Professional Documents
Culture Documents
II/PHÂN TÍCH
1/Sáu càu thơ đầu
Khung cảnh trước lầu Ngưng Bích và hoàn cảnh cô đơn của Thúy Kiều
->như vậy, những câu thơ đầu tiên đã sử dụng thành công bút pháp tả cảnh ngụ tình. Cảnh thì thơ
mộng, bình yên vằng lặng, nhưng tâm trạng con người thì cô đơn, lẻ loi.
c. Hai câu thơ tiếp: hé mở tâm trạng Thúy Kiều
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
- Hai câu thơ khắc họa rõ nét tâm trạng của Kiều qua từ láy “bẽ bàng” (là tủi cực, xấu hổ). Nghĩ
đến thân mình, Kiều không tránh khỏi sự hổ thẹn, bởi vì “Con ong đã tỏ đường đi lối về”(vì bị
Mã Giám Sinh lừa gạt, nên nàng đã “thất thân với MGS). Hơn nữa, Kiều lại phụ tình Kim
Trọng, cha mẹ ở phương xa chưa biết thế nào. Vì thế, từ láy “bẽ bàng” như gói trọn cảm xúc
của Kiều.
- Ngày lại qua ngày, Kiều chỉ biết làm bạn với áng mây buổi sớm, ngọn đèn canh khuya “Bẽ
bàng mây sớm đèn khuya”.
- Cụm từ “Mây sớm đèn khuya” là cách nói ước lệ, gợi thời gian tuần hoàn khép kín. Nó chỉ
thời gian một ngày trôi qua chậm chạp, nặng nề, uể oải. Từ sáng đến tối, bước đi của thời gian
như từng bước tâm trạng, Kiều ngồi đó như một cái xác không hồn, vô cảm, đếm từng giờ từng
khắc trôi qua. Tất cả như giam hãm con người, như khắc sâu thêm nỗi cô đơn khiến Kiều càng
chán ngán, buồn tủi.
- MR: Như vậy, thời gian trong “Truyện Kiều” luôn được miêu tả theo tâm trạng con người, khi
vui thì “Ngày vui ngắn chửa tày gang”, khi buồn thì “Ba thu dọn lại một ngày dài ghê”. Chỉ một
hình ảnh thơ nhưng đã khái quát được quan niệm thời gian trong “Truyện Kiều”. Đúng như lời
giáo sư Đặng Thanh Lê nhận xét : “Trong “Truyện Kiều”, thời gian cũng là một nhân vật tâm lí,
tồn tại song song trong thế giới con người để phác họa chân dung con người.”.
- Câu thơ cuối chỉ ra mối quan hệ giữa người và cảnh: “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”.
Sớm và khuya, đêm và ngày, Kiều “thui thủi quê người một thân” và dồn tới lớp lóp những nỗi
niềm chua xót, đau thương khiến tấm lòng như bị chia xé. Điệp từ “nửa” và chữ “chia” khiến
cho cảnh vật không hề ăn khớp với tâm trạng con người. Cảnh thì lãng mạn còn người lại bơ
vơ, lẻ loi, bối rối, bồn chồn.
Như vậy, sáu câu thơ đầu tiên đã vẽ ra bức tranh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích.
Không gian cao rộng, mênh mông, hữu tình nhưng tâm trạng con người thì lẻ loi, cô đơn.
Qua hoàn cảnh của Kiều, tác giả bộc lộ thái độ đồng cảm sâu sắc.
2. Tám câu tiếp:Nỗi nhớ của Kiều với Kim Trọng và cha mẹ (phẩm chất tốt đẹp của người
phụ nữ)
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ.
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
- Trong tám câu thơ, Thúy Kiều nhớ Kim Trọng trước, nhớ cha mẹ sau bởi:
+ Với Kim Trọng, nàng là người phụ tình, phụ nghĩa
+ Với cha mẹ, Kiều đã bán mình chuộc cha, nên phần nào làm tròn chữ “hiếu”
Vì vậy, tác giả để Kiều nhớ Kim Trọng trước, nhớ cha mẹ sau vì muốn khẳng định Thúy Kiều
biết nghĩ cho người khác, cảm thấy mình có lỗi với Kim Trọng. Kiều vừa là người yêu thủy
chung son sắt, vừa là đứa con hiếu thảo.
=> Nguyễn Du trân trọng vẻ đẹp của người phụ nữ truyền thống.
3. Tám câu còn lại : Tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích qua cái nhìn cảnh
vật
- Tám câu thơ cuối đã tạo nên bộ tứ bình xuất sắc của văn học trung đại. Thông thường, khi
nhắc đến tứ bình, người ta thường hay nhắc đến 4 mùa (xuân, hạ, thu, đông), tứ quý (tùng, cúc,
trúc, mai), tứ linh (long, li, quy, phượng), tứ nghề (ngư, tiều, canh, mục), còn tứ bình ở đây lại
là bốn tâm trạng khác nhau của Kiều. Không chỉ vậy, đoạn thơ còn sử dụng thành công bút
pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc kết hợp với miêu tả tâm lí nhân vật để khắc họa hình ảnh Kiều
trong tâm lí bất an, buồn lo, tủi cực.
- Điệp từ “buồn trông” đứng đầu mỗi câu lục kết hợp với các câu hỏi tu từ khiến cho cả đoạn
thơ là một câu hỏi lớn, là nỗi trăn trở của tác giả về tương lai của Kiều.
-Ở đoạn này, mỗi hình ảnh thiên nhiên là một ẩn dụ về tâm trạng con người.
a.Bức tranh 1.
- Cánh buồm “thấp thoáng” nơi của bể chiều hôm gợi nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương của Kiều.
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
+Tác giả đã lựa chọn không gian cửa bể - là cửa sông, cửa biển ở khúc thượng nguồn đầy dữ
dội để hướng điểm nhìn của Kiều.
+ Không chỉ vậy, thời gian “chiều hôm” mang tính ước lệ tượng trưng trong văn học trung đại
thường gợi nỗi buồn tha hương – nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương. Ánh nắng chiều đổ ập xuống
không gian cửa bể, nhấn mạnh nỗi buồn tha hương, lữ thứ. Ta vẫn còn nhớ niềm hoài cổ trong
thơ Bà Huyện Thanh Quan: Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo/ Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”
(Thăng Long thành hoài cổ)
+ Giữa không gian cao vời vợi ấy, Thúy Kiều tập trung vào hình ảnh con thuyền, cánh buồm.
“Ai” là đại từ phiếm chỉ, là một người hoặc nhiều người, nó khắc họa đôi mắt đang kiếm tìm.
Phải chăng đây là con thuyền chở nỗi nhớ nhà, nhớ quê.
+ Hình ảnh cánh buồm trôi nổi bấp bênh trên dòng sông gợi nhiều liên tưởng. Có người cho
rằng đó là cảnh buồm thực mà kiều đang trông ngóng.Tuy nhiên cách lí giải này chưa thực sự
phù hợp với thực tế trong xã hội xưa khi giao thông chủ yếu là đường thủy.Nhiều ý kiến cho
rằng cánh buồm chính là ẩn dụ cho cuộc đời trôi nổi, bấp bênh của Kiều, bởi giờ đây nàng
không biết sẽ đi đâu về đâu.
+ Từ láy “thấp thoáng, xa xa” miêu tả cảnh buồm đang biến mất khỏi tầm mắt của nàng để lẫn
vào không gian. Thực chất, hai từ láy khắc họa hình ảnh Kiều ngồi đây như chôn chân bó gối
nhưng linh hồn thì đã cuốn theo cánh buồm. Cuộc sống quá tẻ nhạt mà tâm hồn thì bơ vơ, bất
định.
+MR: Hình ảnh cánh buồm của Nguyễn Du giúp ta liên tưởng tới cách miêu tả trong thơ mới
với “Cánh buồm” của Nguyễn Bính: Anh đi đấy, anh về đâu/ Cánh buồm nâu…cánh buồm
nâu…cánh buồm.
Như vậy, ở cặp thơ đầu tiên, Thúy Kiều tập trung vào điểm nhìn cánh buồm và con
Văn học là nhân học Trang 8
NGỮ VĂN 9
thuyền nhưng nàng không hề thấy sự liên kết, an ủi mà chỉ là nỗi lo lắng, bất an.
b. Bức tranh 2.
-Kiều bắt gặp cánh hoa trôi man mác giữa dòng nước gợi nỗi buồn vê thân phận nổi trôi, lênh
đênh, không biết đi đâu về đâu.
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu.
+Ở cái nhìn thứ hai, Kiều hướng về ngọn nước mới sa. Đây là cách miêu tả thác nước từ trên
cao đổ ập xuống đầy dữ dằn, nguy hiểm như muốn cuốn phăng đi tất cả.Trước cảnh tượng ấy,
hiếm có ai mà không sợ hãi, lo lắng.
+ NT tương phản giữa hình ảnh “hoa trôi” với “ngọn nước mới sa” tạo ra nhiều ám ảnh với
người đọc. “Hoa” vốn là biểu tượng cho sự mỏng manh, yếu đuối, nhẹ nhàng.“Hoa” chỉ đẹp khi
ở trên cành, được nâng niu, chăm chút.Thế mà nay đóa hoa ấy lại bị vùi dập bởi dòng nước
chảy siết.Đồng từ “trôi” càng nhấn mạnh vào sự buông xuôi, phó mặc.Phải chăng đóa hoa ấy
chính là ẩn dụ cho thân phận của Kiều đang trôi dạt giữa dòng đời nghiệt ngã.
+ MR: hình ảnh thơ khiến ta nghẹn ngào nhớ tới thân phận người phụ nữ trong ca dao: “Thân
em như trái bần trôi/ Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu?”
+ Từ láy “man mác” đặt ở giữa câu như làm nổi bật tâm trạng nàng Kiều. Đó là nỗi buồn vương
rất nhẹ mà rất thấm, dai dẳng mà quyết liệt. Chỉ một từ láy thôi đủ cho ta cảm nhận đôi mắt
Kiều như thấm đẫm nỗi buồn.
+ Câu hỏi tu từ “biết là về đâu?” không phải để hỏi, cũng ko cần trả lời. Phải chăng đó là câu
hỏi hư vô nhấn mạnh vào nỗi khắc khoải của Kiều, biết đến bao giờ, biết về đâu để tìm lại ngôi
nhà yên ấm trước đây.
Như vậy, qua cảnh thứ hai với hình ảnh ngọn nước, đóa hoa, ta cảm thông trước nỗi xót
xa của kiều. Bởi vậy mà Mộng Liên Đường Chủ Nhân từng nhận xét: Nguyễn Du viết
Kiều máu rỏ trên đầu ngọn bút”. Quả thực mỗi câu mỗi chữ trong bộ tứ bình như đang gỉ
máu khi khắc họa tâm trạng Kiều: bơ vơ, lưa lạc.
- Về nghệ thuật:
o Để khắc họa tâm trạng của Kiều, tám câu thơ này có đến 4 lần tác giả sử dụng điệp ngữ
“buồn trông” đặt ở đầu các câu sáu chữ kết hợp với các hình ảnh (biển, thuyền, ngọn
nước, hoa trôi, nội cỏ, chân mây mặt đất, gió, tiếng sóng) đứng sau đó diễn tả nỗi buồn
dằng dặc tưởng như không bao giờ kết thúc, với nhiều cấp độ khác nhau.
o Câu hỏi tu từ và các từ láy, chủ yếu là những từ láy tượng hình, dồn dập, chỉ có một từ
láy tượng thanh ở câu cuối, tạo nên nhịp điệu, diễn tả nỗi buồn ngày một tãng, dâng lên
lớp lớp.
o Đoạn thơ này được coi là kiểu mẫu cho nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của văn chương cổ.
Mỗi cảnh vật gắii liền nỗi buồn khác nhau, nỗi buồn ấy càng ngày càng mãnh liệt, da diết
hơn như những lóp sóng đang dồn dập, tới tấp, xô đẩy cuộc đời Kiều.
Ở đây không chỉ có cảnh đẹp, tình sầu, mà lòng nhà thơ cùng hoà với lòng nhân vật, cùng
đồng cảm với nỗi đau tê tái trong tâm hồn và số phận nàng Kiều đồng thời, lời thơ còn như dự
báo về một chuỗi ngày đau thương, khủng khiếp đang chờ đợi nàng phía trước.
Chỉ rõ nghệ thuật Thơ (gạch chân tín hiệu nghệ thuật) Nêu nội dung, ý nghĩa