You are on page 1of 9

1. Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa của nền văn học Việt Nam.

Trước Cách mạng, Nguyễn Tuân nổi tiếng với các tác phẩm: Vang
bóng một thời, Chiếc lư đồng mắt cua, Chùa Đàn… Sau cách mạng nhà văn để lại dấu ấn sâu sắc qua một số tùy bút: Hà Nội ta
đánh Mỹ giỏi, Sông Đà… “Chữ người tử tù” là tác phẩm đặc sắc nhất của Nguyễn Tuân trích trong tập “Vang bóng một thời” -
sáng tác trước cách mạng. Nổi bật trong tác phẩm “Chữ người tử tù” đó chính là hình tượng người anh hùng Huấn Cao mang vẻ
đẹp tài hoa và khí phách anh hùng lẫm liệt.
Là nhà văn “duy mỹ”, suốt đời đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân đã thổi hồn vào những trang viết, mang đến cho người đọc bao hình
tượng đẹp. Tập truyện “Vang bóng một thời” có lẽ là nơi hội tụ những nét đẹp cao quý: thú uống trà đạo, thú chơi thư pháp, thả
thơ, đánh thơ… Gắn liền với những thú chơi tao nhã ấy là những con người tài hoa bất đắc chí. “Chữ người tử tù” là tác phẩm đặc
sắc của Nguyễn Tuân trích trong tập truyện ấy và Huấn Cao là nhân vật được ông miêu tả đặc sắc nhất. Đó là anh hùng thời loạn
hội tụ những phẩm chất tài năng: khí phách hiên ngang - thiên lương trong sáng - tài hoa uyên bác. Huấn Cao được xây dựng từ
một nguyên mẫu lịch sử có thật của thế kỉ XIX, là hiện thân của võ tướng – người anh hùng của cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương, một
nhà thơ, nhà thư pháp Cao Bá Quát lừng lẫy một thời. Qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, nguyên mẫu lịch sử này đã tự nhiên
đi vào trang văn và hiện lên lung linh sáng tỏa trên từng con chữ.
Sinh thời Cao Bá Quát có hai câu thơ sáng ngời nghĩa khí:
Thập cổ luân giao cầu cổ kiếm
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa
(Mười năm lặn lội tìm gươm báu
Chỉ biết cúi đầu trước cành hoa mai)
2. Trước uy quyền của nhà lao, con người ấy càng sáng tỏa. Trò tiểu nhân thị oai, dọa dẫm của bọn tiểu lại giữ tù càng làm cho ông
thêm phần ngang ngạo. Ông vẫn giữ thái độ bình thản, xem thường, dỗ gông, phủi rệp, hóm hỉnh đùa vui. Huấn Cao “cúi đầu thúc
mạnh đầu thang gông xuống đất đánh thuỳnh một cái” làm vỡ tan đi chốn trang nghiêm của chốn ngục tù. Đó là thái độ ngang
tàng, bất chấp luật pháp của một xã hội dơ bẩn. Người xưa thường nói “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” (Một ngày ở trong tù
bằng nghìn thu ở ngoài). Thay vì buồn rầu, chán nản “gậm một mối căm hờn trong cũi sắt” thì ông lại thản nhiên nhận rượu thịt và
ăn uống no say coi như một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình. Chứng tỏ ông nào xem nhà tù là chốn ngục tăm tối mà chỉ xem
nhà tù như một chốn dừng chân để nghỉ ngơi “Chạy mỏi chân thì hẵng ở tù”.
3. Quả thật “Văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức” (Vũ Ngọc Phan). Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Huấn Cao rất đặc sắc. Hầu như không có chi tiết nghệ thuật nào thừa. Tiếng đồn đại, lai lịch, cử chỉ, ngôn ngữ, hành động… của
nhân vật được tác giả lựa chọn rất “đắt” làm hiện lên một Huấn Cao hiên ngang bất khuất, tài tử tài hoa, quý trọng bằng hữu và
trân trọng những tấm lòng biệt nhỡn liên tài trong thiên hạ. Từ một nhân vật lịch sử trong thế kỉ XIX gắn liền với những giai thoại,
những câu đối: “Một chiếc cùm lim chân có đế – Ba vòng xích sắt bước thì vương”…, Nguyễn Tuân đã sáng tạo nên một hình
tượng văn học Huấn Cao cho chữ trước lúc ra pháp trường. Văn học lãng mạn Việt Nam thời tiền chiến chỉ có một hình tượng
Huấn Cao đẹp bi tráng như vậy.
Xây dựng nhân vật Huấn Cao – kẻ sĩ tài tử, anh hùng – nhà văn Nguyễn Tuân vừa biểu lộ một tấm lòng kính phục, ưu ái đặc biệt,
vừa thể hiện một bút pháp tài hoa, độc đáo tuyệt vời. Ngoài việc ca ngợi một con người tài tử, bất khuất, anh hùng, truyện “Chữ
người tử tù” còn hàm chứa một ý tưởng sâu sắc: thương tiếc những tài năng bị hãm hại, khẳng định cái đẹp có một sức mạnh kì
diệu không một thế lực tàn bạo nào có thể hủy diệt được. Cái đẹp của tài hoa, cái đẹp của thiên lương đã làm lung linh nhân cách
kẻ sĩ Huấn Cao, để chúng ta ngưỡng mộ. Thấm thía biết bao bài học thiên lương ở đời. Sống vì thiên lương. Và chết cũng giữ trọn
thiên lương. “Chữ người tử tù” là một truyện ngắn kiệt tác lung linh vẻ đẹp thiên lương.
4. Nguyễn Đăng Mạnh khi đánh giá về nhà văn Nguyễn Tuân đã khẳng định rằng: “Nguyễn Tuân là cái định nghĩa về người nghệ
sĩ”. Các tác phẩm của ông thường xây dựng hình tượng nhân vật tài hoa trong chính nghề nghiệp của mình. “Chữ người tử tù” là
một trong những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của ông. Nổi bật trong truyện là hình tượng của nhân vật Huấn
Cao.
5. Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân là tác phẩm viết về một thời đã qua nay chỉ còn vang bóng. Trong Vang bóng một thời,
truyện ngắn Chữ người tử tù có một giá trị lớn lao, nổi bật. Ai đã từng đọc Chữ người tử tù đều rung động cảm phục, sùng kính
trước vẻ đẹp của người anh hùng sa cơ lỡ vận mà hiên ngang, bất khuất, có tài, có tâm, mến mộ nghĩa khí. Đó là Huấn Cao. Huấn
Cao là kết tinh, là hội tụ phẩm chất của một con người có nhân, dũng, trí. Ông là tập hợp của tất cả những gì tinh khiết nhất, cao
đẹp nhất.
Huấn Cao là một hình tượng thẩm mỹ, một nét đẹp trong cuộc sống đời thường, là một người có nhân cách vẹn toàn, vừa có tài
văn, tài võ, vừa là người có nghĩa khí. Huấn Cao phảng phất bóng dáng của Cao Bá Quát đã từng sống một cuộc sống tung hoành
ngang dọc, là người có tài, có đức, văn hay chữ đẹp, sống trong giai đoạn của Nguyễn triều, dám đứng lên chống lại bọn thực dân
phong kiến, bọn cường quyền, đả kích xã hội phong kiến thối nát. Phải chăng, Nguyễn Tuân đã mượn Huấn Cao để ca ngợi Cao
Bá Quát và mặt khác dựa vào Cao Bá Quát, khái quát lên một hình tượng Huấn Cao mà cái đẹp của tài hoa quyện với cái đẹp của
khí phách, tuy chí không thành nhưng vẫn coi thường hiểm nguy gian khổ, coi khinh cái chết.
Tư thế của Huấn Cao hiên ngang lồng lộng toả sáng trên cái nền đen quánh của tù ngục. Nói đến vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao
trước hết phải nhắc đến cái tài. Huấn Cao là một người nổi tiếng về thư pháp. Trong thị hiếu thẩm mỹ của người xưa từ Trung
Quốc đến Việt Nam thì thư pháp là cả một nghệ thuật cao quý, là biểu hiện cho tâm hồn và tri thức, là vẻ đẹp hoàn mỹ trong văn
hoá truyền thống dân tộc. Nó như một sản phẩm nghệ thuật, như một vật báu mà con người khát khao, thèm muốn.
Ngoài ra, Huấn Cao còn có tài bẻ khoá vượt ngục coi nhà tù như nơi không người, ra vào như chơi. Điều đó thể hiện một con
người khát khao tự do, hoài bão tung hoành luôn đấu tranh cho chính nghĩa, chống lại triều đình phong kiến mục nát. Tất cả những
tài năng đó làm thành một Huấn Cao có tầm lớn, đi vào lòng độc giả như một anh hùng, một trượng phu đã vượt lên tất cả cái bình
thường nhỏ nhoi của cuộc đời để vẫy vùng để chọc trời khuấy nước. Nhưng trong cái xã hội phong kiến bóc lột người, nhân tài
như lá mùa thu ấy thì Huấn Cao hiện lên là một anh hùng thất thế. Nguyễn Du đã từng viết về Từ Hải - một anh hùng thời cổ:
Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn.
Song vị hùm thiêng Huấn Cao này tuy có sa cơ, lỡ nghiệp nhưng Huấn Cao vẫn kiên cường, bất khuất, vẫn dũng khí. Do đó, người
đọc không chỉ nhận ra Huấn Cao là một người có tài mà ông còn là người có dũng khí, hiên ngang trước cường quyền, trước một
cái chết treo lơ lửng. Hết mực ca ngợi cái tài của Huấn Cao, đồng thời Nguyễn Tuân cũng hết sức trân trọng cái tâm của Huấn
Cao. Bởi chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài (Nguyễn Du). Cái tâm của ông cũng vuông lắm, cao khiết và đầy sức chinh phục như
nét chữ của ông vậy. Có lẽ phong cách tức là con người đã được thể hiện rất rõ ở đây.
Mặc dù viết chữ Nho đẹp lẽ ra ông phải trung thành với đạo thánh hiền, giữ mình theo lễ nghĩa Nho giáo, trung với vua, một lòng
một dạ theo triều đình. Nhưng không! Huấn Cao không chịu vào luồn ra cúi, không chịu sống trong cảnh nhung hoa áo gấm, thà
làm giặc triều đình sống theo chính nghĩa mà mình đã vạch ra. Sự nghiệp dang dở, bi đát, bị kết án tử hình nhưng ông vẫn không
hề tỏ thái độ run sợ, không mảy may tiếc nuối, hối hận.
Huấn Cao - ngôi sao Hôm chính vị ấy - bước vào ngục trong tư thế thật hiên ngang, khí phách ung dung. Trong con mắt của bọn
lính ông thật cao thượng, bất khuất, khinh đời. Ngay cả với gông xiềng, với cái án tử hình sắp đến gần, thái độ của ông vẫn ngang
tàn, lạnh lùng. Huấn Cao ung dung, lãnh đạm trước mặt bọn lính, không thèm chấp mấy lời đe doạ. Ông bình thản ăn những món
ăn do quan ngục biệt đãi, coi như mình có quyền hưởng thụ, ông làm việc theo ý mình, hoàn toàn tự chủ. Ông ngước mắt nhìn lên
nhà lao, lên những bộ mặt bất nhân, nham nhở. Cái nhìn hiên ngang đó không run sợ, không căm hờn, oán hận, không van xin, cầu
khẩn. Đó là một cái nhìn của kẻ dám làm dám chịu. Thậm chí ông còn khinh bạc, nặng lời khi chưa rõ ý tốt của quản ngục:
"Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây".
Con người khuấy nước chọc trời chẳng biết nể sợ ai. Trong đời trừ chỗ tri kỷ, ông ít chịu cho chữ, nhất sinh không vì vàng ngọc
hay quyền thế mà phải ép mình viết câu đối bao giờ, thì khi sa vào chốn giam cầm thì mấy chén rượu, vài bữa cơm thịt của hai con
người vô danh tiểu tốt ở chốn tù ngục bé nhỏ này làm sao lung lay được ông hay vì quyền uy mà làm ông run sợ. Thật đúng là
nhân cách lý tưởng mà con người của ngàn năm qua vẫn ao ước. Cái thái độ khinh đời, ngang tàn đó phải chăng làm cho viên
quản ngục ngây ngất, kính nể. Huấn Cao đã mang đến chốn lao tù này một ánh sáng kỳ ảo, huyền diệu, lung linh, chói rọi, soi sáng
đạo lý làm người. Thiên lương cao đẹp của ông là một vầng hào quang toả sáng rực rỡ trên bầu trời đầy u ám của chốn đề lao.
Huấn Cao - vầng hào quang chói lọi này không những là một người có dũng trí mà còn là một con người có trái tim nhân hậu. Khi
biết thiện ý của quản ngục, Huấn Cao đã rất cảm động. Từ đó, ta thấy ông Huấn là người có lòng bao dung, độ lượng, chia sẻ nỗi
niềm cùng với hai người bạn mới mà suýt nữa ông đã đánh mất: Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Nào ta biết
đâu một người thầy quản đây lại có cái sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ. 
Sự biệt đãi bằng vật chất và thái độ ân cần không làm cho trái tim sắt đá kia mềm lòng. Chính cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài và
những sở thích cao quý, hướng về văn minh, văn hoá mới cảm hoá được trái tim dường như được đúc bằng thép ấy. Thái độ của
Huấn Cao đối với quản ngục không phải là sự trả ân đối với người đã đối xử tử tế với mình, mà là sự trân trọng, cảm động trước
một nhân cách "Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Quản ngục sống giữa bùn nhơ nhớp mà vẫn giữ được thiên lương, biết
trọng người tài, kính cái đẹp.
Ánh hào quang rực rỡ, vẻ đẹp tuyệt diệu toả ra rất rõ ở cảnh Huấn Cao cho chữ. Nó bộc lộ trọn vẹn nhất vẻ đẹp nhân cách Huấn
Cao. Ở đây vẻ đẹp này toả hương thơm ngát hơn lúc vào hết. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, một cảnh tượng đầy kịch tính diễn
ra, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Đó là sự tương phản giữa một bên là một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng
nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián với một bên là tấm lụa trắng tinh, căng phẳng và với ánh sáng của bó đuốc tẩm dầu đang
cháy rừng rực. Ba đầu người chăm chú trên một tấm lụa bạch tinh khôi.
Nó là sự trái ngược của sự tàn bạo, đánh đập, tra khảo dã man với ánh sáng của nền văn minh, văn hóa. Đó còn là sự mâu thuẫn
giữa bóng tối và ánh sáng, cái xấu và cái đẹp, cái ác và cái thiện, cái chết và cái sống, cái xấu xa đê tiện và cái trong trẻo cao
thượng. Ngòi bút dựng cảnh, dựng người của Nguyễn Tuân rất giàu tính tạo hình với trình độ nghệ thuật điêu luyện, gần như đạt
đến sự hoàn mĩ.
Dưới ánh sáng của bó đuốc đỏ rực, bó đuốc của trí tuệ, của niềm tin, của hy vọng và trong khung cảnh thật nghiêm trang, thật
thiêng liêng này, Huấn Cao dồn hết tâm linh, sinh lực vào từng nét chữ. Ông không mảy may lưu ý gì đến cái xấu xa, bẩn thỉu
đang tồn tại mà hoàn toàn bị thu hút, quyến rũ vào cho ra đời những nét chữ tuyệt tác. Ở đây không còn là một Huấn Cao tử tù
nữa. Chỉ còn một Huấn Cao tự do nhất, sống động nhất. Cái giá treo cổ kia cũng không còn nữa mà chỉ có cuộc sống vĩnh hằng về
chân lý của cái đẹp. Ngôi sao – Huấn Cao đang tỏa sáng, làm bừng tỉnh cái không gian u tối, phá vỡ cái màn đêm ngự trị ngàn đời
ở đây, đem đến nơi đây một vẻ đẹp khác thường. Giờ phút này, tại nơi đây, sức mạnh của cái đẹp và chân lý đã được khẳng định.
Sức mạnh ấy không khuất phục người ta bằng bạo lực, nó chinh phục người ta bằng tự bản chất của nó. Nó không giày xéo áp đặt
con người để bắt người ta phải tuân theo nó, trái lại, nó vực con người ta đứng dậy, tự nguyện đi theo nó để hướng tới cái CHÂN
-THIỆN - MỸ trở nên trong sáng và tốt đẹp hơn. Và ở đây cái đẹp đã lên ngôi thay thế cho cái xấu xa, thấp kém, cái đẹp nâng đỡ
con người, cứu vớt con người (Đô-xtôi-ep-xki). Cái đẹp đăng quang, cái xấu xa đã phải chìm xuống nhường chỗ cho cái đẹp. 
Cái đẹp đã tồn tại, sẵn sàng và rất cần sự đánh thức cái thiên lương ở mỗi con người. Huấn Cao cho chữ như chuyển giao một
nhân cách tự do, chuyển giao cái đẹp để cái đẹp mãi sinh sôi nảy nở, đi vào cõi vĩnh hằng. Hình tượng nhân vật Huấn Cao được
khắc hoạ bằng ngòi bút lãng mạn cứ sừng sững hiên ngang hiện lên như muốn cất bổng lên, phá vỡ chốn lao tù, phá vỡ cái cuộc
sống đang tràn ngập màn đêm, ngột ngạt, trì trệ.
Phải chăng đó là quan niệm thẩm mỹ của Huấn Cao hay của là của chính Nguyễn Tuân: cái đẹp phải gắn với cái thiện không thể ở
chung với cái xấu, cái ác. Sự chân thành, bộc bạch giản dị đó của Huấn Cao đã khiến cho ngục quan cảm động vái người tù một
cái và rưng rưng: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh.
Nói tóm lại, Huấn Cao là một con người tích tụ những phẩm chất tốt đẹp nhất. Tuy bị cầm tù về thể xác nhưng lại tự do về tâm
hồn. Hay nói khác đi, Huấn Cao dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân là biểu tượng cho cái đẹp trong hoàn cảnh lịch sử đang đầy rẫy
những cái xấu xa, tội lỗi, biểu tượng cho thiên lương cao quý. Con người sống vượt lên những hiện thực tầm thường, tăm tối để
toả sáng, để vĩnh cửu, để bất diệt, truyền cho người đời phẩm giá làm người, những phẩm giá tiêu biểu cho đạo lý dân tộc.
Dựng lên hình tượng với vẻ đẹp rực rỡ tráng lệ giữa chốn lao tù ẩm thấp chật chội. Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm cảm phục sâu
sắc đối với những người anh hùng xả thân vì nghĩa lớn. Nhà văn đã sử dụng ngòi bút tả thực đầy kịch tính kết hợp với việc khắc
hoạ tính cách nhân vật và ngòi bút miêu tả phong cảnh hiện thực lẫn lãng mạn. Có thể nói Chữ người tử tù với bút pháp sắc sảo
khi dựng người, dựng cảnh, với ngôn ngữ văn xuôi giàu có và góc cạnh, với vẻ đẹp tuyệt vời của Huấn Cao, tác phẩm xứng đáng
là một áng văn chương một thời vang bóng và nó mãi mãi vang bóng trong bạn đọc nhiều thời.

6. Thế giới không chỉ được tạo lập một lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ chân chính xuất hiện là mỗi lần thế giới được tạo lập. Mỗi tác
phẩm là mỗi sự dâng hiến, một cuộc đời, một cảm xúc, một chân lý, một ý vị, không một tác phẩm nào viết ra mà không mang đến
cho người, cho đời một chân lý, một thông điệp mới .Nhà phê bình người Nga bêlinxki từng viết “tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu
nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả. Nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan. Nếu nó không đặt ra
những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi”. Điều này được thể hiê ̣n rất rõ qua tác phẩm  “ Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân.

Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, sự miêu tả trong văn chương bắt nguồn từ cuộc sống của con
người. Mỗi khía cạnh của văn chương là một góc nhìn về cuộc sống hiện tại hoặc quá khứ nó là một thực trạng một hình thức của cuộc
sống và nếu nhà văn chỉ dùng tài năng của mình mà tái hiện lại chúng trên những trang văn đẩy chữ mà không nhằm mục đích gì thì chỉ
là một tác phẩm không có ý nghĩa, một tác phẩm chết. Phải chăng đó cũng là căn nguyên để tạo lập một tác phẩm văn học mang lại sự
sống mãnh liệt, một tác phẩm sống và dâng hiến cho đời những hương sắc và ý nghĩa, là một tác phẩm mang những tiếng thét đau khổ,
hay lời ca tụng hân hoan, là một tác phẩm đặt ra những câu hỏi và trả lời những câu hỏi đó. Những đặc điểm giữa một tác phẩm chết so
với những đặc điểm của một tác phẩm sống dường như có một hình thức đối lập giữa chúng, cái thông điệp là những tiếng kêu thét và
những lời hân hoan, hay những câu hỏi và lời giải đáp chính là nguồn gốc tạo nên một tác phẩm đúng nghĩa, là lưu giữ cho đời những
hương sắc lan tỏa.

Một tác phẩm khi được viết ra là sự kết tinh độc đáo giữa cảm xúc và lý trí của nhà văn, nhà văn đã phải giao thoa với đời bằng chính cái
tâm hồn, cốt cách, dùng cái tài trong văn bản mà làm nên những trang văn đầy nhiệt huyết và năng động, mang lại những ý nghĩa, thông
điệp nơi bể đời đầy đau khổ. Một nhà văn thực thụ sẽ làm như vậy chứ không phải chỉ tạo lập cho mình những văn bản đầy chữ mà
không còn mục đích gì ngoài việc miêu tả, có lẽ cốt cách để làm nên một nhà văn chân chính không chỉ là những cảm xúc sâu thẳm, mà
còn là ánh mắt nhân đạo nhìn đời, thấu hiểu đời và diễn đạt chúng trên những tài năng thiên bẩm. Không ít những nhà văn chân chính đã
để lại cho đời những dấu ấn và thông điệp đáng quý của một sức sống mãnh liệt trong tác phẩm và cũng không ít những tác giả đã dùng
văn chương để nhìn cuộc sống trong những khía cạnh riêng biệt. Nguyễn Tuân cũng không ngoại lệ, trong tư cách là một nhà văn Ông đã
làm sáng tỏ tài năng và những thông điệp muốn gửi gắm đến cho đời qua tác phẩm “Chữ Người Tử Tù”.

Là một trong những nhà văn uyên bác, là một trong những cây bút sắc sảo tác phẩm “Chữ Người Tử Tù”, dưới ngòi bút của Nguyễn
Tuân đã để lại cho đời những thông điệp, những dư vị của một cuộc sống, những cốt cách và phẩm chất của một con người trong một
hoàn cảnh với cách xây dựng hình tượng truyện và cách xây dựng quá trình tâm lý con người đã giúp cho Nguyễn Tuân thể hiện rõ tài
năng và phong cách của mình.

Một tác phẩm khi được viết ra là sự kết tinh độc đáo giữa cảm xúc và lý trí của nhà văn, nhà văn đã phải giao thoa với đời bằng chính cái
tâm hồn, cốt cách, dùng cái tài trong văn bản mà làm nên những trang văn đầy nhiệt huyết và năng động, mang lại những ý nghĩa, thông
điệp nơi bể đời đầy đau khổ. Một nhà văn thực thụ sẽ làm như vậy chứ không phải chỉ tạo lập cho mình những văn bản đầy chữ mà
không còn mục đích gì ngoài việc miêu tả, có lẽ cốt cách để làm nên một nhà văn chân chính không chỉ là những cảm xúc sâu thẳm, mà
còn là ánh mắt nhân đạo nhìn đời, thấu hiểu đời và diễn đạt chúng trên những tài năng thiên bẩm. Không ít những nhà văn chân chính đã
để lại cho đời những dấu ấn và thông điệp đáng quý của một sức sống mãnh liệt trong tác phẩm và cũng không ít những tác giả đã dùng
văn chương để nhìn cuộc sống trong những khía cạnh riêng biệt. Nguyễn Tuân cũng không ngoại lệ, trong tư cách là một nhà văn Ông đã
làm sáng tỏ tài năng và những thông điệp muốn gửi gắm đến cho đời qua tác phẩm “Chữ Người Tử Tù”.

Là một trong những nhà văn uyên bác, là một trong những cây bút sắc sảo tác phẩm “Chữ Người Tử Tù”, dưới ngòi bút của Nguyễn
Tuân đã để lại cho đời những thông điệp, những dư vị của một cuộc sống, những cốt cách và phẩm chất của một con người trong một
hoàn cảnh với cách xây dựng hình tượng truyện và cách xây dựng quá trình tâm lý con người đã giúp cho Nguyễn Tuân thể hiện rõ tài
năng và phong cách của mình.

“Chữ Người Tử Tù” là tác phẩm viết đến trong hoàn cảnh lao tù giữa Huấn Cao và Viên quản cai ngục và thầy thơ lại trong một hoàn
cảnh. Cho một hoàn cảnh trái ngang với những nhân cách cao đẹp đã làm nên một áng văn chương sáng rọi, xua tan mọi tối tăm, dơ bẩn
chốn lao tù. Nguyễn Tuân không chỉ thành công ở việc xây dựng tình huống và càng xuất sắc trong cách xây dựng tình thế giữa hai nhân
vật Huấn Cao người tử tù, viên quan coi ngục và hoán đổi chúng trong tài năng và làm nên thông điệp chân chính tác phẩm. “Chữ Người
Tử Tù” không phải là một tác phẩm chết, bởi những dư vị và dấu ấn nó để lại cho đời lớn hơn là việc miêu tả chỉ để miêu tả.

Đến với nhân vật Huấn Cao của “Chữ Người Tử Tù” là ta đang tìm đến một bậc thiên tài cái thế được biết đến với cái tài viết nhanh và
đẹp. Người đời ngưỡng mộ ông và coi ông như một anh hùng cái thế, kính trọng và nể ông. cái tài của ông được người ta ví như vật báu
có được, chữ của Huấn Cao mà treo là như có một vật báu trong nhà. Thật ra cái hoàn cảnh để huấn cao được giới thiệu cũng chính là lúc
ông trong tư cách là một người tử tù, một người đang bị bắt và một ngông, ấy thế mà khí phách hiên ngang của ông vẫn không bị lay
động. Khi bước chân tới nhà lao cách mà ông vứt bỏ cái gông trên cổ xuống đã phần nào chứng minh cho khí phách hiên ngang, trong
quá trình ở lao tù viên quan coi ngục đã không ít lần có ý giúp Huấn Cao nhưng ông đều thẳng thừng từ chối và khinh miệt viên quan coi
ngục bằng hành động và lời nói rất ngang ngược “ta không muốn nhà ngươi bước chân vào đây nữa”,  thái độ hống hách của người tử tù
dường như đang giúp phần thể hiện cho cái ngông của Nguyễn Tuân. Phải chăng những thái độ ngang ngược chỉ là đang góp phần thể
hiện cho một khí phách hiên ngang của Huấn Cao, một người tử tù. Bên cạnh đó Huấn cao được biết đến với một cái tâm trong sáng và
đầy ngưỡng mộ “ta nhất sinh không vì tiền bạc, Xưa nay ta chỉ cho chữ đúng 3 người”, mặc dù là một thiên tài viết chữ đẹp nhưng Huấn
Cao không vì tiền hay bất cứ thứ gì, mà cho chữ có lẽ cái tâm ấy cũng làm sáng tỏ cho cái cách mà Huấn Cao đối xử với viên quản, có
chủ vì sợ bị lợi dụng để cho chữ, đồng thời cái tâm ấy cũng thể hiện ở cách khinh miệt, coi thường những con người sống trong dơ bẩn
và tội lỗi. những định kiến của huấn cao đối với viên quân cai ngục cũng góp phần làm nên cái tâm trong sáng của Huấn Cao, nhân vật
Huấn Cao dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân được hiện lên với ba nhận định, một tài năng thiên bẩm, một khí phách hiên ngang và một cái
tâm trong sáng. Qua nhân vật này Nguyễn Tuân dường như muốn hướng con người ta đến chân, thiện, mỹ và những thứ tốt đẹp nhất,
đồng thời đó là sự khẳng định một người nghệ sĩ thực thụ luôn là sự kết hợp giữa cái tâm và cái tài.

Bên cạnh đó Nguyễn Tuân đã thể hiện rất rõ tư tưởng và thông điệp của mình qua viên quản ngục vẫn là một con người mang những
trọng trách dơ bẩn đứng trong địa vị ghê sợ nhất xã hội thời bấy giờ. ấy thế mà viên quản cai ngục lại trở thành một viên ngọc lấp lánh
giữa vũng bùn lầy dơ bẩn, một người chuyên làm những công việc xấu xa nhưng với sự đam mê và trân trọng cái đẹp là chữ của Huấn
Cao đã trở thành một con người hướng đến lương thiện. Chi tiết miêu tả viên quản ngục “ngồi suy nghĩ mặt lặng như hồ nước áo xuân”
đã thể hiện sự hình thành dần dần những lương thiện trong cốt cách nghệ thuật. Thật vậy viên quản ngục dường như bị đánh thức nhân
cách bởi chữ của Huấn Cao, trong quá trình thức tỉnh ông đã chịu mọi sinh nhật của Huấn Cao, đến giờ phút cuối cùng đã cúi đầu lí nhí.
Quá trình biến đổi từ một nhân cách dơ bẩn đến một tâm hồn lương thiện chính là mục đích và thông điệp mà Nguyễn Tuân muốn gửi
đến cho đời “nghệ thuật có chức năng tái tạo và cảm hóa con người”.

Huấn Cao và viên quản ngục coi tù như một viên kim cương lấp lánh trong cõi tối tăm, u ám. Tỏa sáng một cách rạng ngời, đồng thời đó
còn là minh chứng cho sự tỏa sáng sẽ không bị bùn lầy che dấu, cái thiện sẽ luôn chiến thắng nhân cách lương thiện, con người dù cho bị
vùi dập thế nào nhưng chỉ cần tâm luôn có ý hướng thiện thì sẽ chiến thắng. Viên quan coi ngục chính là một điển hình sáng ở nhất cho
hình tượng con người hướng thiên lương trong chốn tối tăm. Đó cũng chính là tài năng của Nguyễn Tuân trong cách xây dựng tình
huống và đảo ngược tình thế, qua đó thấy được “lời ca tụng hân hoan” mà Nguyễn Tuân dành cho hai nhân vật tâm huyết, đồng thời
Nguyễn Tuân còn thể hiện cái tài văn chương của mình một cách rõ nét nhất, qua cảnh cho chữ cuối cùng của câu chuyện.

Cảnh cho chữ được bắt nguồn từ những tấm lòng của viên quan coi ngục và sự đáp trả nghĩa tình của huấn cao trước tấm lòng biệt nhỡn
hiền tài, nguyên nhân làm nên cảnh cho chữ đã trang trọng đầy ý nghĩa và cảnh cho chữ diễn ra lại càng đặc biệt và thấm thía hơn. Cảnh
cho chữ được miêu tả là một “cảnh tượng Xưa nay chưa từng có” cả trong văn học lẫn ngoài đời. Người ta thường cho chữ tặng những
bản sách, những giảng đường, những nơi trang trọng nhưng với Huấn Cao vị anh hùng cái thế hơn người lại cho chữ tại một nơi ẩm thấp,
hôi hám và đầy phân gián. nhưng đó không làm nên tính chất của cảnh cho chữ thiêng liêng này, nhân cách và vẻ đẹp tâm hồn Huấn cao
lúc này cao sáng và thăng hoa hơn bao giờ hết. Trước những giây phút cuối đời và tại cái nơi đầy u ám này Huấn cao vẫn thể hiện niềm
đam mê nghệ thuật của mình “mực mua ở đâu mà thơm thế”? và huấn cao cho chữ trong bầu khí trang trọng và đầy thiêng liêng, có lẽ
cảnh cho chữ còn lắng đọng vào tâm hồn người hơn ở những giây phút cuối cùng mà Huấn Cao dùng để khuyên viên quản ngục. Chi tiết
ấy có lẽ đã chiếm đi bao nhiêu tình cảm và nước mắt của người đọc, bởi tình người trong giờ phút ấy và tại thời điểm ấy vô cùng giàu
đẹp và thiêng liêng, một lời khuyên chân tình của một người được coi là thiên tài với một con người trông coi dơ bẩn, tối tăm mới lay
động lòng người thật hiếm có.

Cảnh tượng cho chữ cuối cùng đã nói lên phong cách và tài năng của Nguyễn Tuân, ông đã xây dựng một cảnh tượng chưa bao giờ có,
một cảnh tượng tầm thường nhưng là một chân lý phi thường. Nguyễn Tuân đã miêu tả cảnh cho chữ nhưng không chỉ để miêu tả mà
qua đó thể hiện một hình ảnh, một chân lý về cái đẹp trong chốn tối tăm, không phải chỉ những nơi trang trọng ra hoa mới lạ, nơi cái đẹp
lên ngôi kể cả trong chốn những nơi dơ bẩn cũng là nơi cái đẹp có thể hiện diện. Ngoài ra cái hệ quả tốt đẹp cuối cùng trong cảnh cho
chữ là sự cúi đầu xin lĩnh ý của viên quan Cai ngục và sự cảm kích không ngừng ấy lại là một điểm nhấn cho hình tượng nhân vật. Đó là
những câu hỏi vang vọng giữa đời về sự tiếp diễn cuộc sống của viên quan coi ngục, sẽ là những suy nghĩ về sự bỏ lại quyển tước để về
quê sinh sống, hay tiếp tục tồn tại nơi chốn dơ bẩn ấy, đó còn là những câu hỏi, những trang chuyện cuối cùng của “Chữ Người Tử Tù”.

Nghệ thuật là một quá trình khổ hạnh Nguyễn Tuân. Thật vậy nghệ thuật cũng là quá trình đi tìm cái đẹp mà người nghệ sĩ sẽ là cây bút
tìm và vẽ lại cái đẹp ấy, “Chữ Người Tử Tù” là một điệp khúc, là lời ca tụng hân hoan về con người trong chốn tối tăm bùn lầy, là sự
hướng đến cái chân, thiện, mỹ và ca ngợi chúng, là một sự miêu tả nhưng không chỉ để miêu tả về cảnh cho chữ và là một những câu hỏi
vang vọng giữa biển đời.

Một tác phẩm nghệ thuật chân chính sẽ không khép lại ở những trang cuối, mà nó kết thúc để mở đầu một cuộc sống mới “Chữ người tử
tù” đã làm được điều đó qua những thông điệp ý nghĩa mà nó gửi đến cho cuộc đời, đó là một tác phẩm không chỉ để miêu tả và thực thi
sứ mệnh chỉ miêu tả, nhưng đó là một lời ca hân hoan và là những câu hỏi sẽ tồn tại với đời.

Có lẽ một tác phẩm sống mãnh liệt với đời sẽ là một tác phẩm để lại cho đời những thông điệp, những ý vị của một cuộc sống, đó chính
là một tiếng thét đau khổ hay lời ca tụng hân hoan, nó luôn đặt ra những câu hỏi và trả lời những câu hỏi đó.

You might also like