh
động và cảm động.

Ý nghĩa hình tượng chiếc lược ngà:


M.1: Hình tượng chiếc lược ngà trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nguyễn
Quang Sáng là hình ảnh giản dị mà hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc. Trước hết, chiếc
lược là cầu nối tình cảm thiêng liêng giữa cha con ông Sáu. Với bé Thu, chiếc lược ngà
là ước muốn trẻ thơ rất bình dị, rất trong sáng, rất con gái, thế nhưng có lẽ chính em

37
cũng không thể ngờ rằng chiếc lược ấy là món quà đầu tiên và cũng là cuối cùng ba
tặng cho em. Vì thế ,chiếc lược đã trở thành một kỉ vật thiêng liêng chứa đựng tình
thương yêu, kỉ niệm, ẩn chứa cả tình cảm bất diệt của tình cha con. Với ông Sáu, “cây
lược ngà ấy chưa chải được mái tóc con, nhưng nó đã gỡ rối được phấn nào tâm trạng
của anh”, bới người cha ấy vẫn luôn day dứt, ân hận việc mình đã đánh con trong
những ngày tháng ít ỏi được ở bên con. Chiếc lược như một động lực làm anh càng
mong được gặp con, thế nhưng chiến tàn khốc đã mãi mãi chia cắt tình phụ tử, chiếc
lược trở thành lời trăn trối, di nguyện cuối cùng của ông Sáu. Chiếc lược ngà còn phần
nào tố cáo được nỗi đau chiến tranh, là đầu mối của câu chuyện cảm động về tình
dồng đội nơi chiến trận, qua đó cũng thể hiện hình ảnh người lính nơi chiến trận không
chỉ dũng cảm, kiên cường mà còn là người nghệ sĩ tài năng, khéo léo. Tóm lại, chiếc
lược ngà là một hình tượng nghệ thuật độc đáo, có ý nghĩa thể hiện chủ đề tác phẩm:
ngợi ca tình cha con, tình đồng đội đồng chí thiêng liêng. (Hình tượng chiếc lược ngà
sẽ còn mãi gây ấn tượng với người đọc hôm nay mà mai sau.)
M.2: Có người đã từng nhận xét: "Những chi tiết nhỏ trong mỗi truyện ngắn giống như một dây
tóc bóng đèn, tuy nhỏ bé nhưng có tác dụng phát sáng lên cả câu chuyện". Hình tượng chiếc lược
ngà trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nguyễn Quang Sáng là một chi tiết như vậy. Chiếc lược
ngà chính là kỉ vật cuối cùng người cha gửi tặng cho con gái trước lúc hi sinh trong kháng chiến
chống Mỹ. Trước tiên, chiếc lược ngà ấy thể hiện tình cảm yêu thương, mong nhớ của ông Sáu dành
cho con. Đó chính là hiện thân cho trái tim của người cha dành trọn vẹn cho đứa con gái duy nhất
của mình. Có thể nói, chiếc lược ấy chính là minh chứng sáng ngời cho tình cha con bất diệt trong
hoàn cảnh éo le của cuộc chiến tranh. Không chỉ yêu thương, đó còn là lời hứa, là kỉ vật thiêng liêng
vì trước khi chia tay, bé Thu dặn ba về ba mang cho con chiếc lược ngà. Chiếc lược còn thể hiện sự
khéo léo, tài năng của người lính, người lính Việt Nam không chỉ là những anh hùng chiến trận mà
còn là những người nghệ sĩ, đầy tài năng. Chiếc lược ngà như một lời xin lỗi của người cha vì đã trót
đánh con trong những ngày về thăm nhà. Không dừng lại ở đó, chiếc lược còn là cầu nối cho những
tình cảm mới mẻ, cao đẹp của con người. Chiếc lược nhỏ bé ấy đã được người đồng đội trao lại cho
cô con gái yêu dấu của người lính xấu số. Ở đây, ta bắt gặp thêm một thứ tình cảm thiêng liêng vừa
dấy lên của người trao lược và người nhận lược: tình cha con. Vì thế mà chiếc lược còn có ý nghĩa
nốt kết những tình cảm cao đẹp giữa người với người. Đây là một hình tượng nghệ thuật độc đáo,
có ý nghĩa thể hiện chủ đề tác phẩm: ca ngợi tình cha con, tình cảm gia đình trong chiến
tranh. Chiếc lược ngà đã đạt giá trị sâu sắc cả về nội dung và hình thức, và sẽ còn gây được những
xúc động cho người đọc hôm nay và cả mai sau

Mùa xuân nho nhỏ:


Mùa xuân là đề tài bất tận cho thi sĩ thoả sức sáng tạo, thoả sức thổi hồn vào từng
dòng thơ, từng câu chữ. Mỗi nhà văn, mỗi tính cách, mỗi cái nhìn khiến cho sự bất tận lại
càng thêm phần bất tận. Ta từng thấy một mùa xuân mang trong mình những triết lí sâu
sắc của Chế Lan Viên:
“Tôi có chờ đâu có đợi đâu
Mong chi xuân lại gợi thêm sầu”
hay một mùa xuân rất trữ tình, rất táo bạo trong thơ thi sĩ Xuân Diệu:
“Xuân đương tới là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”
thì giờ đây ta hãy cùng nhau khám phá mùa xuân của nhà thơ Thanh Hải. Mùa xuân ấy

38
mang vẻ đẹp về thiên nhiên và đất nước, mùa xuân ấy mang trầm tư, suy nghĩ về đời người
qua đó cho người đọc thấy những ước nguyện và khát vọng khiêm nhường mà chân thành,
tha thiết của nhà thơ.
Khổ 1:
Khổ thơ đầu bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải đã khắc họa rõ nét
hình ảnh bức tranh mùa xuân thiên nhiên và cảm xúc nhà thơ trước bức tranh thiên
nhiên tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Đoạn thơ mở ra trước mắt ta hình ảnh dòng sông,
bông hoa, con chim chiền chiện thật khoảng đạt, trong sáng, có cả bầu trời và mặt đất,
tầm cao và tầm xa với đầy đủ màu sắc, âm thanh. Ở câu thơ đầu, động từ “mọc” được
đảo lên đầu câu thơ khắc sâu ấn tượng về sức sống trỗi dậy vươn lên của mùa xuân,
khiến hình ảnh bông hoa hiện ra lung linh sống động, tràn đầy sức sống. Trên nền
xanh của dòng sông uốn lượn êm đềm là màu tím biếc của bông hoa, sắc màu gợi
vẻ đẹp thơ mộng, chất Huế đầy bí ẩn, quyến rũ. Bức tranh thiên nhiên không chỉ có
“họa” mà còn có “nhạc” bởi tiếng chim chiền chiện trong trẻo, rộn rã ngân vang cao
vút giữa bầu trời xuân. Trong cái nhìn trìu mến với cảnh vật, thi nhân đã đặt từ “Ơi” lên
đầu câu làm ta hình dung được cảm xúc của tác giả như hân hoan, reo vui, như đón
nhận khúc nhạc của mùa xuân, như ngỡ ngàng xao xuyến trước sức xuân của đất trời.
Tiếng chim như rót vào tâm hồn nhà thơ một niềm trìu cảm, khiến tâm hông thi sĩ ngập
tràn niềm vui để ngôn từ thốt lên “Hót chi mà vang trời” như một lời trách yêu đầy thân
thương. Như vậy, chỉ bằng vài nét phác họa, Thanh Hải đã vẽ ra một bức tranh thiên
nhiên mùa xuân tươi đẹp, đằm thắm tràn đầy sức sống mãnh liệt với không gian cao
rộng, màu sắc tươi thắm, âm thanh vang vọng tươi vui của đất trời xứ Huế vào xuân.
Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân càng được diễn tả cụ thể hơn qua hai câu thơ
cuối đoạn “Từng giọt long lanh rơi/ Tôi đưa tay tôi hứng”. Trong đó, hình ảnh “giọt long
lanh là một sáng tạo độc đáo của Thanh Hải, một hình ảnh giàu sức gợi và ẩn chứa
muôn trùng sắc thái. Đó có thể là những dư âm của trận mưa đọng lại trên phiến lá, là
giọt sương sớm mùa xuân lấp lánh dưới ánh mặt trời như những viên pha lê xinh đẹp.
Song, xét theo mối liên kết với câu thơ trước, dường như tiếng chim da diết dưới vòm
trời cao rộng đã đọng kết lại thành từng “giọt âm thanh” rơi xuống hồn người, chạm vào
cõi sâu lắng, khuấy lên bao nỗi niềm của nhà thơ, đây chính là nghệ thuật ẩn dụ
chuyển đổi cảm giác được Thanh Hải sử dụng một cách tài tình. Thi nhân cũng vội
vàng đưa đôi bàn tay để “hứng” lấy thứ quà tặng của thiên nhiên xứ Huế với sự đón
nhận, nâng niu, trân quý như sợ rằng nếu không làm như vậy, thứ âm thanh kia sẽ
chìm vào thinh vắng.Tóm lại, chỉ với vài ba nét chấm phá cùng với nghệ thuật đảo ngữ,
sáng tạo nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, khổ đầu bài thơ đã khắc họa được một
bức tranh thiên nhiên mùa xuân thật đẹp đẽ, qua đó cho thấy những cảm xúc say sưa
đến ngây ngất của tác giả trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời xứ Huế lúc vào xuân.
Khổ 2:
Từ cảm xúc trước mùa xuân thiên nhiên, khổ 2 bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của tác
giả Thanh Hải đã có sự chuyển biến trong mạch cảm xúc sang mùa xuân đất nước,
mùa xuân cách mạng. Trước hết, mùa xuân đất nước được gợi ra từ những hình ảnh
cụ thể, hữu hình: “người cầm súng”, “người ra đồng”. Chẳng phải ngẫu nhiên mà
Thanh Hải sử dụng hình thức sóng đôi nhịp nhàng với hai hình ảnh trên, bởi lẽ, họ là
những đại diện cho sức mạnh dân tộc. Đồng thời, biểu trưng cho hai nhiệm vụ chiến
lược quan trọng nhất của đất nước thời bấy giờ- chiến đấu và sản xuất. Tiếp đó, mùa
xuân về còn mang đến những “lộc” non tươi mới, căng tràn sức sống. Từ hình ảnh tả

39
thực của những cành lá ngụy trang che mắt quân thù, những mạ non trải dài trên ruộng
đồng bát ngát, tác giả đã có những liên tưởng thú vị. “Lộc” là biểu tượng cho tuổi trẻ
sức thanh xuân đầy mơ ước, lí tưởng, khát vọng cống hiến cho tuổi trẻ, sự sôi nổi trong
tâm hồn mỗi con người, là biểu tượng cho sức sống, may mắn, niềm vui khi xuân về.
Chữ “lộc” được lặp lại hai lần cùng 2 động từ “giắt đầy”, “trải dài” khiến sức sống mùa
xuân tầng tầng, lớp lớp theo bước chân người mang theo sức xuân vào trận đánh, gieo
màu xuân trên từng thuở ruộng để đem lại màu xuân cho đất nước. Sức xuân còn
được cảm nhận tinh tế trong khoảnh khắc cả nhịp sống: “Tất cả như hối hả/ Tất ca như
xôn xao” Điệp ngữ “tất cả như” cùng cấu trúc sóng đôi với các từ láy biểu cảm như
“hối hả”, “xôn xao” đã gợi nên nhịp sống hối hả, khẩn trương, hăng hái của con người
Vn trong giai đoạn mới, thời đại mới trong công cuộc xây dựng CNXH. Tóm lại, chỉ với
6 dòng thơ, đoạn thơ đã giúp ta cảm nhận rõ niềm vui, niềm tự hào của tác giả về
tương lai tươi sáng của đất nước, cho dù đất nước còn vất vả, khó khăn. Từ đó, đoạn
thơ có ý nghĩa như giục giã con người hòa vào nhịp sống hối hả của đất nước trong
công cuộc XDCNXH, xây dựng đất nước.
Khổ 3:
Từ hình ảnh của những người cầm súng, người ra đồng, khổ thơ thứ 3 bài thơ “mùa
xuân nho nhỏ” của Thanh Hải đã gợi suy ngẫm về đất nước, lịch sử dân tộc với một
niềm xúc động sâu lắng. Xuyên suốt chiều dài của triền đê mang tên “lịch sử”, mốc thời
gian “bốn ngàn năm” đã đi vào tiềm thức của biết bao thế hệ. Bởi lẽ, đó là lời tổng kết
về lịch sử đất nước với bao “vất vả”, “gian lao”, với muôn vàn những thăng trầm, gian
truân, biến động. Cái nghèo đói chẳng buông tha, bão giông, nắng lửa chẳng nương
tay, những cơn thủy triều của sự đau thương, mất mát cứ xé nát tâm can. Song, Thanh
Hải đã dử dụng hình ảnh so sánh “Đất nước như vì sao” để khẳng định sức mạnh lớn
lao của tổ quốc Việt Nam. Vì sao ấy luôn tỏa ra vầng hào quang rạng ngời, sáng tỏa,
vững vàng bay lên từng nấc thang của bầu trời rộng lớn để ngày càng văn minh, hạnh
phúc. Ngoài ra, điệp ngữ “đất nước” được lặp lại hai lần kết hợp cùng phó từ “cứ”,
hình ảnh nhân hóa “đi lên phía trước” và cấu trúc song hành “Đất nước bốn ngàn
năm/ Đất nước như vì sao” đã diễn tả nhịp vận động đi lên của lịch sử, đồng thời khẳng
định vẻ đẹp trường tồn của dân tộc. Hình ảnh một quốc gia dẫu trải qua bao nhiêu khó
khăn, dẫu đứng trước những kẻ thù to lớn vẫn không bao giờ can tâm đầu hàng cũng
đi vào hồn thơ của Hạ Văn Thịnh thật xúc động, tự hào: “ Định mệnh nhắc ta rằng Đất
Việt gian truân/ Nhưng chữ S chẳng thế nào gục gãy/ Người trước ngã người sau đứng
lên”.Tóm lại, khổ thơ thứ 3 của MXNN đã bộc lộ được tình yêu đất nước tha thiết và
niềm tin của nhà thơ vào tương lai tươi sáng của đất nước cho dù phía trước còn muôn
vàn khó khăn, trở ngại.
Khổ 4:
Sang khổ thơ thứ tư và thứ năm bài thơ mxnn, cảm xúc tiếp tục vận động từ mùa
xuân đất nước sang mùa xuân đời người thành những suy nghĩ, nguyện ước của nhà
thơ trước tổ quốc muôn vàn quí yêu. Trước tiên, ta cảm nhận được giai điệu nhè nhẹ,
du dương, êm ái, ngọt ngào của những thanh bằng liên tiếp, những luyến láy, những
điệp ngữ “ta làm…ta làm…ta nhập” cứ xôn xao, réo rắt mãi trong lòng người đọc. Tiếng
thơ như một lời thủ thỉ tâm tình về niềm ước nguyện trọn đời của nhà thơ được hiến
dâng, được hóa thân thành “con chim hót”, “một cành hoa”, “một nốt trầm” dẫu nhỏ bé
đơn sơ nhưng lại mang ý nghĩa thật cao đẹp. Ông muốn làm “com chim hót” trong
muôn vàn loài chim, góp vào đời tiếng hót vui, tha thiết làm đắm say lòng người. Ông

40
chỉ xin làm “một cành hoa” trong xứ sở hoa với đầy đủ những gam màu từ rạng rỡ đến
âm trầm. Và người thi sĩ ấy chỉ mong ước được làm “một nốt trầm” lặng lẽ, âm thầm cứ
mãi du dương để lại dư âm bồi hồi, xao xuyến trong lòng người. Xuyên suốt đoạn thơ,
cái “tôi” đã nhập vào cái “ta”, như một cách khéo léo để thể hiện sự hào hợp giữa cá
nhân với cộng đồng, đồng thời giúp ta hiểu được khát vọng cống hiến ấy không chỉ của
riêng nhà thơ mà là điều tâm niệm chung của tât cả mọi người. Khát vọng được cống
hiến của tác giả cũng gặp được nét đồng điệu với nhạc sĩ Trương Quốc Khánh: “Nếu là
chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng/ Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương/ Nếu là
mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm/ Là người, tôi sẽ chết cho quê hương”. Đó đều là
những khát vọng tha thiết, chân thành thật đáng trân trọng biết chừng nào!
Khổ 5:
Khát vọng cống hiến những gì tinh túy nhất của đời người cho đất nước đã làm sáng
lên hồn thơ, làm ngân lên âm hưởng của một lẽ sống khiêm tốn, cao cả trong khổ thơ
thứ năm: “Một mùa xuân nho nhỏ/ Lặng lẽ dâng cho đời”. Mùa xuân vốn là thước đo
của thời gian, hạn định của không gian; song, Thanh Hải đã sử dụng từ láy “nho nhỏ”
để định hình cho khái niệm trìu tượng, đồng thời thể hiện ước nguyện khiêm tốn, dung
dị. Tính từ “lặng lẽ” cho thấy vẻ đẹp của một tâm hồn, lối sống và nhân cách không ồn
ào, khoa trương. Ông tự nguyện cả cuộc đời cho đi một cách lặng lẽ mà không hề đòi
hỏi người ta sẽ nhớ đến danh xưng, ghi tạc vào sử sách. Ví như người lao công lặng lẽ
giữ sạch đường phố, người bác sĩ lặng lẽ cứu lấy những sinh mệnh đang hấp hối. Điệp
ngữ “Dù là” cùng hình ảnh đánh dấu hai mốc son quan trọng của đời người “tuổi hai
mươi”, “khi tóc bạc” khiến cho lời thơ khẳng khái như một lời tự hứa, tự nhủ rằng sẽ
trọn đời cống hiến của nhà thơ. Trên lưng đồi của tuổi trẻ đến những ngày vãn niên,
khát vọng hiến hiến dâng, lí tưởng sống thầm lặng mà cao đẹp đã trở thành một lời
tuyên thề vững bền, một tâm nguyện thủy chung ăn sâu vào trái tim người thi sĩ ấy.
Tuổi hai mươi với nguồn năng lượng dạt dào, căng tràn sức sống, ông đầy kiên nghị và
sôi nổi, hết mình sống vì sự nghiệp xây dựng tổ quốc. Khi thời gian lưu lại trên mái tóc
bạc màu, ngọn lửa nhiệt huyết vẫn không bao giờ tắt lịm mà cứ bập bùng cháy mãi.
Màu xuân ấy cứ nho nhỏ mà lại tận tâm tận tụy hòa nhịp cùng “Chín mươi triệu người
lấy thân mình chở che Tổ quốc linh thiêng” (Nguyễn Phan Quế Mai). Có thể nói, bằng
việc sử dụng thành công các điệp từ ngữ, điệp cấu trúc câu cùng với những vần thơ
giản dị mà dạt dào xúc cảm, hai khổ thơ bốn, năm đã cho ta thấy được khát vọng cống
hiến chân thành, tha thiết, cao đẹp của nhà thơ qua đó đem đến cho mỗi chúng ta
những bài học nhân sinh sâu sắc.
Khổ 6:
Khổ cuối bài thơ mxnn- tg th là niềm tự hào và ngợi ca quê hương đất nước qua làn
điệu dân ca xứ Huế. Khúc Nam ai vốn là khúc nhạc buồn thương, da diết gợi nên thước
phim quá khứ đầy hy sinh, khổ đau mà đất nước phải trải qua; vậy mà trong tiết xuân
hiền hòa, ấm áp của hiện tại, ta thấy ngân vang khúc Nam bình- khúc nhạc êm ái, trìu
mến. Những âm điệu đặc trưng của xứ Huế đã hòa vào dòng máu nhà thơ, đã trở
thành một phần của linh hồn và luôn thường trực trong “ốc đảo” trái tim. Bằng điệp ngữ
“nước non ngàn dặm” kết hợp gieo vần bằng “bình, tình, mình”, nhà thơ đã khiến âm
hưởng bài thơ thêm ngọt ngào, dịu nhẹ như làn điệu dân ca trữ tình xứ Huế. Con đò xứ
Huế trên dòng sông Hương chở theo những câu đò xao xuyến, bay bổng, điệu hò chậm
rãi, miên man, tiếng hò bâng khuâng da diết rót vào hồn người để mỗi khi nghe hò là
người ta nhớ đến Huế: “ Tiếng hát đâu mà nghe nhớ thương!/ Mái nhì man mác nước

41
sông Hương” (Tố Hữu). Mở đầu bài thơ là tiếng chim chiền chiện tượng trưng cho khúc
hát của đất trời đến “nốt trầm xao xuyến” trong bản hòa ca và tiếng hát tự nguyện của
nhà thơ đã tạo ấn tượng về một bài ca không dứt. Đó chính là điệp khúc của bài ca về
tình yêu cuộc sống và cũng là lời nhắn nhủ: mỗi người hãy là một mùa xuân để đất
nước mãi là những màu xuân tươi đẹp.

Viếng lăng Bác:


Bác Hồ- tiếng gọi sao mà thân thương đến thế! Người là một nguồn cảm hứng bất tận
trong thơ ca Việt Nam, thơ về người rất nhiều nhưng mỗi bài thơ lại dẫn ta đến những vùng
đất khác nhau. Nếu “Sáng tháng năm” của Tố Hữu là tình cảm tha thiết, sôi nổi của nhà thơ
với Bác khi ở chiến khu, hay “Đêm nay Bác không ngủ” của nhà thơ Minh Huệ là niềm xúc
động của ông trước tình thương bao la mà Bác dành cho mọi người,… Trong khi đó “Viếng
lăng Bác” của Viễn Phương lại là bài ca chân thành, cảm động của nhà thơ đối với Người,
bài thơ như chạm đến tim người đọc, để lại trong ta niềm xúc động đến nghẹn ngào kèm
theo chút nỗi buồn man mác: ôm cả non sông chọn kiếp người, Bác đã đi rồi sao Bác ơi!
Khổ 1: cx nhà thơ trước cảnh bên ngoài lăng Bác
Khổ đầu bài thơ “Viếng lăng Bác” của nhà thơ Viễn Phương là bao nỗi xúc động bồi
hồi của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác. “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”, câu thơ
mở đầu giản dị như một lời thông báo nhưng ẩn chứa trong đó là bao nỗi xúc động
nghẹn ngào của một người con từ miền Nam ra viếng lăng Bác sau bao lâu mong đợi.
Đây cũng chính là tình cảm thiết tha của đồng bào miền Nam với Bác. Từ “con” là cách
xưng hô đậm chất Nam Bộ nghe thật ngọt ngào, thân thương. Đó là tiếng gọi ấm áp,
gần gũi của một người con với vị cha già. Trong câu thơ, tác giả dùng từ “thăm” thay
cho từ “viếng”, đây là cách nói giảm nói tránh để giảm nhẹ nỗi đau mất mát và khẳng
định Bác vẫn còn sống mãi trong trái tim người VN. Đặc biệt, hình ảnh gây ấn tượng
mạnh với tác giả là hình ảnh “hàng tre”. Hai chữ “trong sương” chứng tỏ VP đã có mặt
bên lăng bác từ rất sớm, nhà thơ đã không nén được nỗi khao khát, hồi hộp, nóng lòng
được đến bên lăng Bác. “Bát ngát” gợi hình ảnh hàng tre chạy dài bao bọc quanh lăng,
“xanh xanh” là màu của sức sống còn “đứng thẳng hàng” là dáng tre thẳng, đẹp trong
kiêu hãnh. Đằng sau màu xanh của tre là một linh hồn, một cốt cách VN, dù qua bao
“bão táp mưa xa”- những gian khổ và thử thách- con người Vn vẫn kiên cường, hiên
ngang bất khuất. Đặt thán từ “Ôi!” ở đầu câu, tác giả không chỉ diễn tả sự xúc động
mãnh liệt khi lần đầu được ra thăm lăng Bác mà phải chăng còn biểu thị niềm xúc
động tự hào của tác giả khi đứng trước hình ảnh hàng tre , với đất nước, với dân tộc,
với Bác. Trong cái nhìn xúc động của nhà thơ, hình ảnh hàng tre vừa thực vừa ảo, vừa
lung linh trong tâm tưởng. Đó là thiên nhiên xứ sở bao bọc, chở che cho giấc ngủ
của Người. Tóm lại, bằng những hình ảnh thơ vừa thực vừa giản dị lại vừa mang nghĩa
biểu tượng đoạn thơ đã bộc lộ sâu sắc bao nỗi xúc động, bồi hồi, tự hào của nhà thơ
khi đến bên lăng Người.
Khổ 2: cx tg khi hòa cùng dòng người vào trong lăng

42
Khổ hai bài thơ “VLB” của nhà thơ VP là cảm xúc của tác giả khi hòa cùng dòng
người vào lăng viếng Bác. Ở hai câu thơ đầu, chữ “ngày” được láy lại hai lần trong câu
thơ diễn tả dòng thời gian như vô cùng, vô tận. Đây là một chi tiết đầy tinh tế, Viễn
Phương đã lấy thời gian để tô đậm lòng thương nhớ và sự yêu kính của dân tộc đối với
Bác. Tình cảm ấy là bất tận, vĩnh cửu và Bác là bất tử trong niềm yêu kính ấy. Nhà thơ
cũng xây dựng mối tương quan rất đẹp giữa hai hình ảnh mặt trời trên lăng và mặt trời
trong lăng. “Mặt trời đi qua trên lăng” chính là mặt trời của thiên nhiên rực rỡ, vĩnh hằng
đem lại sự sống cho muôn loài, cái thiên thể kì vĩ bậc nhất của vũ trụ ấy cũng phải
nghiêng mình soi ngắm mặt trời trong lăng. “Mặt trời trong lăng” là một ẩn dụ đẹp, khiến
hình ảnh Bác trờ thành mặt trời cách mạng, mặt trời dân tộc; vì Người đã soi đường chỉ
lối cho nhân dân VN, tỏa nguồn sáng và nguồn ấm của tự do hạnh phúc cho đất nước.
Ngoài ra, hai chữ “rất đỏ” gợi trái tim đầy nhiệt huyết vì tổ quốc, vì nhân dân, trái tim
chan chứa yêu thương con người và tổ quốc của Bác. Hai mặt trời soi chiếu vào nhau
và đó là cách nhà thơ ngợi ca sự bất tử của, đồng thời thể hiện lòng tôn kính, ngưỡng
mộ tự hào và biết ơn với Bác kính yêu. Càng tôn kính Bác, nhà thơ càng xúc động tiếc
thương khi hòa cùng dòng người vào lăng viếng Bác. Hình ảnh “ngày ngày dòng người
đi trong thương nhớ” là hình ảnh thực, việc sử dụng điệp từ “ngày ngày” diễn tả đoàn
người đi liên tục trong thời gian, không gian. Từ hình ảnh tả thực, nhà thơ đã sáng tạo
nên hình ảnh ẩn dụ “tràng hoa” để ngầm so sánh những dòng người xếp thành
hàng vào lăng viếng Bác như nối thành những tràng hoa bất tận mà mỗi người trong đó
là một bông hoa tươi thắm, kính dâng lên Người những gì tốt đẹp nhất. Hình ảnh hoán
dụ đặc sắc “bảy mươi chín mùa xuân” vừa gợi số tuổi của Bác vừa ca ngợi con người
bảy mươi chín mùa xuân ấy đã cống hiến, hy sinh; sống thật đẹp như những mùa xuân
và đem lại mùa xuân cho đất nước. Nói tóm lại, với nhịp thơ chậm rãi, câu thơ không
ngắt nhịp trải dài 8,9 tiếng một dòng thơ cùng việc lặp lại từ ngữ, cấu trúc và dấu chấm
lửng, khổ thơ vừa gợi bước đi chầm chậm của dòng người vào lăng viếng Bác, vừa gợi
được tấm lòng thành kính thiết tha của nhà thơ, của nhân dân VN với Bác.
Khổ 3: cảm xúc của tác giả khi vào lăng viếng Bác
Khổ ba của bài thơ “VLB” của nhà thơ Vp đã diễn tả niềm xúc động nghẹn ngào của
tác giả khi vào trong lăng và đứng trước di hài của Người. Hình ảnh Bác nằm trong
lăng được diễn tả xúc động qua hai câu thơ: “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên/ Giữa
một vầng trăng sáng dịu hiền”. Không gian và thời gian như ngưng kết hóa thành vĩnh
viễn nơi lãnh tụ yên nghỉ. Nhà thơ dùng từ “giấc ngủ” chỉ giấc ngủ ban đêm, giấc ngủ
bình thường không phải là vĩnh viễn vừa để giảm bớt nỗi đau mất Bác, vừa gợi không
khí tĩnh lặng, nghiêm trang trong lăng. Thi sĩ đặt giấc ngủ của Bác “Giữa một vầng
trăng sáng dịu hiền” gợi nhiều liên tưởng. Đó có thể là hình ảnh ẩn dụ cho tâm hồn
cao đẹp, sáng trong; cũng có thể là vần thơ tràn ngập ánh trăng của Người. Trăng luôn
có mặt cùng Bác trên những chặng đường CM, giờ đây trăng sẽ mãi mãi bên Người
trong giấc ngủ ngàn thu. Nhưng rồi lý trí phải nhường cho cảm xúc, nỗi đau xót trào lên
không kìm nén được “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi/ Mà sao nghe nhói ở trong tim”.
Cảm xúc của tác giả lúc này như có sự mâu thuẫn giữa lí trí và tình cảm. Hệ thống hình
ảnh trời xanh, cũng như mặt trời, vầng trăng là những hình ảnh của vũ trụ, kì vĩ, vĩnh
hằng, gợi suy ngẫm về cái cao cả, bất diệt, trường tồn của Bác. Dù lí trí khẳng định như
vậy nhưng tình cảm xót thương không chấp nhận sự mất mát thực tế. Chữ “nhói” với
thanh trắc như một điểm nhấn xót xa của nỗi đau không hề cầu kì, ước lệ mà tự nhiên,
chân thành khi nỗi đau mất Bác như thấu tận tâm can. Tóm lại, với giọng thơ trầm lắng,

43
nhịp thơ chậm, khổ thơ thứ ba đã thể hiện xúc động niềm thành kính và xót thương sâu
sắc của nhà thơ, cũng là của bao con người VN đối với Bác.
Khổ 4: Cảm xúc tác giả khi rời lăng
Khổ cuối bài thơ VLB của nhà thơ Vp thể hiện tâm trạng quyến luyến, bịn rịn của thi
sĩ khi sắp phải rời lăng Bác. Giờ phút chia tay đã đến, nỗi nhớ thương trong cả bài thơ
giờ rưng rưng thành dòng lệ “Mai về miền Nam thương trào nước mắt”. Từ “trào” bộc lộ
cảm xúc mãnh liệt, lưu luyến bịn rịn không muốn rời xa nơi Bác yên nghỉ của tác giả.
Đó cũng là tâm trạng của muôn triệu con tim cùng chung nỗi đau không khác gì nhà thơ
khi gần Bác chỉ trong phút giây, nhưng không bao giờ muốn rời xa Bác. Ở ba câu sau,
tình cảm đã dâng thành khát vọng khi nhà thơ muốn được hóa thân, hòa nhập vào
cảnh vật bên lăng để được ở mãi bên Người. Điệp từ “muốn làm” tạo ra nhịp thơ
dồn dập, diễn tả khát vọng đang trào dâng mãnh liệt: thi sĩ muốn làm con chim ca hót,
làm cây tre trung hiếu, làm đóa hoa dâng sắc hương. Hình ảnh cây tre ở đầu bài thơ
đến đây được lặp lại, tạo kết cấu đầu cuối tương ứng khiến hình ảnh thơ thêm ấn
tượng đậm nét và diễn tả cảm xúc trọn vẹn. Tre được nhân hóa qua từ “trung hiếu”;
hình ảnh “cây tre trung hiếu” cũng là phép ẩn dụ thể hiện lòng kính yêu và trung thành
vô hạn đối với Bác, đồng thời như một lời hứa, lời thề sắt son tiếp tục đi theo con
đường Bác đã chọn. Khổ thơ khép lại trong sự xa cách của không gian nhưng lại tạo
được sự gần gũi trong tình cảm ý chí. Đây là tc chân thành của mỗi người và của
những ai chưa được đến lăng Bác nhưng một lòng luôn hướng về Bác. Nói tóm lại,
bằng việc sử dụng thành công nghệ thuật điệp ngữ, cùng các hình ảnh thơ liên tiếp với
nhịp thơ dồn dập, khổ thơ bốn đã diễn tả tình cảm thiết tha, khát vọng dâng trào mãnh
liệt của nhà thơ khi sắp phải rời xa nơi yên nghỉ của Người.

Sang thu:
Mùa thu từng dệt nên một miền thơ đẹp. Ta đã từng yêu một mùa thu thơ mộng,
huyền ảo trong “Truyện Kiều”:
“Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc, non phới bóng vàng”
một mùa thu trong trẻo, thanh tao trong các bài thơ của Nguyễn Khuyến, đến thơ mới ta lại
bắt gặp mùa thu ảo mộng trong “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư, và hiển nhiên cũng không
thể không yêu khoảnh khắc “Sang thu” của Hữu Thỉnh. Bài thơ tựa một bản nhạc dịu dàng,
tinh tế về khoảnh khắc chuyển giao kì diệu của đất trời từ cuối hạ sang đầu thu, khúc nhạc
ấy ngân lên cảm xúc thiết tha mà sâu sắc như chạm đến tâm hồn người đọc với những rung
động thật ngọt ngào!
Khổ 1:
Khổ một bài thơ “sang thu” là những ấn tượng và cảm xúc của tác giả khi bắt gặp
những tín hiệu đầu tiên của thiên nhiên đất trời lúc giao mùa từ cuối hạ sang đầu thu.
Những tín hiệu đầu tiên của thiên nhiên lúc sang thu được cảm nhận qua những hình
ảnh mơ hồ, mờ ảo, mong manh trong không gian gần và hẹp. Thu đến trong thơ Hữu
Thỉnh một cách rất riêng với mùi hương ổi mộc mạc, dung dị từ chốn làng quê đồng

44
bằng Bắc Bộ: “Bỗng nhận ra hương ổi/ Phả vào trong gió se”. Hương thơm ấy không ấy
“tỏa” mà “phả” vào gió heo may như đang đặc sánh lại, ngào ngạt, nồng nàn. Trong cái
không gian cuối hạ lởn vờn mùa thu ấy, ta thấy thấp thoáng đâu đây bóng dáng “sương
chùng chình” lướt nhẹ như một nàng thơ e thẹn, thướt tha đi qua từng triền đê, thôn
làng. Sương dường như đã hóa thành một người lữ hành qua tính từ nhân hóa “chùng
chình”, cứ chập chững, cố ý bước đi chậm chạp qua ngõ đường lộng gió, vườn ổi chín
mọng và nội cỏ xanh rì để rồi lưu luyến, vấn vương sinh cảnh mà không còn muốn tan
vào không gian vô định. Bên cạnh đó, không gian “ngõ” mà sương theo gió đi có lẽ
không chỉ là cửa ngõ thực mà còn là cửa ngõ thời gian, không gian giao mùa. Sương
“chùng chình”, bỡ ngỡ trong khoảng khắc cuối hạ đầu thu như chính sự ngỡ ngàng của
con người trước những dao động nhỏ nhặt nhất của đất trời phương Bắc. Dù nhiều
giác quan đã mách bảo rằng “thu đã về” mà nhà thơ vẫn còn chưa dám tin, chưa dám
chắc chắn. Thành phần tình thái “hình như” tựa sự phỏng đoán, nửa tin, nửa ngờ, diễn
tả cảm xúc ngỡ ngàng, bâng khuâng, xao xuyến của thi sĩ trước những dao động của
đất trời sang thu. Khoảnh khắc giao mùa thật nhẹ nhàng, dịu dàng tinh tế quá, có mà
như không. Cảnh thấp thoáng sang thu, lòng người cũng sang thu. Vậy là khổ thơ
không chỉ cho ta thấy thu về trong thiên nhiên, đất trời qua những giác quan thật nhạy
bén, tinh tế; mà đó còn là thu về trong lòng người./ Tóm lại, bằng tất cả những giác
quan nhạy bén, khổ thơ đã cho ta thấy cảnh đất trời thiên nhiên sang thu còn vô hình
mờ ảo và cả tâm hồn tinh tế của nhà thơ biết rung động trước những biến chuyển của
cảnh vật trong thời khắc giao mùa./
Khổ 2:
Khổ thơ thứ hai bài thơ “Sang thu” của nhà thơ Hữu Thỉnh là những cảm xúc, rung động tinh
tế của tác giả trước sự biến chuyển rõ nét hơn của cảnh vật trong một không gian bao la, trong
sáng, khoáng đạt. Ở hai câu thơ đầu, bức tranh thu được vẽ bằng những nét tương phản qua
hình ảnh dòng sông và đàn chim: “Sông được lúc dềnh dàng/ Chim bắt đầu vội vã”. Dòng sông
lúc sang thu không còn cuồn cuộn gấp gáp như những ngày hè nước lũ mà bỗng trở nên thong
thả, dềnh dàng, lờ lừng trôi như còn ngẫm ngợi suy tư. Nó gợi ra trong ta bóng dáng những
con người sống chậm, sống nhẹ nhàng giữa lòng thị thành tấp nập ngược xuôi, như “người
khách bộ hành phiêu lãng” khoan khoái và thư thái ngắm nhìn vẻ đẹp của thế gian. Đối lập với
hình ảnh dòng sông là những cánh chim “vội vã” tìm về phương nam tránh rét như những đứa
con thấy cảnh vật đổi thay liền nhớ chốn xưa cũ, vội vã, gấp rút bắt chuyến xe cuối cùng trở về
cố hương. Hay cũng có thể, những cánh chim ấy chỉ đang vội vã quay về tổ ấm thân thương
trước lúc hoảng hôn tắt nắng, nhường lại bầu trời cho màn đêm tĩnh mịch. Đi kèm với đó là các
từ “được lúc”,”bắt đầu” giúp người đọc cảm nhận bước chuyển mình của thời gian, chính từ
đó chúng ta cũng thấy được những vận động rất sinh động, thú vị và hấp dẫn của thiên nhiên trong
khoảnh khắc giao mùa- giây phút huyền diệu nhất của tạo hóa. Song, hình ảnh thú vị nhất, tạo
điểm nhấn cho bức tranh mùa thu chính là hình ảnh đám mây “Có đám mây mùa hạ/Vắt nửa
mình sang thu”. Câu thơ ngân lên với một sự liên tưởng độc đáo, đám mây tựa như một dải lụa
đào trải rộng, trôi lững lờ trên nền trời trong trẻo. Nhà thơ đã vận dụng phép ẩn dụ thật tài tình
qua từ “vắt”, gợi hình ảnh đán mây như chia làm hai nửa thuộc về hai mùa: nửa bên được
nhuộm bằng dáng hình mùa hạ, “nửa mình” bên kia lại “vắt” sang gam màu của mùa thu. Như
vậy, nhà thơ đã vận dụng hình ảnh của không gian để diễn tả sự vận động của thời gian, đám
mây đã trở thành nhịp cầu duyên dáng, yểu điệu nối giữa hai mùa. Qua đó, giúp ta hình dung
được lòng người dùng dằng,bịn rịn nửa như lưu luyến mùa hè đầy nắng, nửa như rộng mở để
đón nhận vẻ tươi mát của mùa thu. Tóm lại, bằng sự liên tưởng thú vị bất ngờ với tâm hồn tinh
tế và tình yêu thiên nhiên tha thiết, tác giả đã cho thấy không gian và cảnh vật như đang
chuyển mình sang thu thật điềm tĩnh với những hình ảnh tươi tắn, sống động
Khổ 3:

45
Khổ cuối bài thơ “sang thu” là những cảm nhận và suy tư sâu sắc của tác giả trước khung
cảnh thiên nhiên mùa thu. Trong hai câu thơ đầu, ta có thể cảm nhận mùa thu đã về, đong đầy
rót vào lòng phố hạ; bức tranh thiên nhiên cũng hiện ra cụ thể, rõ ràng hơn bằng những kinh
nghiệm và suy tư sâu lắng chứ không phải bằng những cảm nhận trực tiếp như ở hai khổ thơ
đầu.”Nắng”, “mưa”, “sấm” vốn là những hiện tượng đặc trưng của tiết trời mùa hạ nay lại được
kết hợp cùng phó từ “vẫn”, “đã”, “cũng” để gợi tả tần suất thưa thớt, lắng lại, chừng mực và ổn
định hơn. Nắng vẫn nơi sân đình nhưng chẳng còn vàng ươm rạo rực, chang chang đổ lửa.
Mưa vẫn nơi hiên nhà, chợt đến, chợt đi nhưng chẳng còn ảo ạt trắng xóa. Sấm vẫn nơi trời
cao nhưng chẳng còn ấm ì, vang động, bất ngờ. Như vậy, tất vả những gì đặc sắc nhất của
mùa hạ dường như đều mờ phai, nhạt dần và nhẹ nhàng hơn, thiên nhiên mùa hạ dường như
đã nhường chỗ lại cho mùa thu và sự chuyển giao giữa hai mùa diễn ra thật chậm chạo, nhẹ
nhàng nhưng cũng thật rõ nét. Hai câu thơ cuối bài không còn đơn thuần chỉ tả bức tranh mùa
thu mà đã trở thành một triết lý sống sâu sắc được Hữu Thỉnh ẩn ý đan cài vào bài thơ. Hình
ảnh nhân hóa “hàng cây đứng tuổi” hiểu theo nghĩa tả thực chính là những hàng cây trăm tuổi
đã trải qua bao mùa thay lá, đã sống lâu năm, bền bỉ với đời. Song, bằng việc vận dụng phép
ẩn dụ đầy nghệ thuật, đằng sau đôi dòng thơ ấy là 1 tầng nghĩa với bao trầm ngâm, chiêm
nghiệm. Tiếng sấm là những biến thiên bất ngờ, những vệt sáng của gian truân, của khó khăn
luôn hiện hữu trong cuộc đời mỗi con người. Còn “hàng cây đứng tuổi” ngụ ý chỉ những người
đã bước qua ngưỡng cửa trưởng thành, họ đã kinh qua những cảm xúc từ mất mát tang
thương đến vỡ òa hạnh phúc. Bới vậy. những con người từng trải trở nên dày dặn kinh nghiệm,
điềm tĩnh và vững vàng hơn để đón nhận những bất thường của ngoại cảnh và thử thách của
cuộc đời. Tóm lại, khổ cuối bài thơ sang thu của hữu thỉnh không chỉ tả cảnh đất trời sang thu
mà còn khiến lòng người cũng bâng khuâng cảm xúc bao suy ngẫm sâu xa về cuộc đời lúc
sang thu.

Nói với con:


Tình thương con người luôn là cảm hứng đẹp trong thơ ca bởi lẽ vậy Van Gốc từng nói
rằng: “không có gì nghệ thuật hơn bản thân lòng yêu quý con người”. Nếu bài thơ “Con cò”
của Chế Lan Viên là tình yêu dịu dàng, tha thiết của mẹ dành cho con thì “Nói với con” của
Y Phương lại là lời người cha trò chuyện tâm tình nhưng cũng chẳng kém phần mạnh mẽ,
dứt khoát qua đó thể hiện tình yêu và niềm tự hào về quê hương dân tộc mình đồng thời
dặn dò con những bài học, những lẽ sống cao đẹp trong cuộc đời.

Mười một câu đầu:


Mười một câu thơ đầu bài thơ Nói với con của nhà thơ Y Phương là lời người cha nói
với con về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi người
a. Bốn câu đầu: Người cha nói với con về cái nôi đầu tiên nuôi dưỡng con trưởng
thành là tình cảm gia đình đầm ấm. Nhịp điệu thơ 2/3, cấu trúc đối xứng cùng
nhiều từ được láy lại với những hình ảnh cụ thể: “chân phải”, “chân trái”, “tiếng
nói”, “tiếng cười” đã tạo âm điệu vui tươi, quấn quýt, không khí gđ ấm áp, hạnh
phúc. Từng câu thơ sóng đôi với nhau vừa diễn tả những bước chân chậm rãi,
nhịp nhàng của đứa trẻ, lúc thì xà vào lòng mẹ, lúc thì níu lấy tay cha; vừa thể
hiện từng ánh mắt, từng bàn tay, từng niềm vui của cha mẹ, dõi theo từng bước
chân con, đón con vào lòng. Thước phim được chuyển đến cảnh đứa bé bi bo
tiếng “cha”, tiếng “mẹ” ngọng ngịu trong niềm tự hào, niềm vui rạo rực và cảm
xúc vỡ òa của cha mẹ. Con như sứ giả hành phục mà Thượng Đế đã ban tặng
cho gia đình mình, biết bao lo toan, mệt nhọc cùa cha mẹ đều vượt qua được là
nhờ vào “tiếng nói”, “tiếng cười” của con. Là một thi sĩ từng đi lính, âm hưởng

46
trong thơ Y Phương còn vang lên những tiếng “một-hai”, “một bước- hai bước”
như chính khẩu hiệu đi đều của khúc ca hành quân. Tiếng thơ cứ thế vấn vương,
khơi gợi trong “ốc đảo” tâm hồn con thơ và bạn đọc muôn đời một điều tâm niệm
của người cha: gia đình là cội nguồn sự sống, là chốn bình yên luôn yêu thương
con vô điều kiện, luôn đón chào, ôm ấp con. Điều đó sẽ trở thành sức mạnh tinh
thần đối với con khi con bước vào đời.
b. Bảy câu còn lại: Cội nguồn sinh dưỡng thứ hai là sự đùm bọc của quê hương.
Người cha còn nói cho con biết con lớn lên trong cuộc sống lao động vui tươi
của người đồng mình, sự thơ mộng nghĩa tình của rừng núi quê mình. Cuộc
sống lao động của những người đồng mình được gợi ra qua những hình ảnh cụ
thể mà giàu sức gợi: “Đan lờ cài nan hoa- Vách nhà ken câu hát”. “Lờ” là dụng
cụ dùng để đánh bắt cá của người miền núi. Dưới bàn tay khéo léo của người
Tày, những nan nứa, nan tre đã trở thành “nan hoa”, từ đó gợi lên sự khéo léo,
tài hoa của người đồng mình. Nếu câu thơ thứ nhất nói về cuộc sống lao động
thì câu thơ thứ hai lại nói lên cuộc sống vui tươi của họ. Vách nhà đâu chỉ
được ken bằng gỗ mà còn được lắp đầy bởi những câu hát, bởi sự vui tươi
trong công việc. Các động từ “đan”, “cài”, “ken” đi kèm với các danh từ
“nan hoa”, “câu hát” tạo thành những kết cấu từ ngữ giàu sức khái quát vừa
diễn tả động tác lao động khéo léo của người lao động, vừa cho thấy cuộc sống
lao động gắn bó, hòa quyện niềm vui, đầy chất thơ của người đồng mình. Đó
còn là quê hương thơ mộng, nghĩa tình “Rừng cho hoa/ Con đường cho những
tấm lòng”. Thơ mộng bởi có hoa, có rừng hoa do trời ban tặng cho con người,
bởi những con đường, con người sống hoa mình trong thiên nhiên nơi ấy. Nghĩa
tình bởi thiên nhiên đã che chở và nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn và lẽ
sống. “Con đường cho những tấm lòng” là ban tặng tình yêu thương cho con
người, đó là con đường tình nghĩa. Như vậy, thiên nhiên đã chở che nuôi dưỡng,
bồi đắp tâm hồn cũng như lối sống của con. Chính những gì đẹp đẽ, tinh túy của
quê hương đã đun đúc nên tâm hồn cao đẹp nơi con.
c. Cuối đoạn một, người cha nhắc đến kỉ niệm ngày cưới của mình để mong con
hiểu con là trái ngọt của tình yêu đôi lứa, là kết quả của một gia đình hạnh phúc.
Con sinh ra trong sự mong chờ mong đón đợi, trong niềm vui ngập tràn. Vì thế
con luôn nhớ đến người quê hương mình rất giàu tình yêu thương, rất chung
thủy như “Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới/ Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”
=> Nói với con những câu đó, người cha muốn dạy dỗ con tình cảm cội nguồn bằng
chính tình yêu và lòng tự hào về quê hương, gia đình.
Mười ba câu tiếp: Lòng tự hào về truyền thống, quê hương
Qua mười ba câu thơ giữa bài thơ NVC của nhà thơ y Phương, ta thấy được lòng tự
hào của người cha về truyền thống quê hương và phẩm chất tốt đẹp của người đồng
mình. Đoạn thơ mở đầu bằng một câu thơ nhẹ nhàng mà thiết tha tình cảm: “Người
đồng mình thương lắm con ơi”. Chữ “thương” đã diễn tả tình cảm chủ đạo; người cha
muốn truyền cho con cảm xúc ấy bởi có yêu, có thương người đồng mình, con mới
hiểu và chia sẻ, trân trọng, ngợi ca những người đồng mình. Cụm từ “người đồng mình”
được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, qua đó, tác giả muốn khắc sâu cho con hình ảnh
người đồng mình và những phẩm chất tốt đẹp của họ, từ đó bộc lộ niềm tự hào đối với
quê hương.

47
+ Trước hết họ là những con người bền bỉ, vững chí và giàu quyết tâm: “Cao đo nỗi
buồn/ Xa đo chí lớn”. “Nỗi buồn” và “chí lớn” vốn vô hình, trìu tượng, nhưng lại được
diễn tả bằng hai tính từ chỉ độ cao và khoảng cách “cao”, “xa”. Cách diễn tả ấy khiến
cho nỗi buồn và chí lớn như cụ thể, hữu hình, quan sát được. Chữ “nuôi” được dùng
thật thú vị, gợi tả chí lớn được vun đắp, tôi luyện theo thời gian.
+ Qua cách dùng điệp từ phủ định “không chê”, người cha muốn nói với con về tình
yêu quê hương, tấm lòng thủy chung với quê hương- nơi chôn rau cắt rốn “Sống trên
đá không chê đá gập ghềnh/ Sống trong thung không chê thung nghèo đói”. Đó là lời
nhắn nhủ con phải mạnh mẽ, thủy chung, ân nghĩa với quê hương.
+ Những câu thơ tiếp với nhịp điệu linh hoạt, giọng thơ phóng khoáng đã thể hiện
thích hợp vẻ đẹp tâm hồn của người dân tộc. Thành ngữ “lên thác xuống ghềnh” gợi
bao thử thách, khó khăn nhưng ý thơ không khép lại trong gian khó, nhọc nhằn mà
khép lại trong ý chí, nghị lực vượt gian lao: không lo cực nhọc.
+ Với cách ví von giàu hình ảnh, người cha muốn nói cho con biết người đồng mình
là những con người mộc mạc giàu ý chí và niềm tin “Người đồng mình thô sơ da thịt/
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”. Họ có thể thô sơ giản dị nhưng trái lại họ rất giàu nghị
lực, luôn vượt lên hoàn cảnh bằng niềm tin mãnh liệt.
+ Họ cũng là những người luôn tự lực tự cường dựng xây quê hương, luôn giữ gìn
bản sắc dân tộc. Hình ảnh “Người đồng mình tự đục đá kê cao qh/Còn quê hương thì
làm phong tục có hai lớp nghĩa. Về nghĩa tả thực, đó là những hành động miêu tả công
việc hằng ngày của những người dân trên miền núi: họ đẽo đá, đục đá. Còn theo nghĩa
ẩn dụ, hình ảnh ấy đã khái quát về tinh thần tự tôn, ý thức bảo tồn cội nguồn bằng sự
cần cù, nhẫn nại hằng ngày. Người đồng mình đã làm nên quê hương với những
phong tục tập quán tốt đẹp.
Bằng những điệp từ, điệp ngữ, cách so sánh cụ thể kết hợp kiểu câu ngắn dài, đoạn
thơ cho thấy được niềm tự hào của người cha khi nói với con về những phẩm chất tốt
đẹp của người đồng mình. Từ đó, người cha mong con phải biết tự hào với truyền
thống tốt đẹp của quê hương, con hãy lấy tình cảm đó làm hành trang để bước vào đời

Bốn câu thơ cuối: Lời nhắn nhủ và mong ước của người cha
Vẫn cách nói ví von nhưng rất mộc mạc, người cha nhắn nhủ dặn dò con, truyền cho
con vẻ đẹp, sức mạnh của truyền thống quê hương. Hình ảnh “thô sơ da thịt” được lặp
lại trong lời nhắc nhở của người cha, như muốn nhắc con khắc cốt ghi tâm “người đồng
mình” tuy mộc mạc chân chất nhưng có lẽ sống cao đẹp. Trên đường đời con phải
sống cao thượng, tự trọng để xứng đáng với người đồng mình. Lời dặn “Không bao giờ
nhỏ bé được/ Nghe con” nghĩa là không bao giờ được nhỏ bé về ý chí tâm hồn, dẫu có
gian khó, nhọc nhằn thì vẫn phải sống đẹp, sống cao thượng, không được thấp hèn,
nhỏ bé, ti tiện. Đặc biệt ở những câu thơ cuối bài, lời người cha càng tha thiết hơn qua
lời gọi trìu mến “con ơi”, lời dặn dò “nghe con”, thể hiện mong ước con hãy kế tục và
phát huy truyền thống tốt đẹp của quê hương, cũng như tự tin để vững bước vào đời.
Nội dung lời tâm tình đã vượt qua tình cảm gia đình, trở thành lời trao gửi thiêng liêng
giữa các thế hệ.

48
Những ngôi sao xa xôi:
Đường Trường Sơn- tuyến đường huyết mạch gắn liền với những năm tháng kháng
chiến chống Mĩ dữ dội mà hào hùng của dân tộc. Tuyến đường ấy không chỉ in sâu trong kí
ức của những người lính bước ra từ chiến tranh mà còn ghi dấu trong nền thơ ca cách mạng
với những tác phẩm thơ văn hay, đặc sắc nhất. Đó là hình ảnh những người lính lái xe trên
tuyến đường Trường Sơn trong "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật, đó
là những cô gái mở đường trong "Khoảng trời, hố bom" của Lâm Thị Mỹ Dạ. Cũng viết về
chiến tranh, viết về tuyến đường Trường Sơn lịch sử, đương nhiên không thể thiếu “Nhưng
ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê. Truyện ngắn kể lại cuộc sống và khắc hoạ chân dung,
tâm hồn, tính cách của ba cô gái trẻ, ba vì sao xa xôi trên bầu trời Trường Sơn và họ chính là
hình tượng tiêu biểu cho thế hệ trẻ miền Bắc cống hiến, hi sinh cho miền Nam với tinh thần:
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Hoàn cảnh sống và công việc:
Hoàn cảnh sống và làm việc của ba cô gái thanh niên xung phong đã được nhà văn
LMK thể hiện sinh động qua phần đầu đoạn trích NNSXX. Ba cô gái TNXP cùng chung
hoàn cảnh sống và chiến đấu trên một cao điểm giữa một vùng trọng điểm ác liệt nơi
tuyến đường TS lịch sử. Xung quanh họ là chiến trường tan hoang, sự sống gần như
không tồn tại: “chỉ có bom đạn của kẻ thù”, “đường bị lở loét, màu đất đỏ, trắng lẫn lộn”.
Chiến tranh dữ dội cùng bom đạn quân Mĩ đã tàn phá nơi này đến sơ xác: “Hai bên
đường không có lá xanh, chỉ có những thân cây bị tước khô cháy, cây nằm lăn lóc”, “chỉ
còn xót lại một vài cái thùng xăng hoặc thành ô tô méo mó, han gỉ”. Công việc của họ
cũng đặc biệt nguy hiểm, họ phải đối mặt với nguy hiểm và cái chết cận kề. Sau nỗi
trận bom, những cô gái phải lao ra trận địa để quan sát, đo khối lượng đất đá cần san
lấp, đánh dấu những quả bom chưa nổ, nếu cần thiết còn phải phá bom. Công việc của
họ đòi hỏi rất cao sự bĩnh tĩnh và dũng cảm, chính người trong cuộc đã tâm sự: “Thần
kinh căng như chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu. chân chạy mà vẫn biết rằng khắp
chung quanh có nhiều quả bom chưa nổ.”Chính hoàn cảnh sống và công việc ấy đã
góp phần làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất của nhữn cô gái thanh niên xung
phong.
Vẻ đẹp chung:
Tuy mỗi người có một cá tính, hoàn cảnh riêng nhưng họ đều có phẩm chất chung
của những người chiến sĩ TNXP- phẩm chất anh hùng và vẻ đẹp tâm hồn. Thứ nhất,
phẩm chất anh hùng được thể hiện qua tinh thần trách nghiệm cao với công việc. Họ
tình nguyện đối mặt với hiểm nguy để đảm bảo tuyến đường được thông suốt. Hơn ai
hết, họ hiểu “thần chết là một tay không thích đùa. Hắn ta lần trong ruột những quả
bom.” Nhưng với họ, cái chết chỉ là một khái niệm mờ nhạt, không cụ thể, ý nghĩ ấy chỉ
thoáng qua mờ nhạt nhường chỗ cho suy nghĩ làm thể nào để những qua bom phát nổ.
Không phải họ không họ không quý tính mệnh của mình nhưng có một thứ tình mệnh
còn lớn hơn tính mệnh của họ, có một một sự sống còn lớn hơn sự sống của họ- tính
mệnh của những con đường, sự sống của tổ quốc thân yêu. Họ sẵn sàng hiến dâng
không tính toán cho sự sống lớn lao đó. Tiếp đó là lòng dũng cảm kiên cường, tinh thần
lạc quan vượt lên hoàn cảnh. Họ có nụ cười xóa tan cả hiểm nguy: “Có khi bò trên cao

49
điểm về chỉ thấy có hai con mắt lấp lánh. Cười thì hàm răng lóa lên trên khuôn mặt
nhem nhuốc. Những lúc đó, chúng tôi gọi nhau là “những con quỷ mắt đen.” Họ sẵn
sàng nhận nhiệm vụ phá bom mà không cần sự hỗ trợ của đơn vị mặc dù công việc ấy
có thể cướp đi tính mạng họ bất cứ lúc nào. Thêm vào đó là tình đồng đội thắm thiết.
Họ hiểu được tính tình của đối phương, quan tâm chăm sóc nhau rất chu đáo, đặc biệt
là trong khoảnh khắc PĐ lo lắng, bồn chồn sợ hãi khi chờ Nho và chị Thao đi trinh sát
về “có gì lí thú đâu, nếu các bạn tôi không quay về?”. Hay khi lúc Nho bị thương,
Phương Định thì lo lắng tận tình chăm sóc còn chị Thao thì cố kìm nước mắt. Hơn hết,
ở họ có nhiều nét chung của những cô gái trẻ: hồn nhiên, mơ mộng, giàu cảm xúc, dễ
vui, dễ buồn. Họ cũng rất nữ tính, thích làm đẹp ở nơi chiến trường: chị Thao thì thích
thêu thùa làm dáng, chăm chép bài hát; Phương Định lại thích hát, ngắm mình trong
gương. Họ luôn lạc quan yêu đời nên chỉ một cơn mưa đá đi qua đã khiến họ vui thích
cuống cuồng với những niềm vui con trẻ. Tóm lại, tuy mỗi người một cá tính nhưng ba
cô gái thanh niên xung phong trong truyện đều mang vẻ đẹp chung, tiêu biểu cho thế
hệ trẻ VN những năm chống Mỹ cứu nước hào hùng, để lại trong lòng người đọc nhiều
niềm yêu mến, cảm phục. Họ chính là những ngôi sao sáng trong khói lửa bom đạn với
những chiến công thầm lặng và hình ảnh của họ sẽ bất tử cùng năm tháng.
Chị Thao- tổ trưởng tổ trinh sát, lớn tuổi nhất nhưng cũng không thiếu những
khát khao mơ mộng của tuổi trẻ. Trong đời thường, chị hay làm dáng “lông mày tỉa nhỏ
như cái tăm”, đặc biệt “áo lót của chị cái nào cũng thêu chỉ màu”. Ở nhân vật này có
những nét tưởng như mâu thuẫn: chị thích chép bài hát, chép cả những lời PĐ bịa,
nhưng giọng chị thì chua, nhạc thì sai bét, không hát trôi chảy được bài nào. Chị cũng
sợ máu và vắt “thấy máu, thấy vắt là chị nhắm mắt lại, mặt tái mét”. Ấy vậy mà trong
chiến đấu, ai cũng gờm chị về tính kiên quyết, táo bạo, đặc biệt là sự bĩnh tĩnh đến phát
bực, máy bay đến gần nhưng chị vẫn “móc bánh bích qui trong túi nhai”.
=> Trong con người chị có sự kết hợp giữa cái mềm yếu của một cô gái với cái bản
lĩnh quyết đoán của một người chiến sĩ nơi lửa đạn. Những phẩm chất đó hòa trộn làm
nên vẻ đẹp hấp dẫn rất riêng của nhân vật.
Nho là em út trong tổ trinh sát, trẻ, hồn nhiên, xinh xắn. Cô có dáng vẻ nhỏ bé,
nhẹ nhàng, đáng yêu “trông nó nhẹ, mát mẻ như một que kem trắng”. Nho có tính tình
trẻ con, hồn nhiên “vừa tắm ở dưới suối lên, cứ quần áo ướt, Nho ngồi đòi ăn kẹo”. Đó
là một vẻ đẹp thiếu nữ vừa thật vừa mơ, cái đẹp giản dị thanh khiết khiết đã làm cho
bạo lực phải bất lực. Nhưng trong chiến đấu, cô vô cùng gan dạ, dũng cảm, bản lĩnh,
rắn rỏi. Cụ thể là trong một lần máy bay giặc đến gần, cô hành động thật nhanh gọn
“Nho cuộn tròn cái gối, cất nhanh vào túi”, “Nho quay lưng lại chúng tôi chụp cái mũ sắt
lên đầu”. Đặc biệt, lúc bị thương, Nho không kêu lên một tiếng vì không muốn đồng đội
lo lắng cho mình.
Phương Định, nhân vật chính của tác phẩm là hình ảnh tiêu biểu nhất cho vẻ
đẹp tâm hồn thế hệ trẻ Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Lê Minh Khuê đã dày
công khám phá vẻ đẹp Phương Định ở nhiều phương diện. Trước tiên là vẻ đẹp của
những lí tưởng cao đẹp. Bởi lẽ, dù là một cô gái Hà Nội trẻ trung xinh xắn nhưng cô
không cất giữ nhan sắc ấy trong nhung lụa, cô từ biệt gia đình, quê hương và tuổi thơ
hồn nhiên, sẵn sàng xung phong vào tuyến lửa, hiến dâng tất cả cho độc lập tự do của
tổ quốc. Sự lựa chọn của Phương Định không chỉ thể hiện lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ
mà xuất phát từ ý thức trách nhiệm cá nhân đối với đất nước, dân tộc; từ lòng yêu
nước thiết tha. Cô cũng mang vẻ đẹp của phẩm chất gan dạ, dũng cảm, đầy tinh thần

50
trách nhiệm bởi lẽ, cô sống và chiến đấu tại 1 vùng trọng điểm ác liệt của tuyến đường
Trường Sơn đầy hi sinh gian khổ. Để thể hiện vẻ đẹp của phấm chất anh hùng, Lê
Minh Khuê đã chọn một tình huống để tập trung thể hiện cụ thể, sinh động vẻ đẹp của
nhân vật này, đó là một lần phá bom. Ban đầu cô còn căng thằng, hồi hộp bởi khung
cảnh xung quanh vắng lặng đến rợn người “Cây cối xơ xác, đất nóng, khói đen vật vờ
từng cụm trong không trung”. Nhưng cảm giác ấy chóng qua đi khi cô nhận được ánh
mắt động viên của các anh chiến sĩ, cô không còn đi khom mà đường hoàng tiến tới
gần quả bom để thực hiện thao tác phá bom. Lúc bom nổ, ý nghĩ về cái chết chỉ thoáng
qua mờ nhạt trong tâm trí PĐ rồi nhanh chóng bị lấn át bởi mục tiêu hoàn thành nhiệm
vụ được đặt lên hàng đầu “Liệu mìn có nổ, bom có nổ không? Nếu mìn không nổ thì
làm thế nào để châm mìn lần thứ hai?”. Cuối cùng, kinh nghiệm, sự chính xác và lòng
dũng cảm đã giúp PĐ hoàn thành nhiệm vụ. Càng đáng khâm phục hơn khi ta biết rằng
công việc nguy hiểm mà PĐ làm đâu chỉ thực hiện một lần mà 4,5 lần trong một ngày.
Chính PĐ và đồng đội, những người giản dị và anh hùng ấy, ý thức trách nhiệm cao,
bằng nhiệt huyết của tuổi trẻ đã góp phầm làm nên độc lập, thống nhất cho dân tộc.
Tuy trong chiến đấu là vậy, Phương Định cũng mang những nét đẹp của bao cô gái trẻ
trong cuộc sống đời thường. Cô hay nhớ về những kỉ niệm tuổi thiếu nữ sống ở thành
phố, đây là liều thuốc tinh thần làm dịu mát tâm hồn cô trong hoàn cảnh khốc liệt của
chiến tranh. Vẻ đẹp này cũng được thể hiện qua cách nhìn, suy nghĩ của PĐ về chiến
trường, chiến tranh công việc “Công việc nào cũng có cái thú của nó”, đág chú ý nhất là
tinh thần lạc quan đã khiến PĐ chiến thắng nỗi sợ hãi đời thường. Với PĐ, cái chết chỉ
là 1 khái niệm “mờ nhạt, không cụ thể”.
1 lần phá bom:
Phá bom, công việc đã trở thành quen thuộc với Phương Định và đồng đội của mình
nhưng dường như mỗi lần phá bom lại là một thử thách lớn. Lúc bắt đầu phá bom, cảm
nhận được khung cảnh xung quanh, Phương Định có chút lo âu, căng thẳng “Cây cối
xơ xác, đất nóng, khói đen vật vờ từng cụm trong không trung”. Nhưng cảm giác ấy
nhanh chóng qua đi khi cô nhận được ánh mắt động viên từ các anh cao xạ. Lòng tự
trọng đã chiến thắng nỗi sợ hãi, cô không đi khom nữa mà đàng hoàng bước tới gần
quả bom để thực hiện các thao tác phá bom bĩnh tĩnh, tự tin. Khi ở gần quả bom, cận
kề cái chết im lìm và bất ngờ, từng cảm giác của PĐ trở nên sắc nhọn hơn “một tiếng
động sắc đến gai người cứa vào da thịt tôi”. Cảm nhận ấy đã khiến cô nhận thấy rõ sự
đối lập giữa tốc độ làm việc của mình với sức nóng của quả bom, thúc giục cô hành
động cẩn thận và khẩn trương hơn để chạy đua với thời gian và vượt qua cái chết. Khi
chờ bom nổ, Phương Định có cảm giác như ngừng thở, cô nhận ra không gian xung
quanh mình thật đáng sợ “nó vắng lặng”, “không có gió”, nhịp tim “đập không rõ” , nó im
lìm, tĩnh lặng đến mức có thể nghe được cả “tiếng kim đồng hồ chạy đè lên những con
số vĩnh cửu”. Trong khoảnh khắc ấy, cô có nghĩ đến cái chết, nhưng là “một cái chết
mờ nhạt, không cụ thể”, rồi suy nghĩ ấy nhanh chóng bị lần át bởi mục đích hoàn thành
công việc được đặt lên hàng đầu “Liệu mìn có nổ, bom có nổ không? Nếu mìn không
nổ thì làm thế nào để châm mìn lần thứ hai”. Khi bom nổ, thứ âm thanh kì quái đến
“váng óc” khiến cô cảm thấy “ngực tức”, “mắt cay”. Cô cảm giác như trút được sự căng
thẳng lo âu nên cô nhanh chóng quên hết những cảm giác ấy để phủi áo căng mắt qua
làn khói nhìn theo chị Thao xuống chỗ Nho. Qua hành động này, người đọc không chỉ
cảm nhận được ở cô có lòng dũng cảm, tinh thần trách nhiệm cao mà đó còn là tình
yêu thương đồng đội, sự gắn bó thật đẹp đẽ biết bao. Như vậy, bằng việc sử dụng

51
nhiều câu văn ngắn, câu rút gọn, câu đặc biệt, nhịp nhanh cùng ngôn ngữ độc thoại nội
tâm, đoạn trích “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê đã khắc họa rõ nét diễn biến
tâm trạng của nhân vật Phương Định qua một lần phá bom, qua đó làm nổi bật được vẻ
đẹp của thế hệ trẻ VN trẻ trung, lạc quan, tâm hồn trong sáng, sống có lý tưởng, tinh
thần trách nhiệm cao.
Tình đồng đội của những người lính trong NNSXX:
Tình đồng đội, đồng chí của những người lính đã được nhà văn LMK khắc họa rõ nét
trong truyện ngắn “NNSXX”. Trước tiên phải nói đến hoàn cảnh sống của những người
lính: họ sống trong hoàn cảnh khó khăn, khốc liệt của chiến tranh. Với các cô gái, đó là
một cao điểm hứng chịu nhiều bom đạn của giặc Mỹ; với những người chiến sĩ trên
đường ra trận, những anh lính cao xạ, họ luôn căng thẳng chiến đấu với máy báy địch.
Như vậy, hoàn cảnh sống khó khăn, gian khổ luôn phải đối đầu mặt với cái chết là điều
kiện để tinh thần đồng đội, đồng chí của người lính nảy sinh, trở nên bền chặt. Thứ
nhất là tình đồng chí của 3 cô gái trong tổ trinh sát mặt đường- Nho, Thao, PĐ. Họ hiểu
nhau, hiểu tính tình, sở thích của nhau: chị Thao thì thích thêu thùa, thích làm dáng,
chăm chép bài hát, sợ máu sợ vắt; Nho lại trẻ con, hồn nhiên, tắm xong quần áo ướt lại
đòi ăn kẹo; Phương Định thì thích hát, thích ngắm mình trong gương, hay sống với
những mộng mơ, hồi tưởng về gia đình và thành phố quê hương. Họ coi nhau như
người thân trong gia đình, khi nhận nhiệm vụ thì họ luôn giành phần việc khó, nguy
hiểm về mình, nhường cho đồng đội sự sống: “Định ở nhà. Lần này nó bỏ ít, hai đứa đi
cũng đủ”. Họ luôn lo lắng cho nhau như lúc PĐ trực điện thoại trong hang mà chưa thấy
đồng đội về “Có gì lí thú đâu nếu các bạn tôi không quay về?”. Hay trong một lần phá
bom, sau khi bom nổ, Phương Định chạy theo chị Thao xuống chỗ Nho với tâm trạng lo
lắng và khi Nho bị thương, PĐ đã ân cần chăm sóc còn chị Thao thì cố nén lo lắng.
Truyện cũng thể hiện tình đồng đội của những người lính khác như anh đại đội trưởng
luôn động viên, quan tâm, giúp đỡ các cô gái trong tổ trinh sát, sự quan tâm ấy khiến
các cô cảm động “Đơn bị chăm chúng tôi ra trò. Có cái gì lại bảo để cho bọn trinh sát ở
trên đó vắng”. Các anh cao xạ thì luôn hỗ trợ, dõi theo “chỉ cần chúng tôi bắn một phát
súng báo hiệu yêu cầu giúp đỡ họ sẽ chạy đến ngay”. Với Phương Định, cô cũng luôn
ngưỡng mộ, cảm phục những người chiến sĩ mà cô gặp trên mặt trận “Thực tình trong
suy nghĩ của tôi, những người đẹp nhất, thông minh, can đảm nhất là những người
mặc quân phục, có ngôi sao trên mũ”. Tình đồng đội đã tiếp thêm sức mạnh, giúp
người lính vượt qua những giây phút căng thẳng, yếu lòng, khiến họ vững vàng tiếp tục
chiến đấu và chiến thắng. Có thể nói, bằng việc sử dụng thành công các yếu tố nghệ
thuật, Lê Minh Khuê đã làm nổi bật tình đồng đội, tình đồng chí gắn bó keo sơn của
những người lính trong kháng chiến chống Mỹ.

52
Ánh trăng:
M1: Nguyễn Duy là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Sáng tác của ông thấm đẫm phong vị của ca dao, dân ca nhưng nhiều bài vẫn có cái ngang
tàng mà trầm tĩnh, giàu chiêm nghiệm. Thơ ông vì thế cứ đi sâu vào tâm hồn người đọc
một cách tự nhiên và có lúc khiến người ta phải giật mình. Ánh trăng là một thi phẩm như
thế. Nó tựa như một câu chuyện nhỏ có các sự kiện diễn biến theo trình tự thời gian. Lời
thơ dung dị như lời kể nhưng chất thơ vẫn đong đầy và ẩn chứa những triết lí sâu sắc về
con người, cuộc đời.
Mớ đầu bài thơ là những kỉ niệm êm đềm, tươi đẹp giữa trăng và người trong quá khứ. Một
loạt những mốc thời gian được liệt kê, như một cuốn phim quay chậm :
Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ
Lời thơ như không hề có sự dụng công nghệ thuật mà chỉ là sự đo đếm bước đi của thời
gian, sự kiện : hồi nhỏ, sống với đồng, với bể, với sông, hồi chiến tranh… Thế nhưng ẩn
chứa sau nó là cả một quãng đời dài, từ thời niên thiếu hồn nhiên, thơ dại đến khi trưởng
thành và trong những năm tháng chiến tranh gian khổ gắn bó cùng trăng. Mọi chiều kích
không gian và thời gian được mở rộng tới bao la, không cùng, gợi hình ảnh ánh trăng tràn
ngập không gian, trải dài theo thời gian. Cách gieo vần lưng “đổng”, “sông” và điệp từ “với”
đã diễn tả một tuổi thơ êm đềm hạnh phúc chan hoà cùng thiên nhiên của tác giả. Khi lớn
lên, bước chân vào đời lính gian khổ, giữa núi rừng hoang lạnh “vầng trăng thành tri kỉ”.
Trăng theo sát bước chân người lính, cùng chia sẻ buồn vui của cuộc sống chiến đấu. Ta
chợt nhớ tới vầng trăng của tình đồng đội thiêng liêng trong sáng tác của Chính Hữu :
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
(Chính Hữu – Đồng chí)
Trăng thực sự là một người bạn thân thiết trong những năm tháng tuổi nhỏ và là người “tri
kỉ” của người lính trong những tháng ngày khói lửa chiến tranh. Con người giản dị, hồn
nhiên như bản tính vốn có của tự nhiên bao đời:
Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
Tính từ “trần trụi”, “hồn nhiên” được đặt ở hai đầu dòng thơ như muốn nhấn mạnh khí chất
của con người. Trăng và người cứ hồn nhiên như thế, như sông, như đồng, như bể, như
tâm hồn chân chất của những người nông dân mộc mạc, như tinh thần lạc quan, bay bổng
của những người lính. Cách gieo vần lưng “thiên nhiên”, “hồn nhiên” làm cho âm điệu thơ
liền mạch, khơi dòng cảm xúc dâng tràn trong tâm hồn thi nhân. Từ “ngỡ” như báo trước
một sự đổi thay, một điều bất thường. Câu thơ như một lời tự nhủ của nhân vật trữ tình,
cũng là bản lề mở ra sự biến chuyển của tứ thơ :
Từ hồi vê thành phố
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đì qua ngõ
như người dưng qua đường
Tác giả chỉ ra sự đối lập giữa hoàn cảnh của con người trong hiện tại và quá khứ. Quá khứ
là những tháng ngày sống cùng thiên nhiên dân dã, mộc mạc, với đồng, với sông, với bể ;

53
còn hiện tại là “ánh điện, cửa gương” nơi phố thị phồn hoa. Tác giả sử dụng thủ pháp hoán
dụ để nói về cuộc sống đầy đủ, tiện nghi xa hoa, ồn ào của thành phố. Từ sự thay đổi của
hoàn cảnh đã dẫn đến sự đổi thay của lòng người:
Vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường
Người bạn “tri kỉ”, “tình nghĩa” tưởng không bao giờ quên được ấy giờ đây lại giống như
“người dưng qua đường”. Phép nhân hoá càng gợi lên dư vị xót xa trong tâm hồn độc giả.
Vầng trăng có tình cảm, có yêu thương, có thuỷ chung. Còn con người lại dửng dưng, vô
tình, dễ đổi thay. Những ồn ào nơi cuộc sống phố thị, những ánh sáng của cuộc sống xa
hoa làm lu mờ trái tim, xoá nhoà kí ức đẹp đẽ một thời. Đó không phải là điều cá biệt trong
cuộc sống. Bởi vậy mà ông cha ta đã từng nhắc nhớ : “ngọt bùi nhớ lúc đắng cay”, khuyên
con người ta không nên quay lưng lại với quá khứ.
Có lẽ, vầng trăng tri kỉ đó sẽ mãi bị “ngủ quên” trong miền kí ức nếu không có một tình
huống bất ngờ xảy đến, buộc con người phải đối mặt :
Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn – đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn
Đèn điện tắt cũng là lúc những ánh sáng của bóng điện cửa gương biến mất. Đó là tình
huống tạo nên bước ngoặt để nhân vật trữ tình bộc lộ cảm xúc, thể hiện chủ đề của tác
phẩm. Hai từ “thình lình”, “đột ngột” mang âm hưởng nhanh, mạnh, được đảo lên đầu câu,
tạo sự đối lập giữa “phòng buyn – đinh tối om” và “vầng trăng tròn”. Giây phút nhìn thấy
vầng trăng chứa chở bao cảm xúc ngỡ ngàng. Cái “đột ngột” trons sự xuất hiện của vầng
trăng cũng chính là tâm trạng “đột ngột” của nhà thơ khi nhận ra vầng trăng tình nghĩa ngày
nào. Trăng vẫn như xưa, vẫn đẹp một vẻ tròn đầy, vẹn nguyên. Sự xuất hiện ấy, lặng lẽ
thôi mà đầy bất ngờ, mà có sức rung động mạnh mẽ đối với tâm hồn con người, thức tỉnh
phần kí ức bị ngủ quẽn. Để rồi, khi đối diện với trăng, những cảm xúc ấy càng dâng tràn
mạnh mẽ :
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bê
như lù sông là rừng
Niềm xúc động chen lẫn sự thành kính bao trùm không gian. Trăng và người, quá khứ và
hiện tại, thuỷ chung và đổi thay đối diện với nhau. Từ “mặt” cuối câu thơ là từ đa nghĩa, tạo
nên sự đa dạng cho ý thơ. “Mặt” là trăng, là thiên nhiên, là quá khứ một thời bị lãng quên,
và “mặt” còn là chính bản thân con người. Con người đang tự đối diện với chính mình, với
một thời quá vãng. Khoảnh khắc đối diện ấy làm nhà thơ “rung rung” xúc động, bởi quá khứ
vất vả mà ấm áp tình yêu cùng trăng bấy lâu tưởng chừng bị lãng quên nay lại ùa về, bởi
con người đã nhận thức được giá trị của quá khứ, biết hổ thẹn và ân hận về sự đổi thay
của mình.
Điệp từ “như là”, các hình ảnh liệt kê sông, đồng, bể, rừng cùng nhịp thơ dồn dập tạo nên
dòng cảm xúc mãnh liệt, cuốn độc giả hoà theo với bao mênh mông, sâu lắng.
Khổ thơ cuối là dòng cảm xúc lắng sâu, trở thành những triết lí nhân sinh sâu sắc :
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình
“Trăng tròn vành vạnh” biểu tượng cho sự tròn đẩy, vẹn nguyên, thuỷ chung như nhất của
thiên nhiên, của quá khứ. Nó đối lập với con người vô tình đổi thay, đối lập với ánh điện

54
cửa gương dễ bị chi phối bởi hoàn cảnh. Hai tiếng “kể chi” như một lời khẳng định thể hiện
sự bao dung độ lượng của trăng. Ánh trăng được nhân hoá và khoảnh khắc “im phăng
phắc” là cái lặng im của sự nghiêm khắc mà bao dung, của sự thấu hiểu và độ lượng, tha
thứ. Sự im lặng của trăng đủ để nhà thơ “giật mhìh” – cái giật mình của lương tâm thức tỉnh,
của kí ức bị lãng quên ùa về. Cái giật mình ấy làm cho con người trở nên đáng trọng hơn.
Bao ăn năn như bị dồn nén, tạo nên một sự ám ảnh sâu sắc về cái lặng im đầy ý nghĩa, về
cái giật mình thảng thốt ấy.
Sử dụng thể thơ năm chữ quen thuộc, với lời thơ giản dị, mạch thơ tự nhiên, Nguyễn Duy
như đưa ta vào một câu chuyện cuộc đời để ta tự rút ra cho mình cách sống, cách đối nhân
xử thế. Bài thơ thức tỉnh mỗi chúng ta hãy biết trân trọng và giữ gìn quá khứ. Cảm xúc thơ
chân thành, tha thiết giúp cho bài thơ lắng sâu nơi tâm hồn người đọc như một khúc ca da
diết, mãi ngân vang.

M2: Nguyễn Nguyễn Đình Thi đã từng viết “Mỗi tác phẩm là một thông điệp
mà người nghệ sĩ muốn gửi đến độc giả” bởi vì sứ mệnh cao cả của văn
chương là làm thức dậy ở con người những tình cảm, cảm xúc đẹp. N.Duy
cũng gửi đến cho người đọc 1 thông điệp bởi tình cảm chân thành, sâu sắc
và nhân văn qua bài thơ Ánh trăng.

E-Ren-Bua đã từng viết: “Thơ là từ chân trời của 1 người đến chân trời của
tất cả”. Thật vậy, khi sáng tác, người nghệ sỹ đã gửi gắm cho tác phẩm của
mình tư tưởng, tình cảm và cảm xúc, nhưng khi tác phẩm đến với người đọc,
độc giả lại tìm thấy trong đó sự đồng điệu với tác giả. Bài thơ Ánh trăng của
N.Duy trước hết là câu chuyện cuộc đời, là tâm sự của chính nhà thơ, nhưng
nó lại là thông điệp có ý nghĩa cho mọi người, mọi thời đại.

Khổ thơ đầu tiên giản dị tự nhiên như 1 lời kể chuyện: “hồi…bể”. Chữ hồi
được lặp lại 2 lần gợi kí ức đời người từ ấu thơ đến lúc trưởng thành người
lính. Chỉ qua 2 câu thơ mà tuổi thơ của tác giả như được sống dậy, tuổi thơ
ấy gắn liền với đồng ruộng, bờ bãi, quê hương, trò trơi nghịch ngợm của tuổi
ấu thơ thật hồn nhiên và chắc hẳn trong quá khứ tuổi thơ ấy, không thể thiếu
vầng trăng làm bạn, trăng thơ mộng trữ tình, là người bạn cùng chia sẻ
những trò chơi. Điệp từ “với” được điệp lại 3 lần nhằm diễn tả một tuổi thơ đi
nhiều, được hạnh phúc cảm nhận những vẻ đẹp kì thú của thiên nhiên, từng
được ngắm trăng trên đồng quê, ngắm trăng trên bãi bể. Con người được đặt
trong cái nôi ấm áp của thiên nhiên, thiên nhiên dang rộng vòng tay ôm ấp
con người.Tác giả đã khái quát vẻ đẹp của trăng, khẳng định tình cảm yêu
thương, quý trọng của mình đối với trăng :

Trần trụi với thiên nhiên

hồn nhiên như cây cỏ

55
Từ trần trụi tả một cách thức sống không vướng bận trong những hình thức
xã giao, lễ nghi, một lối sống chân thành, mộc mạc, bình dị tình cảm, không
khoảng cách, thậm chí con người và thiên nhiên như hòa làm một “hồn nhiên
như cây cỏ”. Chỉ với những câu thơ đầu tiên, thông điệp tuổi thơ đã được gửi
đến mọi người.

2.2. Thông điệp những năm tháng chiến tranh

- Những đêm trăng bè bạn đi qua, vừa kịp lớn nhà thơ ra trận, khoảng thời
gian đó được Nguyễn Duy bồi hồi kể lại:

“ Hồi chiến….kỉ”

Những câu thơ đã gợi nhớ 1 thời trận mạc, những tháng ngày không thể nào
quên. Những đêm hành quân đi xuyên qua cánh rừng, lúc cầm súng đứng
gác trên những chiến hào; người lính đều có trăng làm bạn .Cùng gắn bó sẻ
chia, thấu hiểu nên nhà thơ đã gọi trăng là tri kỉ. Tri kỉ là biết người như biết
mình; bạn tri kỉ là bạn rất thân, hiểu biết mình. Trăng với người lính, với nhà
thơ trong những năm ở rừng thời chiến tranh đã trở thành “đôi bạn tri kỉ” –
người chiến sĩ nằm ngủ dưới trăng “ Gối khuya ngon giấc bên song trăng
nhòm” (HCM). Giữa rừng khuya sương muối, người chiến sĩ đứng chờ giặc
tới “ đầu súng trăng treo” (Chính Hữu). Trong cuộc đời, người ta không dễ
dàng gọi nhau là tri kỉ. Cách gọi ấy, chứng tỏ giữa người và trăng đã thật gắn
bó thân thiết như không thể tách rời. Bởi thế nhà thơ như tự hứa với lòng
mình, như khắc sâu trong lòng 1 tâm nguyện:

“ Ngỡ không bao giờ quên/ cái vầng trăng tình nghĩa”

Quả thật làm sao có thể quên được khi trăng đã là bạn, là tri kỉ, ân nhân, có
nghĩa tình với con người. Quan hệ rất đẹp, đáng quý. Hai chữ tình nghĩa
đứng cuối câu như 1 lời cảm ơn thầm lặng của con người với vầng trăng. Tuy
nhiên chữ “ngỡ” lại chứa đựng một dự cảm không tốt lành, báo trước một
điều gì có thể đổi thay. Linh cảm ấy đã trở thành một hiện thực buồn ở đoạn
thơ sau.

Lời hứa của 1 con người đã đi qua thăng trầm của cuộc sống tưởng sẽ gìn
giữ, thế mà con người ấy đã quên – thậm chí là quên rất nhanh.

“ Từ hồi…. qua đường”

Nếu dừng lại để suy ngẫm, ta thấy được sự tương phản của thời gian, không
gian và lòng người. Lại có thêm 1 hồi nữa cuộc đời con người chỉ ngắn ngủi

56
có 3 năm nhưng khoảng thời gian ấy đủ sức làm người ta quên đi 2 hồi đã
từng trải qua cả chặng đường dài ( khoảng 30 năm ). Bởi giờ đây hoàn cảnh
sống của con người đã thay đổi không còn là đồng, là sông, là rừng thay vào
đó là ánh điện, cửa gương, là phòng buyn – đinh – những tiện nghi của cuộc
sống nơi thành phố, tượng trưng cho cuộc sống sung túc, đầy đủ, sang trọng.
Điều đó đã khiến con người quên đi ánh sáng tự nhiên trong trẻo, thuần khiết
của vầng trăng đồng nội, vầng trăng nơi những

cánh rừng. Sẽ chẳng có gì đáng trách nếu con người ấy sống với hiện tại tiện
nghi nhưng không quên đi quá khứ. Thế nhưng quen với thế giới tiện nghi
của vật chất, con người đã quên đi quá khứ cứ như họ sinh ra đã thuộc về
thành phố, cứ như họ chưa từng trải qua hồi nhỏ, hồi chiến tranh. “Đi qua ngõ”
nghĩa là vẫn gần lắm, khoảng cách giữa người và trăng không mấy thay đổi
so với thuở ở rừng, song có 1 cái đã thay đổi : đó là vầng trăng tình nghĩa trở
thành người dưng.Tác giả đã nhân hóa trăng như 1 con người, trước kia
trăng là bạn, tri kỉ, ân nhân, giờ đây trăng bỗng hóa thành người dưng”.
Người dưng có nghĩa là không họ hàng, không quen biết, không gắn bó. Lại
còn là người dưng qua đường, đủ thấy khoảng cách vời vợi giữa người và
trăng. Hai chữ người dưng còn thể hiện thái độ thờ ơ, dửng dưng, bội bạc
của con người. Bởi trăng là hình ảnh ẩn dụ cho quá khứ, nghĩa tình, cho bạn
bè, cho đồng đội. Thế nên khi con người quên trăng là quên, bội bạc với bạn
bè, đồng đội, quá khứ, nghĩa tình.

- Mọi điều có lẽ cũng sẽ diễn ra tự nhiên như thế, con người vẫn sẽ tiếp tục
quay lưng với quá khứ, đồng đội, nếu không có 1 ngày : “Thình…tròn”. Sự
ngẫu nhiên trong cuộc sống : đèn điện tắt lại khiến con người tìm đến với
vầng trăng, có thể lúc đầu không phải để tri ân với quá khứ, với nghĩa tình mà
như tìm một thứ ánh sáng soi rọi cho căn phòng. Nhưng một điều bất ngờ đã
diễn ra, con người chợt ngạc nhiên khi thấy hình ảnh vầng trăng quá khứ như
rọi về : “ ngửa mặt…rừng”. Phép nhân hóa lại 1 lần nữa tạo hiệu quả nghệ
thuật cao. Trăng như 1 khuôn mặt mà con người đang đối diện, và trong 1
khoảnh khắc, quá khứ như sống dậy, kỉ niệm như ùa về. Con người không
chỉ đối diện với vầng trăng, với thiên nhiên đồng, sông, bể , rừng mà còn đối
diện với tuổi ấu thơ, thời trai trẻ, với quá khứ, với “ngày xưa”., thế giới của
nghĩa tình, tri kỉ. Hai chữ “ rưng rưng” đầy ắp tâm trạng, diễn tả thật tinh tế nỗi
xúc động nghẹn ngào và dường như có cả 1 chút gì hối lỗi.

- Kể từ giây phút này, lương tâm con người không thể bình yên, tâm hồn
không thể thanh thản và anh ta bắt đầu suy ngẫm “ Trăng…tình” N.Duy đã
dùng hình ảnh tưởng phi lý của tự nhiên: “trăng cứ tròn vành vạnh” để diễn tả
phẩm chất, cách ứng xử của trăng. Dường như trải qua bao thời gian, bao
thăng trầm; trăng vẫn giữ gìn sự trong sáng, thủy chung, trọn vẹn nghĩa tình.

57
Chữ “cứ” chỉ tấm lòng yêu thương, vô tư, không tính toán. Điều này khiến con
người thấy bất ngờ bởi trăng càng thủy chung trọn vẹn, người lính càng thấy
mình có lỗi bởi đã bội bạc với trăng. Thế rồi N.Duy lại giúp chúng ta khám phá
thêm 1 vẻ đẹp nữa của trăng. Trăng không chỉ thủy chung trọn vẹn mà còn vị
tha, độ lượng, trong sáng vô tư :“Ánh trăng im phăng phắc…đủ cho ta giật
mình”. Đến khổ thơ cuối, vầng trăng đã đổi thành “ánh trăng” gợi sức tỏa
sáng, có thể soi rọi, thức tỉnh lương tâm, xua tan mọi miền khuất tối trong tâm
hồn.Trăng đã từng là bạn, là tri kỷ, từng có nghĩa tình với con người, vậy mà
giờ đây trăng không đòi hỏi, sự đền đáp, không lên án, không trách cứ con
người. Chữ “phăng phắc” gợi thái độ nghiêm khắc mà vẫn nhân hậu, bao
dung, làm bừng tỉnh

xua đi lỗi lầm; sự hoàn thiện nhân cách trong một tâm hồn đẹp đẽ, sáng trong.
Hai chữ giật mình của Nguyễn Duy để tự nhắc nhở mình đừng quên thiên
nhiên, đừng quên quá khứ, đừng quên nhân dân, đừng quên tình nghĩa

- MR: Trong các sáng tác văn học có rất nhiều tác phẩm ca ngợi thông điệp
về cách sống nghĩa tình. Văn học dân gian có nhiều câu ca dao, tục ngữ răn
dạy con cháu về lối sống tình nghĩa “Ăn quả…trồng” , “Uống…nguồn”. Văn
học viết cũng có nhiều tác phẩm ca ngợi lối sống này : Con hổ có nghĩa, Việt
Bắc… Tố Hữu cũng có những câu thơ ca ngợi lối sống nghĩa tình :

Mình về thành thị xa xôi

Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng

Phố đông còn nhớ bản làng

Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng

-NC: Cũng chuyển tải thông điệp ấy nhưng thơ ND vẫn có một tiếng nói riêng
qua giọng điệu tâm tình tự nhiên, hình ảnh thơ giàu tính biểu cảm, đạt đến sự
hài hòa giữa lí trí và cảm xúc, khiến bài thơ không rơi vào tính triết lí giáo
huấn khô khan mà có sức lay động lớn tới trái tim người đọc, nhắc nhở người
đọc về cách sống nhẹ nhàng nhưng thấm thía.

Với thể thơ 5 chữ; ngôn ngữ trong sáng; giọng thơ tâm tình, trầm tĩnh, sâu
lắng, tứ thơ bất ngờ, mới lạ..Nguyễn Duy đã gửi đến người đọc những thông
điệp sâu sắc: phải thủy chung trọn vẹn, phải nghĩa tình sắt son với bạn bè,
đồng chí, với nhân dân. Những ý nghĩa đó khiến người đọc phải “giật mình”
suy nghĩ, nhìn lại mình để sống đẹp hơn, tình nghĩa hơn. Bài thơ có ý nghĩa

58
gợi nhắc, củng cố ở người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân
nghĩa, thủy chung cùng quá khứ, nhân dân.

59
Lí luận văn học:

80 nhận định về thơ


1. Anđecxen đã lượm lặt những hạt thơ trên luống đất của người dân cày, ấp
ủ chúng nơi trái tim ông rồi gieo vào những túp liều, từ đó lớn lên và nở ra
những đóa hoa thơ tuyệt đẹp, chúng an ủi trái tim những người cùng khổ.
(Pauxtopxki)
2. Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành mật ngọt.
3. Mỗi giọt mật thành đòi vạn chuyến ong bay.
(Chế Lan Viên)
4. Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết vàng mà đời rơi vãi.
5. Hãy nhặt lấy chữ của đời mà góp nên trang.
(Chế Lan Viên)
6. Cuộc sống là cánh đồng màu mở để cho thơ bén rễ sinh sôi.
(Puskin)
7. Thơ ca mang đến cho con người những điều kỳ diệu
8. Người giai nhân: bến đợi dưới cây già . Tình du khách: thuyền qua không
buộc chặt.
(Xuân Diệu)
10. Thơ ca mang đến cho con người những điều kỳ diệu.
11. Thi ca là một tôn giáo không kì vọng.
12. Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm.
(Voltaire)
13. Thơ là viên kim cương lấp lánh dưới ánh mặt trời.
(Sóng Hồng)
14. Thơ là thần hứng.
(Platon)
15. Thơ là ngọn lửa thần.
(Đecgiavin)
16. Thơ ca là niềm vui cao cả nhất mà loài người đã tạo ra cho mình.
(C. Mac)
17. Thơ trước hết là cuộc đời sau đó mới là nghệ thuật.
(Bêlinxki)
18. Thơ là cái nhụy của cuộc sống, nên nhà thơ phải đi hút cho được cái nhụy
ấy và phấn đấu làm sao cho cuộc đời của mình cũng có nhụy.
(Phạm Văn Đồng)
19. Bài thơ anh, anh làm một nửa mà thôi
20. Còn một nửa để mùa thu làm lấy
21. Cái xào xạc hồn anh chính là xào xạc lá

60
22. Nó không là anh nhưng nó là mùa.
(Chế Lan Viên)
23. Đối với nhà thơ thì cách viết, bút pháp của anh ta là một nửa việc làm. Dù
bài thơ thể hiện ý tứ độc đáo đến đâu, nó cũng nhất thiết phải đẹp. Không chỉ
đơn giản là đẹp mà còn đẹp một cách riêng. Đối với nhà thơ, tìm cho ra bút
pháp của mình – nghĩa là trở thành nhà thơ.
(Raxun Gamzatop)
24. Thơ chỉ bật ra trong tim khi cuộc sống đã thật tràn đầy.
(Tố Hữu)
25. Làm thơ là cân một phần nghìn milligram quặng chữ.
(Maiacopxki)
26. Một câu thơ hay là một câu thơ có sức gợi.
(Lưu Trọng Lư)
27. Cái kết tinh của mỗi vần thơ và muối bể
Muối lắng ở ô nề, thơ đọng ở bể sâu.
(Nghĩ về thơ – Chế Lan Viên)
29. Hình thức cũng là vũ khí.
30. Sắc đẹp câu thơ cũng phải đấu tranh cho chân lí.
(Nghĩ về thơ – Chế Lan Viên)
31. Đời thi sĩ là thơ, như đời một nông dân là lúa
32. Nhan sắc của viên ngọc ư! Có khi là nhiệm vụ nó đấy rồi.
(Sổ tay thơ – Chế Lan Viên)
33. Câu thơ phải luôn bất ổn và xôn xao.
34. Không thể nằm yên mà ngủ được nào.
(Chế Lan Viên)
35. “Ta là ai?” Như ngọn gió siêu hình
36. Câu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt.
37. “Ta vì ai?” Khẽ xoay chiều ngọn bất.
38. Bàn tay người thắp lại triệu chồi xanh.
(Chế Lan Viên)
39. Thi sĩ là con chim sơn ca ngồi trong bóng tối hát lên những tiếng êm dịu
để làm vui cho sự cô độc của chính mình.
(B. Shelly)
40. Để trong lòng là chí, ngụ ra ý là thơ. Người có sâu, cạn cho nên thơ mờ
có tỏ, rộng hẹp khác nhau. Người làm thơ không ngoài lấy trung hậu làm gốc,
ý nghĩa phải hàm súc, lời thơ phải giản dị.
(Nguyễn Cư Trinh)
41. Thơ là một bức họa để cảm nhận thay vì để ngắm.
(Leonardo DeVinci)
42. Thơ ca làm cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trên đời trở thành bất tử.
(Shelly)

61
43. Thơ là rượu của thế gian.
(Huy Trực)
44. Trong tâm hồn của con người đều có cái van mà chỉ có thơ ca mới mở
được.
(Nhêcơraxop)
45. Trên đời có những thứ chỉ giải quyết được bằng thơ.
(Maiacopxki)
46. Nhà thơ, ngay cả các nhà thơ vĩ đại nhất cũng phải đồng thời là những
nhà tư tưởng.
(Bêlinxki)
47. Thơ là chuyện đồng điệu.
(Tố Hữu)
48. Thơ là tiếng gọi đàn.
(Xuân Diệu)
49. Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp.
(Sóng Hồng)
50. Thơ sinh ra từ tình yêu và lòng căm thù, từ nụ cười trong sáng hay giọt
nước mắt đắng cay. (Raxun Gamzatôp)
51. Thơ ca là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tinh thần, do đó
không đơn giản mà cũng không thần bí, thiêng liêng… Thơ ca chân chính
phải là nguồn thức ăn tinh thần nuôi tâm hồn phát triển, nó không được là thứ
thuốc phiện tinh thần êm ái, nhỏ nhen mà độc hại…
(LLVH)
52. Tôi thu thập hình tượng như con ong hút mật vậy. Một con ong phải bay
một đoạn đường bằng sáu lần xích đạo trong một năm ba tháng và đậu trên
bảy triệu bông hoa để làm nên một gam mật.
(P. Povienko)
53. Những câu thơ lấp lánh như những tấm huy chương.
(Pauxtopxki)
54. Thơ là bà chúa của nghệ thuật.
(Xuân Diệu)
55. Thơ là tiếng nói của tri âm.
(Tố Hữu)
56. Giọng ca buồn là thích hợp nhất cho thơ.
(Etga Pô)
57. Thơ ca phải say mới thích.
(Tố Hữu)
58. Từ bao giờ cho đến bây giờ, từ Hômerơ đến kinh thi, đến ca dao Việt
Nam, thơ vẫn là một sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó đã ra đời giữa
những vui buồn của loài người và nó sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày

62
tận thế.
(Hoài Thanh)
59. Thơ chính là tâm hồn.
(M. Gorki)
60. Thơ là thơ đồng thời là họa, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng.
(Sóng Hồng)
61. Thơ là tiếng lòng.
(Diệp Tiếp)
62. Thơ là thư kí chân thành của trái tim.
(Duy bra lay)
63. Thơ hay là thơ giản dị, xúc động và ám ảnh. Để đạt được một lúc ba điều
ấy đối với các thi sĩ vẫn còn là điều bí mật.
(Trần Đăng Khoa)
64. Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp.
(Sóng Hồng)
65. Bài thơ hay là bài thơ đọc lên không còn thấy câu thơ mà chỉ còn thấy tình
người và tôi muốn thơ phải thật là gan ruột của mình.
(Tố Hữu)
66. Hãy hát lên khi mỗi mảnh hồn anh là một sợi dây đàn
(Platông)
67. Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời, thơ còn là thơ nữa.
(Xuân Diệu)
68. Thơ cũng như nhạc có thể trở thành một sức mạnh phi thường khi nó
chinh phục được trái tim của quần chúng nhân dân.
(Sóng Hồng)
69. Câu thơ hay là câu thơ có kahr năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ
quên trong kí ức của con người.
(Chu Văn Sơn)
70. Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa từ từ ngữ.
71. Mỗi chữ phải là hạt ngọc buông xuống trang bản thảo. Hạt ngọc mới nhấy
của mình tìm được do phong cách riêng của mình mà có.
(Tô Hoài)
72. Thơ là tiếng nói hồn nhiên nhất của tâm hồn con người trước cuộc đời.
(Tố Hữu)
73. Thơ là cây đàn muôn điệu của tâm hồn, của nhịp thở con tim. Xưa nay
thơ vẫn là cuộc đời, là lương tri, là tiếng gọi con người hãy quay về bản chất
thực của mình để vươn lên cái chân, thiện, mỹ, tới tầm cao của khát vọng
sống, tới tầm cao của giá trị sống.
74. Thơ là tâm hồn, tình cảm. Nó diễn đạt rất thành công mọi cung bậc tình
cảm đa dạng và phong phú của con người: niềm vui, nỗi buồn, sự cô đơn,
tâm trạng chán chường, tuyệt vọng, nỗi trăn trở, băn khoăn, sự hồi hợp, phấp

63
phỏng, một nỗi buồn vu vơ. Một nỗi niềm bâng khuâng khó tả, một sự run rẩy
thoáng qua, một phút chốc ngẩn ngơ… Có những tâm trạng và cung bậc tình
cảm của con người chỉ có thể diễn đạt bằng thơ. Chính vì thế thơ không chỉ
nói hộ lòng mình, thơ còn là sự an ủi, vỗ về, động viên khích lệ người ta đứng
dậy đi tới.
75. Thơ ca đồng thời song hành với con người chức năng thức tỉnh lương tri
đang ngủ.
(Eptusencô))
76. Cũng như nụ cười và nước mắt, thực chất của thơ là phản ánh một cái gì
đó hoàn thiện từ bên trong.
(R.Tagore)
77. Thơ phát khởi trong lòng người ta.
(Lê Quý Đôn)
78. Hãy xúc động hồn thơ cho ngọn bút có thần.
(Ngô Thì Nhậm)
79. Sáng tác thơ là một việc do cá nhân thi sĩ làm, một thứ sản xuất đặc biệt
và cá thể. Anh phải đi sâu vào tâm hồn cá biệt của anh để nói cái to tát của xã
hội, cái tốt đẹp của chế độ, để tránh cái khô khan, nhạt nhẽo, anh phải có cá
tính, anh phải trau dồi cái độc đáo mà công chúng rất đòi hỏi. Nhưng đồng
thời anh phải đấu tranh để cái việc sự sáng tạo không trở thành anh hùng chủ
nghĩa.
(Xuân Diệu)
80. “Cái cảm hoá được lòng người chẳng gì trọng yếu bằng tình cảm, chẳng
gì đi trước được ngôn ngữ, chẳng gì gần gũi bằng âm thanh, chẳng gì sâu
sắc bằng ý nghĩa. Với thơ, gốc là tình cảm, mầm lá là ngôn ngữ, hoa là âm
thanh, quả là ý nghĩa”.
(Bạch Cư Dị)

64
100 nhận định lí luận văn học về văn xuôi
1. “Nếu như cảm hứng nhân bản nghiêng về đồng cảm với những khát vọng
rất người của con người, cảm hứng nhân văn thiên về ngợi ca vẻ đẹp của
của con người thì cảm hứng nhân đạo là cảm hứng bao trùm.” (Hoài Thanh)

2. “Đối với tôi văn chương không phải là cách đem đến cho người đọc sự
thoát li hay sự quên; trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc
lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối, tàn ác,
vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn…” (Theo
dòng, Thạch Lam)

3. “Một nhà nghệ sĩ chân chính phải là nhà nhân đạo trong cốt tuỷ.” (Sê-khốp)

4. “Nhà văn phải là người thư kí trung thành của thời đại.” (Ban-dắc)

5. “Văn học, đó là tư tưởng đi tìm cái đẹp trong ánh sáng.” (CharlesDuBos)

6. “Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng
cái ác; cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp.” (Ai-ma-tốp)

8. “Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào
bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lí.” (M.
Go-rơ-ki)

9. “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là
ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những
kiếp lầm than.” (Trăng sáng, Nam Cao)

10. “Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ. Loại không đáng
thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương, loại đáng thờ là loại chuyên chú ở
con người.” (Nguyễn Văn Siêu)

11. “Tất cả mọi nghệ thuật đều phục vụ cho một nghệ thuật vĩ đại nhất là
nghệ thuật sống trên trái đất.” (Béc-tôn Brếch)

12. “Một nhà văn thiên tài là người muốn cảm nhận mọi vẻ đẹp man mác của
vũ trụ.” (Thạch Lam)

13. “Sống đã rồi hãy viết, hãy hoà mình vào cuộc sống vĩ đại của nhân dân.”
(Nam Cao)

65
14. “Ở đâu có lao động thì ở đó có sáng tạo ra ngôn ngữ. Nhà văn không chỉ
học tập ngôn ngữ của nhân dân mà còn là người phát triển ra ngôn ngữ sáng
tạo, không nên ăn bám vào người khác. Giàu ngôn ngữ thì văn sẽ hay…
Cũng cùng một vốn ngôn ngữ ấy nhưng sử dụng có sáng tạo thì văn sẽ có bề
thế và kích thước. Có vốn mà không biết sử dụng chỉ như nhà giàu giữ của.
Dùng chữ như đánh cờ tướng, chữ nào để chỗ nào phải đúng vị trí của nó.
Văn phải linh hoạt. Văn không linh hoạt gọi là văn cứng đơ thấp khớp…”
(Nguyễn Tuân)

15. “Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó.
Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các bậc tình cảm, chứ không phải là
cái tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người
viết là khâu đầu tiên cũng là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng tác
phẩm lớn.” (Nguyễn Khải)

16. “Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và khám phá mới về nội
dung.” (Lê-ô-nít Lê-ô-nốp)

17. “Cái quan trọng trong tài năng văn học và tôi nghĩ rằng cũng có thể trong
bất kì tài năng nào, là cái mà tôi muốn gọi là tiếng nói của riêng mình.” (Ivan
Tuốc-ghê-nhép)

18. “Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không bao giờ là nhà văn
cả… Nếu anh không có giọng riêng, anh ta khó trở thành nhà văn thực thụ.”
(Sê-khốp)

19. “Đối với nhà thơ thì cách viết, bút pháp của anh ta là một nửa việc làm.
Dù bài thơ thể hiện ý tứ độc đáo đến đâu, nó cũng nhất thiết phải đẹp. Không
chỉ đơn giản là đẹp mà còn đẹp một cách riêng. Đối với nhà thơ, tìm cho ra
bút pháp của mình – nghĩa là trở thành nhà thơ.” (Raxun Gamzatốp)

20. “Đối với con người, sự thực đôi khi nghiệt ngã, nhưng bao giờ cũng dũng
cảm củng cố trong lòng người đọc niềm tin ở tương lai. Tôi mong muốn
những tác phẩm của tôi sẽ làm cho con người tốt hơn, tâm hồn trong sạch
hơn, thức tỉnh tình yêu đối với con người và khát vọng tích cực đấu tranh cho
lí tưởng nhân đạo và tiến bộ của loài người.” (Sô-lô-khốp)
21. “Văn học làm cho con người thêm phong phú, tạo khả năng cho con
người lớn lên, hiểu được con người nhiều hơn.” (M. L. Kalinine)

66
22. “Một tiểu thuyết thực sự hứng thú là tiểu thuyết không chỉ mua vui cho
chúng ta, mà còn chủ yếu hơn là giúp đỡ chúng ta nhận thức cuộc sống, lí
giải cuộc sống.” (Gioóc-giơ Đuy-a-men)

23. “Văn học không quan tâm đến những câu trả lời do nhà văn đem lại, mà
quan tâm đến những câu hỏi do nhà văn đặt ra, và những câu hỏi này, luôn
luôn rộng hơn bất kì một câu trả lời cặn kẽ nào.” (Claudio Magris – Nhà văn Ý)

24. “Một tác phẩm nghệ thuật phải là kết quả của tình yêu. Tình yêu con
người, ước mơ cháy bỏng vì một xã hội công bằng, bình đẳng bái ái luôn luôn
thôi thúc các nhà văn sống và viết, vắt cạn kiệt những dòng suy nghĩ, hiến
dâng bầu máu nóng của mình cho nhân loại.” (L. Tôn-xtôi)

25. “Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải
nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương yêu hơn.”
(Thạch Lam)

26. “Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm
cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, để cho người đọc một bài học trông
nhìn và thưởng thức.” (Thạch Lam)

27. “Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói của tình cảm con người, là sự tự
giãi bày và gửi gắm tâm tư.” (Lê Ngọc Trà)

28. “Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải
là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn
lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình
bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn.” (Nam Cao)

29. “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự
cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện.” (Đời thừa, Nam Cao)

30. “Tôi khuyên các bạn nên đọc truyện cổ tích… thơ ngụ ngôn, các tuyển tập
ca dao… Hãy đi sâu vào vẻ đẹp quyến rũ của ngôn ngữ bình dân, hãy đi sâu
vào những câu hài hoà cân đối trong các bài ca, trong truyện cổ tích… Bạn sẽ
thấy ở đó sự phong phú lạ thường của các hình tượng, sự giản dị của sức
mạnh làm say đắm lòng người, vẻ đẹp tuyệt vời của những định nghĩa… Hãy
đi sâu vào sáng tác của nhân dân, nó trong lành như nước nguồn ngọt ngào,
tươi mát, róc rách từ khe núi chảy ra…” (M. Go-rơ-ki)

67
31. “Thi sĩ là một con chim sơn ca ngồi trong bóng tối hát lên những tiếng êm
dịu để làm vui cho sự cô độc của chính mình.” (Selly)

32. “Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp hơn câu chuyện do chính cuộc
sống viết ra.” (An-đéc-xen)

33.“Văn học, nghệ thuật là công cụ để hiểu biết, để khám phá, để sáng tạo
thực tại xã hội.” (Phạm Văn Đồng)

34. “Tư tưởng nhân đạo xuyên suốt văn học từ xưa đến nay. Khái niệm nhân
đạo có những tiền thân của nó, trong lời nói thông thường đó là “tình thương,
lòng thương người”. (Lê Trí Viễn)

35. “Con người đến với cuộc sống từ nhiều nẻo đường, trên muôn vàn cung
bậc phong phú nhưng tiêu điểm mà con người hướng đến vẫn là con người.”
(Đặng Thai Mai)

36. “Chi tiết làm nên bụi vàng của tác phẩm.” (Pautôpxki)

37. “Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học.” (Tố Hữu)

38. “Nhà văn là người cho máu.” (Enxa Triole)

39. “Văn học là nhân học.” (M. Go-rơ-ki)

40. “Nghệ sĩ là người biết khai thác những ấn tượng riêng chủ quan của mình,
tìm thấy những ấn tượng đó có giá trị khái quát và biết làm cho những ấn
tượng đó có những hình thức riêng.” (M. Go-rơ-ki)

41. “Nghệ thuật là lĩnh vực của sự độc đáo vì vậy nó đòi hỏi người viết sự
sáng tạo phong cách mới lạ, thu hút người đọc.” (Phương Lựu)

42. “Cái bóng của độc giả đang cúi xuống sau lưng nhà văn khi nhà văn ngồi
dưới tờ giấy trắng. Nó có mặt ngay cả khi nhà văn không thừa nhận sự có
mặt đó. Chính độc giả đã ghi lên tờ giấy trắng cái dấu hiệu vô hình không thể
tẩy xoá được của mình.” (Sách Lí luận văn học)

43. “Phải đẩy tới chóp đỉnh cao của mâu thuẫn thì sự sống nhiều hình mới vẽ
ra.” (Hê-ghen)

68
44. “Tác phẩm chân chính không kết thúc ở trang cuối cùng, không bao giờ
hết khả năng kể chuyện khi câu chuyện về các nhân vật đã kết thúc. Tác
phẩm nhập vào tâm hồn và ý thức của bạn đọc, tiếp tục sống và hành động
như một lực lượng nội tâm, như sự dằn vặt và ánh sáng của lương tâm,
không bao giờ tàn tạ như thi ca của sự thật.” (Ai-ma-tốp)

45. “Tình huống là một lát cắt của sự sống, là một sự kiện diễn ra có phần bất
ngờ nhưng cái quan trọng là sẽ chi phối nhiều điều trong cuộc sống con
người.” (Nguyễn Minh Châu)

46. “Văn học phản ánh hiện thực nhưng không phải là chụp ảnh sao chép
hiện thực một cách hời hợt, nông cạn. Nhà văn không bê nguyên si các sự
kiện, con người vào trong sách một cách thụ động, giản đơn. Tác phẩm nghệ
thuật là kết quả của một quá trình nuôi dưỡng cảm hứng, thai nghén sáng tạo
ra một thế giới hấp dẫn, sinh động… Thể hiện những vấn đề có ý nghĩa sâu
sắc, bản chất của đời sống xã hội con người… Nhân vật trong tác phẩm của
một thiên tài thực sự nhiều khi thật hơn cả con người ngoài đời, bởi sức sống
lâu bền, bởi ý nghĩa điển hình của nó. Qua nhân vật ta thấy cả một tầng lớp,
một giai cấp, một thời đại, thậm chí có nhân vật vượt lên khỏi thời đại, có ý
nghĩa nhân loại, vĩnh cửu sống mãi với thời gian…” (Sách Lí luận văn học)

47. “Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí
hướng như tôi muốn tiểu thuyết là thực sự ở đời.” (Vũ Trọng Phụng)

48. “Người sáng tác là nhà văn và người tạo nên số phận cho tác phẩm là
độc giả.” (M. Go-rơ-ki)

49. “Trước hết là các nghệ sĩ lớn, sau đó mới đến các nhà khoa học, họ xứng
đáng hơn ai hết được hưởng sự kính trọng của con người.” (Einstein)

50. “Những gì tôi viết ra là những gì thương yêu nhất của tôi, những ước
mong nhức nhối của tôi.” (Nguyên Hồng)

51. “Mỗi tác phẩm đều có ít nhiều nhà văn.” (Thạch Lam)

52. “Nghệ thuật đó là sự mô phỏng tự nhiên.” (Pu-skin)

53. “Đau đớn thay cho những kiếp sống muốn cất cánh bay cao nhưng lại bị
cơm áo ghì sát đất…” (Sống mòn, Nam Cao)

69
54. “Điều quan trọng hơn hết trong sự nghiệp của những nhà văn vĩ đại ấy lại
là cuộc sống, trường đại học chân chính của thiên tài. Họ đã biết đời sống xã
hội của thời đại, đã cảm thấy sâu sắc mọi nỗi đau đớn của con người trong
thời đại, đã rung động tận đáy tâm hồn với những nỗi lo âu, bực bội, tủi hổ và
những ước mong tha thiết nhất của loài người. Đó chính là cái hơi thở, cái
sức sống của những tác phẩm vĩ đại.” (Đặng Thai Mai)

55. “Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Vì vậy đòi hỏi người sáng tạo
phải có phong cách nổi bật, tức là có cái gì rất riêng mới lạ trong phong cách
của mình.” (Sách Văn học 12)

56. “Đồng tiền lăn tròn trên lưng con người. Đồng tiền làm cho trái hoá phải,
đen hoá trắng và người đàn bà goá phụ trở thành cô dâu mới.” (Giá trị của
đồng tiền trong Truyện Kiều, Sếch-xpia)

57. “Yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn ngữ, công cụ chủ yếu của nó và
cùng với các sự kiện, các hiện tượng của cuộc sống là chất liệu của văn học.”
(M. Go-rơ-ki)

58. “Ngôn ngữ của tác phẩm phải gãy gọn, chính xác, từ ngữ phải được chọn
lọc kĩ càng. Chính các tác giả cổ điển đã viết bằng một ngôn ngữ như vậy, đã
kế tục nhau trau dồi nó từ thế kỉ này sang thế kỉ khác.” (M. Go-rơ-ki)

59. “Ngôn ngữ nhân dân là “tiếng nói nguyên liệu” còn ngôn ngữ văn học là
“tiếng nói đã được bàn tay thợ nhào luyện”…” (M. Go-rơ-ki)

60. “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả,
nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó
không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó.” (Biêlinxki)

61. “Cuộc sống còn tuyệt vời biết bao trong thực tế và trên trang sách. Nhưng
cuộc sống cũng bi thảm biết bao. Cái đẹp còn trộn lẫn niềm sầu buồn. Cái
nên thơ còn lóng lánh giọt nước mắt ở đời.” (Trích trong Nhật kí của Nguyễn
Văn Thạc)

62. “Tôi hãy còn một trái tim, một dòng máu nóng để yêu thương, cảm thông
và chia sẻ.” (Đô-xtôi-ép-xki)

63. “Điều duy nhất có giá trị trong cuộc đời chính là những dấu ấn của tình
yêu mà chúng ta đã để lại phía sau khi ra đi.” (Albert Schweitzer)

70
64. “Nhà văn phải là người đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm
hồn của con người.” (Nguyễn Minh Châu)

65. “Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng
giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận
đen đủi dồn đến chân tường. Những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt
hủi và đoạ đày đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc
đời. Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người không có ai
để bênh vực.” (Nguyễn Minh Châu)

66. “Cảm động lòng người trước hết không gì bằng tình cảm và tình cảm là
cái gốc của văn chương.” (Bạch Cư Dị)

67. “Những cuộc chiến qua đi, những trang lịch sử của từng dân tộc được
sang trang, các chiến tuyến có thể được dựng lên hay san bằng. Nhưng
những tác phẩm đi xuyên qua mọi thời đại, mọi nền văn hoá hoặc ngôn ngữ
cuối cùng vẫn nằm ở tính nhân bản của nó. Có thể màu sắc, quốc kì, ngôn
ngữ hay màu da chúng ta khác nhau. Nhưng máu chúng ta đều có màu đỏ,
nhịp tim đều giống nhau. Văn học cuối cùng là viết về trái tim con người.”
(Maxin Malien)

68. “Tôi muốn tác phẩm của tôi giúp mọi người trở nên tốt, có tâm hồn thuần
khiết, tôi muốn chúng góp phần gợi dậy tình yêu con người, đồng loại và ý
muốn đấu tranh mãnh liệt cho những lí tưởng của chủ nghĩa nhân đạo và sự
tiến bộ của loài người.” (Sô-lô-khốp)

69. “Nói tới giá trị nhân đạo là nói tới thái độ của người nghệ sĩ dành cho con
người mà hạt nhân căn bản là lòng yêu thương con con người.” (Từ điển văn
học)

70. “Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu.” (L. Tôn-xtôi)

71. “Con người đến với cuộc sống từ nhiều nẻo đường, trên muôn vàn cung
bậc phong phú nhưng tiêu điểm mà con người hướng đến vẫn là con người.”
(Đặng Thai Mai)

72. “Tư tưởng nhân đạo xuyên suốt văn học từ xưa đến nay. Khái niệm nhân
đạo có những tiền thân của nó, trong lời nói thông thường đó là “tình thương,
lòng thương người.” (Lê Trí Viễn)

71
73. “Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái đẹp và
cái nhân đạo của lòng người.” (Sê-khốp)

74. “Cốt lõi của lòng nhân đạo là lòng yêu thương. Bản chất của nó là chữ
tâm đối với con người.” (Hoài Chân)

75. “Nếu như cảm hứng nhân bản nghiêng về đồng cảm với những khát vọng
rất người của con người, cảm hứng nhân văn thiên về ngợi ca vẻ đẹp của
con người thì cảm hứng nhân đạo là cảm hứng bao trùm.” (Hoài Thanh)

76. “Nghệ thuật là sự vươn tới, sự níu giữ mãi mãi. Cái cốt lõi của nghệ thuật
là tính nhân đạo.” (Nguyên Ngọc)

77. “Nói nghệ thuật tức là nói đến sự cao cả của tâm hồn. Đẹp tức là một cái
gì cao cả. Đã nói đẹp là nói cao cả. Có khi nhà văn miêu tả một cái nhìn rất
xấu, một tội ác, một tên giết người nhưng cách nhìn, cách miêu tả phải cao
cả.” (Nguyễn Đình Thi)

78. “Văn học, đó là tư tưởng đi tìm cái đẹp trong ánh sáng.” (Charles DuBos)

79. “Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng
cái ác; cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp.” (Ai-ma-tốp)

80. “Một nhà văn thiên tài là người muốn cảm nhận mọi vẻ đẹp man mác của
vũ trụ.” (Thạch Lam)

81. “Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không bao giờ là nhà văn
cả… Nếu anh không có giọng riêng, anh khó trở thành nhà văn thực thụ.”
(Sê-khốp)

82. “Văn học làm cho con người thêm phong phú, tạo khả năng cho con
người lớn lên, hiểu được con người nhiều hơn.” (M. L. Kalinine)

83. “Cái bóng của độc giả đang cúi xuống sau lưng nhà văn khi nhà văn ngồi
dưới tờ giấy trắng. Nó có mặt ngay cả khi nhà văn không thừa nhận sự có
mặt đó. Chính độc giả đã ghi lên tờ giấy trắng cái dấu hiệu vô hình không thể
tẩy xoá được của mình.” (Sách Lí luận văn học)

84. “Tình huống là một lát cắt của sự sống, là một sự kiện diễn ra có phẩn bất
ngờ nhưng cái quan trọng là sẽ chi phối nhiều điều trong cuộc sống con
người.” (Nguyễn Minh Châu)

72
85. “Nếu như Nguyễn Công Hoan đời là mảnh ghép của những nghịch cảnh,
với Thạch Lam đời là miếng vải có lỗ thủng, những vết ố, nhưng vẫn nguyên
vẹn, thì với Nam Cao, cuộc đời là tấm áo cũ bị xé rách tả tơi từ cái làng Vũ
Đại đến mỗi gia đình, mỗi số phận.” (Nguyễn Tuân)

86. “Văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là
nghệ thuật.” (Nguyễn Tuân)

87. “Như một hạt giống vô hình, tư tưởng gieo vào tâm hồn nghệ sĩ và từ
mảnh đời màu mở ấy nó triển khai thành một hình thức xác định, thành các
hình tượng nghệ thuật đầy vẻ đẹp và sức sống.” (Biêlinxki)

88. “Tôi không thể nào tưởng tượng nổi một nhà văn mà lại không mang nặng
trong mình tình yêu cuộc sống và nhất là tình yêu thương con người. Tình
yêu này của người nghệ sĩ vừa là một niềm hân hoan say mê, vừa là một nỗi
đau đớn, khắc khoải, một mối quan hoài thường trực về số phận, hạnh phúc
của những người chung quanh mình. Cầm giữ cái tình yêu ấy trong mình,
nhà văn mới có khả năng cảm thông sâu sắc với những nỗi đau khổ, bất
hạnh của người đời, giúp họ có thể vượt qua những khủng hoảng tinh thần và
đứng vững được trước cuộc sống.” (Nguyễn Minh Châu)

89. “Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người.
Mỗi tác phẩm văn học chỉ là một lát cắt, một tờ biên bản của một chặng đời
sống con người ta, trên con đường dài dằng dặc đi đến cõi hoàn thiện.”
(Nguyễn Minh Châu)
90. “Một tác phẩm nghệ thuật chân chính không bao giờ kết thúc ở trang cuối
cùng.” (Con tàu trắng, Ai-ma-tốp)

91. “Văn học nằm ngoài các định luật của sự băng hoại. Chỉ mình nó không
thừa nhận cái chết.” (Sê-đrin, Nga)

92. “Văn học là tấm gương lớn di chuyển dọc theo đường đời.” (Xtăng-đan)

93. “Một chữ tình để duy trì thế giới/ Một chữ tài để tô điểm càn khôn.”
(Trương Trào, Trung Quốc)

94. “Người làm văn tình cảm rung động mà phát ra lời, người xem văn phải rẽ
văn để thâm nhập vào tác phẩm.” (Văn tâm điêu long, Lưu Hiệp)

73
95. “Văn học là phương thức tồn tại của con người, giữ cho con người mãi
mãi là con người, không sa xuống thành con vật, hay thành ông Thánh vô
duyên, vô bổ. Văn học là sự vươn tới, sự hướng về, sự níu giữ mãi mãi tính
người cho con người. Cái cốt lõi của văn học là tính nhân đạo.” (Nguyên
Ngọc)

96. “Tác phẩm văn học sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả…
nếu nó khôg là tiếng thét khổ đau hay là lời ca tụng hân hoan; nếu nó không
đặt ra những câu hỏi và không trả lời những câu hỏi ấy.” (Biêlinxki)

97. “Mọi lí thuyết chỉ là màu xám, chỉ cây đời mãi mãi xanh tươi.” (Gớt)

98. “Văn học đối với tôi là một hiện tượng đẹp đẽ nhất trên thế giới.” (Pau-tốp-
xki)

99. “Chỉ có tác phẩm nghệ thuật nào truyền đạt cho mọi người những tình
cảm mới mà họ chưa từng thể nghiệm thì mới là tác phẩm nghệ thuật đích
thực.” (Lép-Tôn-xtôi)

100. “Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên
mặt trận ấy.” (Hồ Chí Minh)

30 nhận định hay nhất về truyện ngắn dùng để trích dẫn


vào bài viết

74
1. Tô Hoài: “Truyện ngắn chính là cách cưa lấy một khúc đời sống”
2. Nguyễn Minh Châu: “Tôi thường hình dung thể loại truyện ngắn như mặt
cắt giữa một thân cây cổ thụ : Chỉ liếc qua những đường vân trên cái khoanh
gỗ tròn tròn kia, dù sau trăm năm vẫn thấy cả cuộc đời của thảo mộc”
3. “Hay niềm nở nhưng cũng hãy cảnh giác với những chư và cách đặt câu
lúc nào cũng đứng chực sẵn , lấp ló ngay đầu ngòi bút”
4. Maugham:”Truyện ngắn là sự trình bày một sự kiện theo trình tự của câu
chuyện diễn biến hoăc theo trình tự của tâm tình”
5. Pauxtopki:”Truyện ngắn là một truyện viết rất ngắn gọn , trong đó cái
không bình thường hiện ra như một cái gì đó bình thường, và cái bình thường
hiện ra như một cái gì không bình thường”
6. Pauxtopki:”Nếu như thơ có những vần luât chặt chẽ , chính xác thì theo tôi
hiểu văn xuôi cũng phải có nhịp điệu của nó”
7. Varonin:”Cả tư tưởng , cả tính cách nhân vật cũng chưa làm nên truyện
ngắn thực thụ. Còn phải nói cái này nữa: giọng điệu, cái nhạc tính của tâm

75
trạng, cái khiến cho người đọc không ngừng nảy sinh những liên tưởng ,
những cảm xúc , thiếu nó, không thể có nghệ thuật”
8. Con hãy lắng nghe nỗi buồn của cành cây héo khô của chim muông què
quặt, của hành tinh lạnh ngắt nhưng trước hết con hãy lắng nghe nỗi buồn của
con người
9. Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu
nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không
đặt ra câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó
10. Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh
trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ ngoài kia thoát ra từ
những kiếp lầm than
11. Sống đã rồi hãy viết, hãy hòa mình vào cuộc sống vĩ đại của nhân dân
12. Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp hơn câu chuyện do chính cuộc sống
viết ra ra
13. Cuộc đời là nơi xuất phát và cũng là nơi đi tới của văn học
14. Văn học phản ánh hiện thực nhưng không phải là chụp ảnh sao chép hiện
thực một cách thời hợt nông cạn. Nhà văn không bê nguyên si các sự kiện,
con người vào trong sách một cách thụ động, giản đơn. Tác phẩm nghệ thuật
là kết quả của quá trình nuôi dưỡng cảm hứng thai nghén sáng tạo ra một thế
giới hấp dẫn sinh động, thể hiện những vấn đề có ý nghĩa sâu sắc, bản chất
của đời sống xã hội con người. Nhân vật trong tác phẩm của một thiên tài thật
sự nhiều khi thật hơn cả con người ngoài đời, bởi chính sức sống lâu bền bởi
ý nghĩa điển hình của nó. Qua nhân vật ta thấy cả một tầng lớp 1 giai cấp một
thời đại thậm chí có nhân vật vượt lên khỏi thời đại có ý nghĩa nhân loại vĩnh
cửu sống mãi với thời gian
15. Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết, tôi và các nhà văn cùng chí
hướng như tôi muốn tiểu thuyết là sự thật ở đời
16. Điều quan trọng hơn hết trong sự nghiệp của những nhà văn vĩ đại ấy
là cuộc sống – trường đại học chân chính của thiên tài. Họ đã biết đời sống xã
hội của thời đại, đã cảm thấy sâu sắc mọi đau đớn của con người trong thời
đại, đã rung động tận đáy tâm hồn với những nỗi lo âu bực bội tuổi hổ và

76
những ước mong tha thiết nhất của loài người. Đó chính là cái hơi thở cái sức
sống của những tác phẩm vĩ đại
17. Văn học thực chất là cuộc đời. Văn học sẽ không là gì cả nếu không vì
cuộc đời mà có
18. Nghệ thuật luôn vận động và phát triển trong sự ràng buộc tự nhiên với
đời sống xã hội. Những giá trị nghệ thuật chân chính từ xưa tới nay đều là
sáng tác bắt rễ sâu xa trong mảnh đất thực tế của thời đại mình. Những đỉnh
cao nghệ thuật trong bất kỳ một nền văn học nào cũng đều được xây cất trên
nền tảng vững chắc của thực tại cuộc sống.
19. Phong cách là cái còn lại hoặc hạt nhân mà sau khi từ nhà văn chúng ta
bóc đi những cái không phải của bản thân anh ta và tất cả những thứ mà anh
ta giống với người khác.
20. Văn như con người của nó, văn thâm hậu thì con người nó trầm mà tỉnh,
văn ôn nhu thì con người của nó khiêm mà hòa, văn cao khiết thì con người
của nó đạm mà giản, văn hùng hồn thì con người nó cương và nhanh, văn
chuyên sâu thì con người nó thuần túy mà đứng đắn.
21. Phải Chăng Anh chưa bao giờ đọc hàng giấy biết kín mà có có cảm giác
rằng anh cũng có thể viết không kém và đúng nguyên như thế cũng nên, vì
trong ấy không có gì là đặc sắc riêng biệt. Nhưng liền ngay đó anh bắt gặp
một mẩu truyện ngắn, một bức phác thảo, một vài dòng thôi và anh cảm thấy
khác hẳn, anh không thể nói được như thế và có thể là hay hơn hoặc kém
hơn, nhất định là phải khác, bởi vì muốn nói được như thế, muốn bắt đúng
cái nốt ấy thì phải có một thanh quản tổ chức đúng như thế, cũng giống như
chim ấy. Đó là nét riêng biệt chủ yếu của một tài năng độc đáo và đầy sức
sống.
22. Nếu như đó là một nhà văn cũ đã quen thuộc thì câu hỏi không phải là
anh ấy là người như thế nào mà sẽ là: nào anh có thể cho tôi thêm một điều gì
mới– Một nhà văn lớn quyết không thể chỉ có một con dấu
23. Mỗi tác phẩm nghệ thuật phải là một phát minh về hình thức và khám phá
mới về nội dung

77
24. Cái quan trọng trong tài năng văn học là tiếng nói của chính mình Cái
giọng riêng của chính mình mà không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kỳ
một người nào khác
25. Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo vì vậy Nó đòi hỏi phải có phong
cách tức là phải có nét gì đó rất mới rất riêng thể hiện trong tác phẩm của
mình.
26. Nhà văn Nga M.Gorky có nói: ” nghệ sĩ là con người biết khai thác
những ấn tượng riêng – chủ quan – của mình, tìm thất trong những ấn tượng
đó cái có giá trị khái quát và biết làm cho những ấn tượng ấy có được hình
thức riêng.”
27. “ Trong một nhân tài thì một phần mười là thiên bẩm và chín phần mười
là nước mắt và mồ hôi”.
28. Tác phẩm văn học lớn hấp dẫn người đọc bởi cách nhìn nhận mới, tình
cảm mới về những điều, nhưng việc ai cũng biết cả rồi”

Mối quan hệ giữa văn học và hiện thực cuộc sống


Mở bài 1
Có ai yêu một loài hoa không sắc không hương? Có ai quyến luyến những vần thơ
khô khan không cảm xúc? Văn chương phản ánh hiện thực nhưng nó không phải là
một tấm hình khô cứng và vô hồn, mà đó là tiếng lòng thổn thức từ những câu
chuyện của cuộc đời – câu chuyện được ngân vang trên ngọn đồi tuyết phủ trắng
trời, thấp thoáng những đóa sơn trà e ấp trong làn sương giăng mờ ảo. Chính hiện
thực cuộc sống luôn là cảm hứng cho sáng tác văn học, là cội nguồn gọi thức con
chữ, là cầu nối tâm hồn đồng điệu của người nghệ sĩ với độc giả. Chính vì vậy, …
đã khẳng định: …
Mở bài 2
“Anh đi qua trái đất để lại chừng thơ ấy
Hãy thương anh! Anh nào có chi nhiều
Một chút nắng tàn, một dòng nước chảy
Trái tim nghèo, nhưng cũng đã tin yêu”.
Nếu hội họa dùng đường nét và màu sắc để phác họa nên bức tranh cuộc sống, âm
nhạc dùng ca từ và giai điệu để tạo nên những tiếng ca thì văn học dùng ngôn ngữ
và hình ảnh để làm chất liệu cho sáng tác. Hiện thực đời sống luôn là nguồn cảm
hứng vô tận sáng tạo nên văn chương, người nghệ sĩ phải đứng vững trên mảnh đất
đời sống, lấy đó làm điểm tựa, điểm xuất phát thì mới mong tạo ra được thứ gì đó
để đời. Nói như …:

78
2. Chức năng giáo dục của văn học
Mở bài 1
Như bông cúc nhỏ sinh ra để luôn tự hát về vùng đất mênh mang nắng gió; như
ánh mặt trời sinh ra để thiêu đốt đi cái lạnh giá vĩnh cửu của mùa đông, văn học
sinh ra để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người bị đẩy vào
cùng đường, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường. Nói như …:
Mở bài 2
Sáng tác văn học được ví như công việc của một người chèo thuyền trên sông.
Nước chảy thuyền trôi … Con thuyền đi qua mọi bến bờ của thời gian, không gian
và ở một nơi xa nào đó trên bờ hoang vắng đầy cỏ dại, nó đã cập bến, mang theo
những khuôn hàng để trao tay đến độc giả những bài học, những cảm xúc và suy
nghĩ của nhà văn trong suốt chặng đường lênh đênh sóng nước. Một tác phẩm chân
chính phải có chức năng hàng đầu là giáo dục và hướng con người đến những giá
trị tốt đẹp của cuộc sống. Nói như …:
3. Giá trị thẩm mĩ của văn học
Mở bài 1
Ta say đắm trước áng mây hồng của buổi sớm mai bình minh hay áng mây buồn
khi chiều tàn khuất lối? Ta rung động trước đóa hoa đẹp lung linh dưới ánh mặt
trời hay những cánh đồng đã úa tàn không còn sinh khí? Cuộc đời là hành trình đi
tìm cái đẹp và luôn vì cái đẹp mà tồn tại. Xuất phát từ đặc trưng của văn học, đã là
văn chương thì phải đẹp, đẹp là chức năng hàng đầu, cũng là đạo đức của văn
chương. Chính vì vậy, … đã khẳng định:
Mở bài 2
Nếu phải chọn một loài hoa đẹp nhất, tôi sẽ chọn lấy một cành hồng còn e ấp trong
sương đêm. Nếu phải chọn một thanh âm cao nhất, tôi sẽ chọn lấy tiếng hót thiết
tha của loài chim họa mi. Nếu phải chọn một bản nhạc hay nhất, có lẽ tôi sẽ chọn
văn chương. Tiếng ca từ văn chương bao giờ cũng vui tươi và rạo rực, giai điệu
của văn chương bao giờ cũng đằm thắm và ngọt ngào. Khi những cung bậc cảm
xúc ấy được cất lên, chúng giống như một nốt nhạc du dương va chạm với tâm hồn
người đọc. Từ đó, văn chương sẽ giúp con người có những nhận thức mới mẻ và
cảm nhận sâu sắc hơn về cái đẹp của cuộc đời, cái đẹp trong từng trang thơ. Nói
như …:
4. Tính sáng tạo của người nghệ sĩ
Mở bài 1
Ai đó đã nó rằng hoa hồng ở lại giữa đời nhờ hương thơm say đắm, không nồng
nàn như hoa cúc hay ngọt ngào như ngọc lan. Loài chim sơn ca ở lại giữa đời bởi
tiếng hót thiết tha vút lên giữa dàn đồng ca của núi rừng. Câu chuyện ấy gợi nhắc
chúng ta nỗi băn khoăn: Có phải điều còn lại với mỗi nhà văn chính là giọng điệu
riêng của mình?

79
Mở bài 2
Có ai đó đã từng ví, mỗi nhà văn như một loài hoa, một thứ chim trong cánh rừng
đại ngàn văn học. Mỗi loài hoa tỏa một hương thơm riêng cũng như mỗi thứ chim
cất lên một giọng hót riêng. Mỗi nhà văn sẽ chỉ sống được trong lịch sử văn học,
trong tâm hồn người đọc khi anh ta tạo ra một giọng hát, một hương thơm của
riêng mình. Nói như …:
Mở bài 3
Đã bao lần tôi băn khoăn tự hỏi: Điều gì khiến mỗi tác phẩm mang hình hài một
chiếc lá, thả mình theo dòng chảy miên viễn của thời gian? Một cốt truyện li kì hấp
dẫn? Một vần thơ sâu thẳm tự tâm hồn? Văn học bật ra từ những cơn mê tỉnh của
người nghệ sĩ, từ cõi lòng tinh tế đến nhạy cảm mong manh, để rồi nhìn thấu nỗi
đau thực tại, để rồi một đời trăn trở, một đời băn khoăn. Văn học vốn dĩ nặng nợ
thế gian, cũng như nỗi niềm muôn đời của người nghệ sĩ đối với văn chương, để
rồi từ đó anh cất lên những vấn thơ, những câu chữ say đắm lòng người. Nói
như…:

80
Liên hệ:
Người lính-chiến tranh:

81
Lãnh tụ:

Quê hương-đất nước-thiên nhiên:

82
Tình cảm gia đình:

83
Phần II: Nghị luận xã hội

Nghị lực sống


 Nick Vujicic, diễn giả nổi tiếng sinh ra thiếu hai tay, hai chân, nhưng anh đã vượt qua trở
ngại bệnh tật, tốt nghiệp đại học tài chính năm 21 tuổi, trở thành nhà diễn thuyết nổi tiếng
và truyền cảm hứng tới 3 triệu người trên thế giới. Anh nổi tiếng với phương châm “Cuộc
sống không giới hạn”.
 Lê Thanh Thúy, cô gái lạc quan, yêu đời với nụ cười hoa hướng dương, đối mặt với căn
bệnh ung thư và cái chết, vẫn mạnh mẽ, sống có ích. Cô đã lập nên quỹ “Ước mơ của Thúy”
để giúp đỡ các bệnh nhân ung thư khác. Tuy Thúy đã mất đi nhưng ước nguyện cao đẹp
của chị vẫn còn mãi với cuộc đời, hàng “Ngày hội Hoa hướng dương”, viết tiếp ước mơ của
Thúy, vẫn được tổ chức, thu hút sự tham gia đông đảo của mọi người, đặc biệt là giới trẻ.
 Kito Aya, cô nữ sinh Nhật Bản phải đối mặt với bệnh thoái dây sống tiểu não, đã dũng cảm
và mạnh mẽ để sống những ngày trọn vẹn, yêu thương bên mọi người. Cô tâm sự: “Có
những người mà sự tồn tại của họ giống như không khí, êm dịu, nhẹ nhàng, chỉ khi họ mất đi
người ta mới nhận ra họ quan trọng nhường nào. Mình muốn trở thành một sự tồn tại như
thế.“Cuốn nhật kí “Một lít nước mắt” của cô đầy nghị lực và cảm động, đã truyền thông điệp
mạnh mẽ về giá trị của cuộc sống. Đến tận cuối đời, Aya vẫn giữ trọn niềm tin yêu của mình
với cuộc đời, với mọi người. Cuốn nhật kí của cô kết thúc bằng dòng chữ: “Cảm ơn”.
 Hiệp sĩ công nghệ thôgn tin Nguyễn Công Hùng: Với cơ thể chỉ khoảng 20 kg, nhưng có
sự thông minh và nghị lực sống phi thường, năm 2003, Công Hùng đã đứng ra mở một
trung tâm tin học dành cho người có hoàn cảnh như mình. Trung tâm của Công Hùng đã
giúp nhiều người khuyết tật tại Nghệ An xóa bỏ mặc cảm, mở ra cơ hội việc làm và tương lai
tươi sáng hơn cho họ. Năm 2006, anh được Trung ương Đoàn bầu chọn là 1 trong 10
gương mặt trẻ tiêu biểu toàn quốc, được gọi “Hiệp sĩ công nghệ thông tin. (Báo
nguoiduatin.vn)
 Stephen William Hawking là nhà vật lý người Anh, là “ông hoàng” vật lý lý thuyết của thế
giới.Hawking mắc bệnh thần kinh có tên Lou Gehrig, khiến ông gần như mất hết khả năng
cử động. Sau đó, ông phẫu thuật cắt khí quản và không thể nói chuyện bình thường. Ông
luôn gắn chặt với chiếc xe lăn, chỉ có thể nói được qua một thiết bị tổng hợp tiếng gắn với
một máy tính mà ông gõ chữ vào đó.Hawking hiện là Giáo sư Lucasian, chức danh dành
cho Giáo sư Toán học của Đại học Cambridge. Từng đảm nhiệm vị trí này là những nhà
khoa học xuất chúng như Isaac Newton và Paul Dirac. Ông có những bài học sâu sắc cho
giới trẻ: “Một là, hãy nhớ nhìn lên các vì sao và đừng nhìn xuống chân của mình. Hai là,
không bao giờ từ bỏ làm việc. Làm việc sẽ giúp con cảm thấy có ý nghĩa và mục đích. Cuộc
sống sẽ trở nên trống rỗng nếu không có công việc. Ba là, nếu con đủ may mắn để tìm thấy
tình yêu, hãy nhớ rằng mình có nó và đừng để nó vuột mất khỏi tầm tay”.
 Helen Keller (27/6/1880 – 1/6/1968) là một nhà văn, nhà hoạt động xã hội mù, điếc người
Mỹ. Bà là người mù điếc đầu tiên trên thế giới tốt nghiệp một trường cao đẳng.Tuy sống
trong thế giới không ánh sáng, không âm thanh nhưng Keller vẫn là một phụ nữ tràn đầy tinh
thần lạc quan, thiết tha yêu cuộc sống. Trong Thế chiến thứ I và thứ II, bà đến hơn 70 bệnh
viện để an ủi bệnh nhân, động viên họ. Bà dành trọn cuộc đời cho Hội người mù Mỹ. Bài học
mà Keller rút ra: Lạc quan là niềm tin dẫn tới thành tựu. Bạn chẳng thể làm được điều gì mà
thiếu đi hy vọng và sự tự tin.

84
Sự dũng cảm
 Malala Yousafzai, được biết đến với hoạt động nữ quyền của mình, đặc biệt tại thung lũng
Swat, nơi Taliban đã từng cấm nữ giới đi học. Bất chấp sự uy hiếp của tổ chức khủng bố,
Malala vẫn mạnh mẽ đấu tranh đòi quyền đi học cho các em gái nơi cô sinh sống. Malala trở
thành người trẻ tuổi nhất nhận giải Nobel Hòa Bình. Bài phát biểu của cô tại lễ trao giải rất
ấn tượng: Bất kể con người ta mang màu da gì, nói tiếng gì và theo tôn giáo gì, chúng ta
nên coi nhau là những con người và tôn trọng lẫn nhau, đấu tranh vì quyền của chúng ta, vì
quyền của trẻ em, quyền của phụ nữ và quyền của tất cả mọi người.”.
 Nguyễn Văn Nam (học sinh lớp 12T7, trường THPT Đô Lương 1, Nghệ An). Khi đi
ngang qua sông Lam thấy nhóm học sinh chới với giữa dòng nước, nam sinh không hề đắn
đo mà nhanh chóng lao xuống cứu người. Sau khi đã cứu được 4 em học sinh vào bờ, Nam
thấy vẫn còn một em đang dần bị ngạt nước, cậu bạn đã dùng hết sức lực giúp em nhỏ
được vào bờ. Nhưng tiếc thay, chàng trai trẻ đã bị kiệt sức rồi dần bị nước cuốn trôi.
 Galileo Galilei
Sự công tâm
 Abraham Lincoln (tổng thống Mỹ) rất giỏi tự đặt mình vào vị trí của người khác để hiểu
động cơ và mong muốn của họ. Khả năng đồng cảm này giúp Lincoln tạo ra một nội các bất
thường nhất trong lịch sử nước Mỹ, bằng cách tập hợp các đối thủ lại và sắp xếp trọng trách
theo khả năng của họ
 Tuy có hiềm khích riêng với Trần Khánh Dư, nhưng khi quân Nguyên Mông sang xâm lược
Đại Việt lần thứ 3, Trần Hưng Đạo đã gạt bỏ qua việc riêng, tin cậy giao hết công việc biên
thùy cho phó tướng Vân Đồn là Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư khi ông này được phục
chức. Ngoài ra, khi soạn xong Vạn Kiếp tông bí truyền thư, thì Trần Khánh Dư cũng là người
được ông chọn để viết bài Tựa cho sách.
 Danh y Lê Hữu Trác: Có lần một nhà quyền quí mời ông chữa bệnh, thấy ông đến muộn
mới hỏi thì được biết trên đường đi, ông ghé vào chữa bệnh cho một người nghèo. Bị trách,
ông đáp vì bệnh của người quyền quí là bệnh nhẹ, có thể chữa sau, còn người nghèo kia
mắc bệnh nặng nên không thể trì hoãn.
Tha thứ và chuộc lỗi
 Thay vì trừng phạt những kẻ bại trận (Liên minh miền Nam ủng hộ chế độ nô lệ), trong
buổi lễ sau khi cuộc nội chiến Mỹ kết thúc, Abraham Lincoln đã phát biểu: “Chúng tôi không
ác tâm với bất kỳ ai, hãy để chúng tôi nỗ lực làm trọn công việc của mình để hàn gắn đất
nước.
 Phan Thị Kim Phúc, “em bé Napalm” trong bức ảnh gây chấn động thế giới về chiến tranh
VIệt Nam, đã phải chịu những vết thương sâu sắc cả về thể xác lẫn tinh thần. Khi trưởng
thành, Kim Phúc đã tha thứ cho những người ở bên kia chiến tuyến, những kẻ đã trực tiếp
gây ra những nỗi đau cho cô. Kim Phúc nói: Sự tha thứ giải thoát tôi khỏi lòng thù hận. Vẫn
còn nhiều vết sẹo trên thân thể tôi, và sự đau đớn vẫn kéo dài trong nhiều ngày, nhưng tâm
tôi nay đã được an lành.
 John Wast, cựu binh Mỹ, sau cuộc chiến đã mang trả lại kỉ vật cho gia đình liệt sĩ Bùi
Đức Hưng, người lính Bắc Việt đối đầu với ông năm xưa. Khi đó, cánh chim bồ câu
được khắc khéo léo ở mặt trong chiếc mũ lỗ chỗ vết đạn ấy làm ông giật mình, nhận ra tình
yêu hòa bình lớn lao trong lòng người lính bên kia chiến tuyến. Suốt 46 năm qua, cựu binh
Mỹ đặt kỷ vật chiến trường ấy trên kệ sách và coi như lời nhắc về giá trị của hòa bình, cho
đến khi trao trả lại cho gia đình liệt sĩ Hưng, như một lời tạ tội.
 Alfred Nobel, nhà khoa học lỗi lạc, người chế ra thuốc nổ, về cuối đời đã rất ân hận vì phát
minh của mình được sử dụng trong chiến tranh, mang lại nhiều đau thương, mất mát cho
nhân loại. Do đó, trong di chúc của mình, Nobel đã dành toàn bộ tài sản của mình thành lập
giải Nobel để tôn vinh những đóng góp khoa học cho nhân loại, như một cách chuộc lại lỗi
lầm của mình.

85
Trung thực – thiếu trung thực
 Theo Sách Trắng về hiện trạng du học sinh Trung Quốc tại Mỹ của tổ chức giáo dục
WholeRen, có khoảng 8.000 du học sinh Trung Quốc bị đuổi học ở Mỹ trong năm 2014. Theo số
liệu thống kê, 80% số sinh viên bị đuổi học vì thành tích nghiên cứu yếu kém hoặc không
thành thật trong các nghiên cứu khoa học.Trần Hàng, người chịu trách nhiệm về việc
thống kê các con số trên, cho biết số học sinh bị đuổi học chiếm 3% số du học sinh Trung
Quốc tại Mỹ. Con số này không bao gồm những sinh viên không thể tốt nghiệp.Đáng chú
ý, ngày càng nhiều sinh viên bị đuổi học do không trung thực trong các nghiên cứu khoa
học. 60% số sinh viên bị đuổi học trong năm 2014 đến từ các trường trong tốp 100 trường
tốt nhất ở Mỹ, thậm chí cả những trường Ivy League.Sinh viên chuyên ngành kỹ thuật và
quản trị kinh doanh là những đối tượng có tỷ lệ đuổi học cao.
 Ở Ấn Độ, hàng trăm phụ huynh ném tài liệu vào phòng thi cho con khiến các nhà chức trách
đau đầu. Đây là hậu quả của việc học không thực chất, của áp lực xã hội lên bằng cấp cá
nhân.
 Chàng sinh viên Lê Doãn Ý (23 tuổi, Đại học Mở Hà Nội tại Đà Nẵng), nhặt được và trả lại
hơn 1,3 tỷ đồng cho người mất. Ý tâm sự: “Nhặt được tài sản thì trả lại người đánh mất chứ
có chi mô. Nhưng được nhiều người khen, em rất vui và lấy đó làm động lực để sống tốt
hơn”.
 Abraham Lincoln luôn được tôn vinh bởi đức tính trung thực của mình. Trong thư gửi thầy
giáo của con mình, ông đã viết: “xin thầy hãy dạy cho cháu biết rằng một đồng đôla kiếm
được do công sức lao động của mình bỏ ra còn quý giá hơn nhiều so với 5 đôla nhặt được
trên hè phố… “
 George Washington khi 6 tuổi đã vô tình chặt gẫy cây anh đào mà bố ông yêu thích. Thấy
bố rất tức giận, Washington vô cùng hoảng sợ, trước câu hỏi của cha, sau một thoáng
lưỡng lự ông khóc òa: “Con không thể nói dối, cha biết con không thể nói dối! Con đã chặt
cây bằng chiếc rìu nhỏ của con”. è Đức tính trung thực làm nên nhân cách lớn, Washington
chính là vị tổng thống đầu tiên, khai sinh ra Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
 Chu Văn An (1292 – 1370) – nhà nho, nhà hiền triết, nhà sư phạm mẫu mực cuối đời Trần,
nổi tiếng cương trực, không cầu danh lợi. Ra làm quan vào thời vua Trần Dụ Tông (đầu thế
kỉ XIV), chính sự suy đồi, nịnh thần lũng đoạn, ông dâng sớ xin chém 7 nịnh thần (thất trảm
sớ) nhưng không được chấp thuận. Ông treo ấn, từ quan về quê dạy học, soạn sách. Ông
không vì học trò làm quan to mà dựa dẫm, luôn thẳng thắn phê bình những học trò thiếu lễ
độ.
Giữ chữ tín
 Vua Lỗ sai Nhạc Chính Tử đem chiếc đỉnh giả dâng cho vua Tề, Nhạc Chính Tử nhất mực
từ chối. Nhạc Chính Tử nói: “Nhà vua qúi cái đỉnh ấy thế nào thì tôi qúi cái đức tín của tôi
như thế.” Sau vua Lỗ phải đưa đỉnh thật Nhạc Chính Tử mới chịu đi.
 Quí Trát, con vua nước Ngô, đi công cán các nước. Khi qua nước Từ vào thăm vua Từ.
Thấy Quí Trát có thanh gươm báu, vua Từ muốn xin nhưng không dám nói. Quí Trát nhận
ra và trong bụng có ý muốn cho, nhưng vì công việc còn đang dở dang nên chưa tiện dâng
gươm cho vua Từ được.Trên đường về từ nước Tần qua đến nước Từ thì vua Từ đã mất.
Quí Trát không biết làm sao hơn, đành ra thăm mộ và treo gươm vào một cành cây bên
cạnh mộ vua Từ, rồi mới trở về nước Ngô .
Lòng nhân ái
 Chuyện kể rằng Lê Hữu Trác chữa cho một cậu bé con nhà thuyền chài nghèo bị mắc
bệnh đậu mùa rất nặng, người bốc lên mùi xú uế, mỗi khi khám bệnh phải bỏ quần áo trên
bờ, nhét bông vào hai lỗ mũi cho giảm bớt mùi khó chịu. Thế mà ông vẫn đi lại thăm khám,
bốc thuốc chữa bệnh ròng rã hàng tháng trời. Đến khi cậu bé khỏi bệnh, không những ông
không nhận một đồng thù lao nào mà còn cho gia đình cậu bé gạo, củi, dầu, đèn…

86
 Mẹ Theresa: Trong hơn 40 năm, bà chăm sóc người nghèo, bệnh tật, trẻ mồ côi, người hấp
hối và lãnh đạo dòng Thừa Sai Bác Ái (Missionaries of Charity) phát triển khắp Ấn Độ và đến
các quốc gia khác. Bà thực hiện bất cứ việc gì bà nghĩ là có thể xoa dịu “cơn khát” hòa bình,
tình yêu và tiếng cười trên thế giới. Từ các việc làm của bà, mọi người đều nhận thấy được
tình yêu thương không vị kỷ của vị nữ tu.
 Những người mẹ, người dì của hàng chục đứa con mồ côi ở làng trẻ SOS Nghệ An đã
dành cả cuộc đời bên những đứa trẻ không máu mủ ruột rà nhưng họ thương yêu như rứt
ruột đẻ ra. Họ chia sẻ: “Nhìn các con khôn lớn, có cuộc sống hạnh phúc, các mẹ mừng vui
lắm. Đó là động lực để các mẹ tiếp tục cố gắng chăm sóc các trẻ nhỏ bất hạnh, trao lại nụ
cười trên môi cho các bé”.
 Làng trẻ em SOS Quy Nhơn hiện có 13 bà mẹ. Phần lớn họ là những phụ nữ ở các vùng
quê trên địa bàn tỉnh, tuổi từ 30 đến 40, sức khỏe tốt, không có chồng và con, tự nguyện hy
sinh phần đời còn lại cho trên dưới 10 đứa trẻ mồ côi. Họ có trách nhiệm chăm sóc, giáo
dục trẻ, chuẩn bị các điều kiện để trẻ có thể hòa nhập, tự lập khi đến tuổi trường thành. Tựa
như bao bà mẹ khác, họ còn là người tạo lập mối quan hệ tình cảm ruột thịt, đoàn kết giữa
các thành viên trong gia đình, giữa các gia đình trong làng. (Theo baobinhdinh.com).
Đức tính khiêm tốn
 Nhà bác học vĩ đại Einstein không tự nhận mình là một người nổi tiếng:” Tôi chỉ là một
người bình thường như bao người khác thôi, cũng sống và làm công việc mình yêu thích,
sao lại gọi tôi là người nổi tiếng ?”
Sống có đam mê
 Steve Jobs, CEO của Apple là một người có đam mê mạnh mẽ với công nghệ máy tính.
Hơn chục năm gầy dựng sự nghiệp, ít ai ngờ chính Steve Jobs từng bị Apple sa thải. Đam
mê không cho phép ông nản lòng, rời khỏi Apple, ông vẫn kiên trì xây dựng lại sự nghiệp,
tạo ra nhiều công nghệ đột phá, mới mẻ. Những danh ngôn của Steve Jobs: “Đôi khi cuộc
đời sẽ ném gạch vào đầu bạn. Đừng đánh mất niềm tin.” (Steve Jobs). “Chúng ta không có
cơ hội làm quá nhiều điều, và mỗi thứ chúng ta làm đều phải thật sự tuyệt vời. Bởi vì đây là
cuộc đời của chúng ta. Cuộc đời ngắn ngủi lắm, và rồi bạn chết, bạn biết chứ? Và chúng ta
đều được lựa chọn để làm điều này với cuộc đời mình. Vì vậy điều ta làm nên thật tốt. Nên
đáng giá.”
 Đối với, Susan Boyle, giọng ca thiên thần nước Anh, đam mê ca hát cho cô nghị lực sống.
Susan được sinh ra khi mẹ cô đã 47 tuổi. Ca sinh nở khó khăn gây ảnh hưởng tới não vì
thiếu oxy và thai nhi được chẩn đoán sẽ gặp khó khăn trong học tập sau này, cô hay bị bắt
nạt ở trường và bị mọi người chế giễu vì vẻ xấu xí của mình. Trước những khó khăn của
cuộc đời cô vẫn giữ vững niềm đam mê âm nhạc, với ca khúc “I Dreamed a dream”, giọng
ca thiên thần của cô đã chạm vào trái tim hàng triệu khán giả.
 Nghệ sĩ ba lê nổi tiếng Anna Pavlova đã nuôi dưỡng đam mê nghệ thuật của mình đến
những giây phút cuối đời. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, bà yêu cầu người ta mặc cho bà
bộ váy bà vẫn mặc khi biểu diễn vở Cái chết của con thiên nga. Vào đêm diễn ra buổi biểu
diễn tiếp theo của bà trên sân khấu ở Hague, người ta để duy nhất một chiếc đèn chiếu tỏa
ánh sáng xuống một điểm dành cho diễn viên ba lê để tưởng nhớ Anna Pavlova. Vòng tròn
ánh sáng trống không như muốn nói lên rằng: Sân khấu ba lê thế giới đã chịu một mất mát
lớn lao như thế nào khi phải vĩnh biệt nữ hoàng của nó.
 Sinh ra trong một gia đình nghèo ở thành phố Odense, cuộc sống nghèo khổ, không lúc nào
có đủ bánh mì để ăn. Đi học lại luôn bị bạn bè chê cười vì ngoại hình xấu. Vượt qua tất cả
với ước mơ trở thành nghệ sĩ, Andecxen đã lang thang lên thành phố Copenhaghen đóng
những vai kịch tầm thường, làm quét dọn. Cuối cùng, nghị lực và đam mê nghệ thuận đã
giúp ông thành công. Những câu truyện cổ tích của ông mãi tồn tại trong tâm trí độc giả,
mang lại cho trẻ thơ niềm hạnh phúc, thắp lên những ước mơ đẹp. => Nghị lực và tình
yêu nghệ thuật là những nhân tố để thành công.

87
Sáng tạo, chủ động khắc phục khó khăn và
nắm bắt cơ hội
 Nữ diễn viên nổi tiếng Anna Pavlova: Mỗi lần biểu diễn trên sân khấu là mỗi lần Anna
Pavlova khổ sở vì đau chân, vì thế bà đã sửa giày của mình bằng cách đệm thêm một
miếng da cứng vào đế giày đồng thời đệm phẳng cả bên trong lòng giày. Kiểu giầy đó đã
giúp giải phóng cảm giác đau đớn từ bàn chân và giúp bà thuận lợi hơn trong xử lý các động
tác để phát huy sự sáng tạo trong biểu diễn.
 Thuở niên thiếu Picaso là một họa sĩ vô danh, nghèo túng ở Paris. Đến lúc chỉ còn 15
đồng bạc, ông quyết định “đánh canh bạc cuối cùng”. Ông thuê sinh viên dạo các cửa hàng
tranh và hỏi “ “Ở đây có bán tranh của Picaso không?” Chưa đầy một tháng tên tuổi của ông
đã nổi tiếng khắp Paris, tranh của ông bán được và nổi tiếng từ đó => Nếu không tự tạo cơ
hội cho chính mình thì chẳng bao giờ ta có cơ hội cả
 Ø Gần như không một anh bộ đội nào không biết đến bếp Hoàng Cầm. Trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ khi chỉ một lọn khói nhỏ cũng có thể bị phát hiện, đồng nghĩa với những
cuộc oanh kích dữ dội, đồng chí Hoàng Cầm đã sáng tạo ra chiếc bếp không khói, vô hiệu
hóa kỹ thuật quân sự của không quân Mỹ.
Lòng tự trọng
 Hồi World Cup năm 2002, tổ chức tại Hàn Quốc và Nhật Bản. Rất nhiều người hâm mộ
từ châu Âu sang Nhật xem bóng đá. Trong các sân vận động, sau khi trận đấu kết thúc,
người xem ra về, nhưng người Nhật nán lại nhặt các vỏ đồ hộp, chai, lọ, rác vứt rải rác trong
sân vận động, để mang ra thùng rác bên ngoài. Nhiều người hâm mộ Tây thấy xấu hổ, cũng
quay lại, học người Nhật, nhặt các vỏ chai lọ, đồ hộp, bao giấy mà mình vứt lại, mang ra
thùng rác. Ý thức công cộng của người Nhật quả là đáng khâm phục.
Tinh thần đoàn kết
 Trong thảm họa sóng thần năm 2012, người dân Nhật vẫn bình tĩnh, ứng phó, người dân
bình tĩnh đứng xếp hàng nhận viện trợ, không có nạn hôi của xảy ra, các cửa hàng giảm giá
bán để giúp đỡ đồng bào è Tinh thần đoàn kết cao độ, sự nhận thức sâu sắc mối quan hệ
giữa các nhân và tập thể đã giúp người Nhật đứng dậy từ thảm họa, được cả thế giới khâm
phục.
 Khi máy bay MH370 của Malaysia gặp nạn, phía Việt Nam ngay lập tức đã có những hành
động cứu trợ: Việt Nam đã sử dụng 3 máy bay vận tải AN26, 2 máy bay tuần thám CASA C-
212, 1 thủy phi cơ, 3 trực thăng, 7 tàu tham gia tìm kiếm và một số tàu máy bay hậu cần sẵn
sằng cho tình huống xấu. Tàu của Việt Nam gồm tàu của hải quân và cảnh sát biển.Tình
đoàn kết, hữu nghị giữa các quốc gia trên thế giới, đồng thời thể hiện truyền thống “thương
người như thể thương thân” tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Sách và cuộc sống
 Book Box (Chiếc hộp sách) là tên một phong trào ý nghĩa do các bạn trẻ Việt Nam tổ chức,
những chiếc hộp sách sẽ được đặt ở nơi công cộng và mọi người có thể đến đó đọc sách
miễn phí,mọi người cũng có thể mang sách về nhà với điều kiện để một cuốn sách khác vào
thế chỗ è Hành động ý nghĩa, thiết thực, mang sách đến mọi người, phát huy tinh thần nhân
ái, sẻ chia của cộng đồng.
 Ông Phạm Thế Cường (Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh) là chủ thư viện tư nhân phục vụ
cộng đồng miễn phí. Là một người đam mê sách, ông đã dày công sưu tầm rất nhiều đầu
sách bổ ích phục vụ mọi người, đặc biệt là các em nhỏ. Ngoài ra, thư viện của ông còn tổ
chức các chuyên đề văn học để những người yêu thích văn chương có thể chia sẻ đam mê
của mình.
 Đỗ Phủ, nhà thơ được mệnh danh là Thánh thi của Trung Quốc từng quan niệm “Đọc nát
vạn quyển sách, hạ bút như có thần” è Sách có vai trò vô cùng to lớn đến việc mở mang đầu

88
óc, trau dồi tình cảm của mỗi người, giúp cho người nghệ sĩ có thể sáng tạo ra những tác
phẩm bất hủ.
 Maxim Gorki, “cánh chim báo bão của cách mạng Nga”, cây đại thụ của nền văn học Xô
viết, là một người ham mê đọc sách. Tuổi trẻ cơ cực, Maxim Gorki phải tự trau dồi kiến thức
qua những cuốn sách quý báu mà ông có được. Ông quan niệm:

Tinh thần ham học hỏi


 Darwin là một nhà bác học nổi tiếng, khi về già vẫn chăm chỉ đọc sách trau dồi kiến thức.
Con gái ông thấy lạ, thắc mắc tại sao cha đã lớn tuổi mà vẫn chăm chỉ học tập, ông trả lời:
“Bác học không có nghĩa là ngừng học”.
 Cụ Hỳnh Thúc Kháng sinh năm Bính Tí (1876) huyện Tiên phước Tỉnh Quảng Nam. Cụ là
người học rất giỏi, đã hai lần đỗ thủ khoa trong các kỳ thi Hương và thi Hội. Cụ còn là người
rất ham học, lúc nào cũng đọc sách tìm tòi cái mới, cái hay của sách vở, khám phá cái vô
cùng của kiến thức. Trong thời gian bị đày đi Côn Đảo cụ đã tự học tiếng Pháp. Với cuốn từ
điển Pháp dày khoảng 1800 trang cụ đã kiên trì học thuộc sau các buổi lao động khổ sai
hằng ngày. Cụ là tấm gương tiêu biểu cho tinh thần hiếu học của người Quảng và soi rọi
cho thế hệ thanh niên đời sau.
 Giáo sư Ngô Bảo Châu, nhà toán học xuất sắc đã giải được bổ đề Langlands và giành
được huy chương Field danh giá, đã bỏ ra rất nhiều tâm huyết nghiên cứu, trau dồi để theo
đuổi đam mê toán học của mình. Ông cho rằng: “Đến một lúc nào đó, bạn làm toán vì bạn
thích chứ không phải để chứng tỏ một cái gì nữa“
 Cụ Hoàng Ân, quê Bắc Giang, 74 tuổi vẫn thi vào viện Đại học Mở Hà Nội. Cụ cũng cho
biết học luật với mục đích chính là giúp bà con ở quê đấu tranh bảo vệ quyền lợi của người
nông dân, hiểu luật để giúp những người nông dân nghèo đấu tranh đòi quyền lợi hợp pháp
khi bị xâm phạm.
Lý tưởng của giới trẻ
 Remi Camus, chàng trai người Pháp, đã bơi dọc sông Mê Kông tổng chiều dài 4400km để
truyền tới thế giới thông điệp mạnh mẽ về việc bảo vệ nguồn nước sạch.
 Nguyễn Trần Hoàng Việt, anh chàng sinh viên năm 4 ngành ngoại thương ĐH Hoa Sen –
đã tạo ra Cây Tri Thức, một giá sách công cộng đặt ở sảnh trường đại học để mọi người có
thể cùng nhau chia sẻ đam mê đọc sách. Việt mong mỏi không chỉ chia sẻ tri thức với bạn
bè. Cháy bỏng hơn, Việt muốn tập tành xây dựng một cộng đồng sống tử tế, trung thực, trân
trọng khi nhận và tự nguyện cho đi.
 Ca sĩ Thái Thùy Linh nổi tiếng với chương trình Mang âm nhạc đến bệnh viện, hội tụ nhiều
nghệ sĩ nổi tiếng tham gia đến các bệnh viện để phục vụ văn nghệ và quyên góp từ thiện
cho các bệnh nhân khó khăn.
Tinh thần trách nhiệm và thói vô trách nhiệm
 Trước việc 6700 cây xanh bị chặt hạ, những người dân Hà Nội đã phát động chiến dịch
cây, buộc những chiếc nơ vàng lên thân cây è Thể hiện trách nhiệm của công dân đối với
môi trường sống.
 Trước việc chuẩn bị xây cáp treo ở Sơn Đoòng, hang động lớn nhất thế giới, khiến cảnh
quan nơi đây có nguy cơ bị hủy hoại, cư dân mạng Việt Nam đã lập ra chiến dịch bảo vệ
hang Sơn Đoòng, tuyên truyền tới mọi người giá tri của Sơn Đoòng và kêu gọi mọi người
bảo vệ thắng cảnh vô giá ấy.
 Dù lỗ của thanh sắt đã bị nứt, nhưng nhóm công nhân trong công trường thi công nhà
ga Metro Hà Nội vẫn cho cẩu móc vào để di chuyển dẫn đến sự cố cọc sắt dài 9 m nặng

89
hơn 600 kg rơi xuống đường. Sự vô trách nhiệm trong thi công công trình gây nguy hiểm
cho mọi người xung quanh.
 Nhiều vụ tai nạn giao thông thảm khốc xảy ra do tài xế ngủ gục, hoặc cố tình phóng nhanh
vượt ẩu vi phạm luật giao thông. Sự vô trách nhiệm có thể dẫn đến những hậu quả
nghiêm trọng, gây ra đau thương, mất mát cho mọi người.
Cho và nhận
 Anh Trần Phước Hòa ở quận Bình Tân là người đã xây dựng hệ thống quán cơm chay
giá 5000 đồng để giúp đỡ những người gặp hoàn cảnh khó khăn. “Việc quan sát bà con đến
ăn ở quán, hỏi họ dăm ba câu đã thành thói quen của tôi. Tôi cảm thấy ấm lòng mình khi họ
được no bụng”. (Theo tuoitre)
 Một hình ảnh đặc trưng cho sự nhân ái của người Sài Gòn chính là những bình trà đá miễn
phí đặt ở vỉa hè. Hành động giản đơn nhưng ấm áp tình người, làm nên hình ảnh một Sài
Gòn nhân hậu, thân thiện, hiếu khách.
 Từ nhiều năm nay màu áo xanh tình nguyện của các bạn sinh viên trong mùa thi tuyển
sinh Đại học, Cao đẳng dường như đã trở nên quen thuộc với mọi người. Nhắc đến áo
xanh là nhắc đến sự quan tâm, sẻ chia và nhiệt huyết đến quên mình vì cộng đồng.Không
ngại khó khăn, vất vả, dưới cái nắng nóng oi ả của mùa hè, các chiến sĩ tiếp sức mùa thi đã
có mặt ở tất các điểm thi được phân công để giúp đỡ thí sinh và phụ huynh. Do được chuẩn
bị chu đáo từ trước, các chiến sĩ tình nguyện khá thuận lợi khi tư vấn về nhà trọ giá rẻ, nhà
trọ miễn phí, hướng dẫn về địa điểm thi, lộ trình các tuyến xe buýt… Đặc biệt có bạn còn
sẵn sàng cho thí sinh và người nhà ở cùng với mình đồng thời tình nguyện đưa đón thí sinh
trong những ngày thi.
Lòng yêu nước
 Báo Tuổi trẻ từ năm 2011 đã phát động phong trào “Góp đá xây Trường Sa”, kêu gọi nhân
dân cả nước cùng chung tay góp sức để xây dựng biển đảo quê hương. Đây là một chương
trình ý nghĩa, thiết thực, khơi dậy lòng yêu nước và tinh thần trách nhiệm trong mỗi cá nhân.
 Khoảng 800 học sinh khối 12 trường THPT Lê Quý Đôn (TP Biên Hòa – Đồng Nai) đã
cùng nhau xếp hình bản đồ Việt Nam với đầy đủ hai quần đảo Trường Sa – Hoàng Sa trong
buổi lễ chào cờ đặc biệt diễn ra sáng ngày 12/5/2014.Trong khoảnh khắc thiêng liêng này,
tất cả học sinh cùng đặt tay lên ngực trái và hát vang bài Quốc ca hào hùng. Hành động ý
nghĩa của thầy trò trường Lê Quý Đôn nhằm góp tiếng nói phản đối hành động Trung Quốc
hạ đặt giàn khoan trái phép vào vùng biển Việt Nam. Hình ảnh làm xúc động đông đảo
người xem, góp tiếng nói về chủ quyền biển đảo quê hương, tình yêu nước và lòng tự hào
dân tộc.
 Trung tướng Phạm Tuân- người VN và cũng là người Châu Á đầu tiên bay vào vũ trụ.
Trên chuyến bay lịch sử năm ấy, ông đã mang theo một nắm đất Ba Đình, một quyển tuyên
ngôn độc lập của Bác Hồ, bản di chúc của BH, ảnh Bác Hồ, ảnh ông Lê Duẩn, 2 huy hiệu
Bác và cở tổ quốc.

90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140

You might also like