You are on page 1of 6

CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM

XƯƠNG
Thân em như hạt mưa sa,
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.
Lời ca dao cứ da diết, ngân vang, ám ảnh. Ngược dòng thời gian trở về quá khứ,
hình tượng người phụ nữ Việt Nam trong văn học thật đẹp, thật sáng trong, nhưng
số phận của họ cũng thật nhiều éo le, ngang trái. Tôi thực sự bị ám ảnh bởi hình ảnh
Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ. Có lẽ đây là
một trong những hình tượng đầu tiên, phản ánh chân thực và rõ nét số phận của
người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến hà khắc.

Mở đầu câu chuyện, tác giả đã giới thiệu một cách ngắn gọn về nhân vật Vũ Nương.
Đó là người phụ nữ đẹp người, đẹp nết: “Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam
Xương, tính đã thuỳ mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Mặc dù, truyện được viết
theo thể loại truyền kì, nhưng với cách giới thiệu họ tên, quê quán cụ thể, tác giả tạo
nên tính hiện thực sống động cho nhân vật. Người con gái đó không chỉ đẹp về nhan
sắc mà còn có những phẩm chất sáng ngời : hiền hậu, đảm đang, chung thủy, giàu
đức hi sinh. Tác giả đã đưa ra nhiều chi tiết thể hiện phẩm chất đáng quý đó của Vũ
Nương.

Tuy Trương Sinh – chồng của nàng – là một người đa nghi, “đối với vợ phòng ngừa
quá sức” nhưng “nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng
phải đến thất hoà”. Người phụ nữ là người giữ lửa cho mỗi gia đình, Vũ Nương đã
khéo léo giữ được không khí đầm ấm, hạnh phúc cho mái nhà nhỏ của mình. Đây
thực sự là điều không hề dễ dàng. Cũng như bao người phụ nữ Việt Nam khác, Vũ
Thị Thiết đã hi sinh hết mình vì chồng. Nhưng hạnh phúc mà nàng được hưởng thật
ngắn ngủi, chẳng khác nào “bóng câu qua cửa sổ”. Người đọc thật xót xa, thương
cảm khi nghe những lời chia li của nàng trước khi chồng ra trận: “Chàng đi chuyến
này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ
xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi.

Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn
gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn
khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa,
trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình thương người đất thú ! Dù có thư tín
nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Nếu như người ra đi phải đối
diện với hiểm nguy vì hòn tên mũi đạn thì người ở nhà cũng phải chịu bao khổ đau
CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM
XƯƠNG
với nỗi cô đơn tột cùng, mỏi mòn và niềm mong ngóng cháy bỏng. Bởi lẽ: “Non Kì
quạnh quẽ trăng treo – Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò” (Chinh phụ ngâm – Đoàn Thị
Điểm), người ra đi mấy ai may mắn trớ về. Vũ Nương thương chồng hết mực và
chính tình thương yêu đó đã biến thành sức mạnh để nàng vượt qua bao khó khăn
khi chồng ra đi.

Dù nhớ chồng “nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được” nhưng Vũ
Nương vẫn giấu kín nỗi buồn tủi để nuôi con và chăm sóc mẹ chồng đau yếu : “Nàng
hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”.
Tấm lòng hiếu thảo của nàng cũng được mẹ chồng cảm biết: “Chồng con nơi xa xôi
chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được. Sau này, trời xét lòng lành,
ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng
phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Người đọc thật khâm phục, ngưỡng mộ
tấm lòng của Vũ Thị Thiết đối với mẹ chồng, nàng đã coi bà như mẹ đẻ và chăm sóc,
phụng dưỡng, lo “ma chay tế lễ” rất chu đáo. Nàng thực sự là một nàng dâu thảo
hiền.

Là người phụ nữ đẹp người, đẹp nết tưởng rằng Vũ Nương sẽ được hưởng hạnh
phúc suốt đời nhưng nàng lại có một số phận thật bi thảm, bất hạnh. Tấm lòng hi
sinh, hiếu thảo của Vũ Nương tưởng như được đền đáp khi Trương Sinh từ chiến
trận trở về. Song, cuộc đời thật trớ trêu, ngày chồng trở về không phải ngày Vũ
Nương ngập tràn trong hạnh phúc sum vầy mà là ngày định mệnh, tột cùng đau khổ,
bi thương với nàng. Lời nói ngây thơ của bé Đản chẳng khác nào những nhát dao
oan nghiệt: “Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như
cha tôi trước kia chỉ nín thin thít […] Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm
nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế
Đản cả”. Người ta thường nói: “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ”, Trương Sinh lại là người
hay ghen và đa nghi do đó lời nói của con càng khiến chàng tin rằng Vũ Nương đã
phụ bạc mình. Chàng đâu biết “người đàn ông” mà cậu bé Đản nói chính là cái bóng
của chính Vũ Nương. Vì thương con, nhớ chồng nên nàng thường chỉ bóng mình ở
trên vách và nói đó là cha Đản. Có lẽ nàng cũng không thể ngờ chính tình yêu
thương chồng con lại trở thành mối dây oan nghiệt với cuộc đời mình. Nguyễn Dữ
đã thật tài tình khi xây dựng tình huống đầy éo le, kịch tính, tạo sự hồi hộp cho độc
giả. Liệu Vũ Nương sẽ giải thích sao đây? Liệu tự nàng có giải oan được cho mình
hay không?
CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM
XƯƠNG
Cuộc đời của Vũ Nương chẳng khác nào cánh bèo đơn chiếc trôi nổi giữa dòng đời.
Nàng đã bị đẩy vào tình huống dù giải thích thế nào chồng cũng không tin, nàng chỉ
còn biết than khóc với trời xanh, sông rộng: “kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu,
chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin
ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin
làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa
chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin
chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. Lời thề của Vũ Nương vừa thể hiện niềm đau đớn
khôn nguôi vừa khẳng định tấm lòng trinh bạch của nàng. Tác giả đã sử dụng kết
hợp các điển tích, điển cố “ngọc Mị Nương, cỏ Ngu mĩ” như lối so sánh ngầm. Tấm
lòng của Vũ Thị Thiết cũng sáng trong, trinh khiết như Mị Nương, Ngu Cơ – những
trang “tiết hạnh khả phong” của muôn đời. Lòng tự trọng bị xúc phạm nặng nề và để
minh oan cho sự trong sáng của mình, Vũ Nương đã “gieo mình xuống sông mà
chết”. Cái chết của nàng khiến người đọc hiểu thêm về số phận bi thảm của người
phụ nữ xưa. Hạnh phúc với họ thật mong manh.

Tuy vậy, dù ở hoàn cảnh nào người phụ nữ vẫn đau đáu một niềm yêu thương
chồng con tha thiết. Vũ Nương dù đã chết nhưng không nguôi nỗi nhớ mái ấm gia
đình. Với tài năng bậc thầy, Nguyễn Dữ đã xây dựng nên một thế giới huyền ảo, một
cây cầu nối hai bờ hư thực khi để nhân vật Phan Lang gặp lại và trò chuyện với Vũ
Nương chốn thủy cung. Những giọt nước mắt của nàng khi nghe người hàng xóm
nói về chồng con “Nhà cửa tiên nhân của nương tử, cây cối thành rừng, phần mộ
tiên nhân của nương tử, cỏ gai ngợp mắt. Nương tử dù không nghĩ đến, nhưng tiên
nhân còn mong đợi nương tử thì sao?” cho chúng ta thấy, nàng vẫn một lòng yêu
thương Trương Sinh tha thiết. Vì còn lòng yêu thương nên nàng đã để cho Trương
Sinh có cơ hội gặp lại mình: “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình
xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống
nước, tôi sẽ trở về”.

Tuy nhiên sự trở về của Vũ Nương thật ngắn ngủi : “Vũ Nương ngồi trên một chiếc
kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng,
rực rỡ đầy sông lúc ẩn lúc hiện”. Nàng chỉ nói một câu duy nhất : “Thiếp cảm ơn đức
của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng thiếp chẳng thể trở
về nhân gian được nữa”. Biết bao ý tình nhà văn Nguyễn Dữ đã gửi gắm vào sự trở
về chốc lát của Vũ Nương. Đó là sự trở về để khẳng định lòng chung thủy, tình yêu
CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM
XƯƠNG
thương, là món quà dành cho người biết hối lỗi như Trương Sinh. Cuộc gặp gỡ ngắn
ngủi, chốc lát thể hiện con người đã ra đi mãi mãi không thể trở về, cũng như hạnh
phúc một khi đã để tuột mất thật khó có thể lấy lại. Trương Sinh vì ghen tuông mù
quáng nên đã để mất người vợ. Bên cạnh đó, ẩn sâu trong sự trở về của Vũ Nương
là nỗi ngậm ngùi, đau đớn, xót xa cho số phận người phụ nữ:

Đau đớn thay phận đàn bà,


Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
(Nguyễn Du – Truyện Kiều)
Hai chữ “bạc mệnh” cứ bám riết, đeo đẳng số phận người phụ nữ. Hình tượng Vũ
Nương là điển hình nghệ thuật cho “phận đàn bà” tư dung tốt đẹp, chung thủy sắt
son mà bất hạnh tột cùng. Câu chuyện vừa là niềm cảm thương sâu sắc với số phận
người phụ nữ, vừa là tiếng nói vạch trần, tố cáo đanh thép đối với xã hội phong kiến
đã chà đạp, bóp nghẹt quyền sống của con người. Chuyện người con gái Nam
Xương do đó thấm đượm giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực sâu sắc. Cho đến hôm
nay câu chuyện vẫn như một hồi chuông nhắc nhở mọi người phải bênh vực, bảo vệ
người phụ nữ để họ được hưởng những niềm hạnh phúc mà họ xứng đáng được
hưởng. Gấp trang sách lại, lòng tôi vẫn băn khoăn tự hỏi: Liệu cuộc đời này còn biết
bao người phải khổ như Vũ Nương?
CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM
XƯƠNG

Đề tài về người phụ nữ chính là mảng đề tài quen thuộc trong thơ
ca, đặc biệt là các tác phẩm trung đại. Nguyễn Du, Hồ Xuân
Hương, Đoàn Thị Điểm chính là những cây bút tiêu biểu cho
mảng đề tài này. Bên cạnh đó, Nguyễn Dữ cũng là một gương mặt
tiêu biểu với những câu chữ viết về người phụ nữ đầy giá trị nhân
văn. Nguyễn Dữ là cây bút văn xuôi xuất sắc nhất của văn học thế
kỷ XVI. Ông sống ở thời kỳ chế độ phong kiến bắt đầu bước vào
giai đoạn suy vong, các cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn phong
kiến kéo dài liên miên gây đau khổ cho nhân dân. Vốn không
đồng tình với chế độ phong kiến bất công, thối nát, ông đã thể
hiện kín đáo tình cảm ấy của mình qua tác phẩm Truyền kì mạn
lục gồm hai mươi truyện ngắn, trong đó tiêu biểu là Chuyện người
con gái Nam Xương
CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM
XƯƠNG

Vũ Nương là một người con gái dung hạnh mà bạc mệnh. Nguyễn
Dữ đã kể lại cuộc đời oan khổ của nàng với bao tình xót thương
sâu sắc. Tuy mang yếu tố hoang đường, nhung áng văn "Chuyện
người con gái Nam Xương" giàu giá trị nhân đạo. Nhân vật Vũ
Nương là một điển hình cho bi kịch của người phụ nữ trong gia
đình và xã hội. Người đọc càng thêm xúc động khi nhớ lại vần thơ
của vua Lê Thánh Tông trong bài "Lại bài viếng Vũ Thị”:
... "Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt,
Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng..."

You might also like