You are on page 1of 31

Khoa Quản Trị

Lớp Quản Trị - Luật 48(B)

BUỔI THẢO LUẬN THỨ BẢY

THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT


Bộ môn: Những quy định chung về luật dân sự

Giảng viên: ThS. Nguyễn Tấn Hoàng Hải

Nhóm: 06

Thành viên:

1 Phạm Hoàng Nghĩa 2353401020153


2 Hà Thảo Nguyên 2353401020163
3 Chu Thị Yến Nhi 2353401020171
4 Tạ Hoàng Thanh Như 2353401020190
5 Lê Thanh Nhi 2353401020175
6 Nguyễn Thị Ngọc Nhiên 2353401020186
7 Lê Thị Như Quỳnh 2353401020214
8 Tô Thục San 2353401020219

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 04 năm 2024


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT Ký hiệu chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ


1 BLDS Bộ luật Dân sự
2 CSPL Cơ sở pháp lý
3 Luật HNVGĐ Luật Hôn nhân và gia đình
4 Luật NCN Luật Nuôi con nuôi
5 TAND Tòa án Nhân dân
6 TANDCC Tòa án Nhân dân cấp cao
7 TANDTC Tòa án Nhân dân tối cao
8 UBND Uỷ ban Nhân dân
MỤC LỤC
VẤN ĐỀ 1: XÁC ĐỊNH VỢ/CHỒNG CỦA NGƯỜI ĐỂ LẠI DI SẢN ...............1
1.1. Điều luật nào của BLDS quy định trường hợp thừa kế theo pháp luật. ...........2
1.2. Suy nghĩ của anh/chị về việc Toà án áp dụng thừa kế theo pháp luật trong Bản
án số 20. ...................................................................................................................3
1.3. Vợ/chồng của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ mấy? Nêu CSPL. ..3
1.4. Cụ Thát và cụ Thứ có đăng ký kết hôn không trong Bản án số 20? Vì sao?....3
1.5. Trong trường hợp nào những người chung sống với nhau như vợ chồng nhưng
không đăng ký kết hôn được hưởng thừa kế của nhau? Nêu CSPL khi trả lời. ......3
1.6. Ngoài việc sống với cụ Thứ, cụ Thát còn sống với người phụ nữ nào trong Bản
án số 20? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời? ......................................................4
1.7. Nếu cụ Thát và cụ Thứ chỉ bắt đầu sống với nhau như vợ chồng vào cuối năm
1960 thì cụ Thứ có là người thừa kế của cụ Thát không? Nêu CSPL khi trả lời.....4
1.8. Câu trả lời cho câu hỏi trên có khác không khi cụ Thát và cụ Thứ sống ở miền
Nam? Nêu CSPL khi trả lời. ....................................................................................5
1.9. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án thừa nhận cụ Thứ là người thừa kế của cụ
Thát. .........................................................................................................................5
1.10. Trong Án lệ số 41/2021/AL, bà T2 và bà S có được hưởng di sản do ông T1
để lại không? Đoạn nào của Án lệ có câu trả lời. ....................................................5
1.11. Suy nghĩ của anh/chị về việc Án lệ xác định tư cách hưởng di sản của ông T1
đối với bà T2 và bà S. ..............................................................................................6
VẤN ĐỀ 2: XÁC ĐỊNH CON CỦA NGƯỜI ĐỂ LẠI DI SẢN .............................8
2.1. Con nuôi của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ mấy? Nêu CSPL khi
trả lời. .......................................................................................................................8
2.2. Trong trường hợp nào một người được coi là con nuôi của người để lại di sản?
Nêu CSPL khi trả lời. ...............................................................................................9
2.4. Tòa án có coi bà Tý là con nuôi của cụ Thát và cụ Tần không? Đoạn nào của
bản án cho câu trả lời? .............................................................................................9
2.5. Suy nghĩ của anh/chị về giải pháp trên của Tòa án liên quan đến bà Tý. ......10
2.6. Trong Quyết định số 182, Tòa án xác định anh Tùng được hưởng thừa kế với
tư cách nào? Vì sao? ..............................................................................................10
2.7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Tòa án liên quan đến anh
Tùng. ......................................................................................................................10
2.8. Nếu hoàn cảnh tương tự như trong Quyết định số 182 xảy ra sau khi có Luật
HNVGĐ 1986, anh Tùng có được hưởng thừa kế của cụ Cầu và cụ Dung không?
Vì sao? ................................................................................................................... 11
2.9. Con đẻ thuộc hàng thừa kế thứ mấy của người để lại di sản? Nêu CSPL khi trả
lời. ..........................................................................................................................12
2.10. Đoạn nào của Bản án cho thấy bà Tiến là con cụ Thát? ...............................12
2.11. Suy nghĩ của anh/chị về giải pháp trên của Tòa án liên quan đến bà Tiến? .12
2.12. Ở Việt Nam con dâu, con rể của người để lại di sản có là người thừa kế của
người để lại di sản không? Nêu CSPL khi trả lời. .................................................13
2.13. Có hệ thống pháp luật nước ngoài nào xác định con dâu, con rể là người thừa
kế của cha mẹ chồng, cha mẹ vợ không? Nếu có, nêu hệ thống pháp luật mà anh/chị
biết. ........................................................................................................................13
VẤN ĐỀ 3: CON RIÊNG CỦA VỢ/CHỒNG.......................................................15
3.1. Bà Tiến có là con riêng của chồng cụ Tần không? Vì sao? ............................15
3.2. Trong điều kiện nào con riêng của chồng được thừa kế di sản của vợ? Nêu
CSPL khi trả lời. ....................................................................................................15
3.3 .Bà Tiến có đủ điều kiện để hưởng thừa kế di sản của cụ Tần không? Vì sao?
...............................................................................................................................15
3.4. Nếu bà Tiến có đủ điều kiện để hưởng di sản thừa kế của cụ Tần thì bà Tiến
được hưởng thừa kế ở hàng thừa kế thứ mấy của cụ Tần? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời. ..........................................................................................................................16
3.5. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án không thừa nhận tư cách thừa kế của bà
Tiến đối với di sản của cụ Tần. ..............................................................................16
3.6. Suy nghĩ của anh/chị (nếu có) về chế định thừa kế liên quan đến hoàn cảnh của
con riêng của chồng/vợ trong BLDS hiện nay. Thừa kế thế vị và hàng thừa kế thứ
hai, thứ ba ..............................................................................................................16
VẤN ĐỀ 4: THỪA KẾ THẾ VỊ VÀ HÀNG THỪA KẾ THỨ HAI, THỨ BA ..18
4.1 Trong vụ việc trên, nếu chị C3 còn sống, chị C3 có được hưởng thừa kế của cụ
T5 không? Vì sao? .................................................................................................18
4.2. Ở nước ngoài, có hệ thống pháp luật nào ghi nhận thừa kế thế vị trong trường
hợp từ chối nhận di sản/tước quyền hưởng di sản (không có quyền hưởng di sản)
không? Nêu ít nhất một hệ thống pháp luật mà anh/chị biết. ................................19
4.3. Ở Việt Nam, khi nào áp dụng chế định thừa kế thế vị? Nêu CSPL khi trả lời.
...............................................................................................................................19
4.4. Vợ/chồng của người con chết trước (hoặc cùng) cha/mẹ có được hưởng thừa
kế thế vị không? Nêu CSPL khi trả lời. .................................................................19
4.5. Trong vụ việc trên, Tòa án không cho chồng của chị C3 hưởng thừa kế thế vị
của cụ T5. Hướng như vậy có thuyết phục không? Vì sao? ..................................20
4.6. Theo quan điểm của các tác giả, con đẻ của con nuôi của người quá cố có thể
được hưởng thừa kế thế vị không? ........................................................................20
4.7. Trong vụ việc trên, đoạn nào cho thấy Tòa án cho con đẻ của chị C3 được
hưởng thừa kế thế vị của cụ T5? ............................................................................20
4.8. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án cho cho con đẻ của chị C3 được hưởng
thừa kế thế vị của cụ T5. ........................................................................................21
4.9. Theo BLDS hiện hành, chế định thừa kế thế vị có được áp dụng đối với thừa
kế theo di chúc không? Nêu CSPL khi trả lời. ......................................................21
4.10. Theo anh/chị, có nên áp dụng chế định thừa kế thế vị cho cả trường hợp thừa
kế theo di chúc không? Vì sao? .............................................................................22
4.11. Ai thuộc hàng thừa kế thứ hai và hàng thừa kế thứ ba? ................................22
4.12. Trong vụ việc trên, có còn ai thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ T5 ở thời
điểm mở thừa kế không? Vì sao? ..........................................................................22
4.13. Trong vụ việc trên, có còn ai thuộc hàng thừa kế thứ hai của cụ T5 ở thời điểm
mở thừa kế không? Vì sao? ...................................................................................23
4.14. Cuối cùng, Tòa án có áp dụng hàng thừa kế thứ hai không trong vụ việc trên?
Vì sao? ...................................................................................................................23
4.15. Suy nghĩ của anh/chị về hướng của Tòa án về vấn đề nêu trong câu hỏi trên
(áp dụng hay không áp dụng quy định về hàng thừa kế thứ hai)...........................24
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1

VẤN ĐỀ 1: XÁC ĐỊNH VỢ/CHỒNG CỦA NGƯỜI ĐỂ LẠI DI SẢN


Tóm tắt Bản án số 20/2009/DSPT ngày 11 và 12/02/2009 của Toà phúc thẩm
TANDTC Hà Nội về giải quyết vụ việc “tranh chấp chia thừa kế”.
Nguyên đơn là: Bà Nguyễn Thị Tiến, bà Nguyễn Thị Bằng, bà Nguyễn Thị
Triển
Bị đơn: Ông Nguyễn Tất Thăng
Nội dung: Bố của các nguyên đơn và bị đơn là cụ Nguyễn Tất Thát (chết năm
1962) có 2 vợ, vợ cả là cụ Nguyễn Thị Tần (chết năm 1995), vợ hai là cụ Phạm Thị
Thứ (chết năm 1992). Cụ Thát và cụ Tần có 4 người con chung là: Nguyễn Tất Thăng,
Nguyễn Thị Bằng, Nguyễn Thị Khiết, Nguyễn Thị Triển. Cụ Thát và cụ Thứ có 1
người con là Nguyễn Thị Tiến. Ông Thăng không công nhận cụ Thứ là vợ hai cụ Thát
và bà Tiến là con cụ Thát. Nhưng ông không đưa ra được giấy tờ chứng minh. Án sơ
thẩm căn cứ vào lý lịch của bà Tiến có xác nhận của chính quyền địa phương thì bà
Tiến là con cụ Thát và là em ông Thăng, bà Bằng, bà Khiết và bà Triển cũng như xác
nhận của họ hàng, hàng xóm. Án phúc thẩm căn cứ vào sơ yếu lý lịch của bà Khiết
có xác nhận của Bí thư Ban Chấp hành Đảng bộ xã Xuân La ký ngày 05/7/1966 (bản
chính) có ghi: dì ghẻ Phạm Thị Thứ 45 tuổi; anh Nguyễn Tất Thăng 26 tuổi đi bộ đội;
em Nguyễn Thị Tiến 17 tuổi học sinh. Thời điểm mở thừa kế là vào các năm 1961
(cụ Thát chết), năm 1994 (cụ Thứ chết) và năm 1995 (cụ Tần chết). Di sản thừa kế ở
vụ tranh chấp này được xác định là nhà đất do các cụ Thát, cụ tần và cụ Thứ để lại
trừ đi phần công sức duy trì tôn tạo tài sản của gia đình ông Thăng bằng 1/6 khối tài
sản. Theo Toà án, tại phiên toà phúc thẩm ông Nguyễn Tất Thăng giữ nguyên đơn
kháng cáo đề nghị huỷ án sơ thẩm với lý do mẹ ông là bà Nguyễn Thị Tần có để lại
di chúc song Toà án cấp sơ thẩm lại giải quyết chia thừa kế theo pháp luật.
Quyết định của Toà án: Chấp nhận đơn yêu cầu chia thừa kế của bà Nguyễn
Thị Tiến, bà Nguyễn Thị Bằng, bà Nguyễn Thị Triển đối với ông Nguyễn Tất Thăng
về việc yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ Thát, cụ Tần, cụ Thứ.
Tóm tắt Án lệ 41/2021/AL.
Nguyên đơn: Chị Trần Thị Trọng P1.
Bị đơn: Anh Trần Trọng P2 và Trần Trọng P3.
Tranh chấp: Di sản thừa kế.
Nội dung: Bà Tô Thị T2 chung sống với ông Trần Thế T1 từ năm 1969 có 2
người con chung là Trần Trọng P2 và Trần Trọng P3. Đến năm 1982, do mâu thuẫn
2

nên bà T2 vào Bà Rịa - Vũng Tàu, sau đó có chung sống với ông Trần Sinh D đến
nay và đã có 3 con chung. Từ năm 1985, ông Trần Thế T1 và bà Trần Thị S chung
sống với nhau có con chung là Trần Thị Trọng P1. Ông T1 và bà S có tạo lập được
tài sản chung trên mảnh đất ông được UBND thị xã K cấp năm 1987. Ngày 26/3/2003
(AL) ông T1 chết không để lại di chúc, toàn bộ tài sản do anh P2 và anh P3 quản lý
sử dụng. Ngày 08/10/2004, chị P1 khởi kiện yêu cầu chia thừa kế đối với di sản của
ông T1 để lại.
Quyết định của Tòa án: Tòa sơ thẩm chấp nhận đơn khởi kiện “Chia thừa kế”
của chị Trần Thị Trọng P1 và đơn xin “Chia tài sản chung và chia di sản thừa kế” của
bà Trần Thị S. Tiến hành chia di sản của ông T1 cho bà S, chị P1, anh P2 và anh P3.
Tuy nhiên, Tòa cấp sơ thẩm chưa tiến hành đo đạc lại diện tích đất thực tế mà đã tiến
hành chia dẫn đến sự thiếu chính xác. Từ đó gây khó khăn ách tắc trong khi thi hành
án và dấy lên nhiều tranh cãi. Vì vậy, Tòa cấp phúc thẩm không thể khắc phục được
do đó hủy Bản án dân sự sơ thẩm, giao lại hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh Kon Tum xét
xử lại theo đúng thủ tục.

1.1. Điều luật nào của BLDS quy định trường hợp thừa kế theo pháp luật.
Căn cứ vào Điều 650 BLDS 2015 quy định:
1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:
a) Không có di chúc;
b) Di chúc không hợp pháp;
c) Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm
với người lập di chúc; cơ quan; tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc
không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;
d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không
có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
2. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau
đây:
a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp
luật;
c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ
không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết
cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được
3

hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa
kế.

1.2. Suy nghĩ của anh/chị về việc Toà án áp dụng thừa kế theo pháp luật trong Bản
án số 20.
Việc Toà án áp dụng thừa kế theo pháp luật trong Bản án số 20 là thuyết phục.
Căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 650 BLDS 2015 quy định về việc thừa kế theo pháp
luật được áp dụng trong trường hợp không có di chúc. Ở đây, theo lời khai của nguyên
đơn và bị đơn, cụ Thát và cụ Thứ không để lại di chúc. Bên cạnh đó, ông Thăng cho
rằng mẹ ông là bà Tần có để lại di chúc nhưng khi được Toà yêu cầu đưa chứng cứ
thì ông Thăng lại không xuất trình được di chúc. Còn lời trăn trối của bà Tần nói với
các con về việc chia đất cho bà Tiến do bà Bằng ghi lại nhưng cũng bị ông Thăng xé
đi.

1.3. Vợ/chồng của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ mấy? Nêu CSPL.
Vợ/chồng của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ nhất.
CSPL: Điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 cũng như điểm a khoản 1 Điều
676 BLDS 2005: “Hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha
nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”.

1.4. Cụ Thát và cụ Thứ có đăng ký kết hôn không trong Bản án số 20? Vì sao?
Trong Bản án chưa hề đề cập đến vấn đề cụ Thát và cụ Thứ có đăng ký kết
hôn, theo lời khai của các nguyên đơn: “Năm 1956 cải cách ruộng đất vì nhiều đất
nên bị quy thành phần địa chủ. Bố mẹ các bà nói với cụ Thứ tố khổ để được chia 1/2
nhà. Sau đó Nhà nước sửa sai gia đình các bà được trả lại nhà đất, bố mẹ các bà vẫn
chung sống cùng nhau. Sau khi bố các bà mất, hai mẹ vẫn cùng nhau nuôi dạy các
con”.
Vì vậy, có thể kết luận rằng, cụ Thát và cụ Thứ chỉ sống chung như vợ chồng
từ năm 1956 chứ không đăng ký kết hôn.

1.5. Trong trường hợp nào những người chung sống với nhau như vợ chồng
nhưng không đăng ký kết hôn được hưởng thừa kế của nhau? Nêu CSPL khi trả
lời.
Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 3/1/1987 thì
những người sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn vẫn được
4

hưởng thừa kế của nhau, bởi vì theo Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày
16/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC: “Trường hợp quan hệ vợ chồng được
xác lập trước ngày 3/1/1987, nếu có một bên chết trước, thì bên vợ hoặc chồng còn
sống được hưởng di sản của bên chết để lại theo quy định của pháp luật về thừa kế”.
Lý do TANDTC lấy mốc thời gian này là để phân biệt với Luật HNVGĐ thông qua
ngày 29/12/1986 nhưng đến ngày 3/1/1987 mới chính thức được công bố. Với quy
định này, nếu nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng thì được gọi là hôn nhân
thực tế nên người vợ/chồng còn sống sẽ được hưởng thừa kế của người đã chết.

1.6. Ngoài việc sống với cụ Thứ, cụ Thát còn sống với người phụ nữ nào trong Bản
án số 20? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Ngoài việc sống với cụ Thứ, cụ Thát còn sống với cụ Nguyễn Thị Tần (mất
năm 1995), thể hiện ở câu: “Cụ Thát và cụ Tần có 4 người con chung là: Nguyễn Tất
Thăng, Nguyễn Thị Bằng, Nguyễn Thị Khiết, Nguyễn Thị Triển”.

1.7. Nếu cụ Thát và cụ Thứ chỉ bắt đầu sống với nhau như vợ chồng vào cuối năm
1960 thì cụ Thứ có là người thừa kế của cụ Thát không? Nêu CSPL khi trả lời.
Nếu cụ Thát và cụ Thứ chỉ bắt đầu sống với nhau như vợ chồng vào cuối năm
1960 thì cụ Thứ không được xem là người thừa kế của cụ Thát. Điều 5 LHNVGĐ
1959 quy định: “Cấm người đang có vợ, có chồng kết hôn với người khác”. Điểm a
khoản 4 Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990:
Trong trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13/01/1960 - ngày
công bố LHNVGĐ 1959 - đối với miền Bắc; trước ngày 25/3/1977 - ngày
công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả
nước - đối với miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau
khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng
bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là người thừa kế
hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại, người chồng là người thừa
kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ.
Theo CSPL trên thì mốc thời gian áp dụng LHNVGĐ 1959 đối với miền Bắc
là sau ngày 13/01/1960 nên nếu cụ Thứ và cụ Thát chỉ sống với nhau như vợ chồng
vào cuối năm 1960 thì cụ Thứ không được xem là người thừa kế của cụ Thát.
5

1.8. Câu trả lời cho câu hỏi trên có khác không khi cụ Thát và cụ Thứ sống ở miền
Nam? Nêu CSPL khi trả lời.
Câu trả lời cho câu hỏi trên sẽ khác khi cụ Thát và cụ Thứ sống ở miền Nam.
Vì căn cứ theo điểm a khoản 4 Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 quy định về
người thừa kế theo pháp luật đối với người có nhiều vợ thì ở miền Nam, hôn nhân
thực tế được chấp nhận trước ngày 25/03/1977, lúc này tất cả các người vợ đều là
người thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại. Vậy nên, khi cụ Thát và
cụ Thứ sống chung như vợ chồng từ cuối năm 1960 ở miền Nam thì lúc này cụ Thứ
được pháp luật công nhận là vợ hợp pháp và là người thừa kế hàng thứ nhất của cụ
Thát.

1.9. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án thừa nhận cụ Thứ là người thừa kế của
cụ Thát.
Theo quan điểm của nhóm, việc Tòa án thừa nhận cụ Thứ là người thừa kế của
cụ Thát là hợp lý. Bởi vì theo điểm a khoản 4 Nghị quyết 02/HĐTP của Hội đồng
Thẩm phán TANDTC ngày 19/10/1990:
Trong trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13/01/1960 - ngày
công bố LHNVGĐ 1959 - đối với miền Bắc; trước ngày 25/3/1977 - ngày
công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả
nước - đối với miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau
khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng
bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là người thừa kế
hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại, người chồng là người thừa
kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ.
Trên thực tế, hai cụ đã chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1956 trước
khi có Luật HNVGĐ 1959 và đã có sự xác nhận từ họ hàng, hàng xóm cụ thể là cụ
Nguyễn Xuân Chi, ông Nguyễn Văn Chung, ông Nguyễn Hoàng Đăm đều khẳng định
cụ Thứ là vợ hai của cụ Thát.
Vậy nên, việc Tòa án thừa nhận cụ Thứ là người thừa kế của cụ Thát là hợp lý
và đảm bảo được quyền, lợi ích hợp pháp cho cụ Thứ.

1.10. Trong Án lệ số 41/2021/AL, bà T2 và bà S có được hưởng di sản do ông T1


để lại không? Đoạn nào của Án lệ có câu trả lời.
Bà T2 không được hưởng di sản do ông T1 để lại được thể hiện ở đoạn:
6

[3] Xét bà Tô Thị T2 chung sống với ông T1 không đăng ký kết hôn, đến năm
1982 bà T2 đã bỏ vào Vũng Tàu lấy ông D có con chung từ đó đến nay quan hệ hôn
nhân thực tế giữa ông T1 với bà T2 đã chấm dứt từ lâu nên không còn nghĩa vụ gì với
nhau bà T2 không được hưởng di sản của ông T1 để lại như án sơ thẩm xử là đúng.
Bà S được hưởng di sản do ông T1 để lại được thể hiện ở đoạn:
Căn cứ khoản 5 Điều 25 Bộ Luật Tố tụng dân sự. Chấp nhận đơn khởi kiện
“Chia thừa kế” của chị Trần Thị Trọng P1 và đơn xin “Chia tài sản chung
và chia di sản thừa kế” của bà Trần Thị S đề ngày 08/10/2004 được bổ
sung ngày 15/4/2009.
Căn cứ các Điều 634, 636, 637, 640, 678, 679, 686; khoản 2 Điều 688,
Điều 738, Điều 739, Điều 743 và Điều 238 BLDS 1995, điểm b khoản 1
Điều 127 Luật Đất đai. Xử:
Bà Trần Thị S được chia lô đất có diện tích 3.201,5m2 trị giá 155.500.000đ
ở 506/25 P, tổ 1, phường D, thành phố K (trừ diện tích mương nước) có tứ
cận như sau:
Phía Đông giáp hẻm P rộng 37,66m.
Phía Tây giáp lô cao su rộng 37,66m.
Phía Nam giáp đất anh K dài 85m.
Phía Bắc giáp đất bà S dài 85m.
Và 01 lô đất có diện tích đất 800, 37m2 (đã trừ mương nước) có tứ cận:
Phía Đông giáp hẻm P rộng 9,41m.
Phía Tây giáp lô cao su rộng 9,41m.
Phía Nam giáp đất bà S dài 85m.
Phía Bắc giáp nhà anh P3 dài 85m. Tại số 506/25 P, thành phố K, trị giá
38.875.000đ.
Bà S có trách nhiệm trả cho chị Lâm Thị H số tiền 9.000.000đ.
[4] Xét sau khi bà T2 không còn sống chung với ông T1 thì năm 1985 ông
T1 sống chung với bà S cho đến khi ông T1 chết có 1 con chung, có tài
sản chung hợp pháp, án sơ thẩm công nhận là hôn nhân thực tế nên được
chia tài sản chung và được hưởng di sản thừa kế của ông T1 là có căn cứ.

1.11. Suy nghĩ của anh/chị về việc Án lệ xác định tư cách hưởng di sản của ông
T1 đối với bà T2 và bà S.
Án lệ xác định tư cách hưởng di sản của ông T1 đối với bà T2 và bà S là hợp lý:
7

Đối với bà T2, do bà và ông T1 sống chung có đăng ký kết hôn nhưng giấy
đăng ký bị mất. Hơn nữa, bà còn bỏ đi và sinh sống cùng ông D trong suốt quãng thời
gian dài. Với những bằng chứng không thuyết phục nên có thể kết luận rằng quan hệ
hôn nhân thực tế giữa ông T1 và bà T2 đã chấm dứt từ lâu nên hai ông bà không còn
nghĩa vụ gì với nhau và bà T2 không được hưởng di sản là điều hợp lý.
Còn đối với bà S, bà đã sống cùng ông T1 và cùng tạo lập tài sản, có tài sản
chung và có con chung. Vậy nên, có đủ căn cứ để chứng minh quan hệ giữa ông T1
và bà S là hôn nhân thực tế. Do đó, bà S được hưởng di sản là hoàn toàn chính đáng.
8

VẤN ĐỀ 2: XÁC ĐỊNH CON CỦA NGƯỜI ĐỂ LẠI DI SẢN


Tóm tắt Quyết định số 182/2012/DS-GĐT ngày 20/4/2012 của Tòa dân sự
TANDTC.
Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Hồng Nga.
Bị đơn: Ông Phạm Văn Tùng, bà Võ Thị Tình.
Nội dung: Cụ Phạm Ngọc Cầu và cụ Nguyễn Thị Ngọc Dung là cha mẹ của
bà Nga. Năm 1972 cụ Dung chết, năm 1976 cụ Cầu chết đều không để lại di chúc. Vì
bà Nga đi công tác xa nhà từ năm 1962 nên năm 1976 bà cho ông Tùng (là người bà
con trong họ) đến ở nhờ để trông coi giúp bà khối tài sản này. Ông Tùng đến ở nhờ
và viết “Giấy tự báo” cam đoan, cam kết quyền sở hữu chủ khu vườn kể cả nhà ở trên
hoàn toàn thuộc bà Nga và sau này khi cần đến thì cam kết trả. Cũng năm 1976 bà
Nga đã bán toàn bộ nguyên vật liệu của ngôi nhà lá cho người khác dỡ đi nên di sản
của hai cụ còn lại là 01 nền móng nhà, giếng nước, cây cối lâu năm. Trong quá trình
giải quyết vụ án, các cụ trong làng đều xác nhận ông Tùng ở với 2 cụ từ lúc 2 tuổi.
Ông Tùng cũng cho rằng hai cụ đã nuôi dưỡng ông từ nhỏ và khi hai cụ già yếu ông
là người phụng dưỡng, chăm sóc hai cụ, khi hai cụ chết ông Tùng là người lo mai
táng cho hai cụ. Cần phải thu thập, xác minh về lời khai của ông Tùng về việc hai cụ
nuôi dưỡng ông Tùng và ông Tùng cũng là người chăm sóc, nuôi dưỡng hai cụ khi
già yếu thì phải coi ông Tùng là con nuôi của hai cụ trên thực tế và nếu ông Tùng có
yêu cầu được chia di sản thì giải quyết theo quy định của pháp luật. Mặt khác ông
cũng có công bảo quản, duy trì khối tài sản nên cũng cần phải xem xét trích công sức
duy trì, bảo quản tài sản cho ông Tùng cho phù hợp.
Quyết định: Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 97/2008/DSPT ngày 10/12/2008
và bản án dân sự sơ thẩm số 01/2008/DSST về vụ án “Tranh chấp tài sản gắn liền
quyền sử dụng đất”, giao hồ sơ vụ án cho TAND huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên xét
xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

2.1. Con nuôi của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ mấy? Nêu CSPL khi
trả lời.
Theo điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015: “1. Những người thừa kế theo
pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ,
chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết…”
Vậy theo quy định trên thì con nuôi của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế
thứ nhất.
9

2.2. Trong trường hợp nào một người được coi là con nuôi của người để lại di sản?
Nêu CSPL khi trả lời.
Một người được coi là con nuôi của người để lại di sản khi quan hệ con nuôi
được công nhận là hợp pháp. Theo Luật Nuôi con nuôi 2010 (Luật NCN 2010), quan
hệ con nuôi được công nhận là hợp pháp khi thỏa mãn những điều kiện sau:
- Điều kiện đối với người nhận nuôi (Điều 14 Luật NCN 2010).
- Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi (Điều 8 Luật NCN 2010).
- Sự tự nguyện của các chủ thể có liên quan (Điều 21 Luật NCN 2010).
- Việc nuôi con nuôi phải được đăng ký tại UBND cấp có thẩm quyền (Điều
22, Điều 9 Luật NCN 2010).
Tuy nhiên, trong trường hợp nếu việc nuôi con nuôi đáp ứng đầy đủ các điều
kiện trên nhưng không phù hợp với mục đích việc nuôi con nuôi hoặc thuộc các
trường hợp bị cấm khi nuôi con nuôi (Điều 13 Luật Nuôi con nuôi 2010) thì quan hệ
nuôi con nuôi không được công nhận là hợp pháp, do đó sẽ không làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ giữa cha nuôi, mẹ nuôi và con nuôi.
Như vậy, một người được coi là con nuôi chỉ khi quan hệ đó hợp pháp. Và việc
nuôi con nuôi được coi là hợp pháp là việc nuôi con nuôi đáp ứng các “điều kiện nội
dung” quy định tại Điều 14, Điều 8, Điều 21 và còn phải tuân thủ “điều kiện về hình
thức” quy định tại Điều 9 và Điều 22 Luật NCN 2010.
2.3. Trong Bản án số 20, bà Tý có được cụ Thát và cụ Tần nhận làm con nuôi
không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Trong Bản án số 20 bà Tý được cụ Thát và cụ Tần nhận làm con nuôi. Vì
trong Bản án, theo lời khai của các nguyên đơn trong Bản án: “Các bà có nghe nói
trước đây bố mẹ các bà có nhận bà Nguyễn Thị Tý là con nuôi, sau đó bà Tý về với
bố mẹ đẻ và đi lấy chồng”; theo lời khai của các con bà Tý: “Mẹ đẻ của các anh chị
là bà Nguyễn Thị Tý trước đây có là con nuôi của cụ Thát và cụ Tần trong thời gian
khoảng 6 đến 7 năm, sau đó bà Tý về nhà mẹ đẻ sinh sống”.

2.4. Tòa án có coi bà Tý là con nuôi của cụ Thát và cụ Tần không? Đoạn nào của
bản án cho câu trả lời?
Tòa án không coi bà Tý là con nuôi của cụ Thát và cụ Tần. Đoạn trong phần
nhận thấy của Bản án: “Xác định bà Nguyễn Thị Tý không phải là con nuôi của cụ
Thát, cụ Tần, cụ Thứ”.
10

2.5. Suy nghĩ của anh/chị về giải pháp trên của Tòa án liên quan đến bà Tý.
Theo em, Tòa án xác định bà Tý không là con nuôi của cụ Thát và cụ Tần là
hợp lý vì bà Tý chỉ sống với cụ Thất và cụ Tần một thời gian ngắn là 6, 7 năm nên
không có cơ sở để xác định có là quan hệ nuôi con nuôi trên thực tế. Bên cạnh đó,
cũng không có bằng chứng hay giấy tờ gì để chứng minh rằng bà Tý đã được hai cụ
nhận nuôi. Trong phần lý lịch của cụ Thất và cụ Tần cũng không có nêu bà Tý là con
nuôi nên về mặt pháp lý thì bà Tý không phải là con nuôi của cụ Thất và cụ Tý.

2.6. Trong Quyết định số 182, Tòa án xác định anh Tùng được hưởng thừa kế với
tư cách nào? Vì sao?
Trong Quyết định số 182, Tòa án xác định anh Tùng được hưởng thừa kế với
tư cách là con nuôi. Vì trong phần xét thấy của Quyết định:
Quá trình giải quyết vụ án, các cụ cao tuổi trong làng đều xác nhận ông
Tùng ở với hai cụ từ lúc 2 tuổi (do cha mẹ ông Tùng chết sớm và hai cụ là
bà con họ hàng). Như vậy ông Tùng đã ở với hai cụ từ năm 1951. Ông
Tùng cũng cho rằng hai cụ đã nuôi dưỡng ông từ nhỏ và khi hai cụ già yếu
ông là người phụng dưỡng, chăm sóc hai cụ, khi hai cụ chết ông Tùng là
người lo mai táng cho hai cụ.
Vì vậy, cũng cần phải thu thập, xác minh về lời khai của các nhân chứng
và lời khai của ông Tùng về việc hai cụ nuôi dưỡng ông Tùng và ông Tùng
cũng là người chăm sóc, nuôi dưỡng hai cụ khi già yếu thì phải coi ông
Tùng là con nuôi của hai cụ trên thực tế và nếu ông Tùng có yêu cầu được
chia di sản của hai cụ, thì giải quyết theo quy định của pháp luật.

2.7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Tòa án liên quan đến anh
Tùng.
Hướng giải quyết của Tòa án cần phải thu thập, xác minh về lời khai của Tùng
và ông Tùng cũng là người chăm sóc, nuôi dưỡng hai cụ khi già yếu thì phải coi ông
Tùng là con nuôi của hai cụ trên thực tế là hợp lý vì phù hợp với thực tiễn và ý chí
của người quá cố khi nhận ông Tùng là con nuôi. Ngoài ra, nếu xét xử vào năm đó
thì khi ấy chưa có những quy định thực tế về vấn đề con nuôi. Khi đó tại các Điều 34,
35, 36 và 37 Luật HNVGĐ 1986 quy định về những điều kiện nuôi con nuôi nhưng
không đề cập đến vấn đề “con nuôi thực tế”. Tuy nhiên, Nghị quyết 01-NQ/HĐTP-
11

TANDTC ngày 20/01/1988 hướng dẫn thi hành Luật HNGĐ năm 1986 có quy định
như sau:
... Những việc nuôi con nuôi trước khi ban hành luật mới (03/01/1987) vẫn
có giá trị pháp lý, trừ những trường hợp nuôi con nuôi trái với mục đích
xã hội của việc nuôi con nuôi (như nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động
hoặc để dùng con nuôi vào những hoạt động xấu xa, phạm pháp). Nếu việc
nuôi con nuôi trước đây chưa được ghi vào sổ hộ tịch nhưng việc nuôi con
nuôi đã được mọi người công nhận và cha, mẹ nuôi đã thực hiện nghĩa vụ
với con nuôi thì việc nuôi con nuôi vẫn có những hậu quả pháp lý do luật
định.
Quy định này cho phép chúng ta kết luận rằng mặc dù việc nuôi con nuôi chưa
được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng nếu việc nuôi con nuôi thỏa
mãn các “điều kiện nội dung” (Điều 14, Điều 8, Điều 21 Luật NCN 2010) thì mọi
quyền và nghĩa vụ của cha nuôi, mẹ nuôi và con nuôi vẫn phát sinh, được pháp luật
thừa nhận và bảo vệ kể từ ngày nhận nuôi con nuôi thực tế. Ông Tùng nếu như đã xác
thực lời khai thì đáp ứng đầy đủ yêu cầu về “điều kiện nội dung” nên khi đó có thể
xác định ông Tùng là con nuôi của hai cụ.

2.8. Nếu hoàn cảnh tương tự như trong Quyết định số 182 xảy ra sau khi có Luật
HNVGĐ 1986, anh Tùng có được hưởng thừa kế của cụ Cầu và cụ Dung không?
Vì sao?
Trong vụ việc này, anh Tùng là người được cụ Cầu, cụ Dung nhận nuôi từ lúc
hai tuổi. Hai cụ và anh Tùng đã thực hiện nghĩa vụ như quan hệ cha mẹ và con cái
trong Quyết định số 182 đã nêu. Tuy nhiên, nếu áp dụng Luật HNVGĐ 1986 vào
hoàn cảnh của anh Tùng thì anh Tùng chưa đủ điều kiện để công nhận là con nuôi.
Vì theo Điều 37 Luật HNVGĐ 1986 quy định: “Việc nhận nuôi con nuôi phải được
UBND xã, phường, thị trấn nơi thường trú của người nuôi hoặc con nuôi công nhận,
ghi vào sổ hộ tịch”. Trường hợp của anh Tùng, Bản án không hề đề cập đến việc
UBND địa phương công nhận anh là con nuôi của hai cụ nên anh đương nhiên cũng
không được hưởng thừa kế như con đẻ theo pháp luật.
12

2.9. Con đẻ thuộc hàng thừa kế thứ mấy của người để lại di sản? Nêu CSPL khi
trả lời.
Con đẻ thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người để lại di sản. Theo điểm a khoản
1 Điều 651 BLDS 2015 quy định về người thừa kế theo pháp luật: “1. Những người
thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: a) Hàng thừa kế thứ nhất
gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”.

2.10. Đoạn nào của Bản án cho thấy bà Tiến là con cụ Thát?
Phần xét thấy của Bản án số 20 như sau: “...bà Tiến xuất trình bản sơ yếu lý
lịch của bà Nguyễn Thị Khiết, có nhận xét của Bí thư ban chấp hành Đảng bộ xã
Xuân La ký ngày 05/07/1966 (bản chính) trong phần hoàn cảnh gia đình bà Khiết có
ghi: gì ghẻ Phạm Thị Thứ 45 tuổi anh Nguyễn Tất Thăng 26 tuổi đi bộ đội; em Nguyễn
Thị Tiến 17 tuổi học sinh”.
Và đoạn: “Bà Tiến còn xuất trình lý lịch và giấy khai sinh chính do Ủy ban
nhân dân phường Xuân La cấp ghi bà Tiến có bố là Nguyễn Tất Thát, mẹ là Phạm
Thị Thứ”. Các nhân chứng như cụ Chi, ông Chung, ông Đăm đều khẳng định bà Tiến
là con đẻ của cụ Thát.

2.11. Suy nghĩ của anh/chị về giải pháp trên của Tòa án liên quan đến bà Tiến?
Trong Bản án, Tòa án xác định bà Tiến là con của cụ Thát và vợ hai là cụ Thứ
qua lý lịch của bà có xác nhận từ chính quyền địa phương cũng như từ họ hàng, hàng
xóm. Vì có đầy đủ căn cứ pháp lý cũng như lời khai xác nhận của người thân cận nên
Tòa án xác định bà Tiến là con cụ Thát và cụ Thứ là hợp lý.
Khi cụ Thát chết năm 1961, thừa kế mở lần thứ nhất. Vì bà Tiến là con đẻ của
cụ Thát nên bà Tiến vẫn được xếp chung vào hàng thừa kế thứ nhất theo điểm a khoản
1 Điều 651 BLDS 2015 và bà được chia tài sản bằng nhau cùng với sáu người còn
lại. Vào thời điểm cụ Thứ chết và mở thừa kế lần thứ hai. Lúc này bà Tiến là con đẻ
của cụ Thứ nên bà vẫn được xếp chung vào hàng thừa kế thứ nhất. Như vậy, Tòa án
xác định hợp lý.
Vào thời điểm cụ Tần chết và thừa kế mở lần ba. Lúc này Tòa án không xếp
bà Tiến vào hàng thừa kế thứ nhất nữa. Vì bà Tiến không phải con đẻ của cụ Tần và
cũng không thuộc bất kỳ đối tượng nào trong hàng thừa kế thứ nhất. Việc Tòa án
không xếp bà Tiến vào hàng thừa kế thứ nhất là không hợp tình. Vì bà Tiến sống với
các cụ từ nhỏ và được cụ chăm sóc như con của mình. Và trước khi cụ Tần chết, cụ
13

có để lại mấy lời dặn dò là chia cho bà Tiến một phần đất và được bà Bằng chấp bút.
Điều này thể hiện ý chí, nguyện vọng của cụ Tần muốn để lại di sản cho bà Tiến. Vì
thế, Tòa án nên cho bà Tiến vào hàng thừa kế thứ nhất với danh nghĩa là con nuôi.

2.12. Ở Việt Nam con dâu, con rể của người để lại di sản có là người thừa kế của
người để lại di sản không? Nêu CSPL khi trả lời.
Ở Việt Nam hiện nay chưa có quy định thừa kế dành cho con dâu, con rể của
người để lại di sản. Theo Điều 651 BLDS 2015 quy định về người thừa kế theo pháp
luật thì chỉ những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất, thứ hai, thứ ba mới được hưởng
thừa kế từ người để lại thừa kế.
Như vậy, căn cứ vào quy định trên, con dâu không thuộc hàng thứ kế nào của
bố mẹ chồng. Do đó, con dâu không được hưởng thừa kế theo pháp luật của bố mẹ
chồng. Cùng với đó, con rể không thuộc hàng thừa kế nào của bố mẹ vợ nên con rể
cũng không phải là người thừa kế của bố mẹ vợ khi bố mẹ vợ chết không để lại di
chúc. Như vậy, con rể và con dâu chỉ được hưởng thừa kế khi cha mẹ vợ, cha mẹ
chồng lập di chúc để lại tài sản thừa kế cho họ.
Ngoài trường hợp nêu trên, con dâu, con rể còn có thể được hưởng thừa kế từ
cha mẹ chồng, cha mẹ vợ trong trường hợp con trai, con gái của người để lại di sản
thừa kế chết sau khi cha mẹ chết. Lúc này, sau khi cha mẹ chồng, cha mẹ vợ chết mà
không để lại di chúc thì người con trai, con gái sẽ được hưởng di sản thừa kế theo
pháp luật. Nếu sau đó người này cũng chết thì phần di sản thừa kế mà người này được
hưởng từ cha mẹ sẽ chia đều cho hàng thừa kế thứ nhất của người này gồm: vợ, chồng,
cha nuôi, mẹ nuôi, con nuôi, con đẻ. Vì vậy, khi người chồng, người vợ chết sau khi
bố mẹ chồng, bố mẹ vợ chết thì người con dâu, con rể đó có thể được quyền được
hưởng thừa kế từ cha mẹ chồng, cha mẹ vợ.

2.13. Có hệ thống pháp luật nước ngoài nào xác định con dâu, con rể là người
thừa kế của cha mẹ chồng, cha mẹ vợ không? Nếu có, nêu hệ thống pháp luật mà
anh/chị biết.
Có hệ thống pháp luật nước ngoài xác định con dâu, con rể là người thừa kế
của cha mẹ chồng, cha mẹ vợ.
Hệ thống pháp luật Ba Lan: Có quy định thừa kế theo pháp luật được ghi nhận
cho cha mẹ vợ hoặc chồng nghĩa là pháp luật này ghi nhận quyền thừa kế của con
dâu, con rể đối với cha mẹ vợ hoặc cha mẹ chồng.
14

Hệ thống pháp luật Pháp: Con dâu, con rể là người thừa kế của cha mẹ chồng,
cha mẹ vợ. Trên cơ sở diện thừa kế, BLDS Pháp chia thành các hàng thừa kế:
- Hàng thừa kế thứ nhất: Những người bề dưới (con của người đã chết không
phân biệt độ tuổi, giới tính, không phụ thuộc vào hình thức hôn nhân của cha mẹ).
- Hàng thừa kế thứ hai: Những người thừa kế phía trên, nếu như không có
những người thừa kế trực tiếp phía dưới thì những người thừa kế trực tiếp phía trên
sẽ thừa kế di sản theo nguyên tắc người ở bậc gần nhất sẽ loại trừ người ở bậc xa hơn
và mỗi người hưởng một suất bằng nhau. Trong hàng thừa kế thứ nhất không có phân
biệt con đẻ, con nuôi hay con dâu, con rể, nên con dâu, con rể vẫn có thể được thừa
kế di sản của cha mẹ chồng hoặc cha mẹ vợ.
15

VẤN ĐỀ 3: CON RIÊNG CỦA VỢ/CHỒNG

3.1. Bà Tiến có là con riêng của chồng cụ Tần không? Vì sao?


Bà Tiến là con riêng chồng cụ Tần và cụ Thứ. Xét thấy, vì trước đó cụ Thát có
vợ là cụ Tần và đã có 4 người con là ông Thăng, bà Bằng, bà Khiết và bà Triển, sau
đó theo nguyên đơn và bà Khiết thì cụ Thát có vợ hai là cụ Phạm Thị Thứ có 1 con
riêng là bà Tiến. Bà Tiến xuất trình được lý lịch và giấy khai sinh chính do Ủy ban
nhân dân phường Xuân La cấp ghi bà Tiến có bố là Nguyễn Tất Thát, mẹ là Phạm
Thị Thứ. Các nhân chứng như cụ Nguyễn Xuân Chi, ông Nguyễn Văn Chung và ông
Nguyễn Hoàng Đăm đều khẳng định cụ Thứ là vợ hai của cụ Thát, bà Tiến là con của
cụ Thát và cụ Thứ.

3.2. Trong điều kiện nào con riêng của chồng được thừa kế di sản của vợ? Nêu
CSPL khi trả lời.
Căn cứ Điều 654 BLDS 2015 quy định về Quan hệ thừa kế giữa con riêng và
bố dượng, mẹ kế: “Điều 654. Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế,
con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha
con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy
định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này”.
Như vậy, trong điều kiện con riêng của chồng có quan hệ chăm sóc, nuôi
dưỡng nhau như mẹ con thì được thừa kế di sản của vợ.

3.3. Bà Tiến có đủ điều kiện để hưởng thừa kế di sản của cụ Tần không? Vì sao?
Theo Điều 654 BLDS 2015 quy định về quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố
dượng, mẹ kế như sau: “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc,
nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được
thừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này”.
Bà Tiến không đủ điều kiện để hưởng thừa kế di sản của cụ Tần. Nguyên nhân
là do: Cụ Tần được xác định mất vào năm 1995 và việc có để lại di chúc không được
xác định rõ ràng cũng như không có căn cứ; nhận thấy rằng Bản án cũng không cung
cấp bất cứ cơ sở nào về việc giữa cụ Tần và bà Tiến có tồn tại một mối quan hệ mẹ
con hai chiều hay không tức là không có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha
con, mẹ con cũng như không hề đề cập tới việc cụ Tần và bà Tiến có chăm sóc và
nuôi dưỡng nhau như mẹ con ruột. Và thêm vào nữa là ông Thăng cũng không công
nhận bà Tiến là em của mình.
16

3.4. Nếu bà Tiến có đủ điều kiện để hưởng di sản thừa kế của cụ Tần thì bà Tiến
được hưởng thừa kế ở hàng thừa kế thứ mấy của cụ Tần? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời.
CSPL: Điểm a khoản 1 Điều 651, Điều 653, Điều 654 BLDS 2015.
Nếu bà Tiến có đủ điều kiện để hưởng di sản thừa kế của cụ Tần thì bà Tiến
được hưởng thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của cụ Tần. Căn cứ vào Điều 654 BLDS
2015: “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau
như cha còn, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo
quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này”.
Trong trường hợp có thể chứng minh được cụ Tần xem bà Tiến như con cái và
giữa hai người tồn tại một mối quan hệ mẹ con thì bà Tiến sẽ được xem là con nuôi
của cụ Tần và cụ Tần là mẹ nuôi của bà Tiến.
Điều 653 BLDS 2015: “Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản
của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ
luật này”, điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ,
chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”.

3.5. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án không thừa nhận tư cách thừa kế của bà
Tiến đối với di sản của cụ Tần.
Theo quan điểm của nhóm em, việc Tòa án không thừa nhận tư cách thừa kế
của bà Tiến đối với di sản của cụ Tần là hợp lý thuyết phục, vì:
Bà Tiến không có quan hệ huyết thống với cụ Tần; trong Bản án không hề
nhắc tới việc là bà Tiến có chăm sóc, nuôi dưỡng cụ Tần nên không có cơ sở để chứng
minh giữa bà Tiến và cụ Tần có quan hệ mẹ con. Theo Điều 654 BLDS 2015 quy
định về quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế: “Con riêng và bố dượng,
mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa
kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều
653 của Bộ luật này”.
3.6. Suy nghĩ của anh/chị (nếu có) về chế định thừa kế liên quan đến hoàn cảnh
của con riêng của chồng/vợ trong BLDS hiện nay. Thừa kế thế vị và hàng thừa kế
thứ hai, thứ ba.
Về quan hệ thừa kế giữa con riêng của vợ/chồng hiện nay quy định tại Điều
654 BLDS 2015: “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi
17

dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa
kế di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này”.
Việc giữ chế định trên là hợp lý vì việc chăm sóc, nuôi dưỡng của con riêng
đối với bố dượng, mẹ kế thể hiện tinh thần trách nhiệm, lòng hiếu thảo của con đối
với cha mẹ; do đó nên được thừa nhận và được pháp luật bảo vệ. Chế định hiện hành
đảm bảo công bằng cho con riêng, không phân biệt đối xử với con chung. Con riêng
được hưởng quyền thừa kế di sản của cha mẹ đẻ như con chung, góp phần bảo vệ
quyền lợi của trẻ em. Ngoài ra, nó còn thể hiện tính nhân văn khi thể hiện sự quan
tâm của pháp luật đối với con riêng, giúp các em được hưởng sự bảo vệ và chăm sóc
đầy đủ, đặc biệt trong trường hợp cha mẹ không còn đồng thời khuyến khích sự hòa
thuận khi Việc con riêng được hưởng quyền thừa kế có thể giúp các con trong gia
đình hòa thuận, gắn bó hơn.
Tuy nhiên, vẫn còn bất cập về quy định về quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng khi
BLDS 2015 vẫn chưa có cơ chế để làm rõ. Điều này rất quan trọng vì nó có tính ảnh
hưởng pháp lý đến việc công nhận việc thừa hưởng di sản giữa con riêng và bố dượng,
mẹ kế.
18

VẤN ĐỀ 4: THỪA KẾ THẾ VỊ VÀ HÀNG THỪA KẾ THỨ HAI, THỨ


BA
Tóm tắt bản án số 69/2018/DSPT ngày 09/03/2018 của TANDCC tại Hà
Nội về “Yêu cầu công nhận quyền thừa kế và tranh chấp di sản thừa kế”.
Nguyên đơn: Anh Thiều Văn C1, sinh năm 1977.
Bị đơn: Ông Đỗ Quang V, sinh năm 1954
Nội dung bản án: Bà Đỗ Thị T5 không có chồng nhưng có một người con nuôi
là chị Đỗ Đức Phương C3. Chị C3 kết hôn với anh Thiều Văn C1 ngày 27/6/2002 và
vợ chồng anh có 02 con chung là cháu Thiều Thụy Thùy T7 (sinh năm 2002) và cháu
Thiều Đỗ Gia H4 (sinh năm 2004). Ngày 05/3/2007 chị C3 chết và sau đó ngày
10/2/2009 bà T5 chết cả hai không để lại di chúc. Năm 2011 anh C1 về sửa chữa lại
nhà và làm thủ tục khai nhận thừa kế phần di sản mà bà T5 cho hai cháu T7 và H4
nhưng ông Đỗ Quang V ngăn cản không cho sửa chữa và khai nhận thừa kế cho hai
cháu. Anh C1 yêu cầu giải quyết tranh chấp về quyền thừa kế tài sản của bà Đỗ Thị
T5 giữa anh và ông Đỗ Quang V đồng thời công nhận hai cháu Thiều Thụy Thùy T7
và cháu Thiều Đỗ H4 được hưởng toàn bộ di sản do bà T5 để lại.
Quyết định của Tòa án Dân sự sơ thẩm: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn, công nhận cho hai cháu T7 và H4 được quyền thừa kế đối với di sản của
Bà T5 để lại. Bác yêu cầu của bị đơn ông Đỗ Quang V.
Quyết định của Tòa án Dân sự phúc thẩm: Chấp nhận kháng cáo của Anh Thiều
Văn C1 và chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh.
Hủy bản án dân sự sơ thẩm số 03/2017/DS-ST ngày 14/6/2017 của TAND tỉnh Hà
Tĩnh.

4.1 Trong vụ việc trên, nếu chị C3 còn sống, chị C3 có được hưởng thừa kế của cụ
T5 không? Vì sao?
Trong vụ việc trên, nếu chị C3 còn sống thì chị C3 được hưởng thừa kế của cụ
T5. Theo điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015: “1. Những người thừa kế theo pháp
luật được quy định theo thứ tự sau đây: a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha
đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”.
Do khi mất cụ T5 không để lại di chúc và chị C3 được xác định là con nuôi
thực tế của cụ T5 nên nếu trong vụ việc trên chị C3 còn sống thì chị sẽ là người được
hưởng thừa kế theo pháp luật ở hàng thừa kế thứ nhất của cụ T5.
19

4.2. Ở nước ngoài, có hệ thống pháp luật nào ghi nhận thừa kế thế vị trong trường
hợp từ chối nhận di sản/tước quyền hưởng di sản (không có quyền hưởng di sản)
không? Nêu ít nhất một hệ thống pháp luật mà anh/chị biết.
Một hệ thống pháp luật ghi nhận thừa kế thế vị trong trường hợp từ chối nhận
di sản/tước quyền hưởng di sản (không có quyền hưởng di sản) là hệ thống pháp luật
của Pháp. Theo luật pháp của Pháp, nếu một người từ chối nhận di sản hoặc bị mất
quyền hưởng di sản, quyền lợi của họ thường được chuyển giao cho người thừa kế
thế vị, tức là những người có quyền kế thừa nếu người từ chối hoặc mất quyền không
tồn tại.
Trong một số trường hợp, nếu không có ai thừa kế thế vị hoặc họ cũng từ chối,
di sản có thể được chuyển đến nhà nước. Điều này đảm bảo rằng di sản không bị bỏ
trống và vẫn được quản lý và phân phối theo các quy định pháp luật.
Từ những quy định này, ta có thể thấy rằng thừa kế thế vị theo pháp luật nước
Pháp được mở rộng hơn, thừa kế đến vô hạn.

4.3. Ở Việt Nam, khi nào áp dụng chế định thừa kế thế vị? Nêu CSPL khi trả lời.
Thừa kế thế vị chỉ đặt ra đối với phần di sản được chia theo quy định của pháp
luật. Thừa kế thế vị chỉ áp dụng cho trường hợp con, cháu trực hệ chết trước hoặc
chết cùng (phân biệt với quan hệ bàng hệ). Những người thừa kế thế vị chỉ được
hưởng phần di sản mà bố (mẹ) họ đáng lẽ được hưởng nếu còn sống.
Theo Điều 652 BLDS 2015:
Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời
điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc
mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc
cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di
sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.

4.4. Vợ/chồng của người con chết trước (hoặc cùng) cha/mẹ có được hưởng thừa
kế thế vị không? Nêu CSPL khi trả lời.
Vợ/chồng của người con chết trước (hoặc cùng) cha/mẹ không được hưởng
thừa kế thế vị.
Theo Điều 652 BLDS 2015:
Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời
điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc
20

mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc
cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di
sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.

4.5. Trong vụ việc trên, Tòa án không cho chồng của chị C3 hưởng thừa kế thế vị
của cụ T5. Hướng như vậy có thuyết phục không? Vì sao?
Trong vụ việc nêu trên, Tòa án không cho chồng của chị C3 hưởng thừa kế thế
vị của cụ T5 là thuyết phục
Vì: Chị C3 là con nuôi thực tế của bà Đỗ Thị T5. Do đó, chị C3 được quyền
thừa kế di sản của bà T5 để lại theo Điều 651 BLDS 2015 nhưng chị C3 mất. Căn cứ
theo quy định về thừa kế thế vị tại Điều 652 BLDS 2015, cháu T7 và cháu H4 sẽ được
hưởng thừa kế thế vị đối với phần di sản của bà T5 để lại. Ngược lại, chồng chị C3
không thuộc đối tượng thừa kế thế vị của cụ T5 theo quy định của pháp luật.

4.6. Theo quan điểm của các tác giả, con đẻ của con nuôi của người quá cố có thể
được hưởng thừa kế thế vị không?
Theo quan điểm của các tác giả, con đẻ của con nuôi của người quá cố có thể
được hưởng thừa kế thế vị.
Theo Điều 652 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp con của người để lại di sản
chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần
di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước
hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà
cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”.
Con nuôi của người quá cố cụ thể là chị C3 được công nhận là con nuôi thực
tế của cụ T5 và được thừa kế tài sản mà cụ T5 để lại, nhưng vì chị C3 qua đời nên
con của chị C3 sẽ được hưởng thừa kế thế vị.

4.7. Trong vụ việc trên, đoạn nào cho thấy Tòa án cho con đẻ của chị C3 được
hưởng thừa kế thế vị của cụ T5?
Đoạn cho thấy Tòa án cho con đẻ của chị C3 được hưởng thừa kế thế vị của
cụ T5:
...Mặt khác, theo điểm a Điều 6 Nghị quyết 01/NQ-HĐTP ngày
20/01/1988 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một
số quy định của Luật HNVGĐ thì trường hợp bà T5 nhận nuôi chị C3 là
con nuôi thực tế. Nên, chị C3 là người thừa kế duy nhất ở hàng thừa kế
21

thứ nhất của bà T5 theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 676 Bộ luật dân
sự năm 2005. Năm 2002, chị C3 kết hôn với anh Thiều Văn C1 và vợ
chồng có hai con chung là cháu Thiều Thụy
Thuỳ T7 (sinh năm 2002) và cháu Thiều Đỗ Gia H4 (sinh năm 2004). Chị
C3 (chết năm 2007) và bà T5 (chết năm 2009) cả hai không để lại di chúc
nên hai cháu T7 và H4 được thừa kế thế vị di sản của bà T5 theo quy định
tại Điều 677 Bộ luật Dân sự năm 2005.

4.8. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án cho cho con đẻ của chị C3 được hưởng
thừa kế thế vị của cụ T5.
Việc Tòa án cho con đẻ của chị C3 được hưởng thừa kế thế vị là hoàn toàn hợp
lý. Vì chị C3 là con nuôi của bà T5. Tuy bà T5 không đăng ký nuôi con nuôi theo quy
định của pháp luật nhưng mối quan hệ mẹ nuôi con nuôi giữa bà T5 và chị C3 được
gia đình bị đơn thừa nhận. Chị C3 là người thuộc hàng thừa kế thứ nhất căn cứ theo
điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 mà cháu T7 và H4 đều là con đẻ của chị C3.
Như vậy, căn cứ vào Điều 625 BLDS 2015 thì con của chị C3 là cháu T7 và
H4 được hưởng thừa kế thế vị của cụ T5.

4.9. Theo BLDS hiện hành, chế định thừa kế thế vị có được áp dụng đối với thừa
kế theo di chúc không? Nêu CSPL khi trả lời.
Theo BLDS hiện hành, chế định thừa kế thế vị không được áp dụng đối với
thừa kế theo di chúc. Bởi vì, theo Điều 652 BLDS 2015 quy định về thừa kế thế vị:
Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời
điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc
mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc
cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di
sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.
Theo khoản 1 Điều 643 BLDS 2015 quy định về hiệu lực của di chúc:
Trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước
hoặc chết cùng một thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ
quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại
vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân,
cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực.
22

Như vậy, thừa kế thế vị chỉ phát sinh từ thừa kế theo pháp luật mà không phát
sinh từ thừa kế theo di chúc. Nếu cha, mẹ chết trước hoặc chết cùng thời điểm với
ông, bà hoặc cụ thì phần di chúc định đoạt tài sản cho cha mẹ (nếu có di chúc) sẽ vô
hiệu tại Điều 643 BLDS 2015. Phần di sản đó được chia theo pháp luật và lúc này
cháu (chắt) mới được hưởng thừa kế thế vị.

4.10. Theo anh/chị, có nên áp dụng chế định thừa kế thế vị cho cả trường hợp thừa
kế theo di chúc không? Vì sao?
Theo em, nên áp dụng chế định thừa kế thế vị cho cả trường hợp thừa kế theo
di chúc bởi vì tại thời điểm mở thừa kế thì nếu người được thừa kế theo di chúc đã
chết trước hoặc tại thời điểm đó thì những người thừa kế thế vị nên được hưởng phần
di sản mà người thừa kế được hưởng nếu còn sống, vì di sản vốn dành cho người thừa
kế đó, nên tôn trọng theo di chúc thì những người thừa kế thế vị (thuộc gia đình của
người thừa kế) sẽ được hưởng phần di sản thừa kế theo di chúc, như một phần đền bù
tổn thất về tinh thần và vật chất đối với những người thừa kế thế vị.

4.11. Ai thuộc hàng thừa kế thứ hai và hàng thừa kế thứ ba?
Hàng thừa kế thứ hai và thứ ba được quy định tại điểm b, c khoản 1 Điều 161
của BLDS 2015.
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột,
chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết
là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú
ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà
người chết là bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột; cháu ruột của
người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

4.12. Trong vụ việc trên, có còn ai thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ T5 ở thời
điểm mở thừa kế không? Vì sao?
Trong vụ việc trên, ngoài chị C3 thì không còn ai thuộc hàng thừa kê thứ nhất
của cụ T5 ở thời điểm mở thừa kế.
Vì căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015: “1. Những người thừa
kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
23

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi,con
đẻ, con nuôi của người chết;”.
Theo đó thì cha mẹ của bà T5 là cụ M và cụ L đều đã chết. Bà T5 không có
chồng, chỉ có con nuôi là chị C3.

4.13. Trong vụ việc trên, có còn ai thuộc hàng thừa kế thứ hai của cụ T5 ở thời
điểm mở thừa kế không? Vì sao?
Tòa đã áp dụng hàng thừa kế thứ hai trong vụ việc nêu ra. Vì cụ T5 không còn
cha mẹ, không có chồng.
Trong vụ việc nêu ra, hàng thừa kế thứ hai của cụ T5 gồm có Thiều Thị Thùy
T7 và Thiều Đỗ Gia H4 tại thời điểm mở thừa kế của cụ T5. Vì cụ T5 mất ngày
10/2/2009, và hàng thừa kế thứ nhất của cụ T5 có chị C3. Tuy nhiên chị C3 đã mất
ngày 5/03/2007, vì vậy áp dụng Điều 677 BLDS 2005 về Thừa kế thế vị: “Trong
trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người
để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng
nếu còn sống...”. Như vậy trong trường hợp này chị C3 mất trước cụ T5 nên khi mở
thừa kế di sản của cụ T5 sẽ để lại cho hai con của chị C3 là Thiều Thị Thùy T7 và
Thiều Đỗ Gia H4. Tòa áp dụng hàng thừa kế thứ hai trong vụ việc nêu ra.

4.14. Cuối cùng, Tòa án có áp dụng hàng thừa kế thứ hai không trong vụ việc
trên? Vì sao?
Cuối cùng, Tòa án không áp dụng hàng thừa kê thứ hai trong vụ việc trên. Vì
theo điểm b khoản 1 Điều 651 BLDS 2015:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột,
chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội,
bà nội, ông ngoại, bà ngoại”.
Người được hưởng di sản của bà T5 là hai người con của chị C3 là hai cháu
T7 và H4 ( không phải cháu ruột) bởi bà T5 không lấy chồng và chỉ có con nuôi là
chị C3 nên trong trường hợp này không thể áp dụng hàng thừa kế thứ hai trong vụ
việc này.
24

4.15. Suy nghĩ của anh/chị về hướng của Tòa án về vấn đề nêu trong câu hỏi trên
(áp dụng hay không áp dụng quy định về hàng thừa kế thứ hai).
Hướng giải quyết của tòa án là rất thuyết phục và hợp tình, hợp lý. Đáng lẽ
phải áp dụng chia di sản theo hàng thừa kế thứ hai, nhưng Tòa án đã chia theo thừa
kế thế vị, Tòa án xét xử như vậy là nhằm đảm bảo quyền lợi của con cháu, quyền lợi
của người có huyết thống gần nhất, có công nuôi dưỡng người để lại di sản.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Danh mục văn bản pháp luật Việt Nam.
1.1. Bộ Luật Dân sự năm 2005.
1.2. Bộ Luật Dân sự năm 2015.
1.3. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959.
1.4. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986.
1.5. Luật Nuôi con nuôi năm 2010.
1.6. Nghị quyết số 02/HĐTP của Hội đồng thẩm phán TANDTC 19/10/1990 hướng
dẫn áp dụng một số quy định của pháp lệnh thừa kế.
1.7. Nghị quyết 01-NQ/HĐTP- TANDTC ngày 20/01/1988 hướng dẫn thi hành Luật
HNGĐ năm 1986.
2. Danh mục văn bản pháp luật nước ngoài.
Bộ luật Dân sự Pháp.
3. Danh mục tài liệu tham khảo Tiếng Việt.
3.1. Án lệ số 41/2021/AL.
3.2. Bản án số 20/2009/DSPT ngày 11 và 12/02/2009 của Tòa phúc thẩm TANDTC
tại Hà Nội.
3.3. Bản án số 69/2018/DSPT ngày 09/03/2018 của TANDCC tại Hà Nội.
3.4. Quyết định số 182/2012/DS-GĐT ngày 20/4/2012 của Tòa dân sự TANDTC.
3.5. Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại
học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2023.

You might also like