You are on page 1of 8

Văn bản thi vào lớp 10

Chuyện Người con gái Nam Xương – Nguyễn Dữ


Chị em Thúy Kiều - Nguyễn Du
Cảnh Ngày xuân - Nguyễn Du
Kiều ở Lầu Ngưng Bích - Nguyễn Du
Đồng Chí - Chính Hữu
Bài thơ về Tiểu đội xe không kính - Phạm Tiến Duật
Đoàn thuyền đánh cá - Huy Cận
Mã Giám Sinh mua Kiều (Trích Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Bếp lửa - Bằng Việt
Ánh Trăng - Nguyễn Duy
Làng - Kim Lân
Lặng lẽ Sa Pa - Nguyễn Thành Long
Chiếc lược ngà - Nguyễn Quang Sáng
Mùa xuân nho nhỏ - Thanh Hải
Viếng lăng Bác - Viễn Phương
Sang thu - Hữu Thỉnh
Nói với con - Y Phương
Bên quê - Nguyễn Minh Châu
Những ngôi sao xa xôi - Lê Minh Khuê
Hoàng Lê Nhất Thống Chí - Ngô Gia Văn Phái

1. Người cô gái Nam Xương


a) Phân tích giá trị nhân đạo của tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”:

Giá trị nhân đạo đã trở thành linh hồn của nhiều tác phẩm văn học. Nội dung ấy được thể hiện dưới nhiều hình
thức, màu sắc khác nhau. Trong văn học trung đại, một trong những biểu hiện của tinh thần nhân đạo là tấm lòng
nhân ái đối với số phận mong manh, bất hạnh của người phụ nữ. Qua tác phẩm “Chuyện người con gái Nam
Xương” của Nguyễn Dữ, nội dung đó được thể hiện qua tấm lòng trân trọng của tác giả đối với những vẻ đẹp
dung dị, cao cả của người phụ nữ cũng như đồng cảm với số phận bất hạnh mà cuộc đời họ phải hứng chịu.
Người phụ nữ Việt Nam muôn đời nay được ngợi ca bởi vẻ đẹp dịu dàng, kín đáo và tâm hồn đôn hậu bao
dung. Người phụ nữ hiện lên trong “Chuyện người con gái Nam Xương” cũng vậy. Đó là nàng Vũ Nương đẹp
nết đẹp người và đầy tự trọng. Nàng có một “tư dung tốt đẹp” nức tiếng xa gần. Chẳng vậy mà Trương Sinh - một
người “con nhà hào phú” phải xin mẹ trăm lạng vàng rước nàng về làm vợ. Trong mối quan hệ vợ chồng hằng
ngày, biết chồng “có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức.” Vũ Nương đã “giữ gìn khuôn phép, không lần
nào vợ chồng phải đến nỗi bất hoà”. Hai vợ chồng chia li, Vũ Nương một lòng nghĩ đến sự an nguy của
chồng “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin
ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. [...] Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi
người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng
sợ không có cánh hồng bay bổng”. Như vậy là nàng không hề nghĩ đến vinh hoa phú quý, chỉ nghĩ đến chân thành
với tình vợ chồng keo sơn. Xa chồng, Vũ Nương thuỷ chung, tấm lòng luôn tha thiết hướng về chồng: “Ngày qua
tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời
không thể nào ngăn được".
Nàng là một người con dâu hiếu thảo. Trong mối quan hệ với mẹ chồng, nàng hết lòng chăm sóc mẹ chồng lúc
ốm đau: “Nàng hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Khi mẹ chồng
mất, nặng thương yêu, lo lắng chu toàn: “Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha
mẹ đẻ mình.” Tấm lòng nàng dành cho mẹ chồng khiến bà cảm động để khi mất, những lời cuối cùng thiêng liêng
của cuộc đời bà dành để chúc phúc cho con dâu. Xưa nay, trong dân gian vẫn lưu truyền câu nói “mẹ chồng con
dâu” để chỉ mối quan hệ vốn không yên ấm giữa hai đối tượng này nhưng qua thái độ của người mẹ chồng đối với
Vũ Nương người đọc thấu hiểu tấm lòng chân thành, sâu sắc đối với mẹ chồng của nàng.
Vũ Nương là một người phụ nữ đảm đang, tần tảo. Trong suốt ba năm chồng đi lính, nàng một tay quán xuyến
công việc gia đình, chăm sóc con thơ. Với con, Vũ Nương đã hết sức nuôi dạy, bảo ban, thương yêu và chiều
chuộng con (để đến nỗi một trong những hành động vô tư của nàng đã trở thành nguyên nhân buộc nàng tự vẫn...).
Vũ Nương còn là một người phụ nữ giàu lòng tự trọng. Bị chồng hiểu lầm, bị hàm oan tức tưởi, dẫu vẫn còn
khao khát hạnh phúc trần gian nhưng Vũ Nương đã chọn cái chết để chứng minh phẩm tiết trong sạch của mình.
Hành động này cho thấy lòng tự trọng, ý thức giữ gìn danh dự, tiết hạnh ở người phụ nữ đáng trân trọng này.
Ngợi ca vẻ đẹp của “người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ đã góp tiếng nói chung vào cảm hứng ngợi ca
người phụ nữ đầy nhân văn của văn học trung đại. Bên cạnh Vũ Nương của Nguyễn Dữ ta còn có thể kể đến chị
em Thúy Kiều, Thúy Vân của Nguyễn Du, người chinh phụ trong thơ của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm,...
Nhưng trong xã hội phong kiến thời kì suy sụp, thối nát, cái đẹp thường đi liền với nỗi bất hạnh và những tai họa
khôn lường: “Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Khi ấy, văn học lại cất lên tiếng nói đồng cảm với những thân
phận bị “gió dập sóng vùi” chẳng biết “tấp vào đâu”.
Vũ Nương phải hứng chịu một cuộc đời nhiều bất hạnh. Trước hết, nàng có một cuộc hôn nhân không được
lựa chọn. Với vẻ đẹp vốn có, đáng ra nàng phải được kén một tấm chồng đức tài tương xứng. Nhưng đáng tiếc
thay, cuộc đời lại chỉ dành cho nàng một gã Trương Sinh. Đó là một kẻ vô học nhưng giàu có “con nhà hào
phú” “xin mẹ trăm lạng vàng” lấy nàng về làm vợ. Người phụ nữ vẹn toàn này không có quyền lựa chọn cho
mình một người chồng tương xứng. Cuộc hôn nhân của nàng do vàng bạc mở đường, đó như một cuộc trao đổi,
mua bán đầy tính thương mại.
Khi chồng đi lính, đêm đêm để con đỡ tủi và lòng mình đỡ nhớ, Vũ Nương chỉ bóng mình trên vách rồi bảo
con đó là cha nó. Nhưng thiện ý của nàng đã bị hiểu lầm. Nghe con nói kể về người cha đêm đêm vẫn đến của nó,
Trương Sinh với tính đa nghi sẵn có đã hiểu oan cho tấm lòng thủy chung của Vũ Nương. Chàng ta vội nghe lời
con trẻ mà không suy xét đúng sai: “Tính chàng hay ghen, nghe con nói vậy, đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ
ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được". Rồi hồ đồ, độc đoán không đếm xỉa đến những lời thanh minh của vợ,
đối xử tệ bạc, vũ phu với Vũ Nương: “chỉ lấy chuyện bóng gió này nọ mà mắng nhiếc nàng, và đánh đuổi đi”.
Trước nỗi oan không gì giãi bày được (vì Trương Sinh không nói rõ nguyên cớ việc nổi giận của mình), cuộc
đời Vũ Nương bế tắc: nếu sống thì phải mang cái tiếng phản chồng đầy ô nhục. Bởi vậy, dẫu vẫn còn khao khát
vương vấn hạnh phúc trần gian, nàng đành chấp nhận cái chết, trầm mình xuống sông Hoàng Giang.
Thân phận nhỏ nhoi, bèo bọt của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến là vậy, họ không được làm chủ cuộc
sống của mình, luôn luôn là kẻ bị động, hứng chịu những oan khiên, cay đắng. Số phận bất hạnh của Vũ Nương
gợi đến bao phong ba bão táp đã đi qua cuộc đời của những Đạm Tiên, Thúy Kiều, Tiểu Thanh, người cung nữ,
người chinh phụ,... trong văn học trung đại.
Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó, tác phẩm của Nguyễn Dữ không tiến xa hơn câu chuyện dân gian là mấy.
Nguyễn Dữ đã vô cùng trăn trở với số phận của người con gái đa đoan trong tác phẩm của mình. Tin tưởng và yêu
mến nhân vật, nhà văn đã để nàng gửi mình chốn cung mây dưới nước của Linh Phi. Chốn ấy dẫu chẳng được sum
vầy cùng con trẻ, người thân song vẫn là nơi biết trọng những tâm hồn trong đẹp. Vũ Nương trở về nhân gian
trong ánh sáng lung linh kì ảo của ánh nến, mặt nước diệu kì.
Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ đã góp một tiếng nói nhân ái, nhân đạo để đòi quyền
được sống, được hưởng hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến suy tàn. Chính cảm hứng
nhân đạo trong tác phẩm đã giúp Chuyện người con gái Nam Xương của ông đi suốt những năm tháng lịch sử
thăng trầm của dân tộc.
b) Phân tích nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”.

Chuyện người con gái Nam Xương là một trong những sáng tác hay nhất của Nguyễn Dữ trong Truyền kì mạn
lục. Truyện đã thành công khi xây dựng hình tượng nhân vật Vũ Nương - một người phụ nữ đẹp người, đẹp nết
nhưng cuộc đời phải chịu nhiều bi kịch cuối cùng dẫn đến cái chết thương tâm.
Vũ Nương là một người phụ nữ nết na, đức hạnh, thủy chung, son sắt. Ngay từ đầu tác phẩm, Nguyễn Dữ đã
giới thiệu nàng là người con gái tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp. Chính vì vậy, nàng được Trương
Sinh – con một gia đình hào phú xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Trong cuộc sống gia đình, Trương Sinh, vốn
là một người ít học, lại có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá mức vì thế, nàng đã biết lựa tính chồng, giữ cho
khỏi bất hòa, gia đình luôn được trong ấm, ngoài êm. Vũ Nương đúng là một người vợ hiền, có ý thức giữ gìn
hạnh phúc gia đình. Thế rồi đất nước xảy ra nạn binh đao, Trương Sinh phải đi lính, nàng lại càng bộc lộ rõ hơn
phẩm chất tốt đẹp của mình. Lời nói, lời dặn dò trong cảnh tiễn chồng của nàng đã khiến mọi người cảm
động “chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên”. Vũ Nương là người không ham danh vọng mà luôn khao khát
hạnh phúc gia đình, không những thế, nàng còn hiểu, thông cảm cho nỗi vất vả gian lao của chồng “chỉ e việc
quán khó liệu, thế giặc khôn lường, giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao.” Thế rồi, nàng bày tỏ nỗi nhớ
nhung khôn xiết của người vợ yêu chồng thuỷ chung “nhìn trăng soi thành của, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải
xa...”
Nàng là một người phụ nữ đảm đang, một người con dâu hiếu thảo. Khi xa chồng, Vũ Nương luôn làm tròn
bổn phận của người vợ hiền, dâu thảo. Nàng một mình sinh con, quán xuyến công việc gia đình, chăm sóc mẹ già
lúc đau ốm, hết lòng lo thuốc thang, cúng lễ thần phật. Khi mẹ chồng mất, nàng đã lo ma chay chu đáo như chính
cha mẹ ruột của mình. Lời trăng trối của bà mẹ trước lúc lâm nguy càng khẳng định phẩm chất cao đẹp của Vũ
Nương “Trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ
con, cũng như con không phụ mẹ.”
Ta thấy ở Vũ Nương tập trung những phẩm chất cao quý truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Nàng
xứng đáng được hưởng cuộc sống hạnh phúc. Thế nhưng thực tế oan nghiệt đã đẩy nàng vào cảnh ngộ bất hạnh, éo
le, oan khuất. Nàng vốn dĩ là một người phụ nữ rất mực thuỷ chung, vậy mà bây giờ đây lại bị nghi oan thất tiết.
Chỉ vì lời nói vô tình ngây thơ của con trẻ mà Vũ Nương bị chồng ruồng rẫy, hắt hủi, đánh đập đuổi đi, bị gán cho
tội nhục nhã nhất đối với đức hạnh của người phụ nữ. Trương Sinh quả thực đã hồ đồ, cả ghen, không cho vợ được
thanh minh. Những lời bênh vực của bà con hàng xóm cùng những lời phân trần giãi bày hết sức thê thảm không
cứu được nàng thoát khỏi nỗi nhục nhã, vì mất danh dự, Vũ Nương hết lòng hàn gắn hạnh phúc gia đình có nguy
cơ tan vỡ bằng những lời than thấu tận trời xanh “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đỡ
nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót.” Thế nhưng, lời lẽ không làm lung lay được thói độc đoán, gia
trưởng hồ đồ của người chồng có máu ghen tuông mù quáng. Vũ Nương đã phải đau đớn, thất vọng đến tột cùng
vì bị đối xử bất công, vì bất lực không có khả năng bảo vệ danh dự, niềm khát khao hạnh phúc gia đình bị tan
vỡ “nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió... đâu còn có thể lại lên núi
Vọng Phu kia nữa.” Lời nguyền thảm thương của Vũ Nương không giúp nàng thoát khỏi án oan nghiệt ngã. Là
một người phục nữ có ý thức sâu sắc về phẩm giá, Vũ Nương đã quyết liệt tìm đến cái chết để bảo toàn danh dự
chứ không chịu sống nhục. Nàng đã gieo mình xuống sông, kết thúc cuộc đời người phụ nữ bất hạnh.
Bằng cách xây dựng tình tiết truyện đặc sắc đầy kịch tính, tác giả cho ta thấy những cố gắng hết sức nhưng
không thành của một người phụ nữ, để rồi phải chấp nhận số phận và nàng đã phải giải thoát kịch của cuộc đời
mình bằng cái chết oan khuất. Sự việc này đã đẩy câu chuyện đến đỉnh điểm của sự việc. Đến khi Trương Sinh
hiểu ra nỗi oan của vợ cũng bằng sự việc hết sức ngẫu nhiên mà hợp lí. Đó là khi bé Đản chỉ Trương Sinh cái bóng
trên tường chính là cha của mình. Điều đó có ý nghĩa tố cáo vô cùng mạnh mẽ đối với chế độ phong kiến, chỉ một
cái bóng cũng có thể quyết định số phận một con người, đẩy người phụ nữ nết na bất hạnh vào bi kịch không lối
thoát.
Qua việc xây dựng bi kịch của Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã bày tỏ thái độ xót xa thương cảm cùng niềm trân
trọng đối với người phụ nữ. Thông qua bi kịch của Vũ Nương, nhà văn phản ánh bi kịch chung về số phận người
phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Những người phụ nữ ấy nết na, đức hạnh nhưng bị đối xử bất công, tàn nhẫn. Họ
không có quyền được sống hạnh phúc, không được che chở, bảo vệ. Có lẽ vì thế mà truyện đã in sâu đậm vào trái
tim người đọc, khiến ta mãi day dứt, xót xa, trào dâng niềm thương cảm nghẹn ngào.
c) Phân tích yếu tố hoang đường nhưng chứa chan tinh thần nhân đạo:

Chuvện người con gái Nam Xương là một trong số những tác phẩm tiêu biểu nhất của nhà văn lỗi lạc Nguvễn Dữ
sống ở thế kỉ XVI. Tác phẩm là một áng văn xuôi cổ tuy có yếu tố hoang đường, nhưng có giá trị tố cáo và chứa
chan tinh thần nhân đạo sâu sắc.
Chuvện người con gái Nam Xương trích trong Truyền kì mạn lục ghi lại cuộc đời thảm thương của Vũ Nương,
quê ở Nam Xương thuộc tỉnh Nam Hà ngày nay. Vũ Nương là một người con gái nhan sắc và đức hạnh “có tư
dung tốt đẹp", tính tình “thùy mị nết na". Trương Sinh xin mẹ trăm lạng vàng cưới nàng về, sum họp gia thất. Thời
buổi chiến tranh loạn lạc, chồng phải đi lính đánh giặc Chiêm, Vũ Nương ở nhà lo bề gia thất. Phụng dưỡng mẹ
già, nuôi dạy con trẻ, đạo dâu con, nghĩa vợ chồng, tình mẹ con, nàng giữ trọn vẹn, chu tất. Khi mẹ chồng già yếu
qua đời, một mình nàng lo việc tang ma, phận dâu con giữ tròn đạo hiếu. Có thể nói Vũ Nương là một người đàn
bà có phẩm chất tốt đẹp, đáng được trân trọng, ngợi ca. Ước mơ của nàng rất bình dị. Tiễn chồng ra trận, nàng
không hề mơ tưởng “đeo ấn phong hầu", chỉ mong ngày đoàn tụ, chồng trở về “được hai chữ bình yên".
Cũng như số đông người phụ nữ ngày xưa, cuộc đời của Vũ Nương là những trang buồn đầy nước mắt. Một
người con gái công dung ngôn hạnh cũng chỉ được mua bằng tiền để về làm vợ cho anh con trai nhà hào phú.
Chưa được bao lâu lại phải xa chồng. Năm tháng trôi qua, giặc tan, Trương Sinh trở về, con thơ vừa học nói.
Tưởng rằng hạnh phúc sẽ mỉm cười với đôi vợ chồng trẻ. Nhưng rồi chuyện “cái bóng” từ miệng đứa con thơ đã
làm cho Trương Sinh ngờ vực, “đinh ninh vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được". Vốn tính
hay ghen, lại gia trưởng, vũ phu, ít được học hành, Trương Sinh đã đối xử với vợ hết sức tàn nhẫn. Giấu biệt lời
con nói, Trương Sinh đã “mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi”. Vợ phân trần, không tin; hàng xóm khuyên can cũng
chẳng ăn thua gì cả! Chính chồng và con - những người thương yêu nhất của Vũ Nương đã xô đẩy nàng đến bên
bờ vực thẳm. Thời chiến tranh loạn lạc, nàng đã trải qua những năm tháng cô đơn, giờ đây đứng trước nỗi oan,
nàng chỉ biết nuốt nước mắt vào lòng... Vũ Nương chỉ có một con đường để bảo toàn danh tiết: nhảy xuống sông
Hoàng Giang tự tử để làm sáng ngời “ngọc Mị Nương”, toả hương "cỏ Ngu mĩ”.
Vũ Nương tuy không phải “làm mồi cho tôm cá”, được các nàng tiên trong thủy cung cùa Linh Phi cứu thoát.
Thế nhưng, hạnh phúc cùa nàng ở trần thế bị tan vỡ, “trâm gãy bình rơi”. Nàng tuy được hầu hạ Linh Phi, nhưng
quyền làm mẹ, làm vợ của nàng vĩnh viễn không còn nữa. Đó là nỗi đau đớn lớn nhất của một người phụ nữ. Gần
ngàn năm đã trôi qua, miếu vợ chàng Trương vẫn còn đó, đêm ngày “nghi ngút đầu ghềnh tọả khói hương” (Lê
Thánh Tông), nhưng lời nguyền về cái chết của Vũ Nương vẫn còn để lại nhiều ám ảnh, nỗi xót thương trong lòng
người. Nguyễn Dữ đã ghi lại câu chuyện cảm động thương tâm này với tất cả tấm lòng nhân đạo. Cái chết đau
thương của Vũ Nương còn có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc. Nó lên án chiến tranh phong kiến đã làm cho lứa đôi
phải ly biệt, người vợ trẻ sống vất vả, cô đơn; lên án lễ giáo phong kiến khắt khe với tệ gia trưởng độc đoán, gây
nên bi kịch gia đình, làm tan vỡ hạnh phúc. Vì lẽ đó mà Chuyện người con gái Nam Xương có giá trị nhân bản sâu
sắc.
Phần hai của truyện đầy ắp những tình tiết hoang đường: Phan Lang nằm mộng rồi có người đem biếu con rùa
xanh; Phan Lang chạy giặc, bị chết đuối, được Linh Phi cứu sống đặng trả ơn; Phan Lang gặp người làng là Vũ
Nương trong bữa tiệc nơi cung nước; Vũ Nương gởi đôi hoa vàng về cho chồng. Trương Sinh lập đàn trên bến
Hoàng Giang, đợi gặp vợ, nhưng chỉ thấy bóng Vũ Nương với năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy
sông, lúc ẩn lúc hiện v.v... Chi tiết Trương Sinh gọi vợ, rồi chỉ nghe tiếng nói ở giữa sông vọng vào: “Đa tạ tình
chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa"-đó là một chi tiết, một câu nói vô cùng xót xa, đau đớn. Hạnh
phúc bị tan vỡ khó mà hàn gắn được vì hai cõi âm-dương là một khoảng trống vắng mênh mông, mù mịt. Trương
Sinh ân hận vì mình nông nổi, vũ phu mà vợ chết oan, bé Đản mãi mãi mồ côi mẹ... Qua đó, ta thấy đằng sau cái
vỏ hoang đường, câu chuyện về cái chết của Vũ Nương thấm đẫm tình cảm nhân đạo. Chính vì không thể có cuộc
sống công bằng nơi trần thế mà tác giả đã vẽ nên những chi tiết hoang đường để người phụ nữ đáng thương ấy có
thể có cuộc đời bớt đau thương hơn.
Nguyễn Dữ là một trong những cây bút mở đầu nền văn xuôi dân tộc viết bằng chữ Hán. Ông đã đi tiếp con
đường của thầy Nguyễn Bỉnh Khiêm: treo ấn từ quan, lui về quê nhà “đóng cửa, viết sách”. Ông là nhà văn giàu
tình thương yêu con người, trân trọng nền văn hoá dân tộc. Qua văn bản Chuyện người con gái Nam Xương, ta đã
thấy rõ điều đó. Tấm lòng nhân hậu của nhà văn được thể hiện qua việc ca ngợi người phụ nữ - những con người
yếu đuối mà người dân thời ấy rất coi thường. Sự nhân đạo còn thể hiện qua những tình tiết thần kì để nhân vật có
thể có cuộc sống tốt đẹp hơn. Và tấm lòng vàng của nhà văn còn ngầm ẩn qua việc lên án xã hội đương thời, tố cáo
những cuộc nội chiến vô nghĩa đã khiến nhân dân vô tội phải lầm than.
Truyền kì mạn lục là kiệt tác của nền văn học cổ Việt Nam, xứng đáng là “thiên cổ kỳ bút". Người đọc mãi mãi
thương cảm Vũ Nương, thương cảm những người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Chuyện người con gái Nam Xương tố
cáo hiện thực xã hội phong kiến Việt Nam trong thế kỷ XVI, nêu bật thân phận và hạnh phúc người phụ nữ trong
bi kịch gia đình.
Gần 500 năm sau, Chuyện người con gái Nam Xương mà nỗi xót thương đối với số phận bi thảm cùa người vợ,
người mẹ như được nhân lên nhiều lần khi ta đọc bài thơ “Lại bài viếng Vũ Thị” của vua Lê Thánh Tông:
“Nghi ngút đầu ghềnh toả khói hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.
Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ,
Cung nước chi cho lụy đến nàng.
Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt
Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng
Qua đây bàn bạc mà chơi vậy
Khá trách chàng Trương khéo phủ phàng”.
d) Bình luận về cái chết của Vũ Nương:

Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương


Miếu ai như miếu vợ chàng Trương
..
Qua đây mới biết nguồn cơn ấy
Khả trách chàng Trương khéo phũ phàng.
Truyện “Chuyện người con gái Nam Xương” được Nguyễn Dữ viết lên từ một câu chuyện có thật trong xã hội
phong kiến bất công. Câu chuyện hòa trong cái thực và cái hư với nỗi oan khuất và cái chết đau thương của người
con gái Vũ Thị Thiết mà năm tháng trôi đi, vết thương ấy cũng vẫn nhức nhối mãi trong trái tim người đời.
Chuyện người con gái Nam Xương trích trong tập truyện Truyền kì mạn lục của nhà văn, nhà nhân đạo Nguyễn
Dữ. Đây là một tập truyện ngắn viết bằng chữ Hán đầu tiên ở Việt Nam vào thế kỉ mười sáu. Vũ Thị Thiết là
người con gái đức hạnh, con nhà Nho giáo, có học, lại
xinh đẹp. Còn Trương Sinh vốn là con nhà giàu nhưng không có học, tính tình đa nghi nóng nảy. Với sự chủ hôn
của hai gia đình, Vũ Thị Thiết và Trương Sinh nên duyên chồng vợ. Cũng chính vì sự khác nhau đó đã tạo nên
những uẩn khúc và nỗi đau cho cuộc hôn nhân mua bằng tiền này.
Biết chồng có tính đa nghi, vợ càng giữ gìn khuôn phép, yêu thương chiều chuộng chồng để giữ gìn hạnh phúc
gia đình. Nhưng chiến tranh xảy ra, triều đình bắt lính, Trương Sinh phải tòng quân xa mẹ, xa vợ. Nàng ở nhà với
bụng mang dạ chửa, và phải chăm sóc mẹ già luôn đau ốm. Nỗi xa chồng chưa dứt nàng phải mang thêm một niềm
đau khác là mẹ chồng mất.
Nàng lo cho mẹ chồng mồ yên mả đẹp chẳng khác mẹ mình. Và nàng còn phải vất vả nuôi dạy con thơ. Thiết
tưởng tấm lòng ấy nàng sẽ được đền bù thỏa đáng. Nhưng nào ngờ khi Trường Sinh trở về sum họp gia đình thì
đứa con không nhận là bố. Nó nói: “Ở hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không như cha tôi
trước kia chỉ nín thin thít. Trước đây thường có một người đàn ông đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cùng đi, mẹ Đản
ngồi cùng ngồi nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”.
Nghe thế tính đa nghi của Trương Sinh nổi dậy, làm cho chàng trở nên mù quáng. Chàng nghĩ rằng vợ mình đã
làm một việc mà không một ai có thể tha thứ được đó là tội ngoại tình. Thế là chàng ruồng rẫy đánh đuổi nàng đi,
không chịu nghe những lời nàng nói. Với nỗi oan ức đó nàng đã gieo mình xuống sông tự vẫn.
Cái chết của Vũ Nương gây cho người đọc nhiều thương tiếc, thương cho người phụ nữ đức hạnh phải chết
oan. Tiếc cho kiếp đời ngắn ngủi của người con gái đảm đang, thủy chung. Bên cạnh đó còn có sự tức giận đối với
tính tình của Trương Sinh. Tuy nhiên, truyện không phải không có hé mở các khả năng tránh được tấm thảm kịch
bị thương của Vũ Nương. Nhưng thật đáng tiếc Trương Sinh không tận dụng được các cơ hội đó. Có thể nói đây là
tài kể chuyện xuất chúng của tác giả đã kết thắt rồi mở gây được nhiều chú ý cho người đọc.
Trong nhân gian ta có câu “ra đường hỏi già, về nhà hỏi trẻ”, câu nói ấy khẳng định được sự thật thà của những
đứa trẻ. Nó phản ánh đúng sự việc xảy ra. Tuy nhiên cũng mang ít nhiều sự vô lí. Ở đây, bé Đản cũng vậy, bé nói
sự thật về cái bóng mà mẹ kể là "cha". Mặc dù
vậy, Trương Sinh lại không nhận thức được dẫn đến cái chết của Vũ Nương. Câu chuyện
có thể xảy ra theo một chiều hướng khác, nếu Trương Sinh kể chuyện đó cho Vũ Nương nghe. Nếu chàng nói ra
thì có lẽ bi kịch ấy loại bỏ, và sự thật sẽ phơi bày, người vợ hiền đã không phải tìm đến cái chết. Thế là Trương
Sinh lại bỏ lỡ cơ hội để giải quyết tấn bi kịch từ sự chủ quan và đa nghi và ít học của mình.
Trở lại với lời nhận xét của vua Lê Thánh Tông, ta thấy đúng là Trương Sinh phũ phàng, chàng đã đem lấy uy
lực nam nhi để giải quyết tấn bi kịch. Chàng cứ khư khư cho rằng mình đúng, không nghe lời nói của vợ. Còn Vũ
Nương là người con gái ngoan hiền, đáng kính đáng trọng mà phải chết vì một chuyện không đâu. Nỗi oan của Vũ
Nương còn hơn nỗi oan của Thị Kính. Thị Kính còn biết mình bị oan vì sao, còn Vũ Nương thì chỉ biết mình có tội
chứ không biết được nguyên nhân. Câu chuyện tuy kể về gia đình nhưng nó vẫn vượt ra khỏi khuôn khổ ấy. Ở đây,
ta thấy truyện đã mang tính xã hội: khi chế độ nam quyền đã đè nặng lên vai người phụ nữ, họ không có quyền
sống tự do của mình. Và chế độ trọng nam khinh nữ ấy đã thấm sâu vào máu huyết của người đàn ông. Đằng sau
cái chết, đằng sau sự khinh rẻ của mọi người và xã hội với Vũ Nương ta còn thấy hình ảnh của nhiều người phụ nữ
khác. Những lời nói của Vũ Nương chẳng ai tin nữa, chỉ có cái chết mới có thể minh oan được. Nhưng cái chết ấy
vẫn chưa đủ điều kiện để khẳng định sự chung thủy của nàng nếu không có lời nói của bé Đản lúc sau. Nhìn
chung, cái chết của Vũ Nương do Trương Sinh trực tiếp gây ra những nguyên nhân sâu xa vẫn là cái xã hội bất
công, đầy ngang trái.
Qua cái chết của Vũ Nương, ta cũng thấy rõ một tấm lòng nhân đạo lớn lao của nhà văn đã phơi bày và tố cáo
xã hội phong kiến với những lề thói cổ hủ, những cuộc chiến phi nghĩa đã tạo nên những nỗi đau cho thân phận
người phụ nữ bé nhỏ, tội nghiệp. 500 năm trôi qua, tác phẩm của nhà văn lỗi lạc ấy vẫn để lại dư ba, vẫn khiến
người đọc phải day dứt, bâng khuâng khi nghĩ về nỗi oan xưa và xót thương cho người phụ nữ đương thời.
e) Phân tích tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”

Trong văn học Việt Nam đã có không ít tác phẩm mang tên gọi truyền kì hoặc mang tính chất truyền kí song
được tôn vinh "thiên cổ kì bút" thì cho đến này chỉ có một Truyền Kì Mạn Lục của Nguyễn Dữ. Và Trong đó
đoạn trích Chuyện người con gái Nam Xương đặc sắc nhất: Đã khắc họa thành công số phận của người phụ nữ
dưới chế độ xưa.
Truyền Kì Mạn Lục là lọai văn chuyên ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền. Cho nên
trước đó Chuyện người con gái Nam Xương cũng đã được lưu truyền rộng rãi trong chốn dân gian. Hẳn không
mấy ai không biết đến hai bài thơ Viếng thăm nàng vũ thị trong hồng đức quốc âm thi tập. Hai bài thơ đó chứng
tỏ rằng câu chuyện bi thảm về người đàn bà họ Vũ vợ chàng Trương là có thật. Đã được dân gian lưu truyền.
Nhưng không phải Nguyễn Dữ chỉ có làm công việc đơn giản: Biển chép lại cho đúng một chuyện kể đã có sẵn
từ những năm tháng trước đó mà còn phải nhào nặn lại câu chuyện làm cho nó gần gũi với người đọc, mang dấu
ấn của thời đại mình.
Truyện mở đầu bằng dòng chữ "Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương ..." Tên tuổi, quê quán của
nhân vật chính đã được giới thiệu rõ ràng như thế. Chứ không giống như những nhân vật khác: Chàng họ
Trương, ông họ Phan. Thật lạ! Vũ Thị Thiết là người duy nhất trong truyện được nêu đầy đủ họ tên, danh tính để
lưu truyền cho hậu thế. Nhưng Vũ Thị Thiết chỉ là một người đàn bà bình thường, thuộc giới nghèo hèn "vốn con
kẻ khó", dung mạo thì không có gì đặc biệt. Vậy mà nàng đã là một nhân vật lưu truyền nơi hậu thế. Có lẽ
Nguyễn Dữ đã có những nhận thức tiến bộ về xã hội. Những ràng buộc khuôn pháp đã không còn vững chắc
trong tâm trí ông. Ông quan tâm đến đời sống của mọi người chứ không còn mải mê tìm cảm hứng văn chương
trong đội ngũ những người quý phái hay tuyệt sắc giai nhân nữa.
Phải Chính từ quan niệm đó Nguyễn Dữ đã cho ra đời một mẫu người phụ nữ lí tưởng, tuy không phải là giai
nhân những lại hội tụ những đức tính phẩm chất tốt đẹp cần có ở người phụ nữ Vũ Thị Thiết! "tính tình thùy mị
nết na lại thêm tư Dung tốt đẹp" Tuy tác giả đã nói rằng hai yếu tố bên trong và bên ngoài của nàng đều vẹn tòan.
Chẳng khác nào Kiều xưa kia. Thế nhưng càng vào sâu trong tác phẩm ta mới nhận ra rằng. Chữ dung đã thua
chữ tài.
Sau mấy lời giới thiệu đầu tiên, thì trong toàn truyện sẽ không còn những câu nào miêu tả vẻ đẹp bên ngoài
của nàng ta nữa. Vũ Nương đã chiếm được vị trí trong lòng chúng ta không phải là do tư dung mà do phẩm hạnh.
Phẩm chất ở đây không như cô gái hái dâu Ỷ Lan hay ả đào nương diệt giặc miền Tiên Lữ. Phẩm chất Vũ Nương
là về gia đình. Từ khi về nhà chồng Vũ Nương luôn tỏ ra là một người con dâu hiểu thảo, đảm đang, hay làm,
biết tính chồng hay ghen Vũ Nương luôn cố gắng không để cho vợ chồng thất hòa, rồi còn lo lắng thuốc thang và
ma chay tế lễ đầy đủ cho mẹ chồng nữa Vũ Nương đã làm tất cả để giữ gìn, vun vén cho hạnh phúc của gia đình.
Thật là một con người tiêu biểu cho công dung ngôn hạnh ở xã hội xưa.
Trong xã hội xưa vai vế người phụ nữ trong gia đình thường là thấp hèn nhất. Mẹ chồng kiếm con dâu chỉ cốt
để đày đọa, hay kiếm đứa cháu nối dõi tông đường. Cho nên mẹ chồng và con dâu thường thất hòa, không dễ hòa
thuận. Nhưng trong tác phẩm ta lại thấy Vũ Nương được chính người mẹ chồng này tô đậm phẩm giá của mình.
Những lời khen này càng trở nên ý nghĩa hơn, có giá trị hơn gấp bội "Chồng con nơi xa xôi chưa biết sống chết
thế nào không thể về đền ơn được. Sau này, trời xét lòng thành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu
đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ"
Đúng là như thế. Vũ Nương thật là một người con gái tài sắc vẹn tòan. Sống trên đời không để phụ ai, luôn
đối xử ân cần với mọi người. Vậy mà người con gái Nam Xương ấy đã bị phụ. Tai họa bỗng chốc ập đến. Thật
đột ngột! Thật nhanh chóng! Đến khó tin kì lạ. Mới ngày nào người con gái ấy còn thổn thức cùng chồng những
lời nói thiết tha đẫm lệ: "Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại
thổn thức tâm tình thương người đất khách!. Dù có thư nghìn hàng cũng không sợ cánh hồng bay bổng "Mới
ngày nào cuộc tiễn biệt đầy vương vấn nhớ nhung" Ngước mắt cảnh vật vẫn như cũ mà lòng người đã nhuộm
mối tình muôn dặm quan san!". Những câu viết không vượt khỏi ước lệ văn chương một thuở nhưng lại có sức
lay động lòng người lạ thường!. Vì những tình cảm ấy rất chân thành.
Vậy mà trời đã phụ lòng người chỉ "qua năm sau" thôi tất cả đều tan nát. Thay cho Trăng, cho Liễu, cho
"cánh hồng bay bổng" và mối tình muôn dặm quan san chỉ còn là nỗi nghi ngờ, những lời mắng nhiếc đánh đập
đến thậm tệ. Công lao nuôi con dưỡng mẹ, làm tròn bổn phận con dâu đều đổ xuống sông xuông biển, tới mức
"không còn có thể lại lên núi Vọng Phu nữa" Nhưng đáng buồn thay! Tai họa này chỉ do một lí do không đáng
nói!. Do cái bóng!. Vì nhớ chồng, con lại xa cách cha lâu ngày nên nàng chỉ còn biết nói cái bóng là Cha Đản.
Và lòng nàng cũng xem nó là chồng. Thế là bé Đản ngây thơ nên đã tin cái bóng đó là sự thật. Và cứ lầm tưởng
rằng cha mình đêm nào cũng đến mẹ Đản đi cũng đi Mẹ Đản ngôi cũng ngồi. Và khi qua tai Trương Sinh thì
những lời nói hồn nhiên đó lại trở thành sự thật. Cái bóng thành người. Hại cho đời người con gái tài sắc.
Chắc hẳn trong các tác phẩm văn học, có được sự sáng tạo tài tình tinh sảo như chi tiết về chiếc bóng oan
nghiệt này sẽ chỉ đếm trên đầu ngón tay một sự song trùng thật kì ảo thật đáng ngạc nhiên. Bóng dần biến thành
người. Cái thực lẫn lộn pha trộn cái hư, cái giả chập chờn trong cái thật. Không phải là người vợ cũng thiết tha
với hạnh phúc của một gia đình được sum vầy, đoàn tụ Vũ Nương không thể nào nghĩ ra trò chơi này. Nào ngờ
chính nó đã làm tan nát đời nàng. Khi trỏ cái bóng in trên vách chắc hẳn người thiếu phụ chỉ muốn nguôi đi cảm
giác con mình đang sống vắng cha. Nhưng hóa ra chính vì thế mà nàng đã mất chồng, Đản đã mất mẹ. Nếu
truyện được kể thật đúng theo trình tự thời gian thì chi tiết chiếc bóng phải được kể trước khi Trương Sinh chở
về. Nhưng không ngờ Nguyễn Dữ lại tài hoa đến như vậy. Đã ém ngẹm lại cái chi tiết giật gân ấy. Rồi bùng nén
ra ở một vị trí thích hợp đã gây ra bão giông, khuấy lên sóng gió. Không còn gì để ngăn được cơn tức tối của kẻ
có tính hay ghen Trương Sinh khỏi nổ bùng. "Thú vui nghi gia nghi thất, hạnh phúc duy nhất, niềm mong ước
duy nhất của một đời Vũ Nương trong phút chốc trở nên hoàn toàn tan vỡ. Nàng đã gieo mình xuống sông Hòang
Giang tự vẫn. Và người đời sẽ lưu truyền thêm một tấm bi kịch về số phận người phụ nữ. Tấm bi kịch về cái đẹp
bị chà nát phũ phàng.
Qua tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ đã bày tỏ niềm xót thương và ca ngợi người
phụ nữ với những phẩm chất cao đẹp. Truyện cũng cho thấy sự hạn chế và thái độ phê phán của tác giả đối với
xã hội xưa với những bất công, oan trái. Đã nửa thiên niên kỉ trôi qua, mà áng văn chương của nhà văn Nguyễn
Dữ đại tài vẫn vẹn nguyên giá trị trong lòng mỗi độc giả ngày hôm nay.

You might also like