You are on page 1of 22

I.

Dàn ý Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương


Dàn ý Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương mẫu 1
1. Mở bài: Giới thiệu tác giả Nguyễn Dữ, “Chuyện người con gái Nam Xương” và vẻ
đẹp, số phận bi kịch của Vũ Nương.
2. Thân bài
a. Vẻ đẹp của Vũ Nương
 Vũ Nương là cô gái xinh đẹp: tư dung tốt đẹp.
 Là cô gái có đức tính tốt đẹp: thùy mị, nết na.
→ Khiến chàng Trương đem lòng yêu mến và cưới về làm vợ.
 Ngày chồng tòng quân: nàng đau lòng, dặn dò và mong chồng bình an trở về.
 Khi chồng ra trận: ở nhà một lòng một dạ chăm sóc con trai và chăm sóc mẹ
chồng những ngày cuối đời.
→ Là người vợ hiền lành, đảm đang, đầy đủ “công - dung - ngôn - hạnh” đáng ngưỡng
mộ.
→ Là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ với những phẩm hạnh tốt
đẹp.
b. Số phận bi kịch của Vũ Nương
 Nguyên nhân: khi chồng bế con ra thăm mộ mẹ, đứa nhỏ đã tiết lộ bố nó đêm
nào cũng đến thăm nó → Trương Sinh đem lòng nghi ngờ, ghen tuông.
 Khi Trương Sinh về nhà đã chửi mắng nàng và đuổi nàng đi mặc cho nàng van
xin và thanh minh.
→ Người phụ nữ không được tự quyết định số phận của mình mà phải phụ thuộc vào
người đàn ông tỏng gia đình. Tuy mình bị oan nhưng không được thanh minh.
 Để chứng minh tấm lòng chung thủy của mình Vũ Nương đã nhảy sông tự tử.
→ Đau khổ, xót thương trước số phận bất hạnh của nàng sau những điều tốt đẹp nàn
dã làm cho nhà chồng.
→ Sau này, khi Trương Sinh hiểu ra oan khuất của nàng đã vô cùng đau xót nhưng
nàng không thể trở về nhân gian được nữa mà mãi ở lại nơi thủy cung. → Đây được coi
là cái kết vừa có hậu vừa đoản hậu của Vũ Nương: có hậu vì cuối cùng nàng cũng
được minh oan và khiến cho người làm nàng đau khổ là Trương Sinh nhận ra lỗi lầm,
ân hận về lỗi lầm đó; đoản hậu vì nàng không được quay lại nhân gian để sống tiếp kiếp
người, để nhận lại phúc đức sau những nghĩa cử cao đẹp nàng đã làm.
3. Kết bài: Khẳng định lại vẻ đẹp, số phận của Vũ Nương và giá trị của tác phẩm.
Dàn ý Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương mẫu 2
1. Mở bài:
 Giới thiệu tác phẩm, tác giả
 Giới thiệu nhân vật: Vũ Nương là nhân vật chính trong truyện; là người phụ nữ
bình dân có truyền thống tốt đẹp về đạo đức, phẩm chất nhưng trong xã hội phong
kiến nhưng chịu đau khổ.
(Đọc “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ ta thương nàng Vũ Thị Thiết đã chịu
đựng nỗi đau oan khuất).
2. Thân bài
a) Những phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương
- Người phụ nữ đẹp người, đẹp nết: “vốn đã thùy mị, nết na lại thêm tư dung, tốt đẹp”
 Có tư tưởng tốt đẹp.
 Người vợ dịu hiền, khuôn phép: Chồng đi xa vẫn một lòng chung thủy, thương
nhớ chồng khôn nguôi, mong chồng trở về bình yên vô sự, ngày qua tháng lại một
mình vò võ nuôi con.
 Người con dâu hiếu thảo: Chăm nuôi mẹ chồng lúc đau yếu, lo việc ma chay, tế
lễ chu toàn khi mẹ chồng mất.
- Người phụ nữ thủy chung
 Khi chồng ở nhà
 Khi tiễn chồng ra trận
 Những ngày tháng xa chồng
 Khi bị nghi oan
 Khi sống dưới thủy cung
- Người con dâu hiếu thảo
 Thay chồng chăm sóc mẹ khi mẹ đau ốm (lời nói của mẹ chồng).
 Lo liệu ma chay khi mẹ mất như với cha mẹ đẻ
 Là người mẹ yêu thương con: Một mình chăm sóc con nhỏ khi chồng đi vắng.
 Là người phụ nữ trọng nhân phẩm, tình nghĩa, chọn cái chết để minh oan cho
mình.
- Giàu lòng vị tha: Bị Trương Sinh đẩy đến đường cùng phải chết oan ức nhưng không
oán trách, hận thù. Khi trương Sinh lập đàn giải oan ở bến sông vẫn hiện về nói lời “đa
tạ tình chàng”
b) Nỗi đau, oan khuất của Vũ Nương
 Người chồng đa nghi vì nghe lời con trẻ ngây thơ nên nghi oan, cho rằng nàng
đã thất tiết.
 Nàng đau khổ, khóc lóc bày tỏ nỗi oan với chồng nhưng chồng vẫn không nghe
còn mắng nhiếc, đánh và đuổi nàng đi.
 Không thể thanh minh được, nàng tìm đến cái chết để tỏ bày nỗi oan ức của
mình.
c) Khi chết rồi Vũ Nương vẫn thiết tha với gia đình, muốn trở về quê cũ
 Ở thuỷ cung, nàng vẫn nhớ quê hương, có ngày tất phải tìm về.
 Tìm về là để giãi bày nỗi oan với chồng, với mọi người.
 Nhưng nàng không thể trở về với nhân gian được nữa.
d) Nhận xét về nghệ thuật
 Nhận xét về nghệ thuật: khai thác vốn văn học dân gian, sáng tạo về nhân vật...
 Liên hệ về hình ảnh người phụ nữ trong xã hội hiện nay
3. Kết bài:
 Khẳng định “Chuyện người con gái Nam Xương” là tác phẩm giàu tính hiện thực
và giá trị nhân văn
 Những phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương cũng chính là nét đẹp của người phụ
nữ Việt Nam cần được tôn vinh trong mọi thời đại.
II. Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương lớp 9
Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương mẫu 1
Nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương là một biểu tượng cho
hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong xã hội ngày xưa.
Ở Vũ Nương, hội tụ đầy đủ các yếu tố của một người phụ nữ Việt. Nàng vừa đẹp người,
lại đẹp cả nết. Cái đẹp ở ngoại hình của Vũ Nương không được miêu tả chi tiết, nhưng
vẫn đi sâu vào tiềm thức người đọc, bởi nàng đã khiến cho thiếu gia Trương Sinh xin
cưới về bằng được. Hơn cả vẻ bề ngoài, nét đẹp của nàng Vũ Nương được khắc sâu ở
phẩm chất. Nàng là người vợ yêu thương chồng, một lòng chung thủy chờ chồng chinh
chiến bao năm, chưa bao giờ thay đổi. Trước lúc chồng đi xa, nàng chỉ một lòng mong
chồng bình an trở về, chớ có hoài ước gì về công danh, tiền bạc. Có thể nói, đối với
nàng, sự bình an của chồng quan trọng hơn tất thảy. Vũ Nương cũng là một người con
dâu hiếu thảo, khi một lòng chăm sóc mẹ chồng, mãi đến khi bà qua đời vẫn thay chồng
lo liệu tang lễ chu toàn. Tấm lòng hiếu thảo của nàng, có mẹ chồng và xóm làng khắc
ghi. Đối với con trai, Vũ Nương cũng là một người mẹ nhân hậu, luôn yêu thương, chăm
sóc chu đáo. Một mình nàng đã chăm sóc cho cả mẹ chồng và con trai, quán xuyến nhà
cửa. Tất cả những điều ấy đã khắc họa chân dung một người phụ nữ đẹp toàn vẹn, là
hình tượng mẫu mực trong lòng văn hóa Á Đông.
Tuy nhiên, trong xã hội phong kiến, mà thân phận phụ nữ bị xem nhẹ, chà đạp, thì Vũ
Nương cũng không tránh khỏi bi kịch của đời mình. Suốt bao năm vất vả chờ chồng,
điều nàng nhận được khi chồng trở về lại là sự đuổi đánh, chối từ. Chỉ vì một sự hiểu
nhầm, mà nàng phải dằn vặt, đau khổ đến lấy cái chết để chứng minh sự trong sạch của
mình. Vì nàng là phụ nữ, nên tiếng nói của nàng không có giá trị, nàng không thể tự
minh oan cho mình, nàng không thể phá vỡ những định kiến về thân phận. Nàng chỉ có
thể dùng cách tiêu cực nhất để minh chứng để bảo vệ phẩm tiết của mình. Cái chết đau
thương của Vũ Nương đã giáng một đòn mạnh mẽ không chỉ vào sự nóng nảy, ghen
tuông ích kỉ của chồng mình. Mà còn vạch trần sự bất công của xã hội dành cho những
người phụ nữ phải sống kiếp thấp cổ bé họng, chịu sự chi phối của kẻ khác.
Qua nhân vật Vũ Nương, em sâu sắc cảm nhận được hình ảnh một người phụ nữ xinh
đẹp, dịu hiền, đảm đang, chung thủy. Nàng đẹp người đẹp nết, nhưng phải gánh chịu
một số phận bất hạnh, đau khổ. Vũ Nương không chỉ là một nàng Vũ Nương, nàng đại
biểu cho hàng nghìn mảnh đời bất hạnh của những người phụ nữ tội nghiệp bị đè nén,
bị tước đoạt hạnh phúc trong xã hội xưa.
Cảm nhận nhân vật Vũ Vương mẫu 2
Vũ Nương trong "Chuyện người con gái Nam Xương" là một người phụ nữ hội tụ tất cả
phẩm chất quý báu của phụ nữ truyền thống Việt Nam. Trước hết, Vũ Nương là một
người vợ yêu thương chồng hết mực. Khi Trương Sinh đi lính, nàng chỉ mong chồng trở
về bình an lành lặn chứ không hè mong tước phong hầu trở về. Khi chồng đi lính, mẹ
chồng ở nhà ốm nặng, nàng cũng chăm sóc vô cùng chu đáo. Đến khi mẹ chồng mất
nàng lo ma chay tế lễ cẩn thận như đối với chính cha mẹ đẻ mình. Không chỉ là một
người vợ yêu chồng, một người con dâu hiếu thảo mà Vũ Nương còn là một người mẹ
yêu thương con hết mực. Vì sợ bé Đản không cảm nhận được tình thương của cha mà
Vũ Nương đã trỏ bóng mình trên vách và nói đó là cha Đản. Đồng thời, Vũ Nương còn
là một người phụ nữ có lòng tự trọng. Khi bị Trương Sinh nghi oan, nàng giải thích hết
lời mà chàng không tin, Vũ Nương đã nhảy xuống sông tự vẫn để chúng minh sự trong
sạch của mình. Nàng thà chết để được chứng minh trong sạch còn hơn là sống một
cuộc đời bị mọi người sỉ vả. Không những thế, Vũ Nương còn là một người phụ nữ giàu
lòng vị tha. Khi ở dưới thủy cung nàng vẫn một lòng nhớ về chồng và con mặc dù chính
chồng nàng là nguyên nhân gây ra cái chết cho nàng. Khi được Trương Sinh lập đàn
giải oan, nàng còn cảm ơn chồng vì đã nghĩ đến nghĩa vợ chồng mà giải oan cho nàng.
Qua đây ta thấy được Vũ Nương là một người phụ nữ đẹp người đẹp nết nhưng lại chịu
số phận đầy bất hạnh.
Cảm nhận nhân vật Vũ Vương mẫu 3
Nguyễn Dữ sống ở thế kỷ XVI quê ở huyện Trường Tân nay là Thanh Miện - Hải
Dương. Ông là học trò của Trạng Trình - Nguyễn Bỉnh Khiêm. Các tác phẩm của ông đã
đóng góp rất lớn cho nền văn học trung đại Việt Nam. Điển hình là “Truyền kỳ Mạn Lục”
gồm có hai mươi câu chuyện nhỏ. Trong đó tiêu biểu là chuyện người con gái Nam
Xương là câu chuyện thứ 16 của “Truyền Kỳ Mạn Lục”, được bắt đầu từ truyện cổ tích
“vợ chàng Trương”. Truyện thể hiện niềm thương cảm sâu sắc của tác giả trước số
phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, đồng thời ca ngợi những
phẩm chất tốt đẹp của họ qua nhân vật chính Vũ Nương.
Trước tiên, Vũ Nương là người phụ nữ mang nhiều phẩm chất tốt đẹp. Nàng là người
phụ nữ bình dân xuất thân từ gia đình nghèo nhưng vừa có nhan sắc, vừa có đức hạnh.
Tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp.
Vẻ đẹp của Vũ Nương là vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam - của “chiếc bánh trôi” trong
thơ của Hồ Xuân Hương “vừa trắng lại vừa tròn”. Vì vậy Trương Sinh con nhà hào phú
đã xin với mẹ trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ, cuộc hôn nhân ấy vốn không bình
đẳng, đã vậy Trương Sinh lại có tính đa nghi, hay ghen. Nhưng trong đạo vợ chồng,
nàng tỏ ra là một phụ nữ thông minh, đôn hậu, biết chồng có tính đa nghi hay ghen nàng
đã “luôn giữ gìn khuôn phép... thất hòa”. Điều ấy chứng tỏ nàng rất khéo léo trong việc
vun vén hạnh phúc gia đình.
Sống trong thời loạn lạc nên cuộc sum vầy chưa được bao lâu thì Trương Sinh tòng
quân đi lính nơi biên ải. Buổi tiễn chồng ra trận nàng rót chén rượu đầy chúc chồng bình
yên “chàng đi chuyến này thiếp chẳng mong... thế là đủ rồi”. Ước mong của nàng thật
giản dị chỉ vì nàng coi trọng hạnh phúc gia đình hơn mọi công danh phù phiếm ở đời.
Những năm xa cách Vũ Nương thương nhớ chồng khôn xiết kể: “Mỗi khi bướm lượn
đầy vườn mây che kín núi thì nỗi buồn chân trời góc bể lại không thể nào ngăn được”.
Tâm trạng thương nhớ ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của nhiều người
chinh phụ trong thời loạn lạc ngày xưa:
Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong
(Chinh phụ ngâm khúc, Đoàn Thị Điểm)
Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau xa cách chồng của Vũ
Nương vừa ca ngợi tấm lòng chung thủy của nàng.
Không chỉ là một người vợ chung thủy, Vũ Nương còn là một người mẹ hiền, người con
dâu hiếu thảo, chàng ra trận vừa tròn tuần thì nàng sinh con nuôi dạy con khôn lớn. Để
bù đắp thiếu vắng cha của con nàng chỉ chiếc bóng của mình trên tường và nói là cha
Đản, còn với mẹ chồng già yếu nàng chăm sóc mẹ rất chu đáo, thuốc thang phụng
dưỡng như cha mẹ đẻ của mình. Nàng đã làm chọn chữ “công” với nhà chồng. Đây là
điều rất đáng trân trọng của Vũ Nương bởi thời xưa quan hệ mẹ chồng nàng dâu dường
như chưa bao giờ êm đẹp và chứa đầy những định kiến khắt khe.
Tấm lòng của nàng đã được người mẹ chồng ghi nhận, điều này thể hiện qua những lời
trăn trối của bà trước khi qua đời “Sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức giống
dòng tối tươi, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Vũ
Nương chính là người phụ nữ lý tưởng trong xã hội ngày xưa: Công, dung, ngôn, hạnh.
Là người phụ nữ có bao phẩm chất tốt đẹp đáng lẽ nàng phải được hưởng cuộc sống
hạnh phúc chí ít cũng như nàng mong ước đó là thú vui nghi gia, nghi thất - vợ chồng
con cái sum họp bên nhau. Thế nhưng cuộc sống của Vũ Nương cũng như cuộc đời
của người phụ nữ xưa là những trang buồn đầy nước mắt. Bất hạnh của nàng bắt đầu
từ khi giặc tan Trương Sinh trở về, chuyện cái bóng của con thơ đã là Trương Sinh ngờ
vực, rồi kết tội Vũ Nương. Chàng đinh ninh là vợ hư, nàng hết lời phân trần để bày tỏ
lòng thủy chung, cố gắng hàn gắn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ những tất cả
đều vô ích. Vốn có tính hay ghen lại vũ phu ít học.
Trương Sinh đã đối xử với nàng hết sức tàn nhẫn “mắng nhiếc, đánh đuổi nàng đi”, bỏ
ngoài tai những lời phân trần của vợ và những lời khuyên can của hàng xóm. Thất vọng
đến tột cùng Vũ Nương đành mượn dòng nước quê hương để giải tỏa nỗi lòng trong
trắng của mình. Nàng “tắm gội chay sạch ra bến sông Hoàng Giang ngửa cổ lên trời là
than rằng kẻ bạc mệnh này duyên hẩm hiu... phỉ nhổ”. Nói rồi nàng nhảy xuống sông tự
vẫn. Vũ Nương bị người thân nhất đẩy xuống bên bờ vực thẳm dẫn đến bi kịch gia đình.
Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương (thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến)
qua “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, “thà chết trong còn hơn sống
đục” với tấm lòng yêu thương con người Nguyễn Dữ không để cho sự trong sáng cao
đẹp của Vũ Nương phải chịu oan khuất nên phần cuối chuyện đầy ắp những chi tiết
hoang đường kì ảo. Sau câu chuyện của Phan Lang, Trương Sinh lập đàn giải oan cho
vợ. Nàng trở về trong thế rực rỡ uy nghi nhưng chỉ thấp thoáng trong giây lát rồi biến
mất mãi mãi. Vũ Nương mãi mất đi quyền sống, quyền hạnh phúc, quyền làm vợ, làm
mẹ. Bi kịch của Vũ Nương cũng chính là bi kịch của người phụ nữ xã hội xưa. Bi kịch ấy
không chỉ dừng ở thế kỉ XVI, XVII, XVIII mà đến đầu thế kỷ XIX Nguyễn Du từng viết
trong truyện Kiều:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Với niềm xót thương sâu sắc, Nguyễn Dữ lên án những thế lực tàn ác chà đạp lên
những khát vọng chính đáng của con người - của phụ nữ. Ông tố cáo xã hội phong kiến
với những hủ tục phi lý, trọng nam khinh nữ, đạo tam tòng bao bất công và hiện thân
của nó là nhân vật Trương Sinh, người chồng ghen tuông mù quáng, vũ phu sống với
hủ tục là thế lực đồng tiền bạc án nên Trương Sinh con nhà hào phú một lúc bỏ ra trăm
lạng vàng để cưới Vũ Nương. Ngoài ra ông còn tố cáo chiến tranh phi nghĩa đã làm phá
vỡ hạnh phúc gia đình của con người.
Như vậy bằng cách xây dựng truyện hết sức độc đáo là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố
tự sự, trữ tình và yếu tố thực ảo. Chuyện “Người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ
mang đến cho chúng ta bao ấn tượng tốt đẹp. Truyện ca ngợi Vũ Nương có đầy đủ
phẩm chất tốt đẹp mang tính truyền thống nhưng cuộc đời nàng lại là những trang buồn
đầy nước mắt. Vẻ đẹp số phận của nàng cũng là vẻ đẹp số phận của người phụ nữ
trong xã hội phong kiến cũ. Ngày nay chúng ta được sống trong thế giới công bằng dân
chủ, văn minh người phụ nữ là một nửa của thế giới họ được hưởng những quyền lợi
mà nam giới được hưởng. Vậy chúng ta hãy phát huy những vẻ đẹp truyền thống của
người phụ nữ xưa và thương cảm trước số phận của họ
Cảm nhận nhân vật Vũ Vương mẫu 4
Vũ Nương quê ở Nam Xương, thùy mị nết na, xinh đẹp. Cuộc đời của Vũ Nương thật là
ngắn ngủi, nhưng nàng đã làm tròn bổn phận của người phụ nữ. Biết giữ gìn khuôn
phép, vì vậy cuộc sống gia đình trong ấm ngoài êm. Trương Sinh đi lính, nàng phải
gánh bao vất vả phải sinh nở và nuôi con một mình chăm sóc mẹ già khi ốm đau, khi mẹ
mất lo toan như cho mẹ mình. Nàng đã làm tròn bổn phận làm dâu. làm vợ, làm mẹ.
Vũ Nương cũng giống như bao nhiêu người chinh phụ khác, lúc nào nàng cũng ước
mong người chồng trở về đoàn tụ. Khát vọng hạnh phúc ấy thật là bình thường giản dị.
Người chinh phụ trong tác phẩm Chinh phụ ngâm luôn khao khát chồng đi lính sẽ được
phong tước, phong hầu, để rồi một ngày kia “võng anh đi trước, võng nàng theo sau”.
Còn Vũ Nương chẳng ham công danh, võng lọng chỉ xin ngày về mang theo hai chữ
“bình yên”. Vũ Nương xem trọng hạnh phúc gia đình, xem đó là tất cả của cuộc đời
mình.
Trương Sinh trở về, ước mong của Vũ Nương sắp trở thành hiện thực nhưng không
ngờ lại có một cuộc chia li vĩnh viễn.
Trương Sinh bế con, nó không theo, chàng dỗ con. Không ngờ thằng bé ngây thơ lại
nói: Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Cha tôi chỉ nín thin thít… Trương Sinh gặng hỏi con,
thì đã được bé Đản nói rõ ràng: Cha nó ngày nào cũng đến, mẹ nó đi cha nó cũng đi
theo, vốn tính cả ghen, Trương Sinh cho rằng có người đàn ông thứ hai xen vào gia
đình mình.
Nghi ngờ này sẽ được giải tỏa nếu Trương Sinh cho biết câu nói của con. Trương Sinh
không làm như vậy. Cái thói ghen tuông thô lỗ ăn sâu vào tâm trí, khiến cho Trương
Sinh mất lí trí, thiếu tỉnh táo đã mắng nhiếc Vũ Nương thậm tệ rồi đánh đuổi nàng đi.
Trương Sinh bất chấp những lời thanh minh, van xin tha của Vũ Nương, khiến nàng chỉ
còn một con đường lấy cái chết để giãi bày lòng mình.
Từ đây ta nhận thấy nguyên nhân cái chết của Vũ Nương còn do: Chiến tranh li tán, vợ
phải xa chồng tạo nên mối ngờ vực, xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ.
Cái chết của Vũ Nương đã chứng minh rằng: Hạnh phúc lứa đôi chỉ có thể được xây
dựng trên cơ sở của tình yêu thương chân chính, có sự cảm thông và sẻ chia.
Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương mẫu 5
Vũ Nương là nhân vật tiêu biểu cho người phụ nữ đức hạnh ở xã hội phong kiến nhưng
phải chịu số phận oan khuất. Câu chuyện vừa có ý nghĩa ca ngợi vẻ đẹp của lòng vị tha,
đức hạnh vừa thể hiện ước mơ muôn thủa của con người, người tốt bao giờ cũng được
đền trả xứng đáng dù chỉ là một thế giới huyền bí, ảo ảnh.
Vũ Nương là người phụ nữ có phẩm chất đức hạnh. Tác giả giới thiệu là người phụ nữ
thùy mị, nết na lại thêm tư dung tốt đẹp. Và để làm nổi bật vẻ đẹp này nhà văn đã đặt
nhân vật vào các hoàn cảnh tình huống cụ thể. Khi mới lấy chồng Vũ Nương cư xử
đúng mực, nhường nhịn, giữ gìn khuôn phép lên chồng nàng có tính đa nghi đối với vợ,
phòng ngừa quá mức nhưng gia đình vẫn chưa từng phải đến bất hòa.
Khi chồng đi lính Vũ Nương rót chén rượu đầy dặn dò chồng những lời tình nghĩa đằm
thắm thiết, nàng không mong vinh hiển mà chỉ cầu mong chồng được trở về bình yên.
Cảm thông với những vất vả gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng nơi trận mạc nói lên
nỗi khắc khoải nhớ nhung của mình. Những lời nói ân tình của nàng khiến mọi người
đều xúc động.
Khi Trương Sinh ở ngoài mặt trận Vũ Nương càng tỏ rõ mình là người vợ thủy chung
yêu thương chồng hết mực. Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn – Cảnh vui mùa xuân
hay mây che kín núi – Cảnh buồn mùa đông. Nàng lại chảy nỗi buồn thương, nhớ
nhung da diết lại thổn thức tâm tình, tiết hạnh của nàng còn được khẳng định: Trong
câu nói sau này của chồng cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã
nguôi lòng, ngỡ liễu tường hoa chưa hề bén gót.
Khi chồng đi vắng nàng sinh con một mình, vừa nuôi con nhỏ vừa chăm lo săn sóc mẹ
chồng khi già yếu ốm đau hết sức thuốc thang lễ bái thần phật, lấy lời ngọt ngào khuyên
bảo. Phẩm hạnh của nàng được ghi nhận trong lời trăn trối của mẹ chồng. Đó là sự
đánh khách quan. Khi mẹ chồng mất nàng hết lòng lo việc ma chay, tế lễ lo liệu như cha
mẹ đẻ.
Khi chiến tranh kết thúc Trương Sinh trở về lẽ ra nàng được đón nhận một cuộc sống
hạnh phúc. Tuy nhiên vì lời nói vô tình ngây thơ của con, một sự hiểu nhầm bởi tính đa
nghi quá mức. Phải kết thúc cuộc đời mình khi quá trẻ.
Vì người chồng thất học lại hay ghen, độc đoán truyền quyền đã không bộc bạch lời nói
của con cho mình biết lại còn không chịu nghe lời giãi bày phân trần, không chịu động
lòng trước thái độ khổ đau của vợ. “Cách biệt 3 năm… cho thiếp”. Lời nói này của Vũ
Nương không chỉ nhằm minh oan mà nàng còn cố gắng tìm mọi cách để hàn gắn hạnh
phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ. Nhưng điều đó đâu có được Trương Sinh chấp
nhận, khi họ hàng làng xóm bênh vực cho nàng nhưng Trương Sinh không tin. Như vậy,
ngay cả quyền tự bảo vệ mình và được người khác làm chứng minh oan cũng không
có, nàng đau đớn thất vọng mà than: “Thú vui nghi gia nghi thất… ngay cả ước nguyện
cũng không được giãi bày”.
Mọi cố gắng của Vũ Nương đều không được chấp nhận. Tiết hạnh không được tỏ bày,
thất vọng tột cùng nàng mượn dòng sông Hoàng Giang minh chứng tấm lòng trong
sáng, rửa sạch tiếng nhơ oan ức. “Kẻ bạc mệnh này… khắp mọi người phỉ nhổ”. Lời
than vừa là lời giãi bày vừa là lời thề nguyền cùng trời đất của kẻ bạc mệnh đầy đau
khổ. Cái chết đau đớn của Vũ Nương cũng là sự đầu hàng của con người trước số
phận. Nguyễn Dữ đã thốt lên:
“Đau đớn thay thân phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
Qua câu chuyện từ nhiều thế kỉ trước bằng năng lực sáng tạo của mình Nguyễn Dữ đã
xây dựng nhân vật có chiều sâu hơn, các chi tiết kì ảo được mô tả vừa lung linh vừa
hiện thực tạo lên vẻ đẹp riêng của tác phẩm. Vũ Nương là người phụ nữ thủy chung,
đức hạnh vẹn toàn mà vô cùng bất hạnh. Tác phẩm là lời tố cáo hiện thực xã hội phong
kiến đương thời nêu bật thân phận nỗi đau của người phụ nữ trong bi kịch gia đình.
Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương mẫu 6
Tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương đã để lại trong lòng người đọc những
cảm xúc khó phai về số phận của người phụ nữ Việt Nam trong chế độ cũ. Hình ảnh
người con gái Vũ Nương phải gieo mình xuống dòng sông Nhị Hà để chứng minh sự
trong trắng trinh bạch của mình, khi bị chồng nghi oan, khiến cho người đọc vô cùng
cảm động, rơi nước mắt xót xa.
Vũ Nương vốn là người con gái thùy mị, đoan trang nhưng do tính đa nghi của người
chồng. Do xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, coi trọng tiếng nói, uy quyền của
người đàn ông hơn phụ nữ đã khiến cho nàng phải chết oan khuất như vậy. Thông qua
tác phẩm của mình tác giả Nguyễn Dữ muốn bày tỏ niềm xót xa với những người phụ
nữ thời xưa, thể hiện tinh thần nhân văn nhân đạo của tác giả.
Vũ Nương tên cha mẹ đặt cho nàng là Vũ Thị Thiết, vốn là người con gái nết na, xinh
đẹp, khéo tay được nhiều chàng trai để ý thầm thương trộm nhớ. Nhưng năm nàng tròn
đôi chín, có chàng trai tên Trương Sinh, gia cảnh neo đơn, nhà chỉ có một mẹ một con
đến xin hỏi cưới làm vợ với giá một trăm lạng vàng.
Chính trong phong tục cưới vợ ngày xưa đã cho thấy người phụ nữ không hề có quyền
quyết định vận mệnh tương lai, hạnh phúc của mình. Nàng tuy là một con người có suy
nghĩ, tính cách của riêng mình nhưng chuyện cưới hỏi, chuyện hạnh phúc trăm năm
nàng lại phải nghe lời cha mẹ hai bên. Nàng được hỏi cưới với giá một trăm lạng vàng
chẳng khác nào được bán với một trăm lạng vàng.
Từ ngày về làm dâu, làm vợ Trương Sinh, Vũ Nương luôn hiếu thuận với mẹ chồng, là
người vợ hiền dâu thảo, không để gia đình chồng chê trách điều gì. Nàng luôn chu đáo
lo toan trong ngoài. Từ xưa tới nay những người con dâu như nàng thật hiếm thấy.
Nàng và Trương Sinh cũng tâm đầu ý hợp không bao giờ xảy ra to tiếng, cãi vã bất hòa
bởi Vũ Nương luôn coi lời chồng và mẹ chồng là quan trọng nhất. Với đức tính ngoan
hiền, dịu dàng, thùy mị nết na của mình Vũ Nương luôn giữ gìn gia đình của mình hạnh
phúc ấm êm.
Những hạnh phúc ngắn ngủi, Trương Sinh phải gia nhập quân ngũ đi đánh giặc ngoài
chiến trường, khi mà Vũ Nương vừa luôn giữ tròn đạo vợ hiền, dâu thảo, nàng chăm
sóc mẹ chồng, giữ gìn đức hạnh mới mang thai. Dù xa chồng nhưng Vũ Nương chờ
chồng, thủy chung trước sau như một. Không một chút tà tâm, hay có lòng dạ không
chung thủy, yếu lòng với ai đó. Nhưng chẳng bao lâu khi Trương Sinh đi xa, mẹ chồng
của nàng ốm bệnh, dù đã cố gắng chạy chữa thuốc thang nhưng bà không qua khỏi mà
mất đi, bỏ lại Vũ Nương một mình với đứa con nhỏ.
Hai mẹ con nuôi nhau sống qua ngày, chờ ngày Trương Sinh trở về. Nhiều đêm buồn
nhớ chồng Vũ Nương thường chỉ bóng mình trên tường nói với con trai đó chính là ba
con đó. Thằng bé ngây thơ tưởng thật. Nó đâu biết rằng đó chỉ là cái bóng của mẹ nó
mà thôi.
Chiến tranh kết thúc ngày Trương Sinh trở về nhà, Vũ Nương vui mừng khôn xiết,
những tưởng năm tháng chờ chồng nuôi con một mình đã được báo đáp. Nhưng sóng
gió đã ập đến với nàng một cách không ngờ. Khi về tới nhà nghe tin mẹ mất Trương
Sinh đau xót vô cùng, anh chàng liền bế con trai của mình đi ra mộ mẹ thắp hương cho
mẹ yên lòng. Nhưng thằng bé cứ khóc mãi không chịu nín nó nhất định không chịu nhận
Trương Sinh là cha. Nó bảo cha nó tối nào cũng tới.
Trương Sinh nóng tính, hay ghen, lại quá đa nghi nên vội vã tin lời con trẻ, không cho
vợ được giải thích mà đùng đùng nổi giận đuổi vợ ra khỏi nhà. Quá đau đớn vì không
thể thanh minh sự trong sạch của mình nên Vũ Nương đã nhảy xuống sông Nhị Hà tự
vẫn. Trước nỗi oan khuất quá lớn Vũ Nương không thể nào sống tiếp trên cõi đời này
được nữa.
Người con gái tên Vũ Nương đó đã phải chết trong oan khuất, tủi hờn như vậy. Nhưng
do phẩm giá cao quý và đức hạnh của nàng đã làm trời đất cảm động. Cuối cùng thì
nàng cũng được giải oan, khi mà Trương Sinh trong một đêm không ngủ ngồi soi bóng
mình trên tường thì con trai anh nhìn thấy nó vui mừng nói lớn "Cha con đó". Trương
Sinh biết mình đã nghi oan cho vợ nhưng hối hận thì đã muộn màng. Còn Vũ Nương
sau khi chết được cứu giúp rồi được lập đàn siêu thoát bay về trời làm tiên nữ, thoát
kiếp con người khổ đau bất hạnh.
Chuyện người con gái Nam Xương nhằm tố cáo tội ác của chế độ phong kiến, người
đàn ông luôn cậy quyền lực mà đàn áp người phụ nữ khiến cho nhiều người phụ nữ
phải chịu thiệt thòi, oan khuất. Nhân vật Vũ Nương là người con gái hiền dịu nết na, là
tấm gương cho nhiều nhiều phụ nữ noi theo. Cô là người đức hạnh, hiền thục rất tiếc
rằng cuộc đời lại không cho cô gặp được một người chồng tốt, không cho cô được
quyết định hạnh phúc của đời mình.
Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương mẫu 7
Nguyễn Dữ sống ở thế kỷ XVI quê ở huyện Trường Tân nay là Thanh Miện – Hải
Dương. Ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Các tác phẩm của ông đã
đóng góp rất lớn cho nền văn học trung đại Việt Nam. Điển hình là "Truyền kỳ Mạn Lục"
gồm có hai mươi câu chuyện nhỏ. Trong đó tiêu biểu là chuyện người con gái Nam
Xương là câu chuyện thứ 16 của Truyền Kỳ Mạn Lục, được bắt đầu từ truyện "vợ chàng
Trương". Truyện thể hiện niềm thương cảm sâu sắc của tác giả trước số phận bất hạnh
của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, đồng thời ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp
của họ qua nhân vật chính Vũ Nương.
Trước tiên Vũ Nương là người phụ nữ mang nhiều phẩm chất tốt đẹp, là người phụ nữ
bình dân xuất thân từ gia đình nghèo nhưng nàng vừa có nhan sắc, vừa có đức hạnh.
Tính đã thùy mị nết na lại thêm tư duy tốt đẹp.
Vẻ đẹp của Vũ Nương mang vẻ đẹp của một người phụ nữ - của chiếc bánh trôi trong
thơ của Hồ Xuân Hương "vừa trắng lại vừa tròn". Vì vậy Trương Sinh con nhà hào phú
đã xin với mẹ trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ, cuộc hôn nhân không bình đẳng, đã
vậy Trương Sinh lại có tính đa nghi, hay ghen. Vậy mà trong đạo vợ chồng nàng tỏ ra là
một phụ nữ thông minh, đôn hậu, biết chồng có tính đa nghi hay ghen nàng đã "luôn giữ
gìn khuôn phép... thất hòa" chứng tỏ nàng rất khéo léo trong việc vun vén hạnh phúc gia
đình.
Sống trong thời loạn lạc nên cuộc sum vầy chưa được bao lâu thì Trương Sinh tòng
quân đi lính nơi biên ải. Buổi tiễn chồng ra trận nàng rót chén rượu đầy chúc chồng bình
yên "chàng đi chuyến này thiếp chẳng mong... thế là đủ rồi". Ước mong của nàng thật
giản dị chỉ vì nàng coi trọng hạnh phúc gia đình hơn mọi công danh phù phiếm ở đời.
Những năm xa cách Vũ Nương thương nhớ chồng khôn xiết kể: "Mỗi khi bướm lượn
đầy vườn mây che kín núi thì nỗi buồn chân trời góc bể lại không thể nào ngăn được"
Tâm trạng thương nhớ ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của nhiều người
chinh phụ trong thời loạn lạc ngày xưa.
"Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong"
(Chinh phụ ngâm khúc - Đoàn Thị Điểm)
Thể hiện tâm trạng ấy Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau xa cách chồng của Vũ
Nương vừa ca ngợi tấm lòng chung thủy của nàng.
Không chỉ là một người vợ chung thủy, Vũ Nương còn là một người mẹ hiền, người con
dâu hiếu thảo, chàng ra trận vừa tròn tuần thì nàng sinh con nuôi dạy con khôn lớn. Để
bù đắp thiếu vắng cha của con nàng chỉ chiếc bóng của mình trên tường và nói là cha
Đản, còn với mẹ chồng già yếu nàng chăm sóc mẹ rất chu đáo, thuốc thang phụng
dưỡng như cha mẹ đẻ của mình. Nàng đã làm chọn chữ "công" với nhà chồng. Đây là
điều rất đáng trân trọng của Vũ Nương bởi thời xưa quan hệ mẹ chồng nàng dâu dường
như chưa bao giờ êm đẹp và chứa đầy những định kiến khắt khe.
Tấm lòng của nàng đã được người mẹ chồng ghi nhận, điều này thể hiện qua những lời
trăn trối của bà trước khi qua đời "Sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức giống
dòng tối tươi, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ". Vũ
Nương chính là người phụ nữ lý tưởng trong xã hội ngày xưa: Công, dung, ngôn, hạnh.
Là người phụ nữ có bao phẩm chất tốt đẹp đáng lẽ nàng phải được hưởng cuộc sống
hạnh phúc chí ít cũng như nàng mong ước đó là thú vui nghi gia, nghi thất - vợ chồng
con cái sum họp bên nhau. Thế nhưng cuộc sống của Vũ Nương cũng như cuộc đời
của người phụ nữ xưa là những trang buồn đầy nước mắt. Bất hạnh của nàng bắt đầu
từ khi giặc tan Trương Sinh trở về, chuyện cái bóng của con thơ đã là Trương Sinh ngờ
vực, rồi kết tội Vũ Nương. Chàng đinh ninh là vợ hư, nàng hết lời phân trần để bày tỏ
lòng thủy chung, cố gắng hàn gắn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ những tất cả
đều vô ích. Vốn có tính hay ghen lại vũ phu ít học.
Trương Sinh đã đối xử với nàng hết sức tàn nhẫn "mắng nhiếc, đánh đuổi nàng đi", bỏ
ngoài tai những lời phân trần của vợ và những lời khuyên can của hàng xóm. Thất vọng
đến tột cùng Vũ Nương đành mượn dòng nước quê hương để giãi tỏ nỗi lòng trong
trắng của mình. Nàng "tắm gội chay sạch ra bến sông Hoàng Giang ngửa cổ lên trời là
than rằng kẻ bạc mệnh này duyên hẩm hiu... phỉ nhổ". Nói rồi nàng nhảy xuống sông tự
vẫn. Vũ Nương bị người thân nhất đẩy xuống bên bờ vực thẳm dẫn đến bi kịch gia đình.
Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương (thân phận người phụ nữ trong XHPK) qua "Chuyện
người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ, "thà chết trong còn hơn sống đục" với tấm
lòng yêu thương con người Nguyễn Dữ không để cho sự trong sáng cao đẹp của Vũ
Nương phải chịu oan khuất nên phần cuối chuyện đầy ắp những chi tiết hoang đường kì
ảo. Sau câu chuyện của Phan Lang, Trương Sinh lập đàn giải oan cho vợ. Nàng trở về
trong thế rực rõ uy nghi nhưng chỉ thấp thoáng trong giây lát rồi biến mất mãi mãi. Vũ
Nương mãi mất đi quyền sống, quyền hạnh phúc, quyền làm vợ, làm mẹ. Bi kịch của Vũ
Nương cũng chính là bi kịch của người phụ nữ xã hội xưa. Bi kịch ấy không chỉ dừng ở
thế kỉ XVI, XVII, XVIII mà đến đầu thế kỷ XIX Nguyễn Du từng viết trong truyện Kiều:
"Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung"
Với niềm xót thương sâu sắc Nguyễn Dữ lên án những thế lực tàn ác chà đạp lên
những khát vọng chính đáng của con người – của phụ nữ. Ông tố cáo xã hội phong kiến
với những hủ tục phi lý, trọng nam khinh nữ, đạo tam tòng bao bất công và hiện thân
của nó là nhân vật Trương Sinh, người chồng ghen tuông mù quáng, vũ phu sống với
hủ tục là thế lực đồng tiền bạc án nên Trương Sinh con nhà hào phú một lúc bỏ ra trăm
lạng vàng để cưới Vũ Nương. Ngoài ra ông còn tố cáo chiến tranh phi nghĩa đã làm phá
vỡ hạnh phúc gia đình của con người.
Như vậy bằng cách xây dựng truyện hết sức độc đáo là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố
tự sự, trữ tình và yếu tố thực ảo. Chuyện "Người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ
mang đến cho chúng ta bao ấn tượng tốt đẹp. Truyện ca ngợi Vũ Nương có đầy đủ
phẩm chất tốt đẹp mang tính truyền thống nhưng cuộc đời nàng lại là những trang buồn
đầy nước mắt. Vẻ đẹp số phận của nàng cũng là vẻ đẹp số phận của người phụ nữ
trong xã hội phong kiến cũ. Ngày nay chúng ta được sống trong thế giới công bằng dân
chủ, văn minh người phụ nữ là một nửa của thế giới họ được hưởng những quyền lợi
mà nam giới được hưởng. Vậy chúng ta hãy phát huy những vẻ đẹp truyền thống của
người phụ nữ xưa và thương cảm trước số phận của họ.
Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương mẫu 8
"Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương".
Ngàn năm trôi qua, làn khói viếng "miếu vợ chàng Trương" vẫn muôn đời lan tỏa, vấn
vương, như tiếc như thương cho số phận đầy bi kịch của Vũ Nương. Bằng ngòi bút đầy
trân trọng trong "Chuyện người con gái Nam Xương", Nguyễn Dữ đã tạc vào lịch sử văn
học Việt Nam hình ảnh một người phụ nữ thời phong kiến, một Vũ Nương, đại diện cho
cái đẹp hoàn mỹ. Nhưng đáng tiếc thay, cuộc đời nàng lại chất chứa những trang buồn
đầy nước mắt.
Tên nàng là "Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương", đã đẹp người lại đẹp nết.
Trương Sinh, chồng nàng, là một người thất học lại thêm tính đa nghi. Khi binh đao loạn
lạc, Trương phải ra trận. Một tuần sau, nàng sinh con trai đầu lòng và một mình chăm
sóc mẹ chồng, lo tang ma khi mẹ chồng mất. Giặc tan, chàng Trương về, nghe lời con
trẻ mà nghi ngờ lòng thủy chung của vợ. Vũ Nương không minh oan được nên đành
trẫm mình, nhưng nàng được Linh Phi ở động Rùa cứu giúp. Sau đó, nàng gặp Phan
Lang, người hàng xóm đã cứu Linh Phi, nhờ Phan Lang gửi hộ lời với chàng Trương.
Trương Sinh hối cải, lập đàn giải oan theo lời Vũ Nương. Nàng hiện lên gặp chồng con
rồi lại quay về động Rùa vì hai người đã "âm dương đôi đường". Nhưng hình ảnh Vũ
Nương không dừng lại ở đó mà còn mãi vấn vương trong lòng người đọc bởi nét đẹp
hoàn mỹ cũng như số phận oan khuất và cái chết đầy bi thảm của nàng.
Vũ Nương chính là đại diện cho vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam dưới
chế độ phong kiến. Không như Nguyễn Du miêu tả thật tinh tế nét đẹp "nghiêng nước
nghiêng thành" của Thúy Kiều, Nguyễn Dữ chỉ điểm qua nhẹ nét đẹp của Vũ Nương: "tư
dung tốt đẹp". Nhưng chỉ bằng một chi tiết nhỏ ấy, tác giả đã phần nào khắc họa được
hình ảnh một cô gái có nhan sắc xinh đẹp. Cũng bởi "mến vì dung hạnh" nên chàng
Trương đã lấy nàng làm vợ. Nhưng chữ "dung" ấy, vẻ đẹp hình thức ấy, chẳng thể nào
tỏa sáng ngàn đời như vẻ đẹp tâm hồn nàng. Vũ Nương "vốn con kẻ khó", song rất mực
tuân theo "tam tòng tứ đức", giữ trọn lề lối gia phong và phẩm hạnh của chính mình.
Thế nên, nàng rất "thùy mị, nết na". Trong gia đình chồng, nàng luôn "giữ gìn khuôn
phép, không để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa". Thế là, "hạnh", một trong những
tiêu chuẩn đánh giá con người, nàng đã vẹn tròn. Lễ nghĩa, nàng cũng thông hiểu, am
tường. Tuy chẳng phải tiểu thư khuê các, con nhà quyền quý nhưng lời nàng nói ra dịu
dàng như vàng như ngọc. Ngày tiễn chồng ra trận, nàng đã dặn rằng: "Chàng đi chuyến
này, thiếp chẳng mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày
về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi". Từng lời, từng chữ nàng thốt ra
thấm đẫm tình nghĩa vợ chồng thủy chung, son sắt, khiến "mọi người đều ứa hai hàng
lệ". Phận làm vợ, ai chẳng mong phu quân mình được phong chức tước, áo gấm về
làng. Còn nàng thì không. Nàng chỉ ước ao giản dị rằng chàng Trương trở về được bình
yên để có thể sum họp, đoàn tụ gia đình, hạnh phúc ấm êm như ngày nào. Nhưng mong
ước của nàng đã không thực hiện được. Bị chồng một mực nghi oan, Vũ Nương tìm
mọi lời lẽ để chứng minh sự trong sạch của mình. Nàng vẫn đoan trang, đúng mực, chỉ
nhẹ nhàng giải thích: "Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa
thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô
son điểm phấn từng đã nguôi lòng. Ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất
nết hư thân như lời chàng nói. Xin chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp". Lời nói
của nàng luôn từ tốn, nhẹ nhàng, không quá hoa mỹ nhưng chất chứa nghĩa tình. Chỉ
qua những lời thoại, từ "ngôn" của Vũ Nương đã để lại một ấn tượng khó phai trong
lòng người đọc bởi vẻ từ tốn, tế nhị của nàng. Và cũng từ những câu nói ấy, chúng ta
cảm nhận được sự hy sinh vô bờ của nàng vì chồng con, gia đình. Khi chồng ra trận, cả
giang san nhà chồng trĩu nặng trên đôi vai gầy guộc, mỏng manh của nàng. Nàng phải
sinh con một mình giữa nỗi cô đơn lạnh lẽo, thiếu sự vỗ về, an ủi của người chồng. Thật
là một thử thách quá khó khăn với một người phụ nữ chân yếu tay mềm. Nhưng nàng
vẫn vượt qua tất cả, một mình vò võ nuôi con khôn lớn, đợi chồng về. Không những thế,
nàng còn hết lòng chăm lo cho mẹ chồng ốm nặng: "Nàng hết sức thuốc thang, lễ bái
thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn". Thời xưa, quan hệ mẹ chồng –
nàng dâu dường như chưa bao giờ êm đẹp và chứa đầy những định kiến khắt khe.
"Mẹ anh nghiệt lắm anh ơi
Biết rằng có được ở đời với nhau
Hay là vào trước ra sau
Cho cực lòng thiếp, cho đau lòng chàng".
Nhưng nàng đã yêu thương mẹ chồng như chính cha mẹ ruột của mình. Mọi việc trong
nhà đều được nàng chăm lo chu tất. Và lời trăn trối cuối cùng của mẹ chồng như một lời
nhận xét, đánh giá, một phần thưởng xứng đáng với những công lao và sự hy sinh cao
cả của nàng vì gia đình nhà chồng: "Xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã
chẳng phụ mẹ". Tác giả đã một lần nữa nhắc lại: "Nàng hết lời thương xót, phàm việc
ma chay tế lễ, lo liệu như với cha mẹ đẻ mình", như tô đậm tình yêu thương của nàng
đối với mẹ chồng. Vũ Nương là một nàng dâu đảm đang, thảo hiền trong mắt tất cả mọi
người. Vậy là cả "công – dung – ngôn – hạnh" nàng đều vẹn toàn. Nàng chính là đỉnh
cao của sự hoàn mỹ về cả vẻ đẹp hình thức lẫn tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam
xưa dưới chế độ phong kiến. Song, số phận chẳng hề mỉm cười với nàng.
Cuộc đời Vũ Nương tiêu biểu cho số phận oan trái của người phụ nữ Việt Nam dưới
chế độ phong kiến. Nàng gặp bao bất hạnh trên đường đời. Chiến tranh tàn khốc đã
khiến bao gia đình li tán. Trước cảnh đất nước binh đao loạn lạc, Trương Sinh phải đi
lính, giao phó cả giang san nhà chồng trên đôi vai bé nhỏ của người thiếu phụ. Tất cả
mọi việc trong nhà đều trông cậy vào nàng. "Khi xa chồng vừa đầy tuần thì sinh ra một
đứa con trai, đặt tên là Đản". Thiếu vắng sự quan tâm, săn sóc của người chồng, song
nàng vẫn nuôi nấng, dạy dỗ con thơ khôn lớn, trưởng thành. Vừa một mình chăm sóc,
thuốc thang cho mẹ chồng, Vũ Nương vừa sinh con trai, lại thầm lặng, tần tảo nuôi con
và cũng một mình lo ma chay, chôn cất mẹ chồng chu đáo. Từng ngày từng ngày trôi,
bấy giờ, trên đôi vai bé nhỏ của nàng khó khăn lại chồng chất khó khăn. Rồi chiến tranh
cũng qua, cứ ngỡ Vũ Nương lại được sum họp gia đình, đoàn viên cùng chàng Trương,
được sống trong hạnh phúc lứa đôi mà nàng hằng ao ước. Nàng đâu biết rằng bi kịch
cuộc đời nàng sắp bắt đầu. Những ngày xa chồng, nàng đã âm thầm nuôi con, và nàng
xót xa biết bao khi nhìn cảnh con thơ thiếu vắng sự chăm sóc, yêu thương của người
cha. Thế là nàng đã chỉ bóng mình trên tường mà bảo với con rằng ấy chính là cha Đản.
Hành động ấy chẳng phải vì nàng quá thương nhớ chồng mà xuất phát từ tấm lòng yêu
thương con vô bờ của một người mẹ. Nhưng nàng sẽ chẳng bao giờ ngờ được rằng
nàng chết chính bởi cái bóng của chính mình. Ngày Trương Sinh về, nghe lời con thơ
dại mà hàm oan vợ: "Trước đây có người đàn ông đêm nào cũng đến. Mẹ Đản đi cũng
đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả". Trương Sinh vốn là tên
thất học, lại thêm "tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức". Lời nói ngây thơ của
bé Đản chứa đầy những chi tiết đáng ngờ, như đổ thêm dầu vào lửa. Tính đa nghi của
Trương Sinh đã dâng lên đến cao trào và một mực "đinh ninh là vợ hư". Chàng không
còn đủ bình tĩnh để phán đoán, phân tích, bỏ ngoài tai những lời phân trần của vợ,
không tin cả những nhân chứng bênh vực cho nàng, cũng nhất quyết không nói ra
nguyên cớ để nàng có cơ hội minh oan. Và Trương Sinh thoáng chốc hóa một kẻ vũ
phu, thô bạo, "mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi". Vượt qua được mọi gian lao, vất vả
trong chiến tranh để vẹn tròn phận dâu thảo hiền nhưng Vũ Nương không thể vượt qua
nổi bức tường của chế độ nam quyền độc đoán, bất công, tàn bạo. Lời nói của nàng
đầy thương tâm: "Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu". Ngay từ đầu, cuộc
hôn nhân giữa nàng và chàng Trương đã có phần không bình đẳng và mang tính chất
một cuộc trao đổi, mua bán: Trương Sinh "xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về".
Điều ấy khiến chúng ta chạnh lòng nhớ đến tình cảnh một Thúy Kiều khi phải bán mình
chuộc cha:

Powered By
"Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm".
Sự cách bức về địa vị xã hội như thế đã tạo cho Trương Sinh một cái thế bên cạnh
những uy quyền vốn có của người chồng, người đàn ông trong gia đình gia trưởng
phong kiến. Chính cái gia đình "chồng chúa vợ tôi", "phu xướng phụ tùy" ấy đã khiến
nàng bị khinh rẻ, đối xử tệ bạc. Một người vợ vốn đức hạnh, ngoan hiền, vâng theo cả
"tam tòng tứ đức" lại phải mang tiếng xấu "hư thân mất nết". Mọi lời mắng nhiếc của
Trương Sinh như chà đạp lên phẩm giá cao đẹp mà nàng đã gìn giữ cả một đời. Khi xa
chồng, Vũ Nương là người vợ thủy chung, yêu chồng tha thiết, nỗi buồn nhớ cứ dài theo
những "bướm lượn đầy vườn", "mây che kín núi". Thế mà khi vừa mới sum họp hạnh
phúc, nàng lại bị gán cho tội danh: "lừa chồng dối con". Thật đau đớn, thật tủi nhục! Bi
kịch của cuộc đời Vũ Nương chính từ lễ giáo bất công và chế độ nam quyền. Người đàn
ông với những quyền hành về số phận, cuộc đời người phụ nữ đã đẩy Vũ Nương vào
đường cùng không lối thoát. Cái chết oan khuất, xót xa của Vũ Nương, ai có thể ngờ
người gây ra thảm kịch ấy chính là chồng và con nàng, những người thân mà nàng hết
mực yêu thương, chăm sóc. Nàng, một người con gái luôn khao khát hạnh phúc dù chỉ
nhỏ nhoi, bình dị nhưng cho đến khi trẫm mình xuống sông thì cuộc đời nàng đúng là
một chuỗi dài những bi kịch. Hạnh phúc đâu quá xa vời mà xã hội phong kiến ấy không
cho nàng chạm tay đến tận hưởng "thú vui nghi gia nghi thất" một lần duy nhất trong
đời. Nỗi oan của nàng thấu cả trời xanh. Ngày xưa, Quan Âm Thị Kính mắc oan giết
chồng bởi "tình ngay lý gian". Nhưng nàng Thị Kính cũng còn hiểu ra nỗi oan khuất của
mình từ đâu mà thành. Còn khi đã chìm sâu dưới dòng nước, Vũ Nương vẫn không hề
biết rằng mình phải chết vì đâu. Bi kịch của Vũ Nương là một lời tố cáo xã hội phong
kiến xem trọng quyền uy của kẻ giàu và của người đàn ông trong gia đình, đồng thời
bày tỏ niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ. Người phụ nữ
đức hạnh không những không được bênh vực, che chở mà lại còn bị đối xử một cách
bất công, vô lý; chỉ vì lời nói ngây thơ của đứa trẻ miệng còn hôi sữa và vì sự hồ đồ, vũ
phu của anh chồng ghen tuông mà đến nỗi phải kết liễu cuộc đời mình. Phải chăng
đằng sau nỗi oan của nàng còn bao nhiêu nỗi oan của những người phụ nữ khác trong
chế độ phong kiến bị rẻ rúng, suốt đời sống trong câm lặng.
Xót thương trước nỗi đau khổ vì bị chà đạp của những người phụ nữ, Nguyễn Dữ như
muốn minh oan và bù đắp cho những đức tính tốt đẹp của nàng bằng một cuộc sống
khác với dương gian. Nhưng ở chốn "làng mây cung nước", Vũ Nương chẳng thể nào
nguôi nỗi nhớ về những oan ức, bĩ cực ở cõi trần. Sống giữa cõi tiên huyền ảo, đẹp diệu
kỳ nhưng nàng dường như không bao giờ dứt tình nghĩa gia đình, mãi khóc thương
cảnh gia đình tiêu điều xơ xác. Nàng xin lập đàn giải oan, khao khát được trả lại danh
dự của một người con gái đức hạnh. Và cuối cùng, nỗi oan của nàng đã được giải. Từ
chốn thủy cung, Vũ Nương "ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng giữa dòng, theo sau có
đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng, rực rỡ sắc màu, lúc ẩn, lúc hiện". Nhưng xót
xa thay, nàng "chẳng thể trở về nhân gian được nữa". Nỗi oan tình của nàng đã được
minh oan, giải tỏa nhưng âm dương đôi đường cách trở, nàng chẳng bao giờ được làm
vợ, làm mẹ chốn cõi trần. Bé Đản mãi mãi là một đứa bé mồ côi mẹ. Nếu nàng được trở
về với cõi trần thì liệu xã hội phong kiến bất công không có nơi dành cho cái đẹp này có
dành cho nàng một cuộc sống ấm êm, bình yên, hay một lần nữa, nàng phải đau đớn,
buồn khổ. Dù quay về chốn tiên cảnh xinh đẹp, nhưng cuối cùng, mơ ước cả đời của
nàng, hạnh phúc "nghi gia nghi thất", chỉ mãi là ước mơ hảo huyền.
Hình tượng nhân vật Vũ Nương là hiện thân của lòng vị tha và vẻ đẹp người phụ nữ.
Song cuộc đời nàng gặp nỗi bi kịch lớn. Ấy chính là tấn bi kịch của người phụ nữ Việt
Nam trong chế độ phong kiến tàn ác, chế độ của sự lạc hậu và cả bóng đêm vĩnh cửu.
Điều đó khiến chúng ta phải chạnh lòng trước số phận của người phụ nữ.
"Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung"
Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương mẫu 9
Nguyễn Dữ là nhà văn xuất sắc trong nền văn học trung đại Việt Nam. Ông học rộng tài
cao, nhưng chỉ làm quan một năm rồi lui về ở ẩn vì bất lực trước thời đại suy yếu của
phong kiến. Có thể nói "truyền kỳ mạn lục" của Nguyễn Dữ là một tác phẩm tiêu biểu
cho thể loại truyền kỳ ở Việt Nam, trong đó "người con gái Nam Xương" dựa trên tích
truyện dân gian nhưng với tài năng sự sáng tạo tuyệt vời và lòng yêu con người tha
thiết, Nguyễn Dữ đã làm bao bạn đọc phải rơi lệ xót thương cho cuộc đời và số phận
của Vũ Nương – một người phụ nữ đức hạnh nhưng có số phận bất hạnh.
Mở đầu trang - truyện, tác giả Nguyễn Dữ đã giới thiệu Vũ Nương là một người con gái:
"thùy mị, nết na, tư dung tốt đẹp". Mặc dù con nhà nghèo lấy chồng giàu lại có tính đa
nghi ít học nhưng do hiền lành nết na lại thông minh, khéo cư xử nên nàng đã san bằng
được khoảng cách "môn đăng hộ đối" – một quan điểm nặng nề của lễ giáo phong kiến
và giữ được không khí trong gia đình yên ấm, hạnh phúc "chưa từng xảy ra thất hòa".
Có thể nói cuộc đời nàng tuy ngắn ngủi nhưng nàng đã làm tròn bổn phận của một
người vợ hiền, một người dâu thảo, người mẹ hết mực yêu con. Trước hết, Vũ Nương
là người vợ hết lòng yêu thương và thủy chung son sắt với chồng. Sống dưới thời loạn
lạc vì không có học nên tên Trương Sinh phải ghi vào sổ lính loại đầu. Trong buổi tiễn
đưa chồng ra trận, nàng rót chén rượu đầy tiễn chồng bằng lời lẽ dịu dàng, tha thiết
"chàng đi chuyến này thiếp chả dám mong đeo được ấn phong hầu mặc áo gấm trở về
quê cũ chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên thế là đủ rồi". Đọc đến đây, người
đọc xúc động trước khao khát, ước mơ bình dị của Vũ Nương. Đằng sau niềm khao
khát ước mơ ấy là cả một tấm lòng yêu thương chân thành, đằm thắm vượt ra ngoài
cám dỗ vật chất tầm thường "vinh hoa phú quý". Yêu thương chồng, nàng mong mỏi
ngày chàng bình yên trở về bởi hơn hết trong lòng nàng cái khát khao lớn nhất là được
hưởng thú vui "nghi gia nghi thất" vợ chồng sum họp, con cái đầy đàn, nàng được làm
trọn và hưởng hạnh phúc làm mẹ, làm vợ, Khi Trương Sinh ở ngoài mặt trận, tình cảm
của nàng luôn hướng về Trương Sinh. Hình ảnh "bướm lượn đầy vườn, mây che kín
núi" là hình ảnh thiên nhiên hữu tình gợi sự trôi chảy của thời gian đã khiến cho "nỗi
buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được". Tác giả đã diễn tả thật tinh tế chân
thực nỗi niềm nhớ nhung, mong mỏi kín đáo, âm thầm mà da diết của Vũ Nương. Vào
mỗi buổi tối, nàng thường trở bóng mình trên vách để bảo là cha Đản, việc làm ấy của
nàng đâu chỉ là đơn thuần chỉ để chơi đùa nói với con mà còn là lời nói với mình lòng
mình để tự an ủi mình, nàng tưởng tượng ra trong căn nhà nhỏ bé của hai mẹ con lúc
nào cũng có hình bóng của Trương Sinh, ý nghĩ ấy là làm vơi đi nỗi cô đơn trống trải
trong lòng nàng. Suốt ba năm Trương Sinh đi vắng, nàng đã giữ gìn một tiết. Tô son
điểm phấn đã từng nguôi lòng ngõ liễu tường hoa chưa hề bén góc vẫn một lòng một dạ
với chồng Trương Sinh.
Không chỉ vậy, Vũ Nương còn là một người con dâu hiếu thảo. Trong lúc chồng đi vắng,
nàng gánh vác mọi công việc, vượt cạn một mình, thay chồng phụng dưỡng mẹ già,
nuôi dạy con thơ mà không một lời kêu than phàn nàn. Khi mẹ chồng ốm, nàng hết lòng
thương xót lo ma chay chu đáo như mẹ đẻ của mình. Lời của mẹ chồng trước lúc lâm
chung "sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức giống dòng tươi tố con cháu đông
đàn xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ" đã minh chứng cho
tấm lòng yêu thương chân thành của người con có hiếu. Nàng là người mẹ hết lòng yêu
thương, chăm sóc dạy dỗ con, vào mỗi buổi tối nàng thường chỉ cái bóng trên vách và
bảo là cha Đản không chỉ để nô đùa cùng con mà còn mong con luôn nhớ tới hình bóng
của người ba, nàng còn là người phụ nữ trọng nhân phẩm. Khi bị vu oan, Vũ Nương đã
hết lời tha thiết, thanh minh thề non nguyện biển nhưng không được, nhân phẩm trong
trắng bị xúc phạm nặng nề bởi nỗi nhơ thất tiết, nàng đã phải chọn cái chết để minh
chứng cho tấm lòng trong sáng, thủy chung của mình. Mặc dù khát khao được sống
được hàn gắn hạnh phúc gia đình nhưng nàng cũng quyết đổi mạng sống của mình để
bảo vệ nhân phẩm – cái mà nàng quý hơn tất cả, yếu tố kỳ ảo được dùng đã làm hoàn
thiện hơn vẻ đẹp của Vũ Nương, ta hiểu thêm nàng là người nhân hậu, bao dung, ở
dưới thủy cung được sống đầy đủ sung sướng quan hệ giữa người với người tốt đẹp
nhưng lúc nào nàng cũng đau đáu nhớ về gia đình, chồng con, Câu nói của nàng với
Phan Lang khiến người đọc rưng rưng nước mắt "... ngựa hồ gấm gió bắc, chim Việt
đậu cành nam, tôi tất phải tìm về có ngày". Lẽ ra nàng có quyền căm thù nơi trần thế đã
đẩy nàng vào cái chết oan khuất nhưng trái tim nàng không một chút oán hờn, vẫn nhân
hậu vị tha, bao dung. Qua đây, người đọc cảm nhận được Vũ Nương là một người phụ
nữ có phẩm chất đức hạnh.
Nhưng hỡi ơi! thương thay cho số phận oan nghiệt của Vũ Nương, một người phụ nữ
cả đời hi sinh để mong muốn được hạnh phúc như Vũ Nương lại phải chết một cách
oan khuất, không được hưởng những gì mình đã hi sinh. Nàng phải gặp tình duyên
ngang trái khi nàng vẫn còn xuân. Nguyễn Dữ đã cảm thương cho Vũ Nương, người
phụ nữ nhan sắc đức hạnh lại phải lấy Trương Sinh – một kẻ vô học, hồ đồ, vũ phu.
Thương tâm hơn khi người chồng đó còn có tính đa nghi đối với vợ lúc nào cũng
"phòng ngừa quá sức", lấy chồng chưa được bao lâu, nàng đã phải tiễn biệt chồng lên
đường đánh giặc. Trương Sinh đi lính để lại gánh nặng cho người vợ trẻ, Vũ Nương
thay chồng nuôi mẹ và con. Sau khi mẹ chồng mất, chỉ còn hai mẹ con Vũ Nương trong
căn nhà trống vắng cô đơn. Đọc đến đây, người đọc không khỏi chạnh lòng xót thương
cho cho cảnh người vợ trẻ chỉ biết san sẻ buồn vui với đứa con thơ dại. Việc quân kết
thúc, Trương Sinh từ miền xa chinh chiến trở về nhưng Vũ Nương không được hưởng
hạnh phúc trong cảnh vợ chồng sum họp chỉ vì chuyện "chiếc bóng" qua miệng đứa con
thơ mới tập nói mà Trương Sinh đã "đinh ninh" là vợ hư liền mắng nhiếc, đuổi Vũ
Nương đi. Trương Sinh bỏ ngoài tai mọi lời bày tỏ van xin đến rướm máu, lời biện bạch
của họ hàng, làng xóm. Nàng đã bị chồng đẩy vào bi kịch bị ghép ngay vào tội không
chung thủy, một trong những tội bị người đời phỉ nhổ, nguyền rủa nhất của người phụ
nữ phong kiến thời xưa. Nhân phẩm mà nàng coi trọng nhất, quý giá nhất và ra sức giữ
gìn thì nay lại bị xúc phạm nặng nề, có thể khẳng định nỗi đau mà nàng phải gánh chịu
là quá lớn, nàng đã bị đẩy vào bước đường cùng vào vực thẳm của cuộc đời, nàng phải
chọn cái chết trong khi nàng vẫn khao khát được hưởng hạnh phúc gia đình.
Tại sao Vũ Nương lại phải chết một cách oan khuất như vậy? phải chăng là lời nói ngây
ngô, vô tình của con trẻ "Ô hay thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không
như cha tôi, trước khi chỉ nín thin thít... đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản
ngồi cũng ngồi" đã làm thổi bùng lên ngọn lửa sẵn có trong lòng Trương Sinh, không
đâu khác, chính là do chồng nàng – Trương Sinh, một kẻ hồ đồ phũ phu lại ghen tuông,
độc đoán, chỉ vì lời nói ngây thơ của con trẻ mà đã đinh ninh là vợ hư, bỏ mặc ngoài tai
những lời thanh minh biện bạch của vợ, lời bênh vực của họ hàng, làng xóm, để rồi đẩy
Vũ Nương vào cái chết oan nghiệt. Đằng sau trang văn, truyện còn nói lên do lễ giáo
phong kiến "trọng nam khinh nữ" và sự bất bình đẳng của kẻ giàu và người nghèo.
Đồng thời, còn do chiến tranh phong kiến phi nghĩa đã gây nên cảnh sinh ly, Trương
Sinh phải đi lính, Vũ Nương phải chịu nỗi oan, để rồi Vũ Nương phải tìm đến cái chết
thê thảm, oan khuất. Tất cả những nguyên nhân trên đã đẩy Vũ Nương đến bước
đường cùng phải chọn cái chết để bảo vệ nhân phẩm của mình, cái chết của Vũ Nương
chính là tấm bi kịch đau thương, cái chết oan khuất tức tưởi của nàng là một lời tố cáo
đanh thép xã hội phong kiến bất công, vô lý, đã cướp đi quyền sống, quyền được
hưởng hạnh phúc của con người.
Như vậy, "chuyện người con gái Nam Xương" đã vượt lên tư cách một bản lề của
truyện cổ tích, "Vợ chồng Trương" bởi sự tái tạo đầy tính nghệ thuật của Nguyễn Dữ,
tác giả đã xây dựng được tình huống truyện bất ngờ, tạo nên kịch tính cho câu chuyện
với lời nói ngây thơ của bé Đản dẫn đến sự hiểu lầm của Trương Sinh, thành công của
truyện hơn tất cả là tác giả đã sử dụng yếu tố hoang đường góp phần tăng thêm tính
hiện thực và ý nghĩa nhân văn của tác phẩm, hoàn thiện hơn vẻ đẹp của Vũ Nương -
một người phụ nữ điển hình trong văn học Việt Nam thế kỷ XVI. Đó là một phụ nữ hoàn
hảo nhưng lại có số phận éo le, bi đát. Cũng giống như Vũ Nương trong xã hội phong
kiến xưa còn có biết bao thân phận của người phụ nữ phải sống trong cảnh đời như vậy
như hình ảnh của người phụ nữ trong bài thơ "bánh trôi nước" của Hồ Xuân Hương.
"Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non"
Hay trong "truyện Kiều" của Nguyễn Du có viết:
"Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung"
Tóm lại, "chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ là một áng văn hay - tiêu
biểu cho thể loại truyền kỳ và được người đời đánh giá là "thiên cổ kỳ bút". Truyện vừa
thể hiện số phận bi đát của người phụ nữ trong xã hội phong kiến vừa có ý nghĩa cơ
ngợi vẻ đẹp của lòng vị tha - tiêu biểu là hình ảnh Vũ Nương, qua câu chuyện người
đọc càng cảm thấy giá trị cuộc sống của người phụ nữ trong xã hội ngày nay. Họ đang
phấn đấu vươn lên làm chủ cuộc đời, chủ số phận và họ - những người phụ nữ hiện đại
phải được sống bình đẳng, được mọi người tôn trọng như nam giới.
Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương mẫu 10
Số phận người phụ nữ trong xã hội xưa luôn là một đề tài được nhiều nhà văn, nhà thơ
khai thác. Trong nền văn học Trung đại, có không ít những tác phẩm đã viết về đề tài
ấy. Và “Chuyện người con gái Nam Xương” cũng vậy. Qua tác phẩm, hình ảnh nhân vật
Vũ Nương được Nguyễn Dữ khắc họa đầy chân thực.
Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, không chỉ xinh đẹp mà còn có tư dung
tốt đẹp. Điều ấy khiến cho Trương Sinh - một chàng trai trong làng yêu mến, xin mẹ
đem trăm lạng vàng cưới về. Trong cuộc sống vợ chồng, biết chồng là một người hay
ghen, nàng luôn sống giữ gìn khuôn phép để gia đình hòa thuận. Vậy mà chồng nàng,
sau khi đi lính chỉ vì một lời ngây thơ của con trẻ, chưa làm rõ đầu đuôi câu chuyện đã
giở thói ghen tuông. Dù Vũ Nương hết lòng giải thích nhưng vẫn vô dụng. Nàng quyết
định tìm đến cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình. Sau này, khi đã hiểu rõ
mọi chuyện, Trương Sinh cảm thấy hối hận thì cũng đã muộn. Chàng cho người lập đàn
giải oan cho vợ, Vũ Nương hiện về lúc ẩn lúc hiện.
Chỉ với vài lời giới thiệu đơn giản, Nguyễn Dữ đã khắc họa cho người đọc thấy được
hình ảnh một người phụ nữ mang đậm nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt
Nam. Nàng không chỉ xinh đẹp ở bên ngoài mà còn mang những nét đẹp bên trong tâm
hồn. Đó là một người vợ hết mực hiểu chuyện, lễ nghĩa. Biết chồng có tính hay nghi,
luôn phòng ngừa vợ quá mức nhưng nàng vẫn không tủi thân mà cố gắng sống giữ gìn
để gia đình luôn hòa thuận. Đến khi chồng phải đi lính, nàng cùng không nửa lời oán
trách mà còn ân cần, dịu dàng dặn dò: “Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám
mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai
chữ bình yên, thế là đủ rồi…”. Người vợ nào mà không mong muốn chồng mình được
thành danh, nhưng đối với Vũ Nương, nàng chỉ mong chồng bình yên trở về. Đó chính
là một khát khao hết sức bình dị, thiết thực của người phụ nữ luôn mong muốn có được
hạnh phúc.
Trong suốt những năm chồng nàng đi lính, Vũ Nương là một người phụ nữ nhưng lại
gánh vác trách nhiệm của một trụ cột gia đình. Nàng vừa phải dạy dỗ con thơ, vừa phải
chăm sóc mẹ chồng. Khi mẹ chồng ốm đau vì nhớ con trai, nàng đã hết lời khuyên bảo.
Khi mẹ chồng mất, nàng “hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ; lo liệu như đối với
cha mẹ sinh ra”. Quả hiếm có người con dâu nào được như Vũ Nương. Với đứa con
thơ, vì thương con phải xa cha từ nhỏ, mong muốn con có một gia đình đầy đủ. Người
mẹ ấy đã nói dối đứa trẻ cái bóng chính là cha của mình. Sau khi đi lính trở về, tưởng
rằng giờ đây cuộc sống sẽ được hạnh phúc, nhưng ai ngờ cuộc đời Vũ Nương lại trở
nên bất hạnh. Trương Sinh nghe tin mẹ già đã mất, hết sức đau lòng, liền bế con ra mộ
thăm mẹ. Khi thấy đứa trẻ quấy khóc bèn dỗ dành: “Con nín đi, đừng khóc! Lòng cha đã
buồn khổ lắm rồi!”. Đứa bé ngây thơ hỏi cha: “Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói,
chứ không như cha trước kia chỉ nín thin thít”. Điều đó khiến Trương Sinh nghĩ rằng vợ
mình ở nhà đã có người đàn ông khác. Vũ Nương trở về bị chồng nghi ngờ mắng nhiếc.
Dù tủi thân nhưng vẫn hết lời giải thích. Biết là vô tác dụng, nàng liền tìm đến cái chết
để chứng minh sự trong sạch của mình. Thật xót xa cho số phận của một người phụ nữ
xinh đẹp mà bạc mệnh. Chỉ vì lời ngây thơ của con trẻ, sự đa nghi của chồng mà phải
tìm đến cái chết.
Nhưng Vũ Nương không chết thật, nàng được đức Linh Phi cứu và sống ở thủy cung.
Khi gặp lại Phan Lang- một người sống cùng làng tình cờ cũng được Linh Phi cứu thoát
chết dưới thủy cung liền giãi bày nỗi oan khuất của mình. Nàng gửi nhờ Phan Lang “một
chiếc hoa vàng mà dặn”: “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa,
nên lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây thần đăng chiếu xuống nước, tôi sẽ hiện
về”. Lúc bấy giờ, Trương Sinh đã hiểu rõ mọi chuyện, bèn lập đàn giải oan cho nàng, Vũ
Nương hiện về thăm lại hai cha con. Dường như kết thúc của câu chuyện mà tác giả
xây dựng đã thể hiện được niềm cảm thông và mong muốn về một cuộc sống hạnh
phúc cho người phụ nữ xưa.
Cuộc đời của Vũ Nương, vốn đã không được lựa chọn tình yêu, hôn nhân. Mà nàng
phải chịu sự sắp đặt của cha mẹ. Cuộc hôn nhân của nàng và Trương Sinh cũng gặp
nhiều bất hạnh. Chiến tranh đã chia cắt hai vợ chồng để rồi chính chiến tranh cũng góp
phần cho sự hiểu lầm của Trương Sinh. Sự ghen tuông, đa nghi của chồng cũng khiến
nàng phải tìm đến cái chết mới có thể rửa sạch nỗi oan khuất. Tất cả những nguyên
nhân ấy đã khiến cho cuộc đời của nàng trở nên bất hạnh hơn hết.
Nguyễn Dữ đã khắc họa hình ảnh nhân vật Vũ Nương giúp cho người đọc thấu hiểu sâu
sắc cuộc đời của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Qua đó, chúng ta cũng cảm
thông hơn cho số phận của họ.
Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương lớp 9 mẫu 11
“Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong hai mươi truyện của “Truyền kì mạn
lục”. Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, truyện đã thể
hiện niềm cảm thương sâu sắc đối với số phận của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội
phong kiến xưa.
Đọc những dòng đầu tiên của “Chuyện người con gái Nam Xương”, hình ảnh nhân vật
Vũ Nương khiến cho người đọc cảm thấy ấn tượng: “Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở
Nam Xương. Người đã thùy mị nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp”. Vũ Nương chính là
một đại diện cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến với đầy đủ những phẩm chất:
công, dung, ngôn, hạnh. Tưởng rằng xinh đẹp tài năng là thế sẽ được hưởng hạnh
phúc, nhưng cuộc đời sau này lại chịu nhiều bất hạnh:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
(Nguyễn Du)
Nàng là một người vợ biết giữ gìn khuôn phép, không để vợ chồng bao giờ phải thất
hòa. Đến khi chồng phải đi lính, nàng cùng không nửa lời oán trách mà còn ân cần, dịu
dàng dặn dò: “Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc
áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ
rồi…”. Vũ Nương không mong muốn chồng trở về với vinh hoa phú quý hay công danh
sự nghiệp, mà nàng chỉ mong muốn bình yên”. Một ước mong giản dị nhưng lại thể hiện
được tình yêu thương sâu sắc dành cho chồng. Bởi bước ra nơi chiến trường là đối đầu
với hiểm nguy, chết chóc. Nên hy vọng chồng có thể trở về bình yên chính là điều thiết
thực nhất.
Năm tháng không có chồng ở nhà, dù phải một mình nuôi con, chăm sóc mẹ chồng
nhưng Vũ Nương chẳng mảy may oán thán lấy một lời. Khi mẹ chồng ốm đau vì nhớ
con, nàng vẫn hết lời khuyên bảo. Đến khi mẹ chồng mất, nàng “hết lời thương xót,
phàm việc ma chay tế lễ; lo liệu như đối với cha mẹ sinh ra”. Đứa con thơ còn nhỏ, nàng
thương con và mong muốn con có một gia đình đầy đủ. Vũ Nương đã nói dối con, chỉ
vào chiếc bóng và bảo rằng đó là cha Đản. Chính vì một lời nói dối vô hại ấy, sau này lại
đem đến lại bi kịch cho cuộc đời nàng.
Trương Sinh đi lính trở về, gia đình đoàn tụ, tưởng rằng giờ đây cuộc sống sẽ được
hạnh phúc, nhưng ai ngờ cuộc đời Vũ Nương lại trở nên bất hạnh. Nghe tin mẹ mất, hết
sức đau lòng, liền bế con ra mộ thăm mẹ. Khi thấy đứa trẻ quấy khóc bèn dỗ dành: “Con
nín đi, đừng khóc! Lòng cha đã buồn khổ lắm rồi!”. Đứa bé ngây thơ hỏi cha: “Ông cũng
là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ nín thin thít”. Lời nói ngây
thơ của con trẻ đã khiến chàng nghi ngờ vợ là thất tiết. Khi trở về, Trương Sinh liền
mắng vợ một bữa cho hả giận. Dù Vũ Nương hết sức tủi thân nhưng nàng vẫn hết lời
giải thích cho chồng hiểu. Họ hàng, làng xóm bênh vực cũng không ăn thua. Biết là vô
tác dụng, nàng liền tìm đến cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình. Xót xa thay
cho người phụ nữ mang danh là thất tiết, chẳng thể minh oan cho sự trong sạch của
bản thân, bị chồng ruồng bỏ và phải tìm đến cái chết để hết tội. Cuộc đời người phụ nữ
trong xã hội phong kiến vốn đầy những bất công. Không thể tự mình quyết định tình
yêu, hôn nhân và cả cuộc đời.
Nhưng, câu chuyện mang tính nhân văn ở chỗ, tác giả đã xây dựng một kết thúc có hậu
cho câu chuyện. Vũ Nương nhảy xuống sông, nhưng được chư tiên trong thủy cung
thương mà cứu thoát, sống tại nơi thủy cung và gặp gỡ với Phan Lang - một người vốn
sống cùng làng. Trước khi Phan Lang trở về, nàng gửi nhờ Phan Lang “một chiếc hoa
vàng mà dặn”: “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa, nên lập một
đàn giải oan ở bến sông, đốt cây thần đăng chiếu xuống nước, tôi sẽ hiện về”. Trương
Sinh sau khi biết mình đã đổ oan cho vợ, nay lại nghe Phan Lang kể lại câu chuyện
dưới thủy cung gặp được Vũ Nương được nàng nhờ vả, liền lập đàn giải oan cho vợ.
Vũ Nương hiện về trong làn khói mờ ảo, gia đình ba người được gặp nhau. Một kết thúc
không có thật ngoài cuộc sống. Đó giống như là một giấc mơ của nhân dân ta rằng
những người tốt rồi sẽ có được hạnh phúc. Nhưng cũng chỉ dừng lại ở ước mơ mà thôi,
khi Vũ Nương không thể trở về cuộc sống trần thế, chỉ có thể tiếp tục cuộc sống ở thủy
cung.
Tóm lại, qua “Chuyện người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ đã giúp người đọc hiểu
rõ hơn về cuộc đời của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Cũng như thêm cảm
thông, thấu hiểu hơn cho số phận của họ và biết quý trọng cuộc sống bình đẳng của
chúng ta trong xã hội hôm nay.
III. Khái quát về tác giả Nguyễn Dữ
1. Tiểu sử tác giả Nguyễn Dữ
Nguyễn Dữ chưa rõ năm sinh năm mất, sống vào khoảng thế kỉ XVI, là người xã Đỗ
Tùng, huyện Trường Tân nay là xã Phạm Kha, huyện Thanh Miện, Hải Dương.
Lúc nhỏ Nguyễn Dữ chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp lý tưởng lấy văn
chương nối nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, ông làm quan nhưng mới được vài
năm, vì bất mãn với thời cuộc, lấy cớ nuôi mẹ, xin về ở núi rừng Thanh Hóa.
2. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Dữ
Sáng tác duy nhất của ông là quyển Truyền kỳ mạn lục (Ghi chép tản mạn những truyện
kì lạ được lưu truyền). Sách gồm 20 truyện, viết bằng chữ Hán, theo thể loại tản văn,
xen lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện đều có lời bình của tác giả hoặc của một
người có cùng quan điểm của tác giả.
Truyền kỳ mạn lục là một sáng tác văn học với sự gia công hư cấu, sáng tạo, trau chuốt,
gọt giũa của Nguyễn Dữ chứ không phải một công trình ghi chép đơn thuần. Qua tác
phẩm, người độc thất được số phận bi thảm của những con người nhỏ bé trong xã hội,
những bi kịch tình yêu mà thiệt thòi thường rơi vào người phụ nữ. Tác phẩm cũng thể
hiện tinh thần dân tộc, bộc lộ niềm tự hào về nhân tài, văn hóa nước Việt, đề cao đạo
đức nhân hậu, thủy chung, đồng thời khẳng định quan điểm sống “lánh đục về trong”
của lớp trí thực ẩn dật đương thời.
Truyền kỳ mạn lục vừa có giá trị hiện thực và nhân đạo cao, vừa là một tuyệt tác của thể
loại truyền kì. Tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài và được đánh giá cao
trong số các tác phẩm truyền kì ở các nước đồng văn.
---------------------------

Bức tranh thiên nhiên trong Đoàn thuyền đánh cá - Mẫu 1

Năm 1958, hưởng ứng phong trào viết về cuộc sống lao động xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc, Huy Cận cũng xông xáo lên đường. Đoàn thuyền đánh cá là kết quả
của chuyến đi thực tế dài ngày tại vùng mỏ Quảng Ninh của nhà thơ. Bài thơ là cảm
hứng trước thiên nhiên đất nước, con người và niềm vui, niềm tin tưởng dạt dào trước
cuộc sống mới. Đặc biệt, vẻ đẹp của thiên nhiên vũ trụ được miêu tả hết sức sinh động
và đẹp đẽ.

Mở đầu bài thơ, tác giả ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước với cảnh hoàng hôn
trên bến cảng quê hương:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa


Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Không gian trong thơ là biển cả, thời gian là buổi hoàng hôn. Trong thơ xưa, không
gian, thời gian này gắn với nỗi buồn, niềm chia biệt. Nhưng trong thơ Huy Cận, cảnh
sắc lại rất tươi tắn, không nhuốm nỗi buồn nào. Nhà thơ nhân hoá mặt trời như vị khách
của vũ trụ, biển cả là ngôi nhà trần thế, gợn sóng dạt dào là then cài vững chắc, màn
đêm là cửa sập… Viết về thiên nhiên, vũ trụ rộng lớn nhưng thiên nhiên ấy không hề xa
lạ mà ấm áp hơi thở của cuộc đời. Các động từ “cài”, “sập” diễn tả hành động mạnh mẽ,
dứt khoát khi vũ trụ đi vào trạng thái nghỉ ngơi, yên tĩnh hoàn toàn.

Thay thế cho sức sống của vũ trụ trên biển đã khép lại là cảnh lao động của con người
đang mở ra. Không tập trung miêu tả hành động cụ thể của bức tranh lao động, tác giả
ca ngợi sự giàu có, bao dung của biển cả:
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Liệt kê một loạt các loài cá ngon và quí chứng tỏ sự giàu có, phong phú về các loại cá
của biển Đông. So sánh cá như “đoàn thoi”, nhân hoá chúng “dệt” tấm lụa trắng lung
linh trong lòng biển nhằm ngợi ca vẻ đẹp huyền ảo của biển đêm. Phép liên tưởng độc
đáo và sáng tạo “cá Song lấp lánh đuốc đen hồng” gợi vẻ đẹp của đêm hội hoa đăng
trong lòng biển. Cá bơi từng đàn như rước đuốc, đuôi cá quẫy làm tung toé ánh trăng
vàng. Một bức tranh sơn mài với những màu sắc rực rỡ, tráng lệ. Biển quê hương đầy
ắp ân tình nuôi dưỡng biết bao thế hệ

Biển cho ta cá như lòng mẹ


Nuôi lớn đời ta tự thuở nào
So sánh lòng biển với lòng mẹ. Tình mẹ bao la, hy sinh hết mực như biển quê hương đã
nuôi dưỡng bao đời nay những thế hệ lớn lên từ các làng chài. Câu thơ là lời tri ân biển,
bộc lộ những ân tình sâu sắc của biển Quê hương. Nếu mở đầu bài thơ là cảnh đoàn
thuyền mạnh mẽ ra khơi trong buổi hoàng hôn nắng tắt thì kết thúc bài thơ là hình ảnh
rạng đông, bình minh ngày mới, đoàn thuyền trở về với chiến lợi phẩm:

Vảy bạc, đuôi vàng loé rạng đông


Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi
Các tính từ chỉ màu sắc “bạc”,” vàng”, “hồng” diễn tả cái tươi sáng của buổi bình minh.
Phép nhân hoá vầng mặt trời “đội biển” khoe màu của ngày mới khiến câu thơ giàu sức
biểu cảm. Bình minh đi lên từ đêm tối. Màu mới hay đây chính là hình ảnh của cuộc
sống mới đang mang lại những niềm vui phơi phới trong lòng con người lao động.

Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá đã có nhiều sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh bằng
liên tưởng, tưởng tượng phong phú. Giọng thơ mang âm hưởng khoẻ khoắn, hào hùng
lạc quan. Với bút pháp lãng mạn, Huy Cận đã khắc hoạ nhiều hình ảnh đẹp, tráng lệ,
thể hiện sự hài hoà giữa thiên nhiên và con người bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà
thơ trước cuộc sống lao động mới.

Bức tranh thiên nhiên trong Đoàn thuyền đánh cá - Mẫu 2

Sau cách mạng hồn thơ Huy Cận đã có những bước chuyển mình mới, ông tìm thấy
ánh sáng, con đường, lí tưởng cho mình. Huy Cận trở nên hăm hở hăng hái, vì thế
những vần thơ cũng trở nên tươi sáng, tràn ngập tình yêu cuộc đời, yêu thiên nhiên đất
nước. Trong chuyến đi thực tế Quảng Ninh ông đã sáng tác tác phẩm Đoàn thuyền
đánh cá, không chỉ làm nổi bật vẻ đẹp con người mà qua đó còn làm nổi bật vẻ đẹp trù
phú của quê hương, đất nước.

Thiên nhiên được miêu tả theo trình tự vận động từ hoàng hôn đến minh bình với khung
cảnh có sự biến đổi linh hoạt. Cảnh tưởng như ngừng vận động sau một ngày dài,
nhưng thực tế lại liên tục vận động, khung cảnh thiên nhiên vì thế mà ngập tràn sức
sống.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh mặt trời dần dần lặn vào đại dương, hình ảnh đó được Huy
Cận tái hiện hết sức huy hoàng:

"Mặt trời xuống biển như hòn lửa


Sóng đã cài then đêm sập cửa."
Thật khéo léo, tài tình tác giả đã kết hợp những hình ảnh cụ thể như mặt trời, sóng, biển
với biện pháp so sánh, nhân hóa để tạo nên một bức tranh hoàng hôn tuyệt mĩ. Mặt trời
được ví như hòn lửa khổng lồ đang từ từ xuống biển, chìm vào màn đêm yên tĩnh. Sóng
và biển được nhân hóa như những sinh thể, để đánh dấu sự nghỉ ngơi thực sự của mặt
trời. Nhưng ở đây chỉ có mặt trời đi ngủ, còn tất cả các sự vật khác lại như bừng thức :
"Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi."
Bút pháp tả thực kết hợp với trí tưởng tượng vô cùng phong phú, những con cá thu
được ví như những đoàn thoi, với tốc độ bơi vun vút, dệt lên tấm vải khổng lồ giữa biển
cả, khiến cả không gian bừng lên muôn luồng sáng, đó là luồng sáng của sự phong phú,
giàu có. Sự giàu có ấy tiếp tục được tác giả liệt kê ở khổ thơ tiếp theo, đến đây không
chỉ có các bạc, cá thu mà còn có muôn ngàn loài cá khác : cá nhụ, cá chim, cá đé, cá
song,… Với hình thức liệt kê, ông đã khẳng định và ngợi ca tài nguyên phong phú, dồi
dào của đất nước ta. Đặc biệt trong khổ thơ thứ tư, Huy Cận đã sử dụng những nét bút
hết sức tài hoa, vẽ lên bức tranh sơn mài tuyệt mĩ. Bức tranh ấy được sáng tạo trên cơ
sở của trí tưởng tượng, sự liên tưởng bay bổng, mơ mộng nhưng đồng thời vẫn có cơ
sở hiện thực. Trên nền cảnh của không gian đêm tối, với ánh trăng trên cao rọi chiếu
khiến cho cảnh vật trở nên huyền bí, mờ ảo. Trong không gian ấy, mọi sự vận động của
thiên nhiên đều trở nên lấp lánh, phát ra thứ ánh sáng diệu kì: chiếc đuôi của cá song
lấp lánh đuốc đen hồng, với hành động cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe đã khiến bức
tranh trở nên đa dạng về màu sắc, sinh động, có hồn hơn. Vẻ đẹp thiên nhiên thật đẹp
đẽ, tràn đầy hơi thở sự sống: Đêm thở sao lùa nước Hạ Long. Thiên nhiên trù phú, giàu
có chính là nguồn sống nuôi dưỡng con người khôn lớn, trưởng thành, bởi vậy, ngay
sau đó, tiếng thơ tha thiết như một lời cảm ơn chân thành của đứa con với bà mẹ biển
cả: Biển cho ta cá như lòng mẹ/ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.

Thời gian có sự vận động không ngừng, mặt trời sau một đêm dài nghỉ ngơi, đã dần dần
lóe rạng đông. Câu thơ: Mặt trời đội biển nhô màu mới/ Mắt cá huy hoàng muôn dặm
phơi, cho thấy nếu vẻ đẹp hoàng hôn rực rỡ bao nhiêu thì vẻ đẹp của nó khi bình minh
lại huy hoàng bấy nhiêu. Màu mới ở đây là màu gì? Có thể hiểu màu mới là màu nắng
lúc bình minh, màu nắng lúc ấy bao giờ cũng rực rỡ, đẹp đẽ hơn, nó mang vẻ đẹp của
sự khởi đầu, khơi nguồn sự sống. Hình ảnh đẹp đẽ nhất, thể hiện rõ nhất bút pháp lãng
mạn của Huy Cận là câu thơ cuối cùng: Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi. Hình ảnh
hoán dụ mắt cá cho người đọc liên tưởng dường như con muôn vàn mắt cá được phản
chiếu dưới ánh nắng mặt trời, khiến nó trở nên lung linh, huy hoàng hơn. Câu thơ vừa
tả được cái rực rỡ của ngày mới sang, vừa tả được sự trù phú, giàu có của biển cả. Đây
quả là một câu thơ hay, xuất sắc thể hiện được tài năng nghệ thuật và trường liên
tưởng độc đáo của Huy Cận.
Bức tranh thiên nhiên biển cả được tạo nên từ trường liên tưởng độc đáo, cùng bút
pháp khoa trương, phóng đại. Với việc ông vận dụng linh hoạt các biện pháp nghệ thuật
như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ (mặt trời như hòn lửa, cá như đoàn thoi, mắt cá,…) đã tái
hiện trước mắt chúng ta bức tranh thiên nhiên đẹp đẽ, tràn đầy sự sống, một thiên nhiên
giàu có và trù phú.

Qua bức tranh thiên nhiên, ta thấy được tài năng quan sát, trí tưởng tượng phong phú,
tài hoa của Huy Cận. Không chỉ vậy còn thấy được vẻ đẹp trù phú của quê hương đất
nước. Đó là sự hồi sinh của thiên nhiên sau bao năm gánh chịu nỗi đau chiến tranh.
Thiên nhiên cũng như con người mỗi ngày lại hồi sinh, làm giàu cho tổ quốc. Tác phẩm
là bài ca, ca ngợi vẻ đẹp của đất nước Việt Nam.

You might also like