You are on page 1of 121

CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG

_Nguyễn Dữ_

Đề 1: Cảm nhận vẻ đẹp Vũ Nương trong truyện “ Chuyện người con gái Nam
Xương” ( Nguyễn Dữ)

Mở bài:
Thời gian trôi đi, bốn mùa luân chuyển, con người sinh ra và tan biến
vào cõi hư vô. Nhưng nghệ thuật đích thực thì còn mãi với thời gian như minh
chứng cho sự thiên vị rất có lý của tạo hoá. Chuyện người con gái Nam Xương
của nhà văn Nguyễn Dữ là một tác phẩm như thế. Đến với thiên truyện, người
đọc cảm thấy vô cùng ấn tượng về vẻ đẹp của nàng Vũ Nương.

Thân bài:

LĐ khái quát:

Tác giả:
+ Nguyễn Dữ là một nhà văn xuất sắc, là người đặt nền móng cho truyện ngắn
trung đại Việt Nam.
+ Ông là nhà văn tiến bộ đầu tiên đưa hình ảnh người phụ nữ Việt Nam vào văn
học trung đại.
Tác phẩm:
+“Truyền kì mạn lục” là tác phẩm đã làm nên tên tuổi của ông, được người đời
đánh giá là một áng “thiên cổ kỳ bút”.
+ “Chuyện người con gái Nam Xương” là truyện thứ 16 viết về người phụ nữ xinh
đẹp, hiền dịu nhưng phải chịu số phận bất hạnh, khổ đau.
- Vũ Nương tên thật là Vũ Thị Thiết, nàng là nhân vật chính, hình tượng trung tâm
góp phần quan trọng quan trọng để thể hiện chủ đề: ngợi ca vẻ đẹp của nguời phụ
nữ, đồng cảm, xót thương với số phận của họ, lên tiếng tố cáo những bất công của
xã hội đã tước đoạt quyền sống, quyền được hưởng hạnh phú của con người, Với
ngòi bút tài hoa, Nguyễn Dữ đã rất sáng tạo trong cách kể chuyện, sắp xếp tình tiết
chặt chẽ hợp lí, bút pháp truyền kì già dặn. Nhà văn đã đưa đến cho người đọc bao
trăn trở, suy nghĩ và nhiều bài học qua nhân vật Vũ Nương.
LĐ1: Trước hết, đọc truyện, ta thật sự trân trọng, ngưỡng mộ trước vẻ đẹp
nhan sắc của Vũ Nương
+ Mở đầu tác phẩm, tác giả đã giới thiệu ngắn gọn nhan sắc của Vũ Nương bằng
cụm từ “ tư dung tốt đẹp”. Đó là sự cân đối, hài hòa về dáng vẻ lẫn nhan sắc.
+ Nhan sắc của Vũ Nương còn bộc lộ qua hình ảnh dưới thủy cung: “ mái tóc búi
xễ, mặt chỉ hơi điểm qua 1 chút son phấn” mà trông đã rất đẹp.
+ Vì dung hạnh đó mà Trương Sinh đem trăm lạng vàng cưới về làm vợ
=>Giới thiệu ngắn gọn nhưng lột tả được vẻ đẹp nhan sắc của Vũ Nương
LĐ2: Đặc biệt, nét nổi bật ở Vũ Nương khiến ta trân trọng, ngưỡng mộ là vẻ
đẹp tâm hồn, nhân cách, phẩm giá
LUẬN CỨ 1: YÊU THƯƠNG CHỒNG, THỦY CHUNG VỚI CHỒNG, BIẾT
GIỮ GÌN HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH
*Trong cuộc sống hằng ngày:
+ Biết chồng có “ tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức” => giữ gìn khuôn
phép, không để vợ chồng xảy ra thất hòa. Vì vậy, nàng là người vợ dịu hiền, biết
giữ gìn hạnh phúc gia đình
*Ngày tiễn chồng đi lính:
+ Ngày tiễn chồng, nàng nói với chồng những lời đầy tình nghĩa. Vượt lên vinh
hoa phú quý, lập tước phong hầu thường tình của bao người vợ có chồng ra chiến
trận xưa kia, nàng không mong vinh hiển công danh mà chỉ mong chồng bình yên
trở về.
+ Tuy chồng chưa thực sự xông pha nơi chiến trận mà nàng đã tưởng tượng ra bao
hiểm nguy mà chồng phải đối mặt, không khỏi lo lâu cho sự an nguy của chồng.
+ Chưa thật sự chia xa mà nàng đã bày tỏ nỗi nhớ nhung của mình: “ nhìn trăng
soi thành cũ lại sửa soạn áo rét gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang lại thổn
thức tâm tình thương người đất thú”
=>Qua lời thoại ngắn nhưng chan chứa bao tình cảm yêu thương, tất cả đều xuất
phát từ tấm lòng thủy chung của Vũ Nương đối với chồng
*Những ngày chồng đi xa:
+ Nàng luôn là người vợ thủy chung, yêu chồng tha thiết, nỗi nhớ chồng cứ khắc
khoải trong tim. “ Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn
góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Vậy là lúc vui, lúc buồn, xuân qua,
đông tới lòng nàng luôn trĩu nặng nỗi nhớ chồng. 3 năm xa cách là 3 năm nàng
sống trong nỗi nhớ niềm thương
*Khi ở dưới thủy cung:
+ Khi Phan Lang nhắc đến chồng con, nàng ứa 2 hàng lệ. Nỗi nhớ, tình yêu thương
nàng dành cho chồng không bao giờ phai nhạt trong tâm hồn nàng
=>Nàng là người phụ nữ mang nét đẹp truyền thống của bao người phụ nữ Việt
Nam: hết mực yêu chồng, thủy chung son sắt.
LUẬN CỨ 2: MỘT NÀNG DÂU HẾT MỰC HIẾU THẢO, LỄ NGHĨA
*Khi mẹ ốm, ngã bệnh:
+ Vì mẹ già quá nhớ mong con mà sinh ốm, Vũ Nương hết lòng chăm sóc quan
tâm “ thuốc thang lễ bái thần phật, lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”
*Khi mẹ qua đời:
+ Khi mẹ chồng qua đời, nàng vô cùng đau đớn xót thương “ việc ma chay tế lễ, lo
liệu như đối với cha mẹ đẻ”
+ Tấm lòng hiếu thảo của nàng được mẹ chồng ghi nhận rõ ràng nhất qua lời trăng
trối “ xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”
=>Cách kể chuyện khéo léo, tinh tế, lời nói của bà mẹ chính là sự ghi nhận khách
quan nhất về tấm lòng lễ nghĩa của nàng. Có thể nói, nàng đã sống trọn đạo làm
con, vẹn nghĩa trọn tình
LUẬN CỨ 3: VŨ NƯƠNG CÒN LÀ MỘT NGƯỜI MẸ DỊU HIỀN, RẤT
MỰC YÊU THƯƠNG CON
+ Chồng đi xa, nàng tự sinh con, đặt tên con là Đản_ cái tên chứa đựng biết bao
tình yêu, biết bao tốt đẹp. Đối với nàng, đứa con là niềm vui, niềm hạnh phúc để
giúp nàng vượt qua gian nan thử thách. Những ngày tháng chồng ra trận là những
ngày tháng nàng tự nuôi con khôn lớn.
+ Yêu thương con, nàng sợ con vắng bóng tình cha nên hằng đêm trỏ vào bóng
mình trên vách mà bảo đó là cha Đản. Nàng muốn bù đắp cho con sự thiếu thốn
tình cảm người cha, tạo nên sợi dây gắn kết giữa người cha chưa hề biết mặt
=>Hành động bình dị nhưng đó là tình yêu của người mẹ thảo hiền
LUẬN CỨ 4: NÀNG LÀ NGƯỜI PHỤ NỮ ĐẢM ĐANG, THÁO VÁT, GIÀU
ĐỨC HI SINH
+ Chồng đi xa, một mình nàng gánh vác cả giang sơn nhà chồng. Biết bao khó
khăn, vất vả mà nàng đã phải gồng mình để vượt qua. Nàng tảo tần chăm sóc mẹ
già đau ốm, nuôi dạy con thơ khôn lớn, vượt cạn một mình không ai sẻ chia.
=>Nàng đã lo toàn mọi việc trong cuộc sống mà không 1 lời kêu ca, phàn nàn_ vẻ
đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam.
LĐ3: Cuối cùng, Vũ Nương còn là người phụ nữ giàu lòng tự trọng, luôn có ý
thức giữ gìn phẩm hạnh, rất mực nhân hậu, vị tha, ân nghĩa, thủy chung
khiến ta thật sự xúc động.
*Khi chồng trở về
+ Những ngày chồng ra trận, nàng một mực giữ gìn tiết hạnh. Thế nhưng, khi
Trương Sinh đi lính trở về, ghen tuông, đánh đuổi, nàng đau đớn vô cùng. Dù hết
lời phân trần, thanh minh nhưng chồng vẫn bỏ ngoài tai
+ Nàng ra bến sông Hoàng Giang, ngửa mặt lên trời và khẩn nguyện để mong trời
đất chứng giám cho tấm lòng mình rồi gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn
để bảo toàn danh tự, nhân phẩm
*Lúc xuống thủy cung
+ Nàng vẫn khao khát được trở về để phục hồi danh dự. nhân phẩm. Nàng thà chết
chứ không thể sống trong ô nhục. Nàng thật giàu lòng tự trọng
*Khi trở về trên bến sông Hoàng Giang
+ Dù chịu muôn vàn khổ đau, bị chính chồng mình nghi ngờ tiết hạnh, đau khổ vì
thói khen tuông, độc đoán của Trương Sinh nhưng nàng vẫn mực vị tha, nhân hậu,
trở về trên bến sông Hoàng Giang
+ Không 1 lời oán trách, nàng còn ghi ơn lòng cứu mạng của Linh Phi, nàng đã thề
sống chết cũng không bỏ và đa tạ Trương Sinh “ đa tạ tình chàng thiếp chẳng thể
trở về nhân gian được nữa”
=>Biểu hiện của lẽ sống ân nghĩa thủy chung
Đánh giá:
Tài năng: Lời kể tự nhiên chân thực, sắp xếp chi tiết khéo léo nhân vật được đặt
vào các mối quan hệ hoàn cảnh khác nhau được khắc hoạ qua hành động, qua
những lời thoại đầy ý nghĩa, đặt biệt là bút pháp truyền kì kết hợp với yếu tố hoang
đường kì ảo
Sử dụng các biện pháp nghệ thuật: ước lệ tượng trưng, điển tích điển cố,…

Vẻ đẹp: Vũ Nương là một phụ nữ đảm đang, hiếu thảo, một mình nuôi dạy con
thơ, phụng dưỡng mẹ già. => Hình ảnh nười phụ nữ lý tưởng trong XHPK xưa

Tấm lòng: Tác giả đã phê phán xã hội phong kiến cũ cổ hủ, hà khắc đã vùi dập
thân phận người phụ nữ đồng thời đề cao những phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương
đại diện cho người phụ nữ xưa thủy chung, đẹp người đẹp nết.

Liên hệ: Sau khi đọc và phân tích tác phẩm bản thân em cũng đã vỡ lẽ ra được
nhiều điều, em đã biết nhìn nhận lại bản thân và em nghĩ rằng đôi khi mình cần
phải học cách thay đổi để chung sống, học cách hoàn thiện bản thân mỗi ngày, học
cách trao yêu thương bởi vì khi chúng ta trao yêu thương cũng là cách để chúng ta
nhận lại yêu thương. Em không dám chắc sau này mình sẽ trở thành một mẫu
người hoàn hảo, lý tưởng nhưng em tin là em sẽ cố gắng trau dồi kiến thức, kỹ
năng sống để hoàn thiện mình và sẽ cố gắng hoàn thiện bản thân.

Kết bài:

Vẻ đẹp nhân vật Vũ Nương đã làm nên sức sống của “ chuyện người con gái
Nam Xương”. Vẻ đẹp nhan sắc và tâm hồn của Vũ Nương mãi đọng trong lòng ta.
Nguyễn Dữ đã có cái nhìn nhân văn, tiến bộ đối với phụ nữ, đưa họ vào trang viết
với thái độ đầy cảm động, yêu thương, trân trọng. Bởi vậy ông đã để lại cho nền
văn học nước nhà một truyện ngắn xuất sắc viết về đề tài người phụ nữ.

Đề 2: Phân tích số phận khổ đau, oan trái của Vũ Nương trong truyện “
Chuyện người con gái Nam Xương”

Mở bài:

Nhà thơ Puskin từng viết: “Linh hồn là một ấn tượng của một tác phẩm”. Cây cỏ
sống được là nhờ ánh sáng, chim muông sống được là nhờ tiếng ca. Một tác phẩm
sống được là nhờ tiếng lòng của người cầm bút. Và Nguyễn Dữ đã để lại tiếng lòng
của mình cất lên, để linh hồn tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương bay lên
qua hình tượng nhân vật Vũ Nương. Đến với thiên truyện, ta vô cùng xót xa trước
số phận oan trái của Vũ Nương nói riêng và của người phụ nữ Việt Nam dưới chế
độ phong kiến nói chung
Thân bài:

LĐ khái quát:

Tác giả:
+ Nguyễn Dữ là một nhà văn xuất sắc, là người đặt nền móng cho truyện ngắn
trung đại Việt Nam.
+ Ông là nhà văn tiến bộ đầu tiên đưa hình ảnh người phụ nữ Việt Nam vào văn
học trung đại.
Tác phẩm:
+“Truyền kì mạn lục” là tác phẩm đã làm nên tên tuổi của ông, được người đời
đánh giá là một áng “thiên cổ kỳ bút”.
+ “Chuyện người con gái Nam Xương” là truyện thứ 16 viết về người phụ nữ xinh
đẹp, hiền dịu nhưng phải chịu số phận bất hạnh, khổ đau.
- Vũ Nương tên thật là Vũ Thị Thiết, nàng là nhân vật chính, hình tượng trung tâm
góp phần quan trọng để thể hiện chủ đề: ngợi ca vẻ đẹp của nguời phụ nữ, đồng
cảm, xót thương với số phận của họ, lên tiếng tố cáo những bất công của xã hội đã
tước đoạt quyền sống, quyền được hưởng hạnh phú của con người, Với ngòi bút tài
hoa, Nguyễn Dữ đã rất sáng tạo trong cách kể chuyện, sắp xếp tình tiết chặt chẽ
hợp lí, bút pháp truyền kì già dặn. Nhà văn đã đưa đến cho người đọc bao trăn trở,
suy nghĩ và nhiều bài học qua nhân vật Vũ Nương.

LĐ1: Vũ Nương là 1 người phụ nữ hội tụ nét đẹp truyền thống của người phụ
nữ Việt Nam khiến ta thật sự trân trọng
+ Nàng là 1 người phụ nữ có nhan sắc, tư dung tốt đẹp
+ Nổi bật hơn hẳn là vẻ đẹp tâm hồn phẩm giá của nàng: nết na, hiền thục, đảm
đang, tháo vát, là một nàng dâu hiếu thảo, người vợ thủy chung, người mẹ dịu hiền.
Đặc biệt, nàng còn giàu lòng tự trọng, ân nghĩa thủy chung.
=>Nàng là một người con gái đẹp người đẹp nết như vậy nhưng cuộc đời nàng
phải chịu bao đắng cay khổ cực
LĐ2: Trước hết, số phận khổ đau oan trái của Vũ Nương thể hiện ở cuộc hôn
nhân gả bán, không có tình yêu khiến ta vô cùng xót xa.
+ Nàng là một người phụ nữ đức hạnh vẹn toàn=> Trương Sinh xin mẹ đem trăm
lạng vàng cưới về làm vợ.
+ Nàng chỉ có giá bằng “ một trăm lạng vàng”=> một cuộc hôn nhân sắp đặt,
không có tình yêu
=>Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ không có quyền được có một tình yêu tự
do. Đó là bất hạnh đầu tiên trong cuộc đời Vũ Nương
LĐ3: Không những thế, ta còn thật sự thương cảm trước số phận oan trái của
Vũ Nương _ nàng cô đơn vò võ trong những tháng ngày chồng đi xa
+ Chưa hạnh phúc được bao lâu thì chồng đã đi lính=> một người phụ nữ tràn đầy
xuân sắc lại phải rơi vào tình cảnh đơn côi 1 mình: “ mỗi khi thấy bướm lượn đầy
vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được” =>
nhớ chồng đến khắc ngoải, những năm tháng xa chồng là những năm tháng nàng
sống trong nỗi nhớ thương.
+ Con còn thơ dại, mẹ già ốm yếu nên nỗi cô đơn ấy chỉ mình nàng gặp nhấm.
Không một ai sẻ chia, bầu bạn với nàng.
=>Đó là tình cảnh chung của người phụ nữ có chồng ra chiến trận xưa kia
LĐ4: Số phận khổ đau, oan trái của Vũ Nương còn thể hiện ở biết bao khó
khăn, vất vả, gian truân mà nàng phải đối mặt khiến ta không khỏi đau lòng
+ Chồng đi xa, một mình nàng gánh vác cả giang sơn nhà chồng. Biết bao khó
khăn, vất vả mà nàng đã phải gồng mình để vượt qua. Nàng tảo tần chăm sóc mẹ
già đau ốm, nuôi dạy con thơ khôn lớn, vượt cạn một mình không ai sẻ chia.
=>Cuộc sống Vũ Nương dằng dặc những khó khăn, vất vả
LĐ5: Đặc biệt, ta bày tỏ nỗi cảm thông trước số phận oan trái của nàng, nàng
bị nỗi oan động trời và phải đánh đổi bằng cái chết bi thảm
*Khi chồng đi lính trở về:
+ Trương Sinh bế con ra thăm mộ mẹ, đứa con không chịu nhận cha còn ngây thơ
nói “ có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi
cũng ngồi”. =>Tính đa nghi nên chàng nổi máu ghen. Chàng đinh ninh là vợ hư,
đánh đập và đuổi đi mặc kệ lời phân trần của vợ và hàng xóm
+ Bị chồng nghi oan, nàng đau đớn tủi nhục. Nàng giãi bày thống thiết, hết lời
phân trần để chồng hiểu rõ. Nàng nói đến thân phận mình, tình nghĩa vợ chồng,
khẳng định tấm lòng thủy chung. Thế nhưng, Trương Sinh vẫn đánh đuổi nàng
thậm tệ => tất cả những gì nàng khát khao, mong chờ bây giờ tan thành mây khói
vì chiếc bóng trong lời nói con trẻ
*Bên bến sông Hoàng Giang:
+ Nàng phân trần với trời đất: “ Nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào
nước xin làm Ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm Cỏ Ngu Mĩ.”
=>Người phụ nữ bị đẩy tới đường cùng, phải nhờ thế lực siêu nhiên chứng giám.
Cuối cùng, nàng phải tự gieo mình xuống sông Hoàng Giang để minh oan cho nỗi
oan động trời của mình
LĐ6: Cuối cùng, số phận oan trái của Vũ Nương còn thể hiện ở bi kịch không
được hóa giải, ngay cả khi được minh oan, hạnh phúc cũng không thể hàn gắn
được nữa
+ Khi gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn, nàng được Linh Phi giúp đỡ rồi
trở về trần gian. Hình ảnh nàng lung linh rực rỡ trên sông Hoàng Giang là minh
chứng cho nỗi oan của nàng
+ Nàng hiện về trên sông Hoàng Giang với lời đa tạ Trương Sinh “ Đa tạ tình
chàng thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa .” Chi tiết kì ảo này đã nhấn
mạnh thêm bi kịch của Vũ Nương: nàng vĩnh viễn không thể trở về nhân gian,
hạnh phúc không thể làm lại, nàng không thể được làm vợ, làm mẹ như mong
muốn của nàng. Sương khói giải oan tan đi là một sự thật phũ phàng _ bi kịch
người phụ nữ không thể hóa giải, điều kì ảo không thể thay đổi được hiện thực
=>”Chuyện nguời con gái Nam Xương” là bi kịch về số phận của 1 người phụ nữ
thủy chung, đức hạnh.
Đánh giá:
Tài năng: Lời kể tự nhiên chân thực, sắp xếp chi tiết khéo léo nhân vật được đặt
vào các mối quan hệ hoàn cảnh khác nhau được khắc hoạ qua hành động, qua
những lời thoại đầy ý nghĩa, đặt biệt là bút pháp truyền kì kết hợp với yếu tố hoang
đường kì ảo
Sử dụng các biện pháp nghệ thuật: ước lệ tượng trưng, điển tích điển cố,…
Nội dung: Khắc họa chân thực số phận đầy oan trái của Vũ Nương. Cuộc đời và
cái chết thương tâm của Vũ Nương là tiêu biểu cho số phận oan trái khổ đau của
người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến.
Tấm lòng: Lên tiếng tố cáo XHPK, xem trọng quyền uy của đàn ông, tố cáo chiến
tranh phong kiến phi nghĩa đồng thời bày tỏ niềm cảm thương với số phận oan trái
của phụ nữ
Liên hệ: Sau khi đọc và phân tích tác phẩm bản thân em cũng đã vỡ lẽ ra được
nhiều điều, em đã biết nhìn nhận lại bản thân và em nghĩ rằng đôi khi mình cần
phải học cách thay đổi để chung sống, học cách hoàn thiện bản thân mỗi ngày, học
cách trao yêu thương bởi vì khi chúng ta trao yêu thương cũng là cách để chúng ta
nhận lại yêu thương. Em không dám chắc sau này mình sẽ trở thành một mẫu
người hoàn hảo, lý tưởng nhưng em tin là em sẽ cố gắng trau dồi kiến thức, kỹ
năng sống để hoàn thiện mình và sẽ cố gắng phát triển bản thân nhiều hơn.

Kết bài:

Số phận oan trái của nhân vật Vũ Nương đã làm nên sức sống của “ Chuyện người
con gái Nam Xương”.Những khổ đau mà nàng phải chịu đựng khiến cho ta không
khỏi xót thương.Nguyễn Dữ đã có cái nhìn nhân văn, tiến bộ đối với phụ nữ, đưa
họ vào trang viết với thái độ đầy cảm động, yêu thương, trân trọng. Bởi vậy ông đã
để lại cho nền văn học nước nhà một truyện ngắn xuất sắc viết về đề tài người phụ
nữ.

Đề 3: Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương trong phần trích sau:

“... Chàng quỳ xuống đất vâng lời dạy. Nàng rót chén rượu đầy tiễn chồng mà
rằng:

- Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo
gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thể là đủ rồi.
Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều
còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp
băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người
ải xa, trồng liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có
thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cảnh không bay bổng.
Nàng nói đến đây, mọi người đều tựa hai hàng lệ. Rồi đó, tiệc tiễn vừa tàn, áo
chàng đành rứt. Ngước mắt cảnh vật vẫn còn như cũ, mà lòng người đã nhuộm
mối tình muôn dặm quan san!

Bấy giờ, nàng đương có mang, sau khi xa chồng vừa đẩy tuần thì sinh ra một đứa
con trai, đặt tên là Đản. Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm
lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn
được, Bà mẹ cũng vì nhớ con mà dân sinh ổm. Nàng hết sức thuốc thang lễ bái
thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn, Song bệnh tình mỗi ngày một
trầm trọng, bà biết không sống được, bèn trối lại với nàng rằng:

- Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. (...) Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc
đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng
như con đã chăng pha lệ.

Bà cụ nói xong thì mất, Nàng hết lời thương xót, phàm việc và cay tế lễ, lo liệu như
đối với cha mẹ đẻ mình."

(Chuyện người con gái Nam Xương - Nguyễn Dữ, SGK Ngữ văn 9. Tập một, NXB
Giáo dục Việt Nam - 2017)

Mở bài:
Nhà thơ Puskin từng viết: “Linh hồn là một ấn tượng của một tác phẩm”.
Cây cỏ sống được là nhờ ánh sáng, chim muông sống được là nhờ tiếng ca. Một tác
phẩm sống được là nhờ tiếng lòng của người cầm bút. Và Nguyễn Dữ đã để lại
tiếng lòng của mình cất lên, để linh hồn tác phẩm Chuyện người con gái Nam
Xương bay lên qua hình tượng nhân vật Vũ Nương. Đọc truyện, ta không thể quên
đoạn trích kể về nhân vật Vũ Nương khi chồng đi lính.

Thân bài:

LĐ khái quát:

Tác giả:
+ Nguyễn Dữ là một nhà văn xuất sắc, là người đặt nền móng cho truyện ngắn
trung đại Việt Nam.
+ Ông là nhà văn tiến bộ đầu tiên đưa hình ảnh người phụ nữ Việt Nam vào văn
học trung đại.
Tác phẩm:
+“Truyền kì mạn lục” là tác phẩm đã làm nên tên tuổi của ông, được người đời
đánh giá là một áng “thiên cổ kỳ bút”.
+ “Chuyện người con gái Nam Xương” là truyện thứ 16 viết về người phụ nữ xinh
đẹp, hiền dịu nhưng phải chịu số phận bất hạnh, khổ đau.
LĐ1: Giới thiệu chung:
+ “ Chuyện người con gái Nam Xương được sáng tác vào thế kỉ XVI, khi chế độ
phong kiến VN rơi vào khủng hoảng, tranh giành quyền lực dẫn đến chiến tranh
liên miên.
+ Vũ Nương là nhân vật chính góp phần thể hiện chủ đề tư tưởng cho tác phẩm.
Thông qua cuộc đời và số phận thương tâm của Vũ Nương, nhà văn thể hiện niềm
thương cảm với số phận người phụ nữ và ngợi ca vẻ đẹp của họ
+ Vũ Nương là người phụ nữ đẹp người đẹp nết. Trong làng có chàng Trương Sinh
vì cảm mến dung hạnh của nàng mà lấy nàng về làm vợ. Làm vợ Trương Sinh
chưa được bao lâu thì Trương Sinh phải ra trận. Nhà văn đã đặt Vũ Nương vào tình
cảnh chồng đi lính từ đó khắc họa vẻ đẹp và số phận của nàng
LĐ2: Trước hết, ta vô cùng xót xa trước số phận khổ đau, buồn tủi của nàng
Vũ Nương khi chồng đi lính
LUẬN CỨ 1: HIỆN LÊN TRONG ĐOẠN TRUYỆN LÀ SỐ PHẬN KHỔ
ĐAU BUỒN TỦI CỦA NÀNG:
+ Nàng sống trong tình cảnh cô đơn vò võ. Những ngày chồng đi lính là những
ngày nàng sống trong nỗi nhớ thương, một người phụ nữ tràn đầy xuân sắc giờ đây
phải mòn mỏi chờ đợi chồng quay về: “ mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây
che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”
+ Nỗi nhớ thương chồng nàng không biết phải chia sẻ cho ai vì con còn thơ dại, mẹ
già đau ốm, không một ai bầu bạn tâm sự.
=>Nếu ở chiến trận, người chồng đang phải đối mặt với biết bao gian khổ hiểm
nguy thì nơi quê nhà người vợ đang mòn mỏi chờ đợi, nhớ nhung chồng khắc
khoải.
LUẬN CỨ 2: MỘT BIỂU HIỆN NỮA CHO SỐ PHẬN KHỔ ĐAU CỦA VŨ
NƯƠNG LÀ NÀNG PHẢI ĐỐI DIỆN VỚI BAO KHÓ KHĂN VẤT VẢ
+ Chồng đi xa, một mình nàng gánh vác cả giang sơn nhà chồng. Biết bao khó
khăn, vất vả mà nàng đã phải gồng mình để vượt qua. Nàng tảo tần chăm sóc mẹ
già đau ốm, nuôi dạy con thơ khôn lớn, vượt cạn một mình không ai sẻ chia.
=>Cuộc sống Vũ Nương dằng dặc những khó khăn, vất vả
=>Có thể nói, chỉ qua một đoạn truyện ngắn mà ta đã cảm nhận được bao nỗi
buồn, khổ đau của Vũ Nương. Đó là tình cảnh cô đơn lẻ bóng của người vợ, là
những vất vả nhọc nhằn nàng phải một mình gồng gánh trong cuộc sống=> số phận
chung của người phụ nữ trong XHPK xưa.
LĐ3: Đặc biệt, đọc đoạn trích, ta vô cùng trân trọng trước vẻ đẹp tâm hồn của
nàng Vũ Nương
LUẬN CỨ 1: TRƯỚC HẾT, VŨ NƯƠNG LÀ MỘT NGƯỜI PHỤ NỮ YÊU
CHỒNG, THỦY CHUNG SON SẮT
*Ngày tiễn chồng đi lính:
+ Ngày tiễn chồng, nàng nói với chồng những lời đầy tình nghĩa. Vượt lên vinh
hoa phú quý, lập tước phong hầu thường tình của bao người vợ có chồng ra chiến
trận xưa kia, nàng không mong vinh hiển công danh mà chỉ mong chồng bình yên
trở về.
+ Tuy chồng chưa thực sự xông pha nơi chiến trận mà nàng đã tưởng tượng ra bao
hiểm nguy mà chồng phải đối mặt, không khỏi lo lâu cho sự an nguy của chồng.
+ Chưa thật sự chia xa mà nàng đã bày tỏ nỗi nhớ nhung của mình: “ nhìn trăng
soi thành cũ lại sửa soạn áo rét gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang lại thổn
thức tâm tình thương người đất thú”
=>Qua lời thoại ngắn nhưng chan chứa bao tình cảm yêu thương, tất cả đều xuất
phát từ tấm lòng thủy chung của Vũ Nương đối với chồng
*Những ngày chồng đi xa:
+ Nàng luôn là người vợ thủy chung, yêu chồng tha thiết, nỗi nhớ chồng cứ khắc
khoải trong tim. “ Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn
góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Vậy là lúc vui, lúc buồn, xuân qua,
đông tới lòng nàng luôn trĩu nặng nỗi nhớ chồng. 3 năm xa cách là 3 năm nàng
sống trong nỗi nhớ niềm thương
LUẬN CỨ 2: KHÔNG NHỮNG THẾ, HIỆN LÊN TRONG ĐOẠN TRÍCH
LÀ TẤM LÒNG HIẾU THẢO LỄ NGHĨA CỦA VŨ NƯƠNG
*Khi mẹ ốm, ngã bệnh:
+ Vì mẹ già quá nhớ mong con mà sinh ốm, Vũ Nương hết lòng chăm sóc quan
tâm “ thuốc thang lễ bái thần phật, lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”
*Khi mẹ qua đời:
+ Khi mẹ chồng qua đời, nàng vô cùng đau đớn xót thương “ việc ma chay tế lễ, lo
liệu như đối với cha mẹ đẻ”
+ Tấm lòng hiếu thảo của nàng được mẹ chồng ghi nhận rõ ràng nhất qua lời trăng
trối “ xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”
=>Cách kể chuyện khéo léo, tinh tế, lời nói của bà mẹ chính là sự ghi nhận khách
quan nhất về tấm lòng lễ nghĩa của nàng. Có thể nói, nàng đã sống trọn đạo làm
con, vẹn nghĩa trọn tình
LUẬN CỨ 3: HIỆN LÊN TRONG ĐOẠN TRÍCH CÒN LÀ TÌNH YÊU
THƯƠNG CON SÂU SẮC CỦA NGƯỜI MẸ THẢO HIỀN
+ Chồng đi xa, nàng tự sinh con, đặt tên con là Đản_ cái tên chứa đựng biết bao
tình yêu, biết bao tốt đẹp. Đối với nàng, đứa con là niềm vui, niềm hạnh phúc để
giúp nàng vượt qua gian nan thử thách. Những ngày tháng chồng ra trận là những
ngày tháng nàng tự nuôi con khôn lớn.
LUẬN CỨ 4: MỘT NÉT ĐẸP NỮA Ở NÀNG VŨ NƯƠNG LÀ ĐẢM ĐANG
THÁO VÁT, GIÀU ĐỨC HI SINH
+ Chồng đi xa, một mình nàng gánh vác cả giang sơn nhà chồng. Biết bao khó
khăn, vất vả mà nàng đã phải gồng mình để vượt qua. Nàng tảo tần chăm sóc mẹ
già đau ốm, lo hậu sự khi mẹ chồng qua đời, nuôi dạy con thơ khôn lớn, vượt cạn
một mình không ai sẻ chia. Là con gái chân yêu tay mềm sống giữa đời thường mà
lo toan mọi chuyện không phàn nàn, kêu ca=> Đảm đang, tháo vát, giàu đức hi
sinh
=>(Chốt cho toàn bộ LĐ3) Như vậy, chỉ qua 1 đoạn truyện ngắn, ta đã cảm nhận
được bao vẻ đẹp của nàng Vũ Nương: một người con hiếu thảo lễ nghĩa, một người
vợ thảo hiền; yêu thương chồng; một người mẹ hiền hết mực yêu thương con; một
người phụ nữ giàu đức hi sinh=> Nét đẹp truyền thống của người phụ nữ VN
Đánh giá:
Tài năng: Lời kể tự nhiên chân thực, sắp xếp chi tiết khéo léo nhân vật được đặt
vào các mối quan hệ hoàn cảnh khác nhau được khắc hoạ qua hành động, qua
những lời thoại đầy ý nghĩa.
Sử dụng các biện pháp nghệ thuật: ước lệ tượng trưng, điển tích điển cố,…

Nội dung: Sống trong xã hội phong kiến cực khổ, chịu nhiều đau đớn nhưng nàng
vẫn sáng ngời bao vẻ đẹp tâm hồn: một người vợ thảo hiền; yêu thương chồng; một
người mẹ hiền hết mực yêu thương con; một người phụ nữ giàu đức hi sinh. Nàng
là điển hình cho người phụ nữ trong XHPK.

Tấm lòng: Trân trọng dành cho những người phụ nữ

Liên hệ: Sau khi đọc và phân tích tác phẩm bản thân em cũng đã vỡ lẽ ra được
nhiều điều, em đã biết nhìn nhận lại bản thân và em nghĩ rằng đôi khi mình cần
phải học cách thay đổi để chung sống, học cách hoàn thiện bản thân mỗi ngày, học
cách trao yêu thương bởi vì khi chúng ta trao yêu thương cũng là cách để chúng ta
nhận lại yêu thương. Em không dám chắc sau này mình sẽ trở thành một mẫu
người hoàn hảo, lý tưởng nhưng em tin là em sẽ cố gắng trau dồi kiến thức, kỹ
năng sống để hoàn thiện mình và sẽ cố gắng hoàn thiện bản thân.

Kết bài: Thời gian có thể phũ bụi mờ lên tất cả, vạn vật có thể tồn tại rồi biến mất
nhưng những tác phẩm văn học có giá trị thì vẫn mãi trường tồn. Và Chuyện người
con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ là một tác phẩm như thế.

(Mẹo học đề 3: Có bổ sung luận điểm về số phận, còn vẻ đẹp triển khai giống
đề 1)

CHỊ EM THÚY KIỀU

_ Nguyễn Du_

Mở bài:

Nhà thơ Puskin từng viết: “Linh hồn là một ấn tượng của một tác phẩm”.
Cây cỏ sống được là nhờ ánh sáng, chim muông sống được là nhờ tiếng ca. Một tác
phẩm sống được là nhờ tiếng lòng của người cầm bút. Và Nguyễn Du đã để lại
tiếng lòng của mình cất lên qua đoạn trích Chị em Thuý Kiều. Đọc truyện, ta
không thể quên đoạn trích miêu tả vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều.
Thân bài:

LĐ 1: Giới thiệu chung

+ Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Ông để lại cho văn hóa dân tộc
nhiều áng văn chương tuyệt tác .

+ Một trong những kiệt tác để đời của ông là “Truyện Kiều”.

+ Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” nằm ở phần đầu của “Truyện Kiều” phần “Gặp
gỡ và đính ước”.

+ Đoạn trích ca ngợi vẻ đẹp tài năng của con người và dự cảm về kiếp người tài
hoa bạc mệnh .

+ Sau khi giới thiệu gia cảnh của Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc Thúy Vân và
Thúy Kiều

LĐ2: 4 câu đầu: Trước hết, đến với đoạn trích Nguyễn Du đã giới thiệu chung về
hai chị em Thuý Kiều với lời giới thiệu cổ điển, trang trọng rằng họ là “tố nga” đẹp
và trong sáng:

Đầu lòng hai ả tố nga,

Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.

Mai cốt cách, tuyết tinh thần,

Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.

Giới thiệu vị thứ:


+ Thúy Kiều, Thúy Vân là hai người con gái đầu lòng của nhà họ Vương

+ “ tố nga”  chỉ người con gái đẹp

+ Bút pháp ước lệ tượng trưng: “mai, tuyết”  dùng những hình ảnh đẹp trong
thiên nhiên để ngợi ca vẻ đẹp hai chị em Thúy Kiều
+ Hai người con gái đều có cốt cách mảnh dẻ như cây mai. Tâm hồn trắng trong
như tuyết
+ Lời thơ trang trọng, các vế tiểu đối “mai cốt cách”, “tuyết tinh thần” kết hợp
thành ngữ “ mười phân vẹn mười”  Bút pháp lí tưởng hóa nhân vật để làm nổi
bật vẻ đẹp chung của hai chị em

LĐ3: 4 câu tiếp: Vẻ đẹp Thúy Vân: Sau khi miêu tả vẻ đẹp chung tác giả đã lần
lượt gợi tả vẻ đẹp riêng của từng người, đầu tiên là lột tả vẻ đẹp về nhan sắc của
Thúy Vân khiến ta vô cùng ngưỡng mộ

Vân xem trang trọng khác vời,

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.

Hoa cười ngọc thốt đoan trang,

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

+ Sử dụng các tính từ “trang trọng, khác vời”  vẻ đẹp cao sang, quý phái của
TV

+ Thủ pháp ước lệ tượng trưng, ẩn dụ được sử dụng tài tình, điêu luyện để gợi tả vẻ
đẹp Thúy Vân:
+ Trăng, hoa, ngọc, tuyết, mây  Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Du, Thúy Vân
hiện lên với những gì đẹp nhất, tinh túy nhất của TN:
+ Khuôn mặt áng tươi như ánh trăng rằm

+ Đôi lông mày cong mềm mại, miệng cười tươi như hoa, mái tóc óng ả hơn mây,
làn da trắng mịn màng hơn tuyết

=>Vẻ đẹp hài hòa với thiên nhiên


+ Các tính từ “đầy đặn, nở nang” kết hợp nhịp thơ cân đối, hài hoà, phép nhân
hóa mây thua, tuyết nhường

+ Không chỉ nhấn mạnh vẻ đẹp, liên tưởng cuộc đời bình yên, ít sóng gió cuộc đời
vẻ đẹp của TV đc thiên nhiên chấp nhận nhường bước

=>Từ vẻ đẹp ngoại hình để dự báo số phận chính là bút pháp thân phận hóa ngoại
hình trong sáng tạo của ND
LĐ4: Không những ấn tượng vẻ đẹp của Vân, ta còn trân trọng tâm hồn,
phẩm hạnh của nàng

+ Chỉ qua lời giới thiệu về giọng nói: “ ngọc thốt đoan trang” ta cảm nhận đc mỗi
lời nàng nói ra đều là lời vàng ý ngọc.  đó là biểu hiện của người con gái nết na,
đoan trang theo chuẩn mực của XHPK

*12 câu thơ tiếp:

Kiều càng sắc sảo, mặn mà,

So bề tài, sắc, lại là phần hơn.

Làn thu thủy, nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

Một hai nghiêng nước nghiêng thành,

Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.

Thông minh vốn sẵn tính trời,

Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.

Cung thương làu bậc ngũ âm,

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.

Khúc nhà tay lựa nên chương,

Một thiên Bạc mệnh, lại càng não nhân

LĐ5: Sau những câu thơ miêu tả Thúy Vân, người đọc còn ngưỡng mộ trước
nhan sắc của Thúy Kiều:

Kiều càng sắc sảo mặn mà,

So bề tài sắc lại là phần hơn.


+ Nguyễn Du đã dùng thủ pháp đòn bẩy để miêu tả vẻ đẹp của nàng Kiều . Ông
dùng nhiều đường nét để miêu tả khiến bức chân dung Thúy Vân hiện lên hoàn
thiện, tuyệt mĩ, tưởng như không có người con gái nào đẹp hơn thế từ đó khẳng
định: “Kiều ...so bề tài sắc lại là phần hơn”. Thúy Vân trở thành điểm tựa , đòn
bẩy để chân dung Thúy Kiều nổi bật. Nếu Thúy Vân có một vẻ đẹp hoàn hảo thì
Thúy Kiều lại vượt lên trên cái hoàn hảo ấy để trở thành cái đẹp tuyệt đối , duy
nhất.

+ Nguyễn Du sử dụng từ “sắc sảo,mặn mà” để khái quát vẻ đẹp của Thúy Kiều .
“Sắc sảo” vừa chỉ sắc sảo về nhan sắc,vừa chỉ sự tinh anh ,thông tuệ của tài năng.
Còn “mặn mà” chỉ sự phong phú, tinh tế, sâu sắc trong tâm hồn, tình cảm. Vậy là
nàng Kiều hội tụ đầy đủ về sắc_tài_tình.

LĐ6: Không chỉ vậy, hiện lên trong đoạn thơ là nhan sắc nổi trội vượt
ngưỡng của Thúy Kiều khiến ta vô cùng trân trọng

Làn thu thủy nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.

Một hai nghiêng nước nghiêng thành,

Sắc đành đòi một tài đành họa hai.

+ Nhà thơ sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng kết hợp với so sánh, nhân hóa, nói
quá để miêu tả nhan sắc Thúy Kiều. Nàng có đôi mắt sáng trong, êm đềm như làn
nước mùa thu, nét mày thanh tú, sắc nét, đầy sức thanh xuân như dáng núi mùa
xuân. Tả Thúy Vân và Thúy Kiều, Nguyễn Du đều lấy thiên nhiên làm chuẩn mực,
chỉ có điều đó là hai thế giới thiên nhiên khác nhau . Nếu thiên nhiên dùng để tả
Thúy Vân ở trạng thái tĩnh, viên mãn, ổn định khiến chân dung Thúy Vân hiện lên
cụ thể thì khi tả Thúy Kiều trở nên sinh động hơn. Người đọc tha hồ tưởng tượng,
hình dung vẻ đẹp ấy. Bởi thế có bao nhiêu người đọc “Truyện Kiều” là có bấy
nhiêu nàng Kiều trong sự hình dung của họ.

+ Miêu tả nhan sắc Thúy Kiều, nhà thơ tập trung tả đôi mắt. Đó chính là ngòi bút
chấm phá, gợi nhiều hơn tả của Nguyễn Du. Ông không tả kĩ các đường nét của
nàng Kiều như khi tả Thúy Vân bởi tất cả nét đẹp của Thúy Vân bởi tất cả nét đẹp
của Thúy Vân, nàng Kiều đều có, thậm chí hơn hẳn. Cái hồn trong nhan sắc của
nàng Kiều là vẻ đẹp của đôi mắt. Đó là nơi thể hiện sự sắc sảo về nhan sắc, sự tinh
anh thông tuệ của tài năng, trí tuệ đặc biệt là cái mặn mà, tinh tế của tâm hồn, tình
cảm. Đôi mắt Thúy kiều là đôi mắt biết nói, hội tụ nét hoàn mĩ về sắc_tài_tình.

+ Không những thế , nhà thơ còn sử dụng điển tích, điển cố “nghiêng nước
nghiêng thành” để tôn vinh, lí tưởng hóa vẻ đẹp của nàng Kiều thành một tuyệt thế
giai nhân. Có thể nói ,nàng Kiều có vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành nổi trội,
vượt ngưỡng, chỉ có duy nhất trên đời khiến ta vô cùng ngưỡng mộ.

LĐ7: Không những thế, tài năng xuất chúng, tinh thông cầm kì thi họa của
nàng Kiều làm ta không khỏi xuýt xoa, khen ngơi.

Sắc đành đòi một tài đành họa hai.

Thông minh vốn sẵn tính trời,

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.

Cung thương làu bậc ngũ âm,

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.

Khúc nhà tay lựa nên chương,

Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân.

Tài năng:

+ Nếu khi miêu tả Thúy Vân, Nguyễn Du chỉ tập trung miêu tả vẻ đẹp nhan sắc mà
không nói đến tài năng nào thì khi tả Thúy Kiều nhà thơ lại tập trung bút lực để
khám phá tài năng. Tài năng chính là yếu tố nổi bật làm nên sức hấp dẫn, sự lôi
cuốn kì lạ của bức chân dung Thúy Kiều.

+ Tài năng của Thúy Kiều có được là do thông minh trời phú .Nàng đa tài ,tài nào
cũng đạt đến độ hoàn thiện , xuất chúng .Nàng giỏi chơi đàn , đánh cờ,nàng biết
làm thơ ,vẽ tranh. Các từ ngữ biểu thị giá trị tuyệt đối “làu,nghề riêng, ăn đứt” đã
nhấn mạnh sự điêu luyện, thông tuệ, xuất chúng của nàng.

+ Trong bốn tài năng,tài đàn là nổi bật nhất. Thúy Kiều giỏi về âm luật, giỏi đến
mức làu bậc. Tiếng đàn của nàng ăn đứt bất kì nghệ sĩ nào. Hơn thế nàng còn biết
soạn nhạc, khúc nhạc mà nàng sáng tác là “thiên bạc mệnh” khiến cho lòng người
sầu não, bi thương. Hiếm có người con gái nào có trí tuệ thông minh và tài năng
xuất chúng như Thúy Kiều.

Tâm hồn:

+ Không phải ngẫu nhiên mà trong các tài năng của nàng Kiều, Nguyễn Du đặc
biệt nhấn mạnh khả năng chơi đàn, soạn nhạc. Bởi tiếng đàn là nơi để người con
gái kí thác biết bao cung bậc cảm xúc. Và quả thật, thiên bạc mệnh do nàng sáng
tác đã ghi lại tiếng lòng của một trái tim đa sầu, đa cảm. Khúc nhạc ấy buồn bã,
đau thương, lâm li, não nùng như một định mệnh bám lấy cuộc đời Kiều. Rồi đây
cung đàn bạc mệnh ấy sẽ theo cuộc đời nàng trong suốt 15 năm lưu lạc.

=> Tài năng Nguyễn Du không chỉ thể hiện thành công qua miêu tả Thúy Vân,
Thúy Kiều mà còn thông qua ngoại hình để dự báo số phận

LĐ8: Cuối cùng là những lời nhận xét chung về cuộc sống hai chị em Thúy
Kiều.

- Thúy Vân, Thúy Kiều dưới ngòi bút của Nguyễn Du không chỉ nhan sắc tuyệt vời
mà còn đức hạnh khuôn phép. Dù đã đến tuổi “cài trâm, búi tóc” nhưng hai chị em
vẫn giữ gìn nề nếp, gia phong

Êm đềm trướng rủ màn che, Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

LĐ9: Đánh giá

Nghệ thuật: Bằng thể thơ Lục Bát; giọng thơ tha thiết,say mê; đặc biệt là ngòi bút
tả người tinh tế,tài hoa qua bút pháp ước lệ tương trưng, bút pháp chấm phá kết
hợp điển tích, điển cố; bút pháp thân phận hóa ngoại hình, nghệ thuật đòn bẩy...,

Nội dung: nhà thơ đã khắc họa vẻ đẹp nổi bật của Thúy Kiều, Thúy Vân

Tấm lòng: Qua việc miêu tả Thúy Kiều, Thúy Vân, đặc biệt là nàng Kiều, Nguyễn
Du đã bày tỏ thái độ trân trọng, tôn vinh người phụ nữ . Ông không chỉ ca ngợi vẻ
đẹp nhan sắc mà còn trân trong, ngưỡng mộ tài năng, tâm hồn của người phụ nữ.
Đồng thời thấp thoáng sau những vần thơ, ta cảm nhận được nỗi lo âu của nhà thơ
đối với số phận con người . Đó chính là biểu hiện của tinh thần nhân đạo sâu sắc
và tiến bộ .
Liên hệ: Sau khi đọc và phân tích tác phẩm bản thân em cũng đã vỡ lẽ ra được
nhiều điều, em đã biết nhìn nhận lại bản thân và em nghĩ rằng đôi khi mình cần
phải học cách thay đổi để chung sống, học cách hoàn thiện bản thân mỗi ngày, học
cách trao yêu thương bởi vì khi chúng ta trao yêu thương cũng là cách để chúng ta
nhận lại yêu thương. Em không dám chắc sau này mình sẽ trở thành một mẫu
người hoàn hảo, lý tưởng nhưng em tin là em sẽ cố gắng trau dồi kiến thức, kỹ
năng sống để hoàn thiện mình và sẽ cố gắng hoàn thiện bản thân.

Kết bài:

Mỗi lần đọc trang thơ của Nguyễn Du, ta lại cảm thấy như đang đón nhận
một bài học sâu sắc qua từng nhân vật mà ông xây dựng. Thành công trong
cách xây dựng nhân vật Thuý Kiều đã đưa tác phẩm đứng vào hàng kiệt tác
trong văn học trung đại Việt Nam, đưa tên tuổi của Nguyễn Du lên một tầm
cao mới. Đặc biệt sẽ sống mãi trong lòng bạn đọc yêu văn chương, yêu thêm
những giá trị bất diệt trong cuộc sống.

KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH

_ Nguyễn Du_

Đề 1: Cảm nhận 6 câu thơ đầu bài Kiều Ở Lầu Ngưng Bích

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.

Bốn bề bát ngát xa trông,

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng.

Mở bài:

Tác giả:
+ Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc. Ông là nhà thơ thiên tài đã có nhiều đóng góp
cho nền văn học nước nhà.

Tác phẩm:

+ “Truyện Kiều” là kiệt tác bất hủ viết về cuộc đời của Thúy Kiều _ người con gái
tài hoa bạc mệnh.

+ Đoạn trích nằm ở phần hai của tác phẩm, gia biến và lưu lạc.

VĐNL: Đọc bài thơ, người đọc vô cùng xót xa trước tình cảnh buồn tủi, cô đơn
của Thúy Kiều trong 6 câu thơ đầu

Thân bài:

LĐ1: Giới thiệu chung:

+ Vị trí đoạn thơ: Đoạn thơ nằm ở phần giữa đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” ,
thuộc phần hai của tác phẩm “gia biến và lưu lạc”.

+ Sau khi bị mã giám sinh lừa gạt, làm nhục, bị tú bà mắng nhiếc, Kiều không
chịu tiếp khách chơi ở lầu xanh, toan tính tự vẫn. Tú Bà dụ dỗ Kiều, nhốt nàng ở
Lầu Ngưng Bích để chờ thực hiện âm mưu mới

LĐ2 : Đoc bài thơ, ta thật ấn tượng trước khung cảnh thiên nhiên ở lầu ngưng
bích qua cảm nhận của Thúy Kiều:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.

Bốn bề bát ngát xa trông,

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.

+ Cảnh ngộ:

+ Cụm từ “khóa xuân”  khóa kín tuổi xuân -> cho thấy Kiều đang bị giam lỏng
ở lầu Ngưng Bích

+ Không gian cảnh vật: Hình ảnh Lầu ngưng bích trơ trọi chơi vơi giữa không gian
mênh mông, hoang vắng, lạnh lẽo  tô đậm cảnh cô đơn, tội nghiệp của kiều
+ Từ láy “bát ngát” gọi cảnh mênh mông rộng lớn, rợn ngợp, hoang vắng cả
không gian 4 chiều trong ánh nhìn xa xăm của Kiều

=> Nghệ thuật liệt kê, đối lập tương phản “non xa, trăng gần” đảo ngữ từ láy bát
ngát  Không gian mênh mông buồn không một bóng người. Nhìn lên, chỉ thấy
vầng trăng lạnh lẽo, cô đơn trên bầu trời đêm rộng lớn. Nhìn ra xa là dãy núi mờ
nhạt. Cặp từ đối lập xa – gần tô đậm thêm khoảng cách không gian, làm nổi bật sự
trơ trọi của lầu Ngưng Bích

LĐ3: Không chỉ vậy, Ta vô cùng xót xa trước tâm trạng và nỗi lòng của Thúy
Kiều

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng.

+ Từ láy kết hợp với thủ pháp đảo ngữ “bẽ bàng”  diễn tả chính xác tâm trạng
của Kiều lúc này: đau khô, tủi hổ, tủi thẹn khi phaỉ sống trong sự cô đơn, lẻ loi,
tình yêu tan vỡ, tình cốt nhục chia lìa, xót xa cho thân phận, nhân phẩm bị chà đạp

+ “Mây sớm đèn khuya”  gợi vòng tuần hoan thòi gian từ sáng đến tối, ngày qua
ngày  khắc sâu nỗi cô đơn

+ “Nửa tình nửa cảnh” cách ngắt nhịp 2/2/2  nỗi lòng tan nát, chia xé, ngổn
ngang của Kiều

=> Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình: Cảnh mênh mông hoang vắng tô đậm nỗi buồn tủi,
hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích

Đánh giá:

Nghệ thuật: Với thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc, bằng nghệ tả cảnh ngụ
tình, ngôn ngữ độc thoại, từ láy giàu sức gợi, cùng nhiều điển tích, điển cố văn
học trang trọng.

Nội dung: 6 câu thơ đầu đã diễn tả tình cảnh cô đơn của nàng Kiều

Tấm lòng: Viết lên những câu thơ ấy, Nguyễn Du thực sự thấu hiểu , cảm thông
cho hoàn cảnh đáng thương của Thúy Kiều. Đồng thời , ông hết lòng ngợi ca, trân
trọng vẻ đẹp tâm hồn của người con gái tài hoa bạc phận.
Kết bài:

Đề 2: Cảm nhận 8 câu giữa bài thơ Kiều Ở Lầu Ngưng Bích

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trong mai chờ

Bên trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai

Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ

Sân Lai cách mấy nắng mưa

Có khi gốc tử đã vừa người ôm

Mở bài:

Tác giả

+ Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc. Ông là nhà thơ thiên tài đã có nhiều đóng góp
cho nền văn học nước nhà.

Tác phẩm

+ “Truyện Kiều” là kiệt tác bất hủ viết về cuộc đời của Thúy Kiều_ người con gái
tài hoa bạc mệnh.

+ Đoạn trích nằm ở phần hai của tác phẩm, gia biến và lưu lạc.

VĐNL: Đọc đoạn trích, người đọc vô cùng ngưỡng mộ trước vẻ đẹp thủy chung,
hiếu thảo, vị tha của Thúy Kiều. Điều đó bộc lộ rõ nét ở tám câu thơ:

Thân bài:

LĐ1: Giới thiệu chung:

+ Vị trí đoạn thơ: Đoạn thơ nằm ở phần giữa đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” ,
thuộc phần hai của tác phẩm “gia biến và lưu lạc”. Sau khi miêu tả tâm trạng chán
chường, cô đơn, buồn tủi của Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện vẻ đẹp phẩm chất nhân
vật qua nỗi nhớ người thân.

+ Vẻ đẹp Thúy Kiều được bộc lộ trong hoàn cảnh rất đáng thương. Nàng vừa trải
qua những giây phút hãi hùng của cuộc đời, nghĩ về tương lai mờ mịt hiểm nguy,
trái tim giằng xé nỗi đau, nỗi nhớ thương da diết.

LĐ2:Trước hết, vẻ đẹp Thúy Kiều được thể hiện ở tấm lòng chung thủy, son
sắt với Kim Trọng khiến ta không thể nào quên.

LUẬN CỨ 1: LÍ GIẢI VÌ SAO THÚY KIỀU NHỚ KIM TRỌNG TRƯỚC,


NHỚ CHA MẸ SAU.

+ Kiều nhớ Kim Trọng trước nhớ cha mẹ sau, Điều đó không phù hợp vỡi lễ giáo
phong kiến xưa và với 1 con người luôn đặt lễ giáo lên hàng đầu như Thúy Kiều.
Nhưng đặt trong hoàn cảnh Thúy Kiều lúc này, sau khi gia đình gặp biến, quyết
định hi sinh mối tình đầu trong sáng, đẹp đẽ, nàng bán mình chuộc cha.

+ Như thế chữ "hiếu" đền ơn sinh thành phần nào được đền đáp.Còn với chàng
Kim, nàng coi mình là người phụ bạc. Vì thế trong bộn bề nỗi nhớ Kiều đã đặt nỗi
nhớ chàng Kim lên trước, điều này phù hợp với quy luật, tình cảm của con người.
Hơn nữa, ta cũng thấy được Nguyễn Du đã vượt qua rào cản của lễ giáo phong
kiến,thấu hiểu để miêu tả tình cảm Thúy Kiều theo quy luật tâm lý con người.

LUẬN CỨ 2: NỖI NHỚ KỶ NIỆM DƯỚI ÁNH TRĂNG.

+ Nỗi nhớ Kim Trọng nồng nàn và sâu thẳm. Nỗi nhớ đó được xoáy sâu vào đêm
thề nguyền dưới ánh trăng và nỗi đau cũng trào lên từ đó:

"Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ"

+ Nguyễn Du dùng chữ "tưởng" để thể hiện nỗi nhớ của đôi lứa yêu nhau.
"Tưởng" là tưởng tượng, hình dung nhớ lại. Nhớ Kim Trọng là hình dung tưởng
tượng những kỉ niệm đẹp đẽ của tình yêu đôi lứa. Nàng sống lại với ánh trăng vằng
vặc.
+ “Đinh ninh hai miệng một lời song song”. Nàng sống lại với hương vị cay nồng
của chén rượu hẹn thề. Càng nhớ, càng tưởng tượng nàng càng day dứt , xót xa
trước mối tình đầu tan vỡ.

+ Càng nhớ, nàng càng thương Kim Trọng. Nàng tưởng tượng chàng Kim đang
ngày đêm trông chờ, mong ngóng tin nàng mà không hay nàng đã sa vào vũng bùn
ô nhục để từ đó nàng đau đớn, xót xa đến quặn lòng. Dường như mỗi nhịp điệu của
trái tim Kiều là 1 nhịp nhớ thương, một nhịp nuối tiếc, một nhịp khát khao mong
nhớ. Tất cả đều cháy lên trong lòng nàng ước mong đoàn tụ.

LUẬN CỨ 3: NGHĨ VỀ THÂN PHẬN VÀ KHẲNG ĐỊNH TÌNH CẢM


THỦY CHUNG VỚI KIM TRỌNG.

+ Thương người yêu, Thúy Kiều lại nghĩ về thân phận hiện tại và khẳng định tình
cảm thủy chung với Kim Trọng.

"Bên trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai."

+ Càng nhớ thương Kim Trọng, Kiều càng xót xa cho thân phận, cho hoàn cảnh trớ
trêu lưu lạc của mình. Từ láy "bơ vơ" diễn tả sự thấm thía của Kiều cho tình cảnh
lẻ loi, trơ trọi không một ai nương tựa với bao nguy hiểm bủa vây.

+ Từ nỗi trăn trở lo lắng cho bản thân, Kiều khẳng định tình cảm với Kim Trọng.
"Tấm son" là ẩn dụ cho tấm lòng chung thủy, sắt son của Kiều đối với Kim Trọng.
Cho dù trải qua bao nhiêu tủi nhục, đắng cay, dẫu phải bơ vơ lưu lạc giữa xứ
người thì nàng vẫn giữ vẹn chữ thủy chung. Cũng có thể hiểu tấm son là tấm lòng
trong trắng của Thúy Kiều đã bị vùi dập, hoen ố biết bao giờ mới gột rửa hết được.
Do đó nàng mặc cảm vì không xứng đáng với chàng Kim.

+ Phải hóa thân vào nàng Kiều, phải đồng cảm sâu sắc với nhân vật, Nguyễn Du
mới cảm nhận được hết nỗi lòng của Thúy Kiều.

LĐ3: Không những thế đọc 8 câu thơ ta còn trân trọng và xúc động trước vẻ
đẹp hiếu thảo của nàng Kiều.

Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ


Sân Lai cách mấy nắng mưa

Có khi gốc tử đã vừa người ôm

+ Cách dùng từ của Nguyễn Du thật tinh tế.Đều là những suy nghĩ cảm xúc những
nỗi nhớ của Thuý Kiều với Kim Trọng.Nguyễn Du dùng chữ “tưởng”còn khi diễn
tả tình cảm của Kiều lại dùng chữ “xót” xót là xót xa thương xót.Thể hiện tình
cảm máu mủ ruột thịt, nhà thơ đã dùng các điển cố văn học “quạt nồng ấp lạnh”
“Sân Lai” “gốc tử” diễn tả hàm súc,xúc động thiêng liêng nỗi nhớ cha mẹ của
Thuý Kiều

+ Kiều hình dung cha mẹ đang sớm chiều tựa ngóng tin con.Nàng lo lắng day dứt
không biết ai sẽ thay mình chăm sóc cho cha mẹ lúc tuổi già.Nàng tưởng tượng
quê nhà đã thay đổi mà thay đổi lớn nhất là cảnh vật “gốc tử đã vừa người ôm”
cũng có nghĩa là cha mẹ đang ngày càng già ốm nhớ về cha mẹ Kiều càng biết ơn
sâu sắc,ân hận vì mình đã phụ công sinh thành phụ công nuôi dạy của cha mẹ nên
nàng luôn trăn trở vì chưa làm tròn chữ hiếu của đấng sinh thành.

LĐ4: Vẻ đẹp lòng vị tha đáng trân trọng ở Kiều khiến ta không thể nào quên.

+ Trong hoàn cảnh lúc này Kiều là người đáng thương nhất. Nàng đang phải sống
một mình ở một nơi xa lạ, phải chịu đựng bao nỗi hiểm nguy của cuộc đời vậy mà
Kiều đã quên đi cảnh ngộ bản thân, vẫn hướng tình cảm sự lo lắng của mình cho
những người thân yêu

+ Miêu tả nỗi nhớ của nàng, Nguyễn Du đã tô đậm lòng vị tha, nhân hậu -một nét
đẹp bất biến ở nhân vật.

Đánh giá:

Nghệ thuật: Với thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc, bằng nghệ thuật miêu tả
nội tâm sâu sắc, ngôn ngữ độc thoại, từ láy giàu sức gợi,câu hỏi tu từ cùng nhiều
điển tích, điển cố văn học trang trọng.

Nội dung: Tám câu thơ đã diễn tả nỗi nhớ da diết chân thành của Thúy Kiều tới
người yêu, cha mẹ

Tấm lòng: Từ sâu thẳm nỗi nhớ của nàng đã toát lên vẻ đẹp tấm lòng hiếu thảo,
thủy chung, vị tha. Viết lên những câu thơ ấy, Nguyễn Du thực sự thấu hiểu , cảm
thông cho hoàn cảnh đáng thương của Thúy Kiều. Đồng thời , ông hết lòng ngợi
ca, trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của người con gái tài hoa bạc phận.

Kết bài:

Đề 3: Cảm nhận 8 câu thơ cuối bài thơ Kiều ở Lầu Ngưng Bích

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Mở bài:

Tác giả:

+ Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc. Ông là nhà thơ thiên tài đã có nhiều đóng góp
cho nền văn học nước nhà.

Tác phẩm:

+ “Truyện Kiều” là kiệt tác bất hủ viết về cuộc đời của Thúy Kiều _ người con gái
tài hoa bạc mệnh.

+ Đoạn trích nằm ở phần hai của tác phẩm, gia biến và lưu lạc.

VĐNL: Đọc bài thơ, người đọc vô cùng xót xa trước những dự cảm về thân phận
và tâm trạng buồn lo của nàng Kiều

Thân bài:

LĐ1: Giới thiệu chung:


+ Vị trí đoạn thơ: Đoạn thơ nằm ở phần giữa đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” ,
thuộc phần hai của tác phẩm “gia biến và lưu lạc”. Sau khi miêu tả tâm trạng chán
chường, cô đơn, buồn tủi của Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện vẻ đẹp phẩm chất nhân
vật qua nỗi nhớ người thân.

+ Hoàn cảnh Thúy Kiều được bộc lộ trong hoàn cảnh rất đáng thương. Nàng vừa
trải qua những giây phút hãi hùng của cuộc đời, nghĩ về tương lai mờ mịt hiểm
nguy, trái tim giằng xé nỗi đau, nỗi nhớ thương da diết, trải qua nỗi nhớ gia đình
khắc khoải.

LĐ2: Trước hết, ngừơi đọc vô cùng xúc động trước nỗi niềm nỗi nhớ quê nhà
da diết, nỗi buồn về thân phận của Kiều

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

+ Điệp từ “buồn trông”: được lặp lại 4 lần tạo âm hưởng trầm buồn cho đoạn thơ,
miêu tả nỗi buồn đang dâng lên như từng lớp sóng trong lòng Thúy Kiều

+ Cảnh “cửa bể chiều hôm”  thời gian, không gian nghệ thuật, mô típ quen
thuộc trong ca dao.

Chiều chiều ra đứng ngõ sau

Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều

+ Từ láy “thấp thoáng, xa xa”  tạo cảm giác cảnh vật đầy u ám kết hợp với câu
hỏi tu từ “Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?”

+ Hình ảnh “thuyền” mang tính ước lệ, ẩn dụ

=> Số phận lênh đênh, phiêu dạt, vô định, không biết đi về đâu

=> Tâm trạng: Buồn tủi, nỗi cô đơn, nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương da diết và khao
khát đc đoàn tụ
LĐ3: Hơn nữa , nỗi niềm tâm trạng của nàng kiều còn thể hiện qua nỗi băn
khoăn lo lắng về kiếp hồng nhan bị vùi dập khiến ta vô cùng xót thương

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

+ Từ láy “man mác” kết hợp với câu hỏi tu từ “Hoa trôi man mác biết là về đâu?”

+ Hình ảnh ẩn dụ: Ngọn nước mới sa, hoa trôi

+ Cánh hoa trôi: gợi tả thân phận nhỏ bé, yếu đuối, lênh đênh trôi dạt

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai

=> Thân phận Kiều như cánh hoa lìa cành trôi giữa dòng nước nổi trôi, vô định,
không biết sẽ trôi về đâu

=> Nỗi buồn đau đớn, xót xa cho số kiếp lưu lạc, đọa đày, thân phân bơ vơ trước
cuộc đời đầy bão tố

LĐ4: Không những thế, ta vô cùng cảm thông trước nỗi buồn, nỗi day dứt
trăn trở về tương lai mịt mù của nàng Kiều:

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

+ Từ láy kết hợp tính từ: rầu rầu, xanh xanh

+ Hình ảnh ẩn dụ: Chân mây mặt đất

=> Thân phận nàng Kiều bé nhỏ, bơ vơ, nhạt nhòa

=> Nỗi buồn, nỗi hoang mang tột độ, những thất vọng tràn trề trước một tương lai
mịt mờ, vô định

LĐ5: Không chỉ vậy, nỗi lo âu sợ hãi khi lắng nghe âm thanh sóng gió thét gào
của nàng Kiều đã để lại cho người đọc bao thương cảm

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,


Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

+ Từ láy tượng thanh, đảo ngữ: Ầm ầm tiếng sóng kết hợp hình ảnh ẩn dụ, nhân
hóa “gió cuốn mặt duềnh’ “tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

+ Hình ảnh “gió cuốn” và âm thanh của sóng: thiên nhiên như lo sợ báo trước, số
phận của Thúy Kiều sẽ gặp giông bão xô đẩy vùi dập

+ Cách cảm nhận thay đổi: Từ thị giác  thính giác, Cảnh sắc đến âm thanh

=>Thân phận bé nhỏ đang bị tai ương rình rập, đe dọa


=>Tâm trạng: Nỗi buồn đau, sợ hãi trước những dự cảm hãi hùng của tương lai
Đánh giá:

Nghệ thuật: Giọng thơ trĩu nặng, sử dụng hình ảnh ước lệ kết hợp với các biện
pháp tu từ đặc sắc . Đây là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất trong tác phẩm ( tả
cảnh để bộc lộ tâm trạng ). Lối tả cảnh từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm
thanh từ tĩnh đến động. Những từ láy gợi tả, gợi cảm, hình ảnh thơ đa nghĩa sử
dụng điệp từ “buồn trông” đứng đầu mỗi cặp câu đạt kết quả cao

Nội dung: Khép lại 8 câu thơ lục bát là tâm trạng buồn đau, sợ hãi của Kiều trước
1 tương lai đầy bão tố đang đến gần
Tấm lòng: Nguyễn Du như hóa thân vào nhân vật, sống trong nỗi buồn , nỗi đau
của nhân vật để viết, để tả. Vì thế trong cảnh và tình có cả nước mắt của thi nhân
Kết bài:
ĐỒNG CHÍ
_Chính Hữu_

Đề 1: Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài thơ Đồng Chí

Quê hương anh nước mặn đồng chua


Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời hẹn quen nhau
Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí !

Mở bài:
+ Tác giả: Chính Hữu là nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp.
Thơ ông thường viết nhiều về người lính
+ Tác phẩm: “Đồng chí” là bài thơ hay nhất, tiêu biểu cho phong cách thơ của
ông: cảm xúc dồn nén, hình ảnh chọn lọc và giàu ý nghĩa biểu tượng. Tác phẩm
được đánh giá là một trong những bài thơ đặc sắc nhất của thơ ca kháng chiến
chống Pháp, tái hiện 1 cách chân thực vẻ đẹp của người lính. Bài thơ đã ghi lại tình
cảm thiêng liêng cao đẹp trong những ngày tháng trải qua mưa bom bão đạn của
người lính gắn bó, yêu thương, đồng cam cộng khổ cùng vượt qua những chông
gai của cuộc chiến
+VĐNL: Đến với tác phẩm, có lẽ người đọc không thể nào quên được những câu
thơ viết về tình đồng chí, đồng đội qua 7 câu thơ đầu của bài thơ
Thân bài:
LĐ1: Giới thiệu chung
+ Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu được sáng tác vào đầu năm 1948, khi cuộc
kháng chiến chống Pháp đang diễn ra vô cùng ác liệt. Sau khi cùng đồng đội tham
gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947), Chính Hữu bị ốm nặng
được đưa về trạm quân y điều trị. Đơn vị cử một người đồng đội ở lại để chăm sóc
ông. Cảm kích trước tấm lòng của những người đồng đội đã cùng vào sinh ra tử,
ông đã sáng tác bài thơ này. Bài thơ đã giúp người đọc hiểu thêm về một-tình cảm
cao đẹp- tình đồng chí và vẻ đẹp tâm hồn của những người lính cụ Hồ.
LĐ2: Trước hết, tình đồng chí bắt nguồn từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất
thân, chung cảnh ngộ của những người lính đã gợi trong ta biết bao cảm xúc
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
+ Hai dòng thơ sóng đôi hết hợp cặp đại từ anh-tôi, lời thơ mộc mạc giản dị=> sự
tâm tình của người lính về quê hương, sự tương đồng gặp gỡ giữa nhưng người
lính.
+ Thành ngữ “ nước mặn đồng chua” + cụm từ “ đất cày lên sỏi đá” => miền quê
của những người lính đó là vùng đồng bằng ven biển quanh năm ngập mặn, cùng
trung du miền núi cằn cỗi. Đó chính là lời tâm tình về quê hương, sự tương đồng
về cảnh ngộ khó khăn của những người đồng chí.
=> Họ là những người nông dân quen với thửa ruộng, tay cuốc tay cày mà giờ đây
phải cầm súng ra trận. Nói cách khác họ là những người nông dân mặc áo lính để
bảo vệ quê hương=> Sự chân chất, mộc mạc của những người lính
LĐ3: Không chỉ chung lòng yêu nước, chung lí tưởng, chung nhiệm vụ chiến
đấu, họ đã tạo nên tình đồng chí giữa những người lính khiến ta vô cùng trân
trọng
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
+ Chiến tranh vệ quốc là nơi hội ngộ lí tưởng của những con người từ những
phương trời xa lạ, “ anh và tôi” đều đi theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc và
gặp nhau vì cùng chung mục đích lí tưởng, cầm súng bảo vệ tổ quốc
+ Câu thơ 7 tiếng mà sử dụng 3 điệp ngữ “ súng- bên- đầu” diễn tả sự sát cánh gắn
bó trong chiến đấu.
+ “ Súng bên súng” là hình ảnh thực, cách nói hàm súc: người lính chung nhiệm
vụ, cầm súng chiến đấu bảo vệ quê hương, vì độc lập của dân tộc
+ “ Đầu bên đầu” chỉ sự sẻ chia, ý hợp tâm giao của người lính. Những người lính
cùng nhau cầm súng bảo vệ tổ quốc gợi sự đoàn kết, đồng lòng đồng sức, cùng
đồng cam cộng khổ.
=> Cuộc chiến tranh vệ quốc đã đưa những người ND từ khắp mọi nơi về bên
nhau, chung nhiệm vụ đánh giặc bảo vệ tổ quốc
LĐ4: Không những chung lòng yêu nước, chung lí tưởng cách mạng mà
những người lính còn gắn bó, sẻ chia với nhau giữa khó khăn vất vả làm ta
thật sự cảm động.
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
+ Cụm từ “ đêm rét” gợi hình ảnh đêm khuya giá rét vì không đủ quân trang quân
dụng. Họ phải “ trải lá cây làm chiếu, manh áo phủ làm chăn”. Có sống những
năm tháng ở chiến khu Việt Bắc mới thấu hiểu được những khó khăn, gian khổ. Đó
là hiện thực khó khăn gian khổ của những năm đầu kháng chiến chống Pháp.
+ Chính nền hiện thực gian khổ thiếu thốn đã khiến những người chiến sĩ sát lại
gần nhau. Chia sẻ hành động “ chung chăn”. Tấm chăn có khi là manh áo, mảnh
chăn mỏng đắp nhưng nó lại ấm áp tình người, sự sẻ chia. Đó chính là kỉ niệm của
những người người tự phương trời xa lạ, cùng chung lí tưởng, đồng cam cộng khổ
chia sẻ với nhau=> đôi tri kỉ
+ Từ “ đôi” diễn tả sự gắn bó không thể tách rời đã khiến họ thành “ tri kỉ”
LĐ5: Từ những điểm chung về hoàn cảnh xuất thân, mục đích lí tưởng, chia
sẻ những gian khổ thiếu thốn, những người lính đã trở thành đồng chí của
nhau làm ta rưng rưng xúc động
Đồng chí!
+ Câu thơ là 1 điểm sáng tạo, 1 điểm nhấn, nét độc đáo. Đồng chí được tách riêng
độc lập bằng 2 tiếng kết thúc bằng 1 dấu chấm than => một phát hiện, 1 lời khẳng
định, ngợi ca về tình đồng chí
+ Đồng chí theo nghĩa gốc là những người cùng chí hướng. Đến thơ Chính Hữu,
ông đã lí giải sâu sắc về cơ sở hình thành tình đồng chí là chung hoàn cảnh xuất
thân, chung nhiệm vụ và lí tưởng chiến đấu đặc biệt là sự sẻ chia khó khăn, thiếu
thốn của cuộc đời quân ngũ
+ Hai tiếng đồng chí là hội tụ bao tình cảm tốt đẹp: tình giai cấp, tình yêu nước,
tình người trong chiến tranh. Câu thơ là lời khẳng định giản dị, mộc mạc rất đỗi
thiêng liêng cảm động về tình cảm được hình thành trong khói lửa chiến tranh: “
Đồng chí”
Đánh giá:
Nghệ thuật:
+ Thể thơ tự do, giọng thơ tha thiết trầm lắng, ngôn ngữ giản dị mộc mạc mà hàm
súc cô đọng, hình ảnh thơ bình dị chân thực
Nội dung: Lí giải sâu sắc về cơ sở hình thành tình đồng chí
Tấm lòng: Phải có những năm tháng gắn bó với đồng đội trong kháng chiến,
Chính Hữu mới có thể viết được những câu thơ chân thực, xúc động như thế
Liên hệ: tình đồng chí, tương thân tương ái đến nay vẫn còn nguyên giá trị, những
người còn sống luôn trăn trở, nhớ thương đồng đội đã hi sinh ⇒ thế hệ trẻ cần luôn
tôn trọng, biết ơn những người lính, phát huy tinh thần tương trợ lẫn nhau trong
cuộc sống.
Kết bài:
"Đồng chí" là tiếng lòng tri ân cùa tác giả dành cho những người bạn đã cùng vào
sinh ra tử với mình. Bài thơ ấy và nhất là khố thơ đầu đã khơi gợi trong lòng người
đọc bao tình cảm đẹp. Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, vẻ đẹp của người lính trong bài
thơ vẫn khiến ta cảm phục. Có lẽ vì vậy mà "đồng chí” vẫn mãi có sức tỏa sáng
đối với bạn đọc nhiều thế hệ.
Đề 2: Cảm nhận 10 câu thơ giữa bài thơ Đồng Chí
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,

Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Rét run người vầng trán ướt mồ hôi

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay

Mở bài:
Tác giả: Chính Hữu là nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp. Thơ
ông thường viết nhiều về người lính
Tác phẩm: “Đồng chí” là bài thơ hay nhất, tiêu biểu cho phong cách thơ của ông:
cảm xúc dồn nén, hình ảnh chọn lọc và giàu ý nghĩa biểu tượng. Tác phẩm được
đánh giá là một trong những bài thơ đặc sắc nhất của thơ ca kháng chiến chống
Pháp, tái hiện 1 cách chân thực vẻ đẹp của người lính. Bài thơ đã ghi lại tình cảm
thiêng liêng cao đẹp trong những ngày tháng trải qua mưa bom bão đạn của người
lính gắn bó, yêu thương, đồng cam cộng khổ cùng vượt qua những chông gai của
cuộc chiến
VĐNL: Đến với tác phẩm, có lẽ người đọc không thể nào quên được những câu
thơ viết về tình đồng chí, đồng đội qua 10 câu thơ giữa của bài thơ
Thân bài:
LĐ1: Giới thiệu chung
+ Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu được sáng tác vào đầu năm 1948, khi cuộc
kháng chiến chống Pháp đang diễn ra vô cùng ác liệt. Sau khi cùng đồng đội tham
gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947), Chính Hữu bị ốm nặng
được đưa về trạm quân y điều trị. Đơn vị cử một người đồng đội ở lại để chăm sóc
ông. Cảm kích trước tấm lòng của những người đồng đội đã cùng vào sinh ra tử,
ông đã sáng tác bài thơ này. Bài thơ đã giúp người đọc hiểu thêm về một-tình cảm
cao đẹp- tình đồng chí và vẻ đẹp tâm hồn của những người lính cụ Hồ.
LĐ2: Trước hết qua đoạn thơ, ta hiểu được bao nỗi vất cả của người lính CM
từ đó những người đồng đội đã cùng nhau sẻ chia những nỗi niềm tâm sự
thầm kín gợi trong ta bao cảm xúc
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
+ Mở đầu đoạn thơ, tác giả đã sử dụng bút pháp nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ “nhớ
người ra lính” để diễn tả nỗi nhớ da diết với bao kỉ niệm khắc sâu của những anh
bộ đội cụ Hồ. Đó là nỗi nhớ quê hương, là tấm lòng trĩu nặng tình nghĩa với hậu
phương yêu dấu
+ Nhà thơ đã sử dụng những từ ngữ đặc sắc “gửi bạn, mặc kệ” cùng những hình
ảnh thơ bình dị, thân quen đã thể hiện được thái độ dứt khoát, kiên quyết dứt áo ra
đi vì nghĩa lớn, gửi lại hậu phương ruộng vườn nhà cửa. Chính vì thế, nỗi nhớ, tình
yêu quê hương dường như tiếp thêm sức mạnh tinh thần cho người lính để họ cầm
chắc tay súng mà ra chiến trường
+ Giọng thơ mạnh mẽ, dứt khoát góp phần bộc lộ thêm tình cảm của những người
lính dành cho nhau qua lời tâm tình với bao sẻ chia dành cho những người đồng
đội của mình. Những sự hy sinh ấy đã đã giúp họ thêm xích lại gần nhau để từ đó
tập hợp trong hang ngữ CM và trở nên thêm gắn bó hơn bao giờ hết
=> Lời thơ không đưa ta đến những gia nhà hay giếng nước cụ thể nhưng qua
những lời tâm sự thủ thỉ đã giúp ta hiểu rõ thêm những sự hy sinh thầm lặng ấy. Từ
đó ta hiểu được họ là những người nông dân mặc áo lính, vừa rời tay cày, tay cuốc
ra đi theo kháng chiến, theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Giữa họ là sự đồng
cảm cùng bao nỗi sẻ chia. Chính điều đó đã khiến họ trở thành những người đồng
chí, đồng đội thân thiết
LĐ3: Không chỉ vậy, những người lính còn gắn bó yêu thương nhau trong
gian khổ, khó khăn trên chiến trường khiến ta vô cùng trân trọng
+ Những người đồng đội ấy đã cùng nhau trải qua những đợt sốt rét rừng và cùng
nhau trải qua bao gian khổ, khốn khó nơi chiến trường ác liệt
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Chân không giày

+ Với bút pháp tả thực cùng những hình ảnh thơ chân thực, giản dị, chọn lọc đã
diễn tả cuộc sống chiến đấu vô cùng khó khăn, gian nan, phải đối mặt với thời tiết
khắc nghiệt cùng bệnh tật, điều kiện vật chất. Họ cùng nhau chiến đấu, cùng nhau
cảm nhận cái khốn khổ của cơn sốt rét rừng, cùng cảm nhận được sự thiếu thốn,
gian nan trong chiến đấu, cũng biết từng trận rét cắt da cắt thịt của vùng núi rừng
Tây Bắc. Cái rét trong rừng sâu nơi ấy không chỉ chuyển tải nét khắc nghiệt của
khí hậu, mà còn đối sánh cảnh nồng ấm của nghĩa tình đồng chí - đồng đội, nghĩa
tình quân - dân. Câu thơ của Chính Hữu vừa nói lên một thực tế về sự thiếu thốn
của người lính vệ quốc trong kháng chiến, nhưng cao hơn là một hiện thực khác:
cái rét đã tạo nên tình tri kỷ giữa hai người chung chăn
+ Tác giả đã sử dụng cấu trúc câu thơ sóng đôi, đối ứng “anh – tôi” để gợi lên
trong mỗi chúng ta sự sẻ chia, thấu hiểu đến tận cùng của những vất vả, khó khăn
mà những người lính phải trải qua. Nếu không trải qua những gì như thế trong
kháng chiến thì bản thân Chính Hữu sẽ chẳng viết lên được những vần thơ chân
thực đến thế
LĐ4: Sau bao khó khăn, gian khổ là thế nhưng trong trái tim của mỗi người
lính vẫn mang trong mình tình yêu thương cũng như tinh thần lạc quan CM
đã để lại trong ta bao ấn tượng:
“Miệng cười buốt giá”
+ Đó chính là nụ cười của sự ngạo nghễ, tinh thần lạc quan. Nụ cười của người lính
dành cho nhau trong đêm trường giá buốt trên đường hành quân. Những người lính
đứng sát bên nhau, chân không có giày, miệng cười với nhau trong buốt giá đêm
khuya. Họ hiện lên không những giản dị mà chứa chan tình yêu thương. Ngoài dẫu
có rét, quần áo dẫu có nát thì càng là cái cớ cho tình đồng chí trở nên keo sơn ấm
áp hơn.
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
+ Với cách biểu cảm trực tiếp “thương nhau” đã gợi trong ta bao niềm xúc động.
Đó là những hình ảnh thơ chân thực, đầy cảm động. Hành động truyền hơi ấm cho
nhau, niềm tin, sức mạnh đã giúp họ thêm ý chí để cùng nhau cầm chắc tay súng
chiến đấu vì tự do cho dân tộc. Tình thương qua những người lính được bộc lộ
không ồn ào mà lặng thầm qua cái nắm tay chân thành, giản dị. Đó là những cử chỉ
không lời mà dạt dào bao cảm xúc. Trở thành điểm tựa để người lính vượt qua tất
cả, là nguồn sức mạnh to lớn để làm nên chiến thắng cho cuộc kháng chiến.
Đánh giá:
Nghệ thuật: Như vậy, bằng những ngôn từ mộc mạc, tự nhiên mà hàm súc, cô
đọng; hình ảnh thơ chân thực, giản dị, giàu sức gợi; giọng thơ thủ thị, tâm tình,
nhiều phép tu từ đặc sắc
Nội dung: đoạn thơ đã làm nổi bật những cơ sở hình thành tình đồng chí. Tình
đồng chí là một tình cảm cao đẹp, nó được hình thành từ lòng đồng cảm giai cấp,
cùng chung nhiệm vụ. lí tướng và hơn cả là được nảy nở từ trong những gian lao,
vất vả.
Tấm lòng: Thông qua đoạn thơ, chúng ta nhận ra ở nhà thơ Chính Hữu là một sự
trân trọng, tự hào đặc biệt dành cho tình cảm cao đẹp ấy và cùng là dành cho
những người lính cụ Hồ trong kháng chiến chống Pháp.
Liên hệ: (xem phần giới thiệu tác phẩm)
+ Khơi gợi lòng biết ơn đối với thế hệ cha ông đã ngã xuống vì cuộc sống hòa bình
của dân tộc.
+ Ra sức học tập, tu dưỡng, rèn luyện trờ thành những người công dân có ích. góp
phần xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu mạnh.
Kết bài:
"Đồng chí" là tiếng lòng tri ân cùa tác giả dành cho những người bạn đã cùng vào
sinh ra tử với mình. Bài thơ ấy và nhất là khố thơ đầu đã khơi gợi trong lòng người
đọc bao tình cảm đẹp. Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, vẻ đẹp của người lính trong bài
thơ vẫn khiến ta cảm phục. Có lẽ vì vậy mà "đồng chí” vẫn mãi có sức tỏa sáng
đối với bạn đọc nhiều thế hệ.
Đề 3: Cảm nhận khổ thơ cuối bài thơ Đồng Chí

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.”

Mở bài:
Tác giả: Chính Hữu là nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp. Thơ
ông thường viết nhiều về người lính
Tác phẩm: “Đồng chí” là bài thơ hay nhất, tiêu biểu cho phong cách thơ của ông:
cảm xúc dồn nén, hình ảnh chọn lọc và giàu ý nghĩa biểu tượng. Tác phẩm được
đánh giá là một trong những bài thơ đặc sắc nhất của thơ ca kháng chiến chống
Pháp, tái hiện 1 cách chân thực vẻ đẹp của người lính. Bài thơ đã ghi lại tình cảm
thiêng liêng cao đẹp trong những ngày tháng trải qua mưa bom bão đạn của người
lính gắn bó, yêu thương, đồng cam cộng khổ cùng vượt qua những chông gai của
cuộc chiến
VĐNL: Đến với tác phẩm, có lẽ người đọc không thể nào quên được những câu
thơ viết về tình đồng chí, đồng đội qua 7 câu thơ đầu của bài thơ
Thân bài:
LĐ1: Giới thiệu chung:
+ Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu được sáng tác vào đầu năm 1948, khi cuộc
kháng chiến chống Pháp đang diễn ra vô cùng ác liệt. Sau khi cùng đồng đội tham
gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947), Chính Hữu bị ốm nặng
được đưa về trạm quân y điều trị. Đơn vị cử một người đồng đội ở lại để chăm sóc
ông. Cảm kích trước tấm lòng của những người đồng đội đã cùng vào sinh ra tử,
ông đã sáng tác bài thơ này. Bài thơ đã giúp người đọc hiểu thêm về một-tình cảm
cao đẹp- tình đồng chí và vẻ đẹp tâm hồn của những người lính cụ Hồ.
LĐ2: Đọc khổ thơ, ta thật ấn tượng với vẻ đẹp của người lính trong một hoàn
cảnh đặc biệt.
+ Hoàn cảnh thiên nhiên khắc nghiệt được gợi lên chân thực cụ thể:
“ Đêm nay rừng hoang sương muối”
+ Câu thơ thật ngắn, chỉ với 3 chi tiết, hình ảnh chọn lọc, cảm xúc dồn nén đã gợi
tả được một hoàn cảnh chiến đấu thật gian nan, khắc nghiệt của người lính. Thời
gian là đêm khuya, không gian là rừng hoang sương muối lạnh lẽo với thời tiết
buốt giá
=> Hình ảnh gợi ra mùa đông miền Bắc nhất là vùng “Đêm khuya sương giá”
đọng thành những hạt nhỏ trắng xóa như muối trên cây cỏ hay mặt đất, khiến con
người tê buốt. Những người lính ấy dù có hoàn cảnh khắc nghiệt, trang bị thiếu
thốn nhưng vẫn vững vàng chiến đấu
“Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”
+ Câu thơ đã mở ra hình ảnh đẹp về người lính sát cánh bên nhau trong đấu tranh –
biểu hiện hướng tới niềm lí tưởng cao cả
+ Trong hoàn cảnh thời tiết khắc nghiệt, giữa núi rừng hoang vu, những người lính
đầu trần chân đất, quần rách áo vá vẫn sát cánh bên nhau trong tư thế hiên ngang,
trong tư thế chủ động bình tĩnh, sẵn sàng đón đợi quân thù. Câu thơ đã khắc họa
được một tuổi thì tuyệt đẹp của người lính trên cái nền hiện thực chiến tranh gian
khổ
+ Hành động “đứng cạnh bên nhau” có sự gặp gỡ với hình ảnh “súng bên súng”
nhấn mạnh tinh thần đoàn kết, cùng nhau chiến đấu, người lính cũng nổi bật lên
với tư thế chủ động tấn công vững vàng “chờ giặc tới” đầy hiên ngang, mạnh mẽ,
chủ động tấn công
LĐ3: Đặc biệt, vẻ đẹp tâm hồn của người lính được khắc họa khiến người đọc
chúng ta thật sự trân trọng
“Đầu súng trăng treo”
+ Câu thơ vừa có ý nghĩa tả thực lại vừa có ý nghĩa biểu tượng. Đêm khuya người
lính cầm súng đứng gác nòng súng chĩa lên bầu trời cao. Đêm càng khuya càng
nhớ càng thấp xuống nên có cảm giác như trắng đang treo trên đầu mũi súng.
+ Bên cạnh ý nghĩa tả thực câu thơ còn chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu xa. Bình
thường súng và trăng không thể đặt cạnh nhau bởi súng là biểu tượng cho chiến
tranh và trăng là biểu tượng cho hòa bình, cho vẻ đẹp thơ mộng. Nhưng ở đây
người lính đang cầm súng để chiến đấu bảo vệ tổ quốc bảo vệ cho cuộc sống hòa
bình của người dân nên đầu súng trăng treo là biểu tượng cho lý tưởng cao đẹp cho
khát vọng hòa bình của người lính.
+ Hình ảnh thơ đầu súng trăng treo còn thể hiện tâm hồn bay bổng lãng mạn đậm
chất thi sĩ của người lính. Mặc dù phải cầm súng đứng gác trong hoàn cảnh thời
tiết khắc nghiệt, đang phải đối diện với kẻ thù và bao nỗi hiểm nguy những tâm
hồn người lính vẫn thiết tha rung động vẫn thả hồn mình đắm say trước vẻ đẹp một
ánh trăng khuya.
=> Người lính trong lúc chiến đấu vẫn mơ về hòa bình, tự do, lí tưởng giải phóng
dân tộc điều đó trở thành động lực thúc đẩy họ chiến đấu. Hình ảnh đầu súng trăng
treo là hình ảnh thơ độc đáo vừa hiện thực vừa lãng mạn vừa thức vừa ảo vừa
chiến sĩ vừa thi sẽ là hình ảnh thơ đặc sắc nhất của Chính Hữu và cũng là hình ảnh
thơ đẹp nhất của thơ ca kháng chiến đã khắc họa thành công vẻ đẹp tâm hồn của
người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp
Đánh giá:
Nghệ thuật: Với thể thơ tự do ngôn ngữ lời thơ giản dị hình ảnh thơ chọn lọc sự
kết hợp hài hòa giữa bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn
Nội dung: Khổ thơ đã khắc họa thành công hình ảnh người lính anh bộ đội cụ hồ
những con người bình dị mộc mạc giàu lòng yêu nước có tâm hồn cao đẹp.
Tấm lòng: Trân trọng, tin yêu
Kết bài:
"Đồng chí" là tiếng lòng tri ân cùa tác giả dành cho những người bạn đã cùng vào
sinh ra tử với mình. Bài thơ ấy và nhất là khố thơ đầu đã khơi gợi trong lòng người
đọc bao tình cảm đẹp. Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, vẻ đẹp của người lính trong bài
thơ vẫn khiến ta cảm phục. Có lẽ vì vậy mà "đồng chí” vẫn mãi có sức tỏa sáng
đối với bạn đọc nhiều thế hệ.

BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH

_Phạm Tiến Duật_

Đề 1: Cảm nhận khổ thơ 1,2 bài “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính”

Không có kính không phải vì xe không có kính


Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng


Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái

Mở bài:

Tác giả:

Phạm Tiến Duật là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại VN . Các tác phẩm của ông
thường viết về hình ảnh người chiến sỹ và những thanh niên xung phong trên tiền tuyến
đường Trường Sơn thời đánh Mĩ với giọng thơ trẻ trung sôi nổi đậm chất lính .

Tác phẩm:

“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách
ấy của ông. Bài thơ đã tái hiện lại một cách chân thực cuộc kháng chiến, khắc họa thành
công hình ảnh người lính lái xe ở Trường Sơn với tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm,
coi thường gian khổ, hiểm nguy.

VĐNL: Hiện thực ấy của của cuộc sống, vẻ đẹp ấy của người chiến sỹ lái xe được thể
hiện ấn tượng ngay từ 2 khổ thơ đầu bài thơ đã để lại cho ta bao niềm trân trọng

Thân bài:

LĐ1: Giới thiệu chung

+ Bài thơ được sáng tác năm 1969 trong thời kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra vô cùng
ác liệt. Từ khắp các giảng đường đại học, hàng ngàn sinh viên đã gác bút nghiên để lên
đường đánh giặc, và điểm nóng lúc đó là đường Trường Sơn_ con đường huyết mạch nối
liền hậu phương và tiền tuyến.Phạm Tiến Duật đã ghi lại những hình ảnh tiêu biểu của
nơi khói lửa Trường Sơn. Có thể nói, hiện thực đã đi vào trang thơ ông, mang vẹn nguyên
hơi thở thời đại. Ra đời trong hoàn cảnh ấy , bài thơ đã thực sự trở thành hồi kèn xung
trận, trở thành tiếng hát quyết thắng của tuổi trẻ VN thời kì chống Mĩ.

LĐ2: Mở đầu bài thơ, tác giả đã đưa ra lời giải thích thất dí dỏm về nguyên nhân
những chiếc xe không có kính gợi trong lòng người đọc bao cảm xúc.

“Không có kính không phải vì xe không có kính

Bom giật bom rùn kính vỡ đi rồi”


+ Xe không kính là một hình ảnh quen thuộc, thường thấy ở tuyến đường Trường Sơn
những năm trong kháng chiến chống Mĩ. Nhà thơ Phạm Tiến Duật đã đưa hình ảnh ấy
vào thơ của mình và trở thành một hình ảnh độc đáo. Có lẽ đây cũng là lần đầu tiên hình
ảnh xe không kính xuất hiện một cách chân thực và đầy ấn tượng như vậy.

+ Câu thơ mở đầu thật dài, ngôn ngữ thơ giản dị , tự nhiên, không mượt mà, trau chuốt.
Câu thơ giống như một lời văn xuôi, một lời nói thường ngày của người lính

+ Bằng những hình ảnh thơ rất thực, biện pháp tu từ điệp ngữ “không có” được lặp lại
hai lần đã nhấn mạnh sự ấn tượng, độc đáo của đoàn xe. Những chiếc xe ban đầu có đầy
đủ các bộ phận nhưng giờ đây kính đã vỡ hết.

+ Câu thơ thứ hai là lời lí giải vì sao những chiếc xe không có kính .Điệp ngữ “bom” kết
hợp với các động từ mạnh “giật, rung, vỡ” lời thơ mạnh mẽ đã giúp ta nhận ra rằng chính
xe vận tải vẫn còn nguyên vẹn, lành lặn giờ đây trở nên không còn kính. Trong những
năm tháng ấy, con đường Trường Sơn huyền thoại trở thành tâm điểm bắn phá ác liệt của
máy bay Mĩ, chúng đã trút xuống hàng ngàn vạn tấn bom nhằm cắt đứt con đường huyết
mạch vận chuyển đạn dược , lương thực từ Bắc vào Nam .Quá khứ ấy mãi đau thương
trong lòng mỗi người con đất Việt.

=> Với vần thơ nhạy cảm, có nét tinh nghịch, Phạm Tiến Duật đã phát hiện ra và đưa
hình ảnh những chiếc xe không kính vào trong thơ trở thành biểu tượng độc đáo của thơ
ca chống Mĩ và từ hình ảnh ấy, tác giả đã cho người đọc cảm nhận một cách sâu sắc về
hiện thực dữ dội của chiến tranh.Với thái độ hiên ngang của người lính trong cuộc chiến
tranh đầy gian khổ, thử thách.

LĐ3: Trên chiếc xe không kính đó, tư thế ung dung hiên ngang của người lính được
thể hiện rõ nét khiến người đọc vô cùng cảm phục.

“Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng”

+ Từ láy “ung dung” kết hợp đảo ngữ làm nổi bật tư thế chủ động , bình tĩnh, phong thái
ung dung trước hoàn cảnh của người lái xe.

+ Điệp ngữ “nhìn”: nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng với nhịp thơ cân đối 2/2/2 giúp ta hình
dung như các anh hùng hướng cái nhìn của mình ra trước với không gian rộng mở. Họ
không chỉ nhìn đất trời, nhìn không gian bao la mà cái nhìn ấy là sự đối mặt với gian khổ,
hi sinh nhìn vào con đường mình đã chọn để tiến lên phía trước không hề né tránh,
không hề run sợ.Tất cả đã gợi ra tư thế vững vàng, tự tin và đầy bản lĩnh của người cầm
lái trong hoàn cảnh khó khăn gian khổ.

+ Đại từ “ta” vang lên đầy niềm tự hào, kiêu hãnh “ta” là những người lính lái xe, là cả
1 thế hệ lính trẻ thời chống Mĩ với lí tưởng cao đẹp.

“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước

Mà lòng phơi phới dậy tương lai”

=>Hai câu thơ ngắn gọn đã diễn tả được thái độ ngang tàn, ngạo nghễ, tư thế ung dung
đầy lạc quan của những người lính lái xe Trường Sơn năm ấy.

LĐ4: Đến với khổ thơ thứ hai ta xúc động trước những cảm nhận về hiện thực khó
khăn, gian khổ mà người lính đã trải qua:

“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

Như sa, như ùa vào buồng lái”

+ Nhịp thơ nhanh, gấp gáp, phép điệp ngữ “thấy” kết hợp với các hình ảnh cụ thể, chân
thực: “gió”,”con đường”; “ sao trời”;”cánh chim” đã diễn tả một cách chân thực sinh
động cảm giác, ấn tượng của người lính lái xe không kính trên đường ra trận, nhìn những
chiếc xe không kính nên gió, bụi, khói tha hồ bay vào buồng lái, khiến mắt của những
người lính cay xè. Chỉ 1 vài chi tiết, hình ảnh giàu sức gợi ấy mà nhà thơ đã giúp ta cảm
nhận được bao vất vả, gian lao mà các anh hùng trải qua. Cũng nhờ chiếc xe không kính
mà người lính thấy con đường đang chạy phía trước. Đó chính là con đường của những
trái tim yêu nước mà các anh đã chọn.

+ Phép đảo ngữ : “đột ngột cánh chim” kết hợp nghệ thuật so sánh và nhân hóa: “như sa
như ùa vào buồng lái” đã diễn tả tình cảm đáng trân trọng của người lính dành cho vẻ
đẹp thiên nhiên. Một ngôi sao trên bầu trời, 1 cánh chim bay ngang qua ngọn núi để trở
thành bạn bè, để động viên các anh hùng. Lúc này, mọi khó khăn, nguy hiểm đã lùi lại,
nhường chỗ để các anh đón nhận những âm thanh trong trẻo, ùa vào khoảng lặng giữa
cuộc chiến ác liệt. Tâm hồn lãng mạn, trẻ trung, đậm chất thi sĩ của những người lính lái
xe trong bộn bề gian truân, mất mát.

+ Âm điệu, lời thơ nhịp nhàng như diễn tả được hình ảnh từng đoàn xe nối đuôi nhau
băng vào cửa Trường Sơn bạt ngàn hoang vu, hùng vĩ.

=>Có thể nói người lính đã chiến thắng bom đạn của kẻ thù bằng cái nhìn bình thản:
“con đường chạy thẳng vào tim”( phép ẩn dụ) mà họ cần nhìn thấy không chỉ là đường
chiếc lược Trường Sơn xe đang đi mà đó là con đường cách mạng, con đường giải phóng
miền Nam, còn là đường mà thế hệ đi trước đã mang cả tuổi thanh xuân, máu xương của
mình để bảo vệ.

Đánh giá:

Nghệ thuật: Như vậy, qua nét bút tài hoa, độc đáo của nhà thơ, giọng điệu hào hùng, thể
hiện chất thơ máu lửa, các biện pháp tu từ như điệp ngữ, so sánh, nhân hóa và các từ ngữ
chọn lọc

Nội dung: Hai khổ thơ đầu của bài thơ đã giúp cho người đọc cảm nhận trọn vẹn sự khốc
liệt của chiến tranh thông qua hình ảnh những chiếc xe không kính và tư thế ung dung,
hiên ngang, bản lĩnh vững vàng, tâm hồn lạc quan của người lính lái xe trên tuyến đường
Trường Sơn là người đã từng vào sinh ra tử cùng đồng đội .

Tấm lòng: Tác giả thấu hiểu cuộc đời người lính trong những năm tháng chiến tranh
gian khổ .Qua đoạn thơ cũng như toàn tác phẩm, nhà thơ bày tỏ tình yêu, sự trân trọng và
ngợi ca đối với người lính Trường Sơn.

Kết bài

+ Khẳng định lại VĐNL

+ Đánh giá tài năng, tình cảm, phong cách của nhà thơ

+ Cảm nghĩ của em về hai khổ thơ trên.

Đề 2: Cảm nhận khổ thơ 3,4 bài “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính”

Không có kính, ừ thì có bụi,

Bụi phun tóc trắng như người già


Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Không có kính, ừ thì ướt áo

Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời

Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa

Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.

Mở bài:

Tác giả: Phạm Tiến Duật_ cây bút xuất sắc của thơ ca hiện đại Việt Nam

Tác phẩm: “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính”

VĐNL: Tinh thần dũng cảm bất chấp khó khăn gian khổ và tinh thần lạc quan, sôi nổi
của người lính trong khổ 3,4 đã khiến người đọc bày tỏ lòng yêu mến

Thân bài:

LĐ1: Giới thiệu chung:

+ Bài thơ ra đời năm 1969, thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ diễn ra vô cùng ác liệt

+ “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” thông qua hình ảnh người lính lái xe Trường Sơn
trong thời kì chống Mĩ với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan dũng cảm, bất chấp khó
khăn và ý chí giải phóng miền Nam

+ Khổ thơ 3,4 của bài thơ sẽ giúp ta cảm nhận rõ được nét đẹp đó của người lính lái xe

LĐ2: Trước hết hiện lên trong khổ thơ là hiện thực nghiệt ngã, gian khổ với bao khó
khăn, khắc nghiệt của thời tiết Trường Sơn khiến ta vô cùng thương cảm

Không có kính, ừ thì có bụi,

Bụi phun tóc trắng như người già


+ Khổ thơ bắt đầu bằng cấu trúc lặp lại “không có kính” như muốn nhấn mạnh phác họa
rõ nét vẻ lạ lùng, độc đáo của chiếc xe và là lí do khiến xe “có bụi”.

+ Điệp ngữ “bụi” và động từ “phun” diễn tả, nhấn mạnh mức độ ghê gớm đến đáng sợ
của bụi: bụi bay, bụi cuốn mù mịt cả không gian, đất trời mỗi lần xe chạy và kéo dài suốt
cả chặng đường dài.

+ Biện pháp so sánh: “ bụi phun tóc trắng” – “ người già” sự ngộ nghĩnh đáng yêu. Anh
chiến sĩ đôi mươi, trẻ trung, sôi nổi giờ đây đã được “hóa trang” thành một con người
khác, già đi gấp bội bởi lớp bụi dày bám trên tóc. Cái gian khổ của anh chiến sĩ lái xe
được diễn tả sao mà nhẹ nhàng đến thế

Không có kính, ừ thì ướt áo

Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời

+ Điệp cấu trúc không có kính … ừ thì chưa cần thể hiện tính cách ngang tàng, bất chấp
tất cả khó khăn.

+ Cấu trúc “ không có- ừ thì” diễn tả sự lạc quan. Họ coi sự thiếu thốn và khó khăn trong
hoàn cảnh lại vô cùng nhẹ nhàng thể hiện sự lạc quan yêu đời

+ Các động từ : “ tuôn, xối” diễn tả sự khó khăn gian khổ trong quá trình lái xe trên con
đường Trường Sơn với thời tiết khắc nghiệt

=> Với chất liệu hiện thực độc đáo, nhà thơ đã khắc hoạ sự khó khăn, gian khổ của những
người lính vận chuyển vũ khí, lương thực từ miền Bắc vào miền Nam. Họ phải trải qua
nhiều sự khó khăn gian khổ, bụi phun mưa xối, đối mặt với sự khắc nghiệt của thời tiết
những họ vẫn vô cùng lạc quan, không sợ hiểm nguy gian khổ

LĐ3: Dù hiện thực có khó khăn gian khổ ra sao, những người chiến sĩ vẫn một lòng
lạc quan, tin tưởng vào niềm tin chiến thắng, hiên ngang ngạo ngễ trước khó khăn
khiến ta vô cùng trân trọng

Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

+ Nếu từ ngữ “ừ thì” thể hiện sự chấp nhận, chịu đựng những cơn bụi thì thái độ “chưa
cần rửa” lại là sự thách thức, bất chấp, xem thường mọi gian khổ. Gian khổ này dường
như không tác động, làm lay chuyển, ý chí, quyết tâm anh. Người chiến sĩ xem đó là dịp
để rèn luyện ý chí, sức mạnh của mình.

+ Từ láy “ phì phèo, ha ha” diễn tả sự ngạo ngễ mà lạc quan, tiếng cười giữa sự hiểm
nguy gian khổ

Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa

Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi.

+ Và sau thái độ ấy là những tiếng cười đùa, những lời hứa hẹn, quyết tâm vượt gian khổ
hiểm nguy: "Chưa cần rửa... khô mau thôi”. Cấu trúc câu thơ vẫn cân đối, nhịp nhàng
theo nhịp rung cân đối của những bánh xe lăn. Câu thơ cuối 7 tiếng cuối đoạn có đến 6
thanh bằng “mưa ngừng gió lùa khô mau thôi" gợi cảm giác nhẹ nhõm, ung dung rất lạc
quan, rất thanh thản. Đó là khúc nhạc vui của tuổi 18 – 20 hoà trong những hình ảnh hóm
hỉnh: “phì phèo châm điếu thuốc - nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” ... ý thơ rộn rã, sôi
động như sự sôi động hối hả của đoàn xe trên đường đi tới.

=> Những vần thơ ít chất thơ nhưng càng đọc thì lại càng thấy thích thú, giọng thơ có
chút gì nghịch ngợm, lính tráng. Ta nghe như họ đương cười đùa, tếu táo với nhau vậy.
Có lẽ với những năm tháng sống trên tuyến đường Trường Sơn, là một người lính thực
thụ đã giúp Phạm Tiến Duật đưa hiện thực đời sống vào thơ ca – một hiện thực bộn bề,
một hiện thực thô tháp, trần trụi, không hề trau chuốt, gọt rũa.

Đánh giá:

Nghệ thuật: Bằng thể thơ tự do, giọng thơ sôi nổi, khoẻ khoắn, hình ảnh bình dị chân
thực đặc biệt là ngôn ngữ đậm chất khẩu ngữ cứ như lời nói hằng ngày.

Nội dung: Khổ thơ 3 và 4 đã làm sáng lên vẻ đẹp người lính lái xe Trường Sơn. Giữa nền
hiện thực khắc nghiệt, hình ảnh người lính vẫn hiện lên vô cùng lạc quan, yêu đời

Tấm lòng: Phải am hiểu về cuộc sống để chiến đấu của tuổi trẻ Việt Nam, phải trân trọng
tự hào về họ thì Phạm Tiến Duật mới viết nên những vần thơ chân thực xúc động đến thế.

Liên hệ: Vẻ đẹp của người lính lái xe và hình tượng những chiếc xe không kính trong
bom đạn khốc liệt nói lên phẩm chất cao đẹp của thế hệ trẻ trong kháng chiến chống Mỹ.

Kết bài: …
Đề 3: Cảm nhận khổ thơ 5,6 bài “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính”

Những chiếc xe từ trong bom rơi


Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời


Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.

Mở bài:

Tác giả:

Phạm Tiến Duật là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại VN . Các tác phẩm của ông
thường viết về hình ảnh người chiến sỹ và những thanh niên xung phong trên tiền tuyến
đường Trường Sơn thời đánh Mĩ với giọng thơ trẻ trung sôi nổi đậm chất lính .

Tác phẩm:

“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách
ấy của ông. Bài thơ đã tái hiện lại một cách chân thực của kháng chiến, khắc họa thành
công hình ảnh người lính lái xe ở Trường Sơn với tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm,
coi thường gian khổ, hiểm nguy.

VĐNL: Đặc biệt vẻ đẹp của người lính được thể hiện qua khổ thơ 5,6 gợi trong ta bao
cảm xúc
Thân bài:

LĐ1: Giới thiệu chung

+ Bài thơ được sáng tác năm 1969 trong thời kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra vô cùng
ác liệt. Từ khắp các giảng đường đại học, hàng ngàn sinh viên đã gác bút nghiên để lên
đường đánh giặc, và điểm nóng lúc đó là đường Trường Sơn_ con đường huyết mạch nối
liền hậu phương và tiền tuyến.Phạm Tiến Duật đã ghi lại những hình ảnh tiêu biểu của
nơi khói lửa Trường Sơn. Có thể nói, hiện thực đã đi vào trang thơ ông, mang vẹn nguyên
hơi thở thời đại. Ra đời trong hoàn cảnh ấy , bài thơ đã thực sự trở thành hồi kèn xung
trận, trở thành tiếng hát quyết thắng của tuổi trẻ VN thời kì chống Mĩ.

LĐ2: Trước hết nhà thơ đã lý giải rõ về sự hình thành của tiểu đội xe không kính
gợi trong ta bao cảm xúc trân trọng
“ Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội”

+ Cụm từ “ từ trong bom rơi” giúp ta hình dung được sự khốc liệt của chiến tranh .
+ Những năm tháng ấy con đường Trường Sơn trở thành tâm điểm bắn phá của máy bay
Mỹ. Hằng ngày, hàng vạn tấn bom đã dội xuống nơi đây nhằm cắt đứt con đường huyết
mạch của hậu phương lớn miền Bắc vào tiền tuyến miền Nam.
+ Những chiếc xe đều có chung đặc điểm là kính bị vỡ sau những chặng đường đầy mất
mát, hy sinh.
+ Những người lính trên tiền tuyến Trường Sơn đã cùng nhau hợp thành tiểu đội xe
không kính
+ Sau lời giải dí dỏm ấy là 1 triết lý sâu sắc
+ Những người lính trải qua bao gian khổ…….
+ Gắn bó với nhau bằng tình đồng chí
=>Tạo nên sức mạnh tinh thần gắn kết những con người trên mọi miền đất nước
=>Đây chính là 1 nét phong cách của nhà thơ Phạm Tiến Duật
LĐ3: Vượt lên mọi gian khổ, vượt lên những cái không có là tình đồng chí đồng đội
cao đẹp thiêng liêng, gắn bó keo sơn khiến cho người đọc vô cùng xúc động

Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới


Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời


Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.
+ Tình đồng đội trước hết được biểu hiện qua cái bắt tay thật độc đáo và ấn tượng: “ Bắt
tay qua cửa kính vỡ rồi” Phạm Tiến Duật đã chớp được khoảnh khắc đặc biệt ấy => ngợi
ca tình đồng chí cao đẹp

+ Cái bắt tay thay cho lời chào đầy tình thương mến là biểu tượng của niềm tin thắng trận
vào ngaỳ mai là lời chúc tiếp thêm sức mạnh tinh thần để cùng nhau vượt qua gian nan,
thử thách vì miền Nam ruột thịt

+ Những phút nghỉ ngơi thoáng chốc và bữa cơm thời chiến tranh rất vội vã. Những cũng
chính giây phút hạnh phúc hiếm hoi đó đã xóa tan mọi khoảng cách giúp họ cảm giác gần
gũi,thân thương như ruột thịt

+ Từ láy “ chông chênh” gợi cảm giác bấp bênh ko bằng phẳng _ đó là những khó khăn
gian khổ trên con đường ra trận. Song với các chiến sĩ lái xe, càng gian khổ thì càng gần
đến ngày thắng lợi

+ Nghệ thuật ẩn dụ “ trời xanh thêm” gợi tâm hồn lạc quan của người chiến sỹ. Màu
xanh đó là màu của niềm tin và sự tin tưởng ở ngày chiến thắng đang đến gần

+ Điệp ngữ “ lại đi, lại đi” và nhịp 2/2/3 khẳng định đoàn xe không ngừng nỗ lực và kiên
cường. Đó là nhịp sống, chiến đấu và hành quân của tiểu đội xe không kính mà không
một sức mạnh tàn bạo nào của giặc Mỹ có thể ngăn cản đc.

Đánh giá:

Nghệ thuật: Thể thơ tự do, đậm chất văn xuôi, hình ảnh thơ mang chất liệu hiện thực của
đời sống chiến trường, ngôn ngữ mang tính khẩu ngữ tự nhiên, giọng điệu ngang tàn khỏe
khoắn, hài hước ,dí dỏm, sử dụng nhiều biện pháp tu từ đặc sắc: ẩn dụ, điệp ngữ ,….
Nội dung: Khổ thơ đã lột tả được tình đồng chí, đồng đội vô cùng thiêng liêng nhưng lại
giản dị
Tấm lòng: Tác giả trân trọng tình đồng đội giữa những người lính
Liên hệ: Vẻ đẹp của người lính lái xe và hình tượng những chiếc xe không kính trong
bom đạn khốc liệt nói lên phẩm chất cao đẹp của thế hệ trẻ trong kháng chiến chống Mỹ.
Kết bài:
Đề 4: Cảm nhận khổ cuối bài “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Không có kính, rồi xe không có đèn


Không có mui xe, thùng xe có xước

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim

Mở bài:

Tác giả:

Phạm Tiến Duật là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại VN . Các tác phẩm của ông
thường viết về hình ảnh người chiến sỹ và những thanh niên xung phong trên tiền tuyến
đường Trường Sơn thời đánh Mĩ với giọng thơ trẻ trung sôi nổi đậm chất lính .

Tác phẩm:

“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách
ấy của ông. Bài thơ đã tái hiện lại một cách chân thực của kháng chiến, khắc họa thành
công hình ảnh người lính lái xe ở Trường Sơn với tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm,
coi thường gian khổ, hiểm nguy.

VĐNL: Ấn tượng nhất khi đến với bài thơ là khổ thơ cuối đã dựng lên hai hình ảnh đối
lập đầy kịch tính, rất bất ngờ và thú vị làm nổi bật sự khốc liệt của chiến tranh và tinh
thần dũng cảm, ý chí chiến đấu, quyết tâm sắt đá, giải phóng miền Nam, trái tim yêu
nước nồng nhiệt của tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mỹ.

Thân bài:

LĐ1: Giới thiệu chung

+ Bài thơ được sáng tác năm 1969 trong thời kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra vô cùng
ác liệt. Từ khắp các giảng đường đại học, hàng ngàn sinh viên đã gác bút nghiên để lên
đường đánh giặc, và điểm nóng lúc đó là đường Trường Sơn_ con đường huyết mạch nối
liền hậu phương và tiền tuyến.Phạm Tiến Duật đã ghi lại những hình ảnh tiêu biểu của
nơi khói lửa Trường Sơn. Có thể nói, hiện thực đã đi vào trang thơ ông, mang vẹn nguyên
hơi thở thời đại. Ra đời trong hoàn cảnh ấy , bài thơ đã thực sự trở thành hồi kèn xung
trận, trở thành tiếng hát quyết thắng của tuổi trẻ VN thời kì chống Mĩ.
LĐ2: Ấn tượng đầu tiên khi đọc đoạn thơ là những vần thơ gợi tả hình ảnh những
chiếc xe không kính hiện lên thật chân thực cụ thể mà vô cùng độc đáo để lại trong
ta bao cảm xúc

“Không có kính, rồi xe không có đèn

Không có mui xe, thùng xe có xước

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”

+ Với nhịp thơ nhanh, âm điệu dồn dập, phép liệt kê từng cấp kết hợp với điệp từ
“không” được sử dụng liên tiếp, hình ảnh thơ chân thực, được chắt lọc từ chính giữa
chiến trường, những câu thơ không cầu kì hoa mĩ mà đậm chất khẩu ngữ của những
người lính đã phơi lên trang thơ những tổn thất nặng nề, gợi cho ta cảm giác từng giờ
từng phút, những chiếc xe lăn bánh vào chiến trường cứ rơi rụng dần từng bộ phận bảo vệ
vì mưa bom bão đạn. Những chiếc xe bị tàn phá ngày càng biến dạng và tàn tạ. Hình ảnh
thơ đã nói lên một cách chân thực nhất những khó khăn, sự khốc liệt mà người lính phải
đối mặt. Dù không một lời kể tả, người đọc vẫn có thể hình dung mỗi lần xe mất đi một
bộ phận thì người lính lái xe lại thêm một phần thương tích trên cơ thể. Hình ảnh chiếc xe
được miêu tả chân thực cụ thể ấy đã trở thành một nhân chứng sống hùng hồn cho tội ác
của đế quốc Mĩ trong chiến tranh ở Việt Nam để rồi chiến tranh đã đi qua hơn 40 năm
nhưng đọc lại những câu thơ của Phạm Tiến Duật, ta như được trở về với quá khứ đau
thương đã qua. Nhà thơ như một nhà quay phim cho ta những thước phim tư liệu chân
thực về một thời chiến tranh của dân tộc ta đã qua.

+ Hình ảnh những chiếc xe trong đoạn thơ không chỉ hiện lên chân thực cụ thể mà nó
còn vô cùng độc đáo. Có thể nói hình ảnh những chiếc xe không đèn không kính không
mui đã khẳng định tài năng của Phạm Tiến Duật trong khi những nhà thơ say sưa kiếm
tìm chất thơ từ những đề tài xa lạ hay thi vị hóa tô hồng cuộc kháng chiến thì Phạm Tiến
Duật lại chắt chiu từ những hiện thực xù xì thô ráp, tạo nên chất thơ, sự độc đáo từ cái
trần trụi của cuộc sống, hình ảnh những chiếc xe không đèn không kính không mui là
những người bạn thân thiết của những người lính lái xe vốn không hiếm trên chiến lửa
Trường Sơn nhưng lại rất hiếm trong thơ, thậm chí nó vẫn còn chạy và độc đáo hơn, nó
vẫn chạy giữa mưa bom bão đạn, trong lấm lem bụi đường, trong mưa tuôn nắng xối,
trong sự khắc nghiệt của chiến tranh. Chỉ với từ vẫn, nhà thơ đã tạo nên sự đối lập giữa
tình trạng của chiếc xe và được viết bằng bút pháp hiện thực để dựng lên hình ảnh những
chiếc xe vưà lạ vừa quen mà có sức ám ảnh với người đọc.
LĐ3: Những chiếc xe ấy không chỉ là nhân chứng sống cho tội ác của chiến tranh
mà còn là bệ đỡ cho tượng đài cao đẹp của những người lính lái xe anh hùng với
tinh thần dũng cảm, ý chí chiến đấu, quyết tâm sắt đá, giải phóng miền Nam, trái
tim yêu nước nồng nhiệt gợi trong lòng người đọc bao sự trân trọng, tin yêu

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim”

+ Kết thúc bài thơ là những vần thơ mang tính chất khẳng định đầy tự hào, hình
ảnh một trái tim kết thúc bài thơ một cách bất ngờ, tác giả đã đưa ra một lí do vừa
thật vừa có lí: ”Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Trái tim là một hình ảnh hoán
dụ chỉ người lính gan dạ dũng cảm luôn lạc quan yêu đời và bất chấp gian khổ. Đó
là trái tim nồng nàn yêu tổ quốc yêu miền Nam ruột thịt, căm thù giặc Mĩ , nhân
hậu thủy chung. Trái tim gan góc, nhiệt huyết và máu lửa sẵn sàng quyết tử cho tổ
quốc quyết sinh sẵn sàng xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước mà lòng phơi phới dậy
tương lai. Trái tim ấy là sức mạnh của người lính, là linh hồn của những chiếc xe
dù những chiếc xe có bị tàn phá đi bao nhiêu nữa thì sẽ vẫn băng băng vào chiến
trường một khi nhịp đập của trái tim người lính vẫn còn. Dù thân thể người lính có
đầy thương tích thì những chiếc xe vẫn không ngừng lăn bánh vào chiếc trường vì
trái tim của những người lính chưa ngừng đập và chưa ngừng thở. Với hình ảnh
trái tim kết thúc đoạn thơ đã trở thành điểm sáng, nhãn tự cho cả bài thơ giúp nhà
thơ nâng chủ đề bài thơ, ngợi ca người lính, dẫn người đọc tới chân lí của thời đại.
Sức mạnh làm nên chiến thắng không phải là vũ khí mà là lí tưởng cao đẹp của con
người và giúp người đọc lí giải…

Đánh Giá:

Nghệ thuật: Thể thơ tự do, đậm chất văn xuôi, hình ảnh thơ mang chất liệu hiện
thực của đời sống chiến trường, ngôn ngữ mang tính khẩu ngữ tự nhiên, giọng điệu
ngang tàng khỏe khoắn, hài hước ,dí dỏm, Có các biện pháp tu từ đặc sắc : liệt kê,
điệp ngữ,……. và các từ ngữ chọn lọc

Nội dung: Bày tỏ sự tự hào trước sự dũng cảm, gan dạ của những người con miền
Nam và phê phán chiến tranh tàn ác
Tấm lòng: Tác giả thấu hiểu cuộc đời người lính trong những năm tháng chiến
tranh gian khổ .Qua đoạn thơ cũng như toàn tác phẩm, nhà thơ bày tỏ tình yêu, sự
trân trọng và ngợi ca đối với người lính Trường Sơn.

Kết bài:

ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ

_Huy Cận_

Đề 1: Cảm nhận khổ thơ 1,2 bài Đoàn thuyền đánh cá

Mặt trời xuống biển như hòn lửa


Sóng đã cài then,đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,


Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng,
Đến dệt lưới ta,đoàn cá ơi!

Mở bài

Tác giả:

Huy Cận là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Thơ ông dạt dào cảm
hứng lãng mạn về thiên nhiên vũ trụ, về đất nước, con người trong thời đại mới

Tác phẩm:

Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là tác phẩm ngợi ca cuộc sống mới, con người
mới khi lần đầu tiên được làm chủ đất nước

VĐNL:

Đọc đoạn thơ trên, ta thật ấn tượng trước cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá giữa
trời đêm thơ mộng
Thân bài

LĐ1: Giới thiệu chung

Năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ
chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại dồi dào trong
cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới.
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập thơ
“Trời mỗi ngày lại sáng”

LĐ2: Trước hết, ta say mê, thích thú bởi bức tranh hoàng hôn buông mình
trên biển khơi với vẻ đẹp kì vĩ, tráng lệ

" Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then, đêm sập cửa.”

+ Ngay từ hai câu thơ đầu nhà thơ đã khéo léo dùng những hình ảnh cụ thể sinh
động “mặt trời” “biển” “sóng” kết hợp với biện pháp tu từ so sánh mới lạ, độc
đáo: “mặt trời” như “hòn lửa” để tạo nên một bức tranh hoàng hôn rực rỡ, tráng
lệ, lộng lẫy, đầy ấn tượng

+ Phép so sánh này khiến cho mặt trời vốn là một vầng thái dương kì vĩ, ở rất xa
chúng ta trở nên gần gũi, quen thuộc, ấm áp như ngọn lửa trong bếp mỗi gia đình.
Nhà thơ còn sáng tạo phép nhân hóa thật tài tình: “Sóng” và “biển đêm” biết “cài
then”, “sập cửa”. Đây vốn là những vật vô tri vô giác được Huy Cận nhân hóa
làm cho nó trở nên sinh động, có hồn. Chúng cũng muốn được nghỉ ngơi, thư giãn
sau một ngày vận động.

+ Cảnh quan vũ trụ của nhà thơ mở ra trong trí tưởng tượng của người đọc những
liên tưởng thật thú vị: Vũ trụ giống như một mngôi nhà khổng lồ, màn đêm buông
xuống là cánh cửa, còn những làn sóng nhấp nhô là những chiếc then cài. Chính
cách nói ẩn dụ này giúp ta hình dung thiên nhiên, biển cả hiện lên vừa hùng vĩ,
tráng lệ, vừa ấm áp, thân quen, khiến cho những ngư dân đi trên biển có cảm giác
như đang trở về với ngôi nhà thân thiết của chính mình.

=> Phải gắn bó máu thịt và yêu biển tha thiết, Huy Cận mới có thể sáng tạo được
những hình ảnh đẹp, giàu sức gợi đến vậy. Chính cách diễn đạt này đã làm thay đổi
hồn thơ Huy cận: Thiên nhiên vũ trụ trở nên gần gũi, thân thuộc với con người hơn
chứ không còn cảm giác cô đơn, rợn ngợp và buồn như trong thơ Huy Cận trước
Cách mạng tháng Tám.

LĐ3: Trong cảnh thiên nhiên ấy, đoàn thuyền đánh cá bắt đầu hành trình
chinh phục biển khơi với không khí phấn khởi, vui tươi khiến ta cảm phục vô
cùng:

“ Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,

Câu hát căng buồm cùng gió khơi ”

+ Tác giả đã khéo lồng vào chữ “đã” (cài then) của câu thơ trên với chữ “lại” ra
khơi ở câu dưới như một sự so sánh thật kín đáo: vũ trụ đã đi vào trạng thái nghỉ
ngơi, thư giản những đoàn thuyền đánh cá lại bắt đầu một ngày làm việc mới.
Chính biện pháp nghệ thuật đối lập này đã giúp nhà thơ thể hiện được cuộc giao ca
đầy kì thú giữa thiên nhiên vũ trụ và con người lao động nhằm tạo ấn tượng về
cuộc sống mới, về tinh thần làm chủ của người lao động với không khí khẩn
trương, nhộn nhịp, không lúc nào ngừng nghỉ.

+ Trong tâm thế đó, thuyền đánh cá lại ra khơi như một đoàn quân sung sức, và
đẩy khí thế , chứ không phải từng chiếc đơn lẻ như trước đây nữa. Hình ảnh thợ đã
gợi lên ko chỉ làm ăn tập thể, có trật tự, có tổ chức của những năm đầu xây dựng
CNXH ở miền bắc.

+ Phó từ “lại” gợi lên bao sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của tác giả trước tính than,
của con người. Nó cũng cho thấy những chuyến ra khơi là việc làm thường
nhật ,quen thuộc của người dân chài, gợi lên cuộc sống lao động đã ổn định. Biết
bao lần họ cùng nhau ra khơi, cùng nhau chinh phục biển cả, trong niềm vui lao
động.

+ Niềm vui ấy được nhân lên trong tiếng hát ra khơi: “Câu hát căng buồm cùng
gió khơi”. Câu thơ có sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn
khoẻ bút pháp hiện thực, nhà thơ đã làm hiện ra trước mắt ta hình ảnh cánh buồm
no căng gió biển đây con thuyền ra khơi xa. Không chỉ vậy, bằng bút pháp lãng
mạn, nhà thơ còn giải thích cho chúng ta về sức mạnh làm căng cánh buồm. Đó là
tiếng hát, là khí thế mạnh mẽ, hào hứng của con người đã tiếp thêm sức mạnh làm
căng cánh buồm. Hình ảnh liên tưởng theo bộ 3 sự vật và hiện tượng: cánh buồm -
gió khơi - câu hát rất độc đáo, khỏe khoản, có sức gợi tả cao. Chính câu hát và gió
khơi đã làm giương to cánh buồm con thuyền ra khơi xa. Hình ảnh cánh buồm
trong câu thơ này chợt gợi nhớ, gợi thương cánh buồm trong thơ Tế Hanh:

“ Cánh buồm giường to như mảnh hồn làng

Rượn thân trắng bao la thâu góp gió.”

=> Một câu thơ thôi mà nhà thơ không chỉ cho ta thấy khí thế ra khơi sôi nổi, khỏe
khoắn mà hơn hết còn chứa đựng niềm tin, hy vọng vào chuyến ra khơi của người
lao động sẽ thu được mẻ cá bội thu. Một câu thơ thôi mà nhà thơ cho ta thấy sự
giao thoa giữa con người và thiên nhiên, vũ trụ - một nét mới trong phong cách thơ
Huy Cận sau Cách mạng tháng Tám.

LĐ4: Đọc đoạn thơ, ta còn cảm nhận được tiếng hát của ngư dân ca ngợi biền
quê hương thật giàu có và đẹp biết bao.

“ Hát rằng cá bạc biển Đông lặng

Cá thu biển Đông như đoàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng

Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi “

+ Biển của đất nước chúng ta rộng lớn, bao la, biển đẹp bao nhiêu, biển cũng nhiều
tài nguyên bấy nhiêu. Phép liệt kê cùng phép so sánh “như đoàn thoi” gợi lên từng
đàn cá quý hiếm. Biển quê hương thật trù phú, giàu có biết bao.

+ Không những thế, hình ảnh từng đàn cá tung tăng bơi lội như dệt muôn luồng
sáng tạo nên một vẻ đẹp rực rỡ, huyền ảo, lung linh như thế giới thần tiên trong
truyện cổ tích.

+ Yêu vẻ đẹp của biển, thán phục sự giàu có của biển, những người đánh cá còn
cất lên tiếng hát gửi gắm bao ước mơ, mong muốn đánh bắt được nhiều cá trở về
trong, khúc ca khải hoàn chiến thắng.

+ Những ngư dân trò chuyện, gọi cá thật thân mật. Chính phép nhân hóa này gợi
lên bao mong ước, khao khát của người dân chài, Họ mong ước đánh bắt được
nhiều cá và trở về bình yên. Câu nói như một lời kêu gọi “đoàn cá” nhưng cũng là
lời gọi nhau, những người đánh cá, hãy nhanh tay lao động.
+ Hình ảnh người dân chài hiện lên thật khỏe khoắn với tư thế làm chủ thiên
nhiên, tâm hồn lạc quan yêu đời, tin tưởng vào cuộc sống mới. Họ chính là những
con người thầm lặng đang ngày đêm lao động, góp sức mình làm giàu cho Tổ quốc
thân yêu.

Đánh giá:

Nghệ thuật: Qua đoạn thơ, ta thấy được tài năng nghệ thuật của Huy Cận: sử dụng
thể thơ bảy chữ linh hoạt, giọng thơ khỏe khoắn, hào hùng, tươi vui, phấn khởi, sử
dụng nhiều biện pháp tu từ đặc sắc, sức tưởng tượng phong phú, đặc biệt sự kết
hợp giữa bút pháp lãng mạn và bút pháp hiện thực, giữa cảm hứng thiên nhiên vũ
trụ và cảm hứng lao động, Huy Cận đã sáng tạo ra những hình ảnh đẹp, bất ngờ,
dào dạt chất thơ...

Nội dung: Nghệ thuật đó góp phần làm nổi bật vẻ đẹp của hình ảnh đoàn thuyền ra
khơi đánh cá cũng như vẻ đẹp của người lao động những năm đầu xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Tấm lòng: Đằng sau những từ ngữ , hình ảnh đó là tình yêu tha thiết ,gắn bó máu
thịt mà Huy Cận dành cho biển quê hương. Từ đó bồi đắp trong ta tình yêu thiên
nhiên , yêu biển quê hương tha thiết và lòng tự hào về quê hương ,đất nước mình.

Kết bài:
"Đoàn thuyền đánh cá" của Huy Cận thực sự là một bức tranh lao động hoành
tráng, tràn ngập ánh sáng, sắc màu và sức sống mãnh liệt. Bài thơ là khúc ca ngợi
biển cả giàu đẹp và những người dân chài trong công cuộc xây dựng xã hội chủ
nghĩa do đảng và Bác Hồ chỉ đường dẫn lối. Chính điều đó đã mang lại thành công
cho Huy cận và bài thơ sức sống trường tồn cho bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”

Đề 2: Cảm nhận khổ thơ 3 bài thơ Đoàn thuyền đánh cá


“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng

Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lướt vây giăng”


Mở bài:

Tác giả: Huy Cận là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại VN,thơ ông dạt dào
niềm vui,là bài ca về cuộc đời,với tình yêu con người và cuộc sống mới.

Tác phẩm: Đoàn thuyền đánh cá là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông

VĐNL: Vẻ đẹp của cảnh đánh cá trên biển trong đêm trăng với niềm vui phấn khởi
của con người lao động thật hào hùng, mạnh mẽ và đầy chất thơ, chất họa đã khiến
người đọc vô cùng xao xuyến

Thân bài

LĐ1: Giới thiệu chung

Bài thơ được sáng táng vào năm 1958 .Đây là khổ thơ thứ 3 của bài thơ. Sau khi
giới thiệu đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong khung cảnh tráng lệ, kì vĩ, nhà thơ đã
đặc tả cảnh đánh cá người khơi. Khổ thơ là một nét vẽ tài hoa về biển trời, sông
nước, một khung cảnh biển đêm đẹp sống động, khoáng đạt, rực rỡ sắc màu. Trong
đó, con người hiện lên trong tư thế chủ động dạt dào niềm tin, niềm lạc quan yêu
đời. Đến khổ thơ này, bút pháp lãng mạn của Huy Cận đã phát huy hết sinh lực để
vẽ lên một khung cảnh kì vĩ, phóng khoáng mà con người là tâm điểm của bức
tranh ấy.

LĐ2: Đọc đoạn thơ ta say mê trước niềm cảm hứng say sưa, bài ca lao động
vẫn vang lên khỏe khoắn, ngợi ca cảnh đánh cá trên biển, dưới trời đầy trăng
sao khiến ta vô cùng ngưỡng mộ:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng”

Hai tiếng “thuyền ta" vang lên một cách đầy kiêu hãnh, tự hào. Xa rồi những ngày
áp bức, bóc lột làm thân nô lệ, làm kiếp ngựa trâu, bị coi như thứ tài sản, bị bóc lột
đến kiệt quệ sức lao động. Ta có làm mà không được hưởng. Còn giờ đây, ta thực
sự trở thành một công dân của Trong không không khí hào hứng phân khởi, say mê
người ngư dân đưa con thuyền vào cuộc chinh phục mới. Bút pháp lãng mạn khoa
trương đã biến con thuyền không phải chạy bằng động cơ máy móc mà bằng sức
mạnh của tự nhiên. Con thuyền ấy có gió làm bánh lái, trăng làm buồm. Trong
phút chốc, tầm vóc con thuyền trở lên lớn lao, kì vĩ sánh ngang cùng thiên nhiên vũ
trụ. Hình ảnh con thuyền hay chính là con người lao động với tầm vóc cũng rất lớn
lao. Con thuyền ấy không phải đi trên mặt biển mà như "lướt" giữa không gian
rộng với trời xanh bát ngát. Động từ "lướt" diễn tả đoàn thuyền không chỉ chạy
nhanh mà còn rất nhẹ nhàng. Vẻ đẹp của con thuyền chính là vẻ đẹp của người lao
động. Đoàn thuyền chạy nhanh diễn tả khí thế phơi phới của những con người lần
đầu tiên làm chủ cuộc đời. Họ không chỉ có sức mạnh mà tâm hồn họ còn vô cùng
vui tươi phấn khởi. Hình ảnh con thuyền mang kích thước khổng lồ đang hòa nhập
với thiên nhiên tạo nên một cảnh tượng kì vĩ. Dường như đây không phải là đoàn
thuyền trong cuộc đánh bắt cá mà đang trong cuộc du ngoại giữa chốn bồng lai tiên
cảnh.

LĐ3: Không chỉ vậy, tầm vóc của họ vụt cao lên, sánh ngang với biển trời, vũ
trụ, thực hiện công việc của mình bằng tất cả trí tuệ và năng lực gợi trong ta
bao cảm phục

“Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

Những người ngư dân với tâm hồn phơi phới đang làm chủ phương tiện của mình.
Họ lái những con thuyền ra khơi đâu còn quẩn quanh đánh bắt ven bờ. Đâu còn
những ngày chỉ có những trang thiết bị thô sơ thiếu thốn.Giờ đây họ đã có trong
tay những tranh thiết bị hiện đại để đánh bắt xa bờ.Với những phương tiện ấy,họ tự
tin tìm đến những nơi xa để "dò bụng biển". Nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ đã biến
lòng biển bao la trở thành "bụng biển". Nơi ấy chất chứa bao điều kì lạ, bí hiểm đòi
hỏi sự khám phá của con người. Nơi ấy cũng chứa đựng tài nguyên khoáng sản để
phục vụ cho công việc làm giàu đất nước. Bằng một động từ mạnh được sử dụng
liên tiếp nhà thơ đã giúp người đọc hình dung cảnh đánh bắt cá. Những ngư dân
giờ bước vào cuộc chiến mới. Ở đó, ngư trường là chiến trường, ngư cụ là vũ khí,
ngư dân là chiến sĩ. Tất cả trong tư thế hoàn toàn chủ động để dàn đan thế trận tấn
công vào cuộc chinh phục thiên nhiên.
Đánh giá:
Nghệ thuật: Bằng bút pháp khoa trương lãng mạn với những liên tưởng thú vị,
kết hợp hình ảnh ẩn dụ, nhân hóa, sử dụng nhiều động từ mạnh, đại từ"ta" đã vẽ
lên bức tranh khoáng đạt, rực rỡ sắc màu của biển .

Nội dung: Hình ảnh thơ thật lãng mạn, bay bổng và con người có tâm hồn cũng
thật vui vẻ, phơi phới. Công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá đã trở
thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên

Tấm lòng: Trân trọng công việc lao động nặng nhọc của ngư dân

Kết bài:

Tóm lại, với cảm hứng lãng mạn bay bổng, nhà thơ đã phác họa thành công hình
ảnh người lao động với niềm vui phấn khởi của họ trong cuộc sống mới. Đoạn thơ
có thể coi là một bản tráng ca anh hùng lao động tuyệt vời, thể hiện sự hài hòa giữa
thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước
sự hồi sinh của đất nước và cuộc sống mới trong công cuộc xây dựng cuộc sống
mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc Việt Nam trong những năm đầu lịch
sử.

Đề 3: Cảm nhận khổ 4 bài thơ Đoàn thuyền đánh cá.

Cá nhụ cá chim cùng cá đé,

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,

Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé.

Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.

Mở bài:

Tác giả: Huy Cận là cây bút xuất sắc của thơ ca hiện đại Việt Nam

Tác phẩm: Đoàn thuyền đánh cá

Vấn đề nghị luận: Bức tranh thiên nhiên biển đêm khiến ta vô cùng ấn tượng

Thân bài:

LĐ1: Giới thiệu chung


Năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ
chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại dồi dào trong
cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới.
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập thơ
“Trời mỗi ngày lại sáng”. Đoạn thơ là một khúc hát hào hứng, phấn khởi, say mê
của người dân lao động. Họ hát để ca ngợi biển cả, ca ngợi cuộc sống mới.

LĐ2: Hiện lên trong khổ thơ là bức tranh thiên nhiên phong phú, giàu có
khiến ta vô cùng ấn tượng

Cá nhụ cá chim cùng cá đé

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

+ Chỉ trong một câu thơ, Huy Cận đã liệt kê tên của ba loài cá( biện pháp liệt kê).
Thành ngữ dân gian thường có câu "Chim, thu, nhụ, đé" .Với thành ngữ đó, cha
ông muốn nói đến sự giàu có của biển Hạ Long. Huy Cận đã vận dụng sáng tạo
thành ngữ dân gian để biến thành câu thơ mềm mại và uyển chuyển. Với lời thơ
này, nhà thơ muốn khẳng định sự giàu có của biển Hạ Long. Đó là một vùng biển
phong phú với muôn loại cá

+ Nếu câu thơ trên Huy Cận liệt kê tên của nhiều loài cá thì câu thơ dưới tác giả
miêu tả cụ thê loài cá song. Nghệ thuật miêu tả kết hợp với thủ pháp so sánh giúp
người đọc hình dung hình ảnh những chú cá song với màu sắc rực rỡ. Trên mình cá
có màu hồng điểm xuyết màu đen. Màu hồng ấy khiến cho những chú cá như ngọn
đuốc. Từ những chấm màu đen, màu hồng trên thân cá, nhà thơ đã tạo nên một
hình ảnh tuyệt đẹp.Hình ảnh ấy vừa mang nghĩa tả thực, vừa giàu sắc thái biểu
cảm. Trong phút chốc, những chú cá song đã biến thành những ngọn đuốc sống
luôn luôn di chuyển càng làm cho biển lung linh huyền ảo.

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe

Đêm thở sao lùa nước Hạ Long

+ Hình ảnh trong thơ Huy Cận thường độc đáo, sáng tạo đến bất ngờ. Câu thơ này
cũng là một minh chứng cho điều đó. Huy Cận đã gọi những chú cá ấy là em -
tiếng gọi vô cùng thân thương trìu mến khiến cho cả đàn cá trở nên gần gũi với con
người hơn( nhân hoá).. Nhà thơ đã có cách miêu tả chuyển động của loài cá vừa
sinh động vừa thú vị. Đuôi cá quẫy trong nước biển khiến ánh trăng tan ra nên ta
có cảm giác đuôi cá quẫy trong ánh trăng. Khung cảnh trở nên vô cùng lung linh,
huyền ảo. Ánh trăng dát vàng trên mặt biển bao la. Mặt biển luôn sao động đối với
đuôi cá quẫy.Biết như vậy nhà thơ vừa miêu tả được vẻ đẹp giàu có của biển khơi,
vừa diễn tả được sức sống dồi dào, âm thầm điềm tàng trong lòng biển. Nếu như
khi hoàng hôn biển rực rỡ tráng lệ thì giờ đây biển trở nên huyền ảo lung linh.
Người đọc có cảm giác buâng khuâng khi đọc tiếp những lời thơ của ông.

+ Câu thơ cuối tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hóa để diễn tả thành công nhịp
sống của thiên nhiên vũ trụ. Khi vũ trụ đi vào sự nghỉ ngơi thì những ngọn gió,
những ngọn sóng trở thành nhịp thở của đêm. Giờ đây vũ trụ đang sống với nhịp
thở êm đềm. Lời thơ còn gợi sự liên tưởng thú vụ: Muôn ngàn vì sao lung linh trên
trời cao phản chiếu xuống mặt biển nhưng mặt biển không tĩnh mà luôn luôn
chuyển động. Qua dòng chảy của biển, ta thấy như sao đang lùa nước. Lời thơ còn
gợi ra một cách kiểu khác. Trên dòng chảy ấy có một thế giới sống động. Nhịp
sống ở đó đang tiếp diễn, đang sinh sôi. Trong nhịp thở êm đềm của biển đêm, con
người đang hăng say làm việc. Chứng kiến cảnh lao động ấy nên trăng và sao ở
trên trời cao cách mặt biển hàng nghìn dặm cũng sà xuống giúp người dân lùa cá
vào lưới. Thiên nhiên cũng như hòa nhập cùng với nhịp điệu lao động của con
người, nâng đỡ con người, giúp người lao động lùa cá vào lưới.

Đánh giá

Kết bài: …

Đề 4: Cảm nhận khổ 5,6 bài thơ Đoàn thuyền đánh cá

Sao mờ, kéo lưới trời sáng


Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng

Câu hát căng buồm với gió khơi,


Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi

Mở bài:
Tác giả:

Huy Cận là một trong số những gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam hiện
đại với những tác phẩm thơ dào dạt niềm vui về cuộc đời, mến yêu thiên nhiên,
con người và cuộc sống.

Tác phẩm

Bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá” của ông là một minh chứng về điều đó. Đó vừa là
một bức tranh đẹp đẽ, vừa là một khúc ca hào hùng về những người đánh cá trên
biển cả bao la của Tổ quốc.

VĐNL: Đọc tác phẩm, ta thật sự ấn tượng trước vẻ đẹp và mối giao hòa giữa con
người và thiên nhiên trên cái nền lộng lẫy, tráng lệ của vũ trụ biển cả qua khổ năm,
sáu.

Thân bài:

LĐ1: Giới thiệu chung:

“Đoàn thuyền đánh cá” được Huy Cận sáng tác vào năm 1958, trong chuyến đi
thực tế tại vùng mỏ Hòn Gai. Bài thơ là khúc tráng ca ca ngợi con người lao động
với tinh thần làm chủ và niềm vui, niềm tin trước cuộc sống mới trong những năm
đầu xây dựng đất nước. Bài thơ có tất cả là bảy khổ thơ miêu tả theo hành trình
một chuyến ra khơi từ hoàng hôn-đêm-bình minh. Hai khổ thơ đầu nói về cảnh
đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong bình minh, cùng với tiếng hát của các dân chài
thể hiện mong ước đánh nhiều cá và niềm tự hào về sự giàu có của biển; còn hai
khổ tiếp miêu tả lại hình ảnh người dân ra khơi với tư thế tầm vóc lớn lao ở biển
trong đêm làm ta cảm thấy thích thú. Nhưng điều khiến ta ấn tượng nhất chính là
tinh thần lao động hăng say của những người dân chài và lòng biết ơn bao la đối
với biển cả của họ ở khổ năm và sáu.

LĐ2: Với bút pháp lãng mạn, trí tưởng tượng phong phú của tác giả đã sáng
tạo nên những hình ảnh đẹp khiến công việc lao động nặng nhọc của người
đánh cá trở thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên đã khiến
người đọc vô cùng ngưỡng mộ

”Ta hát bài ca gọi cá vào


Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.”

Chất lãng mạn bao trùm cả bức tranh lao động, cả đoàn thuyền đánh cá. Người dân
chài cất tiếng hát tả lại công việc của mình với niềm vui yêu đời mãnh liệt, biến
khó khăn thành niềm vui. Lời cá gọi cá vào đã làm tăng thêm phần thơ mộng của
bức tranh sơn mài. Hình ảnh “gõ thuyền đã có nhịp trăng cao” là một hình ảnh vô
cùng sáng tạo và giàu chất thơ, trăng in bóng xuống nước, sóng vỗ vào mạn thuyền
“gõ nhịp” gọi cá vào. Những vần điệu độc đáo được dệt nên bằng cái nhìn tươi
tắn, lạc quan của tác giả đối với biển và con người thể hiện tình yêu lao động, khát
khao chinh phục thiên nhiên và ước mơ làm giàu, làm đẹp cho đời của những con
người lao động mới. Cảm xúc dâng trào, lời ca ngợi biển vang lên đây tha thiết :

“Biển cho ta cá như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta từ buổi nào.”

Biển không chỉ đẹp mà biển còn rất giàu, nguồn tài nguyên biển phong phú, đa
dạng mang lại hạnh phúc cho con người. Hình ảnh so sánh “như lòng mẹ” quen
thuộc là lời ca ngợi biển cả, thể hiện niềm tự hào của những người dân làng chài
đối với biển quê hương và ví biển nuôi sống con người như một người mẹ chăm
sóc, nuôi nấng bầy con, một giọng thơ tư nhiên chân thành ấm áp chứa chan tình
yêu thương và mang âm hưởng ca dao.

LĐ3: Sao mờ, đêm tàn cũng là lúc người dân chài kéo lưới kịp trời sáng. Cảnh
kéo lưới, bắt cá được miêu tả vừa chân thực, vừa đầy chất thơ với không khí
khẩn trương, gấp gáp khiến ta vô cùng ấn tượng

“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng

Ta kéo xoăn tay trùm cá nặng”

Với nhịp thơ dồn dập, câu thơ đã diễn tả chân thực thái độ và nhịp lao động đầy
khẩn trương của đoàn thuyền đánh cá. Hình ảnh “kéo xoăn tay” như tạc nên một
bức tượng ngư dân đầy sức sống, dáng người nghiêm minh trụ vững, dồn tất cả sức
mạnh vào đôi cánh tay cuồn cuộn kéo lưới căng, khỏe vô cùng đẹp đẽ. Hình ảnh
“chùm cá nặng” gợi tả thành quả lao động bội thu, cho thấy lưới có rất nhiều cá,
thỏa mong mỏi của ngư dân. Đồng thời hình ảnh ấy còn ảnh chứa bao niềm vui
tươi, sung sướng của người ngư dân trước thành quả mà họ đã tốn bao công sức
mới thu hoạch được và niềm say mê cống hiến, đóng góp những thành quả lao
động của mình cho đất nước. Lưới cá nặng được kéo lên, những tia nắng sớm
chiều trên khoang cá đầy làm lấp lánh đủ các màu sắc:

“Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”

Vẩy đuôi của những chú cá lấp lánh ánh bình minh rực rỡ. Những từ “bạc, vàng”
tạo cho câu thơ mang màu sắc lấp lánh, một mặt diễn tả sự giàu có của biển cả, mặt
khác cho thấy thái độ tôn trọng của những người đánh cá với những thành quả lao
động của mình. Đồng thời đó còn là niềm biết ơn của họ trước sự hào phóng, ưu ái
của biển cả đối với con người. “Đón nắng hồng” biểu hiện trạng thái sảng khoái,
phấn chấn của họ khi công việc thành công mỹ mãn. “Nắng hồng” không những
khắc họa được vẻ đẹp tươi sáng của bầu trời mà còn thể hiện được lòng yêu đời,
yêu thiên nhiên. Màu hồng của một ngày mới, một cuộc đời mới đang chào đón
mọi người.

Đánh giá:
Nghệ thuật: Như vậy, dưới cái nhìn của nhà thơ Huy Cận. cảnh đánh cá trên biển
đêm được miêu tả vừa hiện thực vừa lãng mạn. Trí tưởng tượng bay bổng cùng các
biện pháp ẩn dụ, nhân hóa, so sánh được sử dụng đầy sáng tạo
Nội dung: Nhà thơ như vẽ ra trước mắt người đọc khung cảnh lao động đầy hăng
say và hứng khởi của những ngư dân làm chủ biển khơi, làm chủ cuộc đời.
Tấm lòng: Chính tình yêu biển, tin yêu những người lao động đã chắp cánh thơ
Huy Cận bay bổng, cảm hứng về thiên nhiên, vũ trụ vẫn tràn trào mãnh liệt.

Kết bài

Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một khúc ca vừa hào hứng, vừa phơi phới và
khỏe khoắn, mạnh mẽ, kết hợp với sự vận động tuần hoàn của thiên nhiên, vũ trụ
khiến bài thơ bước khởi đầu trong cảm hứng mới về thiên nhiên đất nước và niềm
tin ở cuộc sống mới đang sôi động.

BẾP LỬA

_Bằng Việt_

Đề 1: Cảm nhận khổ thơ 1,2,3 bài thơ Bếp Lửa


Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói


Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!

Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa


Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

Mở bài: Công thức + Nêu vấn đề nghị luận

Bằng Việt là cây bút xuất sắc của thơ ca hiện đại Việt Nam. Bài thơ “Bếp lửa” là
một trong những sáng tác tiêu biểu của ông

VĐNL: Đọc bài thơ ta thật xúc động trước hình ảnh bếp lửa và những kỉ niệm về
tình bà cháu thiêng liêng sâu nặng trong khổ thơ 1,2,3

Thân bài

LĐ 1: Giới thiệu chung

Ông thường tập trung khai thác ở hai mảng đề tài cuộc chiến đấu của nhân dân ta
trong kháng chiến chống Mĩ và vẻ đẹp của con người giữa cuộc sống đời thường
với phong cách mộc mạc,tâm tình,giản dị
Bài thơ được sáng tác vào năm 1963 khi ông mới mười chín tuổi và đang du học ở
Liên Xô. Những năm tháng xa quê hương, xa gia đình nỗi nhớ luôn thường trực
trong ông chính là nỗi nhớ về người bà đáng kính. Qua dòng hồi tưởng và suy
ngẫm sâu sắc của người cháu đã trưởng thành, bài thơ gợi lên những kit niệm đầy
xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng
và biết ơn của người cháu đối với bà cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước.

LĐ2: Đến với bài thơ,hình ảnh bếp lửa –khơi nguồn nỗi nhớ đã để lại trong ta
bao suy nghĩ

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

+ Cụm từ “một bếp lửa” được lặp lại hai lần. Biện pháp điệp ngữ đã nhấn mạnh
hình ảnh bếp lửa luôn in đậm, hằn sâu trong trái tim Bằng Việt

+ Khi ở xa quê hương, ở xa đất nước, Bằng Việt vẫn nhớ mãi không nguôi về một
bếp lửa chờn vờn trong sương sớm

+ Nhớ về Bếp Lửa hồng ban mai, nhớ về Bếp lửa mà nhóm lên mỗi sáng, nhà thơ
lại nhớ đến tình bà chan chứa yêu thương ấp ủ, không chỉ gợi tả được bàn tay
người bà cần mẫn khéo léo nhen nhóm bếp lửa mà còn gửi được tấm lòng bà ấp ủ
yêu thương, che chở cho cháu

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa

+ Âm điệu lời thơ nhẹ nhàng tha thiết lắng sâu.Ngôn ngữ lời thơ giản dị không một
chút cầu kỳ hoa mỹ cùng với cách biểu cảm trực tiếp là diễn tả được nỗi nhớ
thương chân thành từ đáy lòng nhà thơ

+ Ẩn dụ nắng mưa đã gợi tả được cuộc đời vất vả cực nhọc lắm gian nan của cuộc
đời bà. Câu thơ đã thể hiện niềm đồng cảm nhưng thấu hiểu sâu sắc của nhà thơ về
cuộc đời bà với nỗi nhớ thương bà da diết không bao giờ nguôi ngoai

LĐ3 : Theo dòng hồi tưởng ấy người cháu trở về với kỷ niệm những năm
tháng tuổi thơ bên bà và kỉ niệm với bếp lửa khiến ta vô cùng ấn tượng

LUẬN CỨ 1: KỈ NIỆM LÊN BỐN TUỔI GIAN KHỔ THIẾU THỐN NHỌC
NHẰN ĐÃ ĐỂ LẠI TRONG TA BAO CẢM XÚC
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay

+ Cụm từ “ lên 4 tuổi” kết hợp điệp ngữ “ năm” nhấn mạnh mốc thời gian nạn
đói khủng khiếp trước cách mạng tháng Tám năm 1945. Bởi vậy gây ấn tượng
mạnh mẽ với cháu là cái đói , cái nghèo dai dẳng và mòn mỏi khắp chốn thôn quê

+ Nghệ thuật tách từ điệp ý “đói mòn đói mỏi” kết hợp đảo ngữ với hình ảnh đầy
ấn tượng “ khô rạc ngựa gầy” vừa phản ánh chân thực cuộc sống vừa gợi những
cảm xúc thật sâu sắc và đậm nét của người cháu về những năm tháng khốn khó của
cả dân tộc . Ẩn đằng sau mỗi lời thơ ấy là nỗi xót xa, đắng cay của cháu trước bao
nỗi cơ cực của người thân như một thước phim tư liệu gợi tả trước mắt người đọc
hình ảnh hàng triệu con người trong cảnh chết chóc tang thương

+ Ấn tượng và khó quên hơn cả với cháu lại là mùi khói bếp

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay

+ Khói hun nhèm mắt là khói từ củi ướt cay xè, từ Bếp Lửa của bao gia đình Việt
Nam lúc ấy. Nhà thơ đã lựa chọn được một chi tiết rất hợp lí để vừa miêu tả được
chân thực cuộc sống tuổi thơ , vừa diễn tả được những xúc động bâng khuâng, da
diết : “nghĩ lại đến giờ giờ sống mũi còn cay” cảm xúc hiện tại và kỷ niệm năm
xưa đồng hiện hòa lẫn vào nhau. Hai dòng thơ rất thực mà tràn ngập cảm xúc

+ Từ “mùi khói” ám ảnh làm cay mắt cháu, ta liên tưởng tự nhiên tới hình ảnh
người bà _ người nhóm bếp . Trong ký ức cháu bà và bếp lửa đã trở thành điểm tựa
tinh thần cho cháu cho người thân để bếp lửa của bà trong căn nhà xơ xát những
năm tháng đói khổ đã trở thành nơi quây quần nuôi dưỡng sự sống , là biểu hiện
của tình yêu thương chăm chút dành cho cháu . Ngọn lửa tình bà từ bếp lửa đã có
sức nâng đỡ tỏa sáng tuổi thơ cháu . Dù năm tháng qua đi nó vẫn đọng mãi và đánh
thức bao niềm xúc động ngậm ngùi mỗi khi nhớ về Bếp Lửa tuổi thơ bình dị thân
thương nhớ về người bà yêu quý

=> Bằng Việt có sức truyền cảm mạnh mẽ nhờ những chi tiết , ngôn ngữ giản dị
mà chân thực . “Bếp lửa“ kỷ niệm mới chỉ hơi thoang thoảng mùi khói đã đầy ắp
hình ảnh hiện thực thấm đẫm bao tình nghĩa sâu nặng

LUẬN CỨ 2: KHÔNG NHỮNG THỂ KỈ NIỆM HỒI LÊN TÁM TUỔI BÊN
BÀ CŨNG KHIẾN TA THẬT XÚC ĐỘNG

+ Đó là những năm tháng cháu sống trong sự cưu mang dạy dỗ của bà:

Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

+ Gợi khoảng thời gian 8 năm cháu nhận được sự yêu thương che chở bao bọc của

+ Tám năm ấy,cháu sống cùng bà vất vả khó khăn nhưng đầy tình yêu thương _
Bếp lửa hiện diện như tình bà ấm áp, hỗ dựa tinh thần, như sự cưu mang đùm bọc
chi chút của bà

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa


Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

+ Âm thanh của tiếng chim tu hú quen thuộc ở chốn đồng quê mỗi độ hè về cứ
vang vọng, réo rắc cuộn xoáy vào trong lòng của người con xa xứ. Âm thanh của
tú hú kêu được tái hiện trong những cung bậc và cảnh huống khác nhau: khi thì từ
cánh đồng xa vọng lại
+ Gợi lên một không gian rộng lớn, mênh mông và vắng lặng; khi thì lại rộn lên
khắc khoải, da diết khiến lòng người trỗi lại những hoài niệm xa xăm
+ Tiếng chim tu hú trở thành điệp khúc chủ âm của những dòng hoài niệm hồi tám
tuổi, có tác dụng khắc họa không gian sống vắng lặng, heo hút, mênh mông; lại
vừa gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn trống trải đến da diết, rợn ngợp

Mẹ cùng cha công tác bận không về


Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
+ Tuy nhiên, tuổi thơ của người cháu vẫn thấm đẫm tình cảm yêu thương, đùm bọc
cưu mang của người bà yêu quý.
+ “Mẹ và cha công tác bận không về” và hai bà cháu nương tựa vào nhau. Bên bếp
lửa, bà kể chuyện cho cháu nghe, bà bảo ban, dạy dỗ và chăm cháu học. Các động
từ: “bà bảo, bà dạy, bà chăm” đã diễn tả một cách sâu sắc và thấm thía tình yêu
thương bao la, chăm chút của người bà dành cho người cháu.

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,


Tu hú ơi! chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

+ Hình ảnh con chim tu hú xuất hiện tiếp tục ở cuối khổ thơ với câu hỏi tu từ “Kêu
chi hoài trên những cánh đồng xa?” _ một sáng tạo độc đáo của Bằng Việt nhằm
diễn tả nỗi lòng da diết của mình về tuổi thơ,về bà
+ Gợi hình ảnh chú chim đang lạc lõng, bơ vơ, côi cút, khát khao được ấp ủ, che
chở

+ Đứa cháu được sống trong tình yêu thương đùm bọc của bà đã chạnh lòng
thương con tu hú.Và thương con tu hú biết bao nhiêu tác giả lại biết ơn những ngày
được bà yêu thương chăm chút bấy nhiêu

Đánh giá:

Nghệ thuật: Bằng thể thơ tự do, giọng thơ tâm tình, thủ thỉ, hình ảnh bình dị mà
có ý nghĩa sâu sắc, ngôn ngữ bình dị mà giàu sức gợi, đặc biệt là điệp ngữ, câu hỏi
tu từ,...

Nội dung: Đoạn thơ đã diễn tả tình cảm bà cháu sâu sắc,mãnh liệt. Qua tình cảm
của người bà, ta thấy được những phẩm chất đáng quý của người phụ nữ Việt
Nam: tảo tần, chịu thương chịu khó, giàu tình yêu thương. Qua tình cảm của người
cháu, ta thấy được lẽ sống ân nghĩa thuỷ chung.

Tấm lòng: Và ta nhận ra tình cảm lớn lao hơn trong những vần thơ còn là thái độ
trân trọng tình cảm gia đình và lẽ sống ân nghĩa thuỷ chung của nhà thơ.

Kết bài:

Bài thơ Bếp lửa của nhà thơ Bằng Việt là một bài thơ hay của thi ca Việt
Nam.Qua đó ông đã thể hiện cái tài và cái tâm trong phong cách sáng tác của mình.
Đọc xong bài thơ mỗi chúng ta đều muốn được chạy về nhà để sà vào lòng bà để
mà được nghe bà hát ru trong những trưa hè oi ả.

Đề 2: Cảm nhận khổ thơ 4,5 bài thơ Bếp Lửa

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:

“ Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,

Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…

Mở bài:

Tác giả:

Bằng Việt_ cây bút xuất sắc của thơ ca hiện đại Việt Nam

Tác phẩm: “ Bếp lửa” là tác phẩm tiêu biểu của ông

VĐNL: Đọc khổ 4 và khổ 5 bài thơ, kỉ niệm tuổi thơ của người cháu và những
suy ngẫm về cuộc đời bà đã làm sống dậy trong tâm hồn ta bao cảm xúc

Thân bài:

LĐ1: Giới thiệu chung:


+ Bài thơ “ Bếp lửa” được sáng tác năm 1963, khi nhà thơ đang là sinh viên du học
ở nước ngoài

+ Qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ gợi lại
những kỉ niệm đầy xúc động về người bà, tình bà cháu đồng thời thể hiện lòng biết
ơn của cháu đối với bà và đối với gia đình, quê hương, đất nước

+ Sau dòng hồi tưởng về kỉ niệm năm lên 4 tuổi và những năm kháng chiến chống
Pháp trường kì bên bà, nhân vật trữ tình đã hồi tưởng về năm giặc đốt làng và hình
ảnh bếp lửa bà nhen qua khổ 4,5

LĐ2: Trước hết, qua dòng hồi tưởng về kỉ niệm tuổi thơ, ta thấy được sự khó
khăn, khổ cực của những năm giặc đốt làng và sự hi sinh, chịu khó của người
bà khiến ta vô cùng trân trọng

LUẬN CỨ 1: KỶ NIỆM CŨ NHƯ NHỮNG THƯỚC PHIM THỜI THƠ ẤU


TRÀN VỀ TRONG TÂM TƯỞNG CỦA NGƯỜI CHÁU:

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

+ Với những chi tiết thơ đậm chất hiện thực đã tái hiện lại sự khắc nghiệt, tàn ác
mà chiến tranh đem đến cho dân tộc: gia đình chia cắt, cha mẹ phải bỏ lại con cái
đi làm nhiệm vụ, nhà cửa bị phá huỷ,…

+ Thành ngữ “ cháy tàn cháy rụi” diễn tả ngọn lửa chiến tranh hung tàn, sự huỷ
diệt. Ngọn lửa đã thiêu rụi tất cả mọi vật mà nó đặt chân đến, ngọn lửa tàn ác của
giặc Pháp đã thiêu rụi toàn bộ nhà cửa, làng xóm, đem lại hình ảnh hoang tàn của
làng quê trong khói lửa chiến tranh. Và chính tác giả và người bà cũng là nạn nhân
của cuộc chiến tranh

+ Trong tình cảnh ấy, tình làng nghĩa xóm được tác giả miêu tả vô cùng ấm áp,
tràn đầy tình yêu thương. Những lúc như vậy, duy chỉ có tình làng xóm, tình cảm
giữa những con người cùng khổ, những con người cùng thấm thía được nỗi đau
thương của chiến tranh, là không bị hủy diệt. Họ đỡ đần nhau, đùm bọc nhau, cùng
nhau vượt qua những ngày tháng gian lao, vất vả.
=> Kỉ niệm người cháu hồi tưởng về chính là hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh
và đặc biệt, đó chính là tình làng nghĩa xóm ấm áp yêu thương đã xoá tan sự khắc
khổ của chiến tranh đem lại, tình người sẻ chia sớm hôm. Chiến tranh có thể huỷ
diệt những nơi mà nó đi qua nhưng cũng không thể huỷ diệt đi tình cảm yêu
thương giữa con người với con người, đó là thứ tình cảm bất diệt.

LUẬN CỨ 2: DÙ CHIẾN TRANH CÓ GÂY RA SỰ MẤT MÁT VÀ KHÓ


KHĂN THẾ NÀO, BÀ VẪN CHỊU THƯƠNG CHỊU KHÓ, CẶM CỤI LÀM
VIỆC CHỈ VÌ KHÔNG MUỐN CON MÌNH Ở CHIẾN KHU PHẢI LO
LẮNG CHO GIA ĐÌNH:

Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:

“ Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,

Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

+ Câu thơ da diết, đầy cảm xúc, chứa chan bao nhiêu tình cảm cao đẹp của bà. Đứa
cháu mỗi lúc một lớn dần, cháu dần dần hiểu được tình cảm của bà đó chính là: sự
hi sinh, tình yêu thương vô bờ, bản lĩnh trước khó khăn gian khổ để không muốn
con cái phải phiền lòng. Bà dặn cháu “ bố còn việc bố, mày viết thư chớ kể này, kể
nọ, bảo nhà vẫn bình yên”: gian khổ, khó khăn, thiếu thốn là thế nhưng bà vẫn một
lòng nghĩ cho con cái. Bà không muốn con cái phải lo lắng cho hoàn cảnh của
mình mà quên đi bản thân, quên đi nhiệm vụ nơi tiền tuyến xa xôi. Tấm lòng bà
yêu thương, dù nhớ thương con nhưng vẫn bản lĩnh, vượt lên khó khăn vì đứa cháu
nhỏ. Đó chính là sự ân cần, tấm lòng nhân hậu, tình yêu thương vô bờ bến, lặng
thầm hi sinh của bà tất cả là vì con cái, đứa cháu. Đó chính là vẻ đẹp của một
người phụ nữ, một người mẹ, một người bà!

+ Lời dặn dò của bà cũng thể hiện phẩm chất vô cùng cao quý: hi sinh tình riêng,
đặt tình chung lên trên hết. Bà hiểu được sự khắc nghiệt của chiến tranh, sự mất
mát của những gia đình, sự hi sinh của nhưng người chiến sĩ ngoài tiền tuyến nên
bà vẫn vững vàng trong thử thách, lặng lẽ cống hiến, bền gan vững chí là hậu
phương vững chắc cho tiền tuyến, góp một phần không nhỏ vào cuộc kháng chiến
chung của dân tộc. Đó chính là biểu hiện của tình yêu quê hương, đất nước!
=> Qua dòng hồi tưởng kỉ niệm năm giặc đốt làng của người cháu, ta cảm nhận
được sự tàn ác và khó khăn của chiến tranh đồng thời vô cùng trân trọng tình cảm
bất diệt giữa con người với con người. Đặt biệt là phẩm chất cao quý của người
phụ nữ Việt Nam: hi sinh thầm lặng, yêu thương con cái vô bờ và từ đó ta cũng
cảm nhận được tình yêu quê hương, đất nước tất cả xuất phát từ trái tim can đảm
và giàu tình yêu thương của con người.

LĐ3: Đặc biệt, giữa tro tàn của mất mát đau thương, bà vẫn nhóm lên bếp lửa
đầy tình yêu thương, đầy sức sống bền bỉ, tinh thần bất khuất khiến ta vô
cùng xúc động

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…

+ Hình ảnh bếp lửa rồi đến ngọn lửa đã trở thành biểu tượng mãnh liệt cho tình
yêu thương của 2 bà cháu. Tác giả ta đã cảm nhận được sự khó nhọc của người bà
khi ngày ngày nhóm bếp lửa . Bà luôn hi sinh cho con cháu, người thân!. Cụm từ
"Rồi sớm rồi chiều" kết hợp từ "lại" đã nhấn mạnh được sự vất vả của bà suốt năm
tháng. Dường như bà chỉ có một niềm vui duy nhất đó chính là chăm lo cho con
cháu mình. Qua đó bộc lộ được sự tảo tần, chịu thương chịu khó của bà đối với
niềm vui, sự hạnh phúc của người cháu

+ Điệp ngữ, ẩn dụ "một ngọn lửa" là sáng tạo nghệ thuật đắt giá của tác giả. Nó
nhấn mạnh sự sống dai dẳng bất diệt của ngọn lửa và ý nghĩa của tình yêu thương
mà người bà dành cho cháu. Ngọn lửa chính là hiện thân cho tâm hồn, nghị lực
sống phi thường của người bà. Vì thế, bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà
còn là người, truyền lửa cho người cháu cũng như là thế hệ mai sau. Bà tin cháu
mình sau này sẽ nên người và thành tài để xây dựng non sông đất nước. Đối với
người cháu thì bà mãi mãi là ngọn lửa hồng sáng bừng trong trái tim mình.

=> Bếp lửa được chuyển hoá thành ngọn lửa

+ Đó là ngọn lửa của tình yêu thương vô bờ bến, lửa của niềm tin bất diệt, lửa mà
bà thắp lên trong tâm hồn cháu để cháu biết sống ân tình ân nghĩa.
+ Ngọn lửa ấy còn là sức sống bền bỉ, tinh thần bất khuất của cả dân tộc

=> Tác giả rất yêu thương và kính trọng bà. Nhớ đến bà là nhớ đến quê hương.
Nhớ quê hương ở nơi xứ lạ, đó chính là tình yêu Tổ Quốc! Tình yêu thương và
lòng biết ơn bà chính là biểu hiện sâu sắc nhất của lòng yêu thương , gắn bó với gia
đình và đất nước. Đây cũng là khởi đầu của tình yêu đất nước, con người Việt
Nam.

Đánh giá:

Nghệ thuật: Thể thơ tự do, giọng thơ tâm tình thủ thỉ, hình ảnh đậm chất hiện thực
nhưng cũng rất bình dị, có ý nghĩa sâu sắc, ngôn ngữ bình dị mà giàu sức gợi, sử
dụng các BPTT như ẩn dụ, điệp ngữ,…

Nội dung: Đoạn thơ đã diễn tả được sự khốc liệt của chiến tranh và tình cảm bà
sâu sắc mãnh liệt. Qua tình cảm của người bà, ta thấy được những phẩm chất đáng
quý của người phụ nữ Việt Nam: chịu thương, chịu khó, tảo tần, giàu tính yêu
thương.

Tình cảm tác giả: Qua đó ta cũng thấy được lẽ sống ân tình ân nghĩa và sự biết ơn
của người cháu dành cho bà. Tác giả đã làm ta nhận ra rằng tình cảm bà cháu, tình
cảm gia đình làm nên những tình cảm lớn lao: tình yêu quê hương, đất nước, cội
nguồn.

Liên hệ: Tình yêu quê hương, đất nước

So Sánh: Tiếng gà trưa( Xuân Quỳnh) ( nếu muốn)

Kết bài:…

Đề 3: Cảm nhận khổ 6 bài Bếp Lửa

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa


Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ...
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!

Mở bài

Tác giả:

Bằng Việt thuộc thế hệ nhà văn trẻ được rèn luyện và trưởng thành trong thời kì kháng
chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ Bằng Việt trong trẻo, mượt mà, tràn đầy cảm xúc, đề tài
thơ thường đi vào khai thác những kỉ niệm, những kí ức thời thơ ấu và gợi những ước mơ
tuổi trẻ.

Tác phẩm

Năm 1963, Bằng Việt sáng tác bài thơ Bếp Lửa, một bài thơ có nhiều đặc sắc về giá trị
nghệ thuật và nội dung ,một bài thơ đầy xúc động và khơi gợi nhiều ý nghĩa.

VĐNL: Đến với khổ thơ thứ 6, những suy ngẫm sâu sắc của nhà thơ về bà và hình ảnh
bếp lửa thiêng liêng gợi cho ta bao xúc động.

Thân bài:
LĐ1: Giới thiệu chung

Bài thơ "Bếp lửa" được sáng tác năm 1963 khi nhà thơ đang là sinh viên du học ở nước
ngoài. Qua dòng hồi tưởng và suy ngẫm sâu sắc của người cháu đã trưởng thành, bài thơ
gợi lên những kit niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện
lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà cũng là đối với gia đình,
quê hương, đất nước. Sau dòng hồi tưởng về bà và bếp lửa, nhân vật trữ tình bộc lộ
những suy ngẫm sâu sắc về bà và bếp lửa bà nhen.

LĐ2: Đọc khổ thơ ta thật xúc động và trân trọng trước những suy ngẫm sâu sắc
của người cháu về cuộc đời bà.

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm


+ Từ láy lận đận được đặt ở đầu câu thơ trong phép đảo ngữ đã diễn tả được niềm
thương cảm của người cháu về cuộc đời bà phải trải qua nhiều bước thăng trầm, nhiều
gian khổ.

+ Thêm 1 lần nữa, ẩn dụ "biết mấy nắng mưa" kết hợp với biện pháp đảo ngữ đã làm nổi
bật cuộc đời vất vả, lận đận của bà. Cuộc đời bà đã trải qua bao biến thiên, thăng trầm.
Bà trải qua những năm đói kém cơ hàn của cả dân tộc; bà trải qua những năm kháng
chiến chống pháp trường kì; bà kiên cường trước những nỗi đau thương mất mát do tội
ác kẻ thù gây ra.

+ Cụm từ "mấy chục năm rồi” gợi quãng thời gian dài đằng đẵng, dằng dặc. Từ thuở
cháu còn thơ bé cho đến khi cháu khôn lớn, trưởng thành là một quãng thời gian đằng
đẵng và khoảng cách không gian giữa cháu và bà bây giờ là hàng vạn dặm. Trong không
gian, thời gian vời vợi đó, mọi điều đều có thể thay đổi chỉ duy nhất có một điều không
bao giờ thay đổi là bà vẫn dậy sớm nhóm bếp lửa hồng. Người cháu yêu biết bao người
bà của mình – một con người tảo tần, lo toan, chịu thương chịu khó, giàu tình yêu
thương. Âm điệu lời thơ chùng xuống lắng sâu 1 niềm thương cảm từ đáy lòng, 1 niềm
thấu hiểu đồng cảm pha chút xót thương. Vần thơ chứa đựng bao nhiêu nghĩa nặng tình
sâu, chứa đựng lòng cảm phục, sự biết ơn và tình yêu thương bà sâu sắc của người cháu.

LĐ3: Không những thế ,đọc khổ thơ ta còn trân trọng, xúc động biết bao trước suy
nghĩ sâu sắc của nhân vật trữ tình và bếp lửa bà nhen

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

+ Nét đặc sắc nhất về nghệ thuật của đoạn thơ là từ ‘nhóm’ được điệp lại 4 lần tạo giọng
thơ sâu lắng da diết như sự trào dâng của trái tim người cháu . Mỗi lần điệp ngữ nhóm lại
đem đến cho cho câu thơ theo ý nghĩa, sâu sắc

+ Bếp Lửa được nhóm lên bằng rơm hình ảnh bình dị mộc mạc ở làng quê. Hơn thế bếp
lửa còn được bằng nhóm lên bằng sự ấm áp, ấp iu của bà. Bà đã nhóm bếp lửa nồng
đượm để chăm bẵm nuôi dưỡng con cháu lớn lên. Bếp Lửa của bà đem đến cho mỗi
người vị ngọt của khoai sắn- những món ăn đậm hương vị quê hương. Từ đó nhóm lên
mỗi người niềm yêu thương, trân quý những gì mộc mạc bình dị của quê hương , nhóm
lên bếp lửa ấy người bà đã giúp cháu biết sống yêu thương ân nghĩa ,thủy chung. Tâm
thơ nhắc nhở cháu không bao giờ được quên đi những năm tháng nghĩa tình, những năm
tháng khó khăn gian khổ ở quê hương đất nước.

+ Bếp Lửa của bà nhóm lên mỗi sớm mỗi chiều thổi vào nồi gạo mới để bà con hàng
xóm quây quần, tụ họp . Lòng bà rộng mở với nồi xôi gạo mới mùa gặt, cùng tình cảm
xóm làng chia sẻ ngọt bùi. Đó là bếp lửa của lòng nhân ái, chia sẻ niềm vui chung. Bếp
lửa của bà nhóm dậy, khơi dậy tình đoàn kết, gắn bó với làng xóm, quê hương.

+ Nghĩ về bếp lửa mà đôi tay cần mẫn và khéo léo của bà nhen, tâm hồn cháu sống dậy
bao kí ức, bao kỉ niệm tuổi thơ ngọt ngào, trong trẻo để rồi khơi dậy, nhóm dậy, nuôi
dưỡng trong lòng cháu bao niềm yêu thương, bao ước mơ, hoài bão hướng về tương lai
phía trước. Bà là người nhóm lửa, giữ lửa, là biểu tượng cho lớp cha ông, truyền ngọn
lửa của lòng yêu đời, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp.

LĐ4: Đặc biệt, đọc khổ thơ, ta thật trân trọng trước ý nghĩa của hình ảnh bếp lửa
đặc biệt:

“Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”

+ Thán từ “ôi” được đặt ở đầu câu thơ trong phép đảo ngữ “Ôi kì lạ và thiêng liêng –
bếp lửa” cùng với âm điệu lời thơ lắng sâu đã diễn tả được niềm xúc động trào dâng từ
đáy lòng người cháu về bếp lửa thiêng liêng, kì diệu.

+ Hình ảnh bếp lửa là một ẩn dụ để chỉ tấm lòng người bà ấm áp nồng đượm. Nó không
chỉ diễn tả được tình bà cháu, tình cảm gia đình ấm áp mà còn chưa đựng trong đó một
niềm tình cảm sâu nặng với quê hương đất nước.

+ Từ hình ảnh bếp lửa, hình ảnh người bà hiện lên thật lớn lao đẹp đẽ, bà ko chỉ là người
nhóm lửa, người giữ lửa mà còn là người truyền lửa cho các thế hệ mai sau. Bếp lửa của
lòng bà đã nuôi dưỡng tâm hồn cháu, đã tỏa sáng và làm ấm áp cả cuộc đời người cháu.

Đánh giá

Nghệ thuật: Thể thơ tự do, giọng thơ tâm tình thủ thỉ, hình ảnh đậm chất hiện thực
nhưng cũng rất bình dị, có ý nghĩa sâu sắc, ngôn ngữ bình dị mà giàu sức gợi, sử
dụng các BPTT như ẩn dụ, điệp ngữ,…
Nội dung: Hình ảnh bếp lửa giống như tấm lòng bà ấm áp nồng đượm, thật thiêng
liêng và đáng trân trọng

Tấm lòng: Yêu thương, kính trọng bà

Liên hệ: Qua bài thơ, tác giả muốn gửi gắm cho các thế hệ chúng ta cần phải nhớ về cội
nguồn, nhớ về những nơi đã sinh ra ta khôn lớn, nhớ về những hình ảnh thiêng liêng bên
bếp lửa để giúp cho cuộc sống của chúng ta trở nên ý nghĩa hơn.

Kết bài

Bài thơ “Bếp lửa” đã thể hiện được tất cả tình yêu thương của Bằng Việt đối với người
bà kính yêu của mình. Chính tình cảm bà cháu thiêng liêng ấm áp đã đan dệt thành một
bài thơ xúc động và mang nhiều ý nghĩa.

Đề 4: Cảm nhận khổ cuối bài Bếp Lửa

Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,


Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
- Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?...

Mở bài:

Tác giả: Bằng Việt là cây bút xuất sắc của nền thơ ca hiện đại Việt Nam

Tác phẩm: “ Bếp lửa” là tác phẩm tiêu biểu của ông

VĐNL: Đọc bài thơ, ta thật xúc động trước nỗi nhớ bà da diết khôn nguôi của
nhân vật trữ tình trong khổ thơ cuối.

Thân bài:

LĐ1: Giới thiệu chung

+ Bài thơ “ Bếp lửa” được sáng tác năm 1963 khi nhà thơ đang là sinh viên du học
ở nước ngoài

+ Qua dòng hồi tưởng và suy nghĩ của người cháu đã trưởng thành, bài thơ gợi lại
những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng
kính yêu trân trọng và biết ơn của cháu đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê
hương, đất nước.

+ Sau những dòng hồi tưởng về bà và bếp lửa, nhân vật trữ tình đã bộc lộ những
suy ngẫm sâu sắc về bà và bếp lửa bà nhen từ đó bộc lộ tình cảm chân thành đối
với bà

LĐ2: Trước hết, hiện lên trong khổ thơ là sự thay đổi hoàn cảnh sống của
nhân vật trữ tình đã gợi trong lòng ta bao ấn tượng

Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

+ Điệp ngữ “ trăm, có” kết hợp biện pháp liệt kê “ ngọn khói, trăm tàu, lửa trăm
nhà, niềm vui trăm ngả” và hình thức câu thơ ngắt đôi, vắt dòng => những thay
đổi trong cuộc sống của người cháu

+ Những năm tháng ở bên bà, sống trong tình bà và bếp lửa bà nhen đã là kỉ niệm
trong hồi ức của người cháu, giờ đây, người cháu đã trưởng thành, chắp cánh bay
xa, đến chân trời mới. Cháu đã rời xa vòng tay bà, xa bếp lửa của quê hương để
bước trên con đường dài rộng của cuộc đời với bao điều mới lạ, hấp dẫn vẫy gọi.
Cuộc sống của người cháu giờ đây đã đầy đủ tiện nghi, tràn đầy niềm hạnh phúc
với những điều hiện đại, không còn sống trong tuổi thơ vất vả, nhọc nhằn với khói
hun nhèm mắt...

LĐ3: Thế nhưng, ta vô cùng xúc động là dù hoàn cảnh sống thay đổi nhưng
tình cảm cháu dành cho bà vẫn ấm áp, vẹn nguyên

Nhưng vẫn chẳng bao giờ quên nhắc nhở

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?

+ Đoạn thơ sử dụng biện pháp đối lập “ cuộc sống dù vui, đủ đầy, ngập tràn hạnh
phúc” nhưng cháu vẫn luôn nhắc nhở “ bà nhóm bếp lên chưa?”. Vậy là ở phương
trời mới, tràn ngập niềm vui nhưng cháu vẫn không nguôi nhớ bà, nhớ bếp lửa bình
dị mà thường ngày bà nhen, nhen lên hơi ấm, nhen lên tình yêu quê hương đất
nước trong tâm hồn người cháu. Bếp lửa của bà trở thành khái niệm ấm lòng, thành
niềm tin thiêng liêng, kì diệu nâng bước cháu trong suốt cuộc đời
+ Nói cách khác, niềm hạnh phúc lớn nhất trong cuộc sống người cháu không phải
là cuộc sống đầy đủ tiện nghi ở phương trời mới mà là được ở bên bà, có được tấm
lòng yêu thương, chăm sóc dạy dỗ bảo ban của bà. Những năm tháng sống bên bà
dù vất vả cực nhọc nhưng đó là niềm hạnh phúc lớn nhất của người cháu.

+ Khép lại khổ thơ là một câu hỏi tu từ “ Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
tạo giọng thơ tha thiết trầm lắng. Câu thơ có sức ám ảnh với người đọc và diễn tả
xúc động tấm lòng ân tình ân nghĩa của cháu đối với bà, với cội nguồn quê hương,
đất nước. Câu thơ như 1 lời tự nhắc nhở của người cháu: không được quên tình bà
ấm áp, thiêng liêng, không được quên bếp lửa bình dị mộc mạc mà ấm áp nghĩa
tình. Hơn thế, câu thơ còn là lời nhắc nhở hãy biết trân quý tình quê hương, trân
quý những năm tháng nhọc nhằn vất vả mà nghĩa tình sâu nặng ở quê hương. Cuộc
sống hiện đại càng đầy đủ tiện nghi thì càng phải biết trân quý những điều bình dị
ấy bởi chính nó đã nuôi dưỡng tâm hồn mỗi con người chúng ta

=>Vậy là mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa khơi nguồn mạch cảm xúc của bài
thơ, kết thúc cũng lại là hình ảnh bà nhen bếp lửa. Kết cấu đầu cuối tương ứng ấy
đã làm nổi bật được cảm xúc chủ đạo của toàn bài thơ
+ Bài thơ diễn tả sự kính yêu và biết ơn của người cháu đối với bà. Người bà nói
riêng, người phụ nữ trong gia đình nói chung luôn gắn với những gì gần gũi, thân
thiết nhất. Họ giữ cho nhịp sống tổ ấm được duy trì, là nơi bình yên để ta trở về sau
những thăng trầm của cuộc đời. Trong bóng hình bình dị ấy luôn ẩn chứa một trái
tim giàu lòng nhân ái để họ trở thành hiện thân của gia đình, quê hương, đất nước.

+ Đối với người cháu, nhớ bà cũng là nhớ quê hương, đất nước bởi cuộc đời bà là
hiện thân của cuộc đời dân tộc, những nét phẩm chất ở bà chính là 1 biểu hiện cụ
thể của tình yêu thương, sự gắn bó với gia đình, quê hương và cảm xúc chính là sự
khởi đầu của tình yêu thương con người, tình yêu đất nước. Từ tình cảm người
cháu, ta hiểu rằng: “ ta quên mất những điều bình dị mà thiêng liêng kì diệu như
bếp lửa của bà. Chỉ có tình cảm gắn bó, sống thuỷ chung mới khiến con người
không quên đi cội nguồn của mình

Đánh giá:

Nghệ thuật:

+ Thể thơ tự do, giọng thơ thiết tha trầm lắng


+ Hình ảnh bình dị mà sâu sắc, ngôn ngữ bình dị mà giàu sức gợi

+ Các biện pháp tu từ: đối lập, điệp ngữ,…

Nội dung: Đoạn thơ đã bộc lộ cảm xúc thiết tha sâu nặng của người cháu đối với
bà.

Tình cảm tác giả: Tác giả trân trọng, yêu thương người bà của mình vì đó là
người bà trong hồi ức của chính tác giả, từ đó gửi đến 1 thông điệp sâu sắc: những
điều bình dị thân thiết gắn bó với tuổi thơ mỗi người đều có ý nghĩa hết sức thiêng
liêng, luôn toả sáng nâng đỡ cùng suốt hành trình dài rộng của cuộc đời.

Liên hệ: Tình yêu quê hương đất nước, yêu từ những điều nhỏ nhặt bình dị xung
quanh bản thân mình

Kết bài: Tự làm

LÀNG

_ Kim Lân_

Đề 1: Cảm nhận nhân vật ông Hai qua cuộc trò chuyện với người con

Ông lão ôm thằng con út lên lòng, vỗ nhè nhẹ vào lưng nó, khẽ hỏi:

- Húc kia! Thầy hỏi con nhé, con là con ai?

- Là con thầy mấy lị con u.

- Thế nhà con ở đâu?

- Nhà ta ở làng chợ Dầu.

- Thế con có thích về làng chợ Dầu không? Thằng bé nép đầu vào ngực bố trả lời
khe khẽ:

- Có. Ông lão ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu lại hỏi:

- À thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai? Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành
rọt:
- Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm! Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng
trên hai má. Ông nói thủ thỉ:

- Ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ. Mấy hôm nay ru rú ở xó nhà, những lúc buồn
khổ quá chẳng biết nói cùng ai, ông lão lại thủ thỉ với con như vậy. Ông nói như để
ngỏ lòng mình, như để mình lại minh oan cho mình nữa. Anh em đồng chí biết cho
bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông. Cái lòng bố con ông là
như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai. Mỗi
lần nói ra được vài câu như vậy nỗi khổ trong lòng ông cũng vơi đi được vài phần.

( Trích “Làng”, Kim Lân- SGK Ngữ văn 9- tập 1- Trang


169,170)

( Trích “Làng”, Kim Lân- SGK Ngữ văn 9- tập 1- Trang 169,170)

Mở bài:

Tác giả:

Công thức mở bài

Tác phẩm: Truyện ngắn “ Làng” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông

VĐNL: Qua cuộc trò chuyện của ông Hai và con, truyện đã xây dựng thành công
nhân vật ông Hai để lại trong lòng ta biết bao cảm xúc.

Thân bài:

LĐ1: Giới thiệu chung:

Tác giả:

+ Kim Lân là cây bút xuất sắc của nền văn học hiện đại Việt Nam

+ Ông thường viết về đời sống sinh hoạt và hoàn cảnh của những người nông dân

+ Truyện ngắn “ Làng” được sáng tác vào năm 1948 trong thời kì đầu của cuộc
kháng chiến chống Pháp

+ Ông Hai là nhân vật chính góp phần bộc lộ chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Ông
Hai là một người nông dân sống ở làng Chợ Dầu, do chiến tranh nên ông phải đi
tản cư. Tác giả đã xây dựng những tình huống nhằm bộc lộ vẻ đẹp của nhân vật.
Qua đó, truyện ca ngợi tình yêu làng quê và lòng yêu nước cùng tinh thần kháng
chiến của người nông dân được tái hiện một cách chân thực, sâu sắc và cảm động

+ Nhân vật ông Hai được đặt vào các tình huống: nghe tin làng theo giặc và nghe
tin làng cải chính. Sau khi nhận được tin làng theo giặc, tác giả đã đặt nhân vật vào
cuộc trò chuyện với đứa con nhằm bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn của ông.

LĐ2: Trước hết, qua lời trò chuyện của ông Hai với đứa con, ta vô cùng trân
trọng trước tình yêu làng, sự thuỷ chung, nỗi nhớ làng da diết mà ông khắc
sâu trong tim.

+ Tác giả đã thắt nút cho câu chuyện qua chi tiết ông Hai khi nghe tin làng theo
giặc và đặt ông Hai vào tình huống bế tắc, éo le từ đó tâm trạng ông dồn nén, bế
tắc nên ông phải trút hết nỗi lòng, tâm sự với người con => dẫn dắt chi tiết khéo
léo

+ Vì đứa con còn nhỏ tuổi, thơ dại nên ông đã tâm sự với con mình nhằm vơi bớt
nỗi lòng. Ông khẽ hỏi thằng con út “ con là ai?” hoàn cảnh xuất thân của đứa con
và có nhắc tới làng Chợ Dầu_ quê hương của gia đình ông. Những câu hỏi mà ông
hỏi đứa con của mình thực chất chính là nỗi lòng của ông. Giờ đây, tâm trí của ông
chỉ hướng tới cái làng mà ông đã từng sinh sống. Sau khi nghe tin làng theo giặc,
ông cảm thấy phẫn nộ và thất vọng nhưng trái tim của ông đã gắn bó nơi cái làng
ấy suốt cả cuộc đời nên ông vẫn yêu làng da diết. Ông đã khẳng định với con “ nhà
ta ở làng Chợ Dầu” vì dù quê hương nơi ông từng sinh sống đã bị gắn lấy cái danh
“ Việt gian” nhưng ông muốn con vẫn không được phép quên quê hương, gốc gác
của mình. Đây chính là tình cảm gắn bó máu thịt, một lòng thuỷ chung với quê
hương của ông

=> Bằng lời nói giản dị, mộc mạc, cuộc đối thoại tưởng chừng chỉ là chi tiết vô
cùng bình thường nhưng nó lại mang ý nghĩa vô cùng sâu sắc, thiêng liêng. Đó
không chỉ đơn giản là một cuộc đối thoại mà cũng chính là cuộc độc thoại, là suy
nghĩ từ trong trái tim của ông. Những lời thoại của ông Hai đã bộc lộ rõ ràng, sâu
sắc về tình yêu mà ông dành cho quê hương, ông đã tự giãi bày nỗi lòng của chính
mình. Qua đó ta thấy được ông Hai là người gắn bó nghĩa tình với quê hương.
LĐ3: Đặc biệt, ông Hai còn là người có lòng yêu nước, tinh thần gắn bó với
kháng chiến, từ bỏ tình riêng vì lợi ích chung khiến ta vô cùng cảm động.

+ Dù tình yêu làng, sự gắn bó thuỷ chung với làng có sâu sắc đến đâu nhưng ông
vẫn quyết ủng hộ kháng chiến, ủng hộ Cụ Hồ. Ông đã hỏi đứa con “ Thế con ủng
hộ ai?” và lời nói mạnh bạo, rành rọt của thằng bé cũng chính là nỗi lòng và quyết
định của ông: “ Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!” Chính lời nói ấy đã thể hiện
tình yêu nước, gắn bó với kháng chiến sâu sắc của ông Hai. Ông lựa chọn: “Làng
thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Chính tinh thần cách mạng đã thay
đổi tư tưởng của một người nông dân như ông, giờ đây ông quyết ủng hộ kháng
chiến dân tộc. Ông đã gạt tình riêng sang một bên, ông đã từ bỏ tình yêu gắn bó,
thuỷ chung với làng vì chính cái làng mà ông gắn bó nghĩa tình suốt cuộc đời lại bị
đồn thổi khắp nơi là “ làng theo Tây”. Hoà lẫn trong tình yêu làng cũng chính là
nỗi thất vọng và phẫn nộ vì vậy ông quyết ủng hộ Cụ Hồ, ủng hộ cho cuộc kháng
chiến dân tộc. Chính lựa chọn ấy khiến ông vững vàng hơn và ông tin rằng chính
đồng bào và Cụ Hồ sẽ soi xét cho ông. Qua lời tâm sự của ông với đứa con, ông
hiện lên là một người nông dân có tình yêu nước mãnh liệt, tinh thần gắn bó dám
gạt tình riêng vì lợi ích chung

+ Lời tâm sự của ông đối với con không chỉ là vơi bớt đi đôi phần nỗi khổ trong
lòng mà con là một lời thề, một lời hứa về sự trung thành, mãi mãi ủng hộ kháng
chiến. Dẫu tình cảm riêng có cao cả, sâu sắc đến nhường nào thì tình yêu nước của
ông vẫn vô cùng bền chặt, thiêng liêng. Những lời tâm sự mà ông chia sẻ với con
không phải là muốn hỏi ý kiến, hỏi đường lối cho sự bế tắc, tuyệt vọng, cho nỗi
lòng của ông mà chính là muốn khẳng định và khắc sâu vào tim con tình yêu kháng
chiến. Không một giá trị tình cảm nào mạnh mẽ hơn tình yêu và sự đồng lòng ông
dành cho cuộc kháng chiến của dân tộc.

+ Có thể thấy trong cuộc trò chuyện với con, tâm trạng ông Hai được nhà văn diễn
tả chân thực sâu sắc và cảm động. Ông đã vô cùng xúc động vì thấy mình được sẻ
chia an ủi, được minh oan. Vì lòng ông trĩu nặng bao nỗi niềm. Ông không thể tìm
cho mình một chỗ dựa tinh thần vào lúc này nên ông tìm đến đứa con thơ ngây để
san sớt nỗi buồn qua lời tâm sự với con. Qua đó, ta cảm nhận được vẻ đẹp của
người nông dân thật thà chất phác ấy là một người yêu làng yêu nước, chân thực;
một tâm hồn ngay thẳng, yêu ghét rạch ròi. Ông Hai là điển hình của người nông
dân mới. Ở họ có sự hòa quyện giữa tình yêu làng, yêu nước và sự kháng chiến.
=> Qua lời tâm sự của ông với con, ta không chỉ thấy được tình yêu làng tha thiết
mà còn là tình yêu đất nước bền chặt, thiêng liêng, một lòng ủng hộ Cụ Hồ, ủng hộ
cho cuộc kháng chiến của dân tộc. Chính tình yêu nước, yêu cách mạng đã bao
trùm, chi phối cả tình yêu làng. Tình cảm gắn bó với cách mạng, với Bác Hồ của
những người nông dân như ông rất chất phác, mộc mạc, sâu sắc, nó xuất phát từ
đáy lòng, từ máu thịt.

Đánh giá:

Nghệ thuật: Lối kể chuyện giản dị, tự nhiên, ngôn ngữ mang tính khẩu ngữ. Ngòi
bút phân tích tâm lí sắc sảo.
Kết hợp hài hòa ngôn ngữ độc thoại, đối thoại
Hình ảnh, chi tiết giàu sức gợi.

Nội dung: Qua cuộc trò chuyện của ông Hai với đứa con của mình, tác giả đã lột tả
được vẻ đẹp của ông Hai đó chính là tình yêu sâu nặng dành cho làng quê, đó
chính là lời thề bền vững, thiêng liêng thuỷ chung gắn bó với kháng chiến, với
cách mạng, với Cụ Hồ và vượt lên trên tất thảy chính là tình yêu nước, gạt bỏ tình
riêng vì lợi ích chung của cả dân tộc, quyết không phản bội đất nước. Nhân vật ông
Hai là đại diện tiêu biểu cho những người nông dân Việt Nam trong cuộc kháng
chiến chống Pháp.

Tình cảm: Thái độ trân trọng, tình cảm của nhà văn dành cho nhân vật ông Hai

Liên hệ: Tình yêu quê hương, đất nước

Kết bài:…

Đề 2: Cảm nhận nhân vật ông Hai qua đoạn trích khi nghe tin làng theo Tây:

Ông Hai quay phắt lại lắp bắp hỏi:

- Nó… Nó vào chợ Dầu hở bác? Thế ta giết được bao nhiêu thằng? Người đàn bà
ẵm con cong môi lên đỏng đảnh:

- Có giết được thằng nào đâu. Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây còn giết gì
nữa. Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như
đến không thở được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, ông
cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi:

- Liệu có thật không hở bác? Hay là chỉ lại…

- Thì chúng tôi vừa ở dưới ấy lên đây mà lại. Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi cơ
ông ạ. Tây vào làng chúng nó bảo nhau vác cờ thần ra hoan hô. Thằng chánh Bệu
thì khuân cả tủ chè, đỉnh đồng, vải vóc lên xe cam nhông, đưa vợ con lên vị trí với
giặc ở ngoài tỉnh mà lại. Có người hỏi:

- Sao bảo làng chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà?…

- Ấy thế mà bây giờ đổ đốn ra thế đấy!

Ông Hai trả tiền nước, đứng dậy, chèm chẹp miệng cười nhạt một tiếng, vươn vai
nói to:

- Hà, nắng gớm, về nào…

Ông lão vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác, rồi đi thẳng. Tiếng cười nói xôn xao của
đám người mới tản cư lên ấy vẫn dõi theo. Ông nghe rõ cái giọng chua lanh lảnh
của người đàn bà cho con bú:

- Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó! Đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn
thương. Cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát!

Ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi. Ông thoáng nghĩ đến mụ chủ nhà.

Mở bài:

Tác giả:

+ Kim Lân là cây bút xuất sắc của nền văn học hiện đại Việt Nam

+ Ông thường viết về đời sống sinh hoạt và hoàn cảnh của những người nông dân

Tác phẩm: Truyện ngắn “ Làng” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông
VĐNL: Đọc đoạn trích, tình yêu làng yêu nước của ông Hai được thể hiện rõ nét
khi nghe tin làng theo Tây khiến ta vô cùng cảm phục

Thân bài:

LĐ1: Giới thiệu chung:

+ Truyện ngắn “ Làng” được sáng tác vào năm 1948 trong thời kì đầu của cuộc
kháng chiến chống Pháp

+ Ông Hai là nhân vật chính góp phần bộc lộ chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Ông
Hai là một người nông dân sống ở làng Chợ Dầu, do chiến tranh nên ông phải đi
tản cư. Tác giả đã xây dựng những tình huống nhằm bộc lộ vẻ đẹp của nhân vật.
Qua đó, truyện ca ngợi tình yêu làng quê và lòng yêu nước cùng tinh thần kháng
chiến của người nông dân được tái hiện một cách chân thực, sâu sắc và cảm động

+ Nhân vật ông Hai được đặt vào các tình huống: nghe tin làng theo giặc và nghe
tin làng cải chính. Sau khi nhận được tin làng theo giặc, tác giả đã đặt nhân vật vào
cuộc trò chuyện với đứa con nhằm bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn của ông.

LĐ2: Trước hết , nhân vật ông Hai được đặt trong tình huống hết sức bất ngờ,
éo le làm ta bao cảm xúc.

Tình cảm hồn hậu, chất phác của người nông dân.

Ông Hai là người nông dân có tình cảm gắn bó sâu nặng với làng quê:

+ Ông tha thiết yêu làng Chợ Dầu và rất tự hào về làng mình.

Ở nơi tản cư:

+ Luôn nhớ về làng và muốn về lại làng Chợ Dầu.

+ Thói quen sang bác Thứ để kể chuyện làng =>kể để nguôi đi nỗi nhớ làng.

+ Tự hào vì làng Chợ Dầu tham gia chiến đấu ủng hộ cách mạng.

Trong tâm trạng háo hức, vui sướng vì tin thắng trận ở nhiều nơi thì bất ngờ
ông nhận được tin dữ của người bà tản cư.
+ Ông Hai đang phấn khởi trước những tin tức thời sự thì nghe những người tản cư
bàn về làng Chợ Dầu. Ông quay phắt lại hỏi: “ta giết được bao nhiêu thằng?” =>
Câu hỏi cho thấy niềm tin vững chắc vào tinh thần cách mạng của làng mình.

+ Thì bỗng nhiên nhận được tin dữ từ người bà tản cư đỏng đảnh ẵm con : ‘Có giết
được thằng nào đâu. Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây còn giết gì nữa.’

=> Đó là tin đồn làng chợ Dầu mà ông vẫn tự hào đã làm Việt gian theo Tây.

LĐ3: Trong tình huống đó, ông Hai bộc lộ tình yêu làng yêu nước vô cùng sâu
sắc khiến ta càng thêm trân trọng.

+ Người nông dân ấy đã trải qua tâm trạng dằn vặt, đau đớn, phải tự đấu tranh với
chính mình để lựa chọn con đường đúng đắn. Từ tình huống có ý nghĩa thử thách ở
nội tâm nhân vật nhà văn đã mở ra biết bao cung bậc cảm xúc của một tấm lòng
yêu làng, yêu nước và những chuyển biến mới trong tâm hồn, tình cảm của người
nông dân này.

+ Lúc mới nghe tin làng mình theo giặc, ông Hai bàng hoàng đến sửng sốt "Cổ ông
lão nghẹn ắng hắn lại, da mặt tê rần rần, ông lão lặng đi đến không thở được. Một
lúc lâu, ông mới rặn è è như nuốt một cái gì vướng trong cô, ông cất tiếng hỏi,
giọng lạc hẳn đi".

=> Trạng thái bàng hoàng, hụt hẫng này là phản ánh tâm lý hết sức tự nhiên của
một người quá yêu làng. Nếu không yêu thì cái tin làng Chợ Dầu theo giặc không
thể gây chấn động mạnh tựa như một cú sốc tinh thần như thế với ông Hai.

+ Song, ông Hai vẫn còn nghi ngờ chưa thể tin ngay lời đồn đại, ông lắp bắp hỏi
lại: "Liệu có thật không hở bác, hay là chi lại ...". Ông hỏi lại để khẳng định cũng
là để cố bấu víu vào một tia hi vọng rằng đó chỉ là sự nhầm lẫn là một lời đồn đại
vô căn cứ. Nhưng khi cái tin được khẳng định từ những người tản cư thì ông Hai
không thể không tin.

+ Khi có người hỏi ông: “Sao bảo làng Chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà. Âý thế mà
bây giờ đổ đốn ra thế đấy.” Ô hai trả tiền nước, cười nhạt một tiếng: “Hà , nắng
gớm về nào” . Mục đích là lẳng tránh câu hỏi đó .

+ Khi vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác thì tiếng cười nói xôn xao của đám người tản
cư . Một trong số đó là giọng chua lanh của người bà đang cho con bú: “Cha tiên
sư .... mỗi đứa một nhát”
=> Ông tìm cách lảnh trốn , đánh trống lảng những lời nói về làng mà lủi thủi ra về
trong tâm trạng ông bị ám ảnh, thất vọng, đau đớn day dứt bởi mặc cảm khi là
người của làng Việt gian.

+ Nghe tiếng chửi bọn Việt gian bán nước "ông cúi gằm mặt xuống mà đi" ta nhận
thấy trong cái cúi mặt này biết bao xấu hổ, nhục nhã, đau đớn. Nỗi nhục khiến ông
không thể ngẩng đầu lên được. Rồi lại thoáng nghĩ đến mụ chủ nhà liệu có bị đuổi
đi khi là người của làng Việt gian bán nước

=> Với ông, danh dự của làng cũng là danh dự của chính ông. Đây là nét tâm lý
cộng đồng của người nông dân Việt Nam trong thời đại mới.

Đánh giá:

Nghệ thuật:

+ Lối kể chuyện giản dị, tự nhiên

+ Ngôn ngữ mang tính khẩu ngữ.

+ Ngòi bút phân tích tâm lí sắc sảo.


Kết hợp hài hòa ngôn ngữ độc thoại, đối thoại
+ Hình ảnh, chi tiết giàu sức gợi.

Nội dung:

Kim Lân đã miêu tả chân thực, sắc sảo diễn biến tâm trạng ông Hai. Qua đó, nhà
văn đã khám phá những nét đẹp nổi bật trong tâm hồn ô Hai cũng như nói đến
người nông dân Việt Nam:

+ Chất phác, nồng hậu, mộc mạc

+ Với nỗi đau khi nghe tin làng của ô Hai ta cảm nhận được lòng yêu làng, yêu
nước lại thêm mãnh liệt.

Tấm lòng: Thái độ trân trọng, tình cảm của nhà văn dành cho nhân vật ông Hai

Kết bài:

LẶNG LẼ SA PA

_ Nguyễn Thành Long_


Đề 1: Cảm nhận vẻ đẹp anh thanh niên

Mở bài

Tác giả:

Nguyễn Thành Long là một trong những cây bút văn xuôi xuất sắc trong nền văn
học hiện đại Việt Nam. Sở trường: chuyện ngắn và kí, giàu chất trữ tình, thể hiện
triết lý, suy ngẫm về con người và cuộc đời.

Tác phẩm: Lặng lẽ Sa Pa là tác phẩm xuất sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của
ông

VĐNL: Đến với tác phẩm, làm sao ta có thể quên được vẻ đẹp tâm hồn của anh
thanh niên, nhân vật chính của truyện.

Thân bài

LĐ 1: Giới thiệu chung:

+ Sáng tác năm 1970, kết quả của chuyến đi thực tế ở Lào Cai. Thời điểm miền
Bắc đang say sưa xây dựng chủ nghĩa xã hội, hậu phương cho tiền tuyến miền
Nam trường kỳ kháng chiến. Đây cũng là thời kỳ thanh niên cả nước đang thực
hiện 3 sẵn sàng.

+ Anh thành viên là nhân vật chính, góp phần thể hiện tư tưởng chủ đề tác phẩm.
Nhân vật anh thanh niên hiện ra để mọi người cảm nhận được rằng trong cái im
lặng của Sapa ta mà chỉ nghe tên đã nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, có những người
làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước.

LĐ2: Đến với tác phẩm, ta thật ấn tượng trước hoàn cảnh sống và làm việc
đầy khó khăn của anh thanh niên

+ Hoàn cảnh khắc nghiệt: sống trên núi cao hoang vu lạnh lẽo có cả tuyết

+ Công việc gian khổ nhiều thử thách: công tác khí tượng vật lý địa cầu (đo mưa,
đo chấn động mặt đất). Anh làm việc một mình trong những khoảng thời gian khắc
nghiệt, đòi hỏi sự tỉ mỉ chính xác

+ Đối mặt với nỗi cô đơn khủng khiếp: 4 năm chưa một lần về thăm nhà
+ Là “một trong những người cô độc nhất thế gian”

=> Thử thách lớn với một người trẻ tuổi như anh. Cách giới thiệu ấn tượng, tạo
cảm hứng cho người đọc.

LĐ3: Trong cuộc gặp gỡ trò chuyện với những người khách đến Sapa, ta thật
sự trân trọng trước vẻ đẹp của một con người say mê và có suy nghĩ đúng đắn
sâu sắc về công việc

+ Sống và làm việc một mình trên đỉnh núi Yên Sơn, anh không cảm thấy lẻ loi vì
công việc đem lại niềm vui, vì anh đã nhận thức đúng đắn về ý nghĩa của công việc
mình làm

+ Anh thanh niên tâm sự: “Khi ta làm việc, ta với công việc là một đôi, sao gọi là
một mình được”

=> Công việc đã thành một người bạn thân thiết, đồng hành cùng anh

+ Anh thanh niên cũng đã từng nói: “Công việc của cháu gian khổ thế đấy chứ cất
nó đi cháu buồn đến chết mất.” Trong suy nghĩ của anh, được làm việc, được lao
động là niềm vui, niềm hạnh phúc và động lực tinh thần để anh vượt qua sự buồn
tẻ trong cuộc sống

+ Anh trăn trở tìm ra mục đích sống của mình: “Mình sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu,
mình vì ai mà làm việc”. Với anh, sinh ra ở đâu phải góp sức mình làm giàu cho
nơi đó. Nhận thức đó cho thấy anh trẻ nhưng không hời hợt. Anh sống một mình
nhưng không cô đơn vì lẽ sống anh vẫn luôn luôn tồn tại và nhắc nhở anh thanh
niên luôn làm việc với tinh thần trách nhiệm cao

+ Công việc đơn điệu, thường phải dậy vào nửa đêm, ra ngoài trời trong mưa bão.
Anh có thể ở trong nhà nhưng anh không làm điều đó vì anh hiểu rõ công việc của
mình liên quan đến cuộc sống lao động và chiến đấu của nhiều người khác.

=> Tình yêu, ý thức trách nhiệm cao => Niềm vui, niềm khát khao cống hiến =>
Không bao giờ thấy cô độc

=> Mục đích sống đẹp của thế hệ 3 sẵn sàng

LĐ4: Anh thanh niên sống chân thành cởi mở hòa hợp, khao khát giao lưu với
mọi người khiến chúng ta vô cùng yêu mến
+ Ở một mình nên anh luôn khao khát được gặp gỡ và trò chuyện với người khác.
Anh đã từng tâm sự: “Con người thì ai chả “thèm” hả bác”, tựa như nỗi thèm
người để nói chuyện là vô cùng tự nhiên. Cũng vì thèm người nên anh đã nghĩ ra
việc lấy cây chặn đường xe chạy để được nói chuyện một lát với mọi người.

+ Anh biếu vợ bác lái xe mới ốm dậy một củ tam thất.

+ Anh tặng cô kỹ sự lên thăm "nhà" mình một bó hoa rõ to và đẹp, mời cô “cắt
hết” cả vườn hoa “nếu cô thích”.

+ Biếu những người khách một giỏ trứng để ăn trưa

+ Những lời tâm sự với các vị khách phương xa mới gặp lần đầu chân tình như
những người bạn lâu năm

LĐ5: Anh thanh niên còn rất ham học hỏi, chủ động làm phong phú cuộc sống
tinh thần khiến chúng ta ngưỡng mộ vô cùng

+ Dù ở một mình, anh không cảm thấy cô đơn vì lúc nào bên cạnh anh cũng có
sách. Ngoài giờ làm việc, trừ lúc chăm sóc vườn hoa và đàn gà, anh đọc sách.

+ Vì cô kĩ sư ông họa sĩ đến phòng của anh vẫn thấy quyển sách anh đang đọc dở
trên bàn học

+ Đọc sách, anh thấy như mình đang nói chuyện với những người bạn. Đọc sách
cũng là để mở mang kiến thức, cập nhật thông tin, khiến anh không lạc hậu.

=> Sách đã làm phong phú tâm hồn anh

LĐ6: Anh thanh niên còn là người có lý tưởng sống cao đẹp khiến chúng ta
trân trọng

+ Khi miền Bắc dốc sức hậu phương cho miền Nam đánh Mỹ, cũng như bao chàng
trai cô gái khác, anh viết đơn xin ra mặt trận. Thế nhưng vì yêu cầu của quê hương,
anh ở lại nhận một công việc ít ai biết đến. Anh dồn hết sức lực trí tuệ, hi sinh cả
tuổi thanh xuân để lao động và cống hiến. Đối với anh, hạnh phúc là làm được
nhiều việc có ích.

+ Anh luôn trăn trở về lẽ sống của mình có trách nhiệm về cuộc đời với quê hương
đất nước. Theo anh, đã là con người thì phải dốc sứ mình cho cuộc đời chung, cho
cuộc đấu tranh của dân tộc. Những trăn trở ấy làm ta cảm phục hơn lý tưởng sống
cao đẹp của anh thanh niên.

=> Đây chính là lẽ sống của một thế hệ thanh niên 3 sẵn sàng

LĐ7: Đặc biệt, ta vô cùng khâm phục trước sự khiêm tốn của anh thanh niên

+ Anh từ chối, xấu hổ khi ông họa sĩ muốn phác thảo chân dung mình

+ Giới thiệu cho ông họa sĩ những người khác đáng vẽ hơn: ông kỹ sư vườn rau,
anh kĩ sư sét…

Đánh giá:

Nghệ thuật:

+ Kể chuyện tự nhiên đan xen yếu tố tự sự miêu tả biểu cảm

+ Đặt nhân vật trong tình huống nhẹ nhàng đơn giản

+ Ngôi kể thứ 3 mang tính khách quan

+ Nhân vật không có tên riêng mà gọi tên theo giới tính, tuổi tác, nghề nghiệp.

+ Kết hợp giữa tự sự và trữ tình

+ Giọng kể chân thật, hồn hậu mà giản dị

+ Xây dựng truyện theo một trình tự tự nhiên trước – sau

=> Tài năng tinh tế của Nguyễn Thành Long.

Nội dung:

+ Cảm nhận trọn vẹn tâm hồn, phẩm chất của anh thanh niên: có lòng yêu nghề,
say mê và suy nghĩ sâu sắc về cuộc công việc, tự giác, tinh thần trách nhiệm cao,
cởi mở, biết làm giàu cuộc sống tinh thần của mình

=> Khắc họa bức chân dung chi tiết về một người thanh niên trẻ không sống phí
hoài, biết sống vì người khác và hết mình cồng hiến cho Tổ Quốc. Đó cũng là hình
ảnh tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam thời bấy giờ.
=> Chúng ta thêm yêu mến trân trọng những con người đang sống và cống hiến
thầm lặng cho đất nước

Tấm lòng: Tấm lòng thấu hiểu, ngợi ca, trân trọng cao độ của tác giả đối với một
thế hệ người đã sẵn lòng hi sinh công sức, tuổi trẻ, mồ hôi, nước mắt, xương máu
cho sự phát triển chung của dân tộc

Liên hệ: Thức tỉnh trách nhiệm với cuộc sống, tự tin với định hướng nghề nghiệp,
sống và làm việc có ích, có ý nghĩa với cuộc sống, quê hương, đất nước

Kết bài:

Khép trang sách lại, hình ảnh người thanh niên trong câu chuyện vẫn để lại trong ta
biết bao cảm xúc trân trọng và yêu mến. Bằng những án văn nhẹ nhàng, cuốn hút,
giàu chất trữ tình, tác giả Nguyễn Thành Long đã khéo léo đưa người đọc đến với
đỉnh núi Yên Sơn ngập tràn mây và gió, để tiếp xúc và hiểu được những con người
thật sự lí tưởng, để yêu thêm cuộc sống, yêu thêm công việc.“Lặng lẽ” mà lại
không lặng lẽ, tác phẩm của Nguyễn Thành Long đã để lại tiếng vang cho hôm
nay. Hy vọng, đó sẽ là những vang vọng trong tâm hồn của nhiều thế hệ thanh niên
mai sau.

Đề 2: Cảm nhận anh thanh niên trong đoạn trích sau:

Họa sĩ nghĩ thầm: “Khách tới bất ngờ, chắc cu cậu chưa kịp quét tước dọn dẹp,
chưa kịp gấp chăn chẳng hạn.” Ông rất ngạc nhiên khi bước lên bậc thang bằng
đất, thấy người thanh niên đang hái hoa. Còn cô kĩ sư chỉ “ô” lên một tiếng! Sau
gần hai ngày, qua ngót bốn trăm cây số đường dài cách xa Hà Nội, đứng trông
mây mù ngang tầm với chiếc cầu vồng kia, bỗng nhiên lại gặp hoa dơn, hoa thược
dược, vàng, tím, đỏ, hồng phấn, tổ ong… ngay lúc dưới kia là mùa hè, đột ngột và
mừng rỡ, quên mất e lệ, cô chạy đến bên người con trai đang cắt hoa. Anh con
trai, rất tự nhiên như với một người bạn đã quen thân, trao bó hoa đã cắt cho
người con gái, và cũng rất tự nhiên, cô đỡ lấy.

- Tôi cắt thêm mấy cành nữa. Rồi cô muốn lấy bao nhiêu nữa, tùy ý. Cô cứ cắt một
bó rõ to vào. Có thể cắt hết, nếu cô thích. Tôi không biết kỷ niệm thế nào cho thật
long trọng ngày hôm nay. Bác và cô là đoàn khách thứ hai đến thăm nhà tôi từ tết.
Và cô là cô gái thứ nhất từ Hà Nội lên tới nhà tôi từ bốn năm nay.
Người con trai nói to những điều đáng lẽ người ta chỉ nghĩ. Cũng là những điều ta
ít nghĩ. Việc ấy làm bác già và cô gái cảm động và cuốn hút ngay. Cô ôm bó hoa
vào ngực, bạo dạn nhìn thẳng vào mặt anh. Anh thanh niên bắt gặp cái nhìn đó,
phủi vội giọt mồ hôi trên sống mũi, mỉm cười, hạ giọng hỏi:

- Cũng đoàn viên, phỏng?

- Vâng - cô gái sẽ nói.

- Thôi, chấm dứt tiết mục hái hoa - Người con trai bất chợt quyết định - Bác lái xe
chỉ cho ba mươi phút thôi. Hết năm phút rồi. Cháu nói qua công việc của cháu
năm phút. Còn hai mươi phút, mời bác và cô vào nhà uống chè, cho cháu nghe
chuyện. Cháu thèm nghe chuyện dưới xuôi lắm. Công việc của cháu cũng quanh
quẩn ở mấy chiếc máy ngoài vườn này thôi. Những cái máy vườn trạm khí tượng
nào cũng có. Dãy núi này có ảnh hưởng quyết định với gió mùa đông bắc đối với
miền Bắc nước ta. Cháu ở đây có nhiệm vụ đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo
chấn động mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết hằng ngày, phục vụ sản xuất,
phục vụ chiến đấu. Đây là máy móc của cháu. Cái thùng đo mưa này, ở đâu bác
cũng trông thấy, mưa xong đổ nước ra cái cốc li phân mà đo. Cái này là máy nhật
quang ký, ánh sáng mặt trời xuyên qua cái kính này, đốt các mảnh giấy này, cứ
theo mức độ, hình dáng vết cháy vết cháy mà định nắng. Đây là máy vin, nhìn
khoảng cách giữa các răng cưa mà đoán gió. Ban đêm không nhìn mây, cháu nhìn
gió lay lá, hay nhìn trời, thấy sao nào khuất, sao nào sáng, có thể nói được mây,
tính được gió. Cái máy nằm dưới sâu kia là máy đo chấn động vỏ quả đất. Cháu
lấy những con số, mỗi ngày báo về “nhà” bằng máy bộ đàm: bốn giờ, mười một
giờ, bảy giờ tối, lại một giờ sáng. Bản báo ấy trong ngành gọi là “ốp”. Công việc
nói chung dễ, chỉ cần chính xác. Gian khổ nhất là lần ghi và báo về lúc một giờ
sáng. Rét, bác ạ. Ở đây có cả mưa tuyết đấy. Nửa đêm đang nằm trong chăn, nghe
chuông đồng hồ chỉ muốn đưa tay tắt đi. Chui ra khỏi chăn, ngọn đèn bão vặn to
đến cỡ nào vẫn thấy là không đủ sáng. Xách đèn ra vườn, gió tuyết và lặng im ở
bên ngoài như chỉ chực mình ra là ào ào xô tới. Cái lặng im lúc đó mới thật dễ sợ:
nó như bị chặt ra từng khúc, mà gió thì giống những nhát chổi muốn quét đi tất cả,
ném vứt lung tung… Những lúc im lặng lạnh cóng mà lại hừng hực như cháy. Xong
việc, trở vào, không thể nào ngủ lại được.
Mở bài:

Tác giả: Nguyễn Thành Long _ cây bút xuất sắc của truyện ngắn hiện đại Việt
Nam

Phong cách: Truyện của ông thường mang nét nhẹ nhàng, trong sáng, ngôn ngữ
giàu chất thơ

Tác phẩm: Lặng lẽ Sa Pa là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông

Vấn đề nghị luận: Đọc đoạn trích, ta thật sự ấn tượng trước vẻ đẹp của anh thanh
niên qua cái nhìn của ông họa sĩ, cô kĩ sư và lời tâm tình, trò chuyện của anh

Thân bài

LĐ1: Giới thiệu chung

+ Truyện ngắn “ Lặng lẽ Sa Pa” được sáng tác vào năm 1970 trong công cuộc xây
dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Truyện đã ca ngợi vẻ đẹp của những con người
lao động trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa và ý nghĩa của những công
việc lao động lặng thầm.

+ Anh thanh niên là nhân vật chính góp phần bộc lộ chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
Đó là một chàng trai hai mươi bảy tuổi làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu
trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600m. Khó khăn lớn nhất ở nơi đây không phải là thời
tiết khắc nghiệt mà là nỗi cô đơn _ thử thách của tuổi trẻ đầy sức sống. Chính anh
cũng cảm nhận được nỗi cô đơn, bơ vơ một mình, chính hoàn cảnh sống đó là một
thử thách rất lớn đối với tuổi trẻ sung sức, khát khao lao động.

LĐ2: Thế nhưng, ta thật trân trọng và cảm phục là trong hoàn cảnh khó khăn
ấy, anh thanh niên vẫn hiện lên là một người có lòng yêu đời, yêu cuộc sống,
tâm hồn phong phú lạc quan.

+ Qua suy nghĩ và cái nhìn của ông họa sĩ, anh thanh niên hiện lên là người có lối
sống vô cùng phong phú. Ông nghĩ thầm rằng cuộc sống của một anh thanh niên
trẻ sẽ vô cùng bừa bộn nhưng khung cảnh đầu tiên khi ông đặt chân tới nhà của
anh thanh niên đã khiến ông vô cùng ngạc nhiên. Ngôi nhà nhỏ xinh nằm giữa khu
vườn, tràn ngập hoa: “ hoa dơn, hoa thược dược, vàng, tím, đỏ, hồng phấn, tổ
ong…”, mặc dù tuy sống giữa nói rừng Sa Pa lạnh lẽo, quanh năm mây mù bao
phủ, không một bóng người nhưng lối sống của anh lại không hề tẻ nhạt, đơn thuần
mà rất đẹp, thơ mộng, đời sống tinh thần của anh rất phong phú. Đó không chỉ là
vườn hoa của thiên nhiên mà còn là vẻ đẹp của cuộc đời anh. Anh đã tô điểm cho
cuộc sống của mình thêm muôn sắc, muôn hương, tạo nên niềm vui đơn thuần
hằng ngày cho riêng mình. Đó chính là sự sung sức, sáng tạo của tuổi trẻ, luôn tìm
tòi ra cái mới giữa sự tẻ nhạt nhất mà không ai nhận ra, tô điểm cho tâm hồn thêm
phong phú, yêu đời hơn.

LĐ3: Không những thế, anh thanh niên còn là một người vô cùng cởi mở, hiếu
khách, biết trân trọng tình cảm của con người đã để lại trong ta bao yêu mến

+ Anh đã đón tiếp khách bằng sự niềm nở, vui tươi hiếm có. Anh rất tự nhiên như
đã quen thân, trao bó hoa mình cắt cho người con gái. Với những vị khách không
quen lần đầu tới mà anh đã đón tiếp bằng sự chân thành, niềm nở như những người
bạn rất thân thiết. Tác giả đã rất tài tình khi xây dựng chi tiết anh thanh niên tặng
bó hoa cho cô gái vì bó hoa đó chính là biểu tượng cho sự mới mẻ về cuộc đời và
cuộc sống tươi đẹp. Đó là bó hoa của niềm tin, tuổi trẻ nhiệt huyết sung sức cũng
chính là vẻ đẹp tâm hồn của anh thanh niên. Bó hoa ấy vô hình đã thể hiện được vẻ
đẹp của anh thanh niên đó là sự nhiệt huyết tuổi trẻ, tinh thần lạc quan yêu đời

+ Anh thể hiện thành ý của mình “ cô muốn lấy thêm bao nhiêu nữa, tùy ý”, “ có
thể cắt hết, nếu cô thích” . Đó chính là những thứ tô điểm cho cuộc sống của anh
thêm tươi đẹp hơn nhưng anh sẵn sàng trao đi cho người khác mà không ngần ngại,
từ những người xa lạ cũng như người đã quen thân, anh không hề tính toán mà cởi
mở, hiếu khách. Cô kĩ sư và bách họa sĩ đã rất bất ngờ trước sự nồng nhiệt của anh
và đem lòng cảm động, cuốn hút bởi anh mặc dù đây là lần gặp đầu tiên. Anh nói
ra những điều đánh lẽ người ta chỉ nghĩ, những điều người ta ít nghĩ. Chính sự
nồng nhiệt, vô tư của anh đã khiến cho ông họa sĩ và cô kĩ sư có cái nhìn mới về
những con người lao động thầm lặng, càng trân trọng tinh thần và nét đẹp của họ
hơn.

LĐ4: Đặc biệt, qua lời tâm sự của anh thanh niên, dù trong hoàn cảnh sống
khắc nghiệt nhưng anh vẫn là người có nhiệt huyết, yêu công việc, hết mình vì
công việc khiến ta thật sự cảm phục

+ Anh tính toán rõ ràng thời gian nói chuyện để anh có thể nghe chuyện dưới xuôi,
tâm sự về chuyện của bản thân mình, vì vậy chắc hẳn anh là một con người vô
cùng tỉ mỉ, đúng thời gian. Chính nét đẹp đó đã giúp anh rất nhiều trong công việc
vốn rất khó khăn, gian khổ của anh.

+ Anh làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu. Anh phải “ đo gió, đo mưa, đo
nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất vào việc sự báo thời tiết hằng ngày phục vụ
cho sản xuất, mục đích chiến đấu”, công việc của anh đòi hỏi độ tỉ mỉ cao vì phải
bắt buộc lấy số liệu vào “ bốn giờ, mười một giờ, bảy giờ tối, một giờ sáng”. Công
việc gian khổ, vất vả, tinh thần trách nhiệm cao vì “ gió tuyết và lặng im ở bên
ngoài như chỉ chực đợi mình ra là ào ào xô tới”. Không chỉ phải hứng chịu nỗi cô
đơn khi phải làm việc một mình trên đỉnh núi không một bóng người, mang tinh
thần trách nhiệm cao với công việc mà còn phải hứng chịu thời tiết, thiên nhiên vô
cùng khắc nghiệt.Đó quả là một khó khăn, thử thách lớn, sung sức đối với tuổi trẻ

+ Nhưng trong hoàn cảnh ấy, anh vẫn vô cùng yêu công việc của mình. Anh coi
công việc là bạn, là niềm hạnh phúc của bản thân. Anh tâm sự về công việc vô
cùng đam mê, chi tiết và hào hứng. Anh kể về máy móc đo mưa, đo chấn động mặt
đất,… rất tỉ mỉ và đầy hứng khởi. Mặc dù anh cảm thấy công việc thật sự rất khó
khăn nhưng anh đam mê, cháy hết mình với nó và hoàn thành trách nhiệm mà
mình đã lựa chọn và phải gánh vác. Anh nhận định rằng “ Công việc nói chung dễ,
chỉ cần chính xác”, dù trong sự khó khăn nhất anh vẫn tìm thấy niềm vui, niềm
động lực để có thể tiếp tục công việc của mình. Qua lời tâm sự của anh thanh niên,
anh không chỉ hiện lên là một con người có tinh thần trách nhiệm cao với công
việc mà còn là một người yêu nghề, coi công việc như là niềm hạnh phúc. Công
việc của anh gian khổ thật đấy nhưng đối với tuổi trẻ, sống mà không cống hiến,
làm việc sáng tạo thì đó quả là một bất hạnh lớn!!

Đánh giá:

Nghệ thuật:

+ Bằng lời kể tự nhiên chân thực, phương thức tự sự kết hợp nhuần nhuyễn với yếu
tố miêu tả, biểu cảm, tình huống truyện nhẹ nhàng, tự nhiên; ngôn ngữ giản dị; chi
tiết đẹp, giàu ý nghĩa, nhân vật được khắc họa qua lời nói, được đặt vào điểm nhìn
của các nhân vật khác

Nội dung:
Đoạn trích đã khắc họa được vẻ đẹp của anh thanh niên, đó là một người có lối
sống phong phú, niềm nở hiếu khách và tinh thân yêu công việc, có trách nhiệm
với công việc

Tình cảm tác giả: Ta thấy được sự trân trọng, ngợi ca của tác giả đối với những
con người lao động trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, đang âm thầm
cống hiến cho đất nước giống như nhân vật anh thanh niên

Thông điệp tác giả gửi gắm: Sống là để cống hiến, lạc quan yêu đời

Tình cảm độc giả: Qua đó ta vô cùng trân trọng, ngưỡng mộ trước những con
người vô danh đang âm thầm cống hiến cho đất nước

Liên hệ: Luôn biết cống hiến, yêu công việc mình đã chọn để cống hiến cho đất
nước, rèn luyện học tập để trở thành 1 công dân tốt, xây dựng đất nước

Kết bài: Tự làm

Đề 3: Cảm nhận anh thanh niên qua đoạn trích sau:

Anh hạ giọng, nửa tâm sự, nửa đọc lại một điều rõ ràng đã ngẫm nghĩ nhiều:

- Hồi chưa vào nghề, những đêm bầu trời đen kịt, nhìn kĩ mới thấy một ngôi sao
xa, cháu cũng nghĩ ngay ngôi sao kia lẻ loi một mình. Bây giờ làm nghề này cháu
không nghĩ như vậy nữa. Vả, khi ta việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một
mình được? Huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em, đồng chí
dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết
mất. Còn người thì ai mà chả “thèm” hở bác? Mình sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu,
mình vì ai mà làm việc? Đấy, cháu tự nói với cháu thế đấy. Bác lái xe đi, về Lai
Châu cứ đến đây dừng lại một lát. Không vào giờ “ốp” là cháu chạy xuống chơi,
lâu thành lệ. Cháu bỗng dưng tự hỏi: Cái nhớ xe, nhớ người ấy thật ra là cái gì
vậy? Nếu là nỗi nhớ phồn hoa đô hội thì xoàng. Cháu ở liền trong trạm hằng
tháng. Bác lái xe bao lần dừng, bóp còi toe toe, mặc, cháu gan lì nhất định không
xuống. Ấy thế là một hôm, bác lái phải thân hành lên trạm cháu. Cháu nói: “Đấy,
bác cũng chẳng “thèm” người là gì?”

Anh xoay sang người con gái đang một mắt đọc cuốn sách, một mắt lắng nghe,
chân cô đung đưa khe khẽ, nói:
- Và cô cũng thấy đấy, lúc nào tôi cũng có người trò chuyện. Nghĩa là có sách ấy
mà. Mỗi người viết một vẻ.

- Quê anh ở đâu thế? - Họa sĩ hỏi.

- Quê cháu ở Lào Cai này thôi. Năm trước, cháu tưởng cháu được đi xa lắm cơ
đấy, hóa lại không. Cháu có ông bố tuyệt lắm. Hai bố con cùng viết đơn xin ra lính
đi mặt trận. Kết quả: bố cháu thắng cháu một - không. Nhân dịp Tết, một đoàn các
chú lái máy bay lên thăm cơ quan cháu ở Sa Pa. Không có cháu ở đấy. Các chú lại
cử một chú lên tận đây. Chú ấy nói: nhờ cháu có góp phần phát hiện một đám mây
khô mà ngày ấy, tháng ấy, không quân ta hạ được bao nhiêu phản lực Mỹ trên cầu
Hàm Rồng. Đối với cháu, thật là đột ngột, không ngờ lại là như thế. Chú lái máy
bay có nhắc đến bố cháu, ôm cháu mà lắc “Thế là một - hòa nhé!”. Chưa hòa đâu
bác ạ. Nhưng từ hôm ấy cháu sống thật hạnh phúc. Ơ, bác vẽ cháu đấy ư? Không,
không, đừng vẽ cháu! Để cháu giới thiệu với bác những người khác đáng cho bác
vẽ hơn.

Mở bài:

Tác giả: Nguyễn Thành Long là cây bút xuất sắc trong nền văn học hiện đại Việt
Nam đề tài ông thường hướng tới là truyện ngắn và ký.

Tác phẩm: Truyện ngắn lặng lẽ SaPa là một trong những tác phẩm tiêu biểu của
ông.

VĐNL: Đọc tác phẩm, ta thật sự cảm phục trước lí tưởng sống cao đẹp, lòng yêu
nghề, yêu công việc cũng như tính khiêm tốn của anh thanh niên qua đoạn truyện:
"anh hạ giọng...những người khác đáng cho bác vẽ hơn".

Thân bài:

LĐ1: Giới thiệu chung:

Truyện Lặng lẽ Sa Pa được Nguyễn Thành Long sáng tác năm 1970. Tác phẩm xây
dựng từ một tình huống thật đơn giản. Với câu chuyện bàng bạc chất thơ, tác giả đã
đưa người đọc đến với Sa Pa thơ mộng để cảm nhận về những con người lặng lẽ
làm việc và lo nghĩ cho đất nước. Nhân vật chính trong truyện là anh thanh niên
làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu. Suy nghĩ và việc làm của anh thể hiện
một vẻ đẹp tâm hồn, một tính cách của thế hệ thanh niên. Có thể nói chất thơ của
truyện không chỉ ở những hình ảnh đẹp của thiên nhiên mà còn toát lên từ vẻ đẹp
tâm hồn nhân vật chính trong truyện – Anh thanh niên

LĐ2: Ấn tượng đầu tiên khi đến với đoạn trích, anh còn là người vô cùng gần
gũi, hoà đồng với tất cả mọi người khiến ta vô cùng ngưỡng mộ.

Điều đó được thể hiện trc tiên ở cảm giác thèm người khiến anh thanh niên đặt một
khúc thân cây chắn ngang đường để xe dừng lại và được gặp gỡ mọi người
+ Thể hiện tiếp qua sự tiếp đón , qtam nồng nhiệt tới mọi người
+ Anh gửi củ tam thất cho bác lái xe vì bác gái mới ốm dậy.

+ Lịch sự , nhã nhặn khi hái hoa tặng cô gái “ Anh con trai rất tự nhiên như với
một người bạn đã quen thân trao bó hoa đã cắt cho người con gái”

+ Gửi cho bác họa sĩ một cái làn với bao nhiêu là trứng.

=>Sự quan tâm bình dị, tự nhiên, thể hiện sự phồn hậu , nhiệt tình, tâm hồn rộng
mở, qtam đến mọi người
+ Nhiệt tình, cởi mở khi trò chuyện với mọi người “ nói to những điều đáng lẽ
người ta chỉ nghĩ”
+ Phân chia thời gian để trò chuyện, uống chè và nghe chuyện dưới xuôi “ thèm
nghe chuyện xưới xuôi lắm”
+ Kể một cách tỉ mỉ về công việc của mình
LĐ3: Không những thế , anh thanh niên còn là một người yêu nghề, yêu công
việc , có tinh thần trách nhiệm khiến ta vô cùng thán phục.

+ Vượt qua những khó khăn, thử thách để hoàn thành công việc đó là vượt qua nỗi
cô đơn, sự khắc nghiệt của thời tiết Sa Pa
+ Ý thức rõ ràng về ý nghĩa của việc mình làm dựa vào việc báo trước thời tiết
hằng ngày, phục vụ chiến đấu , phục vụ cơm nước
=>Đóng góp vào những công việc lớn lao của đất nước.
=>Không giấu được niềm vui, niềm hạnh phục khi có một chú ở cơ quan thông báo
“ nhờ anh góp phần phát hiện một đám mây khô mà ngày ấy , tháng ấy, không
quân ta hạ được bao nhiêu phản lực Mĩ trên cầu Hàm Rồng”.
=>Không quản thử thách
+ Coi trọng và xem công việc là niềm vui - Khi ta làm việc ta với công việc là đôi
công việc của nhau gắn liền với nhau. Sau anh em đồng chí dưới kia là công việc
của cháu gian khổ thế đấy , chứ cất nó đi cháu buồn đến chết mất
=>Công việc trở thành một người bạn gần gũi , đồng cảm , chia sẻ
=>Công việc là niềm vui cho rằng nỗi nhớ xe, nhớ người , nhớ phồn hoa để gợi là
xuân có ý nghĩa là công việc cao hơn tất cả, phải là người có lòng yêu nghề mới có
thể có những quan điểm như thế.
+ Tình yêu công việc xuất phát từ sự ý thức sâu sắc về ý nghĩa của công việc mình
làm và sự gắn liền với mọi người “công việc của cháu gắn liền với mọi đồng chí
dưới kia”, “mình sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc” .Việc công
việc đó liên quan mật thiết tới nhiều người, tạo sự kết nối chặt chẽ giữa anh em
đồng chí nên anh thanh niên lại càng gắn bó chân trong công việc hơn
LĐ4 :Bên cạnh đó, anh thanh niên còn là ng có tinh thần ham học hỏi, trau
dồi kiến thức khiến ta vô cùng cảm phục.

Người thanh niên hiếu khách cũng rất khiêm tốn. Anh ngượng ngùng khi thấy ông
họa sĩ già phác thảo chân dung của mình mình vào cuốn sổ tay. Anh giới thiệu cho
ông những người đáng để vẽ hơn mình: ông kỹ sư ở vườn rau dưới Sapa vượt qua
bao khó khăn vất vả để tạo ra những củ su hào to hơn, ngon hơn cho nhân dân toàn
miền Bắc. Anh cán bộ khí tượng ở dưới trung tâm suốt 11 năm năm chuyên tâm
nghiên cứu vào thiết lập bản đồ sét:” nửa đêm mưa gió rét buốt, mặc, nghe sét là là
đồng chí choáng choàng chạy ra. Như thể 11 năm… có cái bản đồ ấy thì lắm của
lắm bác ạ. Của chìm nông, chìm sâu trong lòng đất đều có thể biết, quý giá lắm. Sở
dĩ anh có cách suy nghĩ và hành động như thế là vì anh yêu mến, tự hào về mảnh
đất quê hương:” trong cái lặng im của Sapa, dưới những dinh thự cũ kĩ của Sa Pa,
SaPa mà chỉ nghe tên, người ta đang nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, có những con
người làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước. yêu con người, yêu cuộc sống,
quê hương, đam mê công việc… tình cảm ấy đã trở thành sức mạnh, thành điểm tựa
để anh thanh niên trông coi trạm khí tượng, hăng say làm việc và học tập.

LĐ4: Thế nhưng điều đáng trân trọng và cảm phục là anh thanh niên đã vượt
qua hoàn cảnh khó khăn, gian khổ ấy bằng lý tưởng sống cao đẹp
+ Anh đã cùng những người khác xin đi lính, đi mặt trận, muốn tham gia trực tiếp
vào cuộc chiến đấu dân tộc, thậm chí sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc.
+ Lý tưởng + công việc khiến anh thanh niên vượt qua bao khó khăn khắc nghiệt
của công việc và và cả nỗi cô đơn để để làm công tác khí tượng hàng năm trên đỉnh
Yên Sơn Sơn cao 2600m. Sự sự cống hiến, hi sinh thầm lặng: “ mình sinh ra làm
gì…”-> con người phải gắn liền với cội nguồn, đặt trong mối quan hệ với mọi
người nên phải sống đúng với cội nguồn đó.
LĐ5: Cuối cùng, anh thanh niên còn là người có lòng khiêm tốn khiến cho
người đọc vô cùng cảm phục
+ Sống vất cả, lặng thầm cống hiến nơi mảnh đất SaPa, anh đã có những cống hiến
quan trọng cho đất nước, thế nhưng người thanh niên ấy luôn cảm thấy những
đống góp của mình nhỏ bé so với người khác

+ Phát hiện người họa sĩ có ý định vẽ mình, anh từ chối: “ Không, không, đừng vẽ
cháu!” “ Để cháu giới thiệu với bác những người khác đáng vẽ hơn”. Anh cảm
thấy những việc làm của mình quá nhỏ nhặt so với ông kĩ sư vườn rau, anh kĩ sư
nghiên cứu sét_ những người âm thầm nhiệt huyết cống hiến cho đất nước. Bằng
lời kể tự nhiên, chân thành của anh thanh niên, tác giả đã làm nổi bật đức tính
khiêm tốn nơi con người anh

Đánh giá:

Nghệ thuật: Bằng một cốt truyện khá nhẹ nhàng ,những chi tiết chân thực tinh tế,
ngôn ngữ đối thoại sinh động

Nội dung: Nguyễn Thành Long đã kể lại một cuộc gặp gỡ tình cờ mà thú vị nơi Sa
pa lặng lẽ.

Tấm lòng: Qua đoạn trích trên, tác giả cũng cảm phục những con người dành cả
thanh xuân để cống hiến phục vụ khánh chiến với nhiều phẩm chất tốt đẹp.

Liên hệ: qua tác phẩm, tác giả còn muốn nhắn nhủ tới chúng ta:

+ Luôn nhớ về quê hương, đất nước

+ Luôn yêu vào công việc mà mình đã chọn


+ Rèn luyện, học tập để trở thành 1 công dân tốt, XD đất nước ngày một tươi đẹp
hơn

Kết bài:

Qua đoạn trích trên đã ca ngợi những con người lặng lẽ làm việc và cống hiến cho
Tổ quốc, thì nhân vật anh thanh niên là tiêu biểu, là trung tâm. Anh thanh niên
cũng như bao người khác với công việc lặng lẽ của mình đã làm nền tảng của cuộc
sống. Chính anh cũng như bao nhiêu người lao động bên ngoài cuộc sống vượt khó
khăn, say mê cống hiến là những người làm nên vẻ đẹp muôn màu của cuộc đời
mới. Công việc của anh, thái độ sống của anh, suy nghĩ, tâm hồn anh góp một phần
làm nên chất thơ trong trẻo của tác phẩm. Và nên chăng gọi anh là anh hùng thầm
lặng với chiến công thầm lặng mà người đọc cảm nhận đầy trân trọng!

CHIẾC LƯỢC NGÀ

_Nguyễn Quang Sáng_

Đề 1: Cảm nhận nhân vật bé Thu trong văn bản Chiếc Lược Ngà

Mở bài:

Tác giả:

Nguyễn Quang Sáng là nhà văn của Nam Bộ, ông viết nhiều về cuộc sống và con
người của Nam Bộ trong cuộc chiến tranh chống Mỹ với giọng văn nhẹ nhàng tình
cảm sâu lắng và những tình huống truyện đầy éo le của dân tộc.

Tác phẩm:
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được sáng tác năm 1966 khi tác giả đang hoạt động
ở chiến trường Nam Bộ và được đưa vào tập truyện cùng tên, là truyện ngắn xuất
sắc nhất của ông. Truyện ca ngợi tình cảm cha con, tình đồng chí đồng bào trong
chiến tranh của người dân Nam

VĐNL: Qua đoạn truyện, người đọc vô cùng ấn tượng trước nhân vật Bé Thu_
một cô bé dễ thương cá tính

Thân bài:

LĐ1: Giới thiệu chung:

“CLN” ra đời vào năm 1966, khi cả nước, đặc biệt là miền Nam đang gồng mình
trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, có quá nhiều sự mất mát hi sinh. Hiện thực khốc
liệt đó đã in dấu vào tác phẩm CLN. Thông qua câu chuyện của 2 cha con ông Sáu,
tác giả thể hiện chân thực, cảm động vẻ đẹp thiêng liêng của tình phụ tử và những
nỗi đau thương mất mát của người dân Nam Bộ trong chiến tranh.

LĐ 2: Trước hết, ta vô cùng thương xót cho hoàn cảnh thiệt thòi của bé Thu

+ Bé Thu có hoàn cảnh đặc biệt. Từ lúc sinh ra cho đến khi 8 tuổi, em chưa một lần
được gặp mặt ba, chỉ biết đến ba qua tấm hình chụp chung với má. Khi ba trở về,
vì có vết sẹo dài trên mặt nên em ko nhận ba.

+ Lúc em nhận ra người ba yêu quý của mình thì cũng là lúc mà em phải nói lời
chia xa ba

+ Được hưởng hạnh phúc quá ít ỏi.

LĐ3: Người đọc còn vô cùng ấn tượng bởi cá tính mạnh mẽ, bướng bỉnh
nhưng cũng rất ngây thơ, hồn nhiên của bé Thu

+ Khi gặp ông Sáu ở bến xuồng, nghe tiếng gọi tên mình, Thu “giật mình tròn mắt
nhìn”. Nó ngơ ngác, lạ lùng, mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: “má,
má”.
3 ngày nghỉ phép:
+ Thu xa lánh ông Sáu trong lúc ông tìm cách vỗ về, gần gũi. Thu nhất quyết
không chịu gọi tiếng ba.
+ Má doạ đánh, Thu bộc phải gọi ông Sáu vô ăn cơm, gọi chắt nước cơm nhưng lại
nổi trổng.
+ Bác Ba nói mẫu nhưng Thu vẫn không gọi.
+ Bị dồn vào thế bí, nó nhăn nhó muốn khóc nhưng tự lấy rá chắt nước chứ không
chịu gọi “ba”.
+ Thu đã hất tung cái trứng cá ra mâm, cơm văng tung toé bị đòn, không khóc,
chạy sang nhà bà ngoại, cố ý khua cho dây xuồng kêu thật to.
=> Bé Thu thật là bướng bỉnh, cứng đầu và gan lì. Đến bác Ba cũng phải nghĩ “con
bé đáo để thật”, còn ông Sáu thì không nén được: “Sao mày cứng đầu quá vậy?”.
=> Chính thái độ ương ngạnh, ngang bướng đó lại là biểu hiện tuyệt vời của tình
cha con. Lý do nó không nhận ba thật đơn giản, trẻ con, bất ngờ mà hợp lý.

LĐ4: Tình yêu thương ba của bé Thu cũng khiến ta thật xao xuyến và cảm
động

+ Trong tâm trí em, ba là 1 ng đàn ông trẻ đẹp. Thế nên khi thấy anh Sáu có vết sẹo
dài trên má, em nhất quyết ko chịu nhận ba.

+ Dành trọn vẹn trái tim cho người ba trong tấm ảnh, ko chấp nhận ng nào khác
ngoài ba.

+ Khi nghe bà kể về vết sẹo trên gương mặt anh Sáu, em nằm lăn lộn ko yên, thở
dài => day dứt, ân hận

+ Tình cha con của ông đã trở lại vào thời khắc ngắn ngủi nhất, đem lại cho người
đọc nỗi xúc động nghẹn ngào nhất.
+ Trong cái ngày trước khi ông Sáu lên đường vào chiến khu, con bé cùng ngủ với
bà ngoại. Trong đêm ấy, bà đã giảng giải cho nó nghe, phân tích cho nó hiểu. Con
bé đã biết được rằng ông Sáu chính là cha mình. Nó cũng hiểu vết sẹo ghê sợ trên
mặt ông là vết thương của ông trong chiến đấu. Sau khi hiểu được nguồn gốc lai
lịch vết sẹo trên mặt cha, con bé lăn lộn suốt một đêm không ngủ được. Có lẽ nó
hối hận lắm vì đã từng đối xử không tốt với ông. Lúc này, không chỉ yêu cha, nó
còn rất thương ba nữa.
+ Người đọc đã chứng kiến một cuộc chia tay cảm động sáng hôm sau, trước khi
cha nó lên đường Thu cũng có mặt trong buổi đưa tiễn cha nhưng lại mang tâm
trạng hoàn toàn khác trước: “Nó không bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa, vẻ
mặt nó sầm lại buồn rầu”. Khi đối diện với ông Sáu, “đôi mắt mênh mông của con
bé bỗng xôn xao”. Người đọc cảm nhận được đằng sau đôi mắt mênh mông, xôn
xao ấy đang xáo động biết bao tình cmả.
+ Tiếng gọi ba vỡ oà từ sâu thẳm trong tâm hồn bé bỏng của nó. Sự khao khát tình
cha con lâu nay bị kìm nén bỗng bật lên. Bắt đầu là tiếng thét “Ba…a…a ba”, tiếng
gọi thân thương, tiếng gọi ông Sáu chờ đợi suốt 9 năm ròng, cuối cùng ông cũng
được nghe.
+ Thế rồi “nó vừa kêu vừa chạy xô tới… dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó”. Nó
hôn khắp người ông Sáu, hôn cả vết sẹo dài trên má ông, cái vết sẹo trước kia nó
ghê sợ và cảm thấy xấu xí vô cùng. Đến bây giờ, hiểu được vì sao cha có vết sẹo,
Thu thương cha nó lắm. Hành động của em như muốn xoa dịu nỗi đau đã gây ra
cho cha. Sau khi nghe ông Sáu nói: “Ba đi rồi ba về với con”, bé Thu thét lên:
“Không!”, hai tay ôm chặt lấy cổ cha, 2 chân cấu chặt người nga. Em khóc vì
thương cha, vì ân hận đã không phải với cha, vì không biết đến bao giờ mới được
gặp lại cha. Lúc này tất cả hành động của Thu đều gấp gáp dồn dập, trái hẳn lúc
dầu.
+ Trong tâm hồn cô bé, tình yêu với cha đã có sự thay đổi. Ngoài tình yêu còn có
tình thương rồi cao hơn cả là niềm tự hào vô bờ bến, niềm kiêu hãnh vô cùng vì
người cha chiến sĩ, người cha hy sinh tuổi thanh xuân, cống hiến cả cuộc đời cho
cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Giờ đây người cha ấy lại tiếp tục đi theo con
đường vinh quang mà cả dân tộc ta đang đi.

Đánh giá:

Nghệ thuật:

+ Xây dựng tình huống truyện bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí


+ Xây dựng cốt truyện khá chặt chẽ, lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp.
Truyện được kể theo ngôi thứ nhất,đặt vào nhân vật bác Ba,người bạn chiến đấu
của ông Sáu và cũng là người chứng kiến, tham gia vào câu chuyện.
+ Miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế và sâu sắc, nhất là đối với nhân vật bé
Thu.
+ Ngôn ngữ truyện mang đậm chất địa phương Nam Bộ.
Nội dung: Truyện đã khắc họa được vẻ đẹp cũng như hoàn cảnh éo le của nhân vật
bé Thu. Em là một cô bé cá tính, dễ thương, có tình yêu thương ba tha thiết

Tấm lòng: Bày tỏ niềm trân trọng, yêu thương nhân vật

Kết bài:

Đề 2: Cảm nhận nhân vật ông Sáu trong văn bản Chiếc Lược Ngà

Mở bài:

Tác giả:

Nguyễn Quang Sáng là nhà văn của Nam Bộ, ông viết nhiều về cuộc sống và con
người của Nam Bộ trong cuộc chiến tranh chống Mỹ với giọng văn nhẹ nhàng tình
cảm sâu lắng và những tình huống truyện đầy éo le của dân tộc.

Tác phẩm:

Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được sáng tác năm 1966 khi tác giả đang hoạt động
ở chiến trường Nam Bộ và được đưa vào tập truyện cùng tên, là truyện ngắn xuất
sắc nhất của ông. Truyện ca ngợi tình cảm cha con, tình đồng chí đồng bào trong
chiến tranh của người dân Nam

VĐNL: Qua đoạn truyện, người đọc vô cùng xúc động và yêu mến trước nhân vật
ông Sáu_ một người cha yêu thương con, một người lính yêu nước

Thân bài:

LĐ1: Giới thiệu chung:

“CLN” ra đời vào năm 1966, khi cả nước, đặc biệt là miền Nam đang gồng mình
trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, có quá nhiều sự mất mát hi sinh. Hiện thực khốc
liệt đó đã in dấu vào tác phẩm CLN. Thông qua câu chuyện của 2 cha con ông Sáu,
tác giả thể hiện chân thực, cảm động vẻ đẹp thiêng liêng của tình phụ tử và những
nỗi đau thương mất mát của người dân Nam Bộ trong chiến tranh.
LĐ2: Đến với đoạn trích ta thực sự xót xa và thấu hiểu cho hoàn cảnh gian
khổ mà ông Sáu đã phải trải qua

+ Là nhân vật chính

+ Do chiến tranh, ông Sáu liên tục phải đi kháng chiến, sau gần 8 năm mới được về
thăm nhà. Vì có vết sẹo dài trên mặt nên con gái không chịu nhận ba.

+ Trước giờ phút chia tay, khi 2 cha con vừa nhận ra nhau thì cũng là lúc ông Sáu
phải đi xa.

+ Trở lại đơn vị, vừa làm xong chiếc lược ngà cho con thì hi sinh.

=> Đặt nhân vật vào tình huống éo le -> làm nổi bật tình yêu con tha thiết mãnh liệt
và nỗi đau thương mất mát của con người trong chiến tranh

LĐ3: Không những thế ta còn rất trân trọng và cảm phục ông Sáu _ người
chiến sĩ dũng cảm giàu lòng yêu nước

+ Tham gia cả 2 kháng chiến chống Mĩ và chống Pháp


+ Thời kháng chiến chống Pháp, ông đã dũng cảm chiến đấu, vết sẹo dài trên
gương mặt ông là chứng tích ghi dấu sự khốc liệt của chiến tranh.
+ Tiếp tục ở lại miền Nam làm nhiệm vụ
+ Thời kháng chiến chống Mĩ, ông cùng đồng đội kiên cường bám trụ.
+ Trong 1 trận càn lớn, ông hi sinh.
+ Hi sinh hạnh phúc của riêng mình để tham gia kháng chiến, bảo vệ đất nước.
LĐ4: Đặc biệt người đọc còn rưng rưng xúc động trước tình yêu con tha thiết
mãnh liệt của ông Sáu

+ Khi về thăm nhà, luôn khao khát được gặp con, lao vào ôm con đầu tiên

+ Trong 3 ngày nghỉ phép, ông ko đi đâu xa, luôn ở bên cạnh con.

+ Tha thiết mong tiếng gọi ba từ con.

+ Khi con cương quyết ko chịu gọi, ông đau đớn tột cùng, quá bất lực, nhìn con khẽ
lắc đầu cười.
+ Luôn chăm sóc con, gắp cho con trứng cá => cử chỉ chứa đầy tình yêu thương

+ Lúc chia tay, nhìn con với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu. Khao khát ôm con, hôn
con nhưng sợ con bỏ chạy nên đành thôi

+ Xúc động khi nghe con gọi ba, ôm con và rơi những giọt nước mắt của niềm hạnh
phúc

+ Trở lại đơn vị, ông dồn hết tâm trí vào làm chiếc lược ngà cho con gái, tẩn mẩn
khắc từng nét chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Tình yêu con thiết tha đã giúp
ông từ 1 người lính chỉ quen việc cầm súng đã trở thành 1 nghệ nhân xuất sắc mà
kiệt tác chính là cây lược ông dành tặng con.

+ Trong giờ phút cuối cùng, khi sức càn lực kiệt, ông vẫn gắng sức trao lại chiếc
lược cho người bạn với ánh mắt thiết tha.

=> Chi tiết đặc sắc, giàu ý nghĩa khẳng định tình yêu con của ông.

+ Chiếc lược ngà bé nhỏ là biểu tượng đẹp đẽ cho tình yêu con tha thiết, sâu nặng,
kết tinh cả tình yêu, nỗi nhớ và niềm khao khát mãnh liệt được gặp lại con, được
trao món quà cho con, được tự tay cầm chiếc lược chải mái tóc của con.

=> Sức mạnh diệu kì, thiêng liêng của tình phụ tử.

Đánh giá:

Nghệ thuật:

+ Xây dựng tình huống truyện bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí


+ Xây dựng cốt truyện khá chặt chẽ, lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp.
Truyện được kể theo ngôi thứ nhất,đặt vào nhân vật bác Ba,người bạn chiến đấu
của ông Sáu và cũng là người chứng kiến, tham gia vào câu chuyện.
+ Miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế và sâu sắc, nhất là đối với nhân vật bé
Thu.
+ Ngôn ngữ truyện mang đậm chất địa phương Nam Bộ.

Nội dung: Truyện đã khắc họa được vẻ đẹp cũng như hoàn cảnh éo le của nhân vật
ông Sáu. Đó là một người ba hết lòng yêu thương con đồng thời cũng là người lính
hi sinh tình riêng để đặt tình chung lên trên hết, bảo vệ quê hương đất nước
Tấm lòng: Bày tỏ niềm trân trọng, yêu thương, đồng cảm với nhân vật

Kết bài:

Đề 3: Cảm nhận tình phụ tử trong giây phút chia tay giữa ông Sáu và bé Thu

Ðến lúc chia tay, mang ba lô lên vai, sau khi bắt tay hết mọi người, anh Sáu mới
đưa mắt nhìn con, thấy nó đứng trong góc nhà.

Chắc anh cũng muốn ôm con, hôn con, nhưng hình như cũng lại sợ nó giẫy lên lại
bỏ chạy, nên anh chỉ đứng nhìn nó. Anh nhìn nó với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu.
Tôi thấy đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao.

- Thôi! Ba đi nghe con!

- Anh Sáu khe khẽ nói.

Chúng tôi, mọi người - kể cả anh, đều tưởng con bé sẽ đứng yên đó thôi. Nhưng
thật lạ lùng, đến lúc ấy, tình cha con như bỗng nổi dậy trong người nó, trong lúc
không ai ngờ đến thì nó bỗng kêu thét lên:

- Ba... a... a... ba!

Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe
thật xót xa. Ðó là tiếng “Ba” mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm, tiếng “Ba”
như vỡ tung ra từ lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó
chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó.

Nó vừa ôm chặt lấy cổ ba nó vừa nói trong tiếng khóc:

- Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!

Ba nó bế nó lên - nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả
vết thẹo dài bên má của ba nó nữa.

Trong lúc đó, ngoại nó cho tôi biết, đêm qua, bà đã tìm hiểu được vì sao nó không
chịu nhận ba nó. Bà hỏi:

- Ba con, sao con không nhận?

- Không phải - đang nằm mà nó cũng giẫy lên.

- Sao con biết là không phải? Ba con đi lâu, con quên rồi chứ gì?

- Ba không giống, cái hình ba chụp với má,

- Sao không giống, đi lâu, ba con già hơn trước thôi.

- Cũng không phải già, mặt ba con không có cái thẹo trên mặt như vậy.

À ra vậy, bây giờ bà mới biết. Té ra nó không nhận ba nó vì là cái vết thẹo, và bà
nó cho biết, ba nó đi đánh Tây bị Tây bắn bị thương - bà nhắc lại tội ác mấy thằng
Tây ở đồn đầu vàm cho nó nhớ. Nghe bà kể nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại
thở dài như người lớn. Sáng hôm sau, nó lại bảo ngoại đưa nó về. Nó vừa nhận ra
thì ba nó đã đến lúc phải đi rồi.

Trong lúc đó, nó vẫn ôm chặt lấy ba nó. Không ghìm được xúc động và không
muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước
mắt, rồi hôn lên mái tóc con:

- Ba đi rồi ba về với con.

- Không!

- Con bé hét lên, hai tay nó xiết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ
được ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó, và đôi vai nhỏ bé của nó
run run.

Nhìn cảnh ấy, bà con xung quanh có người không cầm được nước mắt, còn tôi
bỗng thấy khó thở như có bàn tay ai nắm lấy trái tim tôi. Tôi bỗng nảy ra ý nghĩ,
muốn bảo anh ở lại vài hôm. Nhưng thật khó, chúng tôi chưa biết mình sẽ đi tập
kết hay ở lại. Chúng tôi cần về đúng ngày, nhận lệnh để kịp chuẩn bị. Thế là đến
lúc phải đi rồi, mọi người phải xúm lại vỗ về nó, mẹ nó bảo:

- Thu! Ðể ba con đi. Thống nhất rồi ba con về.

Bà ngoại nó vừa vuốt tóc nó vừa dỗ:

- Cháu của ngoại giỏi lắm mà! Cháu để ba cháu đi rồi ba sẽ mua về cho cháu một
cây lược.

Con bé lại ôm chầm ba nó một lần nữa và mếu máo:

- Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba!

- Nó nói trong tiếng nấc, vừa nói vừa từ từ tuột xuống.

Mở bài:

Tác giả:

Nguyễn Quang Sáng là nhà văn của Nam Bộ, ông viết nhiều về cuộc sống và con
người của Nam Bộ trong cuộc chiến tranh chống Mỹ với giọng văn nhẹ nhàng tình
cảm sâu lắng và những tình huống truyện đầy éo le của dân tộc.

Tác phẩm:

Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được sáng tác năm 1966 khi tác giả đang hoạt động
ở chiến trường Nam Bộ và được đưa vào tập truyện cùng tên, là truyện ngắn xuất
sắc nhất của ông. Truyện ca ngợi tình cảm cha con, tình đồng chí đồng bào trong
chiến tranh của người dân Nam

VĐNL: Đọc truyện ngắn, người đọc xúc động về tình phụ tử của cha con ông sáu
đặc biệt được thể hiện qua giây phút chia tay trong đoạn trích: “Đến lúc chia tay ...
đến khi tụt xuống”
Thân bài:

LĐ1: Ông Sáu và bé Thu là 2 nhân vật chính góp phần bộc lộ chủ đề tư tưởng
của tác phẩm.

Theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, ông Sáu tạm gác tình riêng, xa nhà, xa vợ,
xa mẹ già, xa đứa con thơ chưa đầy 1 tuổi để lên đường chiến đấu trong suốt 8 năm
trời. Ông luôn đau đáu nỗi nhớ gia đình, đjăc biệt là nhớ thương con. Còn bé Thu
cũng nhớ thương ba nhwung chỉ biết ngắm nhìn ba qua tấm hình chụp chung với

Thế rồi qua 8 năm xa cách, cha con ông Sáu được gặp lại nhau trong 3 ngày phép
ngắn ngủi. Cứ ngỡ 2 cha con sẽ được thỏa nỗi nhớ niềm thương nhưng éo le thay,
chỉ vì vết thẹo dài làm khuôn mặt ông Sáu bị biến dạng mà bé Thu nhất quyết cự
tuyệt không chịu nhận ông Sáu là ba. Bao đau đớn, hụt hẫng, tiếc nuối để rồi cảm
xúc vỡ òa khi trong giây phút chia tay bé Thu đã nhận ra ba. Tình phụ tử của cha
con ông Sáu đã được bộc lộ xúc động trong giây phút ngắn ngủi ấy

LĐ2: Trước hết đọc đoạn trích, ta cảm nhận được sâu sắc và xúc động tình
phụ tử của cha con ông Sáu được thể hiện ở tình yêu thương vô bờ bến của
ông Sáu dành cho con.

+ Sau 8 năm xa cách, người cha ấy háo hức hân hoan vì được về thăm nhà, gặp lại
đứa con gái bé bỏng mà ông khao khát nhớ thương bấy lâu nay. Thế nhưng, 3 ngày
về phép là khoảng thời gian mà ông Sáu sông trong tâm trạng hụt hẫng, và bất lực.
Bao nhiêu háo hức, khát khao, mong chờ là bấy nhiêu hụt hẫng và đớn đau khi đứa
con cự tuyệt ông một cách mãnh liệt.

+ Vì thế trong giây phút chia tay, ông “cũng muốn ôm con, hôn con nhưng lại sợ
nó dãy lên nên chỉ dám đứng từ xa và tạm biệt nó” Vậy là trong giây phút chia tay,
ông vẫn khao khát mãnh liệt được sống trong tình cha con. Ông khao khát ôm ấp
đứa con vào lòng. Nhưng rồi ông không muốn làm con sợ hay chính là ông sợ nỗi
đau, nỗi hụt hẫng nếu bị con cự tuyệt một lần nữa nên ông chỉ đứng nhìn con với
đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu. Ánh mắt chứa đựng bao nội khát khao, mong chờ.
Đó là nỗi khao khát đứa con sẽ đón nhận, sẽ chạy đến bên mình và cất tiếng gọi ba.
Đó còn là ánh nhìn bao dung, nhân hậu, vị tha từ một người cha dù đứa con ấy có
cự tuyệt, có làm cho ông đau đớn đến bao nhiêu thì trái tim người cha vẫn bao
dung, nhân hậu đến vô cùng. Chiến tranh đã đi qua nhưng tấm lòng yêu thương
con sâu nặng của người cha trong hoàn cảnh éo le và trắc trở ấy làm trái tim bao
người đọc thổn thức và xao động

LĐ3: Không chỉ vậy, đoạn trích còn khiến người đọc xúc động với tình yêu
thương bé Thu dành cho ba ở giây phút cuối cùng

+ Những ngày ông Sáu về phép, bé Thu đã cự tuyệt ông một cách dữ dội và quyết
liệt chi bởi vì 1 vết thẹo trên mặt, chỉ vì ông Sáu không giống với bức ảnh chụp
chung với vợ. Thế rồi trong cuộc trò chuyện với bà ngoại, bà đã giải thích vết thẹo
trên mặt của ông Sáu: Đó là do ông đi đánh Tây bị đánh trọng thương, bé Thu vỡ
òa cảm xúc vì bao hiểu nhầm được giải tỏa

+ Yêu thương ba, nên trong buổi sáng chia tay, tâm hồn bé Thu đã xáo trộn biết
bao cung bậc cảm xúc. Nhà văn đã miêu tả tâm lí trẻ thơ qua những nét vẽ về ngoại
hình: “Vẻ mặt nó có gì hơi khác, không bướng bỉnh nhăn mày hay cau có mà sầm
lại, buồn rầu, cái nhìn đầy vẻ nghĩ ngợi sâu xa” Không còn nữa sự ngơ ngác, lạ
lẫm, bướng bỉnh mà bây giờ là một bé Thu đầy tâm trạng, đầy nỗi niềm. Bé thương
ba vô cùng bởi ba phải chịu nỗi đau về thể xác khi vết thẹo bên má phải đỏ ửng lên
giần giật. Bé lại càng thương ba hơn hi ba đau khổ, hụt hẫng vì bị bé cự tuyệt, lạnh
nhạt. Càng thương, bé càng xót xa ân hận vì những gì đã đối xử với ba. Càng luyến
tiếc vì đã bỏ lỡ những giây phút ngắn ngủi vô cùng quý giá bên ba

+ Yêu thương ba nên trong giây phút chia tay, tiếng gọi “Ba!” mà bé ấp ủ, trân
trọng vang lên đầy xúc động: “Ba ... a ... a ... ba .... !” Tiếng gọi cất lên xé cả ruột
gan mọi người: “Ba! Không cho ba đi nữa” Đó là sự vỡ òa của cảm xúc nhớ
thương, yêu mến. Tiếng gọi ấy có thể đã được gọi cả ngàn lần trong nỗi nhớ
thương của 8 năm trời xa cách. Tiếng gọi ấy bé đã ấp ủ, nâng niu cả thời gian dài.
Tiếng gọi thiêng liêng của tình mẫu tử nên xúc động vô cùng

+ Cùng với tiếng gọi ba tha thiết, cô bé đã có những cử chỉ vội vàng, vồ vập ngập
tràn yêu thương: “Nó chạy xô tới, nhảy thót lên; dang 2 tay ôm chặt lấy cổ ba nó;
hôn ba nó cùng khắc, hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của
ba nó nữa”. Nhịp điệu câu văn nhanh, gấp gáp; kết hợp với một loạt động từ đã
diễn tả nhwung hành động vội vàng gấp gáp, cuống quýt của bé Thu. Không còn
sự sợ hãi, xa cách, lạnh lùng; bé ôm ấp, vồ vập, hối hả như để thỏa lòng nhớ
thương, để bù đắp tình cảm cho ba những ngày qua. Bé hôn cả vết thẹo, điều từng
làm cho cha con xa cách thì giờ đây nó là minh chứng cho sự dũng cảm, kiên
cường của người ba. Bé tự hào về người ba anh hùng của bé. Thu là 1 đứa trẻ đầy
tình cảm. Những hành động này của bé khác hẳn nhwuxng ngày đầu khi ông Sáu
trở về. Trái ngược nhưng lại nhất quán bởi bé yêu ba và quá nhớ ba. Và bé không
cho phép bất cứ ai có thể thay thế hình ảnh của ba bé. Vì thế khi hiểu được nguyên
nhân bé giữ ba ở lại, muốn thời gian ngắn ngủi còn lại kéo dài mãi mãi. Có thể nói
trong giây phút chia tay, bao cung bậc cảm xúc xáo trộn trong lòng bé Thu, có
niềm ân hận day dứt vì đã làm ba khổ tâm; có niềm nuối tiếc vì đã bổ lỡ giây phút
bên ba quý giá, có niềm xúc động mãnh liệt khi được ôm ấp ba; được sống trong
tình cảm cha con. Dù là cung bậc cảm xúc nào thì cũng toát lên tình yêu thương ba
mãnh liệt, cháy bỏng trong tâm hồn trẻ thơ, không dễ gì chia cắt được trong hoàn
cảnh chiến tranh càng sâu nặng mãnh liệt hơn bao giờ hết

Đánh giá:

Nghệ thuật: Bằng giọng thơ đầy xúc động, nhân vật được khắc họa qua lời nói,
ngoại hình. Đặc biệt là ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, nhân vật được đặt vào tình
huống éo le, bất ngờ được đặt vào thời gian, khoảnh khắc đặc biệt

Nội dung: Đoạn truyện đã làm nổi bật tình cha con sâu nặng thiêng liêng của cha
con ông Sáu. Qua đó, ta thấm thía được rằng tình phụ tử trong chiến tranh là 1 loại
tình cảm rất đỗi thiêng liêng và diệu kì. Chiến tranh càng tàn khốc thì tình cảm ấy
càng trở nên thiêng liêng và khác biệt.

Tấm lòng: Phải trân trọng tình cảm gia đình cao đẹp thì nhà văn Nguyễn Quang
sáng mới có thể viết nên những trang truyện cảm động và sâu sắc đến như vậy.

Kết bài:

Tình phụ tử trong giây phút chia tay của cha con ông Sáu đã góp phần làm nên
thành công của tác phẩm “Chiếc lược ngà” Gấp trang sách lại rồi nhưng tình phụ
tử ấy vẫn khiến ta xúc động và trân trọng. Từ đó giúp ta biết trân trọng hơn những
tình cảm đáng quý mà chúng ta đang có. Ta biết ơn, ngưỡng mộ và tự hào những
người chiến sĩ đã hi sinh tình riêng của mình cho Tổ quốc, cho ta có được cuộc
sống bình yên hạnh phúc ngày hôm nay.

You might also like