của nền văn học Việt Nam mà còn là thi phẩm được biết đến trên toàn thế giới. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Du, những nhân vật như Thúy Kiều, Kim Trọng, Hoạn Thư,... trở nên vô cùng chân thật, sống động và làm thồn thức trái tim của biết bao thế hệ độc giả. Cả tác phẩm dài 3254 câu, mỗi phân đoạn lại có một cái hay riêng và đoạn trích “Thề nguyền” được đánh giá là đoạn thể hiện rõ nét nhất mối tình Kim – Kiều tuyệt đẹp. Đây cũng là đoạn trích cho thấy tài năng đỉnh cao của Nguyễn Du trong việc tả cảnh, tả tình.
Đoạn trích “Thề nguyền” là một cột mốc rất
quan trọng trong tác phẩm. Sau khi được Đạm Tiên báo mộng, Kiều luôn cảm thấy bất an, lo lắng khi nghĩ đến tương lai, đến tình yêu của mình. Nàng băn khoăn tự hỏi:
“Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không?”
Nhưng, cuộc tái ngộ Kim Trọng đã thổi vào
lòng nàng sức sống và niềm tin mới. Nó thôi thúc nàng chủ động nắm bắt tình yêu, số phận của bản thân. Nghe tin gia đình tối đó không về, Kiều quyết định sang nhà Kim Trọng. Bậc tài tử giai nhân tỏ lòng cùng nhau và sau đó cùng nhau hẹn ước.
Mở đầu đoạn trích là cảnh Thúy Kiều “rủ
rèm the”, băng lối sang nhà chàng Kim tình tự: “Sông Tương một dải nông sờ
Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia
Một tường tuyết trở sương che
Tin xuân đâu dễ đi về cho năng
Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.”
Những bước chân nhanh nhẹn, đầy can đảm
và chủ động ấy như đang từng bước đạp đổ xiềng xích của lễ giáo phong kiến trói buộc người phụ nữ bấy lâu nay. Quả thật trong xã hội phong kiến xưa, hủ tục trói buộc con người, nó dường như tạo nên một bức tường ngăn cách tự do, ngăn cách tình yêu đôi lứa, nhưng Kiều một cô gái có trái tim bồng bột ngây thơ, với sự táo bạo, chủ động trong tình yêu, đã tự mình ước hẹn, thề nguyền mà không cần sự cho phép của cha mẹ. Điều đó cho thấy trong Kiều luôn hiện hữu khao khát về một tình yêu tự do, nàng đang tự tìm kiếm hạnh phúc cho riêng mình. “Nhặt thưa sương giọi đầu cành
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu!
Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê”
Từ thực tại bước vào ảo mộng, từ nơi cỏ cây vườn tược, nàng bước đi để lại sau lưng vườn khuya để đến với người yêu cũng là lúc bước vào cõi mộng tình yêu. Cả hai tầng ánh sáng cũng soi rọi bước chân nàng, ánh đèn hòa cùng ánh trăng, dường như ánh trăng tạo nên chất thơ dẫn dắt tình cảm của Kiều đến đúng nơi cần đến. Còn đối với Kim Trọng sự xuất hiện của Kiều như một giấc mộng, với trạng thái chập chờn giấc ngủ, đường ranh giới mơ thực mỏng manh, không còn được phân định rõ ràng. Nhưng khi nhận ra , chàng lại thấy hạnh phúc, bâng khuâng trước sự xuất hiện đột ngột của tình nhân, xáo trộn không gian nơi căn nhà. Nhìn Thúy Kiều đẹp mờ ảo:
“Tiếng sen sẽ động giấc hòe
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần”
Khung cảnh Thúy Kiều và Kim trọng gặp
nhau cũng được Nguyễn Du mô tả hết sức thơ mộng, lãng mạn với hình ảnh "trăng xế", "hoa lê".Bóng Kiều hiện ra thật đẹp, vẫn trạng thái mộng thực đan xen lẫn lộn. Bóng người và bóng trăng như hòa làm một. Vừa gần mà lại xa, tưởng chừng trong tầm tay mà lại khó nắm băt. Cả hình ảnh và âm thanh đều rất mơ hồ bởi những bước chân của nàng Kiều quá đỗi khẽ khàng, chỉ như một cơn gió thoảng qua. Chàng Kim đang thiu thiu ngủ, nửa tỉnh nửa mê nghe tiếng động "tiếng sen khẽ động giấc hòe". Nhà thơ Nguyễn Du sử dụng hình ảnh "tiếng sen" để miêu tả bước chân của Thúy Kiều, gợi cho người đọc liên tưởng đến những bước chân hết sức nhẹ nhàng, uyển chuyển đến mức chỉ "khẽ động giấc hòe".
Trong khung cảnh thi vị ấy, lòng người cũng
đầy bâng khuâng:
“Bâng khuâng đỉnh giáp non thần,
Còn nhờ giấc mộng đêm xuân mơ”
Giấc mộng đêm xuân hay còn là giấc mơ của
tình yêu có thật. Để nói về sự xúc động bâng khuâng của chàng Kim khi nhìn thấy Thúy Kiều, nhà thơ đã sử dụng điển cố của Trung Quốc, đó là điển tích "đỉnh giáp non thần", kể về việc vua nước Sở ngủ nằm mơ thấy nữ thần núi Vu Giáp khiến chàng Kim như tỉnh như mê, còn tưởng "giấc mộng đêm xuân mơ màng".
Trước những ngỡ ngàng, hạnh phúc của
Kim Trọng, Kiều giãi bày lí do nàng chủ động sang nhà chàng:
“Nàng rằng: khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa
Bây giờ rõ mặt đôi ta
Biết đây rồi nữa chẳng là chiêm bao”
“Khoảng vắng đêm trường” là không gian thời
gian tâm lí bởi vì Kim Trọng trọ học ở ngay gần nhà Kiều mà Kiều sang gặp Kim Trọng đúng sau ngàu thanh minh vậy mà cảm giác như đã xa nhau một khoảng thời gian lâu lắm rồi. Kiều thể hiện nỗi nhớ niềm thương qua chứ “hoa”, tình yêu sâu sắc của nàng dành cho Kim Trọng. Nhưng Kiều luôn chiu sự ảm ảnh về tình yêu và số phận sau cuộc gặp gỡ hữu duyên ở mộ Đạm Tiên, nàng có dự cảm về một tương lai bất hạnh chia lìa. Nàng Kiều là một người con gái nhạy cảm lại đang ở mối tình trong sáng, quấn quýt thì nỗi lo lắng về sự xa cách luôn luôn thường trực.Qua đó thể hiện quan niệm của nàng, phá vỡ những hủ tục lạc hậu trong xã hội phong kiến, tim sự chủ động trong tình yêu và trân trọng nó.
Không gian đêm thề nguyền được gợi lên
đầy ấn tượng với ánh sáng, màu sắc, hương thơm,… tạo nên dấu ấn tình yêu đầu đời không bao giờ phai mờ trong tâm hồn Kiều. Dưới ánh trăng sáng, trong không gian đầy thi vị, Kim – Kiều đã bắt đầu nghi thức thề nguyền:
“Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song
Tóc tơ căn vặn tấc lòng
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.”
Đã bao lần trăng hiện diện trong cuộc đời Kiều,
nhưng có lẽ chỉ có đêm trăng thề nguyền này là tròn đầy, viên mãn nhất. Nó sáng trong vằng vặc giữa trời như lời ghi nhận của thiên nhiên tạo vật trước tình yêu của đôi trẻ. Ánh sáng ấy như lớp màng bảo vệ tình yêu khỏi những tì vết, bụi bặm đời thực; nó khắc hình ảnh dêm thề nguyền vào cuộc đời hai con người như một dấu ấn, một minh chứng cho tình yêu vĩnh hằng.
Ta có thể thấy, mục đích của cuộc gặp gỡ
bất ngờ này không phải đơn thuần là cho thỏa nỗi nhớ nhung của đôi lứa mà còn nhằm mục đích thiêng liêng hơn, đó là lời thề nguyền, minh chứng tình yêu của chàng và nàng. Đây là một cuộc thề nguyền vụng trộm nhưng lại được Nguyễn Du miêu tả một cách trang trọng, thiêng liêng trong không gian ấm áp. Trong hoàn cảnh ấy, lời thề trở thành một sợi dây vô hình gắn kết hai trái tim.
Qua đoạn trích “Thề nguyền”, Nguyễn Du đã
xây dựng một khung cảnh tuyệt đẹp đó là đêm trăng tình yêu, vầng trăng ước hẹn để từ đó thể hiện khát khao về tình yêu tự do của Thúy Kiều, người con gái xinh đẹp, tài hoa nhưng bạc mệnh.Tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng là tình yêu trong sáng, thủy chung, vượt lên trên lễ giáo phong kiến. Chính những điều này đã làm tăng thêm tính hấp dẫn và giá trị nhân văn cho đoạn trích “Thề nguyền” nói riêng và tác phẩm “Truyện Kiều” nói chung. Bài 2 Trong nền văn học trung đại Việt Nam kéo dài suốt thế kỷ, đã có rất nhiều những cái tên, những đề tài nổi bật và đáng chú ý bao gồm lòng yêu nước thương dân, nỗi đau mất nước, hay tinh thần tự lực tự cường của dân tộc Đại Việt. Tuy nhiên từ khoảng thế kỷ thứ XVI trở đi, có một đề tài được nhiều tác giả chú ý ấy là đề tài về thân phận của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến hà khắc, bất công. Một trong số những tác phẩm đặc biệt thành công và trở thành kiệt tác văn chương của nền văn học Việt Nam ấy là tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du. Bên cạnh việc chú trọng về những bi kịch liên tiếp trong cuộc đời người con gái tài sắc vẹn toàn tên Thúy Kiều, thì chi tiết về cuộc tình của nàng với Kim Trọng cũng là một trong những chi tiết đắt giá. Không chỉ làm nổi bật thêm sự bất hạnh của Thúy Kiều mà còn bộc lộ được những quan điểm mới mẻ, cái nhìn bao dung hơn về tình yêu nam nữ tự do dưới một thời đại có quá nhiều những lễ nghi, phép tắc ràng buộc. Đoạn trích Thề nguyền là một trong những đoạn trích ấn tượng khi nói về mối duyên giữa Kiều và Kim Trọng.
"Cửa ngoài vội rủ rèm the
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình Nhặt thưa gương giọi đầu cành Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu Sinh vừa tựa án thiu thiu Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê Tiếng sen sẽ động giấc hòe Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần".
Thực tế rằng chuyện thề nguyền của Thúy
Kiều và Kim Trọng là một sự việc xảy ra ngoài dự tính, mang tính bộc phát, khi bản thân Thúy Kiều nửa vì e sợ những dự cảm không lành khiến tình yêu tan vỡ, một nửa là vì tình yêu mãnh liệt với chàng Kim. Tổng thể hai lý do ấy đã khiến Thúy Kiều mạnh mẽ và quyết tâm chủ động để bảo vệ tình yêu của mình bằng việc lén quay lại gặp chàng Kim sau cuộc gặp buổi chiều. Dường như đối với đôi lứa yêu nhau bao nhiêu thời gian kề cận cũng là không đủ, chính vì vậy ngay hôm cả nhà đi vắng Kiều đã lén sang thăm Kim Trọng, đến lúc trời đã tối Kiều khi nàng quay về nhà lại gặp lúc gia đình vẫn chưa trở về. Ngay lúc này đây trong trái tim người thiếu nữ bỗng bùng lên một ngọn lửa mãnh liệt, nàng quyết tìm sang gặp Kim Trọng lần nữa để tự định chung thân, cốt cũng mong được yên lòng với tình yêu quá đỗi đẹp đẽ mà nàng từng cảm thấy bất an bởi phận hồng nhan và cả giấc mơ về Đạm Tiên với nỗi đau đoạn trường. Tình cảm bộc phát đã khiến Thúy Kiều hành động một cách nhanh chóng không chần chừ, những từ như "xăm xăm", "vội", "băng lối" thể hiện sự khẩn trương, nhanh chóng và tấm lòng quyết tâm giữ gìn tình yêu của nàng Kiều. Trong hai câu thơ đầu với những bước đi vội vã, xuyên vườn, vượt lối, giữa không gian tối tăm và ánh trăng mờ ảo, ta thấy được sự gấp gáp, hồi hộp của một người con gái trong nền lễ giáo phong kiến nghiêm khắc nhưng lại bất chấp tất cả, cốt để bảo vệ lấy cái tình yêu đẹp mà mong manh của mình. Sự chủ động và táo bạo của Thúy Kiều trong Thề nguyền đã cho chúng ta thấy một cũng nhìn mới, một tư tưởng mới đi trước thời đại của Nguyễn Du. Tác giả đã có cái nhìn đầy cảm thông và thấu hiểu, cũng như có ý ca ngợi, đề cao tư tưởng tự do trong tình yêu đôi lứa. Cổ vũ việc đấu tranh, đứng lên bảo vệ tình yêu, cũng như ủng hộ việc người con gái được quyền theo đuổi hạnh phúc của đời mình. Đến đây ta thấy được, ngoài vẻ đẹp cầm kỳ thi họa tinh thông, Thúy Kiều cũng còn là một cô gái có bản lĩnh, dám nghĩ dám làm, khác hẳn với những người phụ nữ đương thời khác.
Bên cạnh những câu thơ miêu tả phong thái và
tâm trạng của Thúy Kiều thì những câu thơ tả cảnh cũng có những giá trị thẩm mỹ riêng. Trong bối cảnh Thúy Kiều một mình lén sang nhà Kim Trọng thề ước, khung cảnh đêm tối cũng trở nên lãng mạn với ánh trăng dịu dàng, xuyên qua từng kẽ lá chiếu bên tấm thân mong manh nhưng kiên cường của nàng Kiều. Cùng với ở chỗ chàng Kim, ánh đèn trên án hắt hiu, mờ ảo đủ soi bóng chàng Thư Sinh, khiến cho khung cảnh thiên nhiên và tình yêu của đôi trẻ càng thêm phần thơ mộng, hư ảo. Chính vì vậy khi Kim Trọng mệt mỏi thiếp đi bên án thư, nửa tỉnh nửa mê, thấy gót sen nhẹ nhàng của Thúy Kiều tìm đến thì chàng có cảm giác không thật, một là vì quá đỗi hạnh phúc sung sướng khi thấy người yêu, một phần nữa là không tin được rằng Kiều lại có thể chủ động lúc đêm tối sang tìm thăm. Thành thử Kim Trọng còn đôi phần bỡ ngỡ "còn ngờ giấc mộng đêm xuân ngỡ ngàng".
"Nàng rằng: "Khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa Bây giờ rõ mặt đôi ta Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao"
Bản thân Thúy Kiều cũng có ý thức được rằng
hành động của mình hôm nay quả thực đường đột và có phần vội vã, thế nhưng nàng đã nhanh chóng tỏ bày với chàng Kim rằng, nàng là vì "hoa" vì tình yêu, vì bảo vệ mối lương duyên tốt đẹp vừa chớm nở nên mới phải tự thân định đoạt, chủ động sang tìm Kim Trọng. Đồng thời Thúy Kiều dường như có những ám ảnh sâu sắc về lời báo mộng của Đạm Tiên cùng với số kiếp hồng nhan đa truân, thành thử nàng luôn có cảm giác bất an. Chỉ khi thấy được chàng Kim, thấy được người yêu, nàng mới yên lòng, đồng thời cũng bộc lộ nỗi sợ hãi tất cả những ký ức tươi đẹp ngày hôm nay lại chỉ là một giấc chiêm bao xa vời. Đến đây ta cũng thấy một phần sự yếu đuối, tội nghiệp của Thúy Kiều, rõ ràng đang sống trong cảnh êm đềm, nhưng số mệnh vốn khổ hạnh, cho nên không thoát được nhiều lo toan, suy nghĩ.
"Vội vàng làm lễ rước vào
Đài sen nối sáp lò đào thêm hương Tiên thề cùng thảo một chương Tóc mây một món dao vàng chia đôi Vầng trăng vằng vặc giữa trời Đinh ninh hai miệng một lời song song Tóc tơ căn vặn tấc lòng Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương"
Kim Trọng hết lòng yêu thương Thúy Kiều, thế
nên nghe nàng bày tỏ nỗi lòng, sự bất an trong tình yêu, chàng đã nhanh chóng thấu hiểu, đồng thời lập tức chuẩn bị lễ thề nguyền, tự định chung thân để đảm bảo cho tình yêu đôi lứa thêm vững bền sắt son. Tuy diễn ra một cách đột ngột, vội vàng và không có sự suy tính từ trước, thế nhưng lễ thề nguyền của Kim, Kiều vẫn diễn ra trong không khí vô cùng thiêng liêng, trang trọng. Có đầy đủ các thức bao gồm nến đỏ, hương trầm, giấy thảo lời thề sắt son, cùng với hành động tượng trưng cho việc gắn bó lứa đôi ấy là cắt tóc bằng dao vàng rồi tết chung lại thành một sợi, đem cất vào hộp khóa lại. Đặc biệt trong đêm thề nguyền, sự xuất hiện của ánh trăng vằng vặc dường như trở thành một nhân tố đắt giá làm minh chứng cho tình yêu son sắt, thủy chung của đôi lứa, đồng thời còn biểu tượng cho sự trong sáng, sum họp đoàn tụ, sự ấm áp lãng mạn trong tình yêu. Mấy câu "Đinh ninh hai miệng một lời/Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương" trước hết là thể hiện sự tự nguyện ước định chung thân, sự đồng lòng, một dạ của Thúy Kiều và Kim Trọng. Thêm vào nữa trai tài gái sắc, không quản chuyện lễ giáo, định kiến xã hội mà sẵn sàng dùng hành động của bản thân để chứng minh và bảo vệ tình yêu của mình, vượt ra khỏi khuôn phép "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy" vốn đã ăn sâu vào tiềm thức. Đến đây có thể nhận thấy rằng dù Nguyễn Du là thế hệ đã đi trước hàng mấy thế kỷ, thế nhưng những tư tưởng, suy nghĩ quan niệm tiến bộ của ông về tình yêu thậm chí còn vượt xa một số con người trong xã hội ngày nay khi công khai ủng hộ yêu đương tự do, ủng hộ người con gái mạnh mẽ vùng dậy theo đuổi tình yêu và hạnh phúc,gạt bỏ lối suy nghĩ người phụ nữ phải chấp nhận sống cam chịu không có quyền lựa chọn trong hôn nhân xưa cũ.
Thề nguyền không phải là đoạn trích nổi bật
nhất trong Truyện Kiều thế nhưng bản thân nó lại có những giá trị riêng biệt, thoát ra khỏi việc thương cảm hay xót xa cho số phận người phụ nữ phong kiến, thì ở đây Nguyễn Du tập trung vào ca ngợi, ủng hộ người người phụ nữ trong việc tìm kiếm, theo đuổi tình yêu và hạnh phúc, ủng hộ hôn nhân tự nguyện. Đồng thời đây cũng là một trong số ít những câu thơ lãng mạn, miêu tả mối lương duyên của cặp trai tài gái sắc Kim, Kiều, bộc lộ những quan điểm mới của Nguyễn Du trong các nhìn nhận về tình yêu và hôn nhân.