You are on page 1of 6

1.

Bốn câu thơ đầu : giới thiệu khái quát về hai chị em Thúy Kiều
  Bốn câu thơ mở đầu đoạn trích Nguyễn Du đã giới thiệu chung về vị trí , thứ bậc và vẻ
đẹp bao quát của hai chị em Thúy Kiều :

“Đầu lòng hai ả tố nga, 


Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân. 
Mai cốt cách tuyết tinh thần, 
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.”

  Cách giới thiệu của Nguyễn Du thật giản dị ngắn gọn và đầy đủ hai cô con gái đầu lòng
của ông bà Vương viên ngoại đi vào trang viết của Nguyễn Du điều xinh đẹp tươi tắn ,
hệt như những nàng “tố nga” ,thanh cao, trong trắng từ hình thể đến tâm hồn .Thứ bậc
trong gia đình cũng được Nguyễn Du giới thiệu qua lời kể giản dị :

“Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân”

  Với bút pháp ước lại kết hợp nghệ thuật ẩn dụ nằm trong phép tiểu đối tác giả đã gây
được về đẹp duyên dáng, thanh cao như mai, tâm hồn trong trắng như tuyết của người
thiếu nữ ở hai chị em Thúy Kiều .Đó là vẻ đẹp hoàn hảo cả về hình thành tâm hồn . Cả
hai nàng đều đẹp tuyệt mĩ  “mười phân vẹn mười” nhưng mỗi người lại có một vẻ đẹp
riêng khác nhau điều đó cho thấy nhà thơ đã lý tưởng hóa cao vẻ đẹp của nhân vật , ởi lẽ
ở đời mấy ai được mười phân vẹn mười hai câu thơ :

“ Mai cốt cách tuyết tinh thần


Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười” 

không chỉ nhằm thông báo về đẹp hoàn thiện của Thúy Vân ,Thúy Kiều mà còn chất chứa
nỗi niềm ngưỡng mộ trước vẻ đẹp rất riêng của mỗi người

2. Bốn câu thơ tiếp theo : Tả vẻ đẹp của Thúy Vân


  Sau bốn câu thơ đầu khái quát vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều ,ngòi bút của Nguyễn
Du có chiều hướng cụ thể hơn về đặc tả vẻ đẹp riêng của mỗi người để lời khen chia đều
cho cả hai . Chính vì thế mà liền sau đó nhà thơ đã tập trung khắc họa chân dung từng
người khắc họa chân dung Thúy Vân tác giả tập trung qua bốn câu thơ :

 “Vân xem trang trọng khác vời 


Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang 
Hoa cười ngọc thốt đoan trang 
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”

  Chỉ với bốn dòng thơ Nguyễn Du đã thể hiện thật tài hoa về được tươi tắn trẻ trung của
một cô gái đang độ trăng tròn. Câu mở đầu “Vân xem trang trọng khác vời" vừa giới
thiệu Thủy Vân, vừa khái quát vẻ đẹp của nhân vật. Hai chữ "trang trọng" gợi lên vẻ đẹp
cao sang, quý phái của Thúy Vân. Vẻ đẹp của Thúy Vân được so sánh với những hình
ảnh thiên nhiên, những thứ cao đẹp nhất trên đời như: trăng, hoa, mây, tuyết, ngọc.
  Với bút pháp ước lệ tượng trưng, biện pháp liệt kê, chân dung Thúy Vân được miêu tả
khá toàn vẹn từ khuôn mặt, nét ngài, làn da, mái tóc đến nụ cười, giọng nói, phong thái
ứng xử. Mỗi chi tiết được miêu tả được cụ thể hơn nhờ các định ngữ, bổ ngữ, các hình
ảnh so sánh, ẩn dụ.
  Tác giả đã vẽ lên bức chân dung Thủy vân bằng nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, bằng ngôn
ngữ thơ chọn lọc, trau chuốt: Khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu, tươi sáng như mặt trăng đêm
rằm; đôi lông mày cân đối, sắc nét như con ngài. Hiện diện trên gương mặt tươi sáng ấy
là miệng cười tươi thắm như hoa: giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngà ngọc. Từ
“thốt” có thể hiểu thỉnh thoảng mới nói, biết thì mới nói, không cười cười nói nói giúp ta
nhận ra vẻ dịu dàng, hiền thục của Thúy Vân. Không những thế, Thúy Vân còn sở hữu
một mái tóc đen óng ả hơn mây và làn da mịn màng, trắng hơn cả tuyết. Quả là một vẻ
đẹp hoàn hảo, cao sang, quý phái. Sắc đẹp của Thủy vẫn sánh ngang với nét kiều diễm,
sáng trong của trăng, hoa, mây, tuyết, ngọc … những báu vật tinh khôi, trong trẻo của đất
trời.

  Nhờ nét bút cụ thể mà chân dung Thúy Vân hiện lên với một vẻ đẹp riêng khó lẫn. Các
tính từ “đầy đặn", "nở nang", "đoan trang" kết hợp với các hình ảnh so sánh, ẩn dụ đã tô
đậm vẻ đẹp phúc hậu, quý phái của Thủy Vân. Các từ ngữ “đầy đặn", "nở nang” không
chỉ là những từ ngữ nôm na mà còn là những từ ngữ có nội hàm đa nghĩa, những từ ngữ
này không chỉ miêu tả khuôn mặt phương phi tròn trịa, nét ngài minh bạch rõ ràng của
Thuý Vân mà còn chỉ sự đầy đặn, mỹ mãn của số phận, của cuộc đời nàng.

  Chân dung Thuý Vân hé mở, dự báo về tinh cách số phận của nàng. Vân đẹp hơn những
gì nhiên nhưng tạo sự hoà hợp êm đềm với xung quanh “mây thua”, “tuyết nhường” mĩ
lệ của thiên trước vẻ đẹp của nàng. Từ những thông điệp nghệ thuật này, Thuỷ Vân hẳn
có một tính cách ung dung, điềm đạm, một cuộc đời bình yên không sóng gió, hạnh phúc
trong tương lai. Đúng như câu thơ trong đoạn kết của Truyện Kiều: 
“Phong lưu phú qui ai bì”. 

3. Mười hai câu tiếp theo cực tả vẻ đẹp và tài hoa của Kiều: 
  Nếu 8 câu thơ đầu tác giả giới thiệu vẻ đẹp chung của hai chị em Thúy Kiều và vẻ đẹp
riêng của Thủy vân thì ở 12 câu tiếp theo Nguyễn Du đã khắc họa thành công bức chân
dung tài sắc vẹn toàn của Kiều:

“Kiều càng sắc sảo, mặn mà


So bề tài sắc lại là phần hơn”

  Tác giả miêu tả Thúy Kiều trong sự so sánh với Thúy Vân. Thúy Vân đã đẹp đến trang
trọng khác vời, đẹp hơn những gì mỹ lệ của thiên nhiên nhưng Kiều còn đẹp hơn hẳn Vân
về cả tài lẫn sắc. Câu thơ đầu cũng khái quát đặc điểm của nhân vật "Kiều càng sắc sảo
mặn mà”. Đó là vẻ đẹp sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn. Thì ra, Thúy Vân đã sắc
nước hương trời, là tuyệt thế giai nhân nhưng Kiểu còn rực rỡ hơn, nàng mới là đỉnh cao
của tuyệt sắc giai nhân. Bằng thủ pháp đòn bẩy (nghệ thuật vẽ mây tả trăng), Nguyễn Du
đã mượn vẻ đẹp của Thúy Vân để làm nền, để làm nổi bật vẻ đẹp, tài năng của Thúy
Kiều:

“Làn thu thủy, nét xuân sơn, 


Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh” 

  Miêu tả sắc đẹp của Thúy Kiều, tác giả Nguyễn Du cũng dùng những hình tượng ước lệ
“thu thủy” (làn nước mùa thu), “xuân sơn” (núi mùa xuân), “hoa”, “liễu” để gợi tả sắc
đẹp của Kiều nhưng không thiên về cụ thể như khi tả Vân mà chỉ đặc tả vẻ đẹp đôi mắt
theo lối điểm nhãn - vẽ hổn cho chân dung. “Làn thu thủy, nét xuân sơn”, đây là những
hình ảnh mang tính ước lệ đồng thời cũng là hình ảnh ẩn dụ gợi lên một đôi mắt đẹp,
trong sáng, long lanh, linh hoạt như làn nước mùa thu; đôi lông mày thanh tú nổi bật trên
gương mặt trẻ trung như nét núi mùa xuân. Đôi mắt là “cửa sổ tâm hồn”, bởi đôi mắt là
thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ. Đôi mắt của Kiểu thể hiện một đời sống nội
tâm phong phú, ẩn chứa bao tình cảm lai láng, thiết tha. Vẻ đẹp của Kiều khiến hoa phải
ghen, liễu phải hờn, vẻ đẹp ấy có thể khiến thành nghiêng nước đổ:

“Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh


 Một hai nghiêng nước nghiêng thành 
                                         Sắc đành đòi một, tài đành họa hai"

  Nguyễn Du đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa (ghen, hờn) và thành ngữ
“nghiêng nước, nghiêng thành” để cực tả vẻ đẹp của một nàng Kiều trẻ trung với tuổi
xuân tràn đầy như hoa đang vừa độ nở, liễu đến ki xanh tươi. Thiên nhiên vốn là vẻ đẹp
vĩnh cửu vậy mà cũng phải “ghen”, “hờn” trước một nàng Kiều “sắc sảo mặn mà”. Hoa
ghen vì không tươi thắm bằng dung nhan của Kiều, liễu hờn vì kém phần tươi non so với
sức sống mơn mởn của Kiều. Sắc đẹp của Thúy Kiều có thể làm cho người ta mê mẩn
đến nỗi mất thành, mất nước. Cũng chính vì thế mà ta thấp thỏm hơn khi nghĩ tới tương
lai của Kiều. Liệu với vẻ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” khiến hoa phải ghen, liễu
phải hờn ấy, Kiều sẽ phải sống thế nào trong bể đời “hồng nhan đa truân” tính cách, mà
còn thông qua đó dự đoán số phận, cuộc đời nhân vật. Không phải ngẫu nhiên mà . Bút
pháp miêu tả của Nguyễn Du tài hoa ở chỗ không chỉ miêu tả ngoại hình để thể hiện
Nguyễn Du dùng cặp từ “thua - nhường” để miêu tả Thúy Vân và cặp từ “ghen - hờn”
để miêu tả Thúy Kiều. Tả Vân, câu thơ Kiểu thanh thản bao nhiêu thì khi tả Kiều, câu
chữ Tố Như lại trăn trở bẩy nhiều. Như vậy đó, chỉ mới mươi câu Kiều mà đã giúp ta
thấu hiểu tấm lòng ưu ái sâu sắc, bao la của nhà thơ nhân đạo Nguyễn Du: ông yêu
thương, nâng niu tất cả. Có điều, với Thủy Kiều là cả một sự yêu thương, nâng niu đầy
băn khoăn, lo lắng so với Thúy Vân. Thế nên, trong Truyện Kiều, có lúc Nguyễn Du đã
để sư bà Tam Hợp đạo cô đoán định tương lai bất ổn của Kiểu qua lời thơ:

“Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan


Vô duyên là phận hồng nhan đã đành
Lại mang lấy một chữ tình,
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong
 Vậy nên những chốn thong dong,
Ở không yên chỗ, ngồi không vững vàng” 

  Cái đẹp của Kiều có chiều sâu, có sức quyến rũ lạ lùng, như tiềm ẩn những phẩm chất
bên trong cao quý là tài và tình rất đặc biệt của nàng. Khi tả Thuý Vân, tác giả chủ yếu tả
nhan sắc mà không nói đến tài và tình của nàng. Còn khi tả Kiều, nhà thơ tả sắc một
phần, còn dành đến 2 phần để tả tải của nàng. Kiều rất mực thông minh và đa tải:

“Thông minh vốn sẵn tính trời,


Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm 
Cung thương lầu bậc ngũ âm 
Một thiên Bạc mệnh nay càng não nhân”

  Tài năng của Kiều đạt tới mức lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến, hội đủ
cầm(đàn), kỳ (cờ), thi(thơ), họa(vẽ). Tài nào Kiều cũng đều tỏ ra thành thạo. Nguyễn Du
một lần nữa lại rất công phu khi dành cho Kiều các từ ngữ chỉ giá trị tuyệt đối “vốn sẵn
tính trời”, “đủ mùi” “làu bậc”, “ăn đứt" gợi sự hoàn mỹ của nàng.

  Đặc biệt, tài đánh đàn của nàng là sở trường, năng khiếu, là “nghề riêng”, vượt lên trên
mọi người (ăn đứt): 

"Cung thương làu bậc ngũ âm 


Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương"

. Tài đàn của nàng khiến cho chàng Kim “ngơ ngẩn”, quan tổng đốc trọng thần Hồ Tôn
Hiến phải “ngây vì tình”. Không những giỏi ca hát, chơi đàn, Kiều còn giỏi sáng tác cả
nhạc. Cung đàn “Bạc Mệnh” mà Kiều sáng tác chính là tiếng lòng của một trái tim đa
sầu, đa cảm, là tiếng nói nội tâm sâu sắc làm cho người nghe buồn thương rơi lệ. Tài
năng của Kiều nghiêng về văn học nghệ thuật, đó là phát lộ của một trái tim nồng nhiệt,
một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm. Nguyễn Du cực tả cái tài của Kiều cũng là để ca ngợi cải
tâm đặc biệt của nàng. Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp của sắc - tài - tỉnh, tất cả đều đạt
đến mức lí tưởng:
 
“Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”.

  Chân dung của Kiều cũng là chân dung mang tính cách, số phận. Vẻ đẹp của Kiều khiến
tạo hoá ghen ghét, các vẻ đẹp khác sinh lòng đố kỵ. Với tài hoa, trí tuệ thiên bẩm đến
“làu bậc đủ mùi”, trái tim đa sầu đa cảm, Kiểu khó tránh khỏi định mệnh nghiệt ngã, số
phận éo le, đau khổ như Nguyễn Du đã viết trong Truyện Kiều:
 “Lạ gì bi sắc tư phong / Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”; “Chữ tài , chữ mệnh
khéo là ghét nhau”. Đặc biệt cung đàn “Bạc mệnh” đầy sầu não khổ đau do Kiều sáng tác
như dự báo cuộc đời hồng nhan bạc mệnh khó tránh khỏi của Kiều. Đúng như ông bà ta
xưa đã từng nói: 
"Một vừa hai phải ai ơi 
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”
. Vậy mà, Thúy Kiều của Nguyễn Du tột đỉnh hơn người. Câu chữ, lời thơ chất chứa sự
ngợi ca, ngưỡng mộ, có cả nỗi băn khoăn, lo lắng, Nguyễn Du biết thế nên có lúc ông đã
phải thốt lên rằng:
 “Có tài mà cậy chi tài 
Chữ tài liền với chữ tại một vẫn"
. Nhưng làm sao khác được, thiên “Bạc mệnh” ai oán ấy đã văn vào Kiểu mất rồi. Trái
tim yêu thương mênh mông của Nguyễn Du cũng chẳng thể nào bảo vệ được Kiểu trước
vòng xoáy nghiệt ngã của định mệnh.

  Có thể nói tác giả đã rất tinh tế khi miêu tả nhân vật Thúy Kiều. Tác giả Nguyễn Du đã
miêu tả chân dung Thúy Vân trước để làm nổi bật Thúy Kiều. Đó chính là thủ pháp đòn
bẩy. Nhà thơ hết lời ca ngợi cả hai nhưng lại đậm nhạt khác nhau ở mỗi người: dành 4
câu để tả Vân, 12 câu để tả Kiều tả Vân chỉ tả nhan sắc còn Kiểu tả cả sắc, tài, tỉnh. Dùng
bút pháp nghệ thuật ước lệ để miêu tả nhân vật nhưng ngòi bút của tác giả vẫn rất sinh
động, chân thực mà mang tính cá thể hóa sâu sắc. Miêu tả ngoại hình nhưng tưởng cũng
hé mở tính cách, số phận của nhân vật. 

4. Bốn câu thơ cuối ca ngợi cuộc sống và đức hạnh của hai chị em Kiều.
  Đoạn trích khép lại trong bốn câu miêu tả cuộc sống phong lưu, khuôn phép trong đức
hạnh, mẫu mực của hai chị em Kiều:

“Phong lưu rất mực hồng quần,


Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
 Êm đềm trướng rủ màn che 
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”.

  Nghệ thuật đảo ngữ nhấn mạnh cuộc sống phong lưu, êm đềm của chị em Thúy Kiều.
Họ đều đã “Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê”. Một loạt từ Hán – Việt: “phong lưu”
“hồng quần”, “cập kê”, “trướng rủ màn che” đã nhấn mạnh hai cô gái họ Vương đang
vào giai đoạn đẹp nhất, thơ mộng nhất của đời người, đó là tuổi dậy thì vô tư, trong trắng.
Tuy cả hai đều đã đến tuổi búi tóc, cải trâm nhưng hai thiếu nữ vẫn “Tường đông ong
bướm đi về mặc ai”. Họ đang sống trong cảnh êm đềm, phong lưu của một gia đình gia
phong nề nếp, gia phong . “Êm đềm”, “mặc ai” là phong thái cao giả của người đẹp chứ
nào phải sự vô cảm trước rạo rực của tuổi trẻ. Hai câu kết trong sáng, đằm thắm như chở
che, bao bọc cho hai bông hoa vẫn còn phong nhụy trong cảnh êm đêm chưa một lần tỏa
hương vì ai. Đoạn cuối như lời của Vĩ Thanh, ND để cho lời thơ buông trôi, nhẫn mạnh
phẩm chất gia giáo của chị em Kiều. 
* Cảm hứng nhân văn của ND thể hiện qua đoạn trích:
  Một trong những biểu hiện của cảm hứng nhân đạo ở Truyện Kiều là sự đề cao những
giá trị của con người. Đó là nhân phẩm, tài năng, khát vọng, ý thức về thân phận nhân
vật. Gợi tả tài sắc của chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã trân trọng, đề cao vẻ đẹp của con
người, một vẻ đẹp toàn vẹn mười phân vẹn mười”. Ở đây nghệ thuật lí tưởng hóa nhân
vật hoàn toàn phù hợp với cảm hứng ngợi ca, ngưỡng mộ con người. Dự cảm đẩy xót
thương về kiếp hồng nhan bạc mệnh, tài hoa bạc mệnh cũng là biểu hiện của tấm lòng
cảm thương sâu sắc với con người, là biểu hiện cảm hứng nhân văn của Nguyễn Du.
  Có thể nói rằng, lần đầu tiên trong lịch sử văn học nước nhà, hình ảnh người phụ nữ
hoàn mỹ về hình thức lẫn tâm hồn được thể hiện dưới ngòi bút của thiên tài Nguyễn Du
một cách say sưa, nồng nhiệt, tập trung và trân trọng nhất. Càng nâng niu, quý trọng
Truyện Kiều, chúng ta càng cảm phục tài năng và đức độ của đại thi hào dân tộc Nguyễn
Du. Đó là một cái nhìn của con người có tấm lòng nhân đạo mênh mông.
* Đánh giá: 
  Chỉ với hai mươi bốn câu thơ lục bát, chúng ta cũng đủ thấy tài năng. sáng tạo bậc thầy
của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Ngòi bút của ông linh hoạt vô cùng, khi vẽ chi tiết,
khi chỉ lướt qua, khi tả, khi gợi, kết hợp nhuần nhuyễn tỉnh ước lệ của sách vở với cách
nói dân gian; vừa làm nghệ thuật, vừa gửi gắm tâm tư, tình cảm; sử dụng thủ pháp đòn
bẩy làm nổi bật hình ảnh Thúy Kiều

You might also like