You are on page 1of 7

Cảm nhận nhân vật Vũ Nương

* Mở bài
- Mở 1
“Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương”
(Lê Thánh Tông)
Đó là những lời thơ mà vị vua Lê Thánh Tông đã khóc thương cho Vũ
Nương - nhân vật chính trong truyện “Chuyện người con gái Nam
Xương” của Nguyễn Dữ. Đã bao năm trôi qua, nước mắt trong văn
chương, nước mắt ngoài cuộc đời không ngừng khóc thương người con
gái đó. Bằng ngòi bút đầy trân trọng, Nguyễn Dữ đã tạc vào văn học Việt
Nam hình ảnh một người phụ nữ thời phong kiến, một Vũ Nương đại
diện cho cái đẹp hoàn mỹ mà số phận lại vô cùng bất hạnh, éo le.
- Mở 2
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
(Nguyễn Du)
Sau Nguyễn Dữ, đã có bao nhà thơ, nhà văn khóc thương cho cuộc đời
của người phụ nữ. Đó có thể là tiếng khóc ai oán cho số phận người cung
nữ trong “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Kiều, đó là tiếng khóc
thảm thương cho số phận người chinh phụ trong “Chinh phụ ngâm” hay
tiếng khóc cho cuộc đời lận đận mà hết sức tài hoa của nàng Kiều,.....
Nguyễn Dữ đã khóc thương cho cuộc đời người phụ nữ qua truyện
“Chuyện người con gái Nam Xương”. Truyện kể về Vũ Nương, một
người phụ nữ xinh đẹp nhưng phải chịu số phận oan nghiệt bởi chế độ
nam quyền và những định kiến nghiệt ngã của xã hội xưa với người phụ
nữ.
- Mở 3
Hoài Thanh đã từng nói: “Nếu văn học Trung Quốc không có hai Bồ
Tùng Linh thì văn học Việt Nam cũng chỉ có một Nguyễn Dữ”. Nguyễn
Dữ là khuôn mặt tiêu biểu trong văn học trung đại Việt Nam trong thế kỉ
16. Ông sáng tác không nhiều nhưng nhắc đến ông, người ta không thể
không nhắc đến ‘Truyền kì mạn lục”, áng văn được mệnh danh là “thiên
cổ kì bút”. Với nhân vật chính là Vũ Nương, truyện đã thông qua những
bi kịch của nàng mà thể hiện niềm thương cảm đối với số phận oan nghiệt
của người phụ nữ.
- Mở 4
“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”
Trong kho tàn văn học của nước ta, những người phụ nữ bình dân thời
phong kiến thường được xây dựng với những phẩm chất và ngoại hình
đẹp đẽ. Câu ca dao trên đã thể hiện trọn điều đó. Những người phụ nữ
như những “tấm lụa đào” đẹp từ trong tâm hồn đến dáng vẻ. Nhưng với
sự bất công của xã hội phong kiến, “những tấm lụa đào” ấy lại chịu số
phận lênh đênh, vô định, thậm chí là bất hạnh. Nhân vật Vũ Nương trong
truyện ngắn “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Du cũng
là người con gái như vậy
- Mở 5
Nhân vật là linh hồn của truyện ngắn, một truyện ngắn hay là một truyện
ngắn xây dựng được những nhân vật điển hình. Qua “Chuyện người con
gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ đã xây dựng thành công nhân vật Vũ
Nương, một người phụ nữ xinh đẹp hội tụ biết bao phẩm chất tốt đẹp
nhưng số phận lại vô cùng bất hạnh. Đã mấy thập kỉ trôi qua kể từ khi tác
phẩm ra đời nhưng nhân vật Vũ Nương vẫn sống mãi trong tâm thức của
bao thế hệ độc giả. Đúng là hình tượng nhân vật được sinh ra từ tâm trí
nhà văn nhưng chỉ thực sự sống bằng tâm trí người đọc.
* Thân bài
KQC: “Chuyện người con gái Nam Xương” là truyện thứ 16 trong
‘truyền kì mạn lục” được viết bằng chữ Hán theo thể truyền kì có nguồn
gốc từ truyện cổ “Vợ chàng Trương”. Truyện đã ghi lại vẻ đẹp của Vũ
Nương, một người phụ nữ đẹp người, đẹp nết nhưng số phận lại oan trái,
bi kịch
Trước hết, Vũ Nương là hiện thân của cái đẹp. Nàng là một người phụ
nữ có dung nhan xinh đẹp. Miêu tả vẻ đẹp của Vũ Nương, Nguyễn Dữ rất
kiệm lời, chỉ viết “tư dung tốt đẹp”. Bốn chữ “tư dung tốt đẹp” giúp mỗi
người đọc cảm nhận được vẻ đẹp mặn mà, đằm thắm của Vũ Nương.
Nàng mang vẻ đẹp của một cô thôn nữ với những nét đáng yêu, duyên
dáng - một vẻ đẹp của bông hoa đồng nội. Vẻ đẹp của Vũ Nương khác
với vẻ đẹp kiêu kì của những cô gái khuê các như Thúy Kiều, Thúy Vân.
Phải chăng miêu tả vẻ đẹp của Vũ Nương, nhà văn muốn nhấn mạnh vẻ
đẹp phẩm hạnh, tâm hồn nàng - phần sâu thẳm nhất trong vẻ đẹp người
con gái đó.
Ở Vũ Nương không chỉ xinh đẹp mà còn hội tụ biết bao phẩm chất tốt
đẹp của người phụ nữ Việt Nam
( Hoặc: Mở đầu thiên truyện, Nguyễn Dữ đã dành những lời hay ý đẹp để
giới thiệu và bày tỏ sự trân trọng trước vẻ đẹp của người phụ nữ Việt
Nam. Ngòi bút của nhà văn đã tạo ấn tượng sâu đậm về một người phụ nữ
hoàn hảo, vừa đẹp người vừa đẹp nết. Miêu tả vẻ đẹp của Vũ Nương,
Nguyễn Dữ chỉ dùng bốn chữ “tư dung tốt đẹp” nhưng đủ sức để mỗi
người cảm nhận được vẻ đẹp dịu dàng, đằm thắm của người thôn nữ xưa.
Nó khác hẳn với các trang tuyệt thế giai nhân như Thúy Kiều, Thúy Vân.
Nguyễn Dữ không đi sâu miêu tả chân dung vẻ đẹp Vũ Nương nhưng qua
những lời giới thiệu giản dị mà khái quát, ta cũng cảm nhận được vẻ xinh
đẹp của nàng
Nhưng vẻ đẹp ngời sáng của Vũ Nương là ở tâm hồn, ở những phẩm chất
đáng quý ẩn giấu như những viên ngọc lấp lánh)
Nàng là người vợ dịu hiền, hết lòng yêu thương, thủy chung son sắc,
nghĩa tình với chồng, khao khát hạnh phúc gia đình bình dị. Khi mới lấy
chồng, biết Trương Sinh “có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá
mức”, nàng cũng “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng
phải đến thất hòa”. Bằng sự hiền dịu, nết na và thùy mị, khôn khéo của
mình, Vũ Nương luôn giữ gia đình đầm ấm, yên vui. Khi chồng đi lính,
nàng “rót chén rượu đầy tiễn chồng”, tiễn biệt chồng mà bày tỏ lòng yêu
thương qua những lời nói tình nghĩa, đằm thắm thiết tha. Người vợ hiền
từ ấy chỉ cầu mong “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo
được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo
được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Lời nói dịu dàng, chân thành bày tỏ
ước mong bình dị của Vũ Nương cho thấy niềm yêu thương vô bờ bến mà
nàng dành cho chồng. Với Vũ Nương, hạnh phúc gia đình, sự bình yên
của chồng quý giá gấp ngàn lần vinh hoa, công danh phù phiếm. Nàng lo
lắng trước những gian khổ, hiểm nguy mà chồng phải chịu đựng “Chỉ e
việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân
triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến
cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng”. Nàng cũng thể hiện sự mong
nhớ đối với chồng đi xa, khao khát được đoàn tụ. Trong lời nói của nàng
chứa chan niềm thương nỗi nhớ “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa sọa áo
rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình thương
người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay
bổng.” Nói rồi, nàng bỗng “ứa hai hàng lệ”. Cái nỗi nhớ kia, cùng tất cả
sự lo lắng giờ đây kết thành những giọt pha lê trong mắt cô gái ấy, trào ra
mà chả hay biết, để rồi khi chàng đi thật rồi cho nàng “ngước mắt nhìn
cảnh vật vẫn còn như cũ, mà lòng người đã nhuộm mối tình muôn dặm
quan san”. Nỗi nhớ của nàng nào khác gì nỗi nhớ chồng của người chinh
phụ xưa:
“Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”
Phải chăng nỗi nhớ chồng đi chinh chiến đã được các nhà thơ, nhà văn
diễn đạt bằng những trang viết xao xuyến lòng người, nỗi nhớ như có
không gian, có thời gian, khắc khoải da diết. Đặc biệt, Nguyễn Dữ còn vẽ
lên một Vũ Nương vói lòng thủy chung son sắt với chồng. Chồng đi đánh
giặc ngoài biên ải, nàng một lòng sắt son “cách biệt ba năm giữ gìn một
tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề
bén gót”, mong đợi chồng trở về trong nỗi cô đơn, mòn mỏi “mỗi khi
thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời
không thể nào ngăn được”. Những năm tháng đằng đẵng xa chồng, nàng
đã tận tụy chăm sóc mẹ già, con nhỏ để chồng yên tâm ngoài chiến trận,
mòn mỏi chờ đợi, trông ngóng chồng về. Chờ chồng, nuôi con, nàng trỏ
bóng mình trên vách mà bảo là cha để dỗ con, cũng chính là để vơi đi nỗi
nhớ thương trĩu nặng trong cõi lòng. Ngay cả khi chồng đi lính trở về, bị
nghi oan, Vũ Nương vẫn thể hiện sự thủy chung và lòng khao khát hạnh
phúc bình dị. Nàng cố gắng phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình.
Nàng thể hiện sự đoan trang, đúng mực trong lời lẽ giải thích từ tốn
“Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa
tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn
một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa
hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin bày tỏ
để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Và
rồi khi chàng vẫn trong lòng đầy hoài nghi, nàng xúc động mà đáp “Thiếp
sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã
bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió;
khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm
buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa” Nàng đã nói đến
thân phận mình, tìm đến tình nghĩa vợ chồng, tấm lòng thủy chung, tìm
cách hàn gắn lại gia đình có nguy cơ tan vỡ. Lời nói từ tốn, dịu hiền, nhẫn
nhịn, nhún nhường, thể hiện sự trân trọng, khao khát bảo vệ hạnh phúc
của tổ ấm nhỏ thật lớn lai biết mấy. Bị oan khuất, muốn chứng minh sự
trong sáng của mình, Vũ Nương đã khấn nguyện với thần linh những lời
nói vô cùng khẩn thiết “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chòng con
rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin
ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào
nước xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối
con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin
chịu khắp mọi người phỉ nhổ” rồi giao mình xuống dòng sông tự vẫn. Lời
khấn nguyện ấy của Vũ Nương càng làm vẻ đẹp của nàng ngời sáng.
Thay vì hành động để Vũ Nương chạy thẳng ra bến sông, tự vẫn như
truyện “Vợ chàng Chương”, Nguyễn Dữ đã để Vũ Nương tự giãi bày tấm
lòng thanh sạch của mình. Lời than xin thần sông chứng giám nỗi oan và
“tiết giá sáng trong” cùng với hoạt động tự vẫn của nàng cho thấy thái độ
tiên quyết bảo toàn danh dự của một người coi trọng nhân phẩm. Ỏ Vũ
Nương, ta thấy ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ hết lòng yêu
chồng, khao khát hạnh phúc gia đình và ra sức vun đắp, bảo vệ hạnh phúc
đó.
Vũ Nương không chỉ là người phụ nữ yêu chồng mà nàng còn là người
con dâu hiếu thảo, là người phụ nữ đảm đang. Khi chồng xa nhà, nàng
thay chồng phụng dưỡng mẹ già và lo liệu việc gia đình chu đáo. Ở nàng,
sự đảm đang, chu đáo, ân tình với mẹ chồng khiến mỗi chúng ta đều xú
động, trân trọng tấm lòng của người phụ nữ ấy. Những năm tháng chồng
đi lính, Vũ Nương một mình đảm đang quán xuyến công việc gia đình.
Lấy chồng chưa được bao lâu, nàng vò võ một mình sinh con, nuôi con
lớn mà thiếu đi sự sẻ chia, vỗ về của chồng. Đôi vai nhỏ bé của Vũ
Nương gánh trọn trách nhiệm làm cha, làm mẹ, làm con. Phận làm dâu,
Vũ Nương rất hiếu kính với mẹ chồng. Nàng tận tịu chăm sóc mẹ chồng
khi mẹ chồng đau ốm, nàng “hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy
lời ngọt ngào khéo léo khuyên lơn”. Sự hiếu thảo của nàng khiến người
mẹ chồng trân quý. Bà dành những lời nói tốt đẹp nhất cho Vũ Nương ở
giây phút trăn trối “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống
dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng
như con đã chẳng phụ mẹ”. Những lời nói từ tận trái tim người mẹ giá đã
tô đậm hết mực tấm lòng hiếu thảo của Vũ Nương, xóa đi định kiến ngàn
đời về mối quan hệ giữa mẹ chồng với nàng dâu
“Thật thà cũng thể lái trâu
Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng”
Khi mẹ chồng mất, nàng “hết lòng thương xót, phàm việc ma chay tế lễ,
lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”. Tất cả những việc làm của Vũ
Nương thể hiện sự hiếu thảo, tấm lòng thơm thảo, còn những lời ca ngợi
của mẹ chồng thực chất là sự ghi nhận tấm lòng thơm thảo của nàng.
Nàng còn là một người mẹ yêu con. Vũ Nương nuôi dậy con thơ ân cần,
chu đáo. Nàng chỉ bóng mình trên vách mà bảo là cha Đản xuất phát từ
tấm lòng của người mẹ để cho con trai bớt đi cảm giác thiếu vắng tình
cha. Việc làm đó cũng gián tiếp thể hiện sự nhớ nhung, thủy chung củ Vũ
Nương với chồng.
Vũ Nương hoàn toàn là người con của gia đình, với chồng, với mẹ
chồng, với con. Tuy nhiên, ở nàng còn ngời sáng vẻ đẹp của một con
người tự trọng, vị tha, tình nghĩa. Nàng luôn có ý thức bảo vệ nhân phẩm,
danh dự của bản thân, nàng luôn giữ đức hạnh của người phụ nữ ở mọi
cương vị: làm con, làm vợ, làm mẹ. Khi bị chồng nghi oan thiếu chung
thủy, nàng hết sức thanh minh, giãi bày và tột cùng đau đớn, thậm chí là
chấp nhận cái chết để tự minh oan cho mình. Dù cho đã ở thế giới khác,
nàng vẫn mong mỏi được giải oan, được trả lại danh dự, xin được lập đàn
giải oan. Không những thế, Vũ Nương còn là người bao dung, vị tha và
trọng tình nghĩa. Dù bị chồng nghi oan, mang nỗi hoài nghi lớn, nàng
cũng không buông một lời oán trách. Một năm xa cách ở thủy cung, dù
cuộc sống có sung sướng hơn nhưng nàng không bao giờ quên gia đình,
đau đáu nhớ mong ngày được gặp lại. Khi nghe kể chuyện quê nhà, nàng
đã ứa nước mắt khóc thương cùng lời nhắn gửi với Phan Lang, đưa cho
cậu chiếc hoa vàng chất chứa nỗi niềm thương nhớ sâu nặng tình nghĩa
của nàng. Nàng nghĩ đến câu: “Vả chăng, ngựa Hồ gầm gió bắc, chim
Việt đậu cành Nam. Cảm vì nỗi ấy, tôi tất có ngày tìm về”. Vũ Nương
hiện về trong dòng nước, trong giây lát thương nhớ chồng con. Có nghĩa
là trong trái tim người phụ nữ ấy vẫn luôn mang nặng tình cảm gia đình.
Tấm lòng thương yêu thủy chung son sắt của nàng khiến cho người đời
ngưỡng mộ, ngợi ca.
Có người từng nói: “Nhân vật là phương tiện để phản ánh đời sống, khái
quát hiện thực”. Quả đúng là như vậy! Nhân vật Vũ Nương chính là đại
diện của tầng lớp phụ nữ Việt Nam xưa, là hiện thân của số phận bất
hạnh. Khi miêu tả vẻ đẹp của Vũ Nương, ngòi bút Nguyễn Dữ đã dạt dào
cảm xúc, bao yêu thương chan chứa thì khi miêu tả số phận bất hạnh của
Vũ Nương, dường như nước mắt của nhà văn cũng rơi trên trang giấy.
Trong văn học trung đại Việt Nam, các tác giả thường hướng ngòi bút của
mình đến thân phận người phụ nữ, những con người tài hoa bạc mệnh mà
bị cuộc sống dập vùi trong những sáng tác của Nguyễn Du hay trong thơ
của Hồ Xuân Hương. Trước hết, Vũ Nương là nạn nhân của chế độ nam
quyền. Nàng có một cuộc hôn nhân không bình đẳng, một cuộc sống vất
vả. Nàng bước vào hôn nhân mà luôn mang theo quan niệm “Thiếp vốn
con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”. Những ngày tháng ngắn ngủi bên
chồng, nàng luôn phải sống trong sự xét nét, “phòng ngừa quá sức” của
chồng. Nàng sống với chồng chưa được bao lâu thì chồng ra chiến
trường, Vũ Nương sống trong cảnh xa chồng, một mình đản đương, gánh
vác mọi việc trong gia đình. Ấy vậy mà nàng lại bị đối xử tệ bạc. Vũ
Nương khao khát hạnh phúc gia đình, cho nên khi bị chồng nghi oan,
nàng đã hết sức phân trần, để chồng hiểu được tấm lòng của mình. Nhưng
Trương Sinh không những không hiểu cho vợ mà còn đẩy nàng đến bờ
vực của sự oan khuất, để nàng chịu cái chết oan nghiệt. Nàng cũng là nạn
nhân của chiến tranh phi nghĩa. Chiến tranh được nhìn nhận trong tác
phẩm như một vòng nguy hiểm mà ở đó, con người phải hết sức giữ
mình. Người mẹ dặn con “phải biết giữ mình làm trọng”, “quan cao tước
lớn nhường để người ta”, vợ dặn chồng “chỉ mong ngày về mang theo
được hai chữ bình yên”. Nó khác xa với hào khí “Đông A”. Chiến tranh
đã khiến mẹ xa con, vợ xa chồng, con thơ không biết mặt cha. Rõ ràng
chiến tranh phong kiến phi nghĩa đã tạo nên cảnh chia ly, như giọt nước
tràn ly, tạo nên sự tử biệt. Số phận bi kịch của Vũ Nương chính là lười tố
cáo chế độ phong kiến thuở suy tàn bất công, tàn nhẫn với người phụ nữ.
*Tổng kết
- Nội dung:
+ Vũ Nương là người mang đầy đủ vẻ đẹp người phụ nữ Việt
Công - Dung - Ngôn - Hạnh
+ Qua nhân vật Vũ Nương, truyện thể hiện nỗi thương sót bi kịch của
người phụ nữ, đề cao phẩm chất tốt đẹp, những khát vọng chân chính của
họ, đồng thời phản ánh xã hội phong kiến bất công, tàn nhẫn với người
phụ nữ
- Nghệ thuật: Tác giả đã khắc họa vẻ đẹp của Vũ Nương bằng nghệ thuật
kể chuyện đặc sắc, nghệ thuật dẫn dắt nhân vật tự nhiên kết hợp với một
số chi tiết giàu ý nghĩa, không chỉ làm cho truyện thêm đặc sắc mà còn
thể hiện vẻ đẹp của nhân vật. Tính cách của Vũ Nương được khắc họa
qua ngôn ngữ, hành động và nội tâm lồng ghép cùng những tình huống
truyện kịch tính. Tác giả đã khai thác thành công vốn văn học dân gian,
kết hợp yếu tố hình thức, yếu tố hoang đường, kỳ ảo làm nên đặc trưng
của thể loại truyền kì, hoàn thiện vẻ đẹp nhân vật. Ngòi bút của tác giả đã
tạo ấn tượng cho người đọc về Vũ Nương - Người con gái có số phận bi
kịch nhưng hiếu thảo, thủy chung, đảm đang, bao dung và vị tha vô cùng
mà trong thơ ca ta cũng từng bắt gặp ở trang thơ của Hồ Xuân Hương:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
(Bánh trôi nước)
*Kết bài
“Văn chương từ cổ chí kim đều viết bằng huyết lệ”, nhận xét ấy quả là
đúng khi đọc “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Qua
tác phẩm, Nguyễn Dữ không chỉ ngợi ca vẻ đẹp của Vũ Nương mà còn
lên án chế độ phong kiến bạo tàn đã cướp đi quyền hạnh phúc của con
người. Nhà văn thực sự phải là người cho máu cho tác phẩm. Đã bao
nhiêu thế kỉ trôi qua, nhân vật Vũ Nương nói riêng, tác phẩm “Chuyện
người con gái Nam Xương” nói chung vẫn bất tử trong trái tim bạn đọc.
Càng yêu, càng trân trọng nhân vật Vũ Nương, mỗi chúng ta càng thấy có
trách nhiệm với cuộc đời mà chúng ta đang sống. Những người phụ nữ
như Vũ Nương đã dần dần khẳng định vị thế của mình, đúng như lời ngợi
ca:
“Chị em tôi tỏa nắng vàng lịch sử
Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ”

You might also like