You are on page 1of 57

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.

HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT HÌNH SỰ

MÔN HỌC: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ.


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ.
GIẢNG VIÊN: ĐẶNG LÊ PHƯƠNG UYÊN
DANH SÁCH NHÓM

STT HỌ TÊN MSSV


1 Trần Hà Trang 195 380109 0132
2 Nguyễn Minh Thuận 205 380101 3157
3 Trần Duy Thức 205 380101 3158
4 Đỗ Nữ Nguyên Trà 205 380101 3163
5 Nguyễn Thị Thanh Trà 205 380101 3165
6 Lê Thị Thùy Trang 205 380101 3174
7 Bùi Quốc Tuân 205 380101 3186
8 Nguyễn Hoàng Vũ 205 380101 3197
MỤC LỤC

Phần 1: Trường hợp đại diện hợp lệ:.............................................................................1


Tóm tắt Quyết định số 08/2013/KDTM -GĐT ngày 15/03/2013 của Hội đòng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao....................................................................................1
Câu 1.1: Điểm mới của BLDS 2015 (so với BLDS 2005) về người đại diện.........2
Câu 1.2: Trong Quyết định số 08, đoạn nào cho thấy ông Mạnh đại diện cho
Hưng Yên xác lập hợp đồng với Vinausteel?..........................................................5
Câu 1.3: Theo Hội đồng thẩm phán, ông Mạnh có trách nhiệm gì với Vinausteel
không?......................................................................................................................5
Câu 1.4: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám
đốc thẩm liên quan đến ông Mạnh (có văn bản nào không về chủ đề này? Có
thuyết phục không?).................................................................................................6
Câu 1.5: Theo Hội đồng thẩm phán, Hưng Yên có trách nhiệm gì với Vinausteel
không?......................................................................................................................6
Câu 1.6: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám
đốc thẩm liên quan đến Hưng Yên nêu trên...........................................................6
Câu 1.7: Nếu ông Mạnh là đại diện theo pháp luật của Hưng Yên và trong hợp
đồng có thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận trọng tài này có ràng buộc Hưng
Yên không?...............................................................................................................8
Phần 2: Trường hợp đại diện không hợp lệ:.................................................................8
Tóm tắt Quyết định số 10/2013/KDTM-GĐT ngày 25/4/2013 của Hội đồng thẩm
phán Tóa án nhân dân tối cao....................................................................................8
Câu 2.1: Trong quyết định số 10, đoạn nào cho thấy người xác lập hợp đồng với
ngân hàng không được Vinaconex ủy quyền (không có thẩm quyền đại diện để
xác lập)?..................................................................................................................10
Câu 2.2: Trong vụ việc trên, theo Toà giám đốc thẩm, Vinaconex có chịu trách
nhiệm với ngân hàng về hợp đồng trên hay không?............................................10
Câu 2.3: Cho biết suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Toà giám
đốc thẩm .................................................................................................................10
Câu 2.3: Nếu hoàn cảnh tương tự như trong Quyết định số 10 nhưng chỉ phía
ngân hàng phản đối hợp đồng yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng do người đại diện
Vinaconex không có quyền đại diện) thì phải xử lý thế nào trên cơ sở BLDS
2015? Vì sao?..........................................................................................................11
Phần 3: Hình thức sở hữu tài sản:..............................................................................11
Tóm tắt Quyết định số 377/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008 của Toà dán sự Tòa án
nhân dân tối cao........................................................................................................11
Câu 3.1: Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về hình thức sở
hữu tài sản..............................................................................................................12
Câu 3.2: Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt có được ông Lưu tạo lập trong thời
kỳ hôn nhân với bà Thẩm không? Đoạn nào của quyết định số 377 (sau đây viết
gọn là Quyết định 377) cho câu trả lời?................................................................14
Câu 3.3: Theo bà Thẩm, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của vợ chồng bà hay
sở hữu riêng của ông Lưu? Đoạn nào của Quyết định 377 cho câu trả lời?......15
Câu 3.4: Theo Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao, căn nhà trên thuộc sở hữu
chung của ông Lưu, bà Thẩm hay thuộc sở hữu riêng của ông Lưu? Đoạn nào
của Quyết định 377 cho câu trả lời?......................................................................15
Câu 3.5: Anh/chị có suy nghĩ gì về giải pháp trên của Toà dân sự Toà án nhân
dân tối cao?.............................................................................................................15
Câu 3.6: Nếu căn nhà trên là tài sản chung của ông Lưu và bà Thẩm thì ông
Lưu có thể di chúc định đoạt toàn bộ căn nhà này hay không? Nêu căn cứ pháp
lí khi trả lời.............................................................................................................16
Phần 4: Diện thừa kế:...................................................................................................16
Tóm tắt quyết định số 08/2013/DS-GĐT ngày 24/01/2013 của Tòa dán sự Tòa án
nhân dân tối cao........................................................................................................16
Câu 4.1: Bà Thẩm, chị Hương và bà Xê có thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông
Lưu không? Vì sao?...............................................................................................18
Câu 4.2: Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976 thì câu trả lời có
khác không? Vì sao?..............................................................................................18
Câu 4.3: Trong vụ việc này, chị Hương có được chia di sản của ông Lưu
không? Vì sao?.......................................................................................................18
Câu 4.4: Theo pháp luật hiện hành, ở thời điểm nào người thừa kế có quyền sở
hữu đối với tài sản là di sản do người quá cố để lại? Nêu cơ sở khi trả lời........19
Câu 4.5: Trong quyết dịnh số 08, theo nội dung của bản án, ở thời điểm nào
người thừa kế của ông Hà có quyền sở hữu nhà ở và đất có tranh chấp? Vì sao?
.................................................................................................................................19
Phần 5: Thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc...........................................19
Tóm tắt Bản án số 2493/2009/DS-ST ngày 04/9/2009 của Tòa án nhân dân
Tp.HCM......................................................................................................................19
Câu 5.1: Đoạn nào của Quyết định cho thấy ông Lưu đã định đoạt bằng di chúc
toàn bộ tài sản của ông Lưu cho bà Xê?...............................................................20
Câu 5.2: Bà Xê, bà Thẩm, bà Hương cho thuộc diện được hưởng thừa kế khôbg
phụ thuộc vào nội dung di chúc đối với di sản của ông Lưu không? Vì sao?....20
Câu 5.3: Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, vì sao bà Thẩm được hưởng
thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu?
Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?...........................................................21
Câu 5.4: Nếu bà Thẩm khỏe mạnh, có khả năng lao động thì được hưởng thừa
kế không phụ thuộc nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu? Vì sao?
.................................................................................................................................21
Câu 5.5: Nếu di sản của ông Lưu có giá trị 600 tiệu đồng thì bà Thẩm sẽ được
hưởng khoản tiền là bao nhiêu? Vì sao?..............................................................22
Câu 5.6: Nếu bà Thẩm yêu cầu chia di sản bằng hiện vật thì yêu cầu của bà
Thẩm có được chấp nhận không? Vì sao?............................................................22
Câu 5.7: Trong bản án số 2493 (sau đây viết gọn là Bản án, đoạn nào của bản
án cho thấy bà Khót, ông Tâm và ông Nhật là con của cụ Khánh?....................23
Câu 5.8: Ai được cụ Khánh di chúc cho hưởng toàn bộ tài sản có tranh chấp? 23
Câu 5.9: Tại thời điểm cụ Khánh chết, bà Khót và ông Tâm có là con thành niên
của cụ Khánh không? Đoạn nào của Bán án cho câu trả lời?............................23
Câu 5.10: Bà Khót và ông Tâm có được Tòa án chấp nhận cho hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung di chúc không? Đoạn nào của Bản án cho câu
trả lời?.....................................................................................................................23
Câu 5.11: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án...............24
Câu 5.12: Hướng giải quyết có khác không khi ông Tâm bị tai nạn mất 85% sức
lao động? Vì sao?...................................................................................................25
Câu 5.13: Nêu những điểm giống và khác nhau giữa di chúc và tặng cho tài
sản...........................................................................................................................25
Câu 5.14: Nếu ông Lưu không định đoạt tài sản của ông cho bà Xê bằng di chúc
mà trước khi chết, ông Lưu làm hợp đồng tặng cho bà Xê toàn bộ tài sản
củaông Lưu thì bà Thẩm có được hưởng một phần di sản của ông Lưu như trên
không?....................................................................................................................28
Câu 5.15: Đối với hoàn cảnh như câu trên, pháp luật nước ngoài điều chỉnh
như thế nào?...........................................................................................................29
Câu 5.16: Suy nghĩ của anh/chị về khả năng mở rộng chế định đang nghiên cứu
cho cả hợp đồng tặng cho......................................................................................30
Phần 6: Nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản.......................................................31
Câu 1: Theo BLDS, những nghĩa vụ nào của người để lại di sản được ưu tiên
thanh toán?.............................................................................................................31
Câu 2: Ông Lưu có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi
trưởng thành không?.............................................................................................31
Câu 3: Đoạn nào của Quyết định cho thấy bà Thẩm tự nuôi dưỡng chị Hương
từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành?..................................................................32
Câu 4: Theo tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, nếu bà Thẩm yêu cầu thì có
phải trích cho bà Thẩm từ di sản của ông Lưu một khoản tiền để bù đắp công
sức nuôi dưỡng con chung không?.......................................................................32
Câu 5: Trên cơ sở các quy định về nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản,
anh/chị hãy giải thích giải pháp trên của Tòa án.................................................33
Phần 7:..........................................................................................................................34
Tóm tắt quyết định số 619/2011/DS-GĐT ngày 18/08/2011 của Tòa án nhân dân
tối cao về việc “Chia thừa kế theo di chúc”:............................................................34
Tóm tắt quyết định số 767/2011/DS-GĐT ngày 17/10/2011 của Tòa án nhân dân
tối cao về vụ án: Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất:......................................35
Tóm tắt quyết định số 194/2012/DS- GĐT ngày 23/4/2012 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao........................................................................................................36
Tóm tắt quyết định số 363/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao........................................................................................................37
Câu 7.1: Cho biết thực trạng văn bản pháp luật liên quan đến thay đổi, hủy bỏ
di chúc (về thời điểm, cách thức và hình thức thay đổi, hủy bỏ).........................38
Câu 7.2: Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có thể ngầm
định (tức người lập di chúc không cần nói rõ là họ thay đổi hay hủy bỏ di chúc)
không? Vì sao?.......................................................................................................39
Câu 7.3: Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có phải tuân
thủ hình thức của di chúc bị thay đổi hay hủy bỏ không? Vì sao?......................39
Câu 7.4: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án trong 03
quyết định trên liên quan đến thay đổi, hủy bỏ di chúc........................................40
Câu 7.5. Đoạn nào cho thấy, trong Quyết định số 363, Toà án xác định di chúc
là có điều kiện? Cho biết điều kiện của di chúc này là gì?..................................41
Câu 7.6: Cho biết thực trạng văn bản quy phạm pháp luật về di chúc có điều
kiện ở Việt Nam?....................................................................................................41
Câu 7.7: Cho biết hệ quả pháp lý khi điều kiện đối với di chúc không được đáp
ứng..........................................................................................................................42
Câu 7.8: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về di chúc có điều kiện ở Việt Nam (có
nên luật hoá trong BLDS không? Nếu luật hoá thì cần luật hoá những nội dung
nào?).......................................................................................................................42
Phần 8: Tóm tắt án lệ số 24/2018/AL về di sản thừa kế chuyển thành tài sản thuộc
quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của cá nhân.................................................43
Câu 1: Trong Án lệ số 24/2018/AL, nội dung nào cho thấy đã có thoả thuận
phân chia di sản?...................................................................................................45
Câu 2: Trong Án lệ số 24/2018/AL, nội dung nào cho thấy thoả thuận phân chia
di sản đã được Toà án chấp nhận?.......................................................................46
Câu 3: Suy nghĩ của anh/chị về việc Toà án chấp nhận thoả thuận phân chia di
sản trên? Anh/chị trả lời câu hỏi này trong mối quan hệ với yêu cầu về hình
thức và về nội dung đối với thoả thuận phân chia di sản?...................................46
Câu 4: Sự khác nhau cơ bản giữa tranh chấp di sản và tranh chấp tài sản?.....48
Câu 5: Trong Án lệ số 24/2018/AL, tranh chấp về tài sản đã được chia theo thoả
thuận trên là tranh chấp về di sản hay tranh chấp về tài sản?............................48
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Toà án nhân dân tối cao
trong Án lệ số 24/2018/AL.....................................................................................49
Phần 9: Nghiên cứu Án lệ số 05/20216/AL của Tòa án nhân dân tối cao;...............50
Tóm tắt Án lệ số 05/20216/AL của Tòa án nhân dân tối cao..................................50
Câu 1: Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án xác định ông Trải được hưởng 1/7
kỷ phần thừa kế của cụ Hưng có thuyết phục không? Vì sao?...........................51
Câu 2: Trong án lệ số 05/2016/AL, Tòa án xác định phần tài sản ông Trải được
hưởng của cụ Hưng là tài sản chung của vợ chồng ông Trải, bà Tư có thuyết
phục không? Vì sao?..............................................................................................51
Câu 3: Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án theo hướng chị Phượng được hưởng
công sức quản lý di sản có thuyết phục không? Vì sao?......................................51
Phần 1: Trường hợp đại diện hợp lệ:
 Tóm tắt Quyết định số 08/2013/KDTM -GĐT ngày 15/03/2013 của Hội đòng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Nguyên đơn: Công ty liên doanh sản xuất thép Vinausteel.
Bị đơn: Công ty cổ phân kim khí Hưng Yên (HYM).
Người có quyền và nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Thị Ngọc Lan, ông Lê Văn Dũng, ông
Lê Văn Mạnh.
Nội dung vụ án:
Ngày 16/01/2007 Công ty cổ phân kim khí Hưng Yên (Bên A) do ông Lê Văn Mạnh
đại diện kí hợp đồng bán phôi thép với Công ty liên doanh sản xuất thép Vinausteel
(Bên B) 2.500 tấn thép với đơn giá 7.400.000 đồng/tấn, tổng giá trị 18.500.000.000
đồng và phải giao hết hàng trong vòng từ ngày 05/2/2007 đến ngày 15/2/2007. Ngày
23/01/2007 hai bên kí thêm phụ lục thay đổi kích cỡ phôi đổi đơn giá lên 7.445.000
đồng/tấn và thay đổi thời hạn giao hết hàng trong vòng từ ngày 10/03/2007 đến ngày
19/03/2007. Say khi hợp đồng được kí kết ngày 07/02/2007 Bên A đã chuyền khoản
hết số tiền 18.500.000.000 cho Bên B nhưng Bên B không tuân thủ nghĩa vụ giao hàng
nên Công ty liên doanh sản xuất thép Vinausteel yêu cầu Công ty cổ phân kim khí
Hưng Yên bổi thường thiệt hại số tiền do vi phạm hợp đồng tổng cộng là 8.834.59.225
đồng.

Bên bị đơn cho biết thời điểm kí kết là bà Lê Thị Ngọc Lan đang là Tổng giám đốc
Công ty cổ phân kim khí Hưng Yên. Nhưng ông Lê văn Dũng (chồng bà Lan) thực tế
là chủ sở hữu. Ngày 22/3/2007 bà Lan đã nhường lại toàn bộ số cổ phần Công ty cổ
phân kim khí Hưng Yên cho bà Nguyễn Thị Toàn. Bà Toàn nhận quyền Tổng giám đốc
từ ngày 02/4/2007 và bà Lan cho rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại là thuộc về ông
Dũng theo trong bản thỏa thuận phân chia tài sản trong thời kì hôn nhân giữa bà với
ông Dũng và ông Dũng có cam kết với bà Toàn trả toàn bộ các khoản nợ của Công ty
trước ngày 01/4/2002 với các chủ nợ. Bà Lan cho biết thêm ngày 15/09/2005 bà không
còn điều hành ở Công ty cổ phân kim khí Hưng Yên nữa do bản thỏa thuận chia tài sản
trong thời kì hôn nhân giữa bà với ông Dũng. Những ngày 20/11/2006 do vẫn còn là
tổng giám đốc Công ty cổ phân kim khí Hưng Yên trên danh nghĩa nên Bà có kí giấy

1
ủy quyền cho ông Mạnh thực hiện giao dịch kinh tế trong phạm vi ngành kinh doanh
của công ty.

Công ty cổ phân kim khí Hưng Yên cho biết hợp đồng ông Mạnh kí với Công ty
Vinausteel vô hiệu do vi phạm không thông qua Hội đồng quản trị nên không làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ cho Công ty cổ phân kim khí Hưng Yên và đồng thời ông
Mạnh cũng có vãn bản cam kết nhận trách nhiệm và bồi thường thiệt hại các hợp đồng
mà ông Mạnh đã thay mặt Công ty kí. Công ty cổ phân kim khí Hưng Yên cũng cho
rằng Công ty chỉ chậm giao hàng chứ không phải là không giao hàng nên Công ty cổ
phân kim khí Hưng Yên chỉ phải chịu lãi quá hạn.

Ông Lê Văn Dũng trình bày việc trả nợ là việc của hai pháp nhân và bà Toàn phải thừa
kế quyền và nghĩa vụ với Công ty do bà đã thừa kế chức Tổng giám đốc Công ty cổ
phân kim khí Hưng Yên.
Hướng giải quyết của Tòa ắn:
+ Tòa án phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm. Tòa nhận định ngày 20/11/2006 bà Lan lúc
này vẫn là người đại diện theo pháp luật của Công ty cổ phân kim khí Hưng Yên đã có
ủy quyền cho ông Mạnh được thay mặt công ty thực hiện các giao dịch dân sự, kinh tế
và thương mại thuộc phạm vi kinh doanh của công ty.
+ Do bên Công ty Vinausteel không tham gia kí kết và không đồng ý cam kết chịu
trách nhiệm của ông Mạnh nên không thực hiện trường hợp chiển giao nghĩa vụ dân sự
theo quy định khoản 1 Điều 315 Bộ luật dân sự năm 2005.
+ Tòa xác định trách nhiệm thanh toán nợ và bồi thường là do Công ty cổ phân kim khí
Hưng Yên không phải cá nhân ông Dũng, ông Mạnh.

Câu 1.1: Điểm mới của BLDS 2015 (so với BLDS 2005) về người đại diện
Nhìn chung, BLDS 2015 kế thừa các quy định về đại diện trong BLDS 2005. Tuy
nhiên, so với BLDS 2005, BLDS 2015 đã có một số sửa đổi, bổ sung về vấn đề đại
diện.
Dưới đây là những điểm mới của BLDS 2015 về người đại diện:
1. Chủ thể của quan hệ đại diện
a) Pháp nhân đại diện
Khoản 1 Điều 139 BLDS 2005 quy định: “Đại diện là việc một người (sau đây gọi là
người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây gọi là người được đại

2
diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện”. Quy định trên cùng
với việc khoản 5 Điều 139 BLDS 2005 quy định "người đại diện phải có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ" (khái niệm chỉ áp dụng cho cá nhân) nên dẫn tới thực tế là Tòa
án không thừa nhận khả năng đại diện của pháp nhân khi không có quy định cụ thể cho
phép pháp nhân đại diện người khác. Ngày nay, khoản 1 Điều 134 BLDS 2015 quy
định: “Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân
danh và vì lợi ích của cá nhân, pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại
diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”. Nội dung này cho thấy pháp nhân hoàn toàn
có thể đại diện cho cá nhân, pháp nhân khác.

b) Số người đại diện


BLDS 2005 theo hướng đại diện là việc của “một” người. Với quy định này, BLDS
không bao quát được trường hợp bên đại diện là nhiều người như cha, mẹ đại diện theo
pháp luật cho con chưa thành niên, pháp nhân có thể có nhiều đại diện theo pháp luật
như Luật Doanh nghiệp quy định. Điều này cũng không phù hợp với các quy định về
đồng đại diện được BLDS 2015 ghi nhận một cách minh thị tại khoản 3 Điều 141 theo
đó "một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác
nhau".

Cuối cùng, BLDS 2015 đã khắc phục được nhược điểm trên và đã thiết kế khái niệm
đại diện tại khoản 1 Điều 134 BLDS 2015 theo hướng đó có thể là một người hay
nhiều người cùng đại diện.

c) Năng lực của người đại diện


Theo khoản 2 Điều 139 BLDS 2005 quy định: “Người đại diện phải có năng lực hành
vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 143 của Bộ luật này ”. Quy
định vừa nêu có nhược điểm là chỉ quy định về năng lực hành vi dân sự, tức chỉ đề cập
tới cá nhân nên không còn phù hợp với BLDS 2015 khi BLDS mới này ghi nhận cả
khả năng đại diện của pháp nhân. Chính vì vậy, khoản 3 Điều 134 BLDS 2015 quy
định: “trường hợp pháp luật quy định thì người đại diện phải có năng lực hành vi dân
sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện”. Quy định trên còn có điểm
mới nữa là chỉ yêu cầu năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của người
đại diện trong “trường hợp pháp luật quy định” như “trường hợp yêu cầu người giám
hộ - đại diện là cá nhân phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ ” (khoản 1 Điều 49
3
BLDS 2015). Điều đó có nghĩa là nếu không thuộc “trường hợp pháp luật quy định ”
thì vấn đề năng lực pháp luật dân sự cũng như năng lực hành vi dân sự không được đặt
ra.

2. Phân loại đại diện


a) Đại diện theo pháp luật của cá nhân:
Về các loại đại diện, nếu như BLDS 2005 phân loại dựa vào tiêu chí căn cứ xác lập
quyền (theo pháp luật hay theo ủy quyền) thì BLDS 2015 phân loại dựa vào cả căn cứ
xác lập quyền và chủ thể đại diện. Điều 136 BLDS 2015 đã bổ sung trường hợp “người
giám hộ của người khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo
pháp luật nếu được Tòa án chỉ định” vì BLDS 2015 đã quy định mới về người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi nên đã ghi nhận thêm về người giám hộ trong
trường hợp này. Đồng thời, BLDS 2015 đã bổ sung quy định: “người do Tòa án chỉ
định trong trường hợp không xác định được người đại diện quy định tại khoản 1 và
khoản 2 Điều này”.

b. Đại diện theo pháp luật của pháp nhân:


Điều 137 BLDS 2015 quy định về đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Ở đây,
BLDS 2015 đã bổ sung một trường hợp mới là: “người do Tòa án chỉ định trong quá
trình tố tụng tại Tòa án”. Đồng thời, BLDS 2015 cũng chính thức khẳng định: Một
pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật. Việc quy định mới này là xuất
phát từ thực tiễn hoạt động của pháp nhân (chủ yếu là doanh nghiệp) và để đảm bảo
tính thống nhất với các văn bản pháp luật khác có liên quan như Luật Doanh nghiệp
2014.1

c. Đại diện theo ủy quyền :


Điều 138 BLDS 2015 quy định về đại diện theo ủy quyền. Điểm thực sự mới của Điều
luật này chính là nội dung liên quan đến hộ gia đình và tổ hợp tác. Đối với hộ gia đình,
tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân thì thành viên của họ có thể thỏa
thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền xác lập, thực hiện giao dịch
dân sự liên quan đến tài sản chung. Ngoài ra, khoản 1 cũng có sự thay đổi. Trước đây,
1
Đỗ Văn Đại, Bình luận khoa học Những điểm mới của Bộ luật dân sự, Nxb Hồng Đức-Hội Luật gia
Việt Nam, tr.181 đến 186.

4
khoản 1 Điều 143 quy định “người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thể ủy
quyền người khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự” thì ngày nay đã được thay bằng
“pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch
dân sự”. Quy định mới này là toàn diện, chính xác hơn: “Chủ thể ủy quyền là pháp
nhân chứ không phải là người đại diện của pháp nhân”.

Câu 1.2: Trong Quyết định số 08, đoạn nào cho thấy ông Mạnh đại diện cho Hưng
Yên xác lập hợp đồng với Vinausteel?
Trong Quyết định số 08, trong phần Xét thấy, Tòa án đã nhận định:“Bởi lẽ, ngày
20/11/2006, bà Lê Thị Ngọc Lan có Giấy ủy quyền cho ông Lê Văn Mạnh - Phó Tổng
Giám đốc Công ty kim khí Hưng Yên được thay mặt Công ty thực hiện các giao dịch
kinh tế trong phạm vi ngành nghề kinh doanh (trong thời gian này bà Lê Thị Ngọc Lan
vẫn là người đại diện theo pháp luật của Công ty kim khí Hưng Yên) nên ngày
16/01/2007, ông Mạnh đã đại diện cho Công ty kim khí Hưng Yên ký Hợp đồng mua
bán phôi thép số 01/HĐTP/2007/VA - HY với Công ty Vinausteel.”

Câu 1.3: Theo Hội đồng thẩm phán, ông Mạnh có trách nhiệm gì với Vinausteel
không?
Theo Hội đồng thẩm phán, ông Mạnh không có trách nhiệm phải đơn phương bồi
thường các khoản nợ đối với Vinausteel. Trong phần Xét thấy của Quyết định số 08,
Hội đồng thẩm phán đã nhận định: “... việc ông Mạnh cam kết chịu trách nhiệm về các
khoản nợ của Công ty liên danh sản xuất thép Vinausteel là việc nội bộ của Công ty
kim khí Hưng Yên. Do đó, Công ty kim khí Hưng Yên phải có trách nhiệm thanh toán
các khoản nợ và bồi thường cho Công ty Vinausteel chứ không phải cá nhân ông Mạnh
, ông Dũng...”.

Câu 1.4: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc
thẩm liên quan đến ông Mạnh (có văn bản nào không về chủ đề này? Có thuyết
phục không?)
Đầu tiên, cần xác định rõ là tuy không có quy định cụ thể trong BLDS nhưng Tòa giám
đốc thẩm đã theo hướng ông Mạnh, với tư cách là người đại diện, không phải chịu
trách nhiệm về giao dịch dân sự được lập một cách hợp lệ. Đây là hướng giải quyết
hợp lý vì:
+ Thứ nhất, Tòa giám đốc thẩm xác định ông Mạnh không phải là người có quyền và
nghĩa vụ liên quan. Điều này là thuyết phục vì mặc dù người đại diện là người trực tiếp
giao dịch với bên Vinausteel nhưng ông Mạnh tham gia dưới danh nghĩa là bên được

5
đại diện, công ty Hưng Yên chứ không phải cá nhân mình. Nói cách khác, hợp đồng
trong bản án là hợp đồng giữa 2 pháp nhân chứ không phải hợp đồng giữa người đại
diện và pháp nhân còn lại.
+ Thứ hai, Bộ nguyên tắc châu Âu cùng theo hướng này và đã quy định rõ hơn tại Điều
3:302, theo đó “người đại diện không bị ràng buộc đối với người thứ ba" 2. Tuy không
có quy định nào tương tự trong BLDS 2015 nhưng có thể thấy hướng giải quyết này là
có cơ sở.

Câu 1.5: Theo Hội đồng thẩm phán, Hưng Yên có trách nhiệm gì với Vinausteel
không?
Theo Hội đồng thẩm phán, công ty Hưng Yên có trách nhiệm phải bồi thường các
khoản nợ đối với Vinausteel. Trong phần Xét thấy của Quyết định số 08 , Hội đồng
thẩm phán đã nhận định: “... việc ông Mạnh cam kết chịu trách nhiệm về các khoản nợ
của Công ty liên danh sản xuất thép Vinausteel là việc nội bộ của Công ty kim khí
Hưng Yên. Do đó, Công ty kim khí Hưng Yên phải có trách nhiệm thanh toán các
khoản nợ và bồi thường cho Công ty Vinausteel chứ không phải cá nhân ông Mạnh ,
ông Dũng...”.

Câu 1.6: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc
thẩm liên quan đến Hưng Yên nêu trên.
Hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm là hợp lí vì:
+ Thứ nhất, hướng giải quyết này là phù hợp về mặt pháp lý . Cụ thể , khoản 1 Điều
141 BLDS 2015 quy định:“Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện với
người thứ ba làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện” . Bộ nguyên
tắc châu Âu cũng theo hướng này tại Điều 3:302, theo đó “khi người đại diện hành
động trong phạm vi đại diện như đã được định nghĩa tại Điều 3:201, các giao dịch của
người đại diện ràng buộc trực tiếp người được đại diện và người thứ ba”3
+ Thứ hai, căn cứ vào khoản 1 Điều 141 BLDS 2015 quá trình giao kết hợp đồng giữa
ông Mạnh với Vinausteel hoàn toàn nằm trong phạm vi đại diện, ông Mạnh không vượt
quá phạm vi đại diện. Cụ thể, nội dung giấy ủy quyền cho ông Lê Văn Mạnh là nhằm
2
Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, Nxb Hồng Đức-Hội Luật gia
Việt Nam 2017, bản án số 35-37, tr.289
3
Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, Nxb Hồng Đức-Hội Luật gia
Việt Nam 2017, bản án số 35-37, tr.285

6
thực hiện các giao dịch dân sự, kinh tế và thương mại trong phạm vi ngành kinh doanh
của Công ty. Theo đó, hợp đồng mua bán phôi thép giữa Công ty Vinausteel và Công
ty kim khí Hưng Yên do ông Mạnh ký kết hoàn toàn thuộc phạm vi đại diện. Vì vậy,
hợp đồng này làm phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với Công ty kim khí Hưng Yên.
+ Thứ ba, việc Công ty kim khí Hưng Yên và bà Lan từ chối nhận nghĩa vụ và trách
nhiệm do không biết hoặc không nắm là hoàn toàn không có căn cứ. Bởi lẽ, sau khi ký
kết hợp đồng với Công ty Vinausteeel, Công ty kim khí Hưng Yên tại Công văn đề
nghị ngày 30/01/2007 về việc xin lùi thời gian giao hàng. Hơn nữa, Công ty kim khi
Hưng Yên thừa nhận nhận được số tiền do Công ty Vinausteel hực hiện nghĩa vụ
chuyển tiền mà có. Có thể thấy, Công ty kim khí Hưng Yên đã biết về nghĩa vụ chuyển
tiền từ Công ty Vinausteel nên không thể cho rằng Công ty này hay bà Lan hoàn toàn
không biết việc ông Mạnh ký kết hợp đồng trong phạm vi đại diện.

Vậy, có thể thấy việc từ chối thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng được xác lập
trên cơ chế đại diện và cho rằng quan hệ đó là do người ký thực hiện dưới từ cách cá
nhân là không phù hợp với quy định của pháp luật. Trong trường hợp này, trách nhiệm
thuộc về các bên trong hợp đồng được ký kết, hai pháp nhân với các quyền và nghĩa vụ
phát sinh.

Câu 1.7: Nếu ông Mạnh là đại diện theo pháp luật của Hưng Yên và trong hợp đồng
có thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận trọng tài này có ràng buộc Hưng Yên không?
Biết rằng điều lệ của Hưng Yên quy định mọi tranh chấp liên quan đến Hưng Yên
(như tranh chấp phát sinh từ hợp đồng do đại diện theo pháp luật xác lập) phải được
giải quyết tại Tòa án. Trong trường hợp này, thỏa thuận trên vẫn ràng buộc Công ty
Hưng Yên. Bởi lẽ :
+ Thứ nhất, cần xác định Điều lệ pháp nhân chỉ mang ý chí đơn phương của pháp nhân
đó trong khi hợp đồng có nguyên tắc cơ bản là dựa trên tính tự nguyện , bình đẳng và ý
chí song hoặc đa phương. Việc áp dụng Điều lệ của Công ty Hưng Yên đối với cả
những giao dịch dân sự, tranh chấp có liên quan đến pháp nhân khác là không hợp lý.
+ Thứ hai, điểm 1 khoản 2 Điều 77 BLDS 2015 có quy định Điều lệ pháp nhân bao
gồm nguyên tắc giải quyết tranh chấp nội bộ. Có thể thấy, tranh chấp phát sinh giữa
Công ty Hưng Yên và Công ty Vinausteel không còn nằm trong nội bộ của Công ty
Hưng Yên nữa mà còn có sự tham gia của một pháp nhân khác.

7
+ Thứ ba, có thể thấy, ngay cả trong trường hợp việc thỏa thuận tranh chấp được giải
quyết nhờ trọng tài bị vô hiệu cũng không làm ảnh hưởng đến phần còn lại của hợp
đồng . Do đó, theo Điều 130 BLDS 2015 thì giao dịch này chỉ có thể bị vô hiệu một
phần và vẫn sẽ phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với Công ty Hưng Yên.

Phần 2: Trường hợp đại diện không hợp lệ:


 Tóm tắt Quyết định số 10/2013/KDTM-GĐT ngày 25/4/2013 của Hội đồng
thẩm phán Tóa án nhân dân tối cao.
Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP công thương Việt Nam.
Bị đơn: Công ty cổ phần xây dựng 16 – Vinaconex.
Người có quyền nghĩa vụ liên quan: Xí nghiệp xây dựng 4, ông Trần Quốc Toản, Bà
Phạm Thị Nga, ông Nguyễn Ngọc Hòa.
Nội dung vụ án:
Ngày 14/5/2001 Ngân hàng TMCP công thương Việt Nam (gọi tắt là Ngân Hàng) chi
nhánh Nghệ An và Xí nghiệp xậy dựng 4 - Công ty xây dựng số II (nay là Công ty cổ
phần xây dựng 16 – Vinaconex) do ông Nguyễn Hồng Tâm đại diện kí hợp đồng tín
dụng vay 2 tỷ đồng, lãi suất 0.75%/tháng, thời hạn cho vay từ 14/5/2001 đến
14/8/2005. Ngân hàng giải ngân và cho Xí nghiệp xây dựng 4 vay 1.905.976.000 đồng.

Do không có khả năng trả nên ngân hàng đã phát mai 1 phần tài sản thế chấp. Hiện
tổng số tiền Xí nghiệp xây dựng 4 nợ Ngay hàng đến ngày khởi kiện bao gồm cả lãi và
gốc là 1.382.040.000 đồng.

Ngân Hàng yêu cầu Công ty cổ phần xây dựng 16 – Vinaconexcó trách nhiệm thanh
toán khoản nợ do Xí nghiệp xây dựng thuộc Công ty cổ phần xây dựng 16 –
Vinaconex. Nhưng ông Nguyễn Hữu Thuận giám đốc Công ty cổ phần xây dựng 16 –
Vinaconex trình bày rằng Ngày 25/02/2001 ông Bạch Văn Thìn là giám đốc Công ty cổ
phần xây dựng 16 – Vinaconex có làm công văn số 23 để cho phép Xí nghiệp xây dựng
4 vay Ngân hàng công thương Việt Nam. Ngày 13/3/2001 ông Thuận thay ông Thìn
không đồng ý vay nhưng do đã kí kết hợp đồng nên Xí nghiệp đã nhận tiền từ Ngân
hàng. Thời điểm đó ông Thuận không bảo lãnh cho Xí nghiệp nên cho rằng xí nghiệp
xây dựng 4 đã làm sai nguyên tắc nên phải tự chịu trách nhiệm.

8
Ông Thìn trình bày rằng mình có kí văn bản gửi và được Ngân hàng đồng ý cho vay
với một số điều kiện trong đó có: “Phía Công ty cổ phần xây dựng 16 – Vinaconex có
trách nhiệm liên đới với khoản nợ của xí nghiệp xây dựng 4”.

Hướng giải quyết của Tòa án:


Công ty cổ phần xây dựng 16 – Vinaconexcó có xuất trình tài liệu về công văn đề nghị
Ngân hàng không cho Xí nghiệp xây dựng số 4 vay khi chưa có bảo lãnh của Công ty
cổ phần xây dựng 16 – Vinaconex từ ngày 06/4/2001 và bãi bỏ các văn bản của Công
ty cổ phần xây dựng 16 – Vinaconex về vay vốn trước ngày 06/4/2001. Nhưng Ngân
Hàng phủ nhận việc nhận được công văn trên và phía Công ty cổ phần xây dựng 16 –
Vinaconex cũng không cung cấp được tài liệu chứng minh Rằng Ngân hàng đã nhận
được công văn trên.

Sau khi vay Xí nghiệp vẫn báo cáo tài chính đầy đủ sáu tháng một lần nên Công ty cổ
phần xây dựng 16 – Vinaconex biết về việc vay vốn nhưng không phản đối và vào
ngày 28/10/2002 Công ty điền chuyển một số máy móc được hình thành từ vốn vay
Ngân hàng về văn phòng để thực thi công trình của Công ty.

Công ty cổ phần xây dựng 16 – Vinaconex có biết về và không phản đối nên Công ty
cổ phần xây dựng 16 – Vinaconex có trách nhiệm trả khoản nợ là có căn cứ.

Câu 2.1: Trong quyết định số 10, đoạn nào cho thấy người xác lập hợp đồng với
ngân hàng không được Vinaconex ủy quyền (không có thẩm quyền đại diện để xác
lập)?
Trích bản án: Công ty xây dựng số II Nghệ An có công văn số 064CV/XDII.TCKT gửi
chi nhánh Ngân hàng Công thương Nghệ An trong đó có nội dung “đề nghị Ngân hàng
Công thương Nghệ An không cho các Xí nghiệp thuộc công ty xây dựng số II Nghệ An
vay vốn khi chưa có bảo lãnh vay vốn của công ty kể từ ngày 06/4/2001...” và “các văn
bản của Công ty liên quan tới vay vốn tại Ngân hàng Công thương Nghệ An trước
ngày 06/4/2011 đều bãi bỏ”, nhưng ngày 14/5/2001 Ngân hàng vẫn ký hợp đồng tín
dụng số 01/HĐTD cho Xí nghiệp xây dựng 4 vay tiền.

9
Câu 2.2: Trong vụ việc trên, theo Toà giám đốc thẩm, Vinaconex có chịu trách
nhiệm với ngân hàng về hợp đồng trên hay không?
Theo Toà giám đốc thẩm, Vinaconex phải chịu trách nhiệm với ngân hàng về hợp đồng
trên. Điều này được thể hiện qua đoạn: “Sau khi Xí nghiệp xây dựng 4 vay tiền Ngân
hàng, Công ty xây dựng số II Nghệ An biết và không phản đối nên Công ty xây dựng số
II Nghệ An (nay là Công ty cổ phần xây dựng 16 - Vinaconex) phải chịu trách nhiệm
trả khoản nợ này.”

Câu 2.3: Cho biết suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Toà giám đốc
thẩm .
Hướng giải quyết của Toà giám đốc thẩm là hợp lí vì:
+ Thứ nhất, Công ty Vinaconex đã đồng ý cho Xí nghiệp xây dựng 4 trực thuộc Công
ty Vinaconex vay vốn từ Ngân hàng thông qua việc Tổng giám đốc Vinaconex có văn
bản số 23 CV/TCT thông báo cho Ngân hàng biết việc Vinaconex đồng ý cho Xí
nghiệp xây dựng 4 trực tiếp vay vốn tại chi nhánh ngân hàng. Sau đó, Vinaconex có
công văn số 064CV/XDII.TCKT bãi bỏ văn bản trên nhưng không chứng minh được
Ngân hàng đã nhận được. Căn cứ theo điểm c khoản 1 Điều 142 BLDS 2015, Công ty
Vinaconex có lỗi dẫn đến việc Ngân hàng không thể biết được Xí nghiệp xây dựng 4
không có quyền đại diện nên giao dịch dân sự không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ
đối với Công ty Vinaconex.
+ Thứ hai, có căn cứ để cho rằng Vinaconex biết được việc Xí nghiệp xây dựng 4 vay
vốn ngân hàng và không phản đối. Điều này được thể hiện qua hàng loạt các sự kiện
như Xí nghiệp xây dựng 4 dùng tiền vay ngân hàng để mua máy móc và có thực hiện
báo cáo tài chính định kỳ cho Công ty Vinaconex, Công ty Vinaconex sử dụng những
máy móc trên để phục vụ Công trình thi công, ... Dựa trên điểm b khoản 1 Điều 142
BLDS 2015 thì Vinaconex biết mà không phản đối trong thời hạn hợp lý nên hợp đồng
trong bản án vẫn làm phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với Vinaconex.

Câu 2.3: Nếu hoàn cảnh tương tự như trong Quyết định số 10 nhưng chỉ phía ngân
hàng phản đối hợp đồng yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng do người đại diện Vinaconex
không có quyền đại diện) thì phải xử lý thế nào trên cơ sở BLDS 2015? Vì sao?
Trong trường hợp trên, căn cứ theo khoản 3 Điều 142 BLDS 2015 thì Ngân hàng
không có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc hủy bỏ hợp đồng do bên không
có quyền đại diện xác lập. Bởi lẽ :

10
+ Thứ nhất, Ngân hàng hoàn toàn không có căn cứ để biết được rằng Xí nghiệp xây
dựng 4 không có quyền đại diện. Như đã chứng minh ở trên, Công ty Vinaconex không
chứng minh được rằng ngân hàng đã nhận được công văn số 06/CV/XDII.TCKT bãi bỏ
những văn bản đồng ý cho các Xí nghiệp trực thuộc vay vốn được bảo lãnh.
+Thứ hai, người được đại diện, Công ty Vinaconex đã biết và không phản đối hợp
đồng như đã chứng minh ở trên nên thỏa mãn điểm a khoản 1 Điều 142 BLDS 2015.

Phần 3: Hình thức sở hữu tài sản:


 Tóm tắt Quyết định số 377/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008 của Toà dán sự
Tòa án nhân dân tối cao.
Nguyên đơn: Bà Cao Thị Xê.
Bị đơn: Chị Võ Thị Thu Hương, Anh Nguyễn Quốc Chính.
Nội dung vụ án:
Đơn kiện ngày 05/4/2004 bà Cao thị Xê trình bày năm 1996 bà kết hôn với ông Võ
Văn Lưu, không có con, tài sản chung là căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt trên diện
tích đất 101m2 cùng tài sản trong nhà. Năm 2003 ông Lưu chết để lại di chúc giao
quyền sử dụng toàn bộ tài sản trong nhà cho bà Xê. Sau đó chị Võ Thị Thu Hương vào
ở căn nhà 150/6A Lý Thường Kiệt cùng bà Xê. Bà yêu cầu được chia thừa kế theo di
chúc ông Lưu.

Vợ chồng chị Hương trình bày rằng ngày 26/10/1964 ông Lưu kết hôn với bà Nguyễn
Thị Thẩm có giấy đăng kí kết hôn. Sau giải phóng Ông Lưu từ Phú Thị vào miền Nam
công tác. Ngày 07/10/1994 ông được chuyền nhượng 101m2 đất để cất nhà ở (căn nhà
số 150/6A Lý Thường Kiệt). Ngày 21/10/1996 ông Lưu đăng kí kết hôn với bà Xê và
chị cho rằng bà Xê lấy ông Lưu là vi phạm pháp luật nên không đồng ý yêu cầu của bà
Xê.

Bà Thẩm cho rằng căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt la tài sản chung của bà với ông
Lưu nên đề nghị Tòa giải quyết theo pháp luật để bà và chị Hương được hưởng tài sản.
Hướng giải quyết của Tòa:
Tòa xác nhận quan hệ hôn nhân giữa ông Lưu và bà Thẩm là hợp pháp và hôn nhân
giữa ông Lưu và bà Xê là bất hợp pháp. Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt được ông

11
Lưu tạo trong thời gian hôn nhân với bà Thẩm nhưng khi ông Lưu vào miền Nam căn
nhà được tạo lập bằng thu nhập của ông nên ông Lưu có quyền định đoạt căn nhà. Di
chúc của ông Lưu là có căn cứ và phù hợp với quy định pháp luật.

Nhưng do bà Thẩm đã gìa yếu không có khả năng lao động và là vợ hợp pháp của ông
Lưu nên bà vẫn được được thừa kế theo Điều 669 Bộ luật dân sự. Đồng thời trích từ
giá trị khối tài sản của ông Lưu để bù đắp công sức nuôi dưỡng con chung trong thời
gian ông Lưu vào miền Nam (nếu bà Thẩm có yêu cầu).

Câu 3.1: Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về hình thức sở hữu
tài sản.
a) Từ 6 hình thức sở hữu tài sản ở BLDS 2005, BLDS 2015 đã rút lại chỉ còn 3 hình
thức sở hữu tài sản. Việc rút gọn thực chất chỉ là gộp 4 loại hình thức sở hữu: sở hữu
tập thể; sở hữu chung; sở hữu của tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp; sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã
hội.

b) Tài sản thuộc quyền sở hữu toàn dân – Căn cứ vào Điều 197 Bộ luật dân sự 2015.
Trước đây, quy định này là tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước.

Điều 197 của BLDS 2015 thay đổi định nghĩa về tài sản thuộc quyền sở hữu toàn dân
so với Điều 200 BLDS 2005 theo Hiến pháp 2013: “Đất đai, tài nguyên nước, tài
nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và
các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.”

Thực hiện quyền sở hữu toàn dân đối với tài sản được đầu tư vào doanh nghiệp: Điều
200 BLDS 2015 bỏ đi giới hạn quyền sở hữu của Nhà nước là chỉ trong “doanh nghiệp
nhà nước” của Điều 200 BLDS 2015 thành “doanh nghiệp”: “Khi tài sản thuộc sở hữu
toàn dân được đầu tư vào doanh nghiệp thì Nhà nước thực hiện quyền của chủ sở hữu
đối với tài sản đó theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp, quản lý, sử dụng vốn
nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp và quy định khác của pháp
luật có liên quan.”

12
Quyền của pháp nhân, pháp nhân đối với việc sử dụng tài sản, khai thác tài sản thuộc
sở hữu toàn dân: Điều 203 BLDS 2015 bỏ đi điều kiện “trong trường hợp pháp luật có
quy định và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép” của Điều 206 BLDS
2005. Đồng thời, cũng không quy định thêm điều kiện nào trong việc sử dụng, khai
thác này: “cá nhân, pháp nhân được sử dụng đất, khai thác nguồn lợi thuỷ sản, tài
nguyên thiên nhiên và các tài sản khác thuộc sở hữu toàn dân đúng mục đích, có hiệu
quả, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước theo quy định của pháp luật”.

c) Tiểu mục sở hữu tư nhân đổi tên thành sở hữu riêng. Sở hữu riêng và tài sản thuộc
sở hữu riêng: được gộp Điều 211 về sở hữu tư nhân và Điều 212 về tài sản thuộc hình
thức sở hữu tư nhân của BLDS 2005 thành Điều 205 của DLDS 2015.
d) Sở hữu chung của cộng đồng: xác định rõ ràng tài sản chung của cộng đồng là tài
sản chung hợp nhất không phân chia theo điều 211 BLDS 2015.

e) Sở hữu chung của các thành viên trong gia đình: đưuọc BLDS 2015 thêm như một
điều luật mới là Điều 212 BLDS 2015 so với BLDS 2005.

f) Sở hữu chung của vợ chồng: tại Điều 213 BLDS 2015 được thêm 1 khoản mới so
với BLDS 2005 như sau: “Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa
thuận theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình thì tài sản chung của vợ
chồng được áp dụng theo chế độ tài sản này”.

g) Định đoạt tài sản chung: Điều 218 BLDS 2015 có một số thay đổi so với Điều 233
BLDS 2005 như sau: Bỏ “theo quy định của pháp luật” đối với quyền định đoạt của
mỗi chủ ở hữu: “Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở
hữu của mình” theo khoản 1 Điều 218 BLDS 2015. Cũng theo Điều 218 BLDS 2015,
thêm vào khoản 3 ý: “Việc thông báo phải được thể hiện bằng văn bản và các điều kiện
bán cho chủ sở hữu chung khác phải giống như điều kiện bán cho người không phải là
chủ sở hữu chung”.

Chia tài sản thuộc sở hữu chung: khoản 1 Điều 219 BLDS 2015 thêm ý “trừ trường
hợp các chủ sở hữu chung có thoả thuận khác” so với Điều 224 BLDS 2005: “Trường
hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu
13
chia tài sản chung; nếu tình trạng sở hữu chung phải được duy trì trong một thời hạn
theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của luật thì mỗi chủ sở
hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hạn đó; khi tài sản
chung không thể chia được bằng hiện vật thì chủ sở hữu chung có yêu cầu chia có
quyền bán phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp các chủ sở hữu chung có thỏa
thuận khác”.

Câu 3.2: Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt có được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ
hôn nhân với bà Thẩm không? Đoạn nào của quyết định số 377 (sau đây viết gọn là
Quyết định 377) cho câu trả lời?
Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn nhân với
bà Thẩm.

Phần xét thấy của Quyết định 377 có nêu: “Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa ông Lưu
với bà Thẩm là quan hệ hôn nhân hợp pháp và vẫn đang tồn tại theo quy định của
pháp luật. Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt, phường 6, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền
Giang được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn nhân giữa ông Lưu và bà Thẩm”.

Câu 3.3: Theo bà Thẩm, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của vợ chồng bà hay sở
hữu riêng của ông Lưu? Đoạn nào của Quyết định 377 cho câu trả lời?
Theo bà Thẩm, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của vợ chồng bà, không phải sở hữu
riêng của ông Lưu.

Phần nhận thấy của Quyết định 377 có nêu: “Còn bà thẩm cho rằng căn nhà số 150/6A
Lý Thường Kiệt trên diện tích 101m2 đất là tài sản chung của vợ chồng bà nên không
nhất trí theo yêu cầu của bà Xê.”

Câu 3.4: Theo Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao, căn nhà trên thuộc sở hữu
chung của ông Lưu, bà Thẩm hay thuộc sở hữu riêng của ông Lưu? Đoạn nào của
Quyết định 377 cho câu trả lời?
Theo Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao, căn nhà trên không thuộc sở hữu chung của
ông Lưu, bà Thẩm mà chỉ thuộc sở hữu riêng của ông Lưu.

Đoạn của Quyết định 377 cho câu trả lời: “Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt,
phường 6, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang đưuọc ông Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn
nhân giữa ông Lưu và bà Thẩm, nhưng từ năm 1975 ông Lưu đã chuyển vào miền Nam

14
công tác và căn nhà được tạo lập bằng nguồn thu nhập của ông, bà Thẩm không có
đóng góp về kinh tế cũng như công sức để cùng ông Lưu tạo lập ra căn nhà này nên
ông Lưu có quyền định đoạt đối với căn nhà nêu trên”.

Câu 3.5: Anh/chị có suy nghĩ gì về giải pháp trên của Toà dân sự Toà án nhân dân
tối cao?
Giải pháp trên của Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao là chưa hợp lí.

Theo khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định về tài sản chung của
vợ và chồng: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập
do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng
và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại
khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được
tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử
dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ
trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được
thông qua giao dịch bằng tài sản riêng”. Ở đây, Toà không công nhận căn nhà số
150/6A Lý Thường Kiệt là tài sản chung do căn nhà được tạo lập bằng nguồn thu nhập
của ông Lưu và bà Thẩm không có đóng góp công sức, kinh tế cùng ông Lưu. Tuy
nhiên, ông Lưu và bà Thẩm là vợ chồng hợp pháp nên theo điều luật đã nêu trên, tài
sản chung của vợ chồng có bao gồm thu nhập hợp pháp. Do đó, mặc dù thu nhập đó là
do ông Lưu làm ra nhưng vẫn là tài sản chung của hai vợ chồng ông Lưu và bà Thẩm
về mặt pháp luật. Điều đó cũng có nghĩa là căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt cũng là
tài sản chung của vợ chồng ông Lưu, bà Thẩm. Ngoài ra theo khoản 1 Điều 29 Luật
hôn nhân và Gia đình có nêu rõ: “Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ
trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa
lao động trong gia đình và lao động có thu nhập”. Nghĩa là căn nhà nêu trên vẫn là tài
sản chung của hai vợ chồng ông Lưu, bà Thẩm, không cần biết bà Thẩm có hay không
làm ra tiền và góp vốn xây dựng nhà.

Việc Tòa án công nhận căn nhà là tài sản riêng của ông Lưu là không phù hợp với quy
định của pháp luật và làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của bà Thẩm.

15
Câu 3.6: Nếu căn nhà trên là tài sản chung của ông Lưu và bà Thẩm thì ông Lưu có
thể di chúc định đoạt toàn bộ căn nhà này hay không? Nêu căn cứ pháp lí khi trả
lời.
Nếu căn nhà trên là tài sản chung của ông Lưu và bà Thẩm thì ông Lưu không thể di
chúc định đoạt toàn bộ căn nhà này.

Theo khoản 2 Điều 213 BLDS 2015 quy định: “Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát
triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản chung”. Do đó, trong trường hợp này, ông Lưu chỉ có quyền di chúc định
đoạt ½ căn nhà trên, ½ còn lại của căn nhà thuộc về bà Thẩm.

Phần 4: Diện thừa kế:


 Tóm tắt quyết định số 08/2013/DS-GĐT ngày 24/01/2013 của Tòa dán sự Tòa
án nhân dân tối cao.
Nguyên đơn: Phạm Thị Ơn.
Bị đơn: Bà Lý Thị Chắc.
Nội dung vụ án:
Khởi kiện ngày 08/7/2011 nguyên đơn trình bày rằng cụ Nguyễn Kỳ Huệ tạo dựng
được căn nhà bê tông cốt thép và một số vật dụng trong nhà từ trước năm 1975. Năm
1991 được Sở xây dựng tỉnh Tiền Giang cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu đất ở và
nhà ở. Năm 1999 cụ Huệ chết để lại di chúc định đoạt toàn bộ tài sản cho cho ông
Nguyễn Kỳ Hà (con trai cụ Huệ và là chồng Bà Phạm Thị Ơn), nhưng cãn nhà và khu
đất trên chưa được chưa sang tên chuyển quyền thì năm 2008 ông Hà chết, tháng
3/2011 bà Ơn mới được nhận giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng
đất.

Lúc Cụ Huệ còn sống có cho bà Lý Thị Chắc ở trong giữ nhà và vẫn đươc ông Hà cho
ở nhà sau khi cụ Huệ chết. Sau khi ông Hà chết bà Chắc đã cho 3 người cháu của mình
vào nhà ở khi chưa có sự đồng ý của bà Ơn. Bà ơn yêu cầu bà Chắc cùng ba người
cháu của bà Chắc di dời đi nơi khác, trả lại nhà và một số vật dụng trong nhà.

Bị đơn trình bày: năm 1978 nhà và khu đất tọa lạc tại số 3/58 quốc lộ 1A thị trấn Cai
Lậy đã bị Ủy ban nhân dân huyện Cai Lạy trưng dụng và bà Chắc là con nuôi của mẹ
ruột cụ Huệ và gia đình bà là gia đình có công nên dã xin lại nhà và đất, bà đã được Ủy

16
ban nhân dân huyện Cai Lạy giao quản lí từ đó đến nay. Bà không đồng ý trả nhà và
đất, bà yêu cầu Tòa công nhận toàn bộ phần nhà và đất trên cùng một số vật dụng trong
nhà là của bà.
Hướng giải quyết của Tòa án:
+ Tòa cho rằng nhà và đất tranh chấp quyền sở hữu thuộc về cụ Huệ, và do Nhà nước
đã công nhận quyền sở hữu từu trước khi cụ Huệ lập di chúc nên ông Hà thừa kế, sau
khi ông Hà chết thì bà Ơn và các con của ông Hà được thừa kế nhà cùng khu đất và đã
chuyển dịch quyền sở hữu, quyền sử dụng cho bà Ơn nên bà Ơn có quyền đòi bà Chắc
trả nhà và đất. Yêu cẩu của bà Chắc không được đồng ý do không có chứng cứ chứng
minh quyền sở hữu của nhà và quyền sử dụng đất là có căn cứ.
+Tuy nhiên cần xác định rõ thời điểm bà Chắc vào đất cụ Huệ để xử lí, nếu trước lúc
01/7/1991 thì phải áp dụng Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH11 để giải quyết cho
bà Chắc, đồng thời bà Chắc có công quản lí bảo quản nhà đất nên cần được xem xét
công bằng đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bà. Hơn nữa bà Chắc có khai là có
công đúng ra xin lại nhà đất cho cụ Huệ trong thời gian Nhà nước trưng dụng cần xem
xét thỏa đáng cho Bà chắc.
+Xác định lại đây là vụ án “đòi nhà cho ở nhờ” mới đúng

Câu 4.1: Bà Thẩm, chị Hương và bà Xê có thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông
Lưu không? Vì sao?
Chỉ có chị Hương và bà Thẩm thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu.
Theo điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng,
cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”. Còn bà Xê mặc dù
đã đăng kí kết hôn với ông Lưu nhưng vì ông Lưu chưa li hôn với bà Thẩm nên việc
ông kết hôn với bà Xê là bất hợp pháp nên không được hưởng thừa kế.

Câu 4.2: Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976 thì câu trả lời có khác
không? Vì sao?
Nếu ông Lưu và bà Xê kết hôn vào cuối năm 1976 thì câu trả lời sẽ khác.

Vì Nghị quyết số 02/HĐTP-TANDTC ngày 19/10/1990 có quy định: “Trong trường


hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13-01-1960 - ngày công bố Luật Hôn nhân và
gia đình năm 1959 - đối với miền Bắc; trước ngày 25-3-1977 - ngày công bố danh mục
văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước - đối với miền Nam và đối
với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết

17
hôn sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người vợ đều
là người thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại, người chồng là người
thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ”. Do ông Lưu cùng bà Xê đã chung sống
với nhau ở miền Nam (Tiền Giang) vào cuối 1976, trước thời hạn cuối cùng công nhận
hôn nhân thực tế ở miền Nam (25-3-1977) nên theo đó, bà Xê là vợ thực tế của ông
Lưu, nằm trong hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu theo Nghị quyết này.

Câu 4.3: Trong vụ việc này, chị Hương có được chia di sản của ông Lưu không? Vì
sao?
Trong vụ việc này, chị Hương không được chia tài sản của ông Lưu. Vì ông Lưu đã
viết di chúc để lại toàn bộ tài sản cho bà Xê, nên theo di chúc, chị Hương không được
hưởng phần nào từ di sản của ông Lưu. Nếu xét thêm chị Hương có thuộc trường hợp
được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc hay không thì theo khoản 1 Điều
644 BLDS 2015 quy định:
“Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một
người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ
không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn
hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.”
Ta thấy, chị Hương sinh năm 1965 tính đến này ông Lưu chết (năm 2003) thì chị đã
thành niên, chị cũng không bị mất khả năng lao động. Như vậy chị cũng không thuộc
trường hợp nào của Điều 644 BLDS 2015 nên không được hưởng di sản.

Câu 4.4: Theo pháp luật hiện hành, ở thời điểm nào người thừa kế có quyền sở hữu
đối với tài sản là di sản do người quá cố để lại? Nêu cơ sở khi trả lời.
Theo pháp luật hiện hành, thời điểm người thừa kế có quyền sở hữu đối với tài sản là di
sản do người quá cố để lại là thời điểm người thừa kế được nhận di sản đó.

Cơ sở pháp lý theo Điều 614 của BLDS 2015: “Kể từ để thời điểm mở thừa kế, những
người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết lại”.

18
Câu 4.5: Trong quyết dịnh số 08, theo nội dung của bản án, ở thời điểm nào người
thừa kế của ông Hà có quyền sở hữu nhà ở và đất có tranh chấp? Vì sao?
Thời điểm người thừa kế của ông Hà có quyền sở hữu nhà ở và đất có tranh chấp là sau
khi ông Hà chết vào ngày 12/5/2008. Vì theo Điều 614 BLDS 2015: “Kể từ để thời
điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để
lại”.

Phần 5: Thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc


 Tóm tắt Bản án số 2493/2009/DS-ST ngày 04/9/2009 của Tòa án nhân dân
Tp.HCM.
Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị Khót.
Bị đơn: ông Nguyễn Tài Nhật.
Nội dung bản án:
Cụ Nguyễn Thị Khánh và cụ An Văn Lầm (chết năm 1928) có 2 con là bà Nguyễn Thị
Khót và ông An Văn Tâm. Cụ Khánh và cụ Ngọt có 1 con là ông Nguyễn Tài Nhật
sinh năm 1930. Ngày 13/1/1976 cụ Khánh làm tờ ủy quyền nhà cho ông Nhật với nội
dung là được trọn quyền sử dụng căn nhà.

Ngày 30/5/1992 cụ Khánh lập di chúc cho ông Nhật là người duy nhất được quyền
thừa kế căn nhà. Năm 2000 cụ Khánh chết.

Nay, bà Khót làm đơn yêu cầu Tòa án cho ông Tâm và bà được hưởng thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung di chúc vì lý do không có khả năng lao động.
Hướng giải quyết của Tòa án:
+ Xác định ông Tâm, ông Nhật và bà Khót đều là con cụ Khánh.
+ Không chấp nhận yêu cầu được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di
chúc của ông Tâm, bà Khót.

Câu 5.1: Đoạn nào của Quyết định cho thấy ông Lưu đã định đoạt bằng di chúc
toàn bộ tài sản của ông Lưu cho bà Xê?
Đoạn của Quyết định cho thấy ông Lưu đã định đoạt bằng di chúc toàn bộ tài sản của
ông Lưu cho bà Xê: “Việc ông Lưu lập văn bản đề là “Di chúc” ngày 27-7-2002 là thể

19
hiện ý chí của ông Lưu để lại tài sản của ông cho bà Xê là có căn cứ, phù hợp với quy
định của pháp luật.”

Câu 5.2: Bà Xê, bà Thẩm, bà Hương cho thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung di chúc đối với di sản của ông Lưu không? Vì sao?
Căn cứ theo khoản 1 Điều 644 BLDS 2015 về Quyền thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung di chúc:
“Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một
người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ
không được lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai
phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.”
Bà Thẩm là vợ hợp pháp của ông Lưu, đồng thời không còn khả năng lao động, do đó
bà Thẩm thuộc diện được hưởng thừa kế không thuộc vào nội dung di chúc đối với di
sản ông Lưu.

Chị Hương là người thành niên và có khả năng lao động, do đó chị Hương không thuộc
diện được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của
ông Lưu.

Bà Xê không là vợ hợp pháp của ông Lưu, do đó, bà Xê không thuộc diện được hưởng
thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu.

Câu 5.3: Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, vì sao bà Thẩm được hưởng
thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu?
Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, bà Thẩm được hưởng thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu vì bà Thẩm là vợ hợp pháp
của ông Lưu và không có khả năng lao động.
Đoạn của Quyết định cho câu trả lời: “Tuy nhiên cho bà Thẩm đang là vợ hợp pháp của
ông Lưu đã già yếu, không còn khả năng lao động, theo quy định tại Điều 669 Bộ luật
dân sự thì bà Thẩm được thừa kế tài sản của ông Lưu mà không phụ thuộc vào nội
dung của ông Lưu.”

20
Câu 5.4: Nếu bà Thẩm khỏe mạnh, có khả năng lao động thì được hưởng thừa kế
không phụ thuộc nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu? Vì sao?
Nếu bà Thẩm khỏe mạnh có khả năng lao động thì vẫn được hưởng thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu.
Vì căn cứ vào Điều 644 BLDS 2015 quy định về Người thừa kế không phụ thuộc vào
nội dung di chúc như sau:
“1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng 2/3 suất của một người
thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật trong trường hợp họ không
được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn 2/3
suất đó
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.”
Bà Thẩm là vợ hợp pháp của ông Lưu nên đã thỏa mãn điểm a khoản 1 của điều luật
trên mà không cần cần phải có yếu tố còn hay không còn khả năng lao động. Do đó, bà
Thẩm thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc đối với di
sản của ông Lưu.

Câu 5.5: Nếu di sản của ông Lưu có giá trị 600 tiệu đồng thì bà Thẩm sẽ được
hưởng khoản tiền là bao nhiêu? Vì sao?
Nếu di sản của ông Lưu có giá trị 600 triệu đồng thì bà Thẩm sẽ được hưởng khoảng
tiền là 200 triệu đồng. Vì:
Nếu chia theo di chúc thì bà Xê sẽ là người được hưởng toàn bộ di sản. Nhưng giả sử
như ông Lưu chết không để lại di chúc nên di sản được chia theo pháp luật:
Bà Thẩm = chị Hương = 600/2= 300 triệu đồng.
Theo Điều 644 BLDS 2015 thì 2/3 của một suất thừa kế sẽ bằng:
2/3 x 300 triệu = 200 triệu.
Bà Thẩm thuộc trường hợp được quy định tại Điều 644 BLDS 2015 về người thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung di chúc nên sẽ được hưởng 200 triệu đồng. Khoảng tiền
này sẽ do bà Xê (người được hưởng di chúc) trích ra từ phần di sản được hưởng để bù
vào.

21
Câu 5.6: Nếu bà Thẩm yêu cầu chia di sản bằng hiện vật thì yêu cầu của bà Thẩm
có được chấp nhận không? Vì sao?
Nếu bà Thẩm yêu cầu chia di sản bằng hiện vật thì yêu cầu của bà Thẩm được chấp
nhận.
Bởi vì lúc đầu khi bà Thẩm và ông Lưu kết hôn tài sản chung của hai vợ chồng là một
căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt, diện tích 101m², thành phố Mỹ Tho. Mặc dù sau
năm 1975 ông Lưu đã vào miền Nam công tác và và căn nhà được tạo lập bởi nguồn
thu của ông Lưu, tuy nhiên trước đó vẫn là tài sản chung của ông Lưu và và bà Thẩm
do đó bà Thẩm có quyền yêu cầu chia di sản bằng hiện vật là nhà và đất thuộc phần di
sản trên.

Câu 5.7: Trong bản án số 2493 (sau đây viết gọn là Bản án, đoạn nào của bản án
cho thấy bà Khót, ông Tâm và ông Nhật là con của cụ Khánh?
Đoạn trong Bản án cho thấy bà Khót, ông Tâm và ông Nhật là con của cụ Khánh là:
“Mặc dù các đương sự không xuất trình được giấy khai sinh một cách đầy đủ nhưng
đều thống nhất xác nhận các con của cụ Khánh là bà Khót, ông Tâm, ông Nhật.”

Câu 5.8: Ai được cụ Khánh di chúc cho hưởng toàn bộ tài sản có tranh chấp?
Ông Nguyễn Tài Nhật là người duy nhất được cụ Khánh di chúc cho hưởng toàn bộ tài
sản có tranh chấp.

Câu 5.9: Tại thời điểm cụ Khánh chết, bà Khót và ông Tâm có là con thành niên của
cụ Khánh không? Đoạn nào của Bán án cho câu trả lời?
Tại thời điểm cụ Khánh chết, bà Khót và ông Tâm không là con thành niên của cụ
Khánh.
Đoạn của Bản án cho câu trả lời là: “Tại thời điểm mở thừa kế bà Khót đã 71 tuổi, ông
Tâm 68 tuổi”. Theo các quy định của pháp luật hiện hành thì người chưa thành niên là
người chưa đủ 18 tuổi và theo khoản 1 Điều 611 BLDS 2015 thì thời điểm mở thừa kế
là thời điểm người có tài sản chết nên chúng ta có thể suy ra câu trả lời thông qua đoạn
trên của Bản án.

Câu 5.10: Bà Khót và ông Tâm có được Tòa án chấp nhận cho hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung di chúc không? Đoạn nào của Bản án cho câu trả
lời?
Bà Khót và ông Tâm không được Tòa án chấp nhận cho hưởng thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung di chúc.

22
Đoạn của Bản án cho câu trả lời là:
“Các nguyên đơn cũng không xuất trình được chứng cứ chứng minh tại thời điểm mở
thừa kế họ là những người không có khả năng lao động. Hơn nữa, từ trước đến nay
ông Tâm, bà Khót có đời sống kinh tế độc lập, không phụ thuộc vào cụ Khánh. Bà Khót
có gia đình, có tài sản riêng, bản thân bà hàng tháng còn được hưởng chế độ chính
sách của nhà nước theo diện người có công với cách mạng khoảng 400.000 đồng; còn
ông Tâm tuy là thương binh 2/4, theo quy định là ông bị suy giảm khả năng lao động
là 62% nhưng ông cũng đã được hưởng chính sách đãi ngộ của nhà nước hàng tháng
ông lãnh hơn 2.000.000 đồng nên Hội đồng xét xử nhận thấy không có cơ sở để chấp
nhận yêu cầu của bà Khót, ông Tâm về người được hưởng thừa kế không phụ thuộc
vào nội dung di chúc.”

Câu 5.11: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
Theo tôi, hướng giải quyết trên của Tòa án là hợp lý. Hiện nay vẫn chưa có một chế
định nào trong BLDS quy định cụ thể về thế nào là có khả năng lao động và thế nào là
không có khả năng lao động. Trên thực tế cũng có nhiều quan điểm khác nhau về vấn
đề này.

Tuy nhiên tôi lại đồng ý với quan điểm cho rằng “con thành niên mà không có khả
năng lao động là con thành niên (đủ 18 tuổi trở lên) suy giảm khả năng lao động (tổn
thương cơ thể từ) từ 81% trở lên do thương tích, do bệnh, tật, do bệnh nghề nghiệp, do
già yếu” và phải có kết luận giám định của Hội đồng giám định Y khoa hoặc Hội đồng
giám định Pháp y tâm thần. 4 Trong Bản án trên, Tòa án đã cho rằng “độ tuổi lao động
là cơ sở xác định người hết tuổi lao động để được hưởng các chế độ đã ngộ chứ không
phải là căn cứ để xác định một người không còn khả năng lao động” là hoàn toàn phù
hợp vì trên thực tế có rất nhiều người đến độ tuổi nghỉ hưu nhưng vẫn còn khả năng lao
động. Bên cạnh đó, “khả năng lao động của con người là tổng hợp năng lực về cả thể
chất và tinh thần hay nói cách khác chính là sức lao động của con người được vận dụng
trong quá trình lao động tạo ra của cải, vật chất” 5 nên không thể chỉ dựa vào độ tuổi để
xác định như yêu cầu của bà Khót và ông Tâm.
4
Kim Quỳnh, Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc: CON THÀNH NIÊN MÀ KHÔNG CÓ
KHẢ NĂNG LAO ĐỘNG, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/nguoi-thua-ke-khong-phu-thuoc-vao-noi-
dung-di-chuc-con-thanh-nien-ma-khong-co-kha-nang-lao-dong, truy cập ngày 21/5/2021.
5
Kim Quỳnh, Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc: CON THÀNH NIÊN MÀ KHÔNG CÓ
KHẢ NĂNG LAO ĐỘNG, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/nguoi-thua-ke-khong-phu-thuoc-vao-noi-
dung-di-chuc-con-thanh-nien-ma-khong-co-kha-nang-lao-dong, truy cập ngày 21/5/2021.

23
Điều 644 BLDS 2015 được đặt ra nhằm đảm bảo quyền lợi cho những người thừa kế,
tuy nhiên cần phải xác định rõ người thừa kế đó có phù hợp các điều kiện đề được thừa
kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc hay không nhằm đảm bảo đúng ý chí và
nguyện vọng ban đầu của người để lại di sản.

Câu 5.12: Hướng giải quyết có khác không khi ông Tâm bị tai nạn mất 85% sức lao
động? Vì sao?
Hướng giải quyết sẽ khác khi ông Tâm bị tai nạn mất 85% sức lao động. Theo căn cứ,
nội dung phân hạng và cách sắp xếp bệnh tật của Thông tư Của Bộ y tế Số
32-BYT/TT ngày 23/8/1976 Ban hành tiêu chuẩn thương tật và tiêu chuẩn mất sức lao
động mới thì “Hạng A (tàn phế): tổn thương bệnh lý trầm trọng và kéo dài, coi như mất
khả năng lao động từ 81% trở lên, không lao động, công tác được, không tự phục vụ
được mà phải có người thường xuyên chăm sóc.”

Thế nên, ông Tâm sẽ coi như là người mất khả năng lao động và thuộc đối tượng của
điểm b khoản 1 Điều 644 BLDS 2015: “Con thành niên mà không có khả năng lao
động” nên sẽ được hưởng ⅔ di sản của cụ Khánh tức là 400 triệu đồng.

Câu 5.13: Nêu những điểm giống và khác nhau giữa di chúc và tặng cho tài sản.
*Giống nhau:
Di chúc và tặng cho tài sản đều là sự chuyển giao tài sản hoặc quyền tài sản trên tinh
thần tự nguyện giữa các bên.

*Khác nhau

DI CHÚC TẶNG CHO TÀI SẢN


TIÊU CHÍ
Quy định tại Chương Quy định tại Mục 3
CĂN CỨ PHÁP LÝ
XXII BLDS 2015 Chương XVI BLDS 2015
KHÁI NIỆM Di chúc là sự thể hiện ý Hợp đồng tặng cho tài sản
chí của cá nhân nhằm là sự thỏa thuận giữa các
chuyển quyền tài sản của bên, theo đó bên tặng cho
mình cho người khác sau giao tài sản của mình và
khi chết. chuyển quyền sở hữu cho

24
bên được tặng cho mà
không yêu cầu đền bù, bên
được tặng cho đồng ý
nhận.
Tài sản. Tài sản đang có, đang tồn
ĐỐI TƯỢNG tại chứ không phải tài sản
hình thành trong tương lai.
Thể hiện tâm nguyện, Sự thỏa thuận giữa bên
BẢN CHẤT mong muốn chủ quan của được tặng cho với bên
người để lại di sản. tặng cho.
HÌNH THỨC Đối với di chúc phải Tặng cho bất động sản
được lập thành văn bản: phải được lập thành văn
+ Di chúc bằng văn bản có công chứng, chứng
bản không có người làm thực hoặc phải đăng ký,
chứng; nếu bất động sản phải
+ Di chúc bằng văn đăng ký quyền sở hữu
bản có người làm chứng; theo quy định của Luật
+ Di chúc bằng văn Dân sự.
bản có công chứng;
+ Di chúc bằng văn
bản có chứng thực.
- Nếu không thể lập
bằng văn bản thì có thể
lập di chúc miệng.
Di chúc của người từ đủ
15 tuổi đến chưa đủ 18
tuổi phải được lập thành
văn bản và phải được cha,
mẹ hoặc người giám hộ
đồng ý.
Di chúc của người bị hạn
chế về thể chất hoặc của
người không biết chữ phải
được người làm chứng lập
25
thành văn bản và có công
chứng hoặc chứng thực.
Di chúc có hiệu lực từ thời - Nếu hợp đồng tặng
điểm mở thừa kế. Thời cho là động sản: có hiệu
điểm mở thừa kế là thời lực kể từ thời điểm bên
điểm người có tài sản được tặng cho nhận được
chết. Trường hợp Tòa án tài sản.
THỜI ĐIỂM NHẬN tuyên bố một người là đã - Nếu đối tượng của
ĐƯỢC TÀI SẢN chết thì thời điểm mở thừa hợp đồng là bất động sản:
kế là ngày được xác định phải lập thành văn bản có
tại khoản 2 Điều 71 của công chứng, chứng thực
Bộ luật dân sự 2015. hoặc phải đăng ký và có
hiệu lực kể từ thời điểm
đăng ký.
- Người thừa kế được - Hợp đồng tặng cho
quyền nhưng đồng thời tài sản là hợp đồng không
phải có trách nhiệm thực có đền bù. Do đó, người
hiện nghĩa vụ tài sản do được tặng cho không phải
người chết để lại, trừ hoàn trả một lợi ích hay
trường hợp có thoả thuận thực hiện một nghĩa vụ tài
THỰC HIỆN NGHĨA khác. sản nào.
VỤ TÀI SẢN - Người thừa kế không
phải là cá nhân hưởng di
sản theo di chúc thì cũng
phải thực hiện nghĩa vụ tài
sản do người chết để lại
như người thừa kế là cá
nhân.
CÁC CHỦ THỂ - Người để lại di sản - Đáp ứng đủ điều kiện
phải là người thành niên, được thực hiện giao dịch
minh mẫn, sáng suốt trong dân sự theo quy định
khi lập di chúc; không bị - Bên nhận tặng cho tài
lừa dối, đe doạ, cưỡng ép. sản nếu là cá nhân thì phải
Với người từ đủ 15 tuổi còn sống; nếu là tổ chức
26
đến chưa đủ 18 tuổi được thì phải tồn tại vào thời
lập di chúc, nếu được cha, điểm tặng cho tài sản.
mẹ hoặc người giám hộ
đồng ý.
- Người được hưởng
thừa kế theo di chúc:
+ Nếu là cá nhân
phải còn sống vào thời
điểm mở thừa kế. Bên
cạnh đó người được nhận
di sản phải được sinh ra
và còn sống sau thời điểm
mở thừa kế nhưng đã
thành thai trước khi người
để lại di sản chết.
+ Trường hợp người
hưởng thừa kế theo di
chúc không là cá nhân thì
phải phải tồn tại vào thời
điểm mở thừa kế.

Câu 5.14: Nếu ông Lưu không định đoạt tài sản của ông cho bà Xê bằng di chúc mà
trước khi chết, ông Lưu làm hợp đồng tặng cho bà Xê toàn bộ tài sản củaông Lưu
thì bà Thẩm có được hưởng một phần di sản của ông Lưu như trên không?
Nếu Ông Lưu không định đoạt tài sản cho bà Xê bằng di chúc mà trước khi chết ông
Lưu làm hợp đồng tặng cho bà Xê toàn bộ tài sản của ông Lưu thì bà Thẩm không
được hưởng một phần di sản của ông Lưu. Bởi vì trong trường hợp bà Thẩm được
hưởng thừa kế theo diện không phụ thuộc nội dung di chúc thì mới được pháp luật bảo
vệ quyền lợi là được hưởng 2/3 của một suất thừa kế theo pháp luật còn ở trường hợp
này thì chưa có quy định nào bảo vệ những người trong diện thừa kế trên. Hợp đồng
tặng cho có thể coi là định đoạt tuyệt đối đối với tài sản của mình cho người được tặng
theo ý chí của người tặng vì vậy chế định thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc
không có cơ sở để can thiệp áp dụng.

27
Câu 5.15: Đối với hoàn cảnh như câu trên, pháp luật nước ngoài điều chỉnh như
thế nào?
BLDS Campuchia:
Theo Điều 568 BLDS Campuchia định nghĩa về hợp đồng cho tặng: “Hợp đồng cho
tặng là hợp đồng có hiệu lực khi một trong các bên có hành vi chuyển giao miễn phí tài
sản cho bên kia và được bên kia chấp thuận.”. Trong BLDS Campuchia cũng không
có điều luật nào để bảo vệ người thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc khi người
có tài sản định đoạt tài sản của mình cho người khác không theo cách thức của di chúc
mà tặng cho tài sản.

Nếu như trong BLDS Việt Nam có trường hợp những người thừa kế không phụ thuộc
vào nội dung di chúc thì BLDS Campuchia có quy định về những người có quyền thừa
kế bắt buộc. Theo Điều 1230 BLDS Campuchia quy định về người có quyền thừa kế
bắt buộc:
“1. Người có quan hệ trực hệ bề dưới hoặc cha mẹ, ông bà và vợ/chồng của
người để lại thừa kế có thể nhận được các tài sản dưới đây xem như phần thừa kế bắt
buộc.
a) Trường hợp chỉ có cha mẹ hoặc ông bà là người thừa kế thì được hưởng 1/3
tài sản của người được để lại thừa kế
b) Trường hợp khác thì được hưởng 1/2 tài sản của người để lại thừa kế.
2. Trường hợp có nhiều người thừa kế thì những người có quyền thừa kế bắt buộc
có thể được nhận phần thừa kế bắt buộc theo tỷ lệ của phần thừa kế.
3. Quy định tại Điều 1157 (Thừa kế thế vị) và Điều 1158 (Phần thừa kế trong
trường hợp thừa kế thế vị) cũng được áp dụng cho phần thừa kế bắt buộc.”
Do đó, trong BLDS Campuchia có một trường hợp đặc biệt về cho tặng mà ở đó người
có quyền thừa kế bắt buộc sẽ được bảo vệ đó là trường hợp cho tặng bằng di chúc. Cụ
thể, tại Điều 1199 BLDS Campuchia có quy định: “Việc cho tặng bằng di chúc bao
quát là việc cho tặng trong đó người để lại di chúc thông qua di chúc để thực hiện cho
tặng toàn bộ hoặc một phần tài sản theo tỉ lệ chỉ định cho một hoặc nhiều người, cho
tặng bằng di chúc xác định là cho tặng trong đó người để lại di chúc thông qua di chúc
để thực hiện cho tặng các tài sản xác định cho một hoặc nhiều người.” Để tránh trường
hợp những người thừa kế bắt buộc không được hưởng phần thừa kế của mình thì tại
Điều 1237 có quy định về việc cắt giảm phần cho tặng bằng di chúc:

28
“1. Trường hợp khi cắt giảm đồng thời cho tặng bằng di chúc cho người thừa kế
và chỉ định phần thừa kế trước nhưng vẫn không đủ thì sẽ tiến hành cắt giảm cho tặng
bằng di chúc dành cho người khác với người thừa kế.
2. Cho tặng bằng di chúc bị cắt giảm theo tỉ lệ giá trị mục đích của nó. Trường
hợp chỉ định phần thừa kế bằng cách chuyển nhượng một hoặc nhiều tài sản xác định
cũng áp dụng tương tự. Tuy nhiên, trường hợp cho tặng bằng di chúc cho người thừa
kế và chỉ định cho tặng trở thành đối tượng trong cắt giảm phần thừa kế bắt buộc thì
sẽ lấy phần vượt quá giá trị thừa kế bắt buộc của người thừa kế đó làm giá trị mục
đích.
3. Chỉ định phần thừa kế theo tỷ lệ đối với tài sản thừa kế sẽ bị cắt giảm bằng
cách thay đổi tỷ lệ đó.
4. Trường hợp người để lại di chúc thể hiện ý chí khác trong di chúc thì phải dựa
trên ý chí đó mà không phụ thuộc vào quy định tại các khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều
này.”

Câu 5.16: Suy nghĩ của anh/chị về khả năng mở rộng chế định đang nghiên cứu
cho cả hợp đồng tặng cho.
Theo nhóm em thì có khả năng mở rộng chế định đang nghiên cứu cho cả hợp đồng
tặng cho. Vì quy định pháp luật về tặng cho tài sản còn nhiều bất cập cần được sửa đổi,
bổ sung. Ví dụ: Hiệu lực của hợp đồng tặng cho bất động sản chưa có sự thống nhất
giữa Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật Nhà ở năm 2014. Khoản 1 Điều 122 Luật Nhà ở
năm 2014 quy định: “Trường hợp mua bán, tặng cho, đổi, góp vốn, thế chấp nhà ở,
chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở thương mại thì phải thực hiện công chứng,
chứng thực hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này. Đối với các giao
dịch quy định tại khoản này thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm công
chứng, chứng thực hợp đồng”. Trong khi đó, theo quy định của Bộ luật Dân sự năm
2015 thì hợp đồng tặng cho tài sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký đối với tài sản
tặng cho phải đăng ký sở hữu. Đó chỉ là một trong nhiều bất cập mà pháp luật nước ta
còn vướng phải. Vì vậy chế định đang nghiên cứu cho cả hợp đồng tặng cho bắt buộc
phải mở rộng, sửa đổi, bổ sung để tránh tình trạng chồng chéo, bất cập giữa các luật
với nhau như hiện tại

29
Phần 6: Nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản.

Câu 1: Theo BLDS, những nghĩa vụ nào của người để lại di sản được ưu tiên thanh
toán?
Theo Điều 658 BLDS 2015 quy định:
“Các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán theo
thứ tự sau đây:
1. Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng.
2. Tiền cấp dưỡng còn thiếu.
3. Chi phí cho việc bảo quản di sản.
4. Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ.
5. Tiền công lao động.
6. Tiền bồi thường thiệt hại.
7. Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước.
8. Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân.
9. Tiền phạt.
10. Các chi phí khác.”
Các khoản này được liệt kê theo thứ tự từ 1 đến 10, cũng là thứ tự ưu tiên thanh toán từ
trên xuống dưới. Theo đó, những khoản được quy định trước thì được ưu tiên thanh
toán trước và thanh toán hết, thì mới tiếp tục thanh toán đến khoản tiếp theo, và lần
lượt như vậy cho đến khi thanh toán hết nghĩa vụ, chi phí hoặc hết di sản (trường hợp
nghĩa vụ, chi phí lớn hơn di sản để lại). Có nghĩa, khi thanh toán đến thứ tự ưu tiên nào
mà di sản không còn thì các nghĩa vụ, chi phí còn lại sẽ không được thanh toán và
người có quyền trong trường hợp này đành gánh chịu rủi ro vì không lấy lại được
khoản tiền từ người chết.6

Câu 2: Ông Lưu có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi trưởng
thành không?
Ông Lưu có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành. Vì
theo khoản 2 Điều 69 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định: “2. Trông nom,
6
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2020), Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa
kế, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr. 617.

30
nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã
thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có
tài sản để tự nuôi mình.”

Và cũng theo khoản 1 Điều 71 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định: “1. Cha, mẹ
có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành
niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động
và không có tài sản để tự nuôi mình.”
Ở đây, chị Hương là con chung của ông Lưu và bà Thẩm, vậy nên cả ông Lưu và bà
Thẩm đều có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành theo
quy định của những điều luật nêu trên.

Câu 3: Đoạn nào của Quyết định cho thấy bà Thẩm tự nuôi dưỡng chị Hương từ
khi còn nhỏ đến khi trưởng thành?
Trích Quyết định số 377/2008/DS-GDT ngày 23/12/2008 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao: “Mặt khác, trong suốt thời gian từ khi ông Lưu vào miền Nam công tác, bà
Thẩm là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung từ lúc còn nhỏ cho đến khi trưởng
thành, khi giải quyết lại cũng cần xem xét đến công sức nuôi con chung của bà Thẩm
và trích từ giá trị khối tài sản của ông Lưu để bù đắp công sức nuôi con chung cho bà
Thẩm (nếu bà Thẩm có yêu cầu).”

Câu 4: Theo tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, nếu bà Thẩm yêu cầu thì có phải
trích cho bà Thẩm từ di sản của ông Lưu một khoản tiền để bù đắp công sức nuôi
dưỡng con chung không?
Theo tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, nếu bà Thẩm yêu cầu thì phải trích cho bà
Thẩm từ di sản của ông Lưu một khoản tiền để bù đắp công sức nuôi dưỡng con chung.
Vì trong Quyết định số 377/2008/DS-GDT ngày 23/12/2008 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao có nói: “Mặt khác, trong suốt thời gian từ khi ông Lưu vào miền Nam
công tác, bà Thẩm là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung từ lúc còn nhỏ cho đến khi
trưởng thành, khi giải quyết lại cũng cần xem xét đến công sức nuôi con chung của bà
Thẩm và trích từ giá trị khối tài sản của ông Lưu để bù đắp công sức nuôi con chung
cho bà Thẩm (nếu bà Thẩm có yêu cầu).”

31
Câu 5: Trên cơ sở các quy định về nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản, anh/chị
hãy giải thích giải pháp trên của Tòa án.
Giải pháp của Tòa án là hợp lý.
Vì theo Điều 637 BLDS 2005 quy định:
“1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm
vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
2. Trong trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
được người quản lý di sản thực hiện theo thoả thuận của những người thừa kế.
3. Trong trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài
sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã
nhận, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
4. Trong trường hợp Nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc thì cũng
phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.”

Mặc dù tài sản ông Lưu tạo lập được là bằng nguồn thu nhập của ông, bà Thẩm không
có đóng góp về kinh tế, thế nhưng trong suốt quá trình chị Hương còn nhỏ đến khi
trưởng thành thì bà Thẩm là người trực tiếp nuôi dưỡng, ông Lưu không đóng góp.
Theo khoản 2 Điều 69 Luật Hôn nhân và gia đình 2014:“Trông nom, nuôi dưỡng,
chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên
mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để
tự nuôi mình.”
Và khoản 1 Điều 71 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: “Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền
ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên
mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để
tự nuôi mình.”

Cả ông Lưu và bà Thẩm đều có nghĩa vụ phải chăm sóc chị Hương, nhưng nghĩa vụ ấy
từ nhỏ đến khi chị Hương trưởng thành chỉ có bà Thẩm thực hiện, ông Lưu đã không
thực hiện đúng nghĩa vụ của mình. Vậy nên, sau khi ông chết đi, ông vẫn thiếu một
phần tiền cấp dưỡng dành cho chị Hương, đây là phần tiền mà đáng ra khi còn sống
ông phải cấp dưỡng. Nên lúc này di sản của ông Lưu phải trích ra một phần tiền cấp
dưỡng cho chị Hương, và vì chị được bà Thẩm nuôi dưỡng từ nhỏ nên phần tiền này
thuộc về bà Thẩm để bù đắp công sức nuôi con chung của bà. Trong trường hợp này,
số tiền mà ông Lưu phải trả cho bà Thẩm cũng giống như số nợ còn thiếu bà Thẩm,

32
đây cũng chính là nghĩa vụ tài sản của ông Lưu nên phải trích ra trả nợ. Tuy nhiên, điều
này chỉ xảy ra khi bà Thẩm có yêu cầu bù đắp, đây là một giải pháp hợp lý về cả tình
và lý của Tòa án.

Phần 7:
 Tóm tắt quyết định số 619/2011/DS-GĐT ngày 18/08/2011 của Tòa án nhân
dân tối cao về việc “Chia thừa kế theo di chúc”:

Nguyên đơn: anh Lê Quốc Toàn


Bị đơn: chị Lê Thị Thu, anh Lê Quốc Tuấn
Nội dung: ông Lê Gia Minh (cha của nguyên đơn và bị đơn) có 2 người vợ là bà Lê
Thị Bằng và bà Nguyễn Thị Lan. Ông Minh và bà Bằng có 2 người con chung là anh
Lê Văn Vinh và chị Lê Thị Xuyên, ông Minh và bà Lan có 5 con chung là: Lê Thị Thu,
Lê Quốc Toàn, Lê Quốc Tuấn, Lê Hồng Thúy, Lê Thiên Hương, ngoài ra còn có chị
Hoàng Thị Sâm là con riêng của bà Lan. Theo di chúc ông Minh để lại trước khi chết là
bán đi 55m2 đất tại 64 Trần Đăng Ninh và chia cho tất cả các con.

Sau khi ông Minh mất, bà Lan chuyển nhượng phần đất trong di chúc và chia cho các
con theo di chúc ông Minh, riêng anh Toàn cho rằng số vàng 10 cây anh được chia
theo di chúc của ông Minh bà Lan không đưa cho anh mà dùng để xây nhà 3 tầng. Năm
1998, bà Lan viết di chúc chia cho các con đất và vàng, phần của anh Toàn là 10 cây
vàng và căn nhà 3 tầng số 120 Cầu Giấy, tuy nhiên năm 2005, sau khi bà Lan mất đi thì
anh chị em mâu thuẫn, đuổi vợ chồng nguyên đơn ra khỏi nhà.

Anh Tuấn và chị Thu quản lý nhà, cho thuê bán quần áo vì cả 2 cho rằng trước khi
chết, bà Lan đã làm văn bản hủy di chúc do bà lập năm 1998, bản di chúc do cháu
ngoại của bà Lan viết hộ, các con đều ký trừ anh Toàn. Thế nhưng, nguyên đơn không
đồng ý vì bản di chúc đó không được công chứng, chứng thực, không hợp lệ theo quy
định của pháp luật. Vì vậy, nguyên đơn yêu cầu anh chị em trong gia đình trả lại căn
nhà 3 tầng theo di chúc bà Lan, yêu cầu Tuấn và Thu trả lại tiền cho thuê căn nhà từ
khi mẹ anh mất. Còn bị đơn, đề nghị Tòa án xem xét hủy bản di chúc có hiệu lực pháp
luật.
Hướng giải quyết của Tòa án:

33
Tòa án đưa ra những thiếu sót của Tòa sơ thẩm và Tòa phúc thẩm. Đồng thời xem xét
xem việc hủy bản di chúc của bà Lan có đúng với ý chí của bà không, nếu có, phải chia
thừa kế theo pháp luật và xem xét yêu cầu của nguyên đơn về việc phân chia tiền cho
thuê nhà.
Chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, hủy cả bản án dân sự
phúc thẩm và sơ thẩm. Giao hồ sơ vụ án cho TAND quận Cầu giấy xét xử lại.

 Tóm tắt quyết định số 767/2011/DS-GĐT ngày 17/10/2011 của Tòa án nhân
dân tối cao về vụ án: Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất:

Nguyên đơn: anh Dương Văn Đang


Bị đơn: ông Dương Văn Sáu
Nội dung: về phía nguyên đơn, năm 1994 cụ Trượng (ông nội anh) cho anh 3530m 2
thuộc thửa 543. Ngày 1-3-1997, cụ lập di chúc cho anh 3000m 2 trong tổng số nêu trên.
Năm 1996, anh cho vợ chồng ông Dương Văn Sáu (con cụ Trượng), bà Đỗ Thị Hơn
530m2 để canh tác. Nhưng hiện tại vợ chồng ông Sáu đang canh tác 1500m 2 đất và cho
rằng cụ Trượng viết lại di chúc năm 1999 cho vợ chồng ông Sáu diện tích đất này,
nhưng anh không biết có di chúc năm 1999 và anh không chấp nhận di chúc đó. Anh
yêu cầu vợ chồng bị đơn phải trả cho anh 1500m2 đất. Song về phía bị đơn lại nói rằng
năm 1997 ông bà nhận nuôi vợ chồng cụ Trượng, ngày 7-2-1999 cụ Trượng lập di chúc
cho ông bà 1000m2 đất và có xác nhận của chính quyền địa phương. Gia đình ông bà
sử dụng từ đó đến nay nên không công nhận yêu cầu của nguyên đơn.
Hướng giải quyết của Tòa án:
TAND tối cao chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
đồng thời cũng nhận định thêm chữ ký của cụ Trượng tại giấy cam kết và 2 tài liệu trên
là có sự khác nhau, nên cần làm rõ thêm. Vậy nên, tòa án quyết định huỷ bản phúc
thẩm và sơ thẩm, giao hồ sơ lại cho TAND tỉnh Hậu giang xét xử.

 Tóm tắt quyết định số 194/2012/DS- GĐT ngày 23/4/2012 của Tòa dân sự Tòa
án nhân dân tối cao.

Nguyên đơn: Ông Bùi Văn Nhiên.


Bị đơn: Ông Bùi Văn Mạnh.

34
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Các ông, bà Bùi Thị My, Bùi Văn Cường, Bùi
Thị Hoàn, Bùi Thị Lương, Bùi Thị Hiệp và Bùi Thị Hạnh.
Nội dung vụ án:
Cụ Bùi Hữu Môn và cụ Hoàng Thị Giảng có 5 người con là Bùi Thị My, Bùi Văn Đức,
Bùi Văn Nhiên, Bùi Thị Lương và Bùi Văn Mạnh. Di sản chung của hai cụ gồm một
nhà ngói 5 gian (không còn giá trị sử dụng) trên 169,3m2 đất ở thuộc thửa 270, tờ bản
đồ số 19 tại xã Đức Thắng, huyện Tiên Lữ, Hưng Yên đứng tên cụ Môn.

15/5/1998, cụ Môn lập di chúc được chứng thực cho ông Đức 4m đất “theo hướng từ
Tây sang Đông kéo dọc chiều dài thửa đất”, diện tích đất còn lại “dùng để làm nhà thờ
cúng gia tiên” giao cho ông Mạnh quản lý. Trong di chúc có ghi tên nhưng lại không
có chữ ký của cụ Giảng. Năm 1999 âm lịch, cụ Giảng chết không để lại di chúc.
Ngày 11/4/2000, cụ Môn tổ chức họp gia đình thống nhất lại nội dung bản di chúc trên.
Biên bản được cụ Môn, trưởng thôn cùng các con thống nhất đồng ý.

Ngày 1/11/2003 âm lịch, ông Đức và cụ Môn chết.

Ông Nhiên không đồng ý với di chúc, yêu cầu được chia thừa kế theo pháp luật di sản
của bố, mẹ. Còn ông Mạnh không đồng ý với ông Nhiên, đề nghị Toà án công nhận
phần diện tích đất làm nơi thờ cúng chung. Bà My thống nhất lời trình của ông Nhiên,
tự nguyện giao kỷ phần được nhận cho ông Nhiên để làm nhà thờ. Bà Lương thống
nhất lời trình của ông Mạnh, tự nguyện giao kỷ phần được nhận cho ông Mạnh để làm
nhà thờ.
Hướng giải quyết của Toà:
Xác định lại di sản chung của hai cụ là 169,3m2 đất và hai cây nhãn. Xác định di chúc
năm 1998 chỉ có hiệu lực với phần đất cụ Môn định đoạt, chia thừa kế phần của cụ
Giảng theo pháp luật. Những người hưởng thừa kế của hai cụ là các con (trừ ông Đức)
và vợ con ông Đức. Ông Nhiên được quản lý, sử dụng 129,29m2 đất và hai cây nhãn.
Ông Mạnh được quản lý, sử dụng 39,7m2 đất.

 Tóm tắt quyết định số 363/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 của Tòa dân sự Tòa
án nhân dân tối cao.

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Chim, bà Nguyễn Thị Bay.


Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Lên, bà Nguyễn Thị Sáu.

35
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn Cu, anh Nguyễn Anh Tuấn,
chị Huỳnh Thị Kim Lệ.

Nội dung vụ án:


Cụ Nguyễn Văn Nhà (chết năm 2006) và cụ Phạm Thị Việt (chết năm 1958) có con là
Nguyễn Thị Bay, bà Nguyễn Thị Lên, bà Nguyễn Thị Chim, bà Nguyễn Thị Sáu, ông
Nguyễn Văn Cu. Anh Nguyễn Anh Tuấn là con bà Nguyễn Thị Sáu. Hai cụ có tài sản
chung là một mảnh đất ở xã Long Thượng và một mảnh nữa ở xã Mỹ Lộc. Cả hai
mảnh đất đều đã được chứng nhận quyền sử dụng đất. Mảnh đất ở xã Long Thượng là
1112m2 do bà Nguyễn Thị Sáu đứng tên 832m2. Mảnh đất ở xã Mỹ Lộc là 2198m2
(thực tế là 1850m2) do cụ Nguyễn Văn Nhà đứng tên.
Ngày 26/7/2000, cụ Nhà lập di chúc cho bà Sáu và bà Lên trọn quyền sử dụng phần đất
ở xã Mỹ Lộc, đồng thời phải dùng để thờ cúng tổ tiên nhưng không được cầm cố,
chuyển nhượng.
Bà Sáu, bà Lên, ông Cu sống ở mảnh đất ở xã Long Thượng. Bà Sáu sử dụng một
phần, phần con lại con trai bà là anh Nguyễn Anh Tuấn sử dụng trên 15 năm. Anh
Tuấn chị Lệ chuyển nhượng cho ông Đệ 180m2 đất nhưng chưa sang tên.
Ngày 16/3/2009, bà Chim và bà Bay khởi kiện, yêu cầu: (1) chia thừa kế di sản của cụ
Nhà gồm quyền sử dụng đất ở hai mảnh đất thuộc xã Long Thượng và Mỹ Lộc, (2)
không công nhận Tờ di chúc của cụ Nhà.
Hướng giải quyết của Toà:
Bà Sáu, bà Lên tiếp tục quản lý, sử dụng đất ở xã Mỹ Lộc. Cho bà Chim, bà Bay hưởng
di sản của ông Nhà là phần đất ở xã Long Thượng, buộc bà Sáu, bà Lên, vợ chồng anh
Tuấn chị Lệ giao phần đất ở xã Long Thượng cho bà Chim, bà Bay quản lý, sử dụng.
Bà Sáu được nhận 667,2m2 phần đất ở Long Thượng.

Câu 7.1: Cho biết thực trạng văn bản pháp luật liên quan đến thay đổi, hủy bỏ di
chúc (về thời điểm, cách thức và hình thức thay đổi, hủy bỏ).
Về thời điểm thay đổi, hủy bỏ di chúc: người lập di chúc có thể thay đổi, hủy bỏ bất cứ
lúc nào. Căn cứ vào khoản 1 Điều 640 BLDS 2015: “1. Người lập di chúc có thể sửa
đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đã lập vào bất cứ lúc nào.”

Về cách thức thay đổi, hủy bỏ di chúc: căn cứ khoản 2 và khoản 3 Điều 640 BLDS
2015: “2. Trường hợp người lập di chúc bổ sung di chúc thì di chúc đã lập và phần bổ

36
sung có hiệu lực pháp luật như nhau; nếu một phần của di chúc đã lập và phần bổ
sung mâu thuẫn nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật.
3. Trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di chúc trước bị
hủy bỏ.”

Về hình thức thay đổi, hủy bỏ di chúc: căn cứ khoản 5 Điều 643 BLDS 2015: “5. Khi
một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có
hiệu lực.” và nếu thuộc trường hợp bắt buộc phải đi công chứng thì chỉ khi được công
chứng thì di chúc mới có hiệu lực theo khoản 3 Điều 56 Luật Công chứng 2014: “3. Di
chúc đã được công chứng nhưng sau đó người lập di chúc muốn sửa đổi, bổ sung, thay
thế, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ di chúc thì có thể yêu cầu bất kỳ công chứng viên
nào công chứng việc sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc hủy bỏ đó. Trường hợp di chúc
trước đó đang được lưu giữ tại một tổ chức hành nghề công chứng thì người lập di
chúc phải thông báo cho tổ chức hành nghề công chứng đang lưu giữ di chúc biết việc
sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đó.”

Câu 7.2: Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có thể ngầm định
(tức người lập di chúc không cần nói rõ là họ thay đổi hay hủy bỏ di chúc) không?
Vì sao?
Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có thể ngầm định (tức người
lập di chúc không cần nói rõ là họ thay đổi hay hủy bỏ di chúc). Vì trong thực tiễn,
trong trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di chúc trước
bị hủy bỏ. Căn cứ theo khoản 3 Điều 640 BLDS 2015: “3. Trường hợp người lập di
chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di chúc trước bị hủy bỏ.”

Câu 7.3: Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có phải tuân thủ
hình thức của di chúc bị thay đổi hay hủy bỏ không? Vì sao?
Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc không phải tuân thủ hình thức
của di chúc bị thay đổi hay hủy bỏ.

Lấy vd là quyết định số 619/2011/DS-GĐT ngày 18/08/2011 của Tòa án nhân dân tối
cao. Khi viết di chúc năm 1998 là bà Lan viết di chúc, nhưng văn bản hủy di chúc lại
do cháu gái bà Lan viết hộ. Điều đó có nghĩa là di chúc trước có thể bị hủy bởi di chúc
sau mặc dù di chúc sau không cùng hình thức với di chúc trước.

37
Vì theo khoản 5 Điều 643 BLDS 2015: “5. Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối
với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực.” Ở đây, bộ luật không nói di
chúc này về hình thức như thế nào, chỉ nói là di chúc, nên có thể ngầm hiểu rằng, di
chúc chỉ cần hợp pháp thì di chúc sau cùng là di chúc được công nhận.

Câu 7.4: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án trong 03
quyết định trên liên quan đến thay đổi, hủy bỏ di chúc.
Hướng giải quyết của Tòa án trong 3 quyết định trên là thỏa đáng và hợp lý.
+ Đối với quyết định số 619: tòa án yêu cầu xem xét bản di chúc thừa kế nhà ở của bà
Lan có phù hợp với quy định của pháp luật không là thích đáng. Ngoài ra, tòa án nhận
định cũng cần làm rõ xem bà Lan có biết chữ hay không, và liệu bản hủy di chúc có thể
hiện đúng ý chí của bà không. Mặc dù người lập di chúc có thể hủy bỏ di chúc bất cứ
lúc nào, nhưng ở đây, bản hủy của bà lại không phải do bà viết mà là do cháu gái bà
viết. Việc viết hộ này có đảm bảo ý chí, mong muốn của bà Lan không. Trong vụ việc
này, tòa án đã công minh bảo vệ và đảm bảo quyền lợi cho các cá nhân.

+ Đối với quyết định số 767: tòa án yêu cầu xác định di chúc lập ngày 7/3/1999 có thể
hiện đúng ý chí của cụ Trượng, cụ Tào không. Nếu có thì cần làm rõ việc 2 cụ dã thay
đổi di chúc lập ngày 1/3/1979 bằng di chúc lập ngày 7/3/1999. Ngoài ra, cũng cần xác
định xem chữ ký của cụ trong bản cam kết và hai bản di chúc trên là có đúng của cụ
hay không. Đây là hướng giải quyết thỏa đáng, bảo vệ được ý chí của cụ Trượng.

+ Đối với quyết định số 194: năm 1998, cụ Giảng và cụ Môn lập di chúc có chứng thực
nhưng vì cụ Giảng tại thời điểm này không còn đủ tỉnh táo nên không ký tên, điểm chỉ
vào tờ di chúc được. Do đó, Tòa xác định cụ Giảng coi như không để lại di chúc là hợp
lý. Vì di chúc đã không đủ điều kiện về mặt hình thức theo Điều 633 BLDS 2015 về di
chúc không có người làm chứng. Về phía cụ Môn, Tòa chỉ ra được điểm thiếu sót của
Tòa án hai cấp về “Biên bản cuộc họp gia đình cụ Bùi Hữu Môn” ngày 11/4/2000 là rất
thích đáng. Theo đó, cụ Môn đã định đoạt phần tài sản của mình theo “Biên bản cuộc
họp gia đình cụ Bùi Hữu Môn” và biên bản này là hoàn toàn hợp pháp Điều 640 BLDS
2015 hiện hành. Do đó việc Tòa hai cấp xác định di chúc năm 1998 có hiệu lực đối với
phần tài sản của cụ Môn, đồng thời chia thừa kế theo pháp luật đối với phần di sản của
cụ Giảng là gây thiệt hại đến quyền lợi hợp pháp của đương sự. Bởi lẽ, cho dù hình
thức của hai di chúc này như thế nào, thì di chúc trước (di năm 1998) phải bị hủy bỏ và
công nhận di chúc sau (Biên bản cuộc họp gia đình cụ Bùi Hữu Môn năm 2000).

38
Qua những điều trên, có thể thấy Tòa án đã giải quyết và thụ lý vụ án một cách công
tâm, hợp lý, bảo đảm quyền lợi cho người lập di chúc và người được hưởng theo di
chúc đó.

Câu 7.5. Đoạn nào cho thấy, trong Quyết định số 363, Toà án xác định di chúc là có
điều kiện? Cho biết điều kiện của di chúc này là gì?
Đoạn cho thấy câu trả lời là:
“Theo văn bản này, cụ Nguyễn Văn Nhà cho bà Nguyễn Thị Sáu và bà Nguyễn Thị Lên
trọn quyền sử dụng phần đất này, đồng thời có trách nhiệm thờ cúng ông bà tổ tiên
nhưng không được quyền cầm cố và chuyển nhượng và phải nuôi dưỡng ông Nguyễn
Văn Cu khi bị ốm đau, bệnh hoạn hoặc tuổi già. Như vậy, di chúc này thuộc loại di
chúc có điều kiện, …”.

Điều kiện để bà Sáu và bà Lên được toàn quyền sử dụng phần đất ở xã Mỹ Lộc theo di
chúc của cụ Nhà là các bà (1) không được cầm cố và chuyển nhượng và (2) phải nuôi
dưỡng ông Cu khi ông Cu bị ốm, bị bệnh hoặc khi ông Cu già.

Câu 7.6: Cho biết thực trạng văn bản quy phạm pháp luật về di chúc có điều kiện ở
Việt Nam?
Khi tiến hành lập di chúc, người để lại di chúc vì lý do nào đó chưa muốn người được
hưởng di chúc hưởng toàn bộ di sản ngay khi mở thừa kế mà muốn người hưởng thừa
kế chỉ được hưởng di sản khi đạt được, làm theo những điều kiện nhất định mà người
lập di chúc đưa ra. Đây gọi là di chúc có điều kiện.

Thực tế, ở Việt Nam chưa có một quy định nào điều chỉnh vấn đề di chúc có điều kiện.
Do đó, khi xảy ra vụ án liên quan đến vấn đề này, hiển nhiên là phải dựa vào quyết
định chủ quan của thẩm phán. Khi đó sẽ có hai trường hợp:
Trường hợp 1, ở khoản 2 Điều 631 BLDS 2015 thì di chúc có thể có các nội dung khác
ngoài khoản 1 Điều 631 BLDS. Với qui định như vậy thì chúng ta có thể suy luận các
nhà lập pháp ngầm chấp nhận di chúc có điều kiện.
Trường hợp thứ hai, do chưa có quy định pháp luật cụ thể trên thực tiễn nên điều kiện
đối với di chúc không có hiệu lực pháp luật và người được hưởng di sản thừa kế vẫn
được hưởng di sản ngay cả khi họ không thực hiện những điều kiện đó.

39
Câu 7.7: Cho biết hệ quả pháp lý khi điều kiện đối với di chúc không được đáp ứng.
Tuy chưa có định nghĩa cụ thể, chính thức nhưng có thể hiểu di chúc có điều kiện
nghĩa là người lập di chúc vẫn đưa ra những điều kiện mà người hưởng di sản phải đáp
ứng thì mới được hưởng phần di sản đó.

Hiện tại, pháp luật về thừa kế của Việt Nam hiện nay chưa công nhận "di chúc có điều
kiện" nên những điều kiện được đưa ra trong một di chúc là không có hiệu lực pháp
luật (vì chưa có căn cứ để dựa vào). Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, khi điều kiện đối
với di chúc không được đáp ứng thì sẽ có hai trường hợp: Trường hợp thứ nhất, người
được hưởng di sản thừa kế vẫn được hưởng di sản ngay cả khi họ không thực hiện
những điều kiện đó vì điều kiện đối với di chúc không có hiệu lực pháp luật. Trường
hợp thứ hai, Toà án sẽ ngầm công nhận điều kiện trong di chúc đó và sẽ tuyên bố di
chúc vô hiệu tương ứng với phần điều kiện không được đáp ứng.

Câu 7.8: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về di chúc có điều kiện ở Việt Nam (có nên
luật hoá trong BLDS không? Nếu luật hoá thì cần luật hoá những nội dung nào?).
Việc luật hoá di chúc có điều kiện tồn tại cả hai mặt có lợi và bất lợi. Luật hóa di chúc
có điều kiện sẽ đáp ứng được nhu cầu của những người muốn để lại di sản của mình
cho người thừa kế với những điều kiện nhất định để được “xứng đáng” hưởng di sản
đó. Việc công nhận di chúc có điều kiện đồng nghĩa phải đáp ứng các câu hỏi, điều
kiện về phạm vi, hiệu lực, thời hạn thực hiện những điều kiện đó, hậu quả pháp lý, v.v

Tuy nhiên, ngoài mặt lợi cũng tồn tại những điểm bất lợi. Luật hóa di chúc có điều kiện
tức là pháp luật đã trao cho người có tài sản hay người để lại di sản quyền sử dụng tài
sản để yêu cầu người khác thực hiện những điều kiện mình đưa ra. Có thể những điều
kiện đó hợp pháp, hợp tình, hợp lý, nhưng cũng có thể lại vô lý và vô tình, gây ảnh
hưởng đến người khác, cụ thể là những người thừa hưởng di sản và những người có
liên quan. Như vậy, nếu quy định không chặt chẽ, thấu đáo sẽ “giúp” người để lại di
sản có thể gây ảnh hưởng xấu đến người hưởng di sản, ảnh hưởng đến quyền lợi và
mong muốn của người nhận di sản, đặc biệt nếu quy định về những điều kiện trong bản
di chúc không chặt chẽ. Hơn nữa, Toà án cũng không thể kiểm soát được hết mức độ
hoàn thành điều kiện của từng cá nhân trong vụ án. Ví dụ như với vụ án ở trên, một
trong những điều kiện để bà Sáu và Lên được hưởng di sản của cụ ông để lại là các bà
phải chăm sóc ông Cu khi ông ốm đau, già yếu. Như vậy làm sao Toà án có thể giám

40
sát được việc chăm sóc ông Cu của các bà như thế nào? Giả sử nếu yêu cầu bằng
chứng chứng minh thì cũng rất khó để xác định.

Thiết nghĩ, nếu có luật hoá di chúc có điều kiện thì các nhà làm luật nên thêm những
quy định để khống chế nội dung di chúc giống như Điều 644 BLDS 2015 để những
điều kiện ấy không bị vượt quá giới hạn, ảnh hưởng xấu đến truyền thống đạo đức,
thuần phong mỹ tục nước ta cũng như quyền lợi của người được hưởng di sản thừa kế.

Phần 8: Tóm tắt án lệ số 24/2018/AL về di sản thừa kế chuyển thành tài sản thuộc
quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của cá nhân.
Nguyên đơn: Bà Phạm Thị H, bà Phạm Thị H1, bà Phạm Thị H2.
Bị đơn: Ông Phạm Văn H3.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Phạm Văn T, bà Nguyễn Thị T, chị Phạm
Thị Thu T2, chị Phạm Thị Thu T3, chị Phạm Thị Thanh T4, bà Phùng Thị H4, chị
Phạm Thị H5, anh Phạm Đức H, anh Phạm Đức M, chị Phạm Thị T, anh Phạm Văn L.

Nội dung vụ án:


Cụ Phạm Văn H (chết năm 1978) và cụ Ngô Thị V (chết ngày 21-8-1994) có bảy con
là ông Phạm Văn H3, ông Phạm Văn Đ (chết năm 1998), ông Phạm Văn T, ông Phạm
Văn Q (chết năm 2000) và các bà là Phạm Thị H, Phạm Thị H1, Phạm Thị H2. Di sản
của các cụ là gian nhà, gian bếp khoảng 464m2 đất tại thị trấn Q, tỉnh Hà Tây (nay
thuộc thành phố Hà Nội).

Năm 1991, cụ V đứng ra chia mảnh đất trên cho bảy con: Bốn con trai mỗi người 1
phần, còn 1 phần (có chiều ngang 3m giáp đường, diện tích 44,4m2) chia chung cho ba
con gái (là các nguyên đơn). Ngay sau khi được chia, ông Đ đã bán lấy tiền vào tỉnh
Sông Bé (cũ) sinh sống; ông T, ông Q đã nhận đất xây dựng nhà ở. Phần các bà được
chia nằm liền với phần đất cụ V chia cho ông H3 (có chiều ngang 4m giáp đường).
Riêng ông H3 lúc đó đã có nhà đất ở nơi khác nên ông cũng chưa sử dụng phần đất
được chia. Thời điểm này các bà đang ở miền Nam nên ông H3 trông nom cả phần đất
các bà được cụ V chia và đất của ông được chia, tổng diện tích hai phần là 110m2
(chiều ngang 7m). Nhiều năm sau đó ông H3 vẫn thừa nhận là đất của các bà được chia
ông trông nom.

41
Năm 2002, khi các bà về sang cát cho mẹ, ông H3 vẫn đồng ý khi nào các bà đủ điều
kiện thì về nhận đất xây nhà ở. Nhưng đến năm 2004, khi ba chị em có nhu cầu xây
dựng nhà trên đất này thì ông H3 lại không thừa nhận là đất của ba chị em và ông đã
chia đất cho con của ông là anh Phạm Văn L và chị Phạm Thị T, không trả đất cho các
bà.

Nguyên đơn yêu cầu Tòa án buộc ông H3 trả lại phần đất các bà đã được mẹ và anh chị
em trong nhà thống nhất chia từ 1991; có lúc yêu cầu Tòa án giải quyết cho 3 chị em
được hưởng thừa kế theo pháp luật bằng hiện vật là 44,4m2 đất. Khi Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội thụ lý sơ thẩm lại vụ án vào năm 2010, các nguyên đơn có yêu cầu
Tòa án giải quyết chia thừa kế di sản của các cụ là 115m2 (thực đo 110m2) đang do
ông H3 quản lý.

Hướng giải quyết của Toà:


Tòa sơ thẩm quyết định chấp nhận yêu cầu khởi kiện chia di sản thừa kế của bà Phạm
Thị H, Phạm Thị H1, Phạm Thị H2. Ông H3 và con trai con dâu được tiếp tục quản lý
một phần miếng đất và sở hữu căn nhà trên đất. Đồng thời ông H3, anh H, chị T được
nhận tiền sửa chữa cải tạo do các bà H, H1, H2 đóng.

Câu 1: Trong Án lệ số 24/2018/AL, nội dung nào cho thấy đã có thoả thuận phân
chia di sản?
“Năm 1991, cụ V đứng ra chia mảnh đất trên cho bảy con: Bốn con trai mỗi người 1
phần, còn 1 phần (có chiều ngang 3m giáp đường, diện tích 44,4m2) chia chung cho
ba con gái (là các nguyên đơn). Ngay sau khi được chia, ông Đ đã bán lấy tiền vào
tỉnh Sông Bé (cũ) sinh sống; ông T, ông Q đã nhận đất xây dựng nhà ở. Phần các bà
được chia nằm liền với phần đất cụ V chia cho ông H3 (có chiều ngang 4m giáp
đường). Riêng ông H3 lúc đó đã có nhà đất ở nơi khác nên ông cũng chưa sử dụng
phần đất được chia. Thời điểm này các bà đang ở miền Nam nên ông H3 trông nom cả
phần đất các bà được cụ V chia và đất của ông được chia, tổng diện tích hai phần là
110m2 (chiều ngang 7m). Nhiều năm sau đó ông H3 vẫn thừa nhận là đất của các bà
được chia ông trông nom” (Phần nội dung vụ án).

42
“Sau khi về, cụ đã họp các con và đứng ra phân chia toàn bộ thửa đất thành bốn phần
riêng biệt cho các con, không ai có ý kiến gì và đều thống nhất thực hiện việc phân
chia này…” (Phần nhận định của Toà án).

Câu 2: Trong Án lệ số 24/2018/AL, nội dung nào cho thấy thoả thuận phân chia di
sản đã được Toà án chấp nhận?
“- Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2013/DSST ngày 30, 31-5-2013 của Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội quyết định:
1.Chấp nhận yêu cầu khởi kiện chia di sản thừa kế của bà Phạm Thị H, Phạm Thị H1,
Phạm Thị H2.

Chia cho ông H3, bà H, bà H2, bà H1 mỗi kỷ phần được hưởng là 120.120.000 đồng.
Chia cho ông H3 được sở hữu phần tài sản có giá trị 240.240.000 đồng;
Chia cho bà H, bà H2, bà H1 mỗi người được hưởng phần tài sản có giá trị
120.120.000 đồng, tổng 360.360.000 đồng.
Chia cho bà H, bà H1, bà H2 được sử dụng nhà cấp 4 nằm trên thửa đất số 252 tờ bản
đồ số 2 thị trấn Q, Hà Nội có diện tích 44,4m2 có giá trị 532.800.000 đồng, có sơ đồ
kèm theo.
Chia cho ông Phạm Văn H3 được quyền sử dụng 10,7m2 đất, …”
“[4] Với các chứng cứ trên, đủ cơ sở xác định nhà đất của cụ V, cụ H đã được cụ V và
các thừa kế của cụ H thống nhất phân chia tài sản chung xong từ năm 1991 và đủ cơ
sở xác định phần đất 110m2 trong đó phần bà H, bà H1 và bà H2 là 44,4m2. Việc
phân chia đã được thực hiện trên thực tế và đã được điều chỉnh trên sổ sách giấy tờ về
đất đai; thỏa thuận phân chia không vi phạm quyền lợi của bất cứ thừa kế nào, không
ai tranh chấp nên có cơ sở xác định nhà, đất không còn là di sản thừa kế của cụ V, cụ
H nữa mà đã chuyển thành quyền sử dụng đất hợp pháp của các cá nhân. Vì vậy, bà H,
bà H1, bà H2 chỉ có quyền khởi kiện đòi lại 44,4m2 đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp
do được chia từ năm 1991; tài sản là di sản thừa kế của cha mẹ không còn nên không
có cơ sở chấp nhận yêu cầu chia di sản của cụ H, cụ V nữa”.

43
Câu 3: Suy nghĩ của anh/chị về việc Toà án chấp nhận thoả thuận phân chia di sản
trên? Anh/chị trả lời câu hỏi này trong mối quan hệ với yêu cầu về hình thức và về
nội dung đối với thoả thuận phân chia di sản?
Việc Toà án chấp nhận thoả thuận phân chia di sản trên là hợp lý. Thoả thuận phân
chia di sản thực chất là một giao dịch dân sự của nhiều chủ thể nên nó phải tuân thủ
những tiêu chí bắt buộc về hình thức cũng như nội dung gì?
Về hình thức:
Thoả thuận giữa cụ V và các con chỉ được lập bằng miệng chứ không được lập thành
văn bản, không được công chứng, chứng thực. Tuy nhiên, trên thực tế, các con của cụ
V đã làm theo thoả thuận ngay sau đó, đã ở và sử dụng phần đất của mình rồi. Nếu cho
rằng phải công chứng thì sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự.

Hơn nữa, theo khoản 1 Điều 57 Luật công chứng năm 2014 quy định về công chứng
văn bản thỏa thuận phân chia di sản thì “những người thừa kế theo pháp luật hoặc theo
di chúc mà trong di chúc không xác định rõ phần di sản được hưởng của từng người
thì có quyền yêu cầu công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản”. Vậy ta thấy ở
đây, Luật công chứng và Bộ luật dân sự không coi công chứng thoả thuận phân chia di
sản là bắt buộc hay nghĩa vụ mà coi là quyền của những người thừa kế.

Án lệ trên cho thấy thoả thuận phân chia di sản có thể được xác định thông qua các sự
kiện cụ thẻ và không nhất thiết phải qua chứng cứ văn bản. Toà theo hướng này là
thuyết phục vì “thoả thuận” là sự thống nhất ý chí và sự thống nhất này được thể hiện
qua nhiều cách khác nhau chứ không nhất thiết là văn bản.

Về nội dung:
Thoả thuận phân chia di sản phải đáp ứng được điều kiện về nội dung theo Điều 610
Bộ luật dân sự 2015 về mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền hưởng di sản. Có thể thấy
các con cụ V đều có quyền tham gia như nhau khi chia tài sản.

Trong vụ tranh chấp này, cụ V đã họp các con lại (các con của cụ đều đã trưởng thành)
để phân chia di sản và Toà án nhân dân tối cao đã khẳng định “thỏa thuận phân chia
không vi phạm quyền lợi của bất cứ thừa kế nào” nên có thoả thuận đã đáp ứng yêu
cầu về mặt chủ thể. Ngoài ra, các con cụ V đều “hoàn toàn tự nguyện”, “có năng lực
pháp luật” và có “năng lực hành vi dân sự” theo điểm a khoản 1 Điều 117 BLDS 2015.

44
Tiếp theo, mục đích và nội dung của thoả thuận cũng “không vi phạm điều cấm của
luật” theo điểm c khoản 1 Điều 117 BLDS 2015, “không trái đạo đức xã hội” theo
điểm c khoản 1 Điều 117 BLDS 2015.

Kết luận: Việc Toà án chấp nhận thoả thuận phân chia di sản trên là hợp lý vì thoả
thuận này đã đáp ứng đầy đủ các tiêu chí về mặt hình thức cũng như nội dung.

Câu 4: Sự khác nhau cơ bản giữa tranh chấp di sản và tranh chấp tài sản?
Định nghĩa:
+ Tranh chấp tài sản có hai hay nhiều người cùng xác nhận quyền của mình đối với tài
sản đó và phủ định quyền của người kia đối với tài sản mà tài sản đó hiện không rõ
thuộc về người nào. Ví dụ: tranh chấp về quyền sở hữu đối với tài sản, tranh chấp về
chia di sản thừa kế, tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, tranh
chấp về chia tài sản chung của vợ chồng…
+ Theo quy định của pháp luật, tranh chấp di sản thừa kế bao gồm tranh chấp buộc
người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh toán các khoản
chi từ di sản hoặc theo yêu cầu chia di sản thừa kế (theo di chúc hoặc theo pháp luật),
xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác.
Vậy phạm vi của tranh chấp tài sản rộng hơn, bao gồm cả tranh chấp di sản.

Gọi là tài sản khi người sở hữu tài sản còn sống, còn gọi là di sản khi người sở hữu tài
sản đã chết.

+ Tranh chấp di sản thường xảy ra giữa những người trong gia đình (nhận nuôi và ruột
thịt). Tranh chấp tài sản không nhất thiết như thế, có thể là giữa những người không có
quan hệ gia đình với nhau.

+ Tranh chấp di sản thường xảy ra giữa các cá nhân, còn tranh chấp tài sản ngoài các
cá nhân ra còn có các pháp nhân.

+ Tranh chấp tài sản áp dụng Bộ luật dân sự, Luật thương mại,… tranh chấp di sản chỉ
áp dụng Bộ luật dân sự.

Câu 5: Trong Án lệ số 24/2018/AL, tranh chấp về tài sản đã được chia theo thoả
thuận trên là tranh chấp về di sản hay tranh chấp về tài sản?
Tranh chấp về tài sản đã được chia theo thoả thuận trên là tranh chấp về tài sản.
Đoạn cho thấy câu trả lời:

45
“Việc phân chia đã được thực hiện trên thực tế và đã được điều chỉnh trên sổ sách giấy
tờ về đất đai; thỏa thuận phân chia không vi phạm quyền lợi của bất cứ thừa kế nào,
không ai tranh chấp nên có cơ sở xác định nhà, đất không còn là di sản thừa kế của
cụ V, cụ H nữa mà đã chuyển thành quyền sử dụng đất hợp pháp của các cá nhân”.
Từ đoạn này suy ra đây là tranh chấp về tài sản, không phải là tranh chấp về di sản.

Hơn nữa, năm 1991, cụ V chia cho các con phần tài sản của cụ V chứ không phải là
di sản. Cho đến năm 1994 cụ V mới chết. Nhà và đất chỉ được gọi là di sản sau khi cụ
V chết. Khi chia phần đất cho các con, cụ V vẫn còn sống. Thoả thuận phân chia giữa
cụ và các con có hiệu lực trong lúc cụ còn sống và đã được các con thực hiện. Nếu thoả
thuận có hiệu lực sau khi cụ chết mới được coi là di sản. Tóm lại, thoả thuận giữa cụ V
và các con không phải là thoả thuận phân chia di sản. Trong trường hợp này không áp
dụng các quy định về di sản thừa kế. Còn phần của cụ H là di sản nhưng Toà xác định
đã hết hiệu lực chia thừa kế.

Việc cụ V phần chia tài sản cho cho các con còn sống là cụ V tặng cho các con tài sản
của mình. Lúc này, các quy định về tặng cho được áp dụng, ví dụ như Điều 194, Điều
223, Điều 238 Bộ luật dân sự 2015. Trường hợp này là cha mẹ tặng cho các con tài sản
của mình, tương tự như với Án lệ số 03/2016/AL.

Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Toà án nhân dân tối cao trong
Án lệ số 24/2018/AL.
Hướng giải quyết của Toà án nhân dân tối cao trong Án lệ số 24/2018/AL là thuyết
phục.

Thứ nhất, khi cụ V phân chia nhà, đất (tài sản chung của vợ chồng cho các con - những
người thừa kế); trong phần tài sản mỗi người được nhận có phần là di sản thừa kế (của
cụ H), có phần là tài sản được người còn sống tặng cho (cụ V); việc phân chia này tuy
không tách bạch đâu là phần chia thừa kế, đâu là phần tặng cho nhưng đều đảm bảo
quyền lợi của các con; những người được phân chia đã nhận nhà, đất trên thực tế, đăng
ký kê khai và được đứng tên trên các giấy tờ về nhà, đất thì phải xác định nhà, đất đó
đã chuyển thành tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của các cá nhân,
không còn là di sản để chia thừa kế.

46
Thứ hai, các bà H, H1, H2 đã được phân chia nhà, đất có quyền yêu cầu chia di sản
thừa kế của cha, mẹ để lại hay không? Toà án đã chỉ ra rằng “… bà H, bà H1, bà H2
chỉ có quyền khởi kiện đòi lại 44,4m2 đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp do được chia
từ năm 1991; tài sản là di sản thừa kế của cha mẹ không còn nên không có cơ sở chấp
nhận yêu cầu chia di sản của cụ H, cụ V nữa”. Trường hợp di sản thừa kế đã chuyển
thành tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của cá nhân thì người đã
nhận phân chia tài sản không có quyền yêu cầu chia di sản thừa kế là nhà, đất.

Thứ ba, phần nhà, đất mà các bà H, H1, H2 được chia bị người khác cũng là người
được phân chia nhà, đất (ông H3) chiếm hữu, sử dụng bất hợp pháp đã được Toà án
đồng ý cho đòi lại. Các bên thỏa thuận thống nhất phân chia nhà, đất; Việc phân chia
đã được thực hiện trên thực tế. Về lý thì chỉ các bà H, H1, H2 được quyền khởi kiện
đòi lại nhà, đất được chia đang bị ông H3 chiếm hữu, sử dụng bất hợp pháp, đảm bảo
quyền lợi cho các bà (nguyên đơn).

Phần 9: Nghiên cứu Án lệ số 05/20216/AL của Tòa án nhân dân tối cao;
 Tóm tắt Án lệ số 05/20216/AL của Tòa án nhân dân tối cao
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thưởng và bà Nguyễn Thị xuân
Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Thúy Phượng
Nội dung vụ án: lúc sinh thời, cụ Hưng có mua căn nhà số 263 đường Trần Bình
Trọng, phường 4, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1953. Vào năm 1956 thì 2
cụ xây dựng nhà, ở đến hiện nay. Hai cụ chết không để lại di chúc, hiện tại ngôi nhà
đang được bị đơn quản lí từ khi 2 cụ mất đến nay vì lúc 2 cụ còn sống thì gia đình bị
đơn đã sống chung và chăm sóc cho cụ, năm 1978 cha bị đơn ( ông Trãi ) xuất cảnh
sang Mỹ, bị đơn vẫn tiếp tục sống trong căn nhà đó nên khi ông bà của bị đơn mất, bị
đơn đã quản lí căn nhà. Trong khi quản lí căn nhà bị đơn đã nhiều lần sửa chữa, nâng
cấp ngôi nhà và có cho bà Nguyễn Thị Bích Đào thuue một phần căn nhà làm lò bánh
mì. Ngày 18/7/2008, các nguyên đơn đã nộp đơn kiện, yêu cầu được chia thừa kế căn
nhà theo qui định của pháp luật và xin được nhận nhà, hoàn lại bằng tiền cho các thừa
kế khác. Chị Phượng không thuộc diện thừa kế nên phải trả lại nhà, không đồng ý hỗ
trợ chị Phượng đi nơi khác. Bị đơn không đống ý với nguyên đơn vì thời hiệu chia thừa
kế đã hết.
Hướng giải quyết của Tòa án:

47
Tòa án quyết định, ông Trải được hưởng 1/7 kỷ phần thừa kế của cụ Hưng và phần này
được xem là tài sản của vợ chồng. Tuy chị Phượng không phải hàng thừa kế thứ nhất
của cụ Hưng và cụ Ngự nhưng là cháu nội của 2 cụ và có nhiều công sức đóng góp, chị
có yêu cầu đề nghị xác định quyền lợi và công sức của mình trong đó, nhưng tòa án sơ
thẩm, phúc thẩm chưa xem xét công sức của chị.

Câu 1: Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án xác định ông Trải được hưởng 1/7 kỷ
phần thừa kế của cụ Hưng có thuyết phục không? Vì sao?
Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án xác định ông Trải được hưởng 1/7 kỷ phần thừa kế
của cụ Hưng là thuyết phục. Án lệ cũng đã xác định căn nhà tranh chấp là tài sản chung
của cả hai vợ chồng cụ Hưng, bà Ngự và cụ Hưng chết năm 1978 không để lại di chúc
nên di sản để lại được chia theo pháp luật. Hàng thừa kế thứ nhất sẽ bao gồm 7 người
bao gồm cụ Ngự và 6 người con, trong đó ông Trải là một trong sáu người con đó nên
việc Tòa án xác định ông Trải được hưởng 1/7 kỷ phần thừa kế của cụ Hưng là hoàn
toàn thuyết phục.

Câu 2: Trong án lệ số 05/2016/AL, Tòa án xác định phần tài sản ông Trải được
hưởng của cụ Hưng là tài sản chung của vợ chồng ông Trải, bà Tư có thuyết phục
không? Vì sao?
Tòa án xác định phần tài sản ông Trải được hưởng của cụ Hưng là tài sản chung của vợ
chồng ông Trải và bà Tư là không thuyết phục. Vì tài sản của ông Trải được hưởng của
cụ Hưng là phần tài sản thừa kế đứng tên ông không phải là tài sản thừa kế của chung
của vợ chồng.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng,
cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.”

Căn cứ khoản 1 Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014: “Tài sản chung của vợ
chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh
doanh, hoa lợi lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời
kỳ hôn nhân, trừ trường hợp tại khoản 1 Điều 40; tài sản của vợ chồng được thừa kế
chung hoặc tặng cho cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thừa hưởng.”

Thì bà Tư không phải là người hưởng thừa kế, trong luật cũng không có trường hợp
nào con dâu được hưởng thừa kế theo pháp luật di sản của cha mẹ chồng. Đây cũng
không phải là tài sản của vợ chồng được thừa kế chung hay thuộc một trong các trường
hợp được quy định tại khoản 1 Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên thực
chất đây là tài sản riêng của ông Trải.

48
Câu 3: Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án theo hướng chị Phượng được hưởng
công sức quản lý di sản có thuyết phục không? Vì sao?
Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án theo hướng chị Phượng được hưởng công sức
quản lý di sản là thuyết phục.

Chị Phượng (sinh năm 1953) đã ở căn nhà tranh chấp từ nhỏ đến nay. Từ năm 1982 chị
đã là chủ hộ khẩu tại căn nhà đất này, cụ Ngự sống nhưng ở nơi khác, bà Thường
chuyển hộ khẩu về năm 1979 nhưng không thường ở đây, nên chị Phượng đã trực tiếp
quản lý, sử dụng đất tranh chấp từ sau khi cụ Ngự chết đến nay. Từ nhỏ đến nay, chị đã
sửa chửa căn nhà nhiều lần như làm cửa nhôm, xây tường phần gác lửng, lát gạch men
sân thượng, xây tường phía sau nhà. Bên cạnh đó, cha mẹ chị và các con trong đó có
chị đã sống ổn định hơn 50 năm tại căn nhà, đã bảo quản căn nhà nên việc buộc mẹ con
chị Phượng giao lại căn nhà cho các nguyên đơn theo Tòa là chưa hợp phù hợp với quy
định, cần phải xem xét thêm phần công sức cho chị Phượng.

49
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT


1. Bộ luật Dân sự 2005 (Bộ luật số 33/2005/QH11) ngày 14/06/2005.
2. Bộ luật Dân sự 2015 (Bộ luật số 91/2015/QH13) ngày 24/11/2015.
3. Luật Hôn nhân và gia đình (luật số: 52/2014/QH13) ngày 19/06/2014.
4. Luật Công chứng (luật số: 53/2014/QH13) ngày 20/06/2014

B. TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Đỗ Văn Đại, Bình luận khoa học Những điểm mới của Bộ luật dân sự, Nxb
Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, tr.181 đến 186
2. Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, Nxb
Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, bản án số 35-37, tr.289
3. Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, Nxb
Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, bản án số 35-37, tr.285

4. Kim Quỳnh, Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc: CON
THÀNH NIÊN MÀ KHÔNG CÓ KHẢ NĂNG LAO ĐỘNG,
https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/nguoi-thua-ke-khong-phu-thuoc-
vao-noi-dung-di-chuc-con-thanh-nien-ma-khong-co-kha-nang-lao-dong, truy
cập ngày 21/5/2021.
5. Kim Quỳnh, Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc: CON
THÀNH NIÊN MÀ KHÔNG CÓ KHẢ NĂNG LAO ĐỘNG,
https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/nguoi-thua-ke-khong-phu-thuoc-
vao-noi-dung-di-chuc-con-thanh-nien-ma-khong-co-kha-nang-lao-dong, truy
cập ngày 21/5/2021.
6. Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2020), Giáo trình Pháp luật về tài
sản, quyền sở hữu và thừa kế, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr.
617.

You might also like