You are on page 1of 5

Nguyễn Du là một thiên tài văn học, một tác gia văn học tài hoa và lỗi lạc

của
văn học Việt Nam. Ông được mệnh danh là thi sĩ của các nhà thi sĩ. Truyện
Kiều là một tác phẩm lớn nhất của Nguyễn Du là đỉnh cao chói lọi nhất của
nghệ thuật thi ca. Đọc tác phẩm, chúng ta không thể quên được đoạn trích
"Kiều ở lầu Ngưng Bích".Trong phần đầu của Truyện Kiều, Nguyễn Du đã dự
cảm về số phận nàng Kiều không chỉ ở nhan sắc hơn người, mà còn trực
tiếp ở câu thơ: “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”, và quả thật câu thơ đó
đã vận vào đời nàng. Gia đình gặp tai biến, cha và em bị bắt, nàng phải bán
mình chuộc cha. Không chỉ vậy, còn bị Mã Giám Sinh lừa bán vào lầu xanh.
Cuộc đời nàng bắt đầu bước vào chuỗi ngày tăm tối khi bị giam ở lầu Ngưng
Bích. Tất cả những điều đó được thể hiện rõ nét trong đoạn trích

Trong thời gian này, sức khỏe của Kiều mới hồi phục trở lại, nhưng tình cảm
lại hết sức cô đơn. Chết thì nàng đã không muốn chết nữa vì sợ bị lụy cho
cha mẹ, nhưng sống thì sẽ sống như thế nào, một thân một mình ở nơi hoàn
toàn xa lạ, tứ cố vô thân? Đây là đoạn thơ hay nổi tiếng của Truyện Kiều,
cực tả nỗi lòng cô đơn, buồn thảm, bi đát đó của nàng Kiều.Trước hết,
Nguyễn Du miêu tả tình cảnh cô đơn của Kiều khi ở lầu Ngưng Bích bằng
cách vẽ ra khung cảnh xung quanh theo con mắt của Kiều:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuânVẻ non xa, tấm trăng gần ở chungBốn bề
bát ngát xa trôngCát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kiaBẽ bàng mây sớm đèn
khuyaNửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng

Hai chữ “khóa xuân” rất đẹp nhưng nói lên thực chất Kiều bị giam lỏng. Câu
“Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung” cũng rất đẹp, cực tả cảnh cô đơn của
Kiều. Lầu Ngưng Bích cao quá, trơ trọi quá, Kiều như chỉ còn “ở chung” làm
bạn với “vẻ non xa, tấm trăng gần” (gần trăng vì lầu quá cao). Một cảm giác
trơ trọi, rợn ngợp, lơ lửng tràn ngập câu thơ. Nhìn ra xung quanh chỉ thấy
một không gian bao la, xa vời: non xa, xa trông, cát vàng, cồn nọ, bụi hồng
dặm kia, tịnh không một bóng cây, bóng nhà, bóng người.Sau bao biến cố
khủng khiếp: tai bay vạ gió, cha và em bị tù tội, gia sản bị cướp hết, Kiều
phải hi sinh chữ tình để báo hiếu với cha mẹ. Bị Mã giám Sinh lừa gạt bán
vào lầu xanh của Tú Bà, Kiều tự tử nhưng không chết. Tú Bà dỗ dành Kiều
ra ở lầu Ngưng Bích để kén chồng nhưng thật chất đó là cuộc giam lỏng,
chờ cơ hội mụ sẽ bắt Kiều trở lại lầu xanh.Lầu Ngưng Bích chơi vơi giữa
biển khơi là điểm dừng chân đầu tiên trên con đường lưu lạc đầy cay đắng
và tủi nhục của Thúy Kiều. sáu câu thơ mở đầu của đoạn trích, là không gian
nghệ thuật chứa đầy tâm trạng của Kiều là nỗi cô đơn buồn tủi, niềm nhớ
thương da diết về quê hương gia đình và người thân của Kiều. Đó cũng là
thể hiện tấm lòng thủy chung hiếu thảo của nàng.Trước mặt, là biển khơi từ
trên lầu cao nàng cảm nhận được một không gian mênh mông rợn ngợp. Xa
xa là dãy núi, hai bên bờ là cồn cát bụi mù bay. Chỉ có lầu Ngưng Bích đang
giảm lòng một thân phận mỏng manh đơn côi. Đó là một không gian hoàn
toàn khép kín. Một mình đối diện với "mây sớm đèn khuya". Khiến Kiều đau
khổ đến tủi nhục bẽ bàng cho cái kiếp vô duyên lạc loài của mình Sớm và
khuya, ngày và đêm Kiều thui thủi một mình nơi đất khách quê người, nàng
chỉ còn biết làm bạn với mây và đèn. Trong nỗi cô đơn tuyệt đối ấy, lòng Kiều
dồn tới lớp lớp những nỗi niềm chua xót. Buồn vì cảnh hoang vu, rợn ngợp
và buồn vì cái tình riêng khiến lòng nàng như bị chia xé: Nửa tình nửa cảnh
như chia tấm lòng.
Nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ được Nguvễn Du miêu tả rất xúc động trong những lời
độc thoại nội tâm của nhân vật. Nỗi nhớ thương được chia đều: bốn câu đầu dành cho
người yêu, bốn câu sau dành cho cha mẹ Trái với những quy định phong kiến, Kiều
nhớ về người yêu rồi mới nhớ cha mẹ. Trong lúc này, nỗi đau dứt tình người
yêu như còn rớm máu, kỉ niệm như còn mới đây thôi. Hơn thế nữa Kiều lại bị
Mã Giám Sinh làm nhục, sau đó bị đưa vào chốn lầu xanh nên nỗi đau lớn
nhất của nàng lúc này là: Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Nỗi nhớ đó được
xoáy sâu vào đêm thề nguyền dưới ánh trăng và nỗi đau cũng trào lên từ đó:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.Tin sương luống những rày trông mai chờ.Bên trời
góc bể bơ vơ,Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Lời thơ như chứa đựng nhịp thổn thức của một trái tim yêu đương đang chảy máu! Nỗi
nhớ ấy thật thiết tha, nồng cháy. Nỗi nhớ trào lên khiến hình ảnh đêm thề
nguyền, đính ước hiện ra chân thật, sống động ngay trước mắt nàng. Đó là
hiệu quả diễn đạt vượt trội của từ “tưởng” mà Nguyễn Du đã khéo léo sử
dụng trong những vần thơ đầu tiên diễn tả nỗi nhớ của nàng Kiều Kiều tưởng
tượng ra cảnh chàng Kim đang ngày đêm chờ mong tin mình một cách đau khổ và tuyệt
vọng.Mới hôm nào, lứa đôi cùng thề nguyền, hẹn ước dưới trăng, vầng trăng
còn đó mà giờ đây đã đôi người đôi ngả. Nàng tưởng tượng chàng Kim vẫn
ngày ngóng đêm trông tin nàng trong đau khổ, tuyệt vọng. Nghĩ đến chàng,
rồi lại nghĩ đến thân phận của mình, bơ vơ, lưu lạc nơi chân trời góc bể, đất
khách quê người, biết bao giờ tấm lòng son sắt, chung thủy của nàng dành
cho chàng Kim phai nhạt đi thì lúc ấy, có lẽ nàng mới bớt đau khổ, dằn vặt.
Chén rượu thề nguyền vẫn còn chưa ráo, vầng trăng vằng vặc giữa trời chứng giám lời thề
nguyền vẫn còn kiaKiều nuối tiếc mối tình đầu trong trắng của mình, nàng thấm thía tình
cảnh cô đơn của mình, và cũng hơn ai hết, nàng hiểu rằng sẽ không bao giờ có thể gột rửa
được tấm lòng son sắt, thủy chung của mình với chàng Kim. Và thực sự, bóng chàng Kim
cũng sẽ không bao giờ phai nhạt trong tâm trí Kiều trong suốt mười lăm năm lưu lạc. Kiều
nhớ người yêu khôn nguôi, xót xa cho mối tình đã nặng lời thề son sắt mà bị
tan vỡ! Nàng cảm thấy hổ thẹn với Kim Trọng vì không giữ trọn lời thề năm
xưa mà giờ đây không thể nào quay lại được nữa. Nhớ Kim Trọng rồi nàng lại
nhớ về gia đình
Xót người tựa cửa hôm mai,Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

Sân Lai cách mấy nắng mưa,Có khi gốc tử đã vừa người ôm.

nàng thương cha mẹ từ bấy đến nay vẫn sớm chiều tựa cửa ngóng chờ tin
của đứa con lưu lạc. Nàng xót thương da diết và day dứt khôn nguôi vì
không thể quạt nồng ấp lạnh, phụng dưỡng song thân khi già yếu. Thành
ngữ quạt nồng ấp lạnh, điển cố Sân Lai, gốc tử đều nói lên tâm trạng nhớ
thương, tấm lòng hiếu thảo của Kiều.Nàng tưởng tượng nơi quê nhà tất cả
đã đổi thay. Cha mẹ thì mỗi người thêm một già yếu mà nàng thì chẳng thể ở
bên chăm sóc. Giờ đây khoảng cách không gian giữa nàng và cha mẹ là
cách mấy nắng mưa. Thiên nhiên không chỉ tàn phá cảnh vật mà còn tàn phá
cả con người. Lần nào khi nhớ tới cha mẹ, Kiều cũng nhớ ơn chín chữ cao
sâu và luôn ân hận mình đã phụ công sinh thành nuôi dưỡng của cha mẹ.Nỗi
nhớ của nàng được gửi vào chiều dài thời gian, vào chiều sâu không gian
bởi vậy mà càng thêm da diết, sâu xa. Dù đau buồn bất hạnh nhưng trái tim
Kiều đầy yêu thương, nhân hậu, vị tha. Nàng là người tình chung thủy, là
người con rất mực hiếu thảo, là người có tấm lòng vị tha đáng trọng. Hai nỗi
nhớ được biểu hiện khác nhau đó cùng là sự cảm thông lạ lùng của nhà thơ,
tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du đối với con người.Trong hoàn cảnh của
Kiều, những suy nghĩ, tâm trạng đó càng chứng tỏ Kiều là một người con rất mực hiếu
thảo. Nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng rồi cuối cùng nàng Kiều lại quay về với cảnh
ngộ của mình, sống với tâm trạng và thân phận hiện tại của chính mình. Mỗi cảnh vật
qua con mắt, cái nhìn của Kiều lại gợi lên trong tâm trí nàng một nét buồn. Và nàng
Kiều mỗi lúc lại càng chìm sâu vào nỗi buồn của mình. Nỗi buồn sâu sắc của Kiều
được ngòi bút bậc thầy Nguyễn Du mỗi lúc càng tô đậm thêm bằng cách dùng điệp
ngữ liên hoàn rất độc đáo trong tám câu thơ tả cảnh ngụ tình:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?Buồn trông ngọn nước
mới saHoa trôi man mác biết là về đâu?Buồn trông nội cỏ rầu rầu,Chân mây mặt đất một màu
xanh xanh.Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Nguyễn Du quan niệm: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu... Mỗi cảnh vật hiện ra qua con
mắt của Kiều ở lầu Ngưng Bích đều nhuốm nỗi buồn sâu sắc. Mỗi cặp câu gợi ra một
nỗi buồn. Buồn trông là buồn mà nhìn ra xa, nhưng cũng là buồn mà trông ngóng một
cái gì đó mơ hồ sẽ đến làm đổi thay tình trạng hiện tại. Hình như Kiều mong cánh
buồm, nhưng cánh buồm chỉ thấp thoáng, xa xa không rõ, như một ước vọng mơ hồ,
mỗi lúc mỗi xa. Kiều lại trông ngọn nước mới từ cửa sông chảy ra biển, ngọn sóng xô
đẩy cánh hoa phiêu bạt, không biết về đâu như thân phận của mình. Rồi màu xanh
xanh bất tận của nội cỏ rầu rầu càng khiến cho nỗi buồn thêm mênh mang trong không
gian; để rồi cuối cùng, nỗi buồn đó bỗng dội lên thành một nỗi kinh hoàng khi ầm ầm
tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Đây là một hình ảnh vừa thực, vừa ảo, cảm thấy như
sóng vỗ dưới chân, đầy hiểm họa, như muốn nhấn chìm Kiều xuống vực.

Hai câu thơ cuối là tâm trạng hoang mang, lo lắng, là khi những đợt sóng
lòng của nàng trở nên dữ dội hơn:

"Buồn trông gió cuốn mặt duềnh


Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi"

Âm thanh của tiếng sóng dồn đến như cơn bão táp của nội tâm, là cực điểm
cảm xúc trong lòng Kiều. Kiều sẽ phải làm gì với cuộc đời phía trước đây?
Tám câu thơ cuối quả thực là tám câu thơ rất hay, mở ra một bức tranh thiên
nhiên đối sóng với tâm trạng của Kiều, qua đó thấy được tài năng tả cảnh
cũng như miêu tả tâm lí của nhà thơ.

Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc, Nguyễn Du đã khắc hoạ nội tâm
của Kiều một cách tinh tế. Qua đó, người đọc đã cảm nhận được cảnh ngộ
éo le mà nàng phải chịu đựng. Tâm tư của Thuý Kiều vẫn không phai mờ
trong tâm trí của chúng ta mỗi khi đọc lại Truyện Kiều. Ta cảm thương cho
số phận của Kiều. Nàng như “bèo dạt mây trôi” giữa dòng đời tẻ nhạt. Xã hội
phong kiến bất công đã chà đạp lên nhân phẩm của người phụ nữ “tài sắc
vẹn toàn”. Xã hội đen tối ấy nhất định sẽ bị diệt vong, còn người tốt như Kiều
sẽ giải được oan khác của mình.

You might also like